CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Gr. 20, 10-13; Rm. 5, 12-15; Mt. 10, 26-33
MỤC LỤC
1. Đừng sợ.
2. Nhận & chối – Anmai.
3. Đừng sợ.
4. Biết sợ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà.
6. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên.
7. Các con đừng sợ.
8. Để giúp nhau đừng sợ.
9. ”Đừng Sợ” – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An.
10. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi
11. Suy niệm của JKN.
12. Hãy sợ tội – Lm. Nguyễn Hùng.
13. Chờ đợi gì nơi cuộc sống?.
14. Đừng sợ sống Tin Mừng.
15. Sống trong tin tưởng.
16. Can đảm, trung thành – Jos. Vinc. Ngọc Biển.
17. Mạnh dạn tuyên xưng.
18. Đừng sợ.
19. Đừng sợ! – Lm. Nguyễn Khoa Toàn.
20. Đừng sợ – Fernandez.
21. Chứng nhân Tin Mừng.
22. Quan phòng.
23. Nỗi lòng – Trầm Thiên Thu.
24. Đừng sợ – Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn.
25. Đừng sợ.
26. Đừng sợ.
27. Thân phận – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực.
28. Anh em đừng sợ.
29. Anh em đừng sợ.
30. Thiên Chúa quan phòng.
31. Sợ hãi 101
32. Dũng cảm tuyên xưng.
33. Vững lòng trông cậy Chúa.
34. Sứ giả.
*********************************
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo đức. Có người trái lại, vì muốn làm giàu nhanh chóng, cũng đã thẳng tay chà đạp nhân phẩm của người khác và của chính mình nữa. Cả hai loại người trên đều đánh mất giá trị làm người và đã gây ra những thiệt hại to lớn không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn về tinh thần, đạo đức cho cộng đồng nhân loại. Trong đời sống tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, cũng luôn có mối đe doạ rình rập giết chết lòng tin của người có đạo. Đó là nỗi sợ hãi. Sợ không kiếm được hay mất việc làm, sợ bị người đời gièm pha, chê cười, khinh khi, sợ bị xã hội kết án và loại trừ chỉ vì họ muốn sống theo những giá trị của Tin Mừng. Không thiếu những Kitô hữu đã đầu hàng, đã thoả hiệp để được yên ổn, để được vinh thân phì da, để được chức tước, địa vị xã hội. Họ sợ những người, những thế lực có thể giết hại họ phần xác.
Tuy nhiên, cũng không thiếu những Kitô hữu, có khi rất bình thường, lại thắng vượt được nỗi sợ hãi ấy, để sống chết với niềm tin vào Thiên Chúa. Họ vững tin rằng mọi sự, mọi chuyện đều nằm trong bàn tay Thiên Chúa. Họ vững tin rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương mọi người. Họ tin vào lời của Thiên Chúa là Đức Kitô. Khi vượt thắng nỗi sợ hãi, họ thường phải chịu thiệt thòi cách này hay cách khác, có khi liên luỵ tới cả mạng sống, tài sản, danh dự và địa vị xã hội. Họ là những người mà ngay từ đầu, Hội Thánh đã dành cho một danh xưng đầy trân trọng: Martyrion, có nghĩa là các chứng nhân, các vị tử đạo.
Tôn giáo nào cũng có những chứng nhân đích thực của mình. Họ luôn được tôn kính và noi theo. Họ luôn là niềm vinh hạnh của cộng đồng tôn giáo. Nhìn sâu hơn nữa, chúng ta sẽ thấy được rằng: cuộc sống theo niềm tin Kitô giáo luôn là một sự chọn lựa. Trong mọi sinh hoạt như kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị, chúng ta đều được mời gọi sống tin vào Thiên Chúa và phó thác trong tay Ngài. Chúng ta đều được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chúng ta nhận ai, theo ai, tin ai, bằng lời nói và bằng việc làm một cách dứt khoát, không hèn nhát, không thoả hiệp, không đầu hàng.
Hơn bao giờ hết, trong lúc xã hội đang đi vào cái thế bất ổn, thì người tín hữu chúng ta nên tự kiểm điểm một cách bình tĩnh và khách quan, để thấy hết được những đòi hỏi của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay, hầu nhờ đó sống trung tín với những lựa chọn của mình. Có như thế, chúng ta mới không hổ thẹn với Thiên Chúa và với dân tộc như lời Ngài đã phán: “Ai xưng tụng Ta trước mặt thiên hạ thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta”.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.
Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.
Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?
Trang Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta về vấn nạn niềm tin. Chúa hỏi chúng ta rằng chúng ta có can đảm tuyên tín, tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ hay là chúng ta chối Chúa trước mặt thiên hạ?
Tưởng chừng vấn nạn này đơn giản nhưng phải nói là vấn nạn này là vấn nạn lớn của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chưa đề cập đến lòng tin vào Thiên Chúa, chỉ đề cập đến đời sống thường nhật của chúng ta thôi chúng ta sẽ thấy một sự thật thật phũ phàng.
Phải nhìn nhận với nhau một điều là ngày hôm nay con người ta không biết do ảnh hưởng từ đâu mà người ta sống với nhau thật vô trách nhiệm, hay trốn tránh trách nhiệm. Nhan nhản các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo chí đưa tin đấy, quá nhiều, quá nhiều người đã không can đảm đón nhận sự thật, đón nhận trách nhiệm của mình và cứ cố đẩy đưa trách nhiệm cho người khác được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Không biết thời trước có vậy không nhưng thời này con người sống thiếu trách nhiệm quá! cái sự vô trách nhiệm hình như nó được luyện từ ngày còn bé thì phải. Nhiều và nhiều vị phụ huynh có con trẻ, khi cho chúng ăn, khi cho chúng chạy nhảy, khi cho chúng chơi … thế nào chúng cũng bị vấp té. Vấp té vì hấp tấp, vì lăng tăng, vì thiếu quan sát chướng ngại vật của trẻ vậy mà đa số các ông bố, các bà mẹ sau khi thấy con té thì vực con dậy và lấy tay đập vào cạnh bàn, đập vào cái ghế và dạy cho con trẻ biết rằng nó chính là thủ phạm gây cho con trẻ té chứ không phải là lỗi do chính con trẻ.
Tưởng chừng là chuyện nhỏ nhưng dần dần cái lối sống, lối nghĩ, lối hành động của trẻ nó sẽ in sâu vào tư tưởng của trẻ là vô trách nhiệm, chối bây bẩy những hành vi của mình. Từ những chuyện nhỏ đó nó vô tình đã dẫn đến cho con người tác hại vô cùng to lớn đó là trốn trách trách nhiệm.
Nhìn rộng hơn một chút chúng ta sẽ thấy ngay trong gia đình ngày hôm nay. Khi vui, khi hạnh phúc thì ai cũng giành phần của mình rằng mình là tác nhân mang đến hạnh phúc trong gia đình nhưng khi khốn khó một chút, khi gặp điều chẳng may chẳng lành thì từ chồng đến vợ đến con chẳng ai dám đứng ra lãnh cái trách nhiệm về mình cả. Vì trốn tránh trách nhiệm, từ chối bổn phận của mình trong gia đình nên rồi chuyện nhỏ nó xé ra thật to. Lỗ nó nhỏ vậy mà nó gây đắm thuyền ngày nào không hay. Mạnh chồng chồng chối, mạnh vợ vợ chối, mạnh con con chối bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để rồi dẫn nhau ra toà. Ra đến toà cũng chẳng tránh khỏi cái kịch bản chối.
Ngày hôm nay, nhiều đôi hôn phối chia ly vì cái nguyên nhân căn bản đó là chẳng ai chịu nhìn vào bổn phận và vị trí phải có của mình trong gia đình. Vì chối từ đời sống gia đình thì chẳng chóng thì chày một ngày nào đó cũng chia tay.
Mở rộng ra một chút, khi sống trong xã hội, hoà nhập với xã hội trong công việc làm ăn. Thử hỏi mấy người trong công ty, trong xí nghiệp dám đứng ra lãnh phần trách nhiệm của mình sau khi để lại hậu quả không tốt. Buồn cười ở chỗ là khi có nguồn lợi, khi đạt thành tích thì ai ai cũng đua nhau chen vai vào giành một phần của mình đã đóng góp để được cái thành tích ấy. Để rồi cuối cùng con người cứ quấn quýt với nhau trong cái vòng xoắn của sự vô trách nhiệm.
Nhìn lên một chút nữa, những vị có trách nhiệm với nước với dân. Đã là người thì chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, sơ xuất nhưng nhiều vụ án, nhiều sự việc xảy ra để lại những hậu quả khôn lường vậy mà người ta chỉ bị khiển trách vì vô ý đã gây hậu quả to lớn cho dân và cho nước.
Nhìn vào đời sống kitô hữu, lời Chúa trong trang Tin mừng hôm nay quả là một lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta. Chúng ta là công dân Việt Nam: Đúng! nhưng thật sự nó chỉ đúng ở khía cạnh vật chất, khía cạnh con người còn khía cạnh tâm linh, thiêng liêng thì phải nói chúng ta là công dân nước trời. Nước Trời có Thiên Chúa làm chủ như Chúa Giêsu nói Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian vì nước của chúng ta không thuộc về thế gian này như Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Chúng ta được Chúa mời gọi là chúng ta phải tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này để mai kia Chúa cũng sẽ tuyên xưng chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha.
Quả thật, chuyện tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta phải làm chứng về Chúa như vị mục sư đã can đảm tuyên xưng lòng tin vào Chúa trước mặt thế gian dẫu rằng họng súng, cái chết gần kề với ông.
Chúa Giêsu không thử thách chúng ta nghiệt ngã như viên sĩ quan thử thách vị mục sư kia là phải chết nếu không tuyên xưng. Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Chúa ngay trong đời sống thường nhật nhỏ bé hằng ngày.
Có nhiều người ngày hôm nay không dám làm dấu Thánh giá trước khi ăn cơm vì ngại! Dấu Thánh Giá và lời tạ ơn trước khi ăn là một nghĩa cử đẹp của một người biết ơn và một người nhìn nhận Chúa là Chúa của đời mình. Biết ơn trước mỗi bữa ăn điều này thật đúng và phải đạo vì lẽ ta có bữa ăn tạm gọi là cũng chẳng cao lương mỹ vị gì nhưng nhiều người khó nghèo hơn chúng ta, những nạn nhân của những cơn bão lụt, những vụ động đất làm gì mà có như ta, họ nằm mơ cũng chẳng có được như ta để rồi ta cảm ơn cũng chẳng thừa. Khi làm dấu ta tuyên xưng Chúa là chủ đời ta cũng đúng thôi vì thật ra cuộc đời của ta có nằm ngoài bàn tay của Chúa đâu như Chúa nhắc chúng ta: “thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu của anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30.31).
Có người thì tham dự Thánh lễ cắt đầu cắt đuôi. Có khi cha giảng mới đến và khi mọi người rước lễ thì kéo nhau về. Hành động như thế tự nó nó nói lên sự chối Chúa trước mặt người đời. Thử hỏi ai trong chúng ta đãi tiệc mà thực khách đến muộn về sớm không? Thử hỏi Chúa có buồn không khi con cái Chúa cư xử với Chúa như vậy?
Chưa hết, không phải đi lễ cắt trước cắt sau như thế mà thậm chí còn bỏ lễ Chúa nhật. Người ta vẫn thường nói “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để rồi có những người vô tư bỏ lễ Chúa nhật. Vì lẽ thường thì bỏ một lần xong lại cứ bỏ tiếp thôi, dần dần cái thói quen xấu bỏ lễ nó thâm nhập vào người ta lúc nào mà người ta không biết. Giữ đạo như thế phải chăng là một cách chối Chúa trước mặt người đời.
Còn những người đi lễ, thật sự thì có đi lễ đấy nhưng có làm cho thánh lễ nối dài trong cuộc sống hay là bước chân ra khỏi nhà thờ thì mọi chuyện đâu vào đấy. Sống Thánh lễ nối dài đó chính là một cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Chắc có lẽ Chúa không đòi buộc con cái Chúa sau khi tham dự Thánh lễ ra khỏi cổng nhà thờ là hô hoán lên rằng tôi mới đi lễ xong, tôi là người Công Giáo. Ngày nay cũng chẳng còn cấm đạo như thời Minh Mạng hay những thời khó khăn để Chúa đòi hỏi kitô hữu phải đổ máu đào để minh chứng về Chúa.
Phải nhìn nhận thẳng rằng chính những lúc cấm đạo, những lúc bắt đạo thì đời sống đạo của Kitô hữu rất cao, không chỉ là đời sống đạo mà cách hành đạo rất tốt. Ngày xưa càng cấm đạo người ta càng giữ đạo và càng làm chứng về đạo. Ngày nay tình hình tự do tôn giáo được mở ra một chút thì đời sống đạo lại tụt dốc. Ngày hôm nay có nhiều phương tiện hơn, có nhiều cơ hội đến nhà thờ hơn nhưng người ta lại ít đến với nhà thờ hơn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng ngày nay người ta không cần thầy dạy nữa mà người ta cần chứng nhân! Chứng nhân của Chúa là gì? nhận Chúa là Chúa, là chủ tể đời mình là gì? Phải chăng đó chính là ăn tiếng nói, cư xử, hành vi của kitô hữu mới chính là cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Và Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ, nhắc nhở mọi người chúng ta: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau”.
Chúa cũng sẽ chất vấn chúng ta về hành vi, về thái độ làm chứng hay chối Chúa trước mặt người đời trong ngày sau hết. Chắc có lẽ, tự vấn lòng mình, tự soi vào tận sâu thẳm lòng mình chúng ta chúng ta mới biết được là mối tình giữa chúng ta và Chúa nó được bao nhiêu hay là nó phai tàn theo năm tháng và sợ nó không còn nữa. Nếu nó mờ đi thì chúng ta phải tìm cách để cho nó sáng hơn để cho mọi người nhìn vào ta họ thấy có sự hiện diện của Chúa trong đời ta.
Làm chứng cho Chúa, làm chứng có Chúa chính là sống đời sống bác ái yêu thương.
Nguyện xin Chúa là chủ, là Chúa của Tình Yêu tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta tình yêu dạt dạo của Chúa và xin cho mỗi người chúng ta biết rộng mở tấm lòng để chia sẻ tình yêu mà chúng ta nhận được từ Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng về Chúa trước mặt người đời bằng cách ăn nết ở của chúng ta để ngày kia trên Thiên quốc Chúa cũng làm chứng cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã hứa.
Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.
Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:
– Các con đừng sợ. (Mt 10,26).
Chúa Giêsu không nói tới một sự sợ hãi chung chung, nhưng Người nói rõ về một sự sợ hãi đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy trong việc sống đức tin của mình. Chúng ta thường e dè, thường do dự mỗi khi nói những lời giống lời của Chúa, làm những việc giống việc của Chúa, bởi vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc. Chúng ta sợ bị chê là quê một cục, bị gọi là kẻ lên mặt đạo đức, hay là bị ngược đãi, như chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé.
Chúa Giêsu không phải là không biết đến những lý do của sự sợ hãi. Bởi vì có những người đã phải mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị và rất có thể mất cả mạng sống vì niềm tin nơi Ngài. Thế nhưng, bên trên những thiệt hại tạm bợ này là niềm hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho những ai trung thành với Ngài.
Trong cuộc sống, có những lúc hình như chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi. Sợ đọc kinh cầu nguyện trước mặt người khác. Sợ gặp phải những khó khăn khi trung thành sống đức tin của mình. Sợ làm dấu thánh giá trước bữa ăn. Sợ ngả mũ nón khi đi ngang qua nhà thờ. Sợ đổi đề tài khi có người kể những câu chuyện tầm phào và tục tĩu. Sợ không dám từ chối khi bè bạn rủ rê ăn nhậu và cờ bạc. Chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi khi Giáo hội bị nhạo cười, bị tấn công.
