Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: 2V. 4, 42- 44; Ep. 4, 1- 6; Ga. 6, 1- 15
MỤC LỤC
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Có một cậu bé.
- Ăn bao nhiêu tùy ý.
- Đào tạo trái tim..
- Cần có một tấm lòng.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Hãy làm như Chúa truyền dạy.
- Cộng tác với Chúa.
- Hãy cho nhau sự sống.
- Bánh hóa nhiều.
- Chia sẻ.
- Cộng tác với Chúa.
- Sống quảng đại
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Cơm bánh hằng ngày.
- Hãy cho họ ăn.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Những người thiện nguyện.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Hãy cảm tạ ơn Chúa.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Hóa Bánh Nhiều.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Xây dựng phúc lợi cộng đồng.
- Tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
- Anh em hãy cho họ ăn.
- Hãy cho họ ăn.
- Quà mọn.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Hãy xót thương người
- Đừng bỏ lỡ cơ hội
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Bánh Hằng Sống.
- Chúa nuôi dưỡng dân Ngài
- Được ăn no nê.
- Bánh hóa nhiều.
- Bánh và cá.
- Bánh hóa nhiều.
- Tù nhân trong Chúa.
- Nuôi đám đông.
- Vụn bánh.
- Có thực mới vực được đạo.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Dịp may bỏ lỡ.
- Để phép lạ được tiếp tục.
- Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ.
- Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?.
- Góp phần làm nên phép lạ.
- Cám ơn.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Tặng phẩm trong tay Chúa.
- Tình thương.
- Hóa bánh.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Cộng tác.
- Sự biến đổi lạ lùng.
- Chúa ban của ăn cho loài người
- Đi bước trước.
- Cho kẻ đói ăn.
- Tiết kiệm..
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chia sẻ.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Lương thực.
- Quảng đại
- Chúa Nhật 18 Thường Niên.
- Nhân hậu.
- Phép lạ.
- Yêu quý mảnh bánh vụn.
- Không làm một mình.
- Bài học tiết kiệm..
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Bánh và cá.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Bánh người nghèo.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Hãy cho họ ăn.
- Bánh cho đám đông.
- Cộng tác.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều.
- Hóa bánh ra nhiều.
- Chú giải của Noel Quesson.
- Chú giải của Fiches Dominicales.
- Chúa Nhật 17 Thường Niên.
- Chú giải của William Barclay.
- Chuyện ăn uống.
- Có mấy chiếc bánh?.
- Hạnh phúc thật
- Đạo gạo.
- Đệ nhất khoái
- Bẩn!
********************************************
(Trích trong ‘Manna’)
CHÚNG TA MUA ĐÂU RA BÁNH CHO HỌ ĂN
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn. Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn. “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu. Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi… Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
– Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
– Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
– Con mơ ước không còn những La- da- rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
– Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
– Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
– Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Cả bốn sách Tin Mừng đều kể lại chuyện bánh hóa nhiều, vì đây là một phép lạ mang nhiều ý nghĩa. Hội Thánh sơ khai coi trọng phép lạ này. Bánh hóa nhiều không phải do mỗi người trong đám đông lấy bánh giấu trong bao của mình ra, để chia cho người khác.
Đây không phải là phép lạ do con người bớt ích kỷ, nhưng do sự quảng đại quyền năng của Con Thiên Chúa:
– Đấng đã biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11),
– Đấng có thể đi bình yên trên mặt biển động (Ga 6,19).
Dấu lạ bánh hóa nhiều đi kèm với một diễn từ dài làm nên cả chương 6 của Tin Mừng thứ tư. Trình thuật về bánh hóa nhiều ở đây có những đặc điểm khi so với các Tin Mừng Nhất Lãm.
Nét đầu tiên là sự chủ động của Đức Giêsu. Khi thấy đám đông dân chúng kéo đến với mình, Đức Giêsu đã bày tỏ mối bận tâm của mình với Philípphê: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Ngài muốn kéo các môn đệ vào cuộc. Ngài như muốn tìm chỗ mua bánh để đãi mọi người. Ý muốn ấy là chuyện lạ, chưa từng xảy ra, vì dân chúng thường đến chỉ để nghe giảng và chữa bệnh. Còn chuyện ăn uống thì họ tự lo.
Philípphê thấy chuyện Thầy muốn đãi ăn là bất khả thi. Nếu có dùng hai trăm ngày lương công nhật để mua bánh thì cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút, bởi lẽ trước mặt Thầy trò là đám đông gần năm ngàn người!
Anrê khá nhanh nhạy khi tìm ra một cậu bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng ông mau chóng nhận thấy rằng những thứ đó chẳng thấm vào đâu so với số đông dân chúng. Như thế cả hai ông đều không trả lời được câu hỏi của Thầy: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Mua bánh cho hàng ngàn người ăn đúng là không dễ, nếu chỉ dựa trên năng lực của con người. Thật ra Thầy Giêsu chỉ hỏi vậy thôi, chứ tiền đâu mà nghĩ đến chuyện mua bán. Thầy đã lên một kế hoạch mà các môn đệ chưa biết. Chính Thầy sẽ nuôi đám đông này, sẽ đãi họ một bữa ăn. một bữa ăn không thịnh soạn, nhưng đủ để họ nhớ mãi.
Thầy sẽ không phải đi tìm nơi để mua bánh, nhưng Thầy lại cần toàn bộ bánh và cá của cậu bé ở đây. Như một sự tình cờ, Thầy sẽ nuôi đám đông cả ngàn người bằng tất cả số lương thực ít ỏi và khiêm tốn ấy, số lương thực mà Anrê bảo là chẳng thấm vào đâu. Trong tay Thầy, những đóng góp chẳng thấm vào đâu của ta sẽ làm nên những điều lớn lao kỳ diệu.
Thầy Giêsu không lấy khí trời để nuôi dân. Thầy lấy bánh của con người để nuôi con người. Chính Đức Giêsu tự tay trao bánh và cá cho dân chúng. Ngài là người nuôi họ ăn, ăn no nê và dư dật.
Có ai cám ơn cậu bé có năm cái bánh không? Cậu có biết là bánh của cậu đã nuôi mọi người không? Để làm một phép lạ lớn lao, Đức Giêsu cần một cậu bé.
Thế giới hôm nay khốn khổ vì dịch bệnh và đói nghèo. Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những người như cậu. Với những đóng góp nhỏ bé của tôi, Ngài có thể chữa lành và nuôi ăn cả thế giới.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói, sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa. Chúa cũng từng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả. Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari, và đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con, nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói, Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường, Chúa đã bảo người ta cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người, và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó. Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh,mà còn nhờ Lời Chúa, không chỉ đói khát thức ăn vật chất mà còn khao khát những giá trị tinh thần.
Xin dạy chúng con đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho, nhưng biết chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng. Xin cho chúng con hiểu giá trị của một ly nước được trao đi, của tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đói khát nên vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ. Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh, chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau, mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy, mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc. Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn, và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.
Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan, bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống. Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.
Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ. Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng. Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7). Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).
Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó. Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn. Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này. Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.
Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ, Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân. Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều. Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra. Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt. Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người. Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.
Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa. Gần mười tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy. Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới: Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc. Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin. Con mơ ước những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em. Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể.
Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa.
Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm.
Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng.
Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2. Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3. Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4. Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mẹ Têrêxa Caculta kể lại câu chuyện đầy cảm kích như thế này: Một lần kia có một người đàn ông đến tìm tôi và nói: “Thưa Mẹ, có một gia đình Ấn Giáo, 8 đứa con, đã nhịn ăn mấy ngày rồi. Xin Mẹ cho họ một cái gì đi”. Tôi liền lấy ít gạo rồi theo ông đến thăm gia đình ấy. Khi tới nơi, tôi thấy rõ hình ảnh cơn đói hằn trên những khuôn mặt trẻ thơ gầy guộc. Tôi trao gạo cho bà mẹ. Bà chia số gạo tôi mang tới thành hai phần, và đi ra ngoài. Khi trở về, tôi bèn hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Chị đáp: “Họ cũng đói lắm”. Họ đây là một gia đình Hồi giáo hàng xóm bên kia đường, và cũng đông con như nhà chị. Điều làm tôi cảm động hơn cả không phải là việc chị đem cho gạo, mà chuyện chị ta biết họ đang đói. Vì biết thế, nên chị mới muốn chia sẻ phần gạo của mình. Đẹp đẽ thay! Tình yêu ấy cụ thể biết bao!”
Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã nói: “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Thật vậy, người phụ nữ trong câu chuyện trên đây đã có một tấm lòng. Chị đã có một tấm lòng tốt. Chị đã “thấy họ đang đói”. Từ đó, Chị đã “chia đôi phần gạo” và đem đến cho gia đình nhà hàng xóm. Tấm lòng tốt là động lực phát xuất việc làm tốt.
Tấm lòng tốt của người phụ nữ phần nào diễn tả tấm lòng của Chúa Giêsu. Tin mừng kể lại nhiều lần Chúa động lòng thương trước những hoàn cảnh khó khăn của con người. Chúa chạnh lòng thương trước đám tang của con trai bà goá thành Naim (Lc 7, 11- 17). Chúa khóc trước cái chết của ông Lazarô (Ga 11,35). Chúa đã làm nhiều phép lạ chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền. Người què đi được. Người điếc nghe được. Người mù nhìn thấy. Kẻ câm nói được. Tất cả phát xuất từ tấm lòng tốt của Chúa Giêsu.
Hôm nay, tấm lòng tốt đó được thể hiện qua việc Chúa nhận thấy đám đông dân chúng đang đói. Chúa không đành lòng để đám đông ra về trong tình trạng đói khát. Ngài nhận thấy Ngài cần có trách nhiệm đối với họ. Ngài hỏi các tông đồ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”(Ga 6,5). Câu hỏi vừa cho thấy tấm lòng tốt của Chúa. Đồng thời, với câu hỏi này, Chúa muốn gợi mở “tấm lòng tốt” nơi các tông đồ. Con người thường có thái độ lẫn trốn trước hoàn cảnh khó khăn của người khác. Các tông đồ cũng vậy, muốn giải tán đám đông chứ không muốn tìm giải pháp để giúp họ. Nhưng qua câu hỏi của Chúa Giêsu, các tông đồ bắt đầu có “tấm lòng tốt”. Các ông đi tìm giải pháp. Giải pháp của Philiphê: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”(Ga 6,7). Giải pháp của Anrê: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”(Ga 6,9).
Đối với khả năng của con người, cả hai giải pháp các tông đồ đưa ra không giải quyết được vấn đề. Năm chiếc bánh và hai con cá không là gì so với đám đông dân chúng. Nhưng dẫu sao Chúa Giêsu đã giúp các tông đồ đi từ “số không” đến “có một tấm lòng”. Từ đó các ông “tìm giải pháp” và đi đến “hành động cụ thể” là tìm ra năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa có thể từ không mà làm nên phép lạ giống như từ không Chúa dựng nên trời đất muôn loài muôn vật. Nhưng ở đây, năm chiếc bánh và hai con cá là điều kiện cần thiết để Chúa làm nên phép lạ. Phép lạ này nói lên quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu nhưng đồng thời cũng đề cao vai trò cộng tác của con người.
Để có một “tấm lòng thương xót”, mọi người chúng ta cần phải hỏi chính mình đã làm gì để cộng tác với Chúa? Đã làm gì để chia sẻ và cảm thông với sự thiếu thốn và đau khổ của tha nhân?
Đối với việc thương xác, chúng ta được mời gọi: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết (x. Kinh thương người có mười bốn mối).
Là người công giáo, chúng ta đã thuộc lòng lời kinh đó. Nhưng chúng ta đã áp dụng lời kinh đó như thế nào vào cuộc sống của chúng ta? Vợ chồng có thực hiện lời thề hứa khi lãnh nhận bí tích hôn phối: yêu thương và giúp đỡ nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ không? Cha mẹ có quan tâm nuôi nấng con cái không? Con cái có quan tâm đến sự thiếu thốn của cha mẹ già yếu nghèo khổ không? Xung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người có những hoàn cảnh đặc biệt: nghèo khó, bệnh tật, ốm đau. Chúng ta đã làm gì để giúp họ?
Thời gian qua, nhiều người đã ghi danh vào hội Caritas giáo xứ. Điều đó nói lên tấm lòng của anh chị em. Những đồng tiền ít ỏi của anh chị em góp vào, hằng năm hội Caritas đã làm được nhiều việc bác ái như: thăm viếng các bệnh nhân, những người tàn tật, giúp đỡ những người thiếu thốn, nghèo đói.
Thỉnh thoảng các thành viên trong gia đình Thánh Tâm quyên góp quần áo, một ít tiền từ các nhà hảo tâm để đi lên miền núi, miền dân tộc giúp đỡ cho những người nghèo…Đó là những việc làm đáng trân trọng.
Nhưng yêu thương không dừng lại ở việc “thương xác” mà phải yêu thương cả phần hồn. Chính Chúa Giêsu trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Ngài đã rao giảng tin mừng cho họ. Chúa gặp gỡ những người tội lỗi và kêu gọi họ hoán cải như trường hợp của ông Giakêu, ông Lêvi, người phụ nữ ngoại tình. Chúa kể nhiều dụ ngôn để nói lên tấm lòng mục tử của Ngài như: dụ ngôn người cha nhân hậu, người đàn bà đánh mất đồng bạc, người chăn chiên bỏ lại chín mươi chín con để đi tìm con chiên lạc. Chúa còn lập các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để nuôi sống linh hồn chúng ta. Trước khi về trời, Chúa chọn các tông đồ và trao quyền cho các ông (và các Đấng kế vị) tiếp tục công việc của Ngài cho đến tận thế.
Chúng ta cũng được mời gọi thương linh hồn bằng bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết (x. kinh thương người có mười bốn mối).
Chúng ta đã làm gì để thực hiện lời dạy trên? Có lấy lời lành mà khuyên người khác không? Có khuyên bảo, giúp kẻ có tội ăn năn trở lại không? Có sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm mất lòng ta không? Có dùng lời nói việc làm để giúp cho người khác nhận biết Chúa không?
Trong thời gian qua, Giáo xứ chúng ta đón nhận một số anh chị em dự tòng, họ được rửa tội và gia nhập Giáo Hội. Thành quả này nhờ sự năng nổ của các thành viên hội Lêgiô. Bắt đầu bằng việc đi thăm viếng giúp đỡ những người già, những người đau yếu, từ sự chăm sóc phần xác, các thành viên đã giúp họ tin nhận biết Chúa và từ đó họ xin trở lại đạo. Các thành viên của hội còn khuyên nhủ những người bỏ xưng tội lâu năm biết ăn năn trở về với Chúa. Cách đây mấy tháng, các thành viên hội Lêgiô dẫn đến cho tôi một người đã bỏ xưng tội rước lễ 12 năm. Tôi giúp anh nhớ lại những điều cơ bản về giáo lý nhất là về bí tích giải tội giúp anh giao hoà với Chúa. Sau thời gian đó, anh sống đạo rất tốt. Được biết, các thành viên hội Lêgiô đã thay phiên nhau đến nhà để đọc kinh, cầu nguyện, khuyên bảo anh một thời gian dài trước đó.
Có một gia đình rối đạo khác. Anh là người công giáo. Chị là người lương. Hai anh chị đi làm ăn gặp nhau và quyết định sống chung tới nay đã 9 năm. Anh chị đã có chung với nhau 4 đứa con. Vì mặc cảm nên họ ở xa người có đạo. Các thành viên của gia đình Thánh Tâm đã phát hiện và khuyên bảo họ trong một thời gian dài. Nay anh chấp nhận đến gặp Cha xứ. Sau khi hướng dẫn và giúp anh chị các thủ tục cần thiết, cả gia đình họ được lãnh nhận các bí tích gia nhập đạo.
Qua một vài ví dụ trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự cộng tác. Nhưng trên hết và trước hết là “cần một tấm lòng”. Sống trong một xã hội đầy vô cảm như hôm nay, xin Chúa cho tất cả mỗi người chúng ta có “một tấm lòng”. Tấm lòng của người phụ nữ trong câu chuyện trên đây. Tấm lòng thương xót của Chúa Giêsu. Để chúng ta biết yêu thương mọi người, yêu thương cả phần hồn lẫn phần xác, nhất là những người nghèo khó, bệnh tật, ốm đau, già cả. Để chúng ta biết cộng tác với Chúa với Giáo hội làm cho môi trường chúng ta sống bớt đi nỗi cô đơn và chan hoà tình yêu thương nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
QUYỀN NĂNG CỦA TÌNH YÊU LÀM NÊN PHÉP LẠ
Một đêm, khi máy bay vừa hạ cánh, một người đàn ông sang trọng bước ra khỏi máy bay tại một phi trường ở Ấn Độ. Điều đầu tiên đập ngay vào mắt ông, chính là những người vô gia cư đang nằm vô trật tự hai bên đường bay. Suốt ngày, đường bay hấp thụ sức nóng, để đêm về trở thành chiếc lò sưởi cho những người bần cùng này.
Sau đó, người đàn ông rảo bước trong phố đêm hoang vắng về khách sạn. Hình ảnh người khổ nghèo lại đập vào mắt ông. Đó là những thân hình co quắp trong đêm lạnh bên cạnh bàn chân đang bước đi khá thong dong của ông… Bỗng lịch kịch, lịch kịch… Những tiếng gõ khô khốc trong đêm đều đặn nhịp xuống mặt đường làm ông giật mình quay lại: Một thằng bé cụt chân hầu như đến tận háng, đang chống đôi nạng gỗ, cố gắng trườn mình thật nhanh đuổi theo ông. Ông cầm tất cả số tiền lẻ trong túi nhét vào tay thằng bé rồi quay đi… Bỗng ông nghe tiếng la thất thanh và tiếng động dữ dội một cách kỳ lạ vang lên ở phía sau. Hóa ra, thằng bé bị những kẻ “đồng hội đồng thuyền” đánh túi bụi bằng chính đôi nạng gỗ của nó. Họ cưỡng bức thằng bé để đoạt số tiền mà ông vừa cho nó. Đôi mắt của ông chợt chùng xuống, gương mặt ông đượm buồn. Khách sạn sang trọng và tiện nghi, hơn gấp ngàn lần những cảnh đời chỉ có “màn trời chiếu đất”, những cảnh đời đang chìm sâu trong giấc ngủ co quắp mà ông bắt gặp, lại không thể cho ông một giấc ngủ ngon trong đêm ấy… Nhưng chỉ với những suy nghĩ như thế, nên ông chỉ biết có vậy. Ông biết làm sao hơn!…
Ngày nọ, có một phụ nữ vừa đứng tuổi, đã đưa bàn tay của bà nắm lấy lũ người khốn cùng này. Bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ kỹ. Bà đi khắp vùng, tìm lũ trẻ con đầu đường xó chợ, đem về và trao cho chúng hơi ấm của tình yêu. Đó là cách bà dùng để chiến đấu với cái nghèo, cái dốt và hung dữ của những đứa trẻ bạc phận. Bà chính là câu trả lời cho câu hỏi của người đàn ông sang trọng bên trên: “Tôi biết làm sao hơn?” Bà dạy ông biết cách nâng cao cuộc đời, không phải bằng cái đầu suy ghĩ, nhưng bằng chính trái tim hành động. Con đường từ cái đầu đến trái tim không xa, nhưng từ suy nghĩ đến hành động thì xa thăm thẳm. Xóa được khoảng cách từ suy nghĩ đến hành động, ông sẽ bình an, sẽ thấy cuộc đời đáng yêu hơn, ông sẽ hạnh phúc khi phục vụ hạnh phúc của đồng loại, và chắc chắn ông sẽ ngủ ngon.
Người đàn ông sang trọng đó không ai khác hơn là chính tác giả của câu chuyện này (trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”), ông Jay Kesler. Còn người phụ nữ trong câu chuyện thật sâu sắc, thật cảm động của ông không ai khác hơn là Mẹ Têrêsa thành Calcutta, nữ tu, chân phước, vị sáng lập dòng Thừa Sai Bác Ái.
Mẹ Têrêsa đã làm công việc mà trước Mẹ từ lâu, nhiều người đã làm và Thánh Kinh đã ghi lại. Bài đọc I, với 20 cái bánh lúa mạch của một nông dân, tiên tri Êlisê đã nhân lên nhiều để dọn cho 100 người ăn. Thật lạ lùng, với lao công của một con người và quyền năng của Thiên Chúa tình yêu thể hiện nơi một tiên tri, đã làm nên một bữa tiệc dư đầy. “Người ta ăn rồi mà hãy còn dư”.
Cũng vậy, chỉ với 5 cái bánh và hai con cá, công sức và hy sinh của một em bé trai đã góp phần vào lòng yêu thương của Chúa Giêsu, làm nên phép lạ diệu kỳ: 5,000 người ăn no nê mà vẫn còn dư đến 12 thúng đầy!
Mẹ Têrêsa đã trao cho Chúa tất cả bánh và cá của mình, đó chính là những đồng tiền còm cỏi của một nữ tu nghèo nhưng lại giàu tình yêu; giàu sự hy sinh; giàu lòng can đảm để mạo hiểm gánh một sức nặng vuợt sức người, đó là gánh cuộc đời anh chị em lên vai mình; giàu khối óc và con tim để dấn thân cho Chúa, dấn thân cho đồng loại… Chúa chỉ cần có thế, cần sức người cộng tác, để làm nên phép lạ cả thể, chữa lành mọi đói nghèo của anh chị em.
Nhưng không dừng lại trên sự no nê thân xác, với phép lạ hóa 5 chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn 5,000 người ăn tại bờ hồ Tibêria, Chúa Giêsu đưa ta tiến đến một phép lạ trường cửu, một phép lạ, mà ở đó, Lương Thực của nó, không có bất cứ thứ lương thực nào sánh ví: Phép lạ Mình Thánh Chúa làm tấm bánh bổ dưỡng đời đời.
Chính thánh Gioan đã tài tình liên kết ý nghĩa của phép lạ hóa bánh nuôi hơn 5,000 người với phép lạ Bánh Trưởng Cửu. Sau khi thuật lại việc hóa bánh nuôi thân xác, thánh Gioan bắt đầu cả một chương dài (trọn chương 6) tường thuật về việc Chúa Giêsu rao giảng Bánh Hằng Sống là chính Thánh Thể của Người.
– Từ nay, nhân loại, nếu muốn được sống trong cõi đời tạm này hạnh phúc, bình an, họ có một nguồn cậy trông vững chắc, một chỗ dựa không bao giờ hư hao, để giữa trăm chiều lao khổ, long đong, thử thách, họ có chốn tìm về, ngã mình vào náu nương.
– Từ nay, nhân loại, nếu muốn sống trong một sức sống dồi dào, một lẽ sống phong phú, họ có một suối nguồn chân lý, một đỉnh cao của núi khôn ngoan mà hứng lấy, mà hướng tới, mà đi lên, làm tăng giá trị đời mình.
– Trên hết mọi sự, từ nay, nhân loại, nếu muốn bước vào sự sống và sức sống của chính Thiên Chúa, một sự sống và sức sống đời đời không tàn, không phai, họ có cả một trời yêu thương chứa đựng một sự sống và sức sống vô cùng, để ngay từ hôm nay, trong khi hưởng sự sống và sức sống ấy, sẽ là nấc thang đưa họ về cùng Chúa.
Hóa ra, nhìn đoàn người đông đảo nghe Chúa rao giảng đang đói lả, Chúa Giêsu băn khoăn: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”, thì đó chính là cái băn khoăn của một trái tim đập nhịp đập của chính tình yêu Thiên Chúa, một trái tim nhân từ của Người Cha Lành lo lắng cho đàn con.
Nhưng lời hỏi của Chúa không chỉ dừng lại trên đoàn người đang đói ăn. Nó tiến xa hơn, khi nhìn đến một nhân loại đang khao khát chân lý, khao khát sự sống đích thật. Vì thế, khi ban Bánh ấy cho nhân trần, Chúa Giêsu khẳng định:
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ sống muôn đời. Và Bánh Ta ban tặng, chính là Thịt Ta đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51).
Chính vì phục vụ cho ý nghĩa “Bánh Hằng Sống”, thánh Gioan không bỏ qua một chi tiết quan trọng trong câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều. Chi tiết mà sau này, khi lập bí tích Mình Máu Người, Chúa Giêsu đã thực hiện. Chi tiết đó là: “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó?” (Ga 6, 11).
Sau này, khi lập bí tích quý trọng, cùng một nghi thức như hôm nay, Chúa đã làm cho bánh người cầm trong tay trở thành chính Bánh Thịt Máu Người. Người tự phân phát bánh nói lên sự tự hiến mạng sống của Người. Loài người không tầm thường chút nào. Ngược lại, họ cao quý quá đỗi, hạnh phúc của họ lớn lao và tuyệt vời qua đỗi: Họ được chính tay Thiên Chúa chăm lo. Họ được nuôi sống bằng chính việc tự trao ban sự sống của Người. Họ nhận được Lương Thực thần thiêng, điều mà chỉ có sức người mà thôi, sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa muốn dạy ta bài học của tình liên đới trong yêu thương, hiến dâng, hy sinh và cho đi. Người nông dân trong bài đọc I, trích sách Các Vua quyển thứ hai, đã dâng hiến những chiếc bánh là lao công của mình, lấy từ hoa quả đầu mùa, để tiên tri Êlisê khoản đãi hàng trăm người. Em bé trong câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều, chắc không ngờ rằng, việc dâng hiến những của cải quá nhỏ bé, nhưng là tất cả sự hy sinh của mình, đã có thể làm nên một phép lạ cả thể. Mẹ Têrêsa thành Calcutta, hoàn toàn không thể hiểu hết, với sự dâng hiến cái nghèo khó của Mẹ, (khi bắt đầu công việc, trong tay Mẹ chỉ có 3 đồng xu), đã được Chúa làm cho nên giàu có, để ngày hôm nay, khi Chúa đã gọi Mẹ về với Người, Mẹ đã để lại cho Chúa cả một công trình đồ sộ trên trần gian. Chỉ tính tại Ấn Độ, Mẹ đã hiến dâng khoảng 100 trường học được trang bị đầy đủ, trên 300 nhà phát chẩn lao động hiện đại, trên 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi, 40,000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ Mẹ trong các công tác từ thiện…
Cũng vậy, mỗi người trong chúng ta hãy học cách trao tặng những gì mà chúng ta đang có. Chúa không đợi chúng ta dư giả, giàu có mới dạy chúng ta cách cho, nhưng hãy hiến dâng ngay cả khi chúng ta nghèo nàn. Với một tâm hồn hiến dâng thực sự, cái nghèo của chúng ta sẽ được Chúa làm phép lạ để nên giàu có cho nhiều người.
Tất cả chúng ta đều sinh ra với hai bàn tay trắng. Bước vào đời, ta là những người nghèo, nghèo thực sự. Hãy nhớ kỹ điều này để đừng sống ích kỷ, nhưng luôn luôn biết hiến dâng. Chúa không kêu gọi bạn và tôi làm phép lạ như Chúa, nhưng Chúa chỉ xin ta hãy yêu, hãy cho đi, hãy hiến dâng, hãy hy sinh. Phép lạ đương nhiên sẽ xảy ra sau khi ta cộng tác với ơn Chúa bằng tất cả khả năng của mình.
7. Hãy làm như Chúa truyền dạy
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Báo cáo của tổ chức vận động chống đói nghèo quốc tế Oxfam có tiêu đề “Nền kinh tế của 99%”, được đưa ra trước thời điểm khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) từ 17- 20/1, theo đó, tổng tài sản của 3,6 tỷ người nghèo nhất thế giới chỉ tương đương với tổng giá trị tài sản ròng của 8 người gồm 6 công dân Mỹ, một doanh nhân Tây Ban Nha và một doanh nhân đến từ Mexico. Trong số này có những tỷ phú như Bill Gates – nhà sáng lập Tập đoàn công nghệ danh tiếng Microsoft, Mark Zuckerberg – ông chủ trang mạng xã hội “đình đám” Facebook và Jeff Bezos, nhà sáng lập trang bán hàng trực tuyến Amazon. Ước tính, giá trị tài sản của nhóm người giàu nhất này tăng trung bình 11% mỗi năm kể từ 2009. Cũng theo cách tính toán mới, con số của năm là 43 người giàu nhất và 3,6 tỷ người (50% dân số thế giới).
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có sự bất bình đẳng và chênh lệch giầu nghèo quá lớn như vậy? Có phải vì con người ích kỷ, hẹp hòi không biết chia sẻ cho nhau không, hay thay vì chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men giúp con người đỡ khổ, thì lại tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang?
Thật nguy hiểm, khi con người ngày càng giầu về vật chất, nhưng lại nghèo về tinh thần như: đạo lý, công bằng, tình thương, sự thật, tình liên đới và trách nhiệm, kéo theo sự đói nghèo tổng thể. Phải khẳng định rằng, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Người cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8), nên con người tự bản chất là tình thương. Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: “Xin dọn cho dân chúng ăn” (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: “Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Êlisê ra lệnh: “Cứ dọn cho dân chúng ăn ” (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn… ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” (Ga 6, 10- 12).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Nhìn thấy đám đông, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Đây là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Đức Giêsu không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được ủi an, dạy dỗ và bảo ban.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Triệu chứng thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, không ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công mà không thấy phẫn nộ ; thấy điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm.