Trong tất cả những trường hợp ấy, chúng ta hãy nhớ tới lời khuyên của Chúa:
– Các con đừng sợ.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy khắc ghi lời Chúa đã nói: “Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha ta ở trên trời” (Mt 10, 32-33).
Như thế có nghĩa là, nếu chúng ta chối bỏ Đức Kitô thì Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta.
Ước mong rằng trong suốt cả cuộc đời, chúng ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi, bởi vì, “ai bền đỗ đến cùng, thì người đó sẽ được cứu thoát”.
4. Biết sợ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 26-33
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.
Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.
Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.
Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.
Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.
Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.
Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.
Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.
Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?
2. Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?
3. Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?
5. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt. 10, 29-31)
* * *
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ…
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
***
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A’ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: “có người sắp đánh bom tự sát!”.
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
* * *
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
“Anh em đừng sợ người đời…” (Matthêu 10, 26)
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. (Matthêu 10, 28)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
***
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.
Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.
6. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay thực sự là điểm quy chiếu cần thiết cho đời sống mỗi ngày trong một thời đại mà con người hầu như đã bị lạc lõng giữa muôn vàn giá trị. Chúng ta thử mường tượng khi lần đầu tiên bước vào một siêu thị, một hình ảnh của thế giới hiện đại, chúng ta thực sự bị hoa mắt, và bối rối biết bao?
Cuộc sống hôm nay với nền kinh tế thị trường, người ta quen dần với những khái niệm hàng hiệu, hàng nhái, hàng chất lượng cao… nhưng tất cả còn tùy thuộc khả năng tiếp thị : từ những thông tin, từ mẫu mã bao bì, từ cách tiếp cận. Nhưng vấn đề lớn hơn vẫn là sức mạnh của đồng tiền đã mở thông mọi cánh cửa cho cuộc sống, để rồi nó chế ngự mọi cách suy nghĩ, thậm chí còn là thước đo khả năng một con người, một tập thể. Nếu như còn một nhân tố đối trọng nào khác, có khả năng chi phối đồng tiền và sức mạnh của nó, thì có lẽ trong thực tế chỉ còn là bộ máy cơ cấu tổ chức xã hội. Đó là tất cả lối sống và làm việc của con người hôm nay. Trong cuộc sống này, ai ai cũng có thể thấy rằng thị trường và bộ máy cơ cấu thực ra mãi mãi là một biến động không ngừng, và nhiều khi đi từ thái cực này qua thái cực khác. Chính vì vậy, con người luôn bị giao động bất an. Càng làm lớn, càng phải lo sợ nhiều.
“Anh em đừng sợ” Chúa Giêsu nói với các Kitô hữu như thế. Lời mời gọi kèm theo một cách nhìn khác về cuộc sống: “những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Theo đó “kinh tế thị trường” có thể “giết được thân xác” với những quy luật phi nhân của nó. Và “kinh tế thị trường” tuy “không giết được linh hồn”, nhưng trong thực tế của con người sau tội nguyên tổ, thì nó có thể giam hãm con người trong vòng tội lụy. Thánh Phaolô đã đặc biệt có những suy nghĩ về vấn đề này trong đoạn thư Roma hôm nay “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết…” Chúng ta có thể thấy muôn vàn hệ lụy trong xã hội hôm nay : với thời mở cửa, thì cũng là lúc những tệ nạn xã hội : tham nhũng, hối lộ, đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường với những sản phẩm nhằm khích động bạo lực, dâm ô, xì ke, ma túy…làm tan nát nền móng đạo đức xã hội là gia đình. Người ta thừa nhận là hợp pháp việc “ly dị”, “hôn nhân thử”, “phá thai”, “ngừa thai”… Hậu quả là xã hội bất ổn, con người càng ngày càng sống trong lo sợ hãi hùng, và nhất là giới thiếu nhi, bị khuôn đúc thành “sản phẩm phục vụ lợi ích kinh tế”, không còn cơ hội đạt tới mức tự do tâm linh vốn là giá trị cao cả tối thượng của một con người. Đứng trước tình trạng ấy, sự khủng hoảng như một định kỳ không thể tránh, đã xảy ra trong mọi xã hội, cách riêng ở những xã hội phát triển cao, gây nên những đổ vỡ không lường.
Đức Giêsu không dừng lại ở mức độ một lời mời gọi, Ngài thúc bách môn đệ “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Đó là phương thuốc duy nhất có thể tái lập lại trật tự cho xã hội, cho nhân loại. Thánh Phaolô đã đón nhận lệnh truyền này một cách đặc biệt, mà theo Ngài thì tất cả những gì môn đệ đã nghe biết tựu trung chính là Con Người Đức Giêsu Kitô vì “nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Chính vì thế “tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ” chính là nhiệm vụ và vinh dự của người môn đệ.
Có nhiều cách để tham gia vào sứ vụ loan báo Đức Kitô, nhưng cách thế căn bản nhất cho hết mọi người vẫn là một cuộc sống thể hiện niềm tin vào sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha như chính Đức Giêsu. Nếp sống ấy đã được các tiên tri đặc biệt rao giảng, nhiều khi bằng chính đời sống của các Ngài, như trường hợp của tiên tri Giêrêmia làm chứng. Và cũng vì thế truyền thống vẫn nhìn nhận Giêrêmia như là hình ảnh loan báo Đức Kitô.
Đâu là những nỗi sợ của chúng ta? Đứng trước những lời “Các con đừng sợ, hãy sợ, chớ sợ” của bài học ngày hôm nay, làm sao không nghĩ đến những người anh em của chúng ta đang sống tại các nước độc tài hoặc tại Châu Mỹ La tinh đang bị đe dọa và bách hại? Hiện nay có nhiều vị tử đạo hơn là vào thời kỳ đầu của Giáo hội. Đây là một điều người ta cố quên tại những nước mà việc tỏ ra mình là người Kitô hữu không nguy hiểm bao nhiêu. Trước hết bài suy niệm của chúng ta phải hướng về những người có lý do để hết sức sợ hãi, và về những người có thể chế ngự nỗi sợ của mình, đó là những người rao giảng Tin Mừng một cách anh hùng.
Nhưng trong khi cầu nguyện cho những người anh em bị bách hại của chúng ta và trong khi ngưỡng mộ họ, chúng ta đừng từ chối một câu hỏi có thể là khó chịu: ‘tôi có sợ hãi không?’
Đây không phải là những nỗi sợ của “cá nhân” của chúng ta: sợ đau khổ, sợ già hoặc sợ bom hạt nhân. Tin Mừng nói về những nỗi sợ trước điều mà đức tin đòi hỏi: sợ di luỵ đến bản thân, sợ dấn thân trong việc dạy giáo lý hoặc trong việc tông đồ khó khăn, sợ mất thời giờ, tiền bạc hay có lẽ linh hồn của mình vào đó. Khi Matthêu viết những câu vừa đen tối vừa làm hứng khởi này, Giáo hội của ngài đã nếm trải đủ loại khó khăn ở bên trong và những bách hại ở bên ngoài. Ba ngọn cờ ngài giương lên rất cao, nếu cần, sẽ làm cho chúng ta can đảm.
Sự khuyến khích đầu tiên: các con đừng sợ rao giảng Tin Mừng. Trong cuộc sống công khai của mình, Chúa Giêsu không thể mạc khải tất cả. Người ta không hiểu đó là cái gì và sứ điệp của Ngài tiến triển trong bóng tối. Nhưng đã có lễ Phục sinh và lễ Hiện xuống. Những người sợ hãi của ngày thứ sáu tuần thánh đã trở thành những người linh hoạt các đám đông. Không có lời mời gọi can đảm nào mạnh mẽ cho bằng bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ. Chúng ta phải thường xuyên đi vào trong bầu không khí xác tín và can đảm của các Kitô hữu đầu tiên. Một sự sợ hãi kỳ lạ đã xâm chiếm chúng ta kể từ công đồng Vatican II, đó là sợ trở thành những kẻ “háo thắng”. Chắc chắn phải tìm lại sự đơn sơ và sự kín đáo, nhưng không phải để đắm chìm trong một Kitô giáo toàn những người câm. Giữa các tiếng la của thế giới, chúng ta phải nghe tiếng la của Tin Mừng: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng giữa ban ngày, trên mái nhà!”. Đó là một cuộc chiến tôn trọng con người. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ đứng trước những kẻ tra tấn cương quyết bắt chúng ta chà đạp Thánh giá, nhưng khi chúng ta bị cám dỗ xấu hổ vì Chúa Kitô tại nơi làm việc chẳng hạn, thì ước gì lời cảnh báo của Ngài làm cho chúng ta trấn tỉnh đúng lúc: “Nếu các con nói về Thầy, Thầy cũng sẽ nói về các con; nếu các con chối Thầy, Thầy cũng sẽ chối các con”.
Sự khuyến khích thứ hai đối với những người anh em chúng ta bị đe doạ tra tấn và chết chóc: “Các con đừng sợ những kẻ giết hại thân xác các con, các con hãy sợ Đấng có thể giết chết linh hồn các con”. Đây là một nguyên tắc quan trọng và sáng chói để phân biệt giữa những nỗi sợ tốt và những nỗi sợ xấu. Cuối cùng chỉ có một điều cần phải sợ mà thôi, đó là người ta giật chúng ta ra khỏi Chúa Kitô, giật chúng ta ra khỏi sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Nhưng các bạn đã biết tiếng la chiến thắng chống lại mọi nỗi sợ hãi này rồi: “Nếu Thiên Chúa thân với ta, ai dám nghịch với ta?” (Rm 8,31). Không bị đe doạ lắm, có lẽ chúng ta cần phải xác minh những nỗi sợ hãi của chúng ta: chúng ta có sợ nhất những gì và những người có thể làm suy yếu đức tin của chúng ta hay không?
Sự khuyến khích thứ ba: chúng ta có một người Cha trên trời, Chúa Giêsu nói điều đó với những ẩn dụ dí dỏm Ngài dùng để truyền đạt một chân lý quan trọng: “Không có con chim sẻ đáng giá một xu nào rơi xuống đất mà không ngoài ý Cha các con trên trời, tóc trên đầu các con Ngài cũng đã đếm hết”.
Tốt hơn là người ta có thể nói đến sự quan phòng hay không? Đây không phải là sự siêu tổ chức của một Thiên Chúa có bộ óc điện toán. Đây là sự quan tâm chú ý của một người Cha nói với chúng ta qua Con của Ngài: “Con biết, đối với Ta Con đáng giá hơn tất cả các con chim sẻ trên thế giới này”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ!”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật 12 Thường Niên A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết… mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ!”.
1. Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” (Xh 3,14). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên. Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2. Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” (1P 5,8). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô (x. Rm 5,15). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3. Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” (x.Ga 18,37), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương. Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân… hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật (x.Ga 14,6). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
9. ”Đừng Sợ” – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo”. Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Ga 14, 18). Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.
– Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.
– Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
– Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh .hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.
Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.
Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều người phải ngạc nhiên vì những hành động và các lời phát biểu của Ngài như là vị cha chung hiền lành và khiêm nhường. Nhiều lần ngài cũng dùng kiểu nói “đừng sợ”. “Rao giảng Tin Mừng là đích thân làm chứng về tình yêu Thiên Chúa, là vượt thắng sự ích kỷ của chúng ta, là phục vụ bằng cách cúi mình xuống rửa chân cho anh em chúng ta như Chúa Giêsu đã làm…Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ. Khi sống theo 3 điều này, các con sẽ cảm nghiệm được rằng người rao giảng Tin Mừng thì cũng được trở nên Tin Mừng. Ai thông truyền niềm vui đức tin, thì cũng nhận được niềm vui…Mang Tin Mừng là mang sức mạnh của Thiên Chúa để nhổ bỏ và phá hủy sự ác và bạo lực; để phá tan và đạp đổ những hàng rào ích kỷ, không bao dung và oán thù. Để kiến tạo một thế giới mới, Chúa Giêsu Kitô hy vọng nơi các bạn!..Đức tin hay đức cậy hoặc đức mến dĩ nhiên phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Điều này đồng nghĩa với giáo huấn “Hãy mặc lấy Đức Kitô”, đặt niềm tin nơi Người, chứ không ở nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực.”
Nội dung lời phát biểu của các nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.
Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”.
- Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
“Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”; “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.
- Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Con người – nhất là người Kitô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng”, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa”. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”!
Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
- Tin yêu và hy vọng
Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).
Nhờ tin yêu và hy vọng nên không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Kitô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39).Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công giáo của chúng ta. Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ sự hăm doạ. Đó là một loại sợ hãi mà nó có liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe doạ bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia đã tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ (điều này đã xảy ta vào năm 587 BC). Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chình những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ giao ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêtêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này mà thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở El Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người đã dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội của chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sức mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: “Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiếp tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con”.
CÂU HỎI GỢI Ý:
1) Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu nào đúng hơn?
2) Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống không?
3) Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?
SUY TƯ GỢI Ý:
Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức “vô úy” (không sợ) hay “can đảm” mà người Kitô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giêsu: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”, hoặc hậu quả xấu: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.
1) Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Kitô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Kitô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Kitô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
– vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
– ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Kitô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Kitô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Kitô giáo “thuốc phiện”, đầy tính ru ngủ… Kitô giáo đó khác hẳn với thứ Kitô giáo do Đức Giêsu thiết lập, một Kitô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giêsu coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13); “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật” (Mt 23,23b); “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện thân của Đức Giêsu – cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng sẽ nói “Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn”… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!” (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải “dám”, phải “vô úy”, “không sợ”, phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức “vô úy” rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
- Tại sao lại “đừng sợ”?
Đức Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:
- a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”. Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giêsu nói với ta: “Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…” (Mt 25,41tt). Hoặc “Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…”. Bài Tin Mừng cũng nói: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”. Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
- b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người – nhất là người Kitô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào”, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa”. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
- Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát “một cách có lý” hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Kitô hữu cần năng tự vấn!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con là người nhút nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!
12. Hãy sợ tội – Lm. Nguyễn Hùng
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:
– Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?
Nông dân trả lời:
– Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người kia hỏi tiếp:
– Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?
– Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
– Vậy ông có trồng khoai tây không?
– Không có, vì sợ sâu đất.
Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:
– Vậy thì ông trồng cái quái gì?
– Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.
Sợ là một yếu tố tâm lý có ảnh hưởng lớn trong đời sống con người. Bậc cha mẹ và giới giáo dục thường dùng hình phạt gây sợ hãi để huấn luyện con cái, học sinh khi còn nhỏ. Chính phủ và các thể chế điều hành nắm vào sự sợ hãi đến một mức nào đó để giữ kỷ luật, trật tự. Các hãng bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, sức khoẻ, sinh mạng… cũng khai thác yếu điểm tâm lý này nơi con người để… phát tài. Vụ khủng bố lớn ngày 11/9/2001 và những vụ khủng bố gần đây tại Do Thái cho chúng ta thấy có những người quá khích dùng nỗi sợ hãi như võ khí để khống chế, gây áp lực trên những cường quốc như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, Do Thái…
Sợ hãi quá mức làm cho con người bị tê liệt, không thể làm gì được giống như ông nông dân kể trên. Ngược lại không biết sợ là gì khiến con người trở nên điên cuồng, quá khích, mất quân bình như những tử sĩ Palestine ôm bom tự tử để giết người của phe Do Thái. Sợ đúng mức giúp con người xa tránh những điều nguy hiểm, bảo vệ an toàn bản thân, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống. Vì thế sợ hãi không phải là điều hoàn toàn xấu. Nó là một phần trong bản năng tự vệ, sinh tồn của con người.
Thế nào là sợ hãi đúng mức? Đối tượng của sự sợ hãi chính đáng là những gì có thể gây tổn thương, nguy hại đến tính mạng của người ta. Khi đi vào rừng người ta sợ cọp từ trong bụi nhảy chồm ra xơi tái là điều chính đáng. Các cô nường khi thấy con gián, con chuột xuất hiện trong nhà vội vàng trèo lên bàn đứng hét không phải là nỗi sợ chính đáng.
Trong bài Phúc Âm Chúa Kitô dạy cho các môn đệ biết nỗi sợ chính đáng. Chúa nói đừng sợ những người bắt bớ ai theo Chúa Kitô vì họ chỉ có thể làm hại đến thân xác, cùng lắm giết chết phần xác. Cuộc sống ở trần gian này rồi cũng sẽ chấm dứt không sớm thì muộn. Nếu phải chết sớm để làm chứng cho Chúa Kitô thì điều đó là cách diễn tả tình yêu đến tột cùng mà Ngài đã làm gương. Đó là một vinh dự, không phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ Chúa muốn nói chính là tội lỗi, chống lại Thiên Chúa, cắt đứt mọi liên hệ với Ngài để tự đưa mình vào hoả ngục, nơi đoạ phạt đời đời.
Chúa muốn nhắc nhở rằng nguy hại đến thân xác không đáng sợ bằng những gì gây hại đến linh hồn. Chúng ta cần chú ý đến điểm này vì xã hội nặng vật chất này đang ru chúng ta vào cơn mê ngủ hưởng thụ, chôn vùi lương tâm mình trong vật chất. Có nhiều điều bệnh hoạn thông truyền qua phim ảnh, báo chí, Internet dưới danh hiệu “người lớn” (Adult) thật sự đang đầu độc cả người lớn và trẻ con. Có những cách gian lận chính phủ, hãng Satellite Disc, cable TV, sở làm… mà người Kitô hữu vướng vào và vẫn đi rước lễ tỉnh queo. Tất cả những điều đó đem lại cho con người thoải mái trong chốc lát, nhưng sẽ đưa linh hồn vào chốn đoạ phạt đời đời. Đó mới là điều đáng sợ và phải xa tránh.
Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:
– Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:
– Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:
– Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?
Cô mỉm cười nói:
– Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi. (Trích Món Quà Giáng Sinh)
“Anh em đừng sợ”. Sợ hãi làm cho chúng ta ra tê liệt, làm cho chúng ta không còn là chính chúng ta nữa. Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có biết bao nhiêu là cái sợ: sợ gặp phải đau khổ, sợ mất việc làm, sợ cô đơn, sợ thất bại, sợ tai nạn, sợ chết… không phải riêng chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chính các Tông đồ xưa cũng đã phải trải qua nhiều cái sợ: sợ địch thù, sợ nói trước công chúng, sợ bị bỏ rơi, và nhất là sợ chính Thiên Chúa bỏ rơi.
Tại sao lại có nhiều sự sợ hãi như thế? Phải chăng chúng ta chưa cảm nghiệm được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, chưa thực sự đặt niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, chưa cảm nghiệm được tình yêu bao la của Ngài! Ngày nay chúng ta sợ không giám nói lên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa trước thế giới đầy tân tiến. Nhiều người còn cho rằng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh cho chúng ta thấy đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta sẽ vô ý nghĩa…
Không, dù tài ba mấy đi chăng nữa, dù tân tiến mấy chăng nữa con người khoa học vẫn “không một lời” trước cái chết của một người thân mình! Chỉ có đức tin vào Thiên Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa và làm tan biến sự sợ hãi. Sức mạnh của khoa học không thể nào phá hủy được phẩm giá cao quí của con người: những người con đáng yêu của Thiên Chúa, và chỉ tình yêu Ngài mới xứng đáng. Đừng sợ, hãy sống như cô nữ sinh Áo: đi tìm cho mình một ý nghĩa cuộc sống đích thực trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ, và giám làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Nabucôđônôsor bành trướng đế quốc Canđê đến tận Palestine. Sang năm 597 B.C, nhà vua chiếm Giêrusalem và đưa một số đông người Do thái sang lưu đày bên đất Babylon. Đây là đợt lưu đày thứ nhất. Năm 587 B.C., do sự nổi dậy của dân cư Giêrusalem, đạo binh Canđê lại tiến đánh và tàn phá đền thờ. Đợt lưu đày thứ hai bắt đầu. Giêrêmia trải qua gian đoạn thê lương đó trong lịch sử Do thái. Được linh ứng, ông lên tiếng báo trước các tai ương sẽ đổ xuống trên những kẻ phản bội Giavê, thành đô sẽ tan nát dưới bàn tay ngoại bang. Ông cũng răn đe sự lạm dụng nơi thờ phượng để trục lợi riêng tư và kêu gọi một cuộc cải cách phụng tự.
Thế nhưng chẳng ai nghe Giêrêmia, thậm chí còn tố cáo ông là kẻ gieo tai rắc vạ, là người chủ bại, là tên bán nước. Rốt cuộc ông bị bắt nhốt. Các đầu mục Do thái muốn giết ông. Người ta ném ông xuống giếng, nhưng một hoạn quan ngoại giáo đã cứu ông. Về sau, khi những người Do thái ám sát quan tổng trấn Gôđôlia, rồi vì sợ bị trả thù, nên họ đã trốn sang Ai cập, kéo theo Giêrêmia. Và trên vùng đất xa lạ này ông bị giết chết. Phải đương đầu với bao gian khổ, bị tẩy chay và bắt bớ, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành sống trọn vai trò người ngôn sứ của Giavê. Ông một thân một mình chấp nhận bao lăng nhục đoạ đày để Lời Chúa được công bố và rao truyền. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Trước khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhắn bảo các ông: “Đừng sợ chúng.” Tức là đừng nhát đảm trước những kẻ gian dối và phủ nhận chân lý Phúc âm, nhưng hãy can đảm loan báo sự thật. “Điều gì Thầy nói với anh em trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng. Điều gì anh em nghe rỉ tai, hãy rao lên trên mái nhà” (Mt 10:27). Tin Mừng Đức Kitô phải được truyền rao cho hết mọi người. Thánh Phaolô từng quả quyết: “Quả như nơi tôi có sự thật của Đức Kitô thì sẽ không ai bịt miệng tôi được” (2 Cor 11:10). Song trên hành trình loan báo chân lý, gieo rắc tin mừng sự sống, không phải là không có kẻ thù chống đối ngăm đe. Khó khăn, nhục nhằn, khổ đau, và cả cái chết đang chờ đợi bước chân của người ngôn sứ. Nhưng Đức Giêsu lại một lần nữa nhắc nhở: “Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.”
Thử thách và khổ đau của thân xác không đáng là gì khi so với sự sống của tâm hồn có Đức Giêsu—Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thánh Phaolô đã không ngừng viết đi viết lại niềm xác tín của mình: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3:8). Có Đức Kitô là có tất cả. Mất Đức Kitô là mất tất cả.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: “Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8:28).
Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng. Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: “Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng.” Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980. Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.
“Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục.” Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công… mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: “Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng.” Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.
Giáo đề cho một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và hành động của mình: Có một lối xử sự của riêng Phúc âm. Người môn đệ cần thầm nhuần để nên giống Thày. Đàng khác gương mẫu sống động không ai ngoài chính Chúa. Vì thế như Chúa Giêsu đã gặp những chống đối, các môn đệ cũng sẽ bị chống đối nhưng họ không có gì phải sợ. Trước hết, họ hãy giữ niềm tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ tỏ rạng mặc dầu quyền lực của dối trá thống trị, họ chớ sợ tiếp nối công trình của Thày để loan truyền Tin Mừng. Chúa Giêsu nói rằng Ngài dạy trong bóng tối, điều ấy có nghĩa là Ngài trao truyền sứ điệp trong vòng các người thân tín, trong khung cảnh giới hạn và tối tăm của miền Galilêa. Ngài hành động như thế là vì thận trọng và vì muốn tôn trọng các dự định quan phòng giao phó việc rao truyền sứ điệp cho những vị khởi sự Giáo Hội. Những vị ấy sẽ phải nói trên mái nhà. Việc này nhắc đến một tập tục đặc biệt của miền Trung Đông. Buổi chiều, khi trời hạ cơn nóng, người ta hay tụ tập trên sân thượng. Nhà này nối qua nhà khác, cho nên các mái nhà làm thành một thứ công trường. Nói trên mái nhà tương đương với loan báo Tin Mừng sẽ gây ra nhiều chống đối hung bạo, Chúa dạy như thế. Từ lời cảnh cáo này, Ngài bảo các môn đệ cách thức định giá sự vật và phải đặt lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa ra sao.
1) Đừng sợ những kẻ giết được thân xác… Điều này có nghĩa là sự sống con người có những kích thước vượt quá phạm vi thể xác. Các quyền lực thế gian có thể làm hại thể xác nhưng đấy không phải là phần chính yếu của con người. Chúng không thể nào phá hủy con người trong những gì là nhân bản nhất, căn cốt nhất, những gì bất tử. Bản chất linh thiêng, nơi phát xuất những quyết định hữu trách và những khả năng chân chín hưởng nhận hạnh phục, đó mới là kho tàng đích thật của con người. Điểm thấm nhập của Phúc âm vào trong con người là linh hồn tự do, hữu trách, bất tử, được gọi tới hưởng hạnh phúc sung mãn. Người môn đệ của Đức Kitô phải biết rằng bản thể linh thiêng đáng cho ta hy sinh bản thể nhục phàm. Có thể xảy ra những trường hợp đặc biệt và các thánh tử đạo xưa và nay chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng có một vấn đề mà chúng ta phải nghĩ tới và có thể đặt ra bằng câu hỏi sau đây: trong cuộc sống thường ngày chúng ta có đặt vị trí ưu tiên cho các giá trị siêu nhiên không?
2) Không có một con chim sẽ nào rơi xuống ngoài ý Cha các ngươi. Các khó khăn, các cơn cám dỗ, các chướng ngại, các vấn đề, các sự trục trặc của chúng ta,… Thiên Chúa đều thấu tỏ. Giữa các khó khăn, dầu thế nào mặc lòng chúng ta luôn làm đúng khi quy hướng về Chúa Cha! Ngài canh phòng cho con cái Ngài và Ngài không để cho chúng chịu thử thách quá sức. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cam kết sẽ can thiệp ngay trong mỗi trường hợp để giải thoát chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào thế giới như mắc cửi và Thiên Chúa là Đấng đã làm nên sẽ không phá bỏ đi. Nhưng chúng ta có được một phương kế phi thường: mọi khó khăn nhỏ nhặt nhất có thể làm đề tài nói chuyện riêng tư với Chúa vì Ngài biết sự khó khăn ấy. Không có gì xảy đến cho chúng ta mà Ngài không thấu tỏ. Mà Chúa Cha muốn điều tốt lành cho chúng ta. Do đó nếu chúng ta phó thác tất cả cho Thiên Chúa, mọi sự đều góp phần mưu ích cho chúng ta.
16. Can đảm, trung thành – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26. 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách. Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.
Đừng sợ!
Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ”. Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ”, tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi. Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời. Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28). Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29).
Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.
Đặc tính của người môn đệ
Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này. Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình. Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.
Nếu đường của Thầy là đường của trò. Số phận của Thầy cũng là của trò. Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhưng lụa, hoa hồng chắn chắn là qua xa lạ. Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24). Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau:
Trước tiên là dấn thân:
Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ. Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết. Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Bá Học). Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo.
Thứ đến là không sợ hãi
Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về sự gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình. Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.
Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau: “Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu:”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa
Thật là mầu nhiệm! Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy? Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì: “Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “ hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).
Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30) .
Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân. Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời. Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá? Không đời nào! Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta??? Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta […]. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27). Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật. Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Vậy đừng sợ chúng”: Chữ “vậy” liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
“Bị bại lộ … bị thấu biết”: Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ… Bước đầu của “các điều mới” do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa… thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
“Những kẻ giết được xác”: Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con”: lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
“Ta cũng xưng kẻ ấy ra”: Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: “Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17…). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ”. Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn … Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng”.
2) Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
3) Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
4) Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy…
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc là Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng ” Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2) Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ – căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ – Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!… Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”. Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi . “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian . . . Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn . . .
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2) Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên “mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
19. Đừng sợ! – Lm. Nguyễn Khoa Toàn
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.”
Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho người tù do thám kia được chọn hoăc bị xử bắn hoặc phải đi qua một cửa đen. Người tù lưỡng lự một chút rồi chọn án tử hình. Khi bản án đuợc thi hành xong, vị tướng nói cùng những người hầu cận: “Người ta thường chọn những gì đã biết hơn là mạo hiểm phiêu lưu đến những gì chưa biết!” Một người liền hỏi: “Thế việc gì sẽ xảy ra sau cánh cửa đen kia?” “Tự do!” vị tướng lạnh lùng trả lời.
Đã có bao lần trong đời sống, khi phải diện đối diện với sự thật, chúng ta thường sợ. Không phải kính sợ Thiên Chúa mà là sợ hãi dư luận. Sợ người này buồn! Sợ người kia bối rối! Sợ ai đó ở gần ở xa suy nghĩ hoang mang. Và cái sợ vẫn vơ mơ hồ không tưởng ấy cứ vương vít. Cứ ám ảnh hằng hằng. Cứ xoáy vào óc. Cứ len lấn vào tim làm ngại bước chân đi. Rồi ngại không dám nhìn vào và nói lên sự thật. Cuối cùng, sự quẫn trí kia đã làm chúng ta sợ Sự Thật. Rồi lạc Đuờng. Và mất đi Sự Sống…
Thật thế, triết gia Bertrand Russell đã viết: “Sợ hãi là nguyên nhân đưa đến mê tín dị đoan và dã man tàn bạo.” Và theo Russell, “chế ngự sợ hãi là bước đầu đưa đến sự khôn ngoan.” Sợ đã làm con người cùn nhụt, bất toại về ý chí: thay vì giúp tiến bước thì kéo thụt lùi dần; chiến thắng trong tay thành chiến bại trong tim. Sợ như một vi khuẩn lan nhanh. Một người sợ thì cả nhà, cả xứ, cả xóm làng đều sợ, như Gilbert Murray nhận xét: “Nếu lao phổi là bệnh dịch trắng thì sợ hãi là bệnh dịch đen.”
Trong diễn văn nhậm chức năm 1933, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã phát biểu: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là sự sợ hãi.” Nói một cách khác, điều mà chúng ta cần phải chế ngự là sự sợ hãi nếu không thì sự sợ hãi sẽ chế ngự chúng ta.
“Đừng Sợ!” Chúa Giêsu trấn an mỗi chúng ta khi Người đưa tay cho Phêrô run rẫy bấp bênh đi trên mặt nuớc. Và Người đã cảnh tỉnh những ai chỉ biết sợ loài nguời mà lại không mảy may sợ Đấng tạo dựng loài người, vì càng sợ hãi con người bao nhiêu, càng khinh dễ Con Người bấy nhiêu.
Như trong “Dead Man Walking” – một cuốn phim rất cảm động kể lại câu chuyện có thật về Sr Helen Prejean và công việc mục vụ cho những người chờ nhận bản án tử hình, trong đó có Matthew Poncelet. Một đoạn phim, theo tôi, có ý nghĩa nhất là mẫu đối thoại giữa hai người. Poncelet khăng khăng chối tội nhưng rồi lại nói: “Tôi biết Chúa thương và tha thứ cho tôi.” Sr Prejean liền thách thức Poncelet đối diện với sự thật: “Anh không thể cho rằng Chúa sẽ tha thứ khi anh không dám thú nhận tội mình làm!”Rõ ràng là Poncelet chỉ sợ chết chứ không một mảy may sợ Chúa. Nhưng rồi với sự can đảm kiên trì và với lòng nhân ái rất bao dung, Sr Prejean đã giúp Poncelet diện đối diện với sự thật để có thể vững bước chân trên Đường gặp Sự Thật. Và Sự Sống.