Chúa muốn loại bỏ sự vô cảm nơi các môn đệ, Người phán: “Cứ bảo họ ngồi xuống”. Ngồi xuống để làm gì, phải chuẩn bị đồ ăn cho họ thôi, một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải truyền tới bàn tay.
Đồng cảm là góp phần mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô, năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán như thế, không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt tay vào. Đồng cảm không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Đồng cảm là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Quả thật, có lòng thương cảm người khác là một điều tốt, nhưng chưa đủ, cần phải có hành động thực sự nữa. Chúa Giêsu đã làm và dạy chúng ta như thế. Thử nghĩ, trước nỗi đau và túng cực của tha nhân, ta có thái độ thế nào? Ngoảnh mặt làm ngơ hay bưng tai giả vờ làm điếc, không thể chấp nhận được. Chúa không đòi chúng ta làm những việc to lớn, nhưng đòi chúng ta biết chia sẻ những gì trong tầm tay của chúng ta, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Ngạn ngữ phương tây có nói: Giúp người thì trời giúp cho. Việt Nam ta cũng thường nói: ở xởi nởi thì trời cởi cho, ở xẻn xo thì trời co tay lại.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Những người già bị bỏ rơi cô đơn, người này đói vì tôi vô tâm hay đã ăn quá nhiều, người kia rách vì tôi đã mê mải chạy theo mốt. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của chúng ta. Ý thức về sứ mạng này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả, những người cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương.
Lạy Đức Maria, Đấng chỉ bảo đàng lành, xin cầu cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Thánh Augustinô đã nói: “Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài”. Nói như vậy có nghĩa là gì? Vì Sách Sáng Thế viết rằng Thiên Chúa toàn năng phán một lời thì có tất cả mà. Rồi, các Sách Tin Mừng tường thuật chúng ta thấy Chúa Giêsu làm biết bao nhiêu phép lạ: cho người què được đi, người mù được thấy, kẻ chết sống lại…chứng tỏ Ngài quyền năng phép tắc như thế thì Ngài muốn cứu ai cũng được mà!? Tại sao phải đòi chúng ta cộng tác?
Bài đọc 1, Sách Các Vua kể chỉ có hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê- li- sa nói: “Phát cho người ta ăn.” Nhưng tiểu đồng không chịu vì có mấy cái, sao phát đủ cho cả trăm người ăn được? Ông bảo: Cứ phát đi Thiên Chúa sẽ làm phép lạ! Qủa thế, khi tiểu đồng phát cho họ, bánh hóa nhiều, họ ăn no nê mà vẫn còn dư. Đến, Bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ. Sự đóng góp của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn đến nỗi hàng ngàn người được no nê giữa một nơi hoang vắng. Thử hỏi ngược lại, ông từ Ba- an Salisa không biếu quà cho ông Ê- li- sa; nếu em bé này không đưa bánh và cá, thì Chúa có hóa bánh ra nhiều không? Dĩ nhiên có! Nhưng Chúa cần sự công tác công- sức- của chúng ta dù nhỏ bé ngõ hầu thành quả chúng ta có được quí giá và đáng trân trọng.
Cụ thể, thánh Augustinô một con người tội lỗi tầy trời ấy thế mà trở thành bậc thánh vĩ đại vì Ngài chịu cộng tác với Chúa bằng việc sám hối quay về với Chúa. Và Chúa đã biến đổi đời Ngài từ tội nhân thành thánh. Rồi Mẹ Têrêxa Calculta, một bà già nhăn nheo, lưng còng làm được gì. Ấy thế mà Mẹ cộng tác với Chúa bằng cách sẵn sàng cho đi chính cái già nua, nhăn nheo, lưng còng qua việc phục vụ Chúa và tha nhân. Và Chúa đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu qua công tác phục vụ của Mẹ đến nỗi cả thế giới nghiêng mình bái phục.
Quay lại bài Tin Mừng, Chúa bảo các môn đệ cộng tác với Ngài bằng việc phân phát cho họ ăn và chỉ khi các môn đệ phát bánh và cá thì Chúa mới làm phép lạ. Chúa muốn dạy rằng Chúa cần sự cộng tác của chúng ta trong chương trình cứu nhân độ thế của Thiên Chúa đã giao cho chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, chúng ta phải ra sức chung tay chung lòng để xây dựng cuộc sống này tươi sáng, ấm no và hạnh phúc hơn. Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì mình có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng sức lực, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh có như thế Chúa sẽ làm phép ban cho tất cả những gì chúng ta muốn, chúng ta xin. Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyên bảo: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau”.
Báo Tiền Phong có đăng bài viết ” Chàng trai ‘hư’ trúng số tiền tỷ, mua nhà tặng mẹ” kể rằng Phan Nẵng bỏ học lớp 9 do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải đi bán vé số, bán quán, trông trẻ thuê… Nhưng Nẵng buồn tủi vì bố mẹ nhiều lần cãi cọ, Mẹ Nẵng 53 tuổi bỏ nhà đi lang thang, làm đủ nghề kiếm sống. Thế là Nẵng theo chúng bạn chơi bời, lêu lổng, cắp cắp vặt ở chợ. Bị bắt và đưa đi trại cải huấn. Sau thời gian cải huấn, Nẵng đổi đời quyết làm lại từ đầu. Làm khuôn vác cho bà chủ quầy hàng. Một lần nọ, em đang phụ bán hàng ở chợ, thấy ông lão bán vé số cầm mấy tờ vé số năn nỉ nhiều người không ai mua, lúc này chỉ còn hơn 10 phút nữa tới giờ sổ số. Nẵng nghĩ nếu không bán,chắc ông lỗ vốn cả ngày. Em mua dùm ông 5 vé còn lại. Sáng hôm sau, em trúng số đặc biệt 3 vé, gần một tỷ đồng. Người chúc mừng thì ít, người kéo đến rủ rê chơi bời thì nhiều nhưng Nẵng một mực từ chối. Cậu dành ít tiền giúp một số bà con nghèo, còn lại mua căn nhà nhỏ, và mời mẹ về ở.
Chúa đó! em Nẵng đã cộng tác với Chúa nghèo khổ qua việc yêu thương giúp đỡ người nghèo khổ. Và Chúa đã làm phép lạ nơi em. Ước gì sau thánh lễ này, về với gia đình, để gia đình được êm ấm, hạnh phúc: Chúa đòi hỏi sự cộng tác của vợ chồng, con cái bằng sự thuận hòa, yêu thương, tha thứ, hy sinh, phục vụ cho nhau, vì một sự nhịn là chín sự lành. Đối với xã hội, để xã hội này không còn chiến tranh, không có bạo lực, không có cướp bóc, giết người, không có người nghèo đói… Chúa muốn chúng ta phải cộng tác bằng lòng bao dung, lòng nhân ái, lòng thiện và lòng quảng đại cho đi. Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và mang lại ơn cứu độ cho mình và cho nhiều người. Một tấm bánh nhỏ bé, chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu được trao ban cho một người nghèo đói thì quả là to lớn và hạnh phúc biết bao vì “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Xin Chúa giúp chúng ta hăng say thi triệt để Lời Chúa dạy hôm nay. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Đói khắp nơi!
Nơi nào cũng có người đang chết vì đói.
Về Việt Nam, vì đi du lịch ở những khu du lịch sang trọng, nghỉ ở khách sạn 3 sao, 5 sao, 5, 7 tầng cao ngất, ăn ở nhà hàng đắt tiền đủ món ngon vật lạ, tiêu khiển ở những khu giải trí lắm trò lãng phí nên bạn phải thấy cảnh ăn chơi thừa mứa của các quan lại, đại gia, của những tay dốt đặc cán mai học làm sang nhờ những đồng tiền kiếm được mà không đổi lấy chút mồ hôi nước mắt. Họ ăn quá no, uống quá say, nhưng thực ra, họ đang đói: đói một niềm tin, đói một lý tưởng, đói một ý nghĩa cuộc đời.
Nếu về Việt Nam, bạn chịu khó bước xuống khỏi mấy tầng khách sạn kia, chịu khó len vào con hẻm nhỏ, chịu khó ra phía sau những mặt tiền vĩ đại, chịu khó cúi mình chui qua những góc phố chật chội tanh hôi, chui vào những “ổ chuột sài gòn”… hoặc xa hơn một tí, bạn hãy ra khỏi Sàigòn, ra khỏi các thành phố, để về những hóc núi tối tăm xa xôi, bạn sẽ thấy còn biết bao người đang đói từng bữa cơm trắng, đói từng con cá tươi, đói cả gói mì tôm chưa đầy năm ngàn đồng, đói cái quần tấm áo, đói một viên thuốc, đói vệ sinh, đói những nhu cầu căn bản nhất của con người.
Còn có cả những cái đói tri thức, đói công lý, đói tinh thần, đói tình thương đang hiện diện khắp nơi.
– Càng lúc càng có nhiều người trẻ đói tình thương của cha của mẹ.
– Giới trẻ đang đói một quan tâm đúng mức về tình trạng nguội đức tin và buông thả đời sống luân lý.
– Các gia đình đang đói một chuẩn mực đơn hôn, vĩnh hôn, hạnh phúc, đói một chuẩn mực của giáo hội thu nhỏ.
– Giáo dân đang đói những gương lành hy sinh cho chính đạo, đói gương sáng đạo đức, đói thông tin quan trọng về hiện tình giáo hội trong nước.
– Những người đau khổ vì tội lỗi công khai đang đói một ánh mắt chạnh lòng thương cảm.
– Những người bị áp bức đang đói tiếng trống kêu oan, người tù tội đang đói mối thương người “thăm viếng kẻ tù rạc”.
Con Cuông đang đói một lời cầu nguyện, chia sẻ, động viên, và bênh vực cho những người bảo vệ đức tin, công lý, tự do trước thế lực gian tà xem thường Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa.
…. Đói khắp nơi!
Chúa không để chúng ta đói
Là ông chủ tốt bụng, là người Cha nhân lành, Thiên Chúa không muốn con người chúng ta chết vì đói, cũng không để chúng ta chết đói. Ngài ban cho chúng ta trí khôn để biết kiếm cái ăn, và ban cho trái tim để biết chia sẻ cái ăn cho người khác. Chỉ tiếc là, chúng ta biết tận dụng khả năng của trí khôn để kiếm ra cái ăn cho mình nhưng không có trái tim chạnh lòng thương người chia sẻ cái ăn cho người nên mới xảy ra là, “kẻ ăn không hết, người làm không ra”. Người nghèo đói cái ăn, người giàu đói lòng nhân ái. Cả hai đều đói.
Tin Mừng hôm nay giới thiệu một Đức Giêsu có lòng nhân ái trước cái đói phần xác của con người và giới thiệu một người có lòng nhân ái giống Chúa Giêsu, không ai khác, đó là một em bé, có năm chiếc bánh be bé và hai con cá nho nhỏ.
Vâng Tin Mừng thuật lại rằng: Chúa Giêsu để ý đến đoàn người theo Ngài đang đói, và Ngài muốn kiếm cho họ cái ăn: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Chúa Giêsu không hỏi phải tốn bao nhiêu tiền lo cho người ta ăn nhưng Ngài hỏi “mua ở đâu”. Vậy mà, Philipphê muốn tránh né chuyện lo ăn cho người ta bằng cách trả lời:”Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Còn ông Anre, đã không đi mua, lại còn tính toán chi li đến chuyện đòi chia phần nhỏ của em bé cho ngàn người ăn trong khi chưa biết em bé có bằng lòng không.
Chuyện kỳ diệu đã xảy ra là em bé bằng lòng trao 5 chiếc bánh và hai con cá cho các ông. Năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, là khẩu phần vừa đủ cho một em bé. Em đã sẵn sàng cho đi phần nuôi sống mình. Nếu 5 chiếc bánh và hai con cá ấy của một người lớn, người có đầy kinh nghiệm về cuộc sinh tồn, chắc gì, người ấy đã sẻ chia? Em bé nầy giống Chúa Giêsu vì có lòng nhân ái, sẵn sàng cho đi chính sự sống của mình. Và phép lạ của lòng nhân ái đã xảy ra. Mọi người ăn no.
Chúa muốn chúng ta nuôi nhau
Chúa muốn chúng ta nuôi sống nhau bằng lòng nhân ái, bằng trái tim biết chạnh lòng thương. Nhưng lòng nhân ái, và trái tim chạnh thương chỉ có nơi những tâm hồn bé nhỏ, biết tín thác hoàn toàn vào Chúa.
Giá trị của việc cho đi ở chỗ cho đi chính nhu cầu của mình. Những đồng tiền bác ái không phải là những đồng tiền dư thừa, nhưng chính là đồng tiền nuôi sống gia đình. Chia sẻ chính đồng tiền nuôi sống mình, chứ không phải chia sẻ đồng tiền dư thừa, cất để.
Năm chiếc bánh be bé của em bé, hai con cá nho nhỏ của em nhỏ làm tôi liên tưởng đến miếng cơm manh áo của chúng ta trong những ngày cùng cực sau 1975. Người có tiền xếp hàng mua từng mét vải, từng cân gạo, từng ký cá. Có người không tiền đứng ngoài hàng ngó người trong hàng mà đứt từng đoạn ruột khi nghĩ đến đám nhỏ nhà mình sẽ không có gì để ăn để sống trong những ngày sắp tới. Chờ người trong hàng bước ra với đôi cân gạo mới dám tỏ bày: “Chị cho em mượn một lon gạo. Một lon thôi, thằng út thèm cháo mấy hôm rồi”. Chị kia lấy tay vóc mấy vóc gạo thiu hẫm: “Chị cầm đỡ đi, nhà tôi chín người, cũng đang đói”.
Thương ơi những ngày gian khổ ấy, và cũng chính từ những gian khổ ấy, mới rõ ra rằng “việc nhỏ” của “tấm lòng lớn” là việc của Hy Tế.
Có vài “nhóm bác ái công giáo” ở Sài Gòn không thường đi du lịch, nhưng lại rất thường có những chuyến đi thăm các họ đạo xa xôi ở miền Tây sông nước, ở miền Trung cao nguyên hay mạn ngược miền sơn cước phía bắc. Tôi nể phục họ vì họ đến để “xem nơi người ở và ở lại với người”, ăn uống với người, sinh hoạt với người, hiểu người, yêu mến người và cuối cùng là tìm đủ mọi cách để chia sẻ cho người những điều kiện sống tương đối hơn.
Có lần họ đến thăm một vài Giáo Xứ gần nơi tôi sống, rồi về kể cho nhau nghe: Về thăm xóm rẫy của anh H, và dự thánh lễ tại nhà thờ một giáo họ, mình để ý có mấy người đi lễ mang những chiếc áo dài không sang trọng lắm, nhưng đủ đàng hoàng xinh đẹp mà chính tay mình đã xin về, giặt ủi, xếp vào bao và giao cho anh H. Ôi, mình thật hạnh phúc, thật sung sướng vì đã góp một chút công vào phép lạ của tình thương Thiên Chúa. Quả thực, nếu có những sẻ chia phát xuất từ trái tim nhân ái, chắc hẳn sẽ không còn quá nhiều cảnh khổ đau, chết chóc vì đói.
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi chúng ta biết tín thác vào Chúa, và biết sẻ chia sự sống cho nhau. Sự sống ấy, không chỉ là cái ăn, cái mặc mà còn là tình thương, lòng thông cảm, mà còn là gióng lên tiếng trống kêu oan, rập ràng tiếng kinh nguyện cầu cho công lý, ý hợp tâm đầu bảo vệ Đức Tin công giáo, tiếp sức cho người chiến đấu cho công lý, cho tự do…
Hình ảnh em bé với “ năm tấm bánh bé hai con cá nhỏ” có thể làm động lòng chúng ta. Thiết tưởng, bao lâu chúng ta còn muốn làm người lớn với bao toan tính, tránh né, an vị yên thân, thì bấy lâu vẫn còn khó lòng mà biết sẻ chia cho đời tấm bánh hay con cá vốn đã dư thừa, cất để.
Nguyện xin Chúa cho chúng con lòng đơn sơ khiêm nhượng tín thác như bé thơ để dám tin rằng ai đành mất sự sống mình thì được sống muôn đời. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe tôi ghi nhận hai thái độ để chúng ta suy nghĩ, đó là thái độ của các tông đồ và thái độ của dân chúng.
Thực vậy, Chúa Giêsu thương xót dân chúng vì đã ba ngày trời họ đi theo Ngài mà không có lấy một hột cơm bỏ vào bụng. Ngài biết mình sẽ giải quyết như thế nào. Có ông đề nghị: Thôi hãy giải tán mỗi người mỗi đường để họ tự lo lấy. Có ông đưa ra một giải pháp không thể thực hiện được: dẫu có đến 200 đồng bạc cũng không mua đủ thức ăn. Có ông đưa ra giải pháp tưởng như vô lý: ở đây chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá làm sao nuôi đủ đám đông. Các tông đồ của Chúa Giêsu đã thực thi bác ái như thế đấy. Phải chăng vì các ông không có tình yêu nên không làm phép lạ được.
Còn chúng ta, những tông đồ của Chúa trong ngày hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ gì? Chắc chắn chúng ta không có hũ gạo như tiên tri Elia, phân phát hoài mà không hết. Chúng ta cũng chẳng có túi tiền không bao giờ cạn. Nhưng có lẽ vì không có tình yêu nên không làm được phép lạ nào cả. Một lời nói, một cử chỉ cũng có thể hoá nên phép lạ để người khác được ấm bụng, được an lòng.
Còn đối với đám đông dân chúng theo Chúa Giêsu, họ đang đói bụng, đang dao động, đang băn khoăn, đang lo âu, thế mà Chúa Giêsu lại bảo họ: Các con hãy ngồi xuống. Như thế, Ngài đòi hỏi dân chúng một điều khó khăn nhất, đắt giá nhất, đó là điều họ không muốn làm là phải ngồi xuống. Vì bao lâu họ còn đứng, còn đi lại được, họ còn có cơ may hy vọng kiếm chút gì để ăn. Một vài người, bằng hành vi phó thác đã bắt chước làm theo. Họ ngồi xuống tức là họ đã từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng để cùng nhau làm một hành vi đức tin và đức mến. Chính vì họ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tình yêu, cho bánh hoá ra nhiều để nuôi sống họ giữa chốn hoang vu.
Có tình yêu mới phát sinh ra phép lạ. Bánh được chuyền tay nhau. Phép lạ đã xảy ra và mọi người được ăn no nê.
Quan đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy em nhỏ mà Philipphê giới thiệu đã nhường cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cái, để rồi từ chút lương thực khiêm tốn này, Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống một đám đông cả ngàn người nơi hoang địa. Chúng ta ca ngợi thái độ của em nhỏ vì đó là thái độ chia sẻ, thắm tình bác ái và yêu thương, bởi vì nếu em nhỏ ấy vì ích kỷ, bo bo gữ lấy khẩu phẩn của mình, thì chưa chắc là phép lạ đã xảy ra.
Từ ý tưởng này, chúng ta đi vào bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nói bí tích Thánh Thể chính là bí tích của sự chia sẻ, chính là bí tích của tình bác ái yêu thương. Thực vậy, khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy. Như vậy khi lên rước lễ, chúng ta cùng chia sẻ một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã viết: Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và trở nên một thân thể Đức Kitô.
Tinh thần chia sẻ và yêu thương này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn qua nghi thức bẻ bánh, tức là bí tích Thánh Thể của những thế kỷ đầu. Thời ấy mỗi khi đi tham dự Thánh lễ, người ta đem theo bánh rượu và lương thực. Một phần được dùng để cử hành nghi thức, một phần được dùng để nuôi sống những người phục vụ bàn thờ, còn một phần được dùng để làm phúc bố thí cho kẻ nghèo. Rồi trong đời sống, người ta gom góp mọi sự làm của chung và phân phối cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của mình.
Mặc dù hình thức ấy ngày nay không còn nữa, nhưng tinh thần chia sẻ và yêu thương vẫn còn là điều chúng ta phải thực hiện mỗi khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Tinh thần ấy không phải chỉ được biểu lộ trong nhà thờ, khi chúng ta lên rước lễ, khi chúng ta chia sẻ Mình Thánh Đức Kitô, mà còn phải được biểu lộ trong đời sống bằng những hành động nhường cơm sẻ áo, kích lệ và nâng đỡ những người chung quanh, cho dù sự chia sẻ và nâng đỡ ấy chỉ là nhỏ bé như tục ngữ đã bảo: Miếng khi đói bằng gói khi no. Lá lành đùm lá rách. Vậy chúng ta đã thực hiện cái tinh thần ấy như thế nào.
Nhiều khi ở trong nhà thờ chúng ta rất đạo đức và sốt sắng, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta không chịu chia sẻ và giúp đỡ người khác, trái lại còn bóc lột, hà hiếp người khác bằng những hành động gian tham và bất công, bằng những cách đối xử tệ bạc và hận thù. Bởi đó, từ hình ảnh em nhỏ dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cái, chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã thực hiện được tinh thần chia sẻ và yêu thương mà bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta hay chưa?
Hãy cộng tác với ơn Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.
Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.
Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.
Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu này được thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất nơi con người Đức Giêsu. Thế nên, đến trong thế trần Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa làm nhiều phép lạ chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Không những Ngài quan tâm đến phần rỗi nhân loại mà Ngài còn quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác. Và hôm nay Ngài làm phép lạ để cho dân chúng ăn no nê. Ngài đã cho các môn đệ cộng tác trong phần của mình để có phép lạ xảy ra.
Con người cần sống liên đới trong tình thương. Từ phép lạ này, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta biết các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông cũng có lòng thương nhưng chỉ ở mức “tội nghiệp” họ nên thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ yêu thương bình thường. Nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi xa hơn, thể hiện tình thương bằng việc làm cụ thể, liên đới với tha nhân trong đó có phần của các ông đóng góp tích cực, có phần các ông cộng tác “các con hãy cho họ ăn”.
Thực tế, có tấm lòng thương người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, thực sự. Chúa Giêsu thể hiện và Ngài muốn chúng ta làm như thế. Như vậy, có lòng trắc ẩn, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ một cách cụ thể. Chúa không đòi chúng ta phải làm quá sức mình, hay những việc ngoài khả năng nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, giúp đỡ, phải biết làm những gì có thể làm được trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ tiếp tay thực hiện. Điều khác cũng quan trọng không kém là không phải cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra người khác cũng là con Thiên Chúa, là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta hãy biết cộng tác. Thật thế, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Có thể nói cũng vậy, nếu không có bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, bởi vì theo Thánh kinh, từ thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ trong hư vô (Stk 1, 1 – 24) Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Tuy nhiên ở đây Chúa muốn cho các môn đệ và tất cả chúng ta thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, dù rất nhỏ của một em bé. Em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Vì thế, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Như vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta là Chúa cần có sự cộng tác của mỗi người trong chương trình của Thiên Chúa. Đối với chúng ta, bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa tạo dựng con, Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con, Ngài cần có sự cộng tác của con”.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Chúa Giêsu đang ngỏ lời với chúng ta “Ta cần lòng quảng đại của các con”. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì. Chẳng hạn như thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta. Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và hai con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết quảng đại bằng cách cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để làm cho cuộc đời này lan tràn tình thương của Chúa và phép lạ được tiếp tục thể hiện.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
ĐỨC GIÊSU PHÂN PHÁT CHO NHỮNG NGƯỜI NGỒI ĐÓ
Chúng ta không thể hiểu được nhân cách của một người sống chung với chúng ta dù đã sống bên nhau nhiều năm. Ngay cả vợ chồng với nhau cũng vậy. Nhiều lúc phải ngạc nhiên vì những phản ứng bất ngờ của người kia. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Đối với Chúa Giêsu, các môn đệ là những người sống gần gũi với Ngài nhất, cũng luôn ngạc nhiên về những nét lạ lùng của nhân cách Ngài. Ngài là một huyền nhiệm trên hết mọi huyền nhiệm.
Hôm nay, chúng ta nghe thánh Gioan tường thuật một phép lạ của Ngài, gây ngạc nhiên và bỡ ngỡ cho các môn đệ và cho cả đám dân theo Ngài.
Đây không chỉ là một tường thuật về một phép lạ mà là vẽ lên một nét đặc trưng của Chúa Giêsu. Ngài hóa bánh ra nhiều để cho dân chúng ăn.
Các thánh sử khác cho rằng, Ngài thấy dân chúng đang đói không có gì ăn, Ngài mới hóa bánh ra nuôi họ. Ở đây, Gioan không nói gì về nhu cầu của dân mà chỉ nói đến một hành động do chính Ngài muốn. Ngài muốn cho dân ăn một bữa no nê.
Trước khi hóa bánh ra nhiều, Ngài hỏi ý Philipphê để xem ông phản ứng ra sao. Đúng như Ngài đoán, Philipphê bối rối: làm sao có thể nuôi một số người đông đảo như thế trong vùng hoang vắng này. Có tiền cũng không tài nào mua bánh đâu cho đủ. Ngài đặt ông trước một sự thật mà khả năng ông không thể đáp ứng và ông phải thú nhận sự bất lực của mình. Chúng ta cũng thế thôi. Nếu không có Chúa, chúng ta làm được gì? Có lẽ chúng ta có thể xây nhà, phát triển kinh tế… nhưng bao nhiêu đó có là gì? Những công trình của loài người chỉ là vết chân chim trên bãi cát dài, nước biển sẽ bôi xóa tất cả. Những công trình thế kỷ của loài người đều tàn tạ theo ngày tháng. Nhưng kim tử tháp Ai Cập, dù tồn tại hàng nghìn năm cũng chỉ còn là những vết tích phai mờ của một quá khứ vẻ vang mà thôi. Chúng ta có tài giỏi đến đâu, phương tiện của chúng ta dồi dào đến đâu cũng không thể tồn tại. Một cuộc động đất có thể phá hủy toàn bộ những công trình của nhiều thế kỷ. Khả năng của chúng ta mong manh như thế. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được những gì Ngài muốn: “Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể được”.
Chúng ta làm được gì trước bạo lực đang bao trùm thế giới? Chúng ta làm được gì trước làn sóng gian ác đang tràn ngập thế giới? Trước nạn đói đang hoành hành trên nhiều miền thế giới? Chỉ có Chúa mới có thể giải cứu con người, mới đem lại bình an và hạnh phúc cho con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta cùng cộng tác với Ngài. Hãy đem đến cho Ngài năm chiếc bánh và hai con cá của chúng ta. Chúa sẽ dùng nó để làm công việc của Ngài. Ngài muốn chúng ta góp phần của mình để mang lại cho tha nhân nguồn sống hạnh phúc.
Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Chúng ta nhớ câu chuyện ở đám cưới tại Cana. Chúa đã cho nhà đám một món quà hết sức quí báu là hơn sáu trăm lít rượu ngon hảo hạng. Chúa cho chúng ta thấy, Ngài là sự sung mãn vô biên. Ngài không hẹp hòi như chúng ta. Ngài cũng không bất lực như chúng ta. Muốn làm được việc gì tồn tại, chỉ cần một điều kiện tiên quyết: tin. Ở Cana, Đức Mẹ đã tin. Niềm tin là một bảo đảm không thể thiếu vì: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.
Thánh Gioan, khi tường thuật phép lạ này, ngài dùng những từ quen thuộc với chúng ta: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, phân phát cho những người ngồi đó… Nhưng cử chỉ này báo trước một việc mà Ngài sẽ làm sau này trước khi chịu khổ nạn. Ở đây chưa đến lúc chúng ta nói đến việc đó. Chúng ta chỉ chú ý đến khuôn mặt lạ lùng của Ngài thôi.
Sau khi dân chúng ăn no, Chúa Giêsu bảo các môn đệ gom lại những mảnh vụn còn dư, và họ đã gom lại được mười hai thúng đầy. Đây không phải là một việc cần thiết vì gom lại làm gì khi mọi người đã ăn no và rồi đây họ sẽ tản mát? Đây cũng không phải để tiết kiệm vì không còn ai ăn nữa. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho thấy sự dồi dào của hồng ân. Thiên Chúa không tiếc ơn lành của Ngài. Ngài trao ban nhiều hơn chúng ta cần. Con số mười hai của dân Do Thái là con số tượng trưng cho sự tròn đầy. Ngài muốn chứng tỏ sự quảng đại của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
ĐỨC GIÊSU PHÂN PHÁT CHO NHỮNG NGƯỜI NGỒI ĐÓ
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã được tất cả các thánh sử đều ghi lại, nhưng tường thuật của Gioan nhắm đến một hướng khác.