Cuốn phim chấm dứt và đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi lệ khi Poncelet, ngay trước khi chết, đã thú nhận sự thật ghê tởm mình làm để có thể đạt đến Sự Thật một đời mong muốn. Nếu muốn bước đi trên con Đuờng để Sống và làm chứng nhân cho Sự Thật, chúng ta không nên chiều theo những thị hiếu tầm thường, những lời nói thiếu bề dày suy nghĩ và những cái nhìn thiếu chiều sâu toan tính. Chúng ta phải -ought to- luôn vững tin vào Chúa. Và vào chính chúng ta. Hãy đừng sợ người đời.
Hãy đừng ngại khó khăn. Và như Seneca đã nói, “không phải vì sự việc khó khăn mà chúng ta không dám; vì chúng ta không dám nên sự việc mới khó khăn.” Thuyền đời bé lắm nhưng đại dương thì cơ hồ như vô tận, nhưng không vì thế mà lại lỏng tay chèo vì Thần Linh Sự Thật đang thổi hơi giúp thuyền chúng ta luôn no gió căng buồm…
1) Dũng cảm trong đời thường
Trong bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay (Mt 10,26-33), Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta đừng sợ, nhưng hãy sống như con cái Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta tình cờ gặp những người luôn bị cuộc sống nhọc nhằn này đè nặng. Nghịch cảnh và trở ngại hình như cứ chực giăng mắc bủa vây những khi người ta chỉ dựa vào sức riêng con ngưới để thắng vượt chúng. Chúng ta cũng cũng thường gặp những Kitô hữu hay xấu hổ khi phải nói về Chúa hay phải nói không với cái xấu và trong những lúc cần phải xưng mình là những môn đệ trung thành của Đức Kitô. Họ sợ những lời người ta nói ra nói vào, sợ luôn những nhận xét phê bình, sợ phải lội ngược dòng đời hay bị nhòm ngó để ý. Chắng lẽ giữa môi trường ngoại giáo nơi mà người ta thường đề cao những giá trị tiền tài của cải một Kitô hữu lại không thể để cho người ta chú ý đến mình hay sao?
Chúa Giêsu nói chúng ta đừng quan tâm đến phê bình chỉ trích hay vu khống. “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10 26-33). Thật là xấu hổ nếu như có ai khám phá ra chuyện chúng ta e ngại loan báo khắp năm châu bốn bể cho mọi người biết chân lý mà Thiên Chúa đã ký thác cho chúng ta! Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai thì hãy lên mái nhà rao giảng. Nhiều khi chúng ta giữ yên lặng vì đó là hành động tốt nhất phải làm, có thể là vì những lý do khôn ngoan siêu nhiên hay động cơ đức ái nhưng không bao giờ được viện cớ sợ hãi hay nhút nhát. Là những Kitô hữu, chúng ta không được làm bạn với bóng tối hay trở thành những xó xỉnh ẩn nấp; chúng ta là bạn hữu của ánh sáng, của công khai cởi mở trong ngôn từ và hành động. Thời đại chúng ta đang sống đây lại càng tới mức cần chúng ta công bố chân lý sự thật một cách rõ ràng minh bạch. Sự giả dối và ngộ nhận hiện đang dẫn đưa nhiều tâm hồn tới chỗ lầm đường lạc lối. Có vẻ là phi lý, nhưng nhiều khi ngay cả học thuyết đúng đắn, những quy tắc ưlng xử luân lý (vốn thường theo sát lương tâm người ta trong lao động và trong cuộc sống gia đình, là lẽ thường tình của lương tri) lại bị coi nhẹ kém cả học thuyết sai lầm kỳ quặc mà người ta coi là “tiên tiến” hay “tiến bộ”.
Chúng ta không nên sợ mất những uy tín hào nhoáng giả tạo, hay bị chỉ trích phê bình hay thậm chí có khi bị sát hại vì chúng ta lội ngược dòng hay đi ngược lại những gì đang được coi là thịnh hành. Chúa Giêsu quả quyết rằng: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thằy, Đấng ngự trên trời”. Người vẫn hằng ban thưởng cho chúng ta một cách trọn vẹn cho tất cả những lần chúng ta bị người đời hiểu lầm vì chúng ta đã sống dũng cảm trong cuộc đời này, trong một thế gian thường xuyên mất khả năng hiểu biết mọi điều trừ ra những giá trị vật chất. Thánh Phaolô nói rằng: “Tôi coi mọi sự khổ đau đời này không ra gì so với vinh quang đã được tỏ hiện cho chúng ta” (Rm 8,18). Vì thế, thánh Gioan Kim khẩu chú giải thêm rằng, ai mà lại không ra sức đạt được vinh quang cao cả ấy, để sống thân thiết bằng hữu với Thiên Chúa, mang lấy Đức Kitô trong mình, nhận lãnh những phần thưởng từ Thiên Chúa ban sau bao nỗi đớn đau âu lo của trần thế. Nếu những người lính chiến trần gian này vinh quang trở về cố hương sau khi đã chiến thắng quân thù, thì còn gì vinh hiển và đáng ca ngợi hơn một khi chúng ta khải hoàn trở về thiên quốc sau khi đã chế ngự được quỷ dữ…; giương cao dấu hiệu chiến thắng…; được ngồi bên hữu Thiên Chúa khi Người đến xét xử, được đồng thừa tự với Đức Kitô; được xếp hàng với các thiên thần, với các Tổ Phụ, các Tông đồ và các tiên tri; được hân hoan vui mừng vì có Nước Trời là của mình.
2) Sức mạnh của chúng ta là biết mình trở nên con cái Thiên Chúa
Dù sống hay chết cũng không sợ, nhưng luôn luôn vui tươi khi phải giáp mặt với những khó khăn trầm trọng nhất, kiên trì đương đầu với những trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực hy sinh, bình thản chịu đựng bệnh tật. Yên tâm trước một tương lai bấp bênh… Thiên Chúa muốn chúng ta sống như thế đó. Những khi có thể đươc, chúng ta nên thường xuyên mỗi ngày nhớ rằng chúng ta đã là con cái Thiên Chúa, đặc biệt là kẻ hi chúng ta bị những âu lo tương lai đen tối bủa vây tấn công. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Như thế Thiên Chúa đã tỏ rõ tình cảm vĩ đại Ngài dành cho chúng ta và cái giá trị to lớn Ngài đã đặt nơi con người. Thánh Hiêrônimô đã chú giải đoạn Tin Mừng này như sau: Nẻo những con chim sẻ rê mạt kia vẫn luôn nhờ sự Quan Phòng của Thiên Chúa mà chẳng hề con nào rơi xuống, anh chị em là những thụ tạo đã được phú ban một định mệnh vĩnh cửu nhờ có linh hồn bất tử làm sao có thể lo sợ Đấng mà anh chị em tôn kính là Cha sẽ không chăm lo săn sóc cho anh chị em cách riêng hay sao?
Việc được làm con cái Thiên Chúa sẽ củng cố tăng cường sức mạnh cho chúng ta khi những yếu đuối bản thân bủa vây tư bề và những trở ngại giăng mắc trên đường đời; khi phải đương đầu với những khó khăn giữa một môi trường luôn luôn thù nghịch với Thiên Chúa và nhiều khi đối nghịch thô bạo với những lý tưởng Kitô giáo. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Giêrêmia ngỏ lời với chúng ta nhưng Đức Chúa ở bên tôi như người chiến binh oai hùng. Đây chính là tiếng kêu thống thiết của tiên tri trong cảnh lẻ loi bị quân thù bao vây tư bề. Những khi nguy hiểm cận kề, hay mây mù bão tố giăng kín, chúng ta có thể lập đi lặp lại những lời tự nhủ mình như thế này Thiên Chúa, là Cha tôi, Ngài luôn ở bên tôi như người chiến sĩ oai phong. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Dominus, illuminatio mea et salus mea, quem timebo? (Tv 27,1)
Và đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta (1Ga 5,4), Thánh Gioan tông đồ đã tuyên bố như thế giữa lúc bao nhiêu khó khăn đang ập tới ào ạt từ một thế giới ngoại giáo. Chính trong thế giới đó người Kitô hữu, vẫn là những công dân bình thường, đã lao động trong những ngành nghề khác nhau và thực hiện sứ vụ tông đồ một cách có hiệu quả. Và nền tảng vững chắc của một đức tin không hề lay chuyển tạo đà phát triển cho một niềm tin không mơ hồ hay ngây ngô chút nào, nhưng là một niềm kiên vững hân hoan của Kitô hữu, mặc dù có nhiều giới hạn và sự xấu xa bản thân, luôn biết rằng Đức Kitô đã nhờ Cây Thập Giá và Sự Sống lại của Người mà chiến thắng vinh quang. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Lạy Chúa, con còn sợ gì nữa? Con còn sợ ai nữa? Vì Chúa là ngườl canh giữ bảo vệ của cuộc đời con.
3) Can đảm và tín thác vào Thiên Chúa giữa mọi thử thách lớn nhỏ trong đời sống thường ngày
Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng sợ gì cả, ngoại trừ tội lỗi là nguyên nhân phá hủy tình thân hữu với Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ bị án phạt đời đời. Khi đối diện những khó khăn, chúng ta phải tỏ ra mạnh mẽ và can đảm, như những người con đích thực Thiên Chúa. Chúa Giêsu thường bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được thân xác anh em nhưng không thể huỷ diệt linh hồn; anh em nên sợ người có thể hủy diệt cả hồn lẫn xác anh em trong hỏa ngục. Kính sợ Thiên Chúa là một trong bẩy ơn Chúa Thánh Thần, sẽ giúp chúng ta chiến đấu một cách kiên quyết hơn với tội lỗi, với tất cả những gì có thể chia rẽ chúng ta với Thiên Chúa. Đức kính sợ ấy sẽ nhắc nhở chúng ta xa tránh những dịp tội lỗi chớ quá tự tin vào chính mình, hãy luôn nhớ rằng bản thân chúng ta có một đôi chân đất sét, mỏng dòn dễ vỡ. Những sự dữ phần xác, ngay cả cái chết, cũng không thấm tháp gì khi so sánh với những sự dữ phần hồn, với tội lỗi.
Chúng ta không nên lo lắng bất cứ chuyện gì trừ ra lo sợ đánh mất Thiên Chúa. Nỗi lo sợ canh cánh này chính là tâm tình con thảo không muốn làm mất lòng Chúa. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta có thể trải qua nhiều thử thách lớn lao. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta nhiều ơn cần thiết để chúng ta chịu đựng vượt qua và lớn lên mãi trong đời sống nội tâm. Ơn của Ta đủ cho các con, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta như thế.
Đấng đã giúp thánh Phaolô xưa kia thì nay cũng giúp đỡ chăm sóc chúng ta những khi chúng ta chạy đến kêu cầu Thiên Chúa, khiêm tốn và tin tưởng: Lạy Chúa, xin Chúa đừng tin con. … nhưng con đây, con đặt hết lòng tin vào Chúa. Rồi khi chúng ta cảm thấy trong trái tim này cái nhìn yêu thương cảm thông và dịu dàng của Đức Kitô – vì Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta – chúng ta sẽ hiểu ra đầy đủ ý nghĩa của những lời thánh Phaolô tâm sự: ‘virtus in infirmitate perficitur’. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. (2Cor 12,9). Nếu chúng ta có đức tin vào Chúa Giêsu, mặc dù đã bao lần chúng ta làm lỡ – hay, đúng hơn, mặc dù chúng ta có biết bao lầm lỡ – chúng ta vẫn cứ trung thành với Thiên Chúa Cha chúng ta: quyền năng thần linh của Ngài sẽ chiếu sáng trên chúng ta, và luôn nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta.
Tuy nhiên, trong đời thường chúng ta sẽ phải sống mạnh mẽ và dũng cảm cả trong những chuyện nho nhỏ: những khi chúng ta lịch sự nhưng cương quyết từ chối một lời mời đi đến những chốn mà một Kitô hữu đàng hoàng sẽ cảm thấm bứt rứt khó chịu, những khi chúng ta phải mạnh dạn góp ý cho các giáo viên đang dậy dỗ con em chúng ta; những khi chúng ta phải cắt ngang câu chuyện nào đang đến hồi rẽ sang chuyện đáng ngờ hay những khi thấy có một cơ hội mời người bạn nào đó đi nghe hội thảo về đức tin, hay gợi chuyện dẫn tới cơ hội khéo léo khuyên nhủ ai đó đi xưng tội. Công việc tông đồ đầy tham vọng của chúng ta thường bị trì trệ hay đình đốn chỉ vì cái tính rụt rè nhút nhát trong những chuyện nho nhỏ như thế thôi. Và cũng chính nhờ những can đảm trong những việc nho nhỏ như thế mà cuộc sống chúng ta thêm nhiều hoa trái.
Trong giờ phút bị bỏ rơi bên thập giá, Đức Nữ Trinh Maria đã đứng đó bên Con mình, sẵn lòng cùng chung một số phận với con. Chúng ta hãy xua tan nỗi sợ sệt không dám sống như những Kitô hữu có trách nhiệm những lúc môi trường chúng ta đang sống không còn dễ dàng thuận lợi. Những lúc ấy Đức Maria sẽ đứng bên chúng ta, giúp đỡ chúng ta trong mọi cơn khốn khó.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khuyên nhủ chúng ta rằng:
– Đừng sợ hãi khi phải nói lên sự thật. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ngài sẽ ân thưởng cho chúng ta, nếu nếu chúng ta luôn trung thành với Ngài.
Đồng thời, Ngài cũng truyền dạy chúng ta:
– Đừng sợ hãi, trái lại hãy can đảm công bố Tin Mừng cho muôn dân. Hãy kêu to trên mái nhà và đừng giấu kín sự gì. Bởi vì một ngày kia, tất cả đều được bật mí, tất cả đều được phơi bày.
Đừng sợ hãi khi phải đứng trước mặt thiên hạ, bởi vì sự ác và đau khổ sẽ bị giới hạn trong thời gian và không thể nào giết hại được linh hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta không trung thành với sứ mạng Chúa đã trao phó, thì chỉ nên sợ hãi trước Đấng có thể ném cả thân xác lẫn linh hồn chúng ta xuống hỏa ngục mà thôi, bởi vì những kẻ độc ác nhất trên trần gian cũng không thể nào sát hại được linh hồn chúng ta.
Đừng sợ hãi con người, bởi vì con người không thể nào cướp mất khỏi tâm hồn chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Trong khi đó, Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta. Ngài đã nuôi từng con chim sẽ và đã đếm từng sợi tóc trên đầu. Chúng ta còn cao trọng hơn những con chim sẻ và quí giá hơn những sợi tóc bội phần. Ngài đã dành cho mỗi người chúng ta một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim của Ngài.
Bởi đó, hãy tin tưởng vào tình thương cũng như vào quyền năng của Ngài và đừng bao giờ chối bỏ Ngài. Vì chưng, tuyên xưng Ngài trước mặt người đời, thì sẽ được cứu thoát. Còn chối bỏ Ngài trước mặt người đời, thì sẽ bị trừng phạt.
Ngay trong lòng Giáo hội, cũng không thiếu gì những khuyết điểm, những sai lỗi, những lầm lạc, khiến cho chúng ta cảm thấy băn khoăn và bối rối.
Không phải chỉ có những kẻ thù đã tấn công Giáo hội, mà hơn thế nữa, nhiều lúc chính những người giáo dân hữu danh vô thực, mang tên gọi tín hữu, nghĩa là là có đức tin, hay mang tên gọi Kitô hữu, nghĩa là có Đức Kitô, nhưng lại chẳng bao giờ sống đạo, sống đức tin của mình. Hơn thế nữa, họ còn quay lưng chống lại Đức Kitô cũng như chống lại Giáo hội của Ngài, hay ít nữa là họ cũng đã chối bỏ Đức Kitô, chối bỏ Giáo hội từ thẳm sâu cõi lòng của mình.