Đây là một phép lạ do chính Chúa Giêsu khởi xướng từ đầu đến cuối. Chúa thấy đoàn lũ dân chúng theo Ngài, Ngài muốn cho họ ăn một bữa, chứ không phải vì thấy họ đã đi theo Ngài suốt ngày. Đây không phải là do nhu cầu, mà chỉ do ý muốn của Chúa mà thôi.
Thánh Gioan ghi rõ: phép lạ này được thực hiện ở vùng đất Galilê, là môi trường rao giảng thường xuyên của Chúa, là nơi Ngài đã làm một phép lạ tương tự là hóa nước lã thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Cana. Hai phép lạ có những nét tương đồng và chứng tỏ sự sung mãn tràn trề của Ngài. Ngài đến để mang cho loài người sự sung mãn của Thiên Chúa.
Ở tiệc cưới Cana, thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê và bày tỏ vinh quang Người. Các môn đệ đã tin vào Người”.
Lần này, Chúa Giêsu cũng làm một phép lạ tương tự cho cả một đám đông trên năm ngàn người. Để thực hiện ý định của Ngài, Chúa Giêsu đưa đám dân lên núi, nơi vùng đất đủ rộng để quy tụ đám dân đông như thế. Nhưng Gioan không phải ngẫu nhiên nói đến vùng núi tiện lợi để quy tụ dân chúng mà thôi, ngài muốn nhắc lại biến cố thời xa xưa, thời ông Môsê dẫn đoàn dân vào sa mạc, ở đó, xa tất cả sự huyên náo của thị thành, chỉ có Chúa và đám đông thôi. Đó là môi trường lý tưởng để gặp gỡ như Chúa nói qua tiên tri Hôsê: “Này Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc, ở đó Ta sẽ rót vào tai nó những lời ngọt ngào yêu thương”.
Chúng ta cũng nhớ đến bài giảng trên núi. Chúa công bố Hiến Chương Nước Trời là tám mối phúc thật, trong cùng một khung cảnh như thế. Việc quy tụ dân chúng trên núi không chỉ là một chi tiết địa dư mà là hình ảnh của Đấng Cứu Độ, quy tụ dân Ngài. Đối với Gioan, mọi chi tiết đều mang một ý nghĩa.
Trước khi thực hiện ý định của Ngài, Chúa Giêsu cũng muốn có sự tham gia của các môn đệ. Ngài hỏi Philipphê: “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?” Đây cũng là cách trêu chọc xem Philipphê phản ứng cách nào, vì Ngài đã biết Ngài sẽ làm gì. Trước câu hỏi bất ngờ của Chúa, Philipphê ngỡ ngàng. Anrê cũng góp ý: “Ở đây có mộtem bé bán bánh mì có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá hấp”. Nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu!
Gioan nói rõ: “Chúa muốn thử Philipphê” nhưng cũng muốn cho các ông thấy sự nhỏ bé và bất lực của con người. Đứng trước một đám đông như thế, con người không thể làm gì, nhưng Thiên Chúa có thể. Chúa Giêsu mua hết mấy chiếc bánh và cá của em bé và làm những cử chỉ khiến các ông ngỡ ngàng. Ngài cầm bánh, dâng lời chúc tụng và phân phát cho mọi người. Những cử chỉ này chỉ là những cử chỉ thông thường của một người chủ gia đình trong bữa ăn, nhưng ở đây nó mang một tầm vóc khác. Thánh Gioan không tường thuật việc lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, như các thánh sử khác, ngài chỉ báo trước biến cố quan trọng này nơi đây.
Đám dân lành được ăn một bữa no nê. Nếu chúng ta ở trong đám dân đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Chắc hẳn chúng ta sẽ vui mừng vì được ăn thoải mái, không cực nhọc và cũng không tốn tiền. Chúng ta nghĩ sao về người đã cho chúng ta ăn no?
Sau khi mọi người ăn no, Chúa bảo các môn đệ gom những mảnh bánh vụn lại kẻo phí đi. Chúa tiếc những miến bánh còn dư hay sao? Với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã cho năm ngàn người ăn no, không lẽ Ngài tiếc những miếng bánh vụn? Ngài muốn nói đến một điều gì quan trọng hơn. Ngài muốn nói đến một thứ bánh không thể bị bỏ phí mà sau này Ngài sẽ ban cho, không chỉ cho năm ngàn người mà cho toàn thể nhân loại, một thứ bánh không hư nát mang lại sự sống đời đời, là chính thịt máu Ngài.
Người ta đã gom các mảnh bánh vụn lại được mười hai thúng đầy. Con số mười hai là con số tròn của người Do Thái, nghĩa là nhiều lắm, là toàn thể. Ngài muốn cho mọi người thấy sự sung mãn tuyệt diệu của Ngài và đây cũng mang một ý nghĩa tượng trưng khác. Gom lại những mảnh bánh vụn có thể hiểu là gom tất cả các dân tộc vào trong dân mới là dân Thiên Chúa. Đó là công việc mà Ngài trao cho các môn đệ. Giáo hội đang làm công việc này suốt bao nhiêu thế kỷ và cho đến tận thế.
Trong tường thuật ngắn gọn này, Gioan đã nhắc đến nhiều yếu tố Cựu Ước: như nhắc đến manna trong sa mạc trong thời Môsê. Hai mươi chiếc bánh thời tiên tri Êlisa mà bài đọc thứ nhất đã nhắc đến. Cả trăm người ăn mà vẫn còn dư. Ở đây năm ngàn người ăn năm cái bánh mà vẫn còn dư. Bãi cỏ xanh để người ta ngồi ăn thoải mái làm chúng ta nhớ đến lời thánh vịnh 23: “Chúa đưa tôi vào đồng cỏ xanh tươi…” Nhắc đến những biến cố Cựu Ước để làm gì? Phải chăng là để chúng ta thấy rằng chương trình của Thiên Chúa đã sắp sẵn từ lâu và vẫn tiếp tục. Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện những gì đã được tiên báo từ lâu. Chúng ta đang nằm trong chương trình dài hạn đó và mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng, một vai trò. Chúng ta có biết không?
Chúng ta phải mang sự sung mãn tràn trề của ơn Chúa cho mọi người. Chúng ta lãnh nhận nhưng không, phải cho đi nhưng không. Cho đi như ánh sáng, vô điều kiện: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Cho đi rồi gom lại kẻo phí đi. Gom lại để chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” Chúa Giêsu đến để gom lại tất cả thành một.
Phép lạ này đã làm cho đám dân vui mừng nhưng đã kết thúc như một thất bại: đám dân chúng đã hiểu lầm về con người của ông Giêsu, người đã cho họ ăn một bữa no nê. Họ nghĩ rằng ông này là một vị ngôn sứ phải đến như sách Thánh đã nói. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Họ không thể hiểu xa hơn.
Biết như thế, Chúa Giêsu lánh mặt và lên núi một mình. Ngài là Đấng Cứu Độ, nhưng không là một nhà giải phóng trần thế như dân đang mong đợi. Ngài đến mang sự sống cho thế gian nhưng không phải sự sống sung túc mà một sự sống dồi dào hơn, sung mãn hơn. Ngài biết sự mong manh của tính bộc phát của đám đông. Hôm nay hoan hô, ngày mai đòi đóng đinh trên thập giá. Ngài lên núi một mình để gặp Cha Ngài, suy tính đến những giai đoạn sắp tới.
Đây chỉ là khúc nhạc dạo đầu của một bản nhạc giao hưởng bất tận mà Chúa Giêsu là nhạc trưởng tài ba đã khởi xướng. Ngài tỏ lộ khuôn mặt quyền năng và đầy yêu thương của Ngài cho mọi người.
Xưa kia Ngài dùng năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi năm ngàn người trong sa mạc, hôm nay và mỗi ngày, trên bàn thờ hiến tế, qua tay các linh mục, Ngài lấy chính thịt máu Ngài nuôi mọi tâm hồn khao khát và nhờ đó, chúng ta lãnh nhận được sự sống muôn đời. Ngài mới là Bánh Trường Sinh, không hư hoại, là sự sống thật. Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ được no thỏa. Ngài mang lại cho chúng ta sức mạnh để lướt thắng mọi khó khăn trên đời và đạt tới hạnh phúc muôn đời. Chỉ cần tin và đến với Ngài trong một tâm tình thành thật. Ngài là Tình Yêu trọn vẹn. Ngài cho đi mà không bao giờ lấy lại. Ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ không còn thèm khát những bữa tiệc mong manh, chán buồn của trần gian. Ăn lấy Ngài chúng ta học được bài học cho đi vô điều kiện và hạnh phúc của chúng ta sẽ mãi mãi là cho đi như Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
- Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực. Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái, đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127, 1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn, chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
- Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người. Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh em mình.
III. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Giêsu, cuộc sống của họ và của những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người thực tế không? Tại sao?
- Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay vinh dự cho bạn? Tại sao?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
- Sống xứng đáng với ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban cho anh em (Ep.4, 1)
Ơn gọi của chúng ta là gì? “Hãy là thánh, vì Ta là thánh” (Lv.19, 1- 2; 1Pr.1, 16).
Thế nào là nên thánh?
Từ giây phút này trở đi, tôi muốn thuộc về Chúa, tôi không muốn phản bội tình yêu của Thiên Chúa nữa. Cho dù quãng đời trước tôi có tội lỗi như chị phụ nữ sám hối (Lc.7, 36tt), như Phaolô bách hại các kitô- hữu trước khi trở lại, như Augustinô hoang đàng, tôi vẫn có thể thành thánh như chị Maria Magdala, Phaolô và Augustinô.
Kể từ giây phút này trở đi, tôi sống khiêm tốn, sẵn sàng coi người khác trổi trang hơn mình, sẵn sàng nhường phần hơn cho người khác, chấp nhận tha nhân với những giới hạn của họ, sẵn sàng tha thứ khi bị xúc phạm, không giải thích kết án nhưng hãy coi mình với họ cùng một tinh thần khi có thể, cố gắng để hiệp nhất với người khác.
Không sống như thể “mình với cái tôi ích kỷ” là chuẩn mực, nhưng theo chuẩn mực là Thánh Thần Thiên Chúa. Sống trong tâm tình phó thác tất cả cho Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận tất cả như đến từ bàn tay Thiên Chúa. Ngay cả khi mình thấy mình vất vả gian nan mà vẫn không là thánh, không thắng nổi mình, thì vẫn cứ tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa, và sẵn sàng chờ đợi Ngài làm tất cả cho mình. Điều con người không thể làm được, thì Thiên Chúa có thể làm (Mc.10, 27; Lc.1, 37).
Nên thánh, không nằm trong tầm tay của con người, nhưng luôn nằm trong tầm tay của những người luôn chờ đợi tất cả nơi Thiên Chúa. Nên thánh, không tùy thuộc qúa khứ hay tương lai, nhưng giây phút hiện tại này.
- Đông đảo dân chúng đi theo Ngài
Dân chúng theo Đức Yêsu vì họ thấy những dấu lạ Đức Yêsu đã làm cho những kẻ đau ốm (Ga.6, 2). Nhưng phải chăng tất cả những người đi theo Đức Yêsu này đều đau ốm? Nếu không, họ theo Chúa để được gì? Đức Yêsu là điều họ cần, chính vì vậy họ đã đi theo Đức Yêsu.
Thiên Chúa khi tạo dựng con người, đã để nơi tâm hồn con người lòng khao khát Ngài. Vì thế, thời đại nào con người cũng khao khát và tìm kiếm Chân Thiện Mỹ. Có thể họ tìm kiếm nhưng chính họ cũng không rõ mình đang khao khát và tìm kiếm gì! “Ngài ở trong con, thế mà con vẫn tìm” (Augustinô). Đừng nói rằng thời nay người ta không còn khao khát tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng đúng hơn chúng ta phải nói về Thiên Chúa qua những khao khát và những điều họ tìm kiếm. Phải tự vấn xem chúng ta có trình bày Thiên Chúa thích hợp với não trạng của con người ngày nay, và có trình bày thỏa đáng để họ có thể chấp nhận được không?
Rao giảng về Thiên Chúa là nhiệm vụ của tất cả mọi người, của mọi kitô- hữu. Việc rao giảng không chỉ thực hiện bằng lời nói, nhưng chủ yếu bằng cuộc sống của mỗi người. Kitô- hữu không sống đạo, sẽ góp phần làm cho người khác khó tin vào Đức Yêsu, Đấng mà những kitô- hữu chân chính rao giảng.
III. Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây (Ga.6, 5)
Đức Yêsu để tâm đến cả những chi tiết rất trần thế: “làm sao có bánh cho họ ăn”. Một nơi khác Đức Yêsu dạy người ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều, là dấu chỉ của một điều tuyệt vời: Đức Yêsu làm bánh rượu trở nên mình máu Người, để trở thành lương thực nuôi sống con người. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Tin vào Lời Ngài, tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, sẽ sống bình an và hạnh phúc. Đức Yêsu là nguồn bình an và hy vọng.
Đức Yêsu hỏi Philip: Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? Và Anrê đã thêm vào: “ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu?” Phải chăng Anrê đã gợi ý một cách nào đó để Đức Yêsu làm phép lạ? Phải chăng ý của con người cũng giúp Thiên Chúa làm phép lạ? Đức Yêsu đã cần các tông đồ, để chuẩn bị cho dân chúng ăn. Các tông đồ đã truyền lại lời Đức Yêsu để dân chúng ngồi xuống thành nhóm, phân phát bánh và cá cho dân chúng… Thời xưa cũng như thời nay, Thiên Chúa vẫn dùng những con người để nuôi dưỡng dân Chúa. Thiên Chúa không dùng thiên thần nhưng dùng con người, cho dù con người đầy dẫy những giới hạn và thậm chí tội lỗi.
Bao nhiêu bậc làm cha làm mẹ đang tất bật làm việc để nuôi sống con cái! Đức Yêsu đã thành của ăn nuôi con người. Nếu các bậc làm cha làm mẹ lo lắng quên mình để kiếm lương thực nuôi sống con cái, là họ đang nên giống Đức Yêsu, đang nên thánh trong chính cuộc sống của họ. Một nghĩa nào đó, họ cũng là bánh cho con cái của họ, họ bị tiêu hao để con cái họ được sống và phát triển.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn hiểu nên thánh là gì? Có bao giờ bạn mong ước nên thánh không? Bạn có thể nên thánh bằng cách nào?
- Theo kinh nghiệm của bạn, con người ngày nay cần điều gì nhất? Nếu phải nói về Thiên Chúa cho họ, phải bắt đầu từ đâu?
- Bí tích Thánh Thể giúp gì cho bạn?
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
CHÚA GIÊSU CẦM LẤY BÁNH TẠ ƠN
VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO NÊ
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32- 33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33- 41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Hàng năm, cứ vào ngày 05/12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế”. Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người “nuôi năm ngàn người ăn no”. Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
***
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen.
ƯỚC MƠ BÌNH THƯỜNG ĐƯỢC ĐÁP ĐỀN ĐẶC BIỆT
Hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp!
Khi đời sống con người ngày càng không đơn giản, quan niệm về hạnh phúc cũng lắm phức tạp. Khi nhu cầu mỗi ngày một cao thì quan niệm về hạnh phúc cũng dần dần đổi khác. Người sống trong đói nghèo hạnh phúc chỉ là bữa cơm no. Người sống trong binh biến, hạnh phúc là nỗi khát mong xoá bỏ hận thù, im bặt tiếng súng. Nhưng khi mọi nhu cầu thường ngày được đáp ứng người ta lại hướng về những ước vọng cao hơn, xa hơn: nhu cầu chiếm hữu, nhu cầu muốn trổi vượt hay chinh phục vũ trụ thiên nhiên.
Ngày 20.7.2009 vừa qua thế giới kỷ niệm 40 năm lần đầu tiên con người đặt chân lên cung trăng ngày 20.7.1969. Hai tên tuổi được nhắc đến là Amstrong và Buzz Aldrin là những người khai màu cho những ước mơ lớn và đã trở thành hiện thực. Con người đã làm được điều mình ước mơ.
Nhìn đoàn dân đi theo Chúa Giêsu mỗi người mang một ước mơ khác nhau. Người theo vì sự hiếu kỳ muốn chứng kiến điềm lạ. Người theo kiểu “phong trào” để giống với bao nhiêu người khác. Người theo với hy vọng đổi đời theo nghĩa trần thế. Người theo với ý hướng tôn giáo như Tin Mừng mời gọi: Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Phép lạ hoá bánh ra nhiều hôm nay là dấu hiệu đáp đền cho những ước vọng dân chúng. Đây là bữa ăn đặc biệt vì có nhiều điểm đặc biệt.
Đặc biệt vì không mất “tiền”
Nói đến bữa ăn không mất tiền không mang ý nghĩa tính toán thiệt hơn, lời lỗ cho bằng nhắc nhớ đây là ân ban của Thiên Chúa. Một ân ban mà con người có được không tốn một đồng xu. Ân ban vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh vừa lắp đầy cả nhu cầu vật chất.
Những ai bước đi theo Chúa, cách này cách khác đều có quà tặng của Người. Có những bệnh nhân được chữa khỏi dọc đường. Có kẻ tội lỗi được kêu mời hoán cải. Khi thấy họ còn khắc khoải về phận người thì Chúa Giêsu nói cho họ về Tám Mối phúc thật.
Nhu cầu tâm linh đã được chú ý nhưng nhu cầu vật chất cũng được quan tâm. Chúa Giêsu đã thấy được cái đói rã rời, mệt lã và cả cái đói khắc khoải, lo âu. Nhiều cái đói hoà trộn với nhau làm choán ngợp phận người. Có cái đói có tiền mới thoát khỏi, có cái đói có tiền cũng chẳng ăn thua. Chính Chúa xuất hiện đã làm tan biến mọi điều mà không cần con người phải vay trả trả vay.
Đặc biệt vì cần đến “tình”
Tình thương Thiên Chúa luôn dạt dào nhưng công việc của Ngài không làm cách đơn phương. Ngài muốn con người có phần cộng tác. Dù đóng góp nhỏ nhoi nhưng đó là dấu hiệu của lòng thành. Chữ “tình” muốn nói đến ở đây đó là tình thương chia sẻ, tình thương quan tâm đến người. Quan tâm bằng cái nhìn thấu hiểu, chia sẻ bằng những gì sẵn có trong tay.
Theo William Barclay, năm chiếc bánh lúa mạch của bé trai là loại bánh rẽ tiền. Bánh lúa mạch là loại bánh bị khinh chê, vì lúa mạch là lương thực của gia súc. Do đó bánh lúa mạch là bánh của người nghèo. Còn cá cũng vậy, kẻ nghèo đâu được ăn cá tươi. Cá đứa bé chỉ là thứ cá thường, được ngâm muối, bắt lên từ biển Galilê. Đây là thức ăn phổ thông mà người trong vùng thường sử dụng.
Chúa không khinh chê sự đóng góp nho nhỏ của con người. Năm chiếc bánh cho năm ngàn người, tỉ lệ một phần ngàn thấm tháp vào đâu. Phải thừa nhận của cho ở đây không đáng giá nhưng cái tình thì quý biết bao. Tình của người quan tâm đóng góp, tình dân chúng quay quần trong bữa ăn, tình của Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót họ.
Đặc biệt vì cần đến “tin”
Phép là sẽ là niềm vui thoáng qua nếu nhiều người xem Chúa Giêsu như một ông Bụt trong chuyện cổ tích. Ông Bụt thường xuất hiện để ban bố khi con người cầu xin. Niềm tin đưa con người nhận ra Chúa Giêsu còn vượt xa ông Bụt nhiều. Từ bữa ăn trên thảm cỏ hôm nay Ngài mời gọi họ đến một bữa ăn ấm cúng trên Nước trời. Thức ăn bánh và cá sẽ được đổi bằng Thịt Máu Ngài.
Đức tin giúp con người thấy được sự thánh thiêng trong những gì thuần vật chất, thấy được phục vụ là niềm vui, thấy được cho có phúc hơn nhận. Phân phát bánh có vẻ vui hơn, chứ thu lại những mãnh vụn thì chẳng thích thú gì. Trong đức tin ta mới tìm thấy niềm vui trong phục vụ. Tình nhiều khi không cũng có nhưng đức tin cần có sự góp nhặt ân ban từng ngày mới có kinh nghiệm đức tin và sống đức tin.
Từ bữa ăn đặc biệt Chúa Giêsu muốn hình thành nơi mỗi người chúng ta một cách sống đặc biệt. “Chúng con sống giữa thế gian nhưng chúng con không thuộc về thế gian”. Sự phục vụ vô vị lợi, giúp người không tính toán, sống với nhau trọn chữ tình, sống với Chúa trong cậy tin đó là dấu hiệu đặc biệt chứng nhận ta thuộc về Đức Kitô. Ước mơ lớn nhất của chúng ta là được tham dự trong tiệc vui Nước Chúa. Bữa ăn đặc biệt cần có những con người đặc biệt.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Ông Tâm là một nông gia. Ngày kia, sau khi bán hết nông phẩn chở từ Cái Sắn lên thành phố Hồ Chí Minh, ông ghé vào tiệm để ăn một bữa trước khi trở về. Ông ngồi gần bàn một nhóm cán bộ đang hạch hỏi làm khó dễ người chủ tiệm và chọc ghẹo cô chiêu đãi viên. Khi món ăn đã đem đến cho ông, ông nghiêm trang làm Dấu Thánh Giá và cúi đầu thầm thĩ đọc kinh trước khi dùng bữa như thường quen. Thấy thái độ đạo đức của ông, bọn cán bộ tỏ vẻ tức tối khó chịu muốn gây sự với ông, thế là một tên trong bọn quát thật lớn như muốn cho mọi người trong tiệm ăn đều có thể nghe được: “Này bác già nhà quê kia ơi, bác từ đâu tới vậy? Trong thời buổi văn minh Xã Hội Chủ Nghĩa này mà còn kinh với kệ như vậy sao?” Rất bình thản, ông Tâm quay lại, với giọng ngọt ngào nhưng trịnh trọng cũng nói lớn tiếng, cốt ý cho mọi người có thể nghe được: “Thưa đồng chí cán bộ, tôi thiết tưởng, chỉ có bày heo, bày chó mới không đọc kinh cảm tạ ơn Chúa như vậy trước khi dùng bữa thôi!”
Mẩu truyện trên đây xảy ra giữa một Xã Hội Chủ Nghĩa mà kẻ thống trị đang ở thế mạnh, thì thật là một điều nguy hiểm đáng sợ. Không biết rồi ra số phận ông nông gia sẽ đi về đâu. Nhưng dầu sao, thái độ can đảm của ông cũng nêu cho chúng ta một mẫu gương đức tin sống động và lòng biết ơn Thiên Chúa, khiến chúng ta phải suy nghĩ và hết lòng cảm phục.
- NHÂN LOẠI ĐANG ĐÓI KHÁT
Bài sách Các Vua chúng ta vừa nghe, thuật lại mối cảm thương của nhà tiên tri trước cảnh đói khát của hàng trăm người đang chờ đợi ông, nên khi vừa nhận được lễ vật là 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa do một người từ Baal Salisa đem đến dâng, người của Thiên Chúa đã truyền ngay cho các đệ tử ngài phân phát cho dân chúng ăn. Chỉ có 20 chiếc bánh mà hàng trăm người ăn no mà vẫn còn dư đúng như lời Chúa đã phán trước.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng tường thuật một phép lạ vĩ đại, Chúa đã dùng 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá, nuôi 5000 người đang đói, ăn no thỏa thích mà phần còn dư thu lại được đầy 12 thúng. Thấu tỏ nỗi thống khổ của nhân loại đang đói khát, không phải họ chỉ đói khát cơm bánh mà thôi, mà còn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát Chân Lý và Lời Hằng Sống, nên Chúa rất động lòng thương phán với các môn đệ: “Thầy thương xót đám dân đông đảo này, vì họ bơ vơ như Đoàn Chiên không người chăn dắt”.
Ngày nay, thảm cảnh đói khát ấy vẫn còn đang diễn ra khắp đó đây trên thế giới. Cảnh đói khát cơm bánh thuốc thang và những nhu cầu vật chất tại các nước nghèo nàn chậm tiến đã khiến hằng năm có từng triệu, từng triệu người bị chết đói, nhất là ở Ấn Độ, Phi Châu hoặc nơi các nước thuộc quyền đảng cộng sản thống trị, như các nước Nga Sô, Trung Cộng, Việt Nam chẳng hạn, lại càng thảm khốc hơn nhiều. Nhưng còn một cơn đói khát thảm khốc hơn bội phần, đó là cơn đói khát lương thực thiêng liêng, đói khát chân lý, đói khát tình thương yêu, đói khát sự công bình xã hội, đói khát quyền tự do nhân bản… Cơn đói khát này đã làm cho con người phải héo hắt mòn mỏi, đến nỗi nhiều người đã trở nên điên khùng, và vì quá khổ đau, quá căng thẳng khiến họ bị quẩn trí, đến phải quyên sinh, tự vẫn cách tất tưởi.
- THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO
Chúng ta phải chân thành thú nhận rằng: Chúa ban cho chúng ta được may mắn hơn nhiều người, được thoát ách cộng sản độc tài, đến mảnh đất tự do này. Chúng ta được đầy đủ về mọi phương diện cả tinh thần lẫn vật chất hơn biết bao người khác. Ngoài những nhu cầu vật chất, cơm ăn, áo mặc, đồ dùng, nhà cửa, xe cộ… Chúng ta còn được hưởng tình thương yêu, đức công bình xã hội, sự tự do: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú… Chúng ta không bị chèn ép, bị đe dọa, bị nhòm ngó rình rập như số phận của đồng bào chúng ta đang phải chịu bên quê nhà.
Đành rằng, có một số người trong chúng ta cũng phải chịu cảnh thiệt thòi đôi chút, vì thời vàng son không còn nữa, chức vị Tướng Tá, Bộ Trưởng, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng… không còn nữa. Nhưng bù lại, con em chúng ta lại có nhiều cơ hội tiến thân, được hội nhập vào xã hội văn minh tân tiến, mở mang kiến thức, trau dồi nghệ thuật, thăng tiến cuộc sống, để trong tương lai khi được trở về quê hương, xây dựng đất nước, làm nở mặt rạng danh cha mẹ; con em chúng ta sẽ thay thế chúng ta tất cả những gì chúng ta chưa thể làm cho dân tộc như lòng chúng ta mong muốn.
Nhiều người trong số đồng bào Việt Nam chúng ta ở hải ngoại này chưa nhìn nhận ra ơn Chúa ban, họ chỉ biết phàn nàn trách móc thời cuộc, trách móc người lãnh đạo, trách móc cả Thiên Chúa nữa… Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta? Trong khi chúng ta được may mắn, hưởng biết bao ơn lành Chúa ban, mà đồng bào và thân nhân chúng ta ở bên quê nhà, cũng như biết bao người nghèo đói thiếu thốn khổ cực trên thế giới không được hưởng, họ thèm khát số phận của chúng ta mà không được.
Thiết tưởng, không gì hơn, chúng ta hãy noi gương Chúa, động lòng trắc ẩn trước cảnh đói khát, trước nỗi khổ đau của nhân loại, nhất là của đồng bào và thân nhân nghèo khổ của chúng ta còn ở bên quê nhà, mà rộng tay quảng đại cứu giúp họ, bằng bất cứ cách nào có thể vừa tầm tay của chúng ta.
Thứ đến, chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho chúng ta, nhất là chúng ta hãy lo sống đạo, thánh hóa cuộc sống, tìm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước hết; đồng thời, chúng ta hãy hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa, luôn thuần phục thánh ý Người trong mọi cảnh huống của cuộc đời, Người sẽ định liệu và ban cho chúng ta những ơn cần thiết, miễn sao lợi ích cho linh hồn chúng ta theo sự khôn ngoan quan phòng của Người.
Kết Luận
Trước mỗi lần Chúa Kitô làm một phép lạ thương giúp nỗi khốn cùng của người nào, hoặc mỗi khi Chúa dọn bữa cho dân chúng ăn, như trường hợp Chúa làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều nuôi dân chúng, Chúa luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng lên Thiên Chúa Cha để tạ ơn Người và xin Người rộng tay ban ơn giáng phúc cho nhân loại những nhu cầu cần thiết.
Chúng ta cũng hãy cố giữ thói quen đạo đức này và tập cho con em chúng ta duy trì việc dâng lời ngợi khen và cảm tạ Chúa trước sau bữa ăn; cũng như dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa ban cho chúng ta trong cả cuộc sống; đồng thời, biết can đảm làm chứng nhân cho Chúa như ông nông gia trong câu truyện trên, cho dù sẽ phải trả một giá đắt mấy đi nữa, miễn sao Chúa được nhận biết, được tôn thờ, được phụng sự và yêu mến.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
THẾ GIỚI ĐANG RẤT CẦN TÌNH YÊU CHIA SẺ
Hôm nay, chúng ta có thể chiêm ngắm tình yêu nhân loại và tình yêu siêu nhiên được hình thành bên trong chúng ta như thế nào, để chúng ta có một trái tim vừa yêu mến Thiên Chúa vừa yêu thương tha nhân.
Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để sống một mình, mà là để sống với, sống cùng, và sống cho người khác. Ngài không muốn chúng ta sống trong cô độc, khép kín, nhưng là mở lòng ra với Thiên Chúa, với anh chị em mình. Nghĩa là sống tình liên đới với nhau, trong tương quan hài hòa giữa ta với Chúa và vạn vật.
Bé trai trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1- 15) hôm nay là một mẫu người điển hình cần phải có trong thời đại chúng ta. Em có “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6,9), đối với Anrê thì chẳng thấm vào đâu, nhưng là tất cả những gì em đang có, em có là do cha mẹ hoặc người khác cho em.
“Cứ bảo người ta ngồi xuống”, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Người mắt lên thì nhìn thấy đám đông, một đám đông đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ và bảo ban. Năm chiếc bánh với hai con cá của một bé trai trước nhu cầu của một đám đông, chỉ tính nguyên số đàn ông thôi cũng chừng năm ngàn người rồi thật là ít ỏi. Chúa không chê cái số ít ấy, điều quan trọng là đóng góp phần mình. Tình yêu không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Chúa cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng để làm phép bánh và cá như chúng ta thấy, sự sẻ chia của em bé dù ít cũng trở thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy mà. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bao lâu con người còn nhìn đến nhau, bấy lâu bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên. Những tấm bánh yêu thương. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dồi dào.
Nhiều người cho rằng thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ hay lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người nên giảm dân số. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Ngài cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8). Nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
Ý thức về điều căn bản này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương. Hãy thương yêu và tương trợ lẫn nhau, vì tình thương là căn tính, là bản chất của con người. Hãy loại bỏ sự đố kỵ, hận thù, chia rẽ và những nguyên nhân làm hại đến tình thương như: bất công, kỳ thị, độc đoán, tham quyền, ích kỷ, kiêu căng, giả dối và các tội ác. Hãy sống đúng với sự thật về căn tính của mình và giúp mọi người sống đúng với căn tính đó: con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa là sự thật và là tình thương.
Nếu chúng ta sẵn sàng đặt những gì mình có vào tay Thiên Chúa thì như thế đã là đủ bởi vì trong thế giới sẽ có thêm một chút tình thương, an bình, công lý, và trên hết là niềm vui. Ðiều cần thiết là niềm vui trong thế giới! Thiên Chúa đủ khả năng để nhân lên từ những bé nhỏ của chúng ta.
Lạy Mẹ của lòng nhân ái, xin trợ giúp chúng con làm việc này. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
CHÍNH ANH EM HÃY DỌN CHO HỌ ĂN
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Billgate, tỷ phú người Mỹ gốc Do thái, người chuyên bán phần mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la. Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói: “Xin dọn cho dân chúng ăn” (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa: “Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Êlisê ra lệnh: “Cứ dọn cho dân chúng ăn ” (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì bảo các môn đệ mình: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”… Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” (Ga 6, 10- 12).
Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ, đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu “Chạnh lòng thương” đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng: “Cứ dọn cho dân chúng ăn!” (2V 4, 42)
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên Chúa tiếp tục yêu cầu chúng ta: “Cứ dọn cho dân chúng ăn!” (2V 4, 42) Chúa Giêsu không chấp nhận sự thoái thác khi nói: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” (2V 4, 43) hay: “Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (Ga 6, 9).
Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015).
Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. “Người cầm lấy cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích” (Ga 6, 11). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người: phục hồi sự sống, sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng thiện hảo của Thiên Chúa. Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu! Hết thảy mọi người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau.
Trong một lá thư mục vụ mùa chay của Đức cố Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ngài viết: “Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta”. 5 chiếc bánh và hai con cá ấy là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người…” Ngài viết tiếp “vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều, nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương…”.
Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 6: 1- 15: Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn, đây là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngòai tầm tay của các môn đệ, đây cũng là điều hợp lý. Tất cả đều hợp lý, nhưng lại không được Chúa chấp nhận.
Chúa muốn các môn đệ phải nhận lấy trách nhiệm. Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Nhưng ở đây chúng con vỏn vẹn chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Vậy thì đem lại đây cho Thầy. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải đóng góp phần của mình. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải bắt đầu…và một phép lạ đã xảy ra.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xác nhận rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm một phép lạ.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng sự đóng góp có thể là thời gian, sức khỏe, tiền bạc cho tha nhân, cho những người cần đến chúng ta.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là bớt đi một chút nóng giận, một chút ghen tương , một chút hận thù.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút khiêm nhường, bớt đi những kiêu căng, tự mãn, những phách lối trong cuộc sống gia đình và xã hội.
- Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút kiên nhẫn, biết chờ đợi giờ của Chúa.
Một điều chắc chắn là ai trong chúng ta cũng mong muốn những phép lạ, bởi vì phép lạ luôn làm chúng ta ngạc nhiên, phép lạ luôn làm chúng ta phấn khởi, phép lạ luôn mang lại cho chúng ta những niềm vui. Vậy tại sao chúng ta không chuẩn bị để mỗi ngày phép lạ đến với gia đình chúng ta?
Chắc chắn những phép lạ liên tục sẽ xảy ra trong gia đình chúng ta, trong xứ đạo chúng ta và trên quê hương chúng ta. Nếu trong gia đình, người cha biết đóng góp của mình. Nếu trong gia đình, người mẹ biết đóng góp phần của mình. Nếu trong gia đình, người con biết đóng góp phần của mình. Đó là những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ với năm chiếc bánh và hai con cá Chúa đã cho năm ngàn người ăn no.
Có câu chuyện kể rằng:
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối. Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người. Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc trở về đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như sau:”Ngươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi hãy ở lại đây và xin Chúa cho ngươi thêm lòng khiêm nhường…”
Được lời của sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững vàng rằng mỗi một giây phút qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông, để rồi qua ông Thiên Chúa thực hiện những phép lạ cho những người khác. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
ĐÃ YÊU THÌ ĐỪNG QUÁ TÍNH TOÁN,
HÃY LÀM NGAY NHỮNG GÌ TRONG TẦM TAY
Tình cảnh nhân loại từ xưa đến nay nhìn chung thật hiếm có thời kỳ lâu dài được sống trong an bình hạnh phúc. Con người càng phát triển thì nhu cầu càng cao và càng thêm nhiều. Kiếm được một lúc nào đó nhân loại trên trái đất này thoả mãn được nguyên chỉ các nhu cầu sinh tồn căn bản như ăn uống mà thôi thì cũng là khó thấy. Ngay cả đến hôm nay khi mà nền khoa học công nghệ phát triển phải nói là rất cao thì vẫn còn đó hằng trăm triệu người ở Á châu, đặc biệt ở Châu lục đen đang phải chịu cảnh thiếu thốn lương thực. Có thể nói ngày nay, người ta chết vì đói thì ít những chết vì thiếu ăn hay thiếu dinh dưỡng thì dường như không thống kê được. Bên cạnh những thiên tai, thì nhân hoạ vẫn đang rình rập con người mọi lúc mọi nơi. Nào là lũ lụt, sóng thần, nào là động đất, hạn hán, nào là khủng bố, chiến tranh…Khói lữa súng đạn đang lan tràn đó đây là một minh chứng. Chuyện khích bác, doạ dẫm nhau bằng vũ khí hạt nhân cũng vẫn chưa ngừng. Nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên đã từng cảnh báo nhiều nước lân bang rằng nếu bị tấn công phủ đầu thì sẽ xảy ra chiến tranh huỷ diệt tức là sẽ có chuyện sử dụng vũ khí hạt nhân. Tai ương, hoạn nạn như đang rình rập chúng ta từng ngày. Người nghèo khổ luôn có đó quanh ta. Cảnh khổ đau như là chuyện cơm bữa của các chương trình thời sự trên truyền hình.
Bài đọc thứ nhất trích sách các Vua tường thuật một nạn đói đang xảy ra tại xứ Ghingan. Đã là nạn đói thì số người khốn khổ là con số rất lớn. Quý ông bà lớn tuổi dân Việt hẳn có kinh nghiệm nào đó về nạn đói năm 1945 (Ất Dậu) trên quên hương đất nước chúng ta. Dù sinh sau đẻ muộn nhưng qua các tài liệu ghi chép, kẻ hậu sinh cũng hình dung được phần nào cái cảnh người chết dọc đường như rạ, đến nỗi ngay cái chuyện đào hố để chôn cũng lắm vất vả. Rồi đến chuyện phải ăn thịt đồng loại để sống cũng khiến thế hệ hôm nay dù khó tưởng tượng nhưng vẫn là sự thật.
Trước bao cảnh khổ ấy của đồng loại, chúng ta, Kitô hữu, những người theo đạo của tình yêu, của bác ái, ai ai cũng có thể động lòng xót thương. Thế nhưng, chúng ta cũng rất có thể có thái độ như người hầu của tiên tri Êlisêu “ Có được chỉ hai mươi chiếc bánh lúa mạch làm sao có thể phát cho cả trăm người ăn đây”, hay như Philipphê: “ Có mua hai trăm bạc bánh (khoảng trên dưới mười triệu đồng Việt Nam) cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ngài Philipphê tính toán quả không sai. Với năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ thì muời triệu tiền cũng bánh chẳng thấm vào đâu. Các Tin mừng nhất Lãm còn cho ta hay rằng có tông đồ lại hiến kế kiểu phủi tay: Thôi, ta giải tán để họ vào làng mà mua thức ăn (x.Mt 14,15; Mc 6,36; Lc 9,12). Một diệu kế rất mang tính kinh tế. Tuy nhiên, đằng sau nó vẫn là một tấm lòng đầy tính toán và dĩ nhiên nó bộc lộ sự hẹp hòi của con tim.
“Phát cho họ ăn đi”. Elisêu khẳng khái với người hầu cách không do dự. Còn Chúa Giêsu thì dứt khoát: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Đã yêu thì đừng tính toán. Đã yêu thì hãy làm ngay những gì trong tầm tay của mình. Tình yêu không hệ tại ở số lượng. Chúng ta vốn quen với câu chuyện bà goá nghèo trong Tin Mừng. Dù với hai xu nhỏ nhưng hơn cả trăm triệu đồng của những người giàu có, khi họ chỉ trao dâng cái phần thừa thải của mình, còn bà thì thực hiện nghĩa cử yêu thương bằng cả sự sống còn của mình (x. Lc 21,1- 4; Mc 12,41- 44).
Quả thật, rất nhiều lần trước cảnh tình khốn khổ của tha nhân, chúng ta viện cớ là làm không xuể, làm như muối bỏ biển, nên đã thoái thác nghĩa vụ yêu thương như lời Chúa chỉ dạy. Ma quỷ có thừa xảo kế tinh ranh. Chúng đâu có cám dỗ chúng ta không thương yêu tha nhân, nhưng lại gieo vào tâm trí chúng ta sự tính toán về kết quả. Ai lại không mong việc làm của mình có kết quả, nhất là những việc tốt, những nghĩa cử yêu thương? Khi cám dỗ ta về viễn cảnh không như ý, đó là dù ta có cố sức đến bao nhiêu cũng chẳng giải quyết được sự gì, thì ma quỷ đã thành công nhiều lần, khi khiến chúng ta chần chừ, ngần ngại dấn thân. Và từ sự ngần ngại, lần lữa chúng ta đã nhiều lần bỏ qua nhiều dịp để sống yêu thương.
Là Thiên Chúa, với quyền năng cao cả, Chúa Giêsu có thể làm từ không ra có. Ngài có thể cho bánh từ trời xuống nuôi dân, hoặc biến sỏi đá thành cơm bánh. Thế nhưng, Chúa lại muốn cần đến năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ của một em bé lúc bấy giờ để rồi giáng phúc thi ân cho cả gần mười ngàn người hôm ấy. Khi nhận lấy phần cá, bánh nhỏ bé ấy không phải Chúa cần bao nhiêu phần trăm phần góp của chúng ta cho bằng sự dấn thân của ta trong tình yêu. Khi nhận lấy năm chiếc bánh và hai con cá từ tay em bé, Chúa Giêsu minh định với chúng rằng đã yêu thì đừng quá tính toán.
“Ăn – cho, buôn – so”. Đã có tính toán, so đo thì thật khó sống yêu thương. Đợi cho đầy đủ các tiện nghi rồi mới phục vụ thì không còn là phục vụ. Đợi cho đầy đủ tiền, có cơ sở vật chất hay đủ phương tiện rồi mới sống quảng đại với đàn chiên thì chưa phải là mục tử. Đợi cho dư dã rồi mới làm việc bác ái yêu thương thì còn gì là yêu thương bác ái. Dù rằng cần biết sống khôn ngoan và thận trọng, nhưng đã yêu thì phải chấp nhận “liều”một cách nào đó. “Một con én không làm nên mùa xuân”. Đây là một lời nhận định thiết thực, cũng có thể là một lời khuyên khôn ngoan, nhưng rất có thể là một chước cám dỗ tinh tế của thần dữ. Xin đừng quên rằng sẽ chẳng bao giờ có mùa xuân nếu không có từng con chim én nhỏ.
Người nghèo luôn ở bên ta. Cảnh khốn khổ của đồng loại vẫn nhan nhãn trước mắt chúng ta. Nguyên nhân của sự nghèo đói, cảnh khốn cùng hiện nay chủ yếu là do bạo quyền, nạn bất công, sự gian dối. Lời mời gọi yêu thương, dấn thân chia sẻ đang tha thiết ngõ với chúng ta: “Chúng tôi rất cần tình yêu của bạn, của ông bà, anh chị…”. Đã yêu, xin đừng quá tính toán. Hãy làm những gì có thể trong tầm tay, ngay hôm nay. Với cả con tim, với sự dấn thân hết mình thì một nghĩa cử yêu thương dù nhỏ bé, bình thường cũng có thể gặt hái kết quả phi thường và to lớn. Một chân lý ngàn đời: Đấng là Tình Yêu và cũng là Đấng mà không có sự gì là không thể, luôn đồng hành với người biết yêu thương cách không tính toán.
26. Xây dựng phúc lợi cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thói vô cảm đang lan tràn
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc- kệ- nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những đau thương khốn khổ của người khác, không quan tâm đến lợi ích chung) là một thói xấu tai hại đang lan rộng trên quê hương đất nước chúng ta.
Báo chí gần đây nhiều lần đề cập đến lối sống ích kỷ và vô cảm của nhiều người: “Một thanh niên bị xe tải đâm nát nửa thân, nhiều người xúm lại xem rồi bỏ đi mặc nạn nhân rên la kêu cứu; khi thấy xe khách gặp nạn, người đi đường thay vì cứu giúp nạn nhân thì lại xông vào hôi của; một số nạn nhân được đưa đến bệnh viện cấp cứu thì bị bỏ cho chết vì bác sĩ yêu cầu phải có tiền mới cấp cứu… Sự thờ ơ với những nỗi đau của người khác dường như là chuyện thường ngày trong xã hội chúng ta .” (trích: vnexpress.net ngày 27/1/2011)
Châm ngôn của những người vô cảm là: “Đèn nhà ai nấy sáng”, “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”, “Sống chết mặc bây”, “Mạnh ai nấy sống” ….
Thói vô cảm vô cùng tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức của xã hội, làm đất nước suy yếu và tụt hậu, làm cho con người cảm thấy bất hạnh vì thiếu vắng tình thương. Thói xấu tai hại nầy hoàn toàn trái ngược với chủ trương sống yêu thương bác ái của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu. Vì thế, Người đã hạ mình xuống thế để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống để cứu rỗi muôn người.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì mọi người: “cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc người khác. Người không dừng lại ở việc rao giảng Tin Mừng mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta quan tâm giúp ích cho người khác
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi- líp- phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi- líp- phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An- rê tham gia: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”
Thế là em bé nầy được đưa đến với Chúa Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Khi bụng đói cồn cào thì chẳng có gì cần hơn cơm bánh. Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giêsu.
Nhờ có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy”
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Xây dựng xã hội lành mạnh và phát triển là điều kiện để mỗi người được hạnh phúc
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại. Trái lại, khi toàn thân khỏe mạnh an lành, thì mỗi một tế bào trong cơ thể cũng được hưởng nhờ. Vì thế, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến trần gian hiến trọn đời mình để mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Chúa không chỉ cứu rỗi linh hồn con người mà thôi, nhưng còn nỗ lực xây dựng một thế giới lành mạnh, hạnh phúc ngay trên mặt đất bằng cách cổ võ mọi người dấn thân sống phục vụ, yêu thương.
Xin dạy chúng con xa lánh chủ nghĩa “Makeno” đang dần dần tàn phá xã hội; trái lại, biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người hiến thân đem lại phúc lợi cho anh chị em chung quanh mình.
27. Tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia) đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương… để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaysia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng”.
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: “Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang.”
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giêsu. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì mọi người và cho mọi người: “cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi- líp- phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi- líp- phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An- rê vào cuộc: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! “
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: “sống chết mặc bây, tao no trước đã.” Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giêsu.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy”.
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, “hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình” (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giêsu muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Hai mươi năm trước, báo chí thế giới đăng tải một bức hình chụp khá nổi tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer. Bức ảnh nói về thảm trạng nạn đói ở Somalia năm 1994. Trong bức ảnh, một chàng thanh niên gầy gò đang ôm xác đứa con trai duy nhất của mình đem đi chôn. Đứa bé gầy trơ xương vì nhiều tháng qua nó không có gì để ăn. Nó đã chết vì đói. Người thanh niên, bố của đứa bé, với khuôn mặt đau khổ hốc hác cũng đang đói. Phía sau là một con quạ đen đậu gần đó. Nó chờ khi người cha vùi xác đứa con trong cát, sẽ bới lên tìm cái gì để ăn vì nó cũng đói. Cả người và vật đều đói. Cái đói lộ rõ trên khuôn mặt trơ xương của ông bố. Cái đói hằn sâu trên thân thể còm cõi của đứa trẻ, và cái đói cũng lồ lộ nơi cặp mắt hau háu của con quạ. Cái đói luôn là một tai họa khủng khiếp đè nặng trên thân phận hiện sinh của con người.
- Cái đói trong phận người
Mọi người chúng ta ít nhiều đều kinh qua cái đói. Các cụ lớn tuổi đã từng có kinh nghiệm về cơn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Những tháng ngày sau biến cố năm 1975, nhiều gia đình đã từng phải ăn độn hoặc đi vay mượn ít gạo để cầm cự sống qua ngày. Những trải nghiệm về cái đói luôn là một ám ảnh sợ hãi nơi cuộc sống chúng ta.
Khi mang thân phận làm người, Đức Giêsu cũng từng nếm trải cơn đói. Sau 40 ngày chay tịnh trong hoang mạc, Chúa đói. Ma quỷ đến tấn công vào bao tử xẹp lép của Ngài. “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi” (Mt 4,3). Vì thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chạnh lòng cảm thương thực sự khi đối diện trước một đám đông khổng lồ đang vật vã trong cơn đói. Phép lạ đã xảy ra, và 5000 người đã được ăn no nê. Phép lạ không nhằm phô diễn một kỳ tích để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng trong cái nhìn thần học của thánh Gioan, phép lạ mang chở những dấu chỉ nhằm khải thị một thực tại sâu xa hơn. Thánh Gioan muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo của một Thiên Chúa làm người luôn diễn bày tình yêu mục tử của Ngài cho đoàn chiên. Phép lạ nhân bánh ra nhiều khởi dẫn chúng ta đi đến một chân trời rộng lớn hơn: Đó là chân trời ơn cứu độ được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá. Mầu nhiệm Thập giá chính là cách diễn bày tình yêu của Thiên Chúa cách tròn đầy nhất.
- Sự cộng tác của con người.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện trong tin mừng hôm nay cũng được phác vẽ trước qua phép lạ của tiên tri Elisêu mà chúng ta sẽ nghe trong bài đọc thứ nhất. Vị ngôn sứ nhận 20 chiếc bánh từ tay một người hảo tâm dâng tặng. Với 20 chiếc bánh, Êlisêu đã phân phát đủ cho cả trăm người. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện qua vị tiên tri. Cũng vậy, sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa cũng được diễn bày nơi Đức Giêsu, vị “ngôn sứ đặc thù” của Chúa Cha. Cả hai phép lạ đều hàm ngậm những sứ điệp quan trọng mời gọi chúng ta suy gẫm và thực hành.
Trước hết, đó là bài học về sự cộng tác của con người. Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Đức Giêsu đã không làm phép lạ nuôi sống 5000 người ăn no, nếu đã không có lòng quảng đại của một đứa bé. Em nhỏ đã trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, là khẩu phần lương thực ít ỏi nó mang theo. Cũng thế, với 20 chiếc bánh do một người tốt bụng dâng tặng, Elisêu đã phân chia đủ cho cả trăm người. Thiên Chúa có thể thực hiện những điều kỳ diệu bắt đầu từ sự cộng tác nhỏ nhoi khiêm tốn của con người. Trong cuốn ‘Confessio’, Thánh Augustinô ghi lại lời cầu nguyện mà Ngài đã thưa với Chúa “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, không cần có con. Nhưng để cứu rỗi con, Chúa lại cần có con cộng tác”. Con người chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để hoàn thiện công trình sáng tạo và cả công trình cứu chuộc mà Ngài đã khởi sự.
Trong một bài giảng, Cha Gioan Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giêsu và Thánh Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy. Người nông dân này khá đạo đức. Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và mặc kệ hắn”. Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy đến phụ anh ta một tay”. Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe ra khỏi vũng bùn. Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “Ta không giúp những ai lười biếng. Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp”. Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến giúp đỡ chúng ta sau (Aide- toi, le ciel t’aidera).
Chúa cũng đã nói với Phaolô: “Ơn Ta thì đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn đủ và dư tràn trên mọi người, nhưng nếu chúng ta lười biếng, không mở lòng ra để cộng tác, Chúa cũng chịu thua. Mặc dầu sức lực con người yếu đuối, khả năng chúng ta giới hạn, nhưng Chúa vẫn luôn cần chúng ta cố gắng vươn lên để cộng tác với Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, một khẩu phần quá ít ỏi và chẳng đáng gì, nhưng Đức Giêsu đã làm phép lạ nhân bánh và cá lên gấp cả ngàn lần. Đó là bài học rất thực tế cho mỗi người chúng ta về nỗ lực cũng như sự cộng tác của con người.
- Chúng con hãy cho họ ăn.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường. Chúng đói về thức ăn vật chất, nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội gạt bỏ ra bên ngoài. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá trước khi Ngài tắt thở: “Ta khát”. Đức Giêsu ngày nay vẫn còn đang đói, đang khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa. Chúa nói với các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn”. Lời cầu ngỏ đó vẫn đang được lặp lại và gởi trao đến mỗi người. Một vị Thánh nọ sau một ngày đi bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “Tại sao trên thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?” Chúa trả lời “Có chứ, Ta đã làm. Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
Kết luận:
Phép lạ nhân bánh ra nhiều mà Chúa đã thực hiện 2000 năm trước là dấu chỉ tiên báo phép lạ vĩ đại Chúa đang thực hiện ngay ngày hôm nay nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự. 5000 người ngày xưa Chúa cho ăn bánh no nê, nhưng họ vẫn còn đói, vẫn chưa no thỏa thực sự. Còn nơi bàn tiệc hôm nay, Chúa xác quyết rằng: “Tôi là Bánh Hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không còn đói, ai uống chén này sẽ không còn khát”. Đó là bữa tiệc thịnh soạn nhất diễn bày tình yêu bất tận của Thiên Chúa. Một nhà tu đức đã diễn tả có vẻ hơi cường điệu nhưng rất chính xác: “Thiên Chúa đã thực hiện một giấc mơ rất điên rồ là phân thây xẻ thịt chính con một yêu quý của Ngài để thiết đãi chúng ta”. Đó quả là một sự điên rồ và táo bạo. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được sự điên rồ ấy khi đi vào quỹ đạo tình yêu sâu xa của Thiên Chúa. Muốn nếm cảm tình yêu này, chúng ta phải có cảm thức đức tin. Trước khi làm phép lạ, Chúa nói với các môn đệ “Anh em hãy bảo họ ngồi xuống”. Đám đông phải ngồi xuống để có thể lắng nghe và lãnh nhận. “Ngồi xuống” là một hình tượng diễn bày đức tin, tín thác vào tình yêu Thiên Chúa. Xin Chúa khơi dậy lòng tin yếu kém nơi chúng ta để chúng ta có thể lãnh nhận quà tặng tình yêu, và để chúng ta cũng biết chia sẻ tình yêu đó cho mọi người.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Vào một đêm nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Bà bình thản trả lời: “Sang những người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói!” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng có thời gian cho người khác.
Cách đây một thời gian, tôi đã có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các em! Hãy đem thứ này về cho các em!” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý giá mà em có.
Một bữa nọ, tôi nhận được mười lăm đô la từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.
Trao tặng là chia sẻ. Tôi không muốn bạn cho tôi thứ mà bạn đã bỏ đi, mà cho đi thứ bạn muốn, thứ bạn cần. Tôi muốn bạn cho đi bản thân mình. Tình yêu mà bạn đặt vào sự ban tặng là điều quan trọng nhất. Cơ hội chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác chính là một món quà của Chúa. (Bích Nga, Ngọc Sáu, Hoa Phượng, Mẹ Têrêsa, Trên Cả Tình Yêu)
Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng. Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ. Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.
Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương
Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Nhưng thấy đám người đông lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. (Mc 6, 34) Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.
Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm
Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.“(Ga 6, 5) Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6, 35- 37) Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai thánh sử khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng. Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.
Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại
“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người.”(Ga 6, 9) Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc. Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.
Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa. Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. “(Hs 6, 6) Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13)
“Kitô giáo là cho đi.” Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất. Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó. Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta. Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu: Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta.” (Mẹ Têrêsa Calcutta)
Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” (Ga 6, 11) Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa. Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu. Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng. Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai.(Mc 8, 1- 10) Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 103, 8- 10)
Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh thể sau này. Các Tông đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.
Chiếc bánh thứ năm: Công bình
“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người. Hết thảy đều no đầy phúc đức. Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm. Bởi vì“Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5. 45)
Con cá thứ nhất: Thanh bần
Trong tinh thần nghẻo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.” Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.
“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng.” (Đường Hy Vọng, số 412)
Con cá thứ hai: Thiên Quốc
“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian.” Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.“ (Ga 6, 15) Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của La Mã. Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.
Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát. Bơi chưng,“Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người. Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con.” (Đường Hy Vọng, số 824)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Trận động đất kinh hoàng 8.9 Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo sau là những cơn sóng thần đã quét đi những làng ven biển. Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9 tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, chờ phát chẩn. Em mất cả cha lẫn mẹ và em trong thiên tai.
Thấy em co ro áo thun, quần đùi, anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em. Vô tình làm rơi gói lương khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói.”
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn ngay. Nào ngờ em ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ”.
Câu chuyện cảm động của cháu bé Nhật Bản 9 tuổi, gợi lại hình ảnh chú bé trong Tin Mừng, có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá khô, sẵn sàng hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, có ba thái độ khác nhau trước yêu cầu của Chúa Giêsu, muốn cho dân chúng được ăn.
- Thái độ thoái thác
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”… Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút.” (Ga 6, 5, 7)
Tông đồ Philipphê chân thành thưa với Chúa như vậy, không có gì sai trái, mà trái lại còn quá chính xác, rất thực tế, rất thuyết phục. Nhưng vô tình biểu lộ một thái độ có vẻ như buông xuôi, tránh né, thoái thác trách nhiệm với cộng đoàn. Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa: “Mua bánh ở đâu?” thì ông đáp lại bằng một câu phủ định khá tiêu cực. Một cách từ chối mệnh lệnh rất khéo léo.
- Thái độ hoài nghi
Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người.”(Ga 6, 8- 9).
Tông đồ Anrê có vẻ tích cực hơn, gần gũi hơn với cộng đoàn, mới phát hiện một em bé có mang theo 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tuy ông cũng thành thật, cũng suy luận rất thực tế, nhưng lại bộc lộ thái độ có vẻ hoài nghi, thiếu tin cậy vào quyền năng Chúa. Ông cũng không chịu giải quyết thấu đáo đề nghị của Chúa. Mặc dù thừa hiểu Chúa muốn gì, nhưng cũng như Tông đồ Philipphê, ông đã chọn cách đối đáp bằng một câu khẳng định ẩn ý nghi hoặc.
- Thái độ dâng hiến.
Tương tự cậu bé Nhật Bản nói trên, em bé trai ở đây có thái độ rất hồn nhiên, nhân hậu, phó dâng và tín thác hoàn toàn. Em bé đã mau mắn dâng hiến món quà mọn của mình cho Chúa. Dù em nghèo, chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu để làm của ăn đi đường, em vẫn chân thành dâng lên Chúa tất cả, không mảy may tính toán, giữ lại chút nào cho riêng mình. Chính từ tấm lòng trong sáng, phó thác, tin cậy, nhân từ, cùng tinh thần hợp tác chặt chẽ này, Chúa Giêsu đã vui vẻ đón nhận bánh và cá, để đáp ứng lại gấp vạn lần.
“Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì nó cũng giao cho cha mẹ. Con hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.” (ĐHV, số 731)
Trong tâm tình đó, Đức Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã dâng lên Chúa món quà nhỏ mọn, 13 năm ngục tù, với tự truyện vắn tắt “Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá,” chan hòa tình yêu và hy vọng.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn trẻ thơ, luôn phó thác trông cậy vào Chúa, không so đo hơn thiệt, không tránh né tránh nhiệm, để con tìm thấy Chúa trong mọi người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con sống đơn sơ, hồn nhiên, biết dâng lên Chúa tất cả những gì mình có, dù nhỏ mọn, bất xứng, để được Chúa thánh hóa cuộc đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
CHÚA GIÊSU CÓ QUYỀN
TRÊN MỌI NHU CẦU CON NGƯỜI
Khi đối diện khó khăn, thử thách, trở ngại, chúng ta thường làm gì? Có biết bao khó khăn về cơm bánh gạo tiền, khó khăn về sức khỏe, về tìm cảm khiến chúng ta cảm thấy bế tắt, chúng ta sẽ làm gì?
Hôm nay tôi muốn chia sẻ quý vị một phương pháp có thể thoát khỏi mọi khó khăn, trở ngại ấy chính là trao vào tay Chúa những khó khăn ấy. Ngài có đủ quyền năng để giúp chúng ta vượt qua. Và cũng chỉ một mình Ngài là đủ quyền năng mà thôi.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều đều được 4 phúc âm ghi lại. Ở đây chúng ta thấy Chúa Giê- su phải đối diện với rất nhiều khó khăn. Khó khăn với một đoàn lũ rất đông người theo Chúa. Khó khăn vì đang ở nơi heo hút rừng vắng. Khó khăn vì đã chiều về rồi làm sao kịp xoay sở. Thế nhưng, Chúa vẫn bình tĩnh hỏi Philp: “Ta mua đâu bánh cho họ ăn”. Chúa cũng nhắc các tông đồ rằng các ông đang phải đối diện với một chướng ngại, một khó khăn, làm sao các ông vượt qua? Philp bảo 200 đồng không mua nổi, hơn nữa đây lại là nơi hoang vắng. Nhưng Chúa bảo hãy bắt đầu, phải bắt đầu còn hoàn tất để Chúa lo. Anre đã vui mừng bắt đầu bằng 5 chiếc bánh và hai con cá. Một ổ bánh mì chẳng thấm vào đâu so với hơn 5000 người. Thế mà khi bánh và cá trao vào tay Chúa thì mọi sự đã trở nên dễ dàng đủ cho hơn 5000 người ăn và có thể là 15.000 người ăn vì còn trẻ con và đàn bà.
Qua đây cho chúng ta thấy, dầu có khó khăn mấy chẳng nữa, dầu có bế tắc nhưng với Chúa thì không bế tắc. Ngài sẽ có cách giúp chúng ta vượt qua. Vậy, khi chúng ta đối diện với những người Chúa gửi tới bất đắc dĩ khiến chúng ta cảm thấy làm sao lo cho họ đủ. Như phải đón nhận đứa con Chúa gửi tới vì bể kế hoạch, hay phải chăm lo cha mẹ già, bệnh tật. Chúng ta cảm thấy gánh nặng. Hãy đón nhận. Hãy trao vào tay Chúa nỗ lực của mình để Chúa hoàn tất như khi xưa Anre đã trao cho Chúa 5 cái bánh và hai con cá.
Thử hỏi nếu Chúa gửi đến chúng ta những người cha mẹ già nua, những người chồng vợ bệnh tật. Chúng ta thường băn khoăn làm sao đây khi mà mình còn phải bươn trải kiếm ăn làm sao chăm sóc những người này. Đây là những khó khăn vượt khả năng chúng ta nhưng không vượt khả năng Chúa. Hãy tín thác vào Chúa. Quyền năng Chúa có thể làm được. Chúng ta hãy nói với Chúa. Chúa ơi, điều này vượt khả năng con. Chúa hãy làm thay con. Chắc chắn quyền năng Chúa sẽ thực hiện. Khi chúng ta đối diện với cái thiếu thốn về tiền bạc. Như Philp đã nêu khó khăn cho Chúa. Nhưng phép lạ đã diễn ra không cần tiền mà bánh vẫn phát đủ cho 5000 người ăn. Thế nên, khi chúng ta gặp những bệnh tật, những rủi ro, những bất trắc và cả những khó khăn. Chúng ta đừng sợ là mình không vượt qua được. Chúng ta có một nhà tài trợ rất giầu có và cũng rất quyền năng. Đó chính là Thiên Chúa, Ngài sẽ làm mọi sự cho chúng ta. Đừng quên Ngài trong cuộc đời chúng ta. Đừng đánh mất Ngài kẻo chúng ta sẽ mất tất cả. Thiên Chúa của chúng ta có thừa quyền năng để giúp chúng ta vượt qua thử thách. Đừng sợ khó khăn. Đừng sợ gian nan. Thiên Chúa sẽ làm mọi sự để hỗ trợ chúng ta miễn là chúng ta chạy đến với Chúa kêu cầu Chúa, thì chắc chắn chúng ta sẽ được toại nguyện.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy tin vào quyền năng Chúa. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của một đứa bé ngồi trên xe hơi vất xuống lề đường. Thằng anh chạy vội đến nhặt, nhưng bánh quá lấm láp bởi đất bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai rằng: “Anh hai thổi sạch rồi mình ăn”. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít: “Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh”. Thằng anh ngậm ngùi: “Ừ, tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!”
Chuyện quá ngắn mà lòng quặn đau. Chuyện không biết thực hư đến đâu? Nhưng cảnh đời người thừa thải đổ đi. Kẻ nghèo bòn nhặt lấy mà ăn thì vẫn còn quá nhiều ở xung quanh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta phải làm gì trong hoàn cảnh hôm nay?
Năm xưa Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đám dân theo Ngài. Họ nghèo đói tinh thần lẫn vật chất. Họ đói cơm và đói cả tình thương. Thiếu cơm thì không có bữa ăn ngon. Thiếu tình thương thì bữa ăn mất ngon và cuộc sống chỉ là những tháng ngày buồn chán và thất vọng. Hai vấn đề nhưng chung quy vẫn là một. Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì “bánh ngon bẻ đôi”, “chị ngã em nâng”, người ta sẽ sống đùm bọc lẫn nhau đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau” và ngay cả khi nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì “lá lành đùm lá rách”.
Chúa Giêsu đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn lương tâm: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Dường như các môn đệ đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì “lực bất tòng tâm”. Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau. Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: “Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”. Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính khó khăn đó để dạy các ông: hãy bắt đầu bằng nỗ lực của bản thân và chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất mọi sự trong tình yêu quan phòng của Ngài. Vì “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm, hàng ngàn tấm bánh. Với quyền năng của một vì Thiên Chúa có thể tạo dựng mọi sự từ hư vô. Ngài có thể làm tất cả nhưng Thiên Chúa lại muốn hành động ngang qua con người. Bởi vì con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Ngài muốn con người tiếp tục thay Ngài gieo yêu thương vào trong thế gian. Hay nói cách khác, con người được tạo dựng để yêu thương. Do đó, ai không yêu thương là vong thân, là đang chết dần trong ích kỷ và cô đơn. Người ta sống để yêu, mà không còn khả năng yêu thương, tức là con người đã mất giá trị đích thực của đời người.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em. Lịch sử còn đó những cuộc tương tàn huynh đệ. Bởi thiếu tình yêu người ta đã đối xử bất khoan dung với nhau. Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó hàng ngàn người chết vì chiến tranh và nghèo đói. Họ đã chết bởi sự vô tâm đến tàn nhẫn mà con người dành cho nhau. Chính trong giờ phút này, trên thế giới vẫn có biết bao trẻ em chết vì đói, biết bao em bé sinh ra suy dinh dưỡng đang khi đó hàng tấn lương thực dư thừa của người giầu, của các nước giầu đang đổ ra biển khơi. Theo thống kê thì nhân loại hôm nay kinh tế đã phát triển không ngừng. Của ăn của để luôn thừa mứa. Trung bình cứ 6 người đủ ăn thì có một người nghèo đói. Nhưng đáng tiếc, 6 người lại không đùm bọc được một người. Người đói vẫn van xin, vẫn đợi chờ lòng thương xót, vẫn rã rời vì thiếu tình thương của đồng loại. Kẻ đói vẫn sống lây lất. Người giầu sang vẫn dư thừa đổ đi.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian. Thế gian cần có tình yêu để tồn tại. Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đoạ đầy.
Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau. Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ. Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng. Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ. Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi. Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn. Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi. Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết. Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng. Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta. Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người. Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương.
Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp. Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu. Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
PHÉP LẠ HOÁ BÁNH TIÊN BÁO BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Ðám đông dân chúng theo Ðức Giêsu vì họ thấy những phép lạ Người làm, chữa người đau yếu bệnh tật. Họ say mê nghe lời Người giảng dạy và xem việc Người làm đến độ quên rằng trời đã xế chiều và lại quên mang thức ăn. Biết họ không có gì ăn, mà cho họ về nhà thì đường xá lại xa xôi cách trở. Vì thế Ðức Giêsu quyết định làm phép lạ hoá năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Ðọc Thánh kinh, ta thấy mỗi lần Chúa làm phép lạ đều do người ta xin. Lần này Ðức Giêsu làm phép lạ mà không có người xin, vì Người quan tâm đến nhu cầu thể xác của họ. Không thấy ai trong số năm ngàn người theo Chúa kêu đói và xin ăn. Các tông đồ cũng không đề nghị giải pháp nào cho họ ăn. Câu hỏi Ðức Giêsu hỏi Philiphê sao mua bánh ở đâu cho họ ăn có thể chỉ là câu hỏi giả vờ để thử các tông đồ mà thôi.
Bài trích sách các Vua quyển hai kể lại việc ngôn sứ Ê- li- sa dùng quyền năng Chúa ban để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Câu chuyện Thánh kinh được kể lại như sau. Trong thời nạn đói, có người đem đến cho ngôn sứ Ê- li- sa hai mươi ổ bánh. Mặc dù không đủ cho một trăm người ăn, vị ngôn sứ vẫn phân phát cho dân chúng. Kết quả là khi họ đã ăn no nê, mà vẫn còn dư lại (2V 4:42- 44).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu cầm bánh, tạ ơn trước khi phân phát cho dân chúng. Bằng việc tạ ơn trước khi phân phát, Chúa muốn dạy ta bài học về việc cảm tạ khi nhận lãnh. Biết cảm tạ bao hàm ý nghĩa tuỳ thuộc vào Chúa. Bài học thứ hai Chúa muốn dạy ta là không nên phung phí đồ ăn thức uống. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa bảo các tông đồ thu đồ ăn còn dư lại kẻo phí phạm và họ thu được mười hai thúng đầy bánh còn dư (Ga 6:13). Bài học thứ ba là Chúa muốn sửa soạn tâm trí các tông đồ để họ đón nhận Bí tích Thánh thể mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Chúa làm phép lạ hoá bánh nuôi dân là do lòng thương xót của Người vì dân chúng không có gì ăn. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, sâu xa hơn việc đáp ứng nhu cầu đói khát của ăn vật chất của dân chúng.
Thánh Gioan nhắc đến lễ Vượt qua gần đến sau phép lạ hoá bánh. Bữa ăn vào ngày lễ Vượt Qua là hình bóng của bữa Tiệc ly. Ngay trước lễ Vượt Qua mà Ðức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì khi Người lập Bí tích Thánh Thể vào dịp lễ Vượt Qua, phải khiến các tông đồ nhớ lại và liên tưởng đến phép lạ hoá bánh. Phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan đã được Phúc âm nhất lãm thuật lại (Mt 14:13:21; Mc 6:33- 44; Lc 9:10- 17). Thường thì thánh sử Gioan không thuật lại phép lạ đã được các thánh sử ghi chép rồi. Còn khi thuật lại cùng phép lạ, thánh sử Gioan thường đưa vào câu chuyện một ý nghĩa sâu xa đặc biệt. Và trong chu kì phụng vụ năm B mùa thường niên, lẽ thường thì Giáo hội dùng Phúc âm thánh Mác- cô. Thánh sử Mác- cô cũng ghi lại phép lạ hoá bánh. Tuy nhiên phép lạ hoá bánh theo Phúc âm thánh Gioan lại được dùng hôm nay vì được coi là câu chuyện nhập đề cho Bí tích Thánh thể vì hầu hết nội dung của phần còn lại trong chương sáu đều nói về bánh hằng sống là Bí tích Thánh thể cho bốn Chúa nhật kế tiếp. Nhắc đến bữa ăn Vượt Qua, thánh Gioan muốn sửa soạn đưa độc giả đến một thực tại mà Ðức Giêsu sẽ thực hiện sau này trong bữa Tiệc Li là việc thiết lập Bí tích Thánh thể. Và đó là ý tứ mà thánh sử Gioan muốn gửi gắm trong câu chuyện Phúc âm về phép lạ hoá bánh.
Những lời Chúa dùng để làm phép lạ hoá bánh: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi ăn (Ga 6:11) cũng giống những lời Chúa dùng khi truyền phép Thánh thể trong bữa Tiệc ly: Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ (Lc 1:19). Thánh sử Gioan ghi lại việc Chúa nuôi dưỡng năm ngàn người ăn như là dấu chỉ về quyền năng mà Người sẽ dùng để nuôi dưỡng loài người bằng của ăn thiêng liêng là Mình Thánh Người. Như vậy phép lạ hoá bánh là dấu chỉ thích hợp để sửa soạn dân chúng nghe những lời Người giảng dạy về Bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này: Bánh mà Ta sẽ ban, chính là Mình Ta cho thế gian được sống (Ga 6:51). Cũng như Chúa dùng quyền năng hoá bánh ra nhiều để nuôi năm ngàn người, Chúa cũng dùng quyền năng biến bánh rượu thành Mình Máu thánh Người, để làm của ăn thiêng liêng cho loài người.
Vậy thì trong tâm tình tạ ơn, ta cùng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, dùng lời đáp ca trong thánh lễ để nhắc nhở ta về đường lối quan phòng của Chúa: Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no đủ (Tv 144:16). Người tín hữu thời giáo hội sơ khai khi dâng thánh lễ, họ mang trong tâm khảm tâm tình tạ ơn. Tạ ơn theo tiếng Hy lạp có nghĩa là thánh lễ. Như vậy theo nguyên tự Hy lạp, thì dâng lễ có nghĩa là dâng lời tạ ơn.
Lời nguyện xin cho người đói khát được no thoả:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, thiện hảo! Con xin tạ ơn Chúa cho của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa cho mưa xuống trên những miền đất khô cằn để người dân có thể trồng cấy đồ ăn thức uống. Và xin cho những người đói khát được no thoả. Xin tha thứ những lần con coi là ngẫu nhiên, những của Chúa ban, lại còn tỏ ra vô ơn bội bạc. Và xin cho con cảm nghiệm được sự đói khát về của ăn thiêng liêng: lời Chúa và Mình thánh Chúa. Amen.
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn no nê. Xứ Do thái là xứ lúa mì, đến nỗi có những nhà vạn vật học cho rằng xứ Palestine là thủy tổ lúa mì. Bài đọc thứ nhất trích ở truyện Tiên tri Êlisê làm cho 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa, biến hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no nê mà lại còn dư nữa. Đó là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với con cái Người, và hứa hẹn những ngày sung túc khi Đấng muôn dân mong đợi đến.
Hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa làm cho 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, biến hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con, và còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đây là một phép lạ, một trong những phép lạ cả thể mà Chúa Giêsu đã làm. Tất cả bốn nhà Thánh Sử đều ghi lại. Các nhà chú giải vô thần tìm cách giải thích bằng những phương pháp tự nhiên nhưng lập luận của họ đều không đứng vững. Đối với Gioan, đây là một dấu chỉ, danh từ mà Gioan hay dùng và chúng ta thấy rõ Ngài muốn hướng dẫn chúng ta về Chúa Giêsu và phép Thánh Thể.
Vậy trong câu truyện, Chúa Giêsu là vai chính, là trung tâm điểm. Việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều và bài giảng sau đó, có mục đích bạch lộ con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng quyền năng và rộng rãi. Mỗi người muốn dùng bao nhiêu tùy ý. Ngày xưa dưới sự hướng dẫn của Môsê, trong cuộc lưu lạc lâu ngày lâu tháng trong sa mạc, dân chúng chỉ được nhận số manna cần dùng (Xh. 15, 4. 16- 18). Trái lại, ở đây thật là thừa thãi dư dật, cũng như trong tiệc cưới Cana, để nói rằng với Chúa Giêsu thời viên mãn đã đến, Đấng Messia đã xuất hiện. Các môn đệ, vâng lời Thầy, còn “thu lượm được 12 thúng bánh vụn”. Con số 12 theo Thánh Kinh là con số ám chỉ sự đầy đủ: Gioan muốn ám chỉ rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều để dân chúng được ăn no nê, sẽ còn tiếp diễn.
Nhất là, như rượu Cana, như bánh biến hóa, không phải chỉ để nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, quần chúng đông đảo vô số kể, đó là Giáo hội qua các thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, “các thủ hạ của Đức kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (ICor. 4, 1).
Sau khi phép lạ xảy ra, “Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Ngài để tôn lên làm Vua, nên Ngài lại trốn trên núi một mình”.
Lại tái diễn ảo mộng một Đấng Messia chính trị đến để cứu vãn quốc gia! Không. Ngài đến để cứu vãn con người. Ngài là Vua, nhưng là Vua các tâm hồn. Ngài hằng kêu gọi một cuộc trở lại với Thiên Chúa. Nước Ngài là nước tự do, hòa bình và bác ái, như đã được vang vọng giữa sao trời đêm Ngài xuống thế.
Chúa là Bánh hằng sống, là của nuôi tâm hồn đau khổ nhưng “đói” Chúa. Một tù nhân cải tạo viết: “năm 1986, từ khi trại chúng tôi có một linh mục tuyên úy, hoạt động tôn giáo có đều đặn và tổ chức hơn, được xưng tội và rước Mình Thánh mỗi ngày Chúa nhật, được suy niệm bài Phúc Âm bằng… một hai câu thơ lục bát tóm gọn truyền miệng cho nhau. Mình Thánh Chúa được bỏ trong các hộp dầu cù là, rượu được đưa vào trại qua các ve dầu Nhị Thiên Đường, còn bánh lễ là các rẻo bánh. Hàng tuần cha PVL dâng Thánh lễ ban đêm một mình trong mùng ngủ, chuyển Mình Thánh trong hộp dầu cù là cho một người gần nhất và chuyển tiếp ra các đội khác trong toàn trại. Chúng tôi đã được Chúa bổ dưỡng và ban ơn sức mạnh trong những ngày sống trong đau khổ”.
“Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được no nê” (Tv. 144, 16 – Đáp ca).
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân Do Thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân Do Thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân Do Thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.
- GỢI Ý SÁM HỐI
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.
- Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia sẻ với anh chị em chúng ta.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I (2 V 4,42- 44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.
- Đáp ca (Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. “Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê”.
- Tin Mừng (Ga 6,1- 15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt: Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân Do Thái được ăn trong thời gian ở sa mạc. Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ. Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé. Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.
- Bài đọc II (Êp 4,1- 6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau. Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ. Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau. Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy: Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiếm cái gì cho họ ăn. Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa: họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả: chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải. Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.
* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người: Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng. Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa: Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu con”.
Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
- Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
- Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận…
- Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị linh mục kia đã giảng rằng: phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như “Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói”. Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: “Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi”. Vị linh mục hỏi tiếp: “Thế trong túi có gì vậy?”. Bà đáp: “Chỉ có hai chiếc bánh”.
Câu trả lời khiến vị linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách: cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v. Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Những người thiện nguyện
Hàng năm, cứ vào ngày 5- 12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế”. Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân. Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
***
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người “nuôi năm ngàn người ăn no”. Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui. Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin: dù chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
***
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện “Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
* 6. Phải biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế: ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định: thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi: “Ông có đồng ý những điều kiện ấy không?”. Hắn đáp “Đồng ý”. Người hầu nói: “Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông”.
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn: “Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý”. Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói “Món cá này ngon tuyệt”. Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi: “Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng”. Tên nhà giàu vội vàng đáp: “Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng”. Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại: “Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức”. Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo “Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung”. Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ: “Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả?” Và hắn đã tự tìm được câu trả lời: Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 7. Chứng từ về chia xẻ
“Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước: Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết:
- Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
- Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
- Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau: – Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
- Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
- Tay phải làm tay trái chẳng biết: – Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người:
- Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
- Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
- Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
- Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị…
- TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
- Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân Do Thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hầu hết các nhà Thánh Kinh học đều cho rằng chương sáu của sách Tin Mừng thứ tư là diễn từ về đề tài ‘Bánh Trường Sinh’, mà phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ là phần dẫn nhập, hay là dịp để Người đề cập tới đề tài quan trọng này. Đúng là Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình là ‘Bánh bởi trời, bánh trường sinh, bánh làm no thỏa…’, thế nhưng – tôi vẫn thườnng tự hỏi – chủ đề đích thực của bài thuyết pháp quan trọng này của Ráp- bi Giêsu có phải là để chứng minh ‘bánh vật thể’ trở thành một ‘Ki- tô hữu thể’, hay chỉ đơn giản là một ‘lời mời ăn Bánh’, tức là chủ đề của bài diễn từ nhằm diễn tả mối quan tâm, tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa dành cho con người?
Phối hợp với tường thuật của Phúc Âm Mác- cô, cũng chương sáu, ta có thể thấy trình tự vấn đề được tác giả Gioan đặt ra như sau: – Đức Giêsu tỏ rõ mối quan tâm chăm sóc các tông đồ nhọc mệt trở về sau cuộc hành trình truyền giáo; mối quan tâm của Người sau đó còn rộng mở cho đám dân chúng, khi Người ‘chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn’ (Mc 6:34). Phép lạ làm bánh hóa nhiều để cho dân chúng ăn no chẳng qua là dấu hiệu cụ thể của mối bận tâm từ ái đó; chính vì vậy mà khi nhận thấy đám đông dừng lại ở việc được ăn bánh thỏa thích, Đức Giêsu đã phải cất công giải thích, chỉ cho họ thấy được sự chăm sóc từ nhân của Thiên Chúa mới chính là điều họ cần tìm kiếm. Phần mình, khi tự đồng hóa với ‘bánh trường sinh’, điều duy nhất Người muốn nhấn mạnh đó là: sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa đối với loài người đã lên tới đỉnh điểm… “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Từ một biểu lộ chăm sóc được cụ thể hóa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để đám đông dân chúng được ăn no thỏa, Đức Giêsu rõ ràng muốn họ nhận ra rằng họ đang được Thiên Chúa từ ái yêu thương chăm sóc tới mức nào. Chính Đức Ki- tô, và toàn bộ sự hiện diện của Người nơi trần gian, là một thứ ‘Bánh bởi trời’, nhưng không phải là thứ ‘Thánh Thể’ để người ta phải khúm núm tôn thờ, cho bằng là của ăn nuôi sống để làm cho họ được no thỏa; và so sánh này chỉ đạt ý một khi qua đó nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ hết tình.
Từ kinh nghiệm cụ thể được ăn bánh, các môn đệ và nhiều người Do Thái thành tâm lẽ ra phải khám phá ra chân lý vĩ đại: Thiên Chúa là Người Cha đầy yêu thương, hằng quan tâm tới con cái, và ra tay chăm sóc chúng (xem Mt 7:11; Lc 11:13). Nội dung này chính là cuộc hành trình đức tin mà mọi Ki- tô hữu chúng ta cần làm. Tiến trình này phải đưa chúng ta tới việc tin nhận Đức Ki- tô Giêsu – Bánh hằng sống như một biểu hiện tột đỉnh của tình yêu chăm sóc của Chúa Cha. Tiến trình này quả thực đầy thách đố đối với các tông đồ nói riêng và người Do Thái nói chung, đơn giản là vì khái niệm Thiên Chúa như là người Cha yêu thương chăm sóc còn rất lu mờ và khá xa lạ đối với cách suy nghĩ của Cựu Ước.
Thế còn đối với Ki- tô hữu chúng ta ngày nay thì sao? Cảm nghiệm thiêng liêng nền tảng này của Tân Ước có lẽ lại bị chúng ta đảo ngược trái chiều chăng?
Ít nhất về khái niệm, Ki- tô hữu đã quá quen thuộc với việc gọi Thiên Chúa là Cha. Cả ngàn lần họ kêu lên ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời!’ Thế nhưng khái niệm này đa phần vẫn còn nằm trên mặt lý thuyết trừu tượng như một công thức; cũng thế, ý tưởng ‘Đức Ki- tô – bánh trường sinh’ vẫn chỉ là một khái niệm thần học mang tính suy luận (speculative). Cái cảm nghiệm thực tế rằng, với việc trao ban ‘Bánh trường sinh’, Thiên Chúa đã thực sự đặt tôi trong sự no thỏa của tình yêu Người, rằng Người là cha nhân ái hằng chăm sóc tới từng chi tiết đời sống con người, chăm sóc tới độ gần như thừa bứa ‘thu những miếng thừa của năm chiếc bánh người ta ăn còn lại… cũng chất đầy được mười hai thúng’; đó chính là cảm giác đã từng được Phao- lô diễn đạt như sau: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta” (Rm 8:32). Cảm giác này có lẽ còn quá xa lạ đối với phần đa Ki- tô hữu chúng ta ngày nay; thay vì chỉ ngưỡng mộ Thiên Chúa là Cha cách chung chung, tôi thiết nghĩ, mỗi Ki- tô hữu nên cụ thể có những giây phút nhìn sâu vào đời sống mình để nhận ra, đàng sau mọi thành công hay may nắm lớn nhỏ, kể cả đàng sau những thất bại ê chề hay đại họa, đều có cả một dàn xếp tinh vi và tế nhị của một ‘Ai Đó’ đầy từ tâm và nhân ái. Đó mới chính là chiều sâu đức tin của Ki- tô hữu chúng ta, một chiều sâu đích thị mang lại vui mừng và hy vọng, bình an và phó thác trong mọi tình huống cuộc đời. Trọn đời người Ki- tô hữu, nếu được đặt trên nền tảng vững chắc này, thì kể cả trong các thử thách gian truân của cuộc sống thường ngày, sẽ luôn phải là an bình và vui tươi (xem Rm 8:38- 39).
Phải chăng đó mới đích thực là niềm tin sống động và trưởng thành mà mọi Ki- tô hữu chúng ta cần cất công vun đắp hàng ngày, nhất là trong thế giới và xã hội hiện đại?
Lạy Chúa! Lúc được ăn, con cần hiểu bàn tay nào đang cho con ăn, cõi lòng nào đang nuôi nấng con. Mỗi khi rước lễ, xin cho con không chỉ nghĩ tới thứ bánh nào con đang được ăn (dầu đó là bánh trường sinh Thánh Thể đi nữa), nhưng ngày càng nghiệm ra rõ hơn cõi lòng nhân ái của Cha trên trời đang âu yếm dưỡng nuôi con bằng chính Người Con Chí Thánh. Xin cho việc cử hành Thánh Thể sẽ gia tăng niềm tin tưởng phó thác nơi con mỗi ngày. Amen.
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1- 15) đã thực hiện, không phải là một sự thách thức đối với Người. Vì nguyên mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Người là một phép lạ vĩ đại rồi, cũng là phép lạ duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Đó là một sự mặc khải lớn lao và là một quà tặng duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Vì ngoài Đấng cứu độ,Thiên Chúa không còn món quà nào lớn hơn như thế nữa.
Nhưng tiếc thay! nhãn quan của loài người thì luôn đối nghịch với nhãn quan Nước Trời, để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai phải chu tất sứ mạng của Người. Đó là mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện. Vì vậy, sự xung đột giữa nhãn quan trần thế và nhãn quan Nước Trời là điều tất yếu. Bởi vì, nếu nhãn quan trần thế có cùng một điểm chung với nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa đã không dùng Thập gía để cứu độ nhân trần.
Nên chi Thiên Chúa luôn nhượng bộ trần thế, với một lý do duy nhất đó là, vì Ngài là Thiên Chúa. một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương, dù nhãn quan bất đồng.