Như thế, trong phạm vi đức tin, chúng ta thấy có hai loại nguy hiểm.
Loại thứ nhất, đó là những bắt bớ, cấm cách trực tiếp nhắm vào đức tin của chúng ta. Còn loại thứ hai, cũng không kém phần nguy hiểm, đó là những sự tấn công gián tiếp, vừa tinh vi lại vừa tế nhị, vốn thường được mặc lấy những hình thức, những lý do bên ngoài vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Chẳng hạn như để hoán cải thế gian, tôi phải đi sâu vào ngôn ngữ, vào tập tục, vào cách nhìn, vào cách nghĩ cũng như vào cách sống của thế gian, để rồi cuối cùng tôi đã bị nhận chìn lúc nào cũng không hay.
Trung thành gắn bó với Đức Kitô và Giáo hội bao giờ cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh, có khi phải hy sinh cả bản thân, cả mạng sống của mình, thế nhưng đó lại là điều kiện để được cứu độ, như lời Chúa đã phán:
– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rôma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và lớn nhất của họ là gì, người thì đề nghị nên gọi là “Thần giầu sang”, người thì cho rằng nên gọi là “Thần khôn ngoan”, người khác nữa đề nghị nên gọi là “Thần uy quyền”. Sau cùng, một ông nghị phát biểu: “Theo ý tôi, chúng ta nên gọi là “Thần nhân lành”, vì nếu chúng ta gọi là “Thần giầu sang” thì những người khó có gì? Nếu chúng ta gọi là “Thần khôn ngoan” thì những người bình dân, đơn sơ chất phác có gì? Và nếu chúng ta gọi là “Thần uy quyền” thì những người khiêm tốn có gì? Vậy chúng ta muốn vị thần ấy hợp với tất cả mọi người thì chúng ta chỉ có thể gọi là “Thần nhân lành”, mọi người đều hoan nghênh.
Đối với chúng ta, những người tin Chúa Kitô, thì hơn thế nữa, chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt đẹp biết bao khi gọi Thiên Chúa là “Cha nhân lành” của chúng ta. Người Hy Lạp, Rôma ngày xưa đã không biết Chúa là Cha. Thích Ca Mâu Ni không thấy Chúa là Cha, Mahômét cũng không hề rao giảng Chúa là Cha, cả dân Do Thái trong Cựu Ước không bao giờ có ý tưởng xưng hô Chúa là Cha. Đối với họ, Thiên Chúa là ông chủ nghiêm khắc, Đấng đã ban truyền những điều răn trong sấm chớp và ánh sáng, Đấng thẩm phán sửa dạy họ nghiêm khắc mỗi khi họ bất tuân hay phản bội, nhưng từ khi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Chúa là Cha, Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Thiên Chúa không phải là một ông chủ độc ác, nhìn chúng ta như bầy tôi, nô lệ, nhưng Chúa là Cha, Người luôn luôn săn sóc và yêu thương chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy rõ ý tưởng đó. Sau khi khuyến khích các môn đệ hãy can đảm và mạnh dạn công bố cho mọi người biết tất cả những điều Chúa đã dạy các ông trong nơi kín đáo, Chúa khích lệ các ông đừng sợ chi cả, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, vì Thiên Chúa là Cha, Đấng thông biết mọi sự và quan phòng tất cả.
Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn chúng sao?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Thánh Âu Tinh nói: “Lo lắng cho cả vũ trụ còn vĩ đại hơn làm cho năm ngàn người no nê bằng năm chiếc bánh, vậy mà chẳng ai lạ lùng về chuyện đó. Chúa săn sóc mỗi người dường như chỉ có một người đó ở trên đời và Chúa săn sóc tất cả mọi người dường như Chúa săn sóc cho một người”.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta như thế, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Đừng sợ không có nghĩa là đừng làm gì, đừng lo đến sinh kế, đừng cố gắng nỗ lực. Không, ngàn lần không. Đừng sợ không phải là như vậy, nhưng có nghĩa là cứ làm, cứ lo sinh kế, cứ cố gắng nỗ lực, đồng thời phải tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Nhưng như vậy có phải là chúng ta tin chắc vào đôi tay rắn chắc khỏe mạnh chăng? Tin vào tuổi đang lên, đầy sức sống nghị lực chăng? Hoặc cậy dựa vào những người khác? Không, vì đôi tay khỏe mạnh này ngày mai sẽ yếu đi, tuổi đôi mươi sẽ chóng qua, còn nghị lực thì rất mỏng giòn, còn những người khác mà chúng ta cậy dựa vào hôm nay thì thường hay thay đổi, thiếu thiện chí và làm sao họ có thể bảo đảm cho chúng ta lâu dài được. Ngoài những điều trên, chúng ta phải trông cậy vào một sức mạnh khác, có thể bảo đảm cho chúng ta hôm nay và mãi mãi về phần hồn cũng như phần xác, sức mạnh đó chính là Thiên Chúa, vì Ngài là Cha của chúng ta, Người hoàn toàn hiểu những nhu cầu, những thiếu thốn, những ước mơ của chúng ta và Người biết những điều nào thích hợp và cần thiết cho chúng ta hơn. Cho dù một người mẹ trần gian chăm chỉ nhất, yêu thương con cái nhất, còn có thể không biết đến một vài nhu cầu của con mình, bà có thể quên sót, nhầm lẫn trong việc lo liệu hoặc lâm vào tình trạng không thể giúp đỡ con mình được. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ lâm vào tình trạng như thế. Do sự quan phòng, Ngài biết, Ngài thấy và Ngài có thể làm được tất cả.
Tuy nhiên, để được Thiên Chúa yêu thương săn sóc như thế, Chúa đòi chúng ta phải tin tưởng vào Chúa, tuyệt đối tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa, Người là Cha của chúng ta, Người luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.
“Đừng sợ chi cả!”. Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ thể hiện, đồng thời là lời Ngài động viên mỗi chúng ta. Và đó cũng là nỗi lòng không của riêng ai!
Trong ca khúc “Hát Nữa Đi Em” (Thanh Sơn – Phố Thu) có một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Đời ai không có những tâm sự buồn?”. Dạng câu “phủ định nghi vấn” được sử dụng để làm mạnh nghĩa cách nói xác định, nghĩa là ai cũng có những nỗi lòng thầm kín “không biết tỏ cùng ai”. Chắc chắn nhứ thế! Chỉ có Thiên Chúa biết, bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự (1Cr 12:4-6), và vì vậy, chúng ta đừng ngần ngại tâm sự với Ngài về khúc nhôi của riêng mình.
Trình thuật Gr 20:10-13 nói về tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’. Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”. Ông Giêrêmia bị người ta ghét và đặt cho một nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng”. Cái lên nghe rất “kêu”, và nó cho thấy rằng thiên hạ ghét ông đữ lắm!
Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên”. Cây ngay không sợ chết đứng. Có ít xít ra nhiều, thậm chí người ta còn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại miệng “dựng đứng” câu chuyện gì đó, đúng là giết người không cần dao, cái lưỡi thật đáng sợ!
Với bản tính nhân loại, thấy mình bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không thù hận kẻ đã ghét bỏ mình. Ông Giêrêmia cũng có cảm giác như vậy, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”. Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng giữ được niềm tin khi người khác ghen ghét mình là điều không dễ chút nào.
Với tâm trạng đau khổ, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thoá mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Tv 69:8-10). Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Chẳng làm sao vừa lòng hết mọi người. Đời là thế! Chấp nhận thực tế đó để lòng mình thanh thản.
Hãy noi gương Thánh Vịnh gia tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14). Đừng lo sợ chi, bởi vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người” (Tb 13:2).
Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17). Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe, vẫn biết nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến” đó thôi. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35).
Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Kitô Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn cùng một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet).
Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14). Vì sai lầm mà sinh ra luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế con ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời.
Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh.
Kiếp phàm nhân là những chuỗi giằng co giữa thiện và ác, lành và dữ, yêu và ghét, tội và phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua chính mình. Đó là nỗi niềm chung của chúng ta, những người mặc xác phàm trong cuộc lữ hành trần gian này. Không hề đơn giản, nghĩa là vô cùng nhiêu khê, vì thế mà chúng ta luôn phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – trước tiên là phải chiến thắng chính mình, vì chính mình là nội gián nguy hiểm nhất. Đúng như tiền nhân dạy: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình.
Cả trình thuật Mt 10:26-33 (tương đương Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu, Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai, nghĩa là không sợ chi cả. Trong đó, Ngài đưa ra ba cái “đừng” và muốn chúng ta phải cố gắng thực hiện.
Cái “đừng” thứ nhất: “Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.
Cây kim để trong bọc lâu ngày còn bị lòi ra kia mà. Thế thì chắc chắn chẳng có gì giấu nổi, mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách này hay cách nọ. Thẳng thắn thì chẳng làm gì phải sợ ai, chỉ những ai “cong queo” thì mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Cái “đừng” thứ nhì: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Chúa Giêsu bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thoải mái thì lẽ nào Ngài lại làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (x. St 1:26-27) chứ? Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi trên đầu mỗi người kia mà! Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta tin tưởng và phó thác, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định mọi sự.
Cái “đừng” thứ ba: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Gọi là cái “đừng” thứ ba nhưng không thấy chữ “đừng”. Theo ý thì chúng ta thấy Chúa Giêsu bảo “đừng” chối Ngài. Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, còn ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói thẳng rằng “tôi không tin”, nhưng qua động thái có thể chứng tỏ sự chối bỏ Ngài.
Ai hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa sẽ bị chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Kh 21:8). Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai”, nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh (x. Kh 20:14-15).
Nỗi lòng của tín nhân luôn được Thiên Chúa lắng nghe và thấu hiểu, còn nỗi lòng của kẻ bất tín thì bị lãng quên mãi mãi!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài thấu suốt nỗi lòng của con, dẫu con ngồi hay đứng, con cười hay khóc. Xin thương cứu con thoát khỏi mọi mưu ma chước quỷ, dù đêm hay ngày. Xin hướng lòng con lên tới Ngài, mọi nơi và mọi lúc. Ngài tri thức siêu phàm, con không thể hiểu nổi, nhưng xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi thứ theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
24. Đừng sợ – Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có thứ tình cảm sợ hãi. Như vậy, tự bản chất con người đã có sẵn tính sợ hãi. Ai cũng có nỗi sợ hãi. Còn sống trên đời là còn sợ. Không sợ cái này thì sợ cái khác. Không sợ người này thì sợ người kia. ‘Trẻ sợ ma, già sợ chết’. Đàn bà con gái thì sợ xuống sắc lắm. Họ mong đến tuổi hồi xuân may ra còn cứu vãn được ít nữa!
Trong Kinh thánh có rất nhiều lần Thiên Chúa phán ‘đừng sợ’. Thời cựu ước, nhiều vị ngôn sứ khi được Thiên Chúa chọn gọi cũng thoái thác vì sợ hãi, nhưng Thiên Chúa luôn bảo họ rằng: đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi. Mẹ Maria khi được sứ thần báo tin sẽ mang thai Chúa Giêsu cũng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an: ‘Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”(Lc 1,30). Khi Chúa Giêsu hiện ra trên mặt biển, các tông đồ sợ hãi tưởng là ma, Chúa bảo: chính Thầy đây, đừng sợ!
Tin Mừng Mt 10,26-33 Chúa Giêsu nhắc tới ba lần “đừng sợ”. Chúa Giêsu đã thấy trước những nỗi khó khăn, thử thách, gian truân bách hại mà các môn đệ sẽ phải đương đầu với những thế lực trần gian nên Ngài đã trấn an các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết giết thân xác mà không giết được linh hồn”. Ngài đã từng cầu nguyện rất nhiều cho các môn đệ, vì Ngài biết giữa họ và thế gian trái ngược nhau cho nên thế gian sẽ ghen ghét, vu khống, đánh đòn và giết hại các môn đệ của Chúa. Nhưng nếu đã chấp nhận làm môn đệ Chúa thì không sợ chi cả.
Thấy trước sự bắt bớ các tông đồ sẽ phải đương đầu cho nên Chúa Giêsu trấn an: đừng sợ. Lời trấn an này không chỉ dừng lại là lời an ủi, động viên, khích lệ mang tính tâm lý giao tiếp mà là một lời có kèm theo sức mạnh đồng hành của Chúa ‘vì có Ta ở với ngươi’ mà. Đây là một loại sức mạnh sánh ngang tầm với vũ khỉ bảo hộ được trao gửi làm hành tranh khi các ông phải đơn thân độc mã chống chọi với mọi nghịch cảnh éo le. Chính vì thế, sau này, hầu như chẳng môn đệ nào sợ hãi trước sức mạnh của thế gian, của kẻ thù bách hại.
Ngày 22/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II khởi đầu sứ vụ Phêrô đã nói: ‘đừng sợ’! Ngày 24/4/2005 ĐTC Bênêđictô XVI khởi đầu sứ vụ cũng nhắc lại và thêm: ‘Tôi không cô đơn, tôi không phải gánh vác một mình, điều mà thực ra tôi không bao giờ gánh vác nổi. Và lời cầu nguyện của anh chị em, những bằng hữu thân mến của tôi; lòng sốt mến, đức ái đức tin đức cậy của anh chị em đồng hành với tôi’.
Đặc tính của người lãnh đạo là can đảm và bình tĩnh. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Nếu sợ hãi bỏ chạy thì đoàn chiên sẽ tan tác. Các giám mục, linh mục, cha ông chúng ta đã không sợ hãi bỏ chạy khi có lệnh cấm đạo.
Chúa Giêsu thấy chúng ta thường hay sợ hãi nên Ngài trấn an ‘đừng sợ’. Chúng ta được cấp trên giao nhiệm vụ và bảo đừng sợ thì sẽ cảm thấy bình tĩnh, an vui, can đảm thi hành nhiệm vụ. Người môn đệ Chúa là người công bố niềm hy vọng và sự sống cho mọi người bằng lời nói và việc làm, cho nên phải can đảm: nếu thế gian, xã hội này sống gian dối, không muốn sống trong sự thật, chúng ta phải minh chứng về Tin mừng của Chúa là sự thật. Nếu thế gian tối tăm không muốn tiếp nhận ánh sáng, sợ những hành động đen tối bị phơi bày, chúng ta hãy minh chứng cho họ về Tin mừng là sự sáng thế gian. Nếu thế gian sống chia rẽ, hận thù, không yêu thương kẻ thù, chúng ta hãy minh chứng về Tin mừng là tình yêu. Nếu thế gian tranh giành nhau, đấu đá nhau thậm chí chém giết nhau để đạt của cải, danh vọng, chức quyền, chúng ta hãy minh chứng cho họ biết về Tin mừng cứu độ có sức giải phóng tất cả. Cha Charles de Foucauled nói: ‘cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là không bao giờ sợ hãi gì cả’.
Đức Tổng giám mục giáo phận San Salvador – Oscar Rômêô không chấp nhận bất công xã hội, mỗi chủ nhật ngài giảng đều tố cáo tội ác mà đa số do các viên chức chính phủ. Lời của ngài ảnh hưởng rất lớn tới xã hội. Khi ngài giảng mọi người ngưng việc lắng nghe. Tính mạng của ngài bị đe doạ. Một vài người bạn bè của ngài bị giết. Ngài vẫn không im tiếng, không trốn đi nơi khác. Ngài nói: ‘một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi’. Và ngài đã bị bắn chết dưới làn đạn vào tháng 3/1980 lúc đang dâng thánh lễ.
Số phận đời đời của chúng ta cũng tuỳ thuộc vào tư cách sống chứng nhân cho Lời Chúa, chứ không phải trên tư cách là một người mang một tên gọi cho dẫu tên gọi ấy hay lắm, đẹp lắm, xứng đáng lắm. Chúa đã từng từ chối dứt khoát những kẻ chỉ thờ kính Ngài bằng môi miệng còn lòng dạ thì xa Chúa. ‘Hãy xéo đi hỡi quân làm điều gian ác. Ta không biết các ngươi là ai’.