Còn ngược lại đối với nhân thế, Thiên Chúa càng yêu thương thì họ càng phản nghịch, bởi vì họ là nhân thế. Nhân thế thì luôn luôn nhìn đời bằng nhãn quan thế trần. Nhãn quan thế trần thì không thể nhìn ra Đức Kitô Giêsu, vì thế họ không tin Người từ Thiên Chúa mà đến. Suốt cuộc đời Chúa Cứu Thế là suốt một hành trình bị “chối từ”. Mặc dù Người không bị mắc lừa, không bị kích động để làm phép lạ, nhưng Khi cần thiết Người vẫn biểu hiện những dấu lạ đúng lúc, đúng nơi, đúng thời điểm. Dù vậy, họ nhiều lần chứng kiến quyền năng Thiên Chúa thể hiên nơi Người, nhưng họ cũng không tin Người là “CON THIÊN CHÚA”. Bởi vì sự đối nghịch giữa trần thế và Thiên Chúa, mặc nhiên họ không dám chống lại Thiên Chúa, nhưng nhãn quan trần thế của họ không đón nhận nhãn quan thiên quốc, đó là Đấng Thiên Sai. Dù Thiên Chúa đã mặc khải chính Đấng Thiên Sai cho họ,nhưng Thiên Chúa đã mặc khải một cách phổ quát, phần còn lại khi Đấng Thiên Sai xuất hiện thì họ phải biết đón nhận Người, như nhu cầu “đói” ăn của thân xác họ. Nhưng tiếc thay! điều nầy đã không xảy ra, vì họ chỉ biết tiếp nhận nhu cầu của trần thế là lương thực phải tiêu hao. Rõ ràng họ biết mở lòng để đón nhận nhu cầu thể xác là bánh, nhưng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời là Chính Đấng Cứu Thế.
Như vậy, sự mâu thuẫn ở nơi họ là quá rõ ràng, họ đòi hỏi nơi Đấng Thiên Sai một sự nghịch lý là Người phải cung cấp lương thực thân xác cho họ. Rõ ràng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa không thể nào ban ơn cứu độ cho họ được.
Nhìn lại kẻ có nhãn quan Nước Trời là thiểu số, số ít mà thôi, chỉ có số ít đi theo Chúa Giêsu và tin Người là Đấng Thiên Sai. Những người ấy, ngay cả cùng thời với Chúa Giêsu, hay bây giờ và về sau nầy nữa, mãi mãi cũng là thiểu số. Vì “kẻ được gọi thì nhiều, mà kẻ được chọn thì ít”. Như vậy kẻ được chọn là kẻ có nhãn quan Nước Trời, vì kẻ có nhãn quan Nước Trời thì họ mới đón nhận Đấng Cứu Thế và tin vào Người là “GIÊSU”! Vì Những ai không tin vào “GIÊSU” thì làm sao họ tin Người là “BÁNH HẰNG SỐNG”. Nhưng chính Người đã nói: “CHÍNH TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG”(Ga 6, 35). Khi và chỉ khi, người nào có nhãn quan Nước Trời thì họ mới tin vào “Lời” của Chúa Giêsu.
Như vậy, muốn có nhãn quan Nước Trời, nhân thế phải biết mở lòng ra để đón nhận, dù là Thiên Chúa đã mặc khải, nhưng nhân thế không hợp tác với Ngài, thì ơn ích thiêng liêng là ân sũng của Thiên Chúa cũng không thể xảy ra được. Phép lạ Bánh hóa nhiều là một minh chứng cụ thể về việc nầy. TIN vào Đức Kitô, đồng thời là nhãn quan Nước trời, là một ân sủng của Thiên Chúa dành cho nhân thế, nhưng đòi hỏi sự hợp tác của nhân thế như: “năm chiếc bánh và hai con cá của em bé” trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1- 15) hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào Chúa là chúng con đã mở lòng ra để đón nhận nhãn quan Nước trời, trong mọi, nơi mọi lúc xin ban cho chúng con biết chu toàn phận sự chứng nhân cho Chúa ở trần thế nầy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Suốt cuộc lữ hành của dân Do- thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã ban Manna từ trời rơi xuống để dân chúng thu lượm lại làm bánh nuôi sống. Bánh trở thành dấu chỉ hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Sách Các Vua nói đến một người từ Baal- Salisa đến dâng của đầu mùa là bánh mạch nha và lúa mì. Thiên Chúa đã chúc lành cho bánh này được dư đầy và cả trăm người ăn mà còn dư.Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? ” Ông bảo: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Thiên Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư (2 Vua 4, 43). Bánh trở thành biểu tượng của sự dâng hiến và hợp nhất. Muôn ngàn hạt lúa miến làm thành một tấm bánh.
Từ rất sớm, con người đã biết dùng khả năng để biến đổi hoa trái và hạt miến, lúa mì thành cơm bánh để nuôi thân. Con người cần có thực phẩm nuôi sống. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự trong vũ trụ để con người và súc vật có thực phẩm mà dùng. Mọi nguồn trong thiên nhiên đều có công dụng tương trợ nuôi sống lẫn nhau. Thiên Chúa không tạo dựng bất cứ loài nào một cách thừa thãi và vô dụng. Trật tự lạ lùng sinh sống trong vũ trụ là cả một sự hài hòa hỗ tương giúp muôn vật được tồn tại. Không có một loài nào bị dư thừa loại bỏ. Chỉ vì khả năng của con người còn giới hạn chưa thể khám phá ra hết những nhiệm mầu ẩn tàng nơi các sự vật chung quanh.
Chúa biến 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá ra thật nhiều để nuôi hơn 5 ngàn người. Chúa nhân bánh và cá lên gấp bội cho nhiều người được ăn thỏa thuê. Biết rằng Chúa không làm phép lạ hóa bánh thường xuyên để nuôi sống mỗi ngày. Chúa đã trao ban cho con người có thân xác khỏe mạnh, có trí khôn, có khả năng và có môi trường để lao động. Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (Stk. 2, 15). Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo với Chúa để làm cho trái đất thêm trù phú và phì nhiêu. Con người phải lao động với sức mình để nuôi thân. Chúng ta không thể ngồi đó chỉ để xin xỏ khấn vái mà phải xả thân lao động. Sau khi tổ tông trái lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ đã nhận được lời truyền:Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Stk. 3,19).
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh nuôi nhiều ngàn người ăn no nê. Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với các loài thụ tạo, nhất là loài người. Đã có lần Chúa đã nói về sự quan phòng rằng:Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao (Mt. 6,26). Chúa Giêsu có quyền năng trên mọi tạo vật. Ngài có quyền tác tạo và biến đổi mọi sự vượt trên tiến trình tự nhiên. Mọi sự vật trong vũ trụ cần có thời gian để sinh nở, phát triển và chín mùi. Với uy quyền trong ý tưởng, lời nói và hành động, Chúa Giêsu rút bớt thời gian để có hiệu qủa ngay tức khắc. Đó là các phép lạ.
Chúng ta quan sát mọi loài từ thực vật cho đến các loài động vật, tạo hóa đã đặt để trong mỗi loài một sự truyền sinh giống nòi tùy theo nhu cầu của cuộc sống. Có những cây trổ sinh hoa trái theo mùi vị khác nhau: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát và nồng. Một cây lúa miến sinh hằng trăm hạt. Một giàn nho trổ sinh muôn ngàn trái. Một con cá lóc dẫn theo cả mấy trăm con rồng rồng. Một con cua ôm cả ngàn con. Một con nhền nhện ôm bầu trứng cả ngàn con… Các con vật sinh xôi nẩy nở gấp trăm gấp ngàn tùy theo giống loại. Theo tiến trình tự nhiên, với thời gian được ấn định, mọi loài đều có cơ hội sinh hoa kết qủa. Ngay từ thuở sơ khai, con người biết dùng khả năng mình để trồng cấy và biến đổi hạt lúa thành cơm bánh nuôi thân.
Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều hai lần. Chúa đã dùng bánh trong bữa tiệc ly để biến đổi thành Mình Thánh Chúa nuôi hồn:Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy (Mt 26, 26). Manna là bánh ban xuống bởi trời nhưng tổ tiên đã ăn và đã chết. Giờ đây Thiên Chúa sẽ ban cho họ bánh trường sinh, ai ăn sẽ được sống đời đời:Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ (Ga 6, 35). Chúa Giêsu là bánh trường sinh từ trời xuống để nuôi dưỡng hồn xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu qua sự hiện diện nhiệm mầu trong Bí Tích. Chúng ta tôn thờ, kính viếng, kết hợp và nhận lãnh Thánh Thể làm của ăn. Chúng ta trở nên một trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một, cùng chia sẻ chung một tấm bánh và uống chung một chén rượu. Thánh Phaolô đã xác tín rằng: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa (Eph 4, 4- 5). Trong Chúa Kitô, chúng ta không còn phân biệt nam nữ, giầu nghèo và tự do hay nô lệ. Chúng ta không chỉ thuộc về Hội này hay Hội nọ, mà chỉ có một hội, đó là Hội Thánh Chúa:Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 6).
Ngày nay, Chúa vẫn có thể tiếp tục làm các phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cần 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Ai trong chúng ta cũng có thể dâng cho Chúa chút ít tấm bánh và vài con cá nhỏ. Chúa sẽ chấp nhận, chúc tụng, tạ ơn và đem ra phân phát cho nhiều người. Mỗi năm Tổng Giáo Phận Nữu Ước đều có cuộc vận động gây quỹ cho Đức Hồng Y để giúp các nhu cầu cần thiết trong Giáo Phận. Tuy dù cuộc sống khó khăn và kinh tế đang xuống dốc, nhưng lòng quảng đại của con người không giảm. Từ những đồng xu của các bà góa nghèo tới những tấm lòng rộng lượng bao la, mỗi năm một tăng, số tiền dâng cúng năm nay 2012 của Tổng Giáo Phận đã lên tới 19 triệu 30 ngàn đôla.
Chúa sẽ nhận những lễ dâng nho nhỏ hằng ngày của mỗi người như đã nhận 5 tấm bánh và 2 con cá của một bé trai dâng cúng. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể sinh ra nhiều hoa trái bông hạt. Chỉ cần 50 xu hay một đồng đô cũng có thể nuôi sống một trẻ mồ côi, một em khuyết tật, một người phong cùi hay một cụ già neo đơn trong một ngày tại quê hương nghèo ở Việt Nam. Ai cho đi thì sẽ được ban thêm: Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi (Mt 25, 29).
Lạy Chúa, Chúa hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no thỏa. Xin cho tấm bánh được tiếp tục bẻ ra phân phát cho những người túng đói. Chúa đã ban cho chúng con lương thực hằng ngày đầy đủ, xin cho chúng con cùng biết chia sẻ những miếng bánh vụn từ bàn rớt xuống cho những người đang đói khổ. Xin cho chúng con biết nghĩ đến người khác, xin đừng để chúng con phí phạm của ăn thức uống hằng ngày. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.
Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Trung tâm cải huấn dành riêng cho những người phạm luật tại quốc gia họ đang cư ngụ hay tạm trú. Bởi luật lệ nước này khác nước kia nên ranh giới đóng vai trò quan trọng. Cùng sự việc xảy ra có thể là sai luật nơi này nhưng đúng luật nơi khác. Cải huấn với mục đích thay tâm đổi tính con người. Thực tế cho thấy bề ngoài có thay đổi bởi họ phải tuân thủ luật lệ nơi họ đang sống, còn tâm tính bên trong có đổi thay hay không thì khó chứng minh.
Tù nhân trong Đức Kitô hoàn toàn do tình nguyện và xuất phát do lòng mến. Chính cá nhân người đó tự nguyện phục vụ Đức Kitô và họ hoàn toàn tự do đi lại, phục vụ để đem tình yêu Chúa đến cho tha nhân, làm cho tình yêu Chúa trở nên thiết thực, ích lợi cho con người. Phục vụ trong Đức Kitô là biến khả năng, tài trí của mình thành khí cụ mang lại lợi ích cho người khác. Chính điều này làm cho chúng ta trở thành giá trị trước mặt Chúa. Chúng ta có giá trị không phải do tài năng, của cải, địa vị mà chính là phục vụ tha nhân và Thiên Chúa làm cho việc hy sinh phục vụ của ta trở thành giá trị. Người trong trại cải huấn sợ bị phạt, roi đòn, bỏ đói, người phục vụ Đức Kitô sợ không đem hết khả năng ra phục vụ và không khiêm nhường, nhã nhặn, ôn hoà đủ trong khi phục vụ. Thư thánh Phaolô gởi cho tín hữu Ephêsô 4,1- 6 nhắc nhở Kitô hữu phục vụ không phải trong một thời gian nào đó mà phục vụ suốt đời bởi đó chính là ơn gọi của ta. Ơn gọi của ta là mến Chúa và yêu tha nhân, biến tình yêu Chúa thành hành động cụ thể. Phục vụ cần có tâm tình chịu đựng lẫn nhau, ôn hoà, nhẫn nại. Những điều này thể hiện tâm tình phục vụ đến từ tấm lòng, do tự nguyện và làm với lòng yêu mến. Bản chất của khiêm nhường là không mong được tâng bốc, đề cao, khen ngợi bởi đi tìm chúng là làm biến thể trái nghịch của khiêm nhường. Được người khác khen ngợi, ca tụng, khuyến khích là điều tốt nhưng vận động, tìm kiếm để có chúng là điều xấu. Phục vụ chân chính vui khi thấy người mình phục vụ vui, chia sẻ niềm vui đó và đó là món quà dành cho người phục vụ, chia sẻ nỗi đau, niềm vui của mọi người.
Có nhiều cách liên kết với Đức Kitô. Phục vụ chính là tiếp tục công việc Đức Kitô đã làm khi Ngài sống nơi dương thế. Mọi người đều là con cái Chúa, kết hợp với thân thể Đức Kitô, Ngài là đầu và chúng ta là chi thể. Chính sự liên kết này mà tình yêu và ân sủng Chúa tràn vào lòng ta, ban sức mạnh, ơn khôn ngoan giúp ta hăng say phục vụ anh chị em khác để họ cùng chung hưởng vinh quang Thiên Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa, cùng thừa hưởng gia nghiệp Đức Kitô mang lại qua thập giá, đau khổ và Phục Sinh vinh quang của Người.
Cách thứ hai liên kết với Đức Kitô qua niềm tin, cùng một niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh và thực thi giáo huấn Ngài: mến Chúa yêu tha nhân. Cách thứ ba liên kết với Đức Kitô qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, món quà Đức Kitô trao ban sau khi về trời. Khi nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần chúng ta được tự do hành động mà không sợ vấp phải sai trái, lỗi lầm bởi Thánh Thần Chúa hướng dẫn việc làm của ta. Thánh Thần giúp chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa; Thánh Thần giúp ta chấp nhận anh chị em khác; Thánh Thần ban sức mạnh giúp ta sống khiêm nhường, nhã nhặn, kiên nhẫn vượt qua gian nan thử thách. Thánh Thần hướng dẫn cho ta nhận biết mọi sự ta có đều do Chúa ban. Đời ta hướng về không gì khác hơn là Thiên Chúa, danh dự và mọi điều tốt lành đều hướng về Chúa và đó là mục đích cuối cùng của đời người.
Phục vụ anh chị em chính là làm cho món quà Chúa trao trong ta trở nên sinh động, hữu ích cho tha nhân, quà đó trở nên thực tiễn hơn và cần thiết, làm cho gánh đời nhẹ hơn. Đức Kitô cũng làm công việc xoa dịu đau khổ, đói khát cho đám đông khi họ đi theo Ngài nghe giảng. Các môn đệ không có cách nào giúp đám đông và cũng không có khả năng giúp, ngoại trừ nghe theo hướng dẫn của Đức Kitô. Các ông cũng không thể biết được Đức Kitô có thể dùng ít thực phẩm nhỏ nhoi của em bé để nuôi năm ngàn người. Điều Ngài làm hoàn toàn trái với luật tự nhiên là hoá ít thành nhiều, năm tấm bánh và hai con cá biến thành dư thừa của ăn cho năm ngàn người. Điều này cho các môn đệ biết Đức Kitô có khả năng làm những việc ngoài sức tưởng của các ông. Chỉ cần lắng nghe lời Ngài mọi sự khác Ngài ban cho. Ngài biến thất bại của các ông thành kết quả lớn lao; thiếu thốn thành dư thừa; yếu đuối thành sức mạnh; khó khăn thành thuận lợi; giới hạn thành vô hạn. Thiên Chúa biến chút tài mọn phục vụ của ta thành vĩ đại; lòng thành của ta sưởi ấm lòng tha nhân và lòng mến thành con tim yêu mến nồng nàn nơi người khác. Khiêm nhường và nhã nhặn phục vụ mang niềm vui vô hạn cho tha nhân.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng nhiều và nếu có người phụ giúp gánh nặng sẽ giảm bớt nhiều nhưng nhiệm vụ của người quản tiệc vẫn đòi hỏi nhiều tính toán, chuẩn bị, nhờ đúng người, đúng việc.
Đám đông lắng nghe Đức Kitô hầu như cả ngày, thích thú đến độ không cần ăn uống. Các môn đệ xin Ngài giải tán đám đông để họ đi tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi vì ngày đã gần tàn. Đức Kitô đáp các anh hãy lo cho họ ăn. Các ông la hoảng, tìm đâu ra của ăn nuôi năm ngàn người ở nơi quạnh hưu này, hàng quán thì không có, mà nếu có thì đào đâu ra tiền mua thức ăn. Một trong số các vị mạnh dạn thưa. Em bé kia có dăm cái bánh và hai con cá nhưng bằng đó thì thấm vào đâu cho số người khổng lồ này? Các môn đệ theo Thầy đã lâu nhưng vẫn không thể tưởng tượng, chưa nói đến hiểu, quyền phép Thiên Chúa. Các ông không biết Chúa có thể hoá ít ra nhiều bằng một lời nguyện cùng Chúa Cha. Các ông không biết Chúa chọn kẻ bé nhỏ nhất, hèn mọn nhất là em bé với hộp đồ ăn trưa để nuôi năm ngàn người lớn ăn no, số bánh dư, vất vương vãi trên cỏ thu lại thành nhiều thúng đầy. Không phải các môn đệ làm sự lạ cả thể mà chính Đức Kitô. Cũng không phải vì lời cầu xin của các ông mà Đức Kitô làm phép lạ mà chính là do tình thương mến Đức Kitô dành cho đám đông. Khi nghe Đức Kitô bảo các ông hãy nuôi đám đông, các ông sửng sốt đến ngạc nhiên tự hỏi không biết mình có nghe sai không? Nhưng khi nghe Đức Kitô bảo hãy nói với dân chúng ngồi xuống từng đám năm mươi lúc đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Các môn đệ vâng lời Đức Kitô nhưng không hiểu việc Thầy làm. Dù không hiểu nhưng vẫn vâng lời đó là điều Kitô cần suy gẫm khi cuộc sống gặp gian nan, khi đức tin gặp hoàn cảnh khó xử bởi việc Chúa làm không thể hiểu, ngoài mức hiểu của con người nhưng ai vâng lời sẽ kinh ngạc trước những việc Chúa làm. Họ sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ trầm trồ này đến trầm trồ nọ vì sức mạnh tình thương cao cả Chúa.
Giảng cho năm ngàn người nơi bãi biển mà không cần khí cụ khuyếch đại âm thanh, khi tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió hú vù vù bên tai, Đức Kitô có thể làm cho mọi người nghe và hiểu điều Ngài muốn nói, yêu mến lời Ngài giảng dậy là một phép lạ. Họ nghe đến quên thời gian, quên ngay cả đói khát, quên đau lưng, chồn chân, mỏi gối. Tất cả những điều đó là những phép lạ phụ, tuy nhỏ nhưng rất thực tế dẫn đến phép lạ vĩ đại cuối ngày. Phép lạ cả thể là dùng bữa ăn trưa của em nhỏ nuôi năm ngàn người lớn. Phép lạ cuối ngày dẫn chúng ta liên tưởng đến bữa Tiệc Li Đức Kitô dùng với các môn đệ và trong bữa tiệc này Chúa lập Bí Tích ngày nay chúng ta hiểu là Bí TíchThánh Thể. Với quyền năng cao vời Chúa hoá ít bánh ra nhiều bằng một lời cảm tạ Chúa Cha. Kitô hữu không nên và cũng không cần thắc mắc sự việc Chúa làm, làm sao sau khi truyền phép bánh thường trở thành Thịt Máu Đức Kitô. Nếu có thắc mắc thì nên đặt câu hỏi làm thế nào để cám ơn tình thương Chúa cho được. Có lẽ cách hữu hiệu nhất, thích hợp nhất và làm đẹp lòng Chúa nhất để đáp lại tình thương Chúa là với lòng chân thành, yêu mến chúng ta hãy chia sớt trong khả năng mỗi người để Chúa biến những vật chất giới hạn của ta thành tình yêu vô biên của Chúa cho tha nhân. Đó là cách thực hành tinh thần bác ái Kitô, thực hành tinh thần người quản lí tốt lành trong Giáo Hội Chúa.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Phúc Âm đọc trong lễ Chúa Nhật năm B thường trích từ thánh Marcô. Tuần này và bốn Chúa Nhật kế tiếp có sự thay đổi đột ngột. Chúng ta nghe đọc Phúc Âm thánh Gioan, chương sáu, nói về Đức Kitô, Đấng ban Bánh Hằng Sống, là chính Máu và Thịt Ngài làm của ăn nuôi linh hồn ta. Bánh Hằng Sống vì Đức Kitô phán
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời Gn 6,51
Chỉ có hai con cá và năm cái bánh, Đức Kitô làm phép lạ, dư bánh nuôi năm ngàn người. Phép lạ nuôi đám đông còn huyền diệu hơn, trường cửu hơn, khi Ngài dùng chính Mình và Máu Thánh Ngài để nuôi muôn dân. Không phải một lần mà nhiều lần, vô tận. Mình, Máu Chúa ban không giới hạn thời gian, kéo dài từ đời nọ đến đời kia, thế hệ này sang thế hệ nọ. Vô tận. Bao lâu còn người kêu cầu Danh Thánh dâng lễ tế; bấy lâu còn Mình Máu Thánh.
Tất cả vì yêu
Đức Kitô ban bánh hằng sống vì Ngài yêu ta. Tình yêu Ngài không chỉ giới hạn riêng cho linh hồn. Tình yêu Ngài thể hiện tài tình qua các phép lạ chữa lành bệnh thân xác. Ngài diễn tả tình yêu cao vời bằng nhiều cách, vượt thời gian, không gian. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm, lời giảng cũng như phép lạ đều phục vụ một mục đích duy nhất. Diễn tả tình Chúa yêu ta.
Đức Kitô xuống thế nhận thân phận làm người, chung sống với nhân loại. Sống gần kề con người. Ngài đến để cảm thông nỗi đau khổ, vất vả của con người và mở đường dẫn con người về cùng Chúa Cha, Đấng trọn tốt, trọn lành vô cùng.
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Gn 14,6
Là con người, Đức Kitô trải qua vui buồn, sướng, khổ như chúng ta. Qua kinh nghiệm bản thân, Ngài an ủi kẻ sầu khổ, hạnh phúc cho kẻ bất an, hy vọng cho người tuyệt vọng. Kẻ mù mừng vui thấy ánh sáng, vẻ đẹp thiên nhiên của Đấng Hóa công. Ngài chữa lành mọi ốm đau, bệnh tật. Người điếc reo hò chân nhảy điệu nhạc vui. Kẻ câm cất tiếng hát vang lời cảm tạ. Người què vất nạng xó bếp, chân bước đều, đồng hành cùng mọi người. Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa cao vời, vượt trên trí hiểu biết con người. Khôn ngoan, trí óc tưởng tượng không nổi, nói chi đến giải thích, phân tích. Để tạm hiểu tình yêu Chúa, có một cách duy nhất: dùng tình yêu đáp trả tình yêu. Ngoài cách này ra, không còn cách nào khác.
Tình yêu cao vời
Ngoài cách diễn tả tình yêu gần gũi, bình thường như chữa bệnh, và các dấu lạ. Đức Kitô còn diễn tả tình yêu Chúa một cách lạ thường. Ngài cho người chết sống lại. Ban ơn tha tội cho những ai thống hối. Bênh vực kẻ nghèo hèn. Ngài xin Chúa Cha coi sóc và thánh hiến kẻ tin vào Ngài. Xin Chúa Cha tha cho kẻ phản bội, giết Ngài. Ban ơn tha thứ cho kẻ trộm ăn năn, thống hối. Vì yêu ta Đức Kitô hi sinh chết thay cho ta đuợc sống. Thánh Phaolô nói chết thay cho người công chính đã hiếm, Chúa chết thay cho kẻ tội lỗi, còn ban Bí Tích nâng đỡ, ban ân sủng, sức mạnh giúp người đó an tâm trở về.
Cao vời khôn ví
Ngoài trí tưởng tượng của ta. Tình Chúa cao vời khôn ví. Chúa lập phép Thánh Thể, hiện diện trong hình bánh nhỏ, trong giọt rượu nho, trong lời kinh, để gần người yêu.
Tình Ngài bất biến
Ngoài mối tình gia đình. Chúng ta yêu nhau có điều kiện, hoặc là hợp tính nết, cùng lứa tuổi, chung sở thích, gặp nhau do cách nói chuyện, thân thiết vì cùng kiến thức. Tình Chúa yêu ta không thay đổi theo thời gian. Trước sau luôn như một. Từ muôn thuở Chúa đã yêu ta bằng mối tình yêu không biên giới. Vì yêu mà chúng ta có mặt trên đời. Vì yêu Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Vì yêu Chúa không chọn người đẹp; chê người xấu. Chúa đón nhận và mong mỏi ngự vào mọi tấm lòng. Dù tấm lòng đó luôn thay đổi lúc trắng, lúc đen. Khi trung thành, lúc bất trung. Khi thương mến, lúc giận hờn. Khi sốt sắng đón chào, lúc khác lại xua đuổi. Lúc đuổi Ngài lúc đuổi anh chị em Kitô hữu tôn thờ Ngài. Đức Kitô đón nhận mọi tâm hồn khi tâm hồn đó có dấu chỉ thống hối. Tất cả vì Chúa yêu ta.
Phép lạ bánh ít hoá nhiều, con người xịa của, ăn dư vất đầy sân cỏ. Các môn đệ thu được mười hai thúng đầy. Ngày nay, trong một số trường hợp, người ta vẫn đối xử với Chúa như miếng bánh rơi sân cỏ năm xưa. Đón nhận Mình Máu Thánh một cách ơ hờ, thiếu chuẩn bị, thất kính. Chúa không chấp, vẫn một mực yêu thương. Nếu có thất kính là bất kính với người đồng đạo hơn là bất kính với Chúa.
Tự hào
Con người tự hào vì biết vẽ chân dung để nhớ lại người thân quá cố. Tài giỏi hơn nữa là chế tạo máy chụp chân dung người thân, lộng kiếng treo trong phòng. Tân tiến hơn là quay hình ảnh sống động các sinh hoạt của từng người, trong các biến cố cuộc sống. Tất cả đều là những hình ảnh không cảm giác, không sự sống. Tương lai còn chế tạo những gì chưa ai rõ. Điều rõ ràng, chắc chắn là trước khi con người biết vẽ, chế tạo máy chụp hình lưu niệm và máy quay phim hình ảnh di chuyển. Thiên Chúa, ngay lúc khởi nguyên, đã đi trước con người hàng triệu thế kỉ. Ngài sáng chế ra hình ảnh sống động, biết cảm xúc, biết yêu thương. Đó là sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Chúa tạo dựng ta theo hình ảnh Chúa để qua ta Chúa nhìn thấy chính Chúa. Xin ban ơn giúp con nhìn ra chân dung Chúa nơi mọi người.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn)
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ trời rơi xuống. Bánh đó tượng trưng cho ân huệ Thiên Chúa thương dân Người. Ngài không muốn họ phải chết đói chết khát.
Hôm nay và mãi mãi Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc cuộc đời chúng ta. Ngài không bỏ rơi con người. Ngài chăm sóc chúng ta từng chi tiết nhỏ mọn như một người mẹ hiền thương con và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu chính là hiện thân tình thương ấy của Thiên Chúa Cha.
Các bản văn Kinh Thánh CN 17 TN đều thuật lại việc Thiên Chúa chăm sóc son người một cách cụ thể liên quan đến miếng cơm manh áo. Bài đọc 1 sách các vua quyển thứ 2 kể lại việc hồi ấy có nạn đói lớn trong miền, người ta đem biếu ông Êlisa người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông bảo ‘phát cho người ta ăn’. Nhưng tiểu đồng hỏi ông: ‘Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?’ Ông bảo: ‘Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán (x. 2 V 4,42- 44). “Chúa thương rộng mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thoả thuê” (Tv 144). Bài Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều từ phần đóng góp phần ăn của một cháu bé so với đám đông mấy ngàn người cũng chẳng thấm vào đâu; nhưng kết quả diễn ra thật lạ lùng.
Trước khi cho chúng ta ăn no phần xác Chúa phải cho ăn phần hồn. Họ phải hy sinh vất vả theo Chúa để nghe Lời Chúa trước đã rồi Chúa mới làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn. Chúa biết ‘có thực mới vực được đạo’. Chúa bồi dưỡng, cứu độ con người cả hồn lẫn xác; chăm lo cả cuộc sống chúng ta.