‘Vì phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời'(Mt 10,33). Chắc chắn chúng ta phải sợ Đấng ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: ‘nhưng có Chúa ở với tôi như một chiến sĩ oai hùng, nên những kẻ tìm hại tôi sẽ phải lảo đảo và không thắng nổi tôi’. Đó là niềm xác tín của một ngôn sứ, một nhân chứng. Và không một nhân chứng nào thoát khỏi con đường gian nan, bấp bênh. Vậy nếu trong cuộc sống đề cao tình nghĩa yêu thương mà chúng ta gặp những gian nan thử thách, trù dập, vu cáo, chống đối…đó là những dấu chỉ chắc chắn nhất chúng ta đã đi đúng con đường của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta đã không sợ hãi thì hãy can đảm rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm ở tất cả mọi nơi mọi lúc.
Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.
Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau: “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi”. Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra đúng vấn đề của chúng ta khi nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.
Phúc âm hôm nay tiếp tục những hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các tông đồ khi Ngài sai họ ra đi loan truyền Tin Mừng của Vương Quốc Thiên Chúa. Những giá trị của Tin Mừng rất khác biệt với những giá trị của trần thế. Do đó sứ điệp của Tin Mừng và ngay cả những người loan tin cũng thường bị người đời từ chối và chống báng. Lịch sử của Giáo Hội đã chứng minh rằng hầu như tất cả các tông đồ đã bị giết chết một cách thê thảm. Thánh Phêrô và Anrê đã bị đóng đinh trên thập giá. Thánh Gioan Tiền Hô, Giacôbê và Phaolô đã bị chặt đầu. Thánh Barthôlômêô đã bị lóc thịt lột da. Thánh Stêphanô bị ném đá chết… Vì thế, các tông đồ sợ hãi khi phải thi hành sứ mạng trong một thế giới thù nghịch là điều rất tự nhiên. Nhưng nếu vì sợ hãi để cứu lấy xác thịt mà bỏ rơi việc rao giảng Tin Mừng lại là một nguy hiểm nữa. Do đó Chúa Giêsu đã hướng dẫn họ làm thế nào chiến thắng nỗi sợ hãi này. Điều chính yếu là hãy nhìn vào chính Chúa Giêsu như một vị anh hùng gương mẫu như Ngài đã dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ”.
Phúc âm đưa ra hai sự sợ hãi: sợ bị tố cáo gian, bị tuyên án, và sợ bị hại thân xác, bị chết. Trong bất cứ trường hợp nào, Chúa Giêsu dạy họ phải chiến thắng sự sợ hãi bằng cách tập trung tâm trí vào, không phải đời này và bây giờ, nhưng vào Vương Quốc Thiên Chúa sẽ đến mai sau. Phải có sự phó thác tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo số 303 đã nói: “Thánh Kinh nhất trí làm chứng rằng: sự ân cần chăm lo của Chúa quan phòng thì cụ thể và trực tiếp. Ngài chăm lo cho mọi sự vật, từ những sự vật bé nhỏ nhất đến những biến cố lớn lao nhất của vũ trụ và của lịch sử”. Đúng như lời Chúa phán: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”.
Một mục sư cùng với một nhóm học sinh từ Canađa đi sang Kenya – một quốc gia ở phía đông Phi Châu – theo chương trình huấn luyện về truyền giáo vào mùa hè. Họ sử dụng chiếc xe Jeep để có thể lái đến những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Trong một chuyến viếng thăm nọ, chiếc xe Jeep bị hỏng và họ phải mướn những người thợ máy địa phương trong làng sửa chữa giùm. Người thợ máy đã tìm ra chỗ hỏng nhưng phải đi lên tỉnh để mua đồ phụ tùng về thay thế, rồi mới trở về để sửa xe được. Anh phải làm việc vất vả suốt ba ngày mới sửa được chiếc xe Jeep.
Mục sư kể rằng vì sợ công việc sửa chữa này quá tốn kém, ông tìm cách bắt ép anh thợ máy địa phương tính giá rẻ. Ông đã đi vào trong phòng vệ sinh, lấy gần hết số tiền đang có trong ví ra và dấu vào trong hai đôi vớ. Ông làm vậy với ý đồ là khi người thợ máy nói với ông số tiền phải trả, ông sẽ mở ví ra và nói: “Anh hãy nhìn xem, đây là tất cả số tiền của tôi có”. Sau đó, ông đi khỏi phòng vệ sinh và sẵn sàng lên đường. Ông nói với anh thợ máy,:Và bây giờ, anh tính bao nhiêu tiền công sửa xe?” Anh thợ máy nhìn mục sư và nói: “Thưa mục sư, ngài là người của Thiên Chúa. Tôi làm việc này cho Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ trả công cho tôi. Đối với ngài thì miễn phí, khỏi tính tiền”. Mục sư kết thúc câu chuyện với lời thú nhận rằng anh thợ máy, qua đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đã chiến thắng được nỗi sợ hãi của sự nghèo nàn và sự dính bén tới tiền bạc, mà chính ông, một nhà truyền giáo đã không thể làm được việc đó.
Trong phần mở đầu của cuốn sách suy niệm có tựa đề là “St. Teresa’s bookmark”, “Cái đánh dấu trang sách của thánh têrêsa” đã ghi những lời sau đây: “Đừng để điều gì quấy rối bạn, đừng để điều gì làm bạn sợ hãi. Tất cả mọi sự sẽ qua đi, còn Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Kiên trì đạt được tất cả. Đối với người có Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì – chỉ mình Thiên Chúa là đủ”.
Những lời này cũng tóm tắt đầy đủ ý nghĩa của những bài Thánh Kinh trong thánh lễ hôm nay dạy ta phải tin tưởng vào tình yêu, sự quan phòng và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ từ bỏ những ai trung thành với Ngài.
Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.
Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được”. Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết: “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu”.
Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.
Cũng giống như thánh nữ Têrêsa Avila, sự nghiệp của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất, cũng bị sàng sẩy bởi vô số những kinh nghiệm ngập tràn sợ hãi. Khi được Thiên Chúa gọi, ông sợ mình còn quá trẻ. Ông sợ không biết phải nói gì và nói thế nào để dân chúng biết ông nói nhân danh Thiên Chúa. Ông sợ phải đối chọi với những người khác về sự thật tội lỗi của họ. Ông sợ phải nói lời của Thiên Chúa. Ông sợ vì không nói lời của Thiên Chúa và khi đã nói ra ông lại sợ những hậu quả của hành động của mình. Nhưng sau cùng nhờ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa tiên tri đã hát lên rằng: “Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau: “Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi.
Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra.
Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa”. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”.
27. Thân phận – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Đâu là thân phận con người giữa trời đất? Cao cả hay thấp hèn? Vĩ đại hay tầm thường? Sâu sắc hay hời hợt? Can đảm hay nhát sợ? Tất cả chỉ tìm được câu trả lời trong Đức Giêsu Kitô.
ĐỪNG SỢ !
Có nhiều mãnh lực đang đe dọa mạng sống con người. Thiên nhiên, muông thú v.v. đều dễ dàng áp đảo con người bé nhỏ và yếu đuối. Nhưng những mãnh lực đó không đáng sợ bằng chính con người. Vì sợ hãi có người chấp nhận mọi điều kiện để bảo toàn mạng sống, dù phải bán rẻ linh hồn, danh dự v.v. Vì sợ hãi, nhiều người không dám làm gì, chỉ khoanh tay nhìn thời sự xoay vần. Đúng là hạng chết nhát ! Tệ hơn nữa, nỗi sợ còn đẩy nhiều người vào con đường gian ác, ngu xuẩn, phản bội. Trước những sợ hãi phi lý đó, Đức Giêsu trấn an: “anh em đừng sợ người ta.” (Mt 10:26) Người nhấn mạnh: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt 10:28) Nếu có phải sợ, chỉ nên sợ một mình Thiên Chúa, vì Người là “Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10:28)
Nhưng Thiên Chúa không muốn đối xử với các tín hữu với bộ mặt ghê sợ đó. Trái lại, “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:16) Bằng chứng, “ngay tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (Mt 10:30) Người săn sóc từng người. Người làm bá chủ chim trời cá biển, tới mức “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” (Mt 10:29) Chính Thiên Chúa đã làm cho “anh em quí giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10:31) Thực ra, giá trị cuộc sống không đo bằng số lượng vật chất, nhưng bằng chính niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nếu tất cả không xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa, tại sao phải sợ hãi trước các mãnh lực đe dọa con người? Chính cái chết là đầu mối sinh ra mọi sợ hãi nơi con người. Thực vậy, “vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết.” (Rm 5:15) Nhưng “tử thần đã bị chôn vùi.” (1 Cr 15:54) “Thực vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1 Cr 15:25) Nếu tử thần không lướt thắng nổi Người, thì những người trông cậy Chúa còn phải sợ chi nữa? Nhưng nếu không sống trong nguồn ân sủng là Thiên Chúa, con người chỉ còn sợ hãi. Chẳng có sức mạnh nào lấn át được Thiên Chúa ! Vậy mà Thiên Chúa dùng tất cả sức mạnh tình yêu nhằm bảo vệ con người. Vượt qua nỗi sợ hãi bình thường, các môn đệ sẽ can đảm dấn thân làm chứng cho Chúa trước muôn dân. Với cánh tay hùng mạnh, Thiên Chúa “đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo,” (Gr 20:13) để trở thành nguồn hi vọng độc nhất của toàn thể nhân loại.
Chỉ niềm tin mới mạc khải tất cả lý do tại sao có niềm hi vọng lớn lao. Càng tin tưởng vào Thiên Chúa càng không lo sợ. Thực vậy, “ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15) Chính nguồn ân sủng lớn lao đó khiến chứng nhân can đảm leo “lên mái nhà rao giảng điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm hay điều anh em nghe rỉ tai.” (Mt 10:27) Lời giảng phải bộc lộ tất cả niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa. Tất cả định mệnh con người tín hữu đều tùy thuộc vào sứ mệnh rao giảng. Thực vậy, công cuộc Phúc âm hóa nhân loại hôm nay không thể hoàn thành, nếu người tín hữu không dấn thân tích cực vào việc làm chứng cho Đức Kitô. Bởi thế, Chúa mới nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,” (Mt 10:32) Nhờ những tiếng nói gan dạ đó, cả nhân loại sẽ bừng tỉnh trước Tin Mừng được các chứng nhân mạnh dạn “nói ra giữa ban ngày.” (Mt 10:27)
MỘT CHỨNG TỪ CAN ĐẢM
Càng suy nghĩ càng thấy các chứng nhân Tin Mừng có đủ lý do vượt lên trên mọi sợ hãi để “rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.” (2 Tm 4:2) Mỗi thách đố đều thức tỉnh Giáo Hội và làm nảy sinh những phương pháp Phúc âm hóa mới lạ, phù hợp với các biến chuyển trên thế giới. Hôm nay, cuộc rao giảng Tin Mừng đang gặp thách đố lớn tại Hoa Kỳ vì vấn đề lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ Hoa Kỳ. Đứng trước vấn đề đó, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ có đưa ra những giải pháp hợp tình hợp lý không? Giáo Hội đã làm gì trước sức tấn công như vũ bão của lực lượng truyền thông, mà không đánh mất nét Tin Mừng trên khuôn mặt của mình?
Như Đức Giêsu, Giáo Hội phải thể hiện được nét nhân từ ngay khi phải chiến đấu quyết liệt. Trước hết, ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga giáo phận Tegucigalpa, Honduras, đã lên tiếng tố cáo giới truyền thông Hoa Kỳ và nêu đích danh ông Ted Turner, người sáng lập đài CNN, “người công khai chống Công giáo.” Các tờ báo New York Times, Washington Post, và Boston Globe đang áp dụng các chiến thuật giống như các bạo chúa Diocletian, Neron, Stalin và Hitler để bách hại Giáo Hội (CWNews 11/06/02).
Trước cơn bách hại của giới truyền thông, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Trong suốt buổi họp tại Dallas, các ngài không ngừng khẩn nài Thánh Linh trợ giúp. Kết quả những biện pháp đã được công bố để đề phòng các vụ vi phạm tính dục trẻ em. Các ngài đã chính thức xin lỗi các nạn nhân và gia đình của họ. Một chính sách cấm các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em thi hành công vụ, kể cả việc dâng lễ và phục vụ trong các hội từ thiện Công giáo. ĐGM Wilton Gregory nói: “Từ nay trở đi, những người bị phát giác vi phạm tính dục trẻ em sẽ không được làm việc trong Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nữa.” (Zenit 14/06/02) Nhưng các giám mục quyết định các linh mục lạm dụng không tức khắc bị loại khỏi hàng ngũ linh mục như chính sách “bất khoan dung” đề ra. Các linh mục đó có thể bị đẩy về hàng ngũ giáo dân, nhưng tiến trình tùy thuộc vị giám mục chủ chăn, cùng với ban cố vấn chủ yếu là giáo dân. ĐHY Anthony Bevilacqua giáo phận Philadelphia đã trả lời Hội Nhà Báo: chính sách đó phản ánh nhu cầu tỏ bày “tấm lòng cảm thông của Đức Kitô” đối với các linh mục. (Zenit 14/06/02) Thế là giới truyền thông đã vô tình tạo cơ hội cho Tin Mừng được rao giảng qua thái độ bao dung và nhân hậu của Giáo Hội.
Phải chăng đây cũng là cơ hội cho các linh mục nhận thức rõ về chính mình như những “thừa tác viên của lòng nhân hậu” hay như “chứng nhân của lòng Thiên Chúa xót thương.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) ĐHY Cipriani kêu gọi các linh mục hãy phục hồi tất cả giá trị của bí tích giao hòa như tặng phẩm của lòng Thiên Chúa xót thương. Sứ mệnh và lẽ sống của linh mục “là một dụng cụ sống động của ân sủng Thiên Chúa.” (Zenit 17/06/2002) Giáo Hội là điểm qui tụ những “thừa tác viên phục vụ lòng tha thứ của Thiên Chúa.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) Có thể thấy rõ chứng từ ấy trong cách Giáo Hội Hoa Kỳ đối xử với các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Thánh Mátthêu ghi chép rất rõ, đây là Lời Chúa Giêsu dành cho Mười Hai Tông Đồ, bài học căn bản này là bài học để cho các Tông Đồ lo công việc sứ mạng Tin Mừng của Chúa trao cho. Ngài cho biết thời gian gian truân khổ ải còn trổi vượt hơn cực hình mà ngôn sứ Giêrêmia phải làm chứng thời xưa. Thiếu niềm tín thác, người được sai đi rao giảng Tin Mừng sẽ sống trong hồi hộp lo sợ không ngừng, sợ phải nói lên sự thật, sợ người có thế lực hành hạ: “Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con”.
Câu kết thúc bài học của Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nghe như dễ, nhưng thực hành điều ấy không dễ: “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên trời. Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời.”
Các Tông Đồ Chúa đã vâng lệnh loan truyền Lời Chúa khắp nơi, không giấu diếm điều gì, các ngài loan truyền điều gì đã nghe và đã thấy khi thụ huấn nơi Chúa Giêsu. Bài học Phúc Âm hôm nay thực hành qua các thế hệ kế tiếp các Tông Đồ, không những hàng Giám Mục là những người thừa kế sứ mạng các Tông Đồ, mà cả đến những người thấp kém nhất trong Hội Thánh của Chúa Kitô. Nhớ lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta sẽ cảm phục lòng tín thác anh dũng của các ngài, dù sống trong cơ cực, dù gông cùm, dù bị hành hình khủng khiếp, các ngài không hãi sợ nhưng vẫn một lòng cậy tin, và các ngài còn hát lên để ca khen Danh Chúa Kitô trước án tử hình của các ngài.