Đám đông dân chúng, một khối người khổng lồ vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Chúa đã nuôi họ bằng Lời hằng sống. Chúa còn muốn nuôi họ bằng lương thực vật chất nữa. Chúa biết kinh nghiệm khi đói khát, người ta dễ cáu gắt, khó chịu, bực bội; thậm chí vì miếng ăn có thể chém giết nhau. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy nên không nỡ để đám đông sau khi nghe Chúa giảng dạy lâu giờ mà phải ra về khi bụng còn đói. Rất có thể họ sẽ phê bình, chỉ trích, nổi cáu, đả đảo Chúa vì đói quá thì sao!
Nhưng cũng không phải là ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Đám đông dân chúng và các môn đệ đâu có biết sau đó Chúa làm phép lạ cho họ ăn no nê. Họ chỉ biết theo Chúa để nghe giảng thôi. Mà ở địa bàn lúc bấy giờ là nơi hoang vắng cũng chẳng có quán ăn nào.
Phép lạ có được là nhờ sự quảng đại của một em bé đã dám bỏ phần ăn của mình là 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,1- 15). Phép lạ đòi hỏi có sự cộng tác, chia sẻ. Phép lạ đòi có sự quảng đại, hy sinh. Chúng ta luôn có đủ khả năng để giúp đỡ người khác cách này cách nọ. Đừng sợ mình cho đi ít quá hay không có gì để cho. Chỉ cần vài miếng ăn của đứa bé thế là có một phép lạ vĩ đại mà chúng ta không tin sao?
Thời đại chúng ta, vấn đề ăn uống có lẽ ít còn là chuyện ăn cho no, vì thóc gạo lương thực không đến nỗi thiếu thốn như ngày xưa, nên phải tìm kiếm ăn sao cho ngon. Vì thế, có nhiều nghệ thuật ăn uống, mỹ thuật trình bày món ăn sao cho hấp dẫn nữa. Ấy thế mà lại thiếu trầm trọng bữa ăn mang tính huynh đệ, bác ái thực sự. Thành thử ra, ngay cả khi không đói khát, người ta vẫn tranh giành nhau từng miếng ăn nhỏ nhen, bất chấp tương quan anh chị em, cha mẹ con cái… Thực tế trong con người chúng ta vẫn có khuynh hướng xấu ấy. Hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để dạy chúng ta về sự chia sẻ trong tình liên đới. Bằng chứng là một em bé đã dám bỏ ra 5 chiếc bánh và 2 con cá của mình để đưa cho Chúa phân phát cho đám đông là một điều hơi lạ, vì đối với trẻ em, chuyện này là hơi khó. Chúa Giêsu đã biến từ một sở hữu cá nhân, sự tham lam ích kỷ của con người thành sự chia sẻ, cho đi và hưởng dùng cho cả cộng đồng, tập thể lớn.
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này rất phong phú, dồi dào tài nguyên khoáng sản không những nuôi sống mấy tỉ người mà nuôi sống cả muôn loài muôn thú nữa. Chỉ cần người ta đừng lãng phí, đừng ích kỷ, tham lam độc ác; nhưng biết cộng tác, chia sẻ thì ai cũng sẽ được hưởng cao lương mỹ vị. Chẳng hạn như Mẹ Têrêxa hằng ngày nuôi 9.000 người nghèo ở Calcutta. Nhưng một nghiên cứu có tính quốc tế cho biết: mỗi 1 giờ đồng hồ có khoảng 1.500 trẻ em chết vì đói khát, bệnh tật; nửa triệu dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch; 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng vẫn đói meo!
Thế giới vẫn còn nghèo đói, lạc hậu, dốt nát do chiến tranh và các tệ nạn xã hội. Đức Giêsu luôn cần những con người cộng tác để trẻ em được dạy dỗ, người nghèo được nuôi nấng, người ốm đau được chăm sóc. Vì thế, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho phép lạ, nếu chúng ta biết chia sẻ điều mình có với Chúa như là của cải, sức khoẻ, tài năng, thời giờ, tình yêu, địa vị, quyền hành. Chúa sẽ biến thành kết quả khôn lường. Một ông giám đốc, một nhà khoa học, một thầy giáo, một diễn viên, một linh mục, tu sĩ hay giáo dân có thể giúp ích, nuôi sống bao nhiêu người. Một chương trình nghệ thuật hay quảng cáo thu được rất nhiều tiền do sự đóng góp của nhiều người, sau đó người ta có thể dành cho những mục tiêu cao đẹp, chính đáng nào đó chẳng hạn. Như giúp người nghèo đói, bệnh tật. Chúng ta hãy cộng tác với những tổ chức từ thiện bác ái trong đạo ngoài đời để làm nên những phép lạ hằng ngày. Với niềm xác tín rằng “nếu chúng ta dâng cho Chúa một tia lửa Chúa sẽ biến thành ngọn lửa. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một sợi dây Chúa sẽ biến nó thành cây đàn. Nếu chúng ta dâng cho Chúa một giọt nước Chúa sẽ biến nó thành một dòng suối…”.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 5 chiếc bánh và 2 con cá là con số tuợng trưng cho 7 bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là nguồn lương thực Chúa nuôi dưỡng chúng ta mãi cho đến ngày tận thế, không bao giờ cạn kiệt. Chúa chăm lo cho chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa và các bí tích của Chúa hướng dẫn và nuôi sống chúng ta, chắc chắn sẽ có những phép lạ thường xuyên xảy ra.
Cử chỉ Chúa làm khi hoá bánh ra nhiều cũng giống như cử chỉ khi Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Rõ ràng Chúa Giêsu là tấm bánh như chính Ngài đã nói “Ta là bánh hằng sống”, đã dám bẻ cuộc đời mình ra cho nhân loại chia nhau ăn để họ được sống muôn đời. Quả thật, nhân loại sẽ còn đói khát Chúa Giêsu mãi. Đói khát Lời Ngài, Thịt Máu Ngài. Hôm nay Chúa vẫn đang cần những con người cộng tác trao ban Lời Ngài, bẻ bánh trao cho nhân loại để họ hết đói khát. Những người cộng tác không ai khác là các môn đệ, là Kitô hữu chúng ta, hãy hiến thân để phục vụ anh chị em đồng loại đang đói khát vật chất, tinh thần, đức tin. Chúng ta hãy cho họ ăn để họ được sống dồi dào cả hồn lẫn xác như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
CÁ HÓA NHIỀU PHẢI CHĂNG LÀ
HÌNH ẢNH NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC CỨU RỖI?
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, từ Chúa Nhật 17 tuần này tới Chúa Nhật 21 Thường Niên, nghĩa là trong vòng 5 tuần lễ liền, các bài Phúc Âm thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B vốn theo Thánh Ký Marcô này sẽ theo Thánh Ký Gioan, những bài Phúc Âm về biến cố hóa bánh ra nhiều và bài giảng về Bánh Hằng Sống. Thực tế cho thấy Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan rất hiếm có trường hợp trung với bộ Phúc Âm Nhất Lãm, nếu có trùng, thì cũng rất hiếm, như những đoạn về vị tiền hô Gioan Tẩy Giả và đoạn về Mầu Nhiệm Vượt Qua, song nội dung của một ít đoạn trùng này cũng hầu như rất khác biệt. Bài Phúc Âm về biến cố bánh hóa nhiều được Giáo Hội giành cho Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần này là một trong mấy đoạn trùng hợp giữa Phúc Âm Thánh Gioan và bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong khi Thánh Ký Gioan chẳng những thuật lại biến cố Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều giống như bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm về lần thứ nhất Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều này mà còn ghi lại cả một bài giảng dài hết sức lạ lùng thần bí về Bánh Hằng Sống đi kèm nữa.
Chúng ta sẽ chia sẻ về chính bài giảng này vào ba Chúa Nhật (XVIII, XIX, XX) tới, cũng như về hậu quả của bài giảng này vào Chúa Nhật XXI sau đó. Hôm nay chúng ta chỉ chia sẻ về biến cố bánh hóa ra nhiều theo quan điểm của Phúc Âm Thánh Gioan, một quan điểm liên quan đến vai trò của một vị mục tử, một vị mục tử động lòng thương dân chúng đông đảo tuốn đến với Người như đàn chiên vô chủ, một chi tiết duy nhất (trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm) được thấy trong bài Phúc Âm Thánh Ký Marcô tuần trước. Tuy nhiên, vì Thánh Ký Marcô chỉ nêu lên nhận định có tính cách mục tử về Chúa Giêsu chứ không khai triển thêm nhận định này, mà Giáo Hội đã cần phải sử dụng bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, bài Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 6 này tuy không trực tiếp nói đến vai trò và tinh thần của một người mục tử nhân lành như ở đoạn 10, nhưng cũng đã cho thấy trước tất cả ruột gan của vị mục tử nhân lành, vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên (x Jn 10:11), ở chỗ, đã tự trở thành bánh nuôi chiên (x Jn 6:57), cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn (x Jn 10:10).
Vấn đề của bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Marcô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, dù biết dân đang đói, vẫn cứ nuôi dân bằng lời Chúa trước, nuôi dân bằng một bài giảng dài, và dân chúng, tuy đói, vẫn hăng say nghe lời Chúa, như chưa bao giờ được ăn những của cao lương mỹ vị thiêng liêng như vậy. Vấn đề của bài Phúc Âm tuần này là Chúa Giêsu chẳng những nuôi dân chúng, thành phần tìm kiếm Người và khao khát Người, bằng lời Chúa mà còn bằng của ăn phần xác nữa. Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi thành phần dân chúng theo đuổi để nghe lời Người đây thực sự nói lên cho thấy vai trò Cứu Thế của Người, một vị cứu thế của toàn thể nhân loại (được biểu hiệu qua hình ảnh đám đông dân chúng), và là một vị cứu tinh toàn diện con người (tức cả hồn lẫn xác, chứ không phải chỉ cứu có hồn thôi). Người là vị cứu tinh linh hồn con người khỏi tội lỗi bằng việc Người tỏ mình ra cho họ, tức bằng việc Người tái sinh họ “bởi nước” là những gì liên quan đến nhân tính của Người, qua các lời Người nói và việc Người làm, cũng như “bởi Thần Linh” là Đấng làm cho họ nhận biết Người; Người còn cứu cả thân xác con người khỏi tử thần nữa, bằng quyền năng phục sinh của Người, khi Người biến thân xác yếu hèn của họ ngay khi còn sống trên trần gian thành dụng cụ hoạt động cho bác ái, tận tuyệt hy sinh phục vụ tha nhân, những việc hoàn toàn ngược lại với khuynh hướng vị kỷ sinh tồn và hoàn toàn vượt khả năng tự nhiên hữu hạn của họ, nhất là bằng cuộc phục sinh cánh chung thân xác của họ.
Vấn đề được đặt ra ở đây là hiện tượng và ý nghĩa “hóa nhiều” của 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô. Trước hết về hiện tượng “hóa nhiều”, một hiện tượng phát xuất từ hành động ban phát của các môn đệ. Bởi vì, khi Chúa Giêsu cầm 5 ổ bánh trước và 2 con cá khô sau, dâng lời cảm tạthì vẫn là 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô, không hơn không kém. Thế nhưng, con số 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô này đã “hóa nhiều” khi chúng được truyền đi từ Chúa Giêsu sang các môn đệ và từ các môn đệ sang đám đông dân chúng. Vì là phép lạ vượt tự nhiên, chúng ta không biết được tại sao và làm sao 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá khô này có thể “hóa nhiều” hơn cả ngàn lần ấy, thế nhưng, qua phép lạ này, ở đây, chúng ta thấy được một số chân lý hợp với lời Chúa:
Thứ nhất, hiện tượng “hóa nhiều” đây nói lên tình trạng dồi dào, (chứ không phải chỉ đầy đủ hay vừa đủ), một thứ dồi dào Chúa Giêsu Mục Tử muốn cho chiên của mình được hưởng: “Tôi đến cho chúng được sự sống và là một sự sống viên mãn” (Jn 10:10).
Thứ hai, hiện tượng “hóa nhiều” đây còn nói lên chân lý cành nho mới là nơi sinh muôn vàn hoa trái chứ không phải thân nho, miễn là cành nho phải dính liền với thân nho (x Jn 15:5), vì ở trường hợp này, tác động phân phát của các môn đệ sau khi nhận lãnh từ Thày đã gây nên hiện tượng “hóa nhiều”.
Thứ ba, hiện tượng “hóa nhiều” đây cho thấy đường lối càng cho càng có, càng phân phát càng dồi dào, càng bỏ càng còn, đúng như lời Chúa phán với các môn đệ: “Ai yêu sự sống mình thì làm mất nó, còn ai ghét sự mạng mình trên thế gian này thì lại giữ được nó cho sự sống đời đời” (Jn 12:25; x Mt 16:25). Thật vậy, hiện tượng “hóa nhiều” này cũng đúng theo định luật tự nhiên nữa. Điển hình nhất là trường hợp người mẹ, ở chỗ, sở dĩ bà có sữa là vì có con, và bà chỉ còn sữa khi cho con bú, bằng không thì nguồn giữa của bà sẽ cạn kiệt rất nhanh.
Ngoài ra, hiện tượng “hóa nhiều” đây còn liên quan đến chất liệu được hóa nhiều, đó là 5 ổ lúa mạch và 2 con cá khô, tức là những gì ăn liền mà không cần phải nấu nướng. Theo Phúc Âm Nhất Lãm, trừ Phúc Âm Thánh Luca, Chúa Giêsu còn thực hiện việc hóa nhiều lần thứ hai nuôi 4 ngàn người nữa. Trong lần thứ hai này, Thánh Ký Marcô chỉ nói đến 7 ổ bánh, còn Thánh Mathêu nói thêm, ngoài 7 ổ bánh còn có mấy con cá nhỏ nữa (x Mt 15:34). Nếu cả hai lần “hóa nhiều” nuôi dân này, hai chất liệu cần có là bánh và cá thì chắc hẳn hai chất liệu này phải có một liên hệ với nhau và với Chúa Giêsu. Thật vậy, bánh và cá là hai món đồ ăn thông dụng nhất như một thứ lương khô thuận lợi cho thành phần đi đường xa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã lợi dụng những vật dụng, những thứ tự nhiên ấy để dẫn con người vào lãnh giới siêu nhiên, vào mầu nhiệm thần linh cao cả. Như Người đã dùng hình ảnh nước và việc kín nước bình thường để nói chuyện với chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp (x Jn 4:1- 26). Vậy bánh và cá đây liên quan đến Chúa Kitô như thế nào? Nếu không phải bánh liên quan đến chính bản thân Chúa Kitô nói chung và đến thân xác của Người nói riêng (x Jn 6:51), như Người khẳng định trong bài Phúc Âm về Bánh Hằng Sống trong ba tuần tới.
Còn cá? Trước hết, hình ảnh cá là biểu hiệu cho Chúa Kitô trước thế kỷ thứ 5. Chữ cá theo tiếng Hy Lạp là ichthus, tức chữ bao gồm những mẫu tự tắt về Chúa Giêsu: Iesous, CHristos, THeou, Uios, Soter, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế. Ngoài ra, theo người chia sẻ bài này, cá còn là hình ảnh liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua nói chung và hình ảnh mồ táng nói riêng, vì Chúa Giêsu đã khẳng định với những người luật sĩ và biệt phái Do Thái không tin Người mà chỉ đòi xem dấu lạ rằng: “Không có một dấu lạ nào ngoài dấu lạ tiên tri Giona. Như Giona ở trong bụng cá voi ba ngày ba đêm thế nào, Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12:39- 40). Thánh Thể được Chúa Kitô thiết lập để Giáo Hội cử hành mà nhớ đến Người, nhớ đến cuộc tử nạn của Người, nhớ đến việc “mình Thày bị nộp vì các con”, “máu Thày đổ ra cho các con” (Lk 22:19- 20). Bánh và cá đi với nhau trong phép lạ “hóa nhiều” là như thế: Bánh là tiêu biểu cho mình Chúa Kitô và cá tiêu biểu cho cuộc tử nạn của Người.
Chưa hết, cá còn tiêu biểu cho cả sứ vụ tông đồ truyền giáo của Giáo Hội trong việc tung lưới bắt cá người nữa (x Mt 4:19). Thế nhưng, nếu Chúa Kitô khẳng định Người đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến thân làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28). Về chữ “nhiều người” đây không phải là Người chỉ có cứu bằng đó hay khả năng cứu độ của Người chỉ có như thế, trái lại, công nghiệp của Chúa Kitô có khả năng cứu rỗi “tất cả” loài người, và mục đích cứu chuộc của Chúa Kitô là cứu rỗi “hết mọi” người. “Nhiều người” đây là hình ảnh của thành phần được cứu rỗi qua công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, một hình ảnh đã được tiên báo khi các tông đồ, vào lúc mới bắt đầu theo Thày cũng như sau khi Thày phục sinh từ trong cõi chết, vâng lời Thày thả lưới theo sự chỉ dẫn của Thày và đã bắt được một mẻ cá đầy đến gần rách lưới (x Lk 5:4- 7; Jn 21:6- 7). Như thế, vấn đề có người một lần kia đặt ra với Chúa Giêsu là “có phải số người được cứu rỗi ít hay chăng?” (x Lk 13:23), tuy Chúa Giêsu bấy giờ không trả lời thẳng vấn đề, mà chỉ nói đến nỗ lực của con người và tác dụng của ân sủng liên quan tới số phận đời đời của con người, ở đây, nhân bài Phúc Âm về phép là “hóa nhiều” liên quan đến cá này, một hải sản lại liên quan đến sứ mệnh tông đồ truyền giáo của Giáo Hội, một Giáo Hội, qua các tông đồ ngày xưa đã đánh được những mẻ cả lạ, một Giáo Hội như cành nho luôn dính liền với thân nho nên tiếp tục trổ sinh muôn vàn hoa trái, thì có thể suy ra rằng “nhiều người” được cứu rỗi chứ không ít.
(Suy niệm của Maurice Brouard)
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo, quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ: Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót, người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không biết nắm lấy thời cơ.
Qua dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm chính trị.
Sự lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế – vào thời Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian. Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút lui lên núi một mình.
Tại sao phải lẩn tránh?
Tại sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với những kẻ thân thích của Ngài: “Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và cũng không nhận biết Thầy” (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha” (17,25). Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ, phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ. Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.
Câu hỏi.
Chúng ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công, thù ghét và cho các ngẫu tượng không?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Thánh Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Nguyên)
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta. Tình yêu ấy bao trùm toàn thể vũ trụ này. Không một thụ tạo nào có thể sống và tồn tại nếu không nằm trong quỹ đạo yêu thương của Ngài. Là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, nên khi đến trần gian, trong những ngày tháng công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy một cách cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, nhằm đáp ứng nhu cầu khát khao chân lý của dân chúng, Chúa sẵn sàng dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi khi thấy đám đông đi theo mãi mê nghe Chúa giảng dạy mà quên cả ăn, khiến Ngài không đành lòng để họ ra về giữa cơn đói cồn cào. Nên Chúa đã hỏi: “Philipphê, ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Câu hỏi làm toát lên một sự quan tâm, lo lắng được xuất phát từ tình yêu chân thành. Dù rằng, chính Tông đồ Philipphê, khi được hỏi đã thú nhận sự bất lực của mình khi trả lời Chúa Giêsu: “Đến hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Khi nói “hai trăm bạc bánh”, Philipphê muốn nói rằng cho dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày của một người Do Thái lúc bấy giờ hoặc tính theo giá trị của hôm nay là 100.000 đồng/công, số tiền này lên đến 20 triệu đồng, thì “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được tình yêu, lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy. Điều con người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, thì Chúa Giêsu với tình thương Ngài đã thực hiện cách dễ dàng. Nhưng chúng ta cũng lập tức nhận ra rằng Chúa đã thực hiện phép lạ không phải từ số không, nhưng từ chất liệu của con người, đó là bánh và cá. Chúa Giêsu không dùng lời quyền năng để biến từ không ra có, mà phép lạ được khởi đi từ một khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé. Vậy là đã quá rõ Chúa muốn qua phép lạ hôm nay nói với mọi người chúng ta rằng: Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương của Thiên Chúa cho con người gấp bội. Cũng như sự quảng đại của em bé đã làm cho nhiều người được no nê, những đóng góp của biết bao người thiện chí, dù là ít ỏi, giới hạn, chẳng đáng là bao nhưng thực hiện với lòng yêu thương, sẽ khiến Thiên Chúa làm cho sự quảng đại này được nhân lên, nhân lên mãi trong cuộc sống.
Thế nên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem, chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng để Ngài sử dụng theo như ý Ngài muốn? Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm xưa. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng vượt lên trên mọi niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé trong Tin Mừng. Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng, và thói đời thường cho rằng “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nhưng cậu bé sau khi đã quảng đại, sẵn sàng trao khẩu phần ăn của mình cho Chúa, em không chỉ được ăn no nê, mà còn nhận lại được niềm sung sướng khi thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại niềm vui bất ngờ cho biết bao người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn giàu lòng quảng đại để có thể trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được toả lan rộng rãi khắp nơi. Amen.
48. Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài. Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.
Chương thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.
Thánh Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: “Lạy Chúa bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế gian.”
Thánh Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.
Trong câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. “Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn”. Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt.
Còn cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: “Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ”. Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của chữ cá: “ICHTHUS.” Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô: “Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta”.
Vì Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan, và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.
49. Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30- 43. Các Phúc âm Nhất lãm – nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.
Đàng khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.
Biến cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ gặp sau này.
Bài tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:
1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ, không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6, 41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.
Đó là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.
Chúng ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?
2) Niềm tin vâng phục phải được sống thực sự.
Tình trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.
Chúa Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ, ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm, họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?
Chúng ta đợi gì nơi Chúa Giêsu và Tin Mừng?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa anh chị em,
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.
Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan- Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh ban sự sống muôn đời.
(Suy niệm của Arthur Tone)
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. Anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”. Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh Lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng giúp chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. Sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”.
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN.
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa- sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa- sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Ga 6: 1- 15: Lòng quảng đại của Thiên Chúa không thực hiện cách cô đơn nhưng cần có sự đáp lại. Người cần những con người dám dấn thân làm việc thiện nguyện.
Suy niệm:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta được tiếp cận phép lạ Hóa bánh ra nhiều, là phép lạ của lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người. Một Thiên Chúa không chỉ lo cho phần hồn của con người được cứu độ, mà còn lo cho phần xác được nhu cầu thiết yếu “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5).
Lòng quảng đại của Thiên Chúa không thực hiện cách cô đơn nhưng cần có sự đáp lại. Người cần những con người dám dấn thân làm việc thiện nguyện. Chúa Giêsu huấn luyện cho người môn đệ Chúa biết ưu tư như Người, và mời gọi mọi người cộng tác với Chúa để lòng quảng đại được lan rộng ra. Đó chính là một Philipphê cần phải giải quyết cho những nhu cầu cơm ăn áo mặc và tôn giáo để thờ phượng là những nhu cầu căn bản nhất của con người. Đó chính là một Anrê nhanh trí quan sát và giới thiệu một bé trai, đây sẽ là ánh mắt của lòng trắc ẩn mau mắn nhận ra những mảnh đời bên cạnh cuộc sống của mình. Và đó chính là lòng quảng đại của em bé, sẵn lòng giao cho Chúa Giêsu năm chiếc bánh và hai con cá là tất cả những gì em có dầu ít ỏi như giọt nước giữa biển khơi, để chờ đợi điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra, vì em cũng như đám đông dân chúng lên tới hàng ngàn người đã bị lôi cuốn quên cả cái đói mà đi theo lắng nghe lời dạy như Đấng có uy quyền. Đó cũng chính là các tông đồ ổn định chỗ ngồi cho từng nhóm nhỏ, như là những nhà lãnh đạo các giáo đoàn sau này. Và khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng để ai nấy được no đủ, nhưng cũng không phải vì thấy thừa thải mà lại phí đi. Đó là sau khi mọi người được no nê, các tông đồ thu lượm những phần dư còn lại.
Chúng ta thấy, tài nguyên trên trái đất này không phải là vô hạn. Và làm sao để hoa quả của tài nguyên ấy được phân bố đồng đều cho mọi người để không ai phải đói nghèo. Thế mà ở miền này xứ nọ trên thế giới lại còn những người đói nghèo trong khi 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí và nhóm lợi ích.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng chúng ta được mời gọi sẻ chia cơm bánh, tiền nong của ta cho anh chị em có hoàn cảnh kém may mắn hơn chúng ta. Không phải đợi đến lúc chúng ta dư giả, nhưng ngay cả lúc như em bé chỉ có vài ba chiếc bánh cũng hãy mở rộng vòng tay để sẻ chia. Chúa Giêsu vẫn đang hỏi từng người chúng ta: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cảm tạ ơn Chúa vì chúng con không phải thiếu thốn, và biết ý thức để sẻ chia cho anh chị em mình. Đó là trách nhiệm và thể hiện tình liên đới với nhau, như Chúa đã quảng đại cho chúng con vậy. Chúa đã quảng đại tiếp tục trao ban chính Mình Máu Chúa để nuôi dưỡng chúng con trong bữa tiệc Thánh Thể vậy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Giêsu: Tấm bánh hiệp thông bẻ ra vì sự sống trần gian
Kính thưa quý anh chị em,
Chuyện kể rằng: sau thánh lễ nửa đêm mừng Chúa ra đời, mọi người ra về dọn tiệc Giáng Sinh tại gia đình. Đèn hoa rực rỡ, cỗ bàn thịnh soạn, nhạc thánh ca xen lẫn tiếng cười nói rộn ràng chúc mừng lễ Giáng Sinh thật đầm ấm. Họ đâu biết rằng ngoài cửa còn một bé gái (7 tuổi) mồ côi, đói rét đang dán mắt nhìn qua cửa kính như muốn van xin: “con đói, con rét lắm!”. Bé nép mình bên một góc phố như tìm nơi nương tựa…, nhưng không được ai quan tâm. Đêm ấy, bé đã chết vì đói, vì rét. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa nhất gây ra cái chết của bé là do thiếu tình thương, là do sự dửng dưng vô cảm của những người xung quanh.
Xã hội hôm nay, còn đầy dẫy trẻ thơ bất hạnh, đầy dẫy những mảnh đời khốn khổ, những gia đình đói cơm, thiếu mặc. Họ cũng sẽ chết dần, chết mòn nếu không được chúng ta quan tâm, sẻ chia nâng đỡ kịp thời. Tình liên đới hiệp thông như men nồng, rượu mới có thể cứu sống, như tấm bánh bẻ ra chia đều cho mọi người được nô nê, mà vẫn còn phần dư dật, phong nhiêu.
Ý tưởng đó giúp chúng ta gẫm suy, hiểu thấu đáo hơn và nhất là, đem ra thực hành lời Chúa dạy bằng một cuộc sống đượm tình mến thương, góp phần nâng cao phẩm giá con người trong mọi chiều kích hiện sinh.
Bài đọc I, trích sách Các Vua, đề cao tinh thần hiệp thông liên đới, quảng đại, giầu lòng nhân hậu, xót thương của ngôn sứ Ê- li- sa, đã chia sẽ đúng lúc và đúng nhu cầu cho những người đói khát, đang rất cần bánh ăn. Sứ điệp của bài sách thánh dạy cộng đoàn đề cao tình liên đới hiệp thông, quảng đại chia sẻ, được Chúa nhìn nhận và chúc phúc. Thực hành đức ái trọn hảo là cách làm giầu bền vững, như lời Chúa dạy: “Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc đầy tràn mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6, 38).
Ê- li- sa đã sống tình liên đới hiệp thông, yêu thương sẻ chia như Chúa, nên ông và cả nhà được ơn chúc lành: có đủ bánh ăn và không thiếu những nhu cầu thiết yếu duy trì sự sống. Cuộc đời ngôn sứ Ê- li- sa là hình ảnh tiền trưng của Đấng Cứu Thế. Chúa Giê- su là tấm bánh hiệp thông từ trời bẻ ra vì sự sống trần gian.
Bài Tin Mừng nhắc đến lễ Vượt Qua và phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám dân đông đảo đang đói khát, bởi đã ba ngày không có gì ăn. Trông thấy dân chúng đông đảo, đói khát “Lời” và “Bánh”, Chúa Giê- su chạnh lòng xót thương, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của họ. Xung quanh phép lạ hóa bánh ra nhiều, tác giả Tin Mừng nêu nhiều chi tiết làm chứng Giê- su là Mục Tử tốt lành: cho dân ngồi trên nơi có nhiều cỏ. Chiên và cỏ là lối so sánh ẩn dụ, ngầm tuyên bố Giê- su là Mục Tử tốt lành, đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Thập giá chính là đồng cỏ xanh tươi, là suối nước mát, chiên tha hồ ăn uống thỏa thuê. Bánh hóa ra nhiều hôm nay, là thực tại của hy tế thập giá: Mình Máu Thánh Chúa trở nên lương thực nuôi dân trên đường hy vọng. Cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu tuôn chảy máu và nước phát sinh các bí tích của Hội Thánh, lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng cứu thế, thì muôn đời kín múc tận nguồn ơn cứu độ.