Nhưng nếu các bạn chưa tin yêu Ngài, chúng ta cũng đừng hãi sợ, vì Chúa Giêsu dặn như thế, vì chính sợ hãi sẽ làm cho chúng ta mất can đảm, mất bình tĩnh.
Đức Phật đã tu luyện cao thâm, một hôm có một tên cướp giết người đến hăm dọa mạng sống của ông, ông nói với tên cướp ấy rằng, khi anh giết tôi, xin anh thỏa mãn nguyện vọng cuối cùng đời tôi, là anh hãy chặt đứt cành cây kia đi.
Chỉ một lát gươm cành cây rơi xuống đất.
Tên cướp nạt lớn: “Còn gì nữa?”
Đức Phật bình tĩnh nói: “Bây giờ xin anh ráp cành cây ấy lại với thân cây như cũ”.
Tên cướp cười ngất: “Ông điên hả, chỉ có người điên mới làm như ông bảo”.
“Anh chính là người điên ấy, vì anh hành động ấu trĩ quá. Anh có biết rằng, người có thế lực là người biết xây dựng và là những người có thể chữa lành được”.
Thánh Kinh đồng hóa Thiên Chúa với sự khôn ngoan thượng trí, nếu chúng ta cầm, đọc và nghiền ngẫm Thánh Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều hữu ích cho cách xử thế của chúng ta hằng ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đừng sợ hãi, hãy tín thác vào Chúa”. Nếu bạn quá lo sợ, bạn sẽ làm hại chính bản thân.
Ngày nọ Dịch Tả vội vã đến làng Damas, dọc đường gặp nhóm người đi buôn bán, anh trưởng đoàn ấy hỏi:
– Anh đang tính làm kế hoạch gì vậy?
Dịch Tả đáp rằng:
– Tôi đi lấy một ngàn mạng sống tại làng Damas.
Xong việc Dịch Tả trở về, gặp lại nhóm trưởng giả ấy, họ cật vấn:
– Anh nói chỉ giết một ngàn người, nhưng sao đến mười ngàn người chết?
Dịch Tả mỉa mai:
– Tôi chỉ giết đúng một ngàn thôi, phần còn lại là do họ quá sợ hãi mà bị chết đó thôi.
Trong các cuộc di tản bởi chiến tranh, trong các biến cố do thiên tai khủng khiếp, kê ra số người chết vì sợ gấp nghìn lần số người chết vì bom đạn và thiên tai.
Chúa Giêsu hiểu rất rõ tâm trạng sợ sệt của chúng ta, đặc biệt của các đồ đệ của Ngài, nên khi vừa sống lại, Ngài đã đến đem bình an cho họ và đã trao ban Thánh Thần cho họ. Khi lãnh nhận Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống, Phêrô đã can đảm đứng lên rao giảng Tin Mừng và tiếp theo đó các sứ đồ đã hãnh diện vì được chịu khổ nhục và cực hình vì Danh Chúa.
Cọp chết để da, ta chết để sống. Người Kitô hữu chúng ta sống vì Tin Mừng của Chúa Kitô, và những ai tìm biết Chúa Kitô, sống Tin Mừng Chúa Kitô, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ giữ lời hứa, Ngài sẽ giới thiệu chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha, để chúng ta được Chúa Cha nhìn nhận chúng ta và chúng ta được sống hạnh phúc.
Suy Niệm
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.
Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ. Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai. Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly…
Có những nỗi sợ mang tính đạo đức: sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật, sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một…
Có khi người ta sợ nhau: người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu, bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.
Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha, nhưng như mộ nô lệ trước một ông chủ khó tính.
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do.
Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ.
Đừng sợ người đời, cứ mạnh dạn nói Lời Chúa (c.27).
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác thôi (c.28).
Đừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Chúa (c.23).
Lắm khi Đức Giêsu đến với các môn đệ mà họ lại sợ hãi, tưởng là ma (Mt 14,27; Lc 24,37).
Nhưng sợ hãi cũng là chuyện bình thường của phận người.
Có ai làm người mà không một lần sợ hãi.
Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (Ga 14,1) nhưng chính Ngài cũng xao xuyến trước cuộc khổ nạn.
Tin Mừng Gioan hai lần nhắc đến điều đó (Ga 12,27; 13,21).
Đức Giêsu xao xuyến đến tột cùng trong Vườn Dầu: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26,37-38), và có lẽ Ngài cũng bị xao xuyến trên thập giá: “Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mt 27,46).
Sợ hãi, xao xuyến không phải là một tội.
Kitô hữu không phải là người không biết sợ, hay không dám khiêm tốn thú nhận là mình sợ. Nhưng họ là người không để nỗi sợ chi phối đời mình, không vì sợ mà không dám sống cho chân lý.
Đức Giêsu nói tiếng Xin Vâng ngay trong lúc sợ hãi và đã uống cạn chén đắng Cha trao.
Con người hôm nay an toàn nhờ đủ thứ bảo hiểm, nhưng bảo hiểm cũng bắt nguồn từ nỗi sợ cái bất trắc.
Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ riêng.
Cần đối diện và vượt qua bằng lòng tín thác, để rồi được an tĩnh và tự do.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài là Cha chúng ta, chăm lo đến từng sợi tóc cho ta, và chúng ta có giá trị lớn lao trước mặt Ngài.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào đời sau. Cái chết thân xác không là dấu chấm hết của đời người.
Cuối cùng, chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào Đức Giêsu, Đấng không bị sợ hãi nuốt chửng và đã đi tới cùng.
Đấng phục sinh vẫn mời gọi chúng ta hôm nay: “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
- Bạn thấy người trẻ hôm nay sợ điều gì hơn cả? Để thắng vượt nỗi sợ cần làm gì? Cầu nguyện thôi, có đủ không? Cố gắng thôi, có đủ không?
- Chấp nhận sống ơn gọi Kitô hữu là chấp nhận thiệt thòi ở đời này. Có khi nào bạn đã muốn chọn thiệt thòi để nói lên hay sống một chân lý của Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
- Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường.
- Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.
- Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.
- Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
- Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta còn nhớ: khi sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông đừng mang theo bao bị, bạc tiền, nghĩa là Ngài đòi các ông phải ra đi trong một tình trạng bấp bênh nhất. Sở dĩ như vậy là để các ông tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Ngài.
Chúng ta cũng thế. Sống giữa những gian nan và thử thách, khổ đau và hiểm nguy, rất có thể chúng ta sẽ bị gục ngã. Tuy nhiên, nếu có chết, thì cũng chỉ là một cái chết về phần xác mà thôi.
Thế nhưng, đối với những người có đức tin, nhận biết giá trị đích thực của linh hồn, thì cái chết này không đáng sợ. Thân xác có chết nhưng giữ được linh hồn là giữ được tất cả. Trái lại, mất linh hồn là mất hết.
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng để tâm lo lắng cho thân xác một cách thái quá, mà lãng quên phần linh hồn của mình, đúng như lời Chúa đã cảnh báo:
– Tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu đuối.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Đối với chúng ta thì khác. Là người Kitô hữu, chúng ta tin tưởng vào việc quan phòng của Chúa. Chúng ta xác tín rằng Ngài hằng yêu thương và chăm sóc chúng ta.,
Đó không phải là một sự quan phòng yếu ớt đến độ Ngài không thể trợ giúp chúng ta được gì cả, nhưng là một màu nhiệm phong phú và ngập tràn tình thương. Chúng ta có một người Cha trên trời. Ngài là nguồn mọi tình phụ tử. Nếu một người cha phần xác mà còn biết yêu thương và chăm sóc cho con cái mình, thì huống nữa là Thiên Chúa, người Cha chúng ta ở trên trời, Ngài dư quyền năng và ngập tràn tình thương, lẽ nào Ngài lại chẳng đoái nhìn và chăm sóc cho con cái mình hay sao?
Là con Thiên Chúa, chúng ta có quyền được Ngài gìn giữ và chở che. Bởi đó, chúng ta phải biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Nước Thiên Chúa hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, rồi sau đó mới đến những tạo vật khác.
Và những thụ tạo ấy cũng phải được chúng ta nhìn dưới ánh sáng của Chúa. Chim trì không gieo không gặt, mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi ăn. Cánh hoa đồng nội không dệt không may mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và tô điểm bằng những màu sắc lộng lẫy. Vậy chúng ta lại chẳng đáng giá hơn chim trời và cánh hoa đồng nội đó sao?
Dù gặp phải cảnh nghèo túng hay gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn có thể vui mừng cảm tạ Chúa vì Ngài biết những việc Ngài làm và những sự chúng ta cần đến.
Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em:
– Con có đau lắm không?
Em trả lời:
– Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.
– Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không?
– Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.
Và cha Vianney đã nhận xét:
– Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa.
Riêng trong lãnh vực tông đồ truyền giáo, chúng ta hãy ý thức: Chúng ta là những thành viên trong “công ty” của Chúa. Việc chúng ta làm là việc của Chúa. Chính Chúa mới là Đấng quản trị mọi sự. Ngài là người đầu tiên bị thiệt thòi hay được hưởng lời. Ngài là người chịu trách nhiệm nhiều nhất.
Do đó, cuộc sống của chúng ta liên hệ tới Ngài nhiều hơn là liên hệ tới chính bản thân chúng ta. Không có điều gì xảy ra ngoài ý muốn của Ngài. Ngài điều khiển mọi việc chúng ta làm. Chúng ta thành công là chính Ngài thành công. Chúng ta thất bại là chính Ngài thất bại.
Từ đó, Chúa luôn đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta hai thái độ chính yếu:
– Thái độ thứ nhất, đó là phải thừa nhật quyền ưu tiên của Chúa, của Nước Trời. Đây phải là việc chúng ta lo liệu trước tiên vì chỉ có Ngài, chỉ có nước Ngài mới đáng kể. Giữ được linh hồn mình là giữ được tất cả. Còn mất linh hồn là mất hết.
– Thái độ thứ hai, đó là phải xác tin rằng Chúa sẽ không bao giờ để cho chúng ta phải thiếu những gì chính đáng và cần thiết. Và nếu có thiếu chăng nữa, thì ơn lành của Ngài cũng sẽ bù lại. Vậy hãy để cho Chúa hành động và hướng dẫn dòng đời chúng ta.
Với hai thái độ trên, chúng ta có thể mỉm cười và cảm tạ Chúa giữa những đau khổ và thử thách mình phải gánh chịu.
Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.
Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích:
– Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.
– Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?
Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên:
– Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.
Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”.
Vâng, chính tình yêu hoàn hảo dành cho những người phong cùi bất hạnh đã khiến ông Raoul Follereau không một chút sợ hãi vi trùng Hansen ghê rợn, không mảy may kinh khiếp máu mủ hôi tanh của bệnh nhân phong cùi.
Chính tình yêu hoàn hảo là tình yêu đã dẫn Đức Giêsu đến chân thập giá.
Chính tình yêu hoàn hảo đã thúc đẩy các tông đồ can đảm chịu bách hại và bình thản bước tới cái chết.
Chỉ trong một đoạn ngắn của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nhắc lại ba lần câu: “Anh em đừng sợ”. Con người có muôn vàn nỗi sợ; sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói. Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt… Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra. Nếu đem phơi trần các nỗi sợ hãi, có khi chúng ta phải phá lên cười… Không ít người để cho nỗi sợ hãi biến các buổi bình minh tươi sáng, an bình thành những chiều hoàng hôn ảm đạm, buồn thảm!
“Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”. Một khi đã yêu Chúa rồi, chúng ta sẽ can đảm rao giảng lời Chúa, chúng ta chẳng còn sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Một khi đã yêu anh em rồi, chúng ta chẳng còn sợ ai đố kỵ, ghen ghét, hận thù; chẳng còn ghê tởm, kinh hãi những kẻ thấp kém, đốn mạt, hung hăng. Chính tình yêu là khí giới xua đuổi mọi sợ hãi đang dằn vặt con người, cho dù là cái chết. Vì chính tình yêu của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta từ đêm dài tăm tối của tử thần đến bình minh sáng lạn của đời sống mới.
Nếu Thiên Chúa là đấng nhân ái đã lấy tình yêu rộng lớn của Người mà ôm ấp nhân loại vào lòng thì chúng ta hãy mạnh dạn mà đặt trọn niềm tin nơi Người. Thật vậy, hôm nay Đức Giêsu khẳng định: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Nếu Thiên Chúa là đấng độc nhất vĩnh cửu, đã dùng sự khôn ngoan mà hướng dẫn, dùng sức mạnh mà bảo vệ, dùng tình yêu mà giữ gìn con người, thì chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không tin cậy phó thác nơi Người.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu, Người đã nâng đỡ chúng ta trên mọi nẻo đường, và luôn sẵn sàng ban cho chúng ta muôn vàn ân huệ trong mỗi thăng trầm của cuộc sống, thì chúng ta còn lý do gì để bi quan và sợ hãi.
Chính đức tin thắng vượt sợ hãi, đức tin là con đê vững chắc để chống lại những đợt sóng dữ dội là các nỗi sợ hãi. Đức tin đem lại sự an bình nội tâm để đối phó với căng thẳng và gánh nặng của cuộc đời. Đức tin biến cuồng phong thành gió mát, thất vọng thành hy vọng.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau:
1) Dẫn nhập (9,36–10,5a):
- a) Các yếu tố xác định (9,36-38),
- b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a);
2) Phần chính (10,5b-42):
- a) Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15),
- b) Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42);
3) Kết (11,1).
Riêng phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau (các đoạn in nghiêng thuộc về bài đọc phụng vụ):
1) Sự bách hại các tông đồ phải chịu (10,16-39):
- a) Hoàn cảnh tởng quát của các sứ giả (10,16),
- b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23),
- c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25),
- d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31),
- e) Tương quan của các ông với Đức Giêsu (10,32-39);
2) Việc tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục
Bản văn 10,26-33 có thể chia thành hai phần:
1) Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (10,26-31);
2) Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (10,32-33 [39]).
3.- Vài điểm chú giải
– Vậy anh em đừng sợ (26): Từ ngữ “vậy” nối cc. 26-27 với phần đi trước, nhưng không phải là để đưa tới một kết luận, mà là một lời khích lệ. Ý nghĩa không phải là” đừng sợ họ, bởi vì họ không thể làm gì anh em; nhưng là: đừng sợ họ, bởi vì anh em không được mong mình có một số phận bớt đau thương hơn Thầy (cc. 24-25). Như thế, dù vẫn sợ những người bách hại, anh em phải đảm nhận lấy nỗi sợ hãi ấy mà cứ tuyên xưng niềm tin. Anh em sợ hãi người ta là chuyện dễ hiểu (cc. 17-25), nhưng đừng vì thế mà thôi làm chứng.
– được tỏ lộ … được biết (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là: Thiên Chúa tỏ lộ … Thiên Chúa thấu biết. Lý do thứ nhất khiến môn đệ không phải sợ, đó là sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ. Dù thế nào, Tin Mừng cuối cùng sẽ tỏa rạng vinh hiển.
– những kẻ giết thân xác (28): Lý do thứ hai khiến không phải sợ, đó là sự sống chân chính của con người được bảo vệ. Những kẻ bách hại chỉ có thể “giết” (apoktenai); duy mình Thiên Chúa mới có thể “tiêu diệt” (apolesai) trọn con người (“thân xác” và “linh hồn”).
– hỏa ngục (28): Từ Hy-lạp geenna (được dịch là “hỏa ngục”) phiên âm từ Híp-ri gê-Hinnôm. Gần cổng thành phía nam Giêrusalem, có thung lũng gọi là gê’-Hinnôm hoặc gê’ben-Hinnôm (“thung lũng của con cái Hinnôm”). Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc của người Ammôn) đã lên tới cực độ (Gr 7,30–8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những tác nhân xử lý các tử thi, đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (hp) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), nay trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi.
– Ngoài ý của Cha anh em (29): Lý do thứ ba khiến không phải sợ, đó là Thiên Chúa quan phòng trên toàn thể thọ tạo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (26-31)
Mt không kể cho biết cách nào và khi nào thì lời loan báo về số phận của các sứ giả được chứng thực. Nhưng tác giả mô tả nhiều lần các lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó (16,21; 17,22t; 20,18t) và ghi chi tiết cả diễn tiến thực hiện cuộc Thương Khó nữa (ch. 26–27). Như vậy, trước khi các môn đệ và tôi tớ rơi vào số phận này, Thầy và Chúa của họ đã phải chịu rồi.
Đoạn 10,26-31 nhắc các tông đồ nhớ lại nhiệm vụ trọng yếu của các ông là loan báo thẳng thắn và công khai sứ điệp đã nhận từ nơi Đức Giêsu (x. 10,7; 10,27). Đức Giêsu nhấn mạnh ở đấy: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10,27) và kết thúc bằng “Vậy anh em đừng sợ” (10,31), và cả ở 10,28, Người nhắc lại “anh em đừng sợ”. Dù sợ hãi khi đứng trước những đe dọa của bạo lực loài người, các sứ giả không được để mình bị ngăn cản khiến không chu toàn được nhiệm vụ. Họ phải thắng vượt nỗi sợ hãi này và tiếp tục trung thành với nhiệm vụ. Để đạt được như thế, họ phải đừng để ý đến người ta, nhưng phải để ý đến Thiên Chúa. Quyền của Ngài là có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (10,28) thì đáng sợ hơn nhiều, còn sự ân cần chăm sóc và sự quan phòng đầy tình phụ tử thì đáng họ tin tưởng hoàn toàn (10,29-31).
* Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (32-33 [39])
Đoạn cuối cùng nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu (10,32-39). Coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Người, là con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là loan báo không sợ hãi sứ điệp của Người (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Người, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự hiệp nhất trọn vẹn với bản thân Người và phải được coi trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng hơn mọi sự và mọi người.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ can đảm loan báo sứ điệp của Người (10,27). Người cũng yêu cầu các ông phải tin tưởng hoàn toàn nơi Người (c. 32). Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là cách ông thuộc về Người và tin vào sứ điệp của Người, mà trước tiên đây là sứ điệp của Cha trên trời. Một ngày nào đó, Đức Giêsu sẽ tuyên bố nhận hay từ khước các ông là tùy điểm này (c. 28). Một lần nữa Đức Giêsu lại tỏ cho thấy địa vị và uy quyền vô song của Người. Án xử của Thiên Chúa về chúng ta, cũng như số phận đời đời của chúng ta, tùy thuộc cách chúng ta đối xử với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
- Sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”, là chuyện liều lĩnh. Tác giả ghi lại đây cả những lời đe dọa (về hỏa ngục), đây là dấu cho thấy rõ ràng là chỉ đưa những lời khuyến cáo mà thôi thì vẫn không cản được các tín hữu sa sút (x. 5,22.29; 23,15.33). Phải đe dọa để họ nhớ rõ giáo huấn của Đức Giêsu: nếu họ nhận Đức Giêsu trước mặt người đời, Đức Giêsu sẽ nhận họ trước mặt Thiên Chúa; nếu họ chối Đức Giêsu trước mặt người đời, Người cũng sẽ chối họ trước mặt Thiên Chúa.
- Người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha. Họ cũng ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản. Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
- Nếu việc làm chứng đôi khi đưa người môn đệ đến chỗ chết, thì không phải là mặc dù được Thiên Chúa là Cha quan phòng, người ấy vẫn phải chết! Y như thể Cha có mặt lúc vị tử đạo bị giết, nhưng không thể cứu được người ấy. Mt nhấn mạnh rằng, tuy có mặt vào lúc con cái mình bị giết, Thiên Chúa vẫn không muốn tách cái chết ấy ra khỏi ý muốn của Ngài: nếu Thiên Chúa giúp đỡ vị tử đạo chính là vì cuối cùng Ngài muốn vị ấy phải chết.
DÙ ĐANG SỐNG GIỮA KHÓ KHĂN
- Bàn về sự sợ.
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không: có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “đừng sợ”. Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài:
– Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị nặng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
– Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác:
a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người;
b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì “Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Cha Charles de Foucauld đã nói: “Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả”
- Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói “Đó là ý Chúa”; thành công hay thất bại, họ cũng nói “đó là ý
Chúa”; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói “Để Chúa lo Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! “Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm”!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng: Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: “Ta hằng ở với con”, “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
– Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc tiên đầu các con đã được đếm cả rồi”. (bài Tin Mừng hôm nay)
– Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: “Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”
- Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la lớn trên mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diềm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cầll như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và, truyền đạt.
Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà khống bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
- Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã di diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội.
Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe. Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe đọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”. Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đúng lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: “Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột”.
Không có chỗ nào sự chân thành của Chúa Giêsu được bộc lộ thật linh động bằng ở đây. Ngài phán với các môn đệ đúng điều họ sẽ gặp nếu họ chấp nhận chức năng làm sứ giả của Ngài. Tại đây Ngài đưa ra những đòi hỏi rất cao, rất mạnh và không thể dung hòa được, và cũng cho họ biết chẳng những được Thiên Chúa chăm sóc nhưng cũng được thiện cảm của loài người.
Trước hết Chúa Giêsu cho biết cái giá phải trả khi chấp nhận làm sứ giả:
- Một lựa chọn quyết liệt:
khi một chính nghĩa xuất hiện, hậu quả tất nhiên là chia rẽ giữa con người, những kẻ đáp ứng và những kẻ chối từ chính nghĩa đó. Đối diện với Chúa Giêsu là phải đối diện với một chọn lựa, hoặc tiếp nhận hoặc chối bỏ Ngài. Thế gian bị chia đôi bởi những người thừa nhận Chúa Giêsu và những người không chấp nhận Ngài. Điều chua chát nhất trong cuộc chọn lựa này là kẻ phải loại bỏ lại chính là người thân. Có thể một người vì quá yêu gia đình đến nỗi không dám dấn thân phục vụ và hi sinh. Không dám theo Chúa vì không dám xa gia đình hoặc e ngại nguy hiểm.
Một người có thể đã từ chối phục vụ trong một sứ mạng nào đó vì người đó để tình cảm riêng làm tê liệt. Con người ít khi phải đối diện với sự lựa chọn này, có người suốt đời không hề gặp, nhưng sự thật vẫn là: những người thân yêu có thể trở thành kẻ cám dỗ nếu những lo nghĩ về họ có thể ngăn cản chúng ta làm theo điều Chúa muốn.
- Chúa Giêsu hứa ban thập giá:
Người dân Galilê hiểu rất rõ thập giá. Khi tướng La mã Varus dẹp tan cuộc phản loạn của Giuđa ở Galilê, ông đóng đinh 2000 người Do thái vào thập giá trồng dọc hai bên đường cái xứ Galilê . Thời đó phạm nhân phải vác thập giá của mình đến chỗ hành hình. Những kẻ nghe Chúa nói đã từng thấy kẻ tử tội loạng choạng dưới sức nặng của cây gỗ và chết trong đau đớn cực độ. Những vĩ nhân của đức tin biết rõ điều họ đang làm. Khi một vị tử đạo bị dẫn đến trước quan tòa, ngài nói với quan tòa: “Thưa quan, luật pháp của Chúa chúng tôi đã dự bị hai cách tuân thủ: một là làm cách tích cực điều lương tâm tôi tin rằng buộc mình phải làm; hai là nơi nào mà tôi không thể tích cực vâng phục lương tâm tôi được, thì tôi sẵn lòng nằm xuống để chịu mọi đau khổ người ta đem tới cho tôi.”
Kitô hữu có thể phải hy sinh những tham vọng riêng, sự thoải mái và tiện nghi mình được hưởng, hi sinh công trình mình đã thành đạt, cũng có thể dẹp bỏ mơ ước, phải biết rằng những cái huy hoàng mình thoáng thấy không phải là để cho mình. Sẽ phải hy sinh ý muốn mình, vì không có kitô hữu nào có thể làm điều mình muốn mà phải làm điều Chúa muốn. Trong Kitô giáo bao giờ cũng có thập giá vì Kitô giáo là Đạo thập giá.
- Ngài ban cho một cuộc phiêu lưu:
Chúa bảo họ:”Ai giữ mạng sống thì mất, còn ai đành mất mạng sống vì Ngài sẽ giữ lại được”. Nhiều lần điều đó đã được chứng minh cụ thể. Một điều luôn luôn đúng là nhiều người có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng cứu được rồi thì lại mất, vì chẳng còn nghe ai nói đến nữa.
Epicteus nói về Socrates: “Bởi chịu chết mà ông được sống, vì ông không chạy trốn”. Socrates có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng làm thế con người Socrates rồi cũng sẽ chết và sẽ chẳng còn ai nghe thấy tên ông nữa.
Trong đời sống kitô hữu không có chỗ nào cho chính sách thủ thân. Người nào dành ưu tiên đi tìm sự thoải mái, yên ổn cùng sự thỏa mãn những khát vọng riêng, người đó có thể được tất cả những điều này, nhưng sẽ không bao giờ hạnh phúc, vì bạn đã được sai đến trần gian để phục vụ Chúa và anh chị em mình. Người ta có thể ôm giữ sự sống mình nếu muốn, nhưng bạn sẽ mất tất cả những gì làm cho cuộc đời đáng sống và có giá trị cho người khác. Con đường phục vụ Chúa và tha nhân, con đường làm trọn mục đích Chúa cho chúng ta, con đường dẫn đến chân phúc là dấn thân, sử dụng cuộc đời mình cách không ích kỷ, vì chỉ như thế mới tìm được sự sống trong đời này và cả trong cõi vĩnh cửu “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Người sứ giả đích thực được Thiên Chúa ân cần săn sóc và sẽ được dân chúng tôn trọng. Khi Chúa Giêsu phán những lời này thì Người cũng dùng lối nói thông thường của người Do thái. Bao giờ họ cũng cảm thấy đón tiếp sứ giả của ai là tiếp nhận chính người đó. Tỏ lòng tôn kính sứ giả là tôn kính nhà vua đã sai người đến. Hoan nghênh người đại diện bạn cũng chính là hoan nghênh chính bạn mình. Người Do thái bao giờ cũng cảm thấy tôn trọng người đại diện là tôn trọng chính người đã ủy thác. Điều này áp dụng cho những nhà thông thái, những người dạy chân lý của Thiên Chúa . Các rabi thường nói:”Kẻ nào tiếp đãi người khôn ngoan không khác gì đem trái đầu mùa dâng cho Thiên Chúa . Kẻ nào chào hỏi người học thức chẳng khác gì chào mừng Chúa”. Nếu ta tiếp một người thật thuộc về Chúa tức là tiếp nhận Đấng đã sai người ấy.
Lời Chúa đây trình bày bốn mắc xích trong sợi dây cứu chuộc:
– Thiên Chúa yêu thương, từ đó khởi sự toàn thể tiến trình cứu chuộc.
– Chúa Giêsu đem sứ điệp yêu thương đến với loài người.
– Loài người làm sứ giả, các tiên tri rao giảng, các người tốt làm gương, các môn đệ học hỏi và truyền lại cho người khác Phúc Âm mà chính họ đã nhận.
– Người tiếp nhận sứ giả và sứ điệp của Thiên Chúa nhờ đó tìm được sự sống cho linh hồn mình.
Trong đoạn Lời Chúa này có một điều thật đẹp, thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ khiêm cung.
- a) Chúng ta không thể đều là tiên tri, giảng và rao truyền lời của Thiên Chúa, nhưng người nào tiếp đãi sứ giả của Chúa sẽ nhận phần thưởng không kém chính vị sứ giả đó. Có nhiều người đã từng làm nhân vật đối với công chúng, có nhiều người với tiếng nói có thể nhen lửa trong lòng hàng vạn con người, có những người đã từng mang một gánh nặng vô cùng lớn lao về trách nhiệm và sự phục vụ công chúng; tất cả những người đó đều vui mừng làm chứng rằng họ không bao giờ duy trì được nỗ lực và yêu cầu của công tác nếu không có tình thương và sự chăm sóc, thiện cảm và tâm tình phục vụ của những người ẩn tích ở nhà. Khi đó sự cao trọng thật trước mặt Chúa người ta sẽ rất thường thấy một người chuyển động thế gian mạnh mẽ hơn cả lại hoàn toàn tùy thuộc vào một người khác, một người ẩn danh không ai biết đến. Các tiên tri cũng phải có bữa ăn, phải có áo quần, tiên tri cũng có một gia đình. Mong những ai thường làm những công tác dẫu dễ bị quên ơn như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt quần áo, coi em…đừng bao giờ suy nghĩ đó là những công việc chán ngắt và buồn tẻ mà là công tác cao trọng nhất của Chúa: và chắc sẽ được lãnh phần thưởng của tiên tri hơn là những người chỉ lo hội họp bỏ bê gia đình.
- b) Tất cả chúng ta không thể đều là những gương sáng về việc lành, cũng không thể tất cả đều được cả thế giới biết là công chính, nhưng ai có thể giúp một người trở nên tốt sẽ nhận được phần thưởng của người tốt. G.H. Gee kể một câu truyện khá hay. Một cậu bé trong làng kia, sau nhiều gian nan, đã đạt đến chức mục sư. Người đã giúp cậu trong những ngày còn đi học là người thợ sửa giày trong làng. Ông này như nhiều đồng nghiệp khác, là người đọc nhiều, thấy xa và đã giúp cậu bé rất nhiều. Rồi đến ngày cậu được phép giảng dạy, ông thợ giày nói: “Mơ ước của tôi là được làm người rao giảng Phúc Âm, nhưng hoàn cảnh đời tôi không cho phép. Còn anh, anh đã đạt được điều mà tôi không thể đạt được. Tôi muốn anh hứa rằng sẽ để tôi đóng và sửa giày miễn phí cho anh. Tôi cũng muốn anh mang giày tôi đóng mỗi khi lên tòa giảng, như vậy tôi sẽ cảm thấy rằng anh đang đứng trên giày của tôi để giảng một Phúc Âm mà tôi mong muốn rao giảng”. Bằng cách đó, người thợ giày đang phụng sự Chúa y như người truyền đạo và phần thưởng sau này của người thợ giày cũng y như vậy.
- c) Không phải tất cả chúng ta đều dạy trẻ được, nhưng mỗi người đều có thể phục vụ trẻ. Có lẽ chúng ta không biết phương pháp dạy, nhưng buộc phải làm những nghĩa vụ đơn sơ mà nếu thiếu trẻ không sống được. Có lẽ trong đoạn này có ý không nói nhiều đến trẻ con về phương diện tuổi tác, nhưng nói về phương diện đức tin. Rất có thể các rabi thường gọi các môn sinh là bầy nhỏ. Có thể về phương diện kỹ thuật và văn hóa chúng không biết dạy, nhưng vẫn có thể dạy bằng đời sống và gương sáng mà một người đơn sơ nhất cũng có thể làm được.
Vẻ cao đẹp của giáo huấn này là nhấn mạnh đến sự vật đơn giản. Chúa và Hội Thánh bao giờ cũng cần đến những người hùng biện, những gương sáng của cuộc đời thánh thiện, các giáo sư lớn, những người mà tên tuổi thường được nhắc đến, nhưng Chúa và Hội Thánh cũng cần đến những người có một gia đình hiếu khách, những bàn tay săn sóc việc nhà, có tấm lòng quan tâm chăm sóc do tình yêu kitô hữu: “Tất cả mọi phục vụ đều bằng nhau trước mặt Thiên Chúa ” (Browning) “hãy cám ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó , nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm”(Tago).