Giê- su là cỏ non, là suối mát, là tấm bánh hiệp thông được bẻ ra muôn mảnh phân phát cho mỗi người, ai muốn bao nhiêu tùy ý. Bánh càng được bẻ vụn, càng được sẻ chia, lại càng nhân lên gấp bội. Ban đầu chỉ vỏn vẹn năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhận từ tay một bé trai, Giê- su tạ ơn, bẻ ra phân phát cho nguyên số đàn ông đã khoảng chừng năm ngàn và sau khi mọi người no đủ vẫn còn thu về số dư mười hai thúng đầy.
Mười hai thúng đầy bánh đang được trao cho Giáo Hội quản lý và cử hành. Mỗi khi thánh lễ được cử hành là mỗi lần ơn cứu chuộc chúng ta được thực hiện. Mỗi lần thánh lễ được cử hành, thì Giê- su tấm bánh hiệp thông lại được bẻ ra phân phát cho người tham dự, ai muốn bao nhiêu tùy ý và mười hai thúng đầy bánh vụn còn dư cứ được quản lý, ban phát trong Hội Thánh cho đến tận thế. Quả thật, Giê- su, tấm bánh hiệp thông bẻ ra vì sự sống trần gian.
Thưa anh chị em,
Làm thế nào để được luôn thông hiệp với Chúa Giê- su và để được Người ban cho bánh đó luôn mãi?
Thánh Phao- lô khuyên chúng ta hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban. Đó là các nhân đức nền tảng: Đức tin, đức cậy, đức mến, đồng thời, sống hoàn hảo các đức tính nhân bản: dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, nhẫn nại, từ tâm và biết chạnh lòng xót thương. Trong mọi sự, hãy có đức yêu thương như mối dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Thực hành những điều đó, chúng ta làm phải và Thiên Chúa tình yêu sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi, nghĩa là, luôn hiệp thông với Chúa và với nhau.
Mối dây hiệp nhất yêu thương này nhất thiết phải do Thánh Thần se định. Người làm cho chúng ta hiệp nhất nên một với Chúa trong cùng một đức tin, một phép rửa và ơn tha tội.
Dĩ nhiên, Thánh Thần luôn là bảo chứng của niềm hy vọng được sống muôn đời, và ngay từ bây giờ, Ngài đã ban cho chúng ta được thông hiệp với Chúa qua bí tích ban sự sống.
Mầu nhiệm Giê- su tấm bánh hiệp thông luôn được Thánh Thần cho bẻ vụn vì sự sống trần gian, cho phép chúng ta tháp nhập vào Đấng Phục Sinh để được sống và sống muôn đời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. J.B. Nguyễn Minh Hùng)
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá làm lương thực nuôi, chỉ với số lượng đàn ông thôi, đã có đến 5.000 người, người ta hay chú ý đến: sự động lòng yêu thương của Chúa Giêsu, nên ban lương thực cho đám đông đang đói; hay lời của thánh Anrê giới thiệu một em bé có trong tay bánh và cá; hay sự cộng tác của con người khi trao bánh và cá để Chúa làm phép lạ; hay Chúa đưa các môn đi vào mối bận tâm của Chúa khi hỏi: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”…
Nhưng ít có ai nói đến chính sự tự hiến mình của năm chiếc bánh và của hai con cá để, nhờ chúng mà phép lạ diễn ra. Đành rằng, sự hiến dâng, cũng chính là sự hy sinh của em bé đã góp phần làm nên phép lạ. Nhưng chính bánh và cá mới thực là chất thể của phép lạ. Bánh và cá (chứ không phải bản thân em bé) mới thực sự làm cho phép lạ nên hiện thực.
Trong quyển “Năm chiếc bánh và hai con cá” (xuất bản năm 1998), Đức cố Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận đã không nhìn phép lạ của Chúa Giêsu nuôi hơn 5.000 người ăn chỉ là phép lạ của quá khứ. Bằng tất cả nỗ lực thánh hoá mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… xảy ra trong đời mình, Đức Hồng y nhìn thấy phép lạ của Chúa trên chính cuộc đời và trong chính sự sống, trong từng nhịp thở của bản thân mình. Bằng tất cả sự hiến dâng mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… Đức Hồng y đã biến mình thành một thứ “bánh” và “cá” trong tay Chúa. Và cũng vì thế, Đức Hồng y nhìn thấy cuộc đời mình là một cuộc đời phép lạ. Bằng cách thánh hiến mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh…, Đức Hồng y đã nhận ra sự cao cả trong tình yêu của Chúa khôn xiết: vừa lạ lùng bởi không thể hiểu nổi, nhưng cũng quá đỗi thân quen bởi nó chạm đến chính mình; vừa nhiệm mầu bởi biết rằng nó đến từ Chúa, nhưng cũng gần gũi quá đỗi bởi cũng cảm nhận nó là chính mình… Đức Hồng y đã thấy Chúa thăng hoa đời mình chẳng khác gì “năm chiếc bánh và hai con cá” trong tay Chúa năm xưa: rất ít nhưng lại hoá nên rất nhiều.
Vì sao nhìn lại chính mình, Đức Hồng y lại có thể thấy phép lạ của Chúa? Bởi Đức Hồng y đã hoàn toàn đặt mình trong tay Chúa: ngài chính là tặng phẩm chính mình dâng lên Chúa, tặng phẩm chính mình dành cho Chúa. Đối với người được tặng quà, một khi đã có tặng phẩm trong tay mình, người chủ của món quà ấy sẽ thể hiện ý mình, thể hiện cách sử dụng của mình trên món quà. Nếu cuộc đời, sự sống và tình yêu của Đức Hồng y đã là của Chúa Giêsu, đã là quà tặng dành cho Chúa Giêsu, đã thuộc về Chúa Giêsu, đã nằm trong bàn tay Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu có quyền có mọi sáng kiến trên tặng phẩm ấy. Và sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện nơi tặng phẩm của chính Người, một tặng phẩm mang tên Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đó là:
- Tất cả ân ban ôm trọn cuộc đời Đức Hồng y.
- Tất cả tình thương kỳ diệu, tình thương vừa nhiệm mầu, nhưng cũng vừa cụ thể mà Đức Hồng y cảm nghiệm trên tất cả mọi thử thách, dẫu những thử thách ấy rát buốt nhất, thương đau nhất trong suốt đời mình.
- Tất cả niềm hy vọng sáng chói vọt lên giữa cảnh đời đen bạc, giữa những hận thù, những tăm tối và ác độc nhất của lòng người…
- Tất cả niềm tin vào Đấng đã khởi sự tốt đẹp, thì Người sẽ hoàn tất tốt đẹp giữa cái vô lý cực độ của một tù nhân không bản án, hay những năm tháng lưu vong, hay chính nỗi niềm xót xa vô hạn về sự vắng mặt của mình trong vai trò là mục tử giữa đàn chiên mà mình được trao phó.
- Tất cả lòng tha thứ, không gợn một chút oán hận nào trong trái tim của một con người chất chứa đầy tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi. Nhất là những tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi đó không phải vì chính mình, mà vì trách nhiệm, vì đoàn chiên, vì lòng yêu mến cả những người đang ngày đêm thù hằn và cư xử độc ác với mình.
- Tất cả sự chiến thắng trên chính hoàn cảnh. Dẫu đó là hoàn cảnh bế tắt nhất, mất hy vọng nhất, để sống cách tuyệt hảo phút hiện tại mà Chúa ban và nỗ lực làm việc không mệt mỏi, không để cho sự bị giam cầm có thể giam cầm tâm trí, giam cầm nhiệt huyết, giam cầm ý chí. Nhưng luôn vươn tới, luôn biến mình thành người tự do để hoàn thành cách xuất sắc nhất giây phút hiện tại mà Chúa ban.
- Tất cả hồng ân của hy tế thập giá trong từng thánh lễ. Nhất là những thánh lễ được cử hành với ba giọt rượu và một giọt nước, cùng với Mình Thánh Chúa là những chiếc bánh lễ được xé nhỏ nằm gọn trong chiếc túi nylon nhỏ xíu. Những hy tế hằng ngày được hiến dâng ấy đã tạo nên sức mạnh vô song để cây thập giá đời mình tháp nhập vào thánh giá Chúa Kitô tuyệt đẹp.
- Tất cả niềm hoan hỉ lớn lao khi Mình Thánh Chúa được kiệu khắp nơi giam cầm, trên chính ngực áo của những con người tưởng chừng mất tự do, và những giờ Thánh trong đêm tối tĩnh mịch để cùng nhau nhận lãnh Phép Lành Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên người bạn sớt chia nỗi nhục nhằn của những con người đau khổ. Ôi, niềm vui Chúa ban sao quá thiêng liêng nhưng lại ấm áp cách lạ thường! Hồng Ân Thánh Thể làm nên nghị lực quật cường nơi những con người tưởng chừng đã bị tiêu diệt tận cùng.
- Tất cả niềm bình an lớn lao trong những giây phút chìm đắm cầu nguyện. Không phải bằng lời, nhưng bằng đời cầu nguyện. Cầu nguyện giữa những hoang mang trong thương đau, lẫn niềm vui trong trách nhiệm mà Hội Thánh đặt lên vai mình. Đó là sáng kiến ngoạn mục mà Chúa Giêsu tạo nên trong lòng một con người. Con người đó là con người của niềm hy vọng và bình an.
- Tất cả sự khải hoàn của một tâm hồn rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi mọi lúc. Nhất là những lúc đưa được những anh em đồng đạo và đang đồng phận khổ đau với mình thoát khỏi tình trạng đức tin nguội lạnh; hay những lúc rửa tội lén lút cho những anh em lương dân để họ trở về với Chúa Kitô; hoặc hoán cải lòng những anh em đối nghịch với mình, những anh em canh gác mình, những anh em nghi ngờ mình… để họ nhận biết Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô, luôn tha thứ cho tất cả mọi người, tha thứ cho cả những kẻ bách hại mình.
- Tất cả lòng yêu mến đối với Đức Trinh Nữ cách tuyệt diệu. Với một tràng chuỗi Mân Côi trong túi, để lên đường vác thánh giá trong chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Người Con của Đức Mẹ đã trở thành dáng đứng kiêu sa và tấm gương soi chiếu trên tất cả Hội Thánh, để giữa những cùng khốn nhất, những người con của Hội Thánh cũng hãy biết để Đức Mẹ đứng cạnh mình, như xưa Đức Mẹ đã từng đứng cạnh Thánh Giá Chúa Giêsu trong giờ Người lâm tử.
- Tất cả tình yêu thông hiệp với Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là tấm lòng canh cánh nặng trĩu với sứ mạng giám mục mà đoàn chiên đang trông chờ giữa thời buổi khó khăn gay gắt. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ cho Đức Thánh Cha. Đó là niềm ý thức không bao giờ phai: mình là Giám mục của Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là sự sốt sắng cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng các nhạc phẩm của Hội Thánh. Đó là những cử hành thánh lễ theo ý hướng của Hội Thánh…
Nhiều lắm những sáng kiến mà Chúa đã tạo nên nơi tặng phẩm của Người. Chắc chúng ta không thể kể hết trong một vài con chữ. Tuy nhiên, bấy nhiêu cũng đủ để chứng minh rằng, chỉ cần chúng ta hiến dâng chính mình như “con cá”, như “tấm bánh” trong tay Chúa Giêsu, để nên tặng phẩm của Người, thì Người sẽ có những sáng kiến độc đáo, những sáng kiến có một không hai trên chính cuộc đời của ta, đến mức ta không thể hiểu hết, không thể ngờ nổi…
Hiến dâng Chúa đời mình như những chiếc bánh, như những chú cá năm xưa, Đức Hồng y đã nằm gọn trong tay Chúa, để Chúa bẻ mình ra phân phát, trao ban cho con người, cho nhân loại mọi thời, mọi nơi.
Cuộc “bẻ mình” nào mà không đau đớn, không để lại những dấu tích của thánh giá?! Chúa Giêsu tự hiến chính mình, Người trở thành tấm bánh bẻ ra cho muôn người, thì cuộc hiến tế chính mình để thành tấm bánh bẻ ra, cũng đã đòi Chúa Giêsu phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận nát tan, chấp nhận mọi đớn đau, chấp nhận cả cái chết đầy tủi nhục. “Hai chữ ‘thập giá’ đã gợi lên, cho mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Thế mà, Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn “thập giá” để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của trần gian. Mặc dù “vô tội” (Mt 27,4), là “người công chính” (1 Pr 3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi” (Hà Minh Thảo, Kính nhớ Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Radio Veritas Asia, Philippines).
Làm tặng phẩm cho Chúa để tuỳ nghi Chúa sử dụng, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận biến mình trở thành “tấm bánh”, thành “con cá” mang lại sự hữu ích cho sáng danh Chúa và mở rộng Nước Trời. Sự “bẻ mình” trong tay Chúa của Đức Hồng y đã giúp Đức Hồng y cả một đời làm giám mục, bước theo Chúa đến mức vẹn toàn, đến trọn con đường thập giá. Con đường thập giá đó chính là một đời với một dòng họ quyền quý, nhưng sau đó đã vội tan tác. Con đường thập giá đó cũng là một định mệnh nghiệt ngã đã đưa Đức Hồng y qua mọi thăng – trầm, được – mất, sống – chết, bình an – tủi nhục, hạnh phúc – cô đơn, hy vọng – đau khổ, sức khoẻ – bệnh tật…
Chính tặng phẩm là hiến tế đời mình mà Đức Hồng y dâng lên Chúa như 5 chiếc bánh và 2 con cá trong tay Chúa, đã thổi bùng lên một linh đạo mà tất cả chúng ta đều có thể bước theo, có thể noi gương. Vậy chúng ta cũng hãy bắt chước mà sống theo linh đạo của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: hiến tế đời mình qua từng ngày sống, thành tặng phẩm dâng lên Chúa, để tuỳ sáng kiến mà Chúa muốn thực hiện đúng theo thánh ý của Người trên chính cuộc đời và sự sống của ta. Tặng phẩm như những chiếc bánh, những con cá trong tay Chúa:
– Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi dẽ thực hành ngay, không chần chừ.
– Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo. Ví thế, điều quan trọng trong đời ta là vâng theo Thánh ý Chúa. Ta cần tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Chúa muốn ta tìm chính Chúa chứ không phải tìm việc của Chúa.
– Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại một niềm bình an vô song, sẽ bù đắp tất cả những gì thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
– Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là một việc đạo đức hàng đầu, không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa sẽ là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa sẽ tăng lực để ta đạp dưới chân mình mọi đá sỏi gai góc nhất. Thánh Thể Chúa là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình an.
– Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất. Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, chúng ta yêu thương không phân biệt bất cứ người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho hết mọi người, chúng ta tha thứ cho cả những địch thù, cả những kẻ sát hại ta. Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người. Chúng ta cầu nguyện cho cả những người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người. Chúng ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống của đồng loại quanh mình… Tình yêu sẽ là sợi dây siết chặt mọi trái tim con người. Tình yêu sẽ biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu sẽ mang lại tươi vui, bình an. Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời này đáng sống, đáng phục vụ.
– Con cá thứ nhất: Mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria vô nhiễm. Đức Mẹ đã từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa trong cuộc đời. Hạnh phúc và đau khổ đan xen suốt cuộc đời Đức Mẹ từ khi Người được Chúa Chọn làm mẹ của Chúa, trải dài trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Mầu nhiệm Ẩn Dật, Mầu nhiệm Công Khai, Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời dương thế của Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui – buồn – sướng – khổ của đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ cùng đồng hành, cùng sớt chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
– Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị độc nhất vô nhị trong đời tôi. Chỉ có Chúa và chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi có tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…; tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng; tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ Chúa và quay về với Chúa.
Bạn thân mến,
Với hình ảnh “5 chiếc bánh và 2 con cá” trong trình thuật Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga 6,1- 15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta cùng nhau bước theo Chúa Giêsu, dâng chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta như đã làm cho “5 chiếc bánh và 2 con cá” sinh lợi ích cho chính Chúa, cho Hội Thánh của Chúa, cho linh hồn mỗi người chúng ta và cho cả vũ trụ này. Con người chúng ta – bánh và cá mới: tặng phẩm mới đáng yêu trong tay Chúa!!
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán: “Ta thương dân này”.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.
Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác.
Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.
Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo: “Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật”.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo: “Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con”.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ: “Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống”.
Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn: “Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình”.
Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.
Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen: “Kìa xem họ thương nhau biết chừng nào”.
Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan thuật lại.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa. Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.
Một chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.
Phép lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18: 15- 18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng ta hơn.
Lạy Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Mình Máu Chúa.
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ lòng thương dân qua việc Chúa cùng với các tông đồ sẵn sàng bỏ chương trình nghỉ ngơi để tiếp đón đông đảo dân chúng tìm đến với Chúa bằng cách Chúa rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật cho họ nhưng hôm nay lòng thương còn đi xa hơn nữa khi Chúa thực hiện phép lạ rất lớn là hóa bánh ra nhiều nuôi dân ở nơi thanh vắng này.
Chúa Giêsu chủ động trong việc nuôi dân. Ban đầu Chúa hỏi ông Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này?” Tin Mừng Gioan nói Chúa hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Các môn đệ cảm thấy bất lực không thể làm được việc nuôi dân. Tuy thế ông Anrê đã giới thiệu cho Chúa một bé trai có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Em này tỏ ra quảng đại sẵn sàng dâng cho Chúa trọn khẩu phần của em để rồi từ đó Chúa hóa ra nhiều để tất cả dân chúng đi theo Chúa đều được no nê và không những ăn no mà còn dư khi các tông đồ theo lệnh Chúa thu lượm về những mẩu bánh dư thừa được 12 thúng đầy nữa.
Chúa Giêsu rao giảng Lời Chúa và Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều báo trước bàn tiệc Thánh Thể. Ngày nay mỗi khi cử hành Thánh lễ, chúng ta được tham dự vào bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể: Bánh và Rượu trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu nên lương thực thiêng liêng cho muôn người trên khắp thế giới.
Bé trai dâng cho Chúa 5 cái bánh và hai con cá để từ đó Chúa hóa ra nhiều, như vậy Chúa Giêsu không làm gì từ hư không mà phải có nền tảng vật chất là số ít ỏi Bánh và cá đó. Nếu chúng ta biết chia sẻ cái it ỏi của mình thì Chúa sẵn sàng nhân lên cũng như Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ khi người ta có lòng tin. Ở Nazaret quê hương, Chúa không làm phép lạ được vì họ cứng lòng tin.
Phép lạ hóa Bánh ra nhiều là dấu chỉ Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu sẽ lập sau này. Chúng ta thấy những lời nói và cử chỉ Chúa Giêsu làm tương tự như khi Chúa lập Bí tích Thánh Thể: đó là Chúa cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn.
Các môn đệ được hân hạnh cộng tác với Chúa trước hết là nhận bánh và cá từ Chúa rồi phân phát cho dân đã ngồi chờ sẵn trên đồi cỏ xanh, rồi sau khi dân đã ăn no nê theo lệnh Chúa họ thu lại những mẩu bánh ăn còn dư. Qua sự cộng tác này, chúng ta hiểu rằng Chúa cần tới mỗi người chúng ta trong việc truyền giáo cũng như trong chính việc cứu rỗi linh hồn mình như lời thánh Augustinô: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần có con người nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người” và mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Chúa Giêsu như em bé có 5 bánh và hai cá, như tông đồ Philipphê và Anrê và như tập thể 12 tông đồ.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5.000 người không kể đàn bà và trẻ em được ăn no: có người làm con tính như sau: 5.000 người nam thì chắc chắn con số người nữ cũng tương đương và khoảng 2.000 trẻ em nữa như vậy tổng cộng là 12.000 miệng ăn. Chúa làm phép lạ này ở nơi hoang địa thanh vắng như ông Mosê đã xin Thiên Chúa ban Manna cho dân Do thái trong hoang địa trên đường về Đất hứa vì thế Chúa Giêsu chính là Mosê mới dẫn đưa Dân mới của Thiên Chúa, ban lương thực giúp Dân về được quê hương đích thực là Nước Trời.
Hình ảnh Chúa Giêsu ở giữa dân ngồi trên đồi cỏ xanh khiến chúng ta nghĩ tới hình ảnh người mục tử như lời Thánh vịnh 22: “Chúa chăn nuôi tôi tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì người thả tôi nằm nghỉ” đúng như lời Chúa Giêsu tự xưng: “Tôi là mục tử tốt lành; mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên”(Ga 10,11).
Chúng ta cũng không quên lời Chúa Giêsu dạy các tông đồ: “Hãy thu lại những mẩu bánh dư kéo phí đi”. Mặc dù là bánh do Chúa làm phép lạ nhưng Chúa vẫn dạy ta bài học tiết kiệm: không được phí phạm của cải vật chất và tinh thần Chúa ban. Các nước giầu có đừng xài phí vứt bỏ trong khi người dân ở những nước nghèo đói ăn và suy dinh dưỡng. Trong thời kỳ dịch bệnh giãn cách này có nhiều câu chuyện rất thương tâm: thí dụ có 4 ngư dân ở Phú yên vào làm nghề chài lưới ở Ca ná, vì giãn cách nên phải lo trở về quê, và vì thời gian vừa qua mất mùa biển, chủ tàu không có tiền trả lương cho 4 người này, nên họ phải đi bộ về lại quê với cái túi rỗng và khi tới những chốt kiểm soát thì họ lội ruộng để tránh né và xin ăn dọc đường. Cũng may có người điện về Phú yên và sau đó có xe vào đưa họ về tới nơi chờ cách ly trước khi được về nhà… hoặc là chuyện có 4 mẹ con quê ở Nghệ an đi làm ở Trảng bom, Đồng nai phải đi xe đạp từ đó về quê, qua địa bàn Ninh thuận được một số bà con thương góp dược hơn 1 triệu đồng giúp lộ phí cho.
Thánh Vinh sơn Phaolô một bữa kia lượm được một trẻ sơ sinh bên đống rác và ngài đưa tới trước mặt các bà đạo đức đang hội họp. Ngài nói với các bà: “Bác ái bắt đầu từ việc làm cụ thể như thế này”. Rồi từ đó Ngài đã lập nên tu hội Nữ tử Bác ái Vinh sơn.
Noi gương Chúa Giêsu tỏ lòng thương đân, chúng ta thương yêu anh em khốn khó cần sự nâng đỡ an ủi của chúng ta về tinh thần cũng như vật chất đặc biệt trong thời gian đại dịch này để chính chúng ta đáng được Chúa xót thương. Amen.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài báo với tựa đề: “Nó xảy ra bên dòng sông Kwai”. Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan bên dòng sông Kwai. Dòng sông này sau này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng tên “Bridge Over The River Kwai” (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).
Gordon bị bắt làm việc để làm một đường rầy xe lửa dài 250 miles, gọi là “Đường Rầy của Sự Chết” do người Nhật xây. Gordon đã diễn tả: “Chúng tôi làm việc từ rạng đông đến mặt trời lặn… chúng tôi lao công với đầu trần và chân không dưới ánh nắng gắt đến 120 độ. Nhiều người lính phải lảo đảo vì những cơn bệnh sốt mà vẫn phải làm công việc của mình. Những người này khi ngã qụy thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi mặt trời lặn mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù. Nhưng, Gordon kể rằng, kẻ thù số một không phải là người Nhật hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính là những tù nhân. Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng do sự sợ hãi quá sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ không còn tin tưởng nhau. Và để lấy một chút thiện ý của người Nhật, họ đã tố cáo nhau. Những người lính Nhật đã té ra cười khi họ nhìn thấy các tù nhân cắn xé lẫn nhau.
Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này? Sau cùng, đã có hai người, được coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, đứng lên và cố gắng làm một việc gì. Họ có được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm cầu nguyện được phát triển từ mười hai người lên đến con số một trăm.
Qua những bài đọc và chia sẻ, họ đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa. Những khó khăn trong cuộc đời của họ cũng giống như những khó khăn mà Chúa Giêsu đã từng trải qua. Chúa Giêsu cũng đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn in vào sau lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu, việc Ngài làm, điều Ngài nói, Con Người của Ngài, trở nên ý nghĩa và sống động. Các tù nhân đã từ từ không còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa. Họ ngừng tố cáo và giết chết lẫn nhau. Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn thấy rõ. Họ bắt đầu cầu nguyện không cho chính bản thân cho bằng cầu nguyện cho người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn gì nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.
Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng. Cái khác biệt giữa những tiếng vui hân hoan và những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt chính là giữa cái chết và sống.
Câu truyện của hai người lính tiền phong đã biến đổi cả một doanh trại tù nhân mang một ý nghĩa rất đặc sắc dẫn vào bài đọc Phúc Âm hôm nay.
Cũng giống như hai người lính xung phong đã làm gì mình có thể, em bé trong bài Phúc Âm cũng đã làm điều mình có thể. Em đã dâng cho Chúa Giêsu những gì mình có và để cho Chúa Giêsu làm tất cả.
Trong hoàn cảnh của em bé, Chúa Giêsu đã biến đổi vài chiếc bánh đơn sơ của em thành rất nhiều phần ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Trong hoàn cảnh của hai người lính xung phong ở trên, Chúa Giêsu đã lấy danh dự và niềm tin nhỏ bé của họ để làm nên những việc lạ lùng không ai nghĩ đến.
Điều mà Chúa Giêsu đã làm cho đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay, và những gì Ngài đã làm cho những người tù nhân trong thời thế chiến, thì cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta hôm nay. Ngài muốn nuôi sống hàng triệu người đang đói khổ trên thế giới. Ngài muốn biến đổi hàng triệu người đang sống trong cảnh thù hận. Nhưng Chúa Giêsu cần đến em bé để đưa cho Ngài mấy chiếc bánh đơn sơ và những con cá cỏn con. Ngài cần có những người giống như quí vị và tôi để cho Ngài những chiếc bánh và những con cá nho nhỏ. Ngài cần chúng ta cho Ngài những tài năng, những lời cầu nguyện hằng ngày, và những hy sinh chúng ta kiếm được.
Nếu chúng ta biết dâng những điều này cho Chúa Giêsu, thì Ngài sẽ lãnh nhận và chúc lành cho chúng ngoài sự tưởng tượng của chúng ta.
61. Chúa ban của ăn cho loài người
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi hồn xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói:”Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,45). Phép lạ của tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 cũng nói lên điều đó. Phép lạ làm cho bánh hoá nhiều trong bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyền năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của đoàn dân chúng đi theo Ngài cả ngày. Ngài ban cho họ lương thực phần xác nhưng cũng ban cho họ luơng thực phần hồn là những lời dạy dỗ của Ngài và nhắc nhở họ hãy tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Qua phép lạ này, Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta nhiều điều. Ngài kêu gọi chúng ta hãy cộng tác với Ngài trong việc phục vụ con người. Tuy việc cộng tác của chúng ta chỉ nhỏ nhoi như 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng với ngần ấy vật liệu rất nhỏ mọn, Ngài làm nên một phép lạ lớn lao: nuôi sống 5000 người đàn ông ăn no nê, còn thu lượm được 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Ngài còn dạy chúng ta phải biết chia sẻ cho nhau những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban, chúng ta đừng giữ lấy cho riêng mình. Sau cùng, Đức Giêsu khuyên chúng ta phải chú trọng đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn là Lời Chúa và phép Thánh Thể. Nhu cầu thiêng liêng phải vượt lên trên nhu cầu vật chất: ”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33).
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2V 4,42- 44: Trích đoạn sách Các Vua trùng hợp với bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Lúc ấy tại Israel xẩy ra nạn đói, tiên tri Êlisê làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hoá ra nhiều cho 100 người ăn no nê mà vẫn còn dư. Phép lạ này minh chứng cho lòng tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, Đấng ban phát của ăn cho mọi người. Bánh ăn vẫn còn dư nói lên lòng quảng đại vô biên của Thiên Chúa, đồng thời cũng nói lên tính cách dư dật của bữa ăn “thời cuối cùng” dành cho những người nghèo của Thiên Chúa (Is 65,13).
+ Bài đọc 2: Ep 4,1- 6: Đọc những dòng này, chúng ta có thể đoán được các tín hữu ở Êphêsô đang chia rẽ nhau. Tuy đang ngồi trong tù, thánh Phaolô rất băn khoăn lo lắng cho họ nên đã viết thư khuyên họ hãy sống hoà thuận hiệp nhất với nhau, hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Theo Ngài, phương cách chữa trị sự chia rẽ đó là sống bác ái đối với nhau, chịu đựng lẫn nhau trong sự khiêm tốn, nhẫn nại và hiền hoà.
Sự hiệp nhất mà thánh Phaolô muốn họ xây dựng đã có sẵn, đó là sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại. Hay nói chính xác hơn, đó là sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự hiệp nhất chỉ tồn tại trong sự đa dạng triệt để của các Ngôi Vị.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,1- 15: Chạnh lòng thương đoàn dân đã theo Ngài tự bên kia Biển hồ Tibériade, Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá cho 5000 người đàn ông ăn no, còn dư lại 12 thúng đầy những miếng bánh vụn.
Đây là phép lạ duy nhất được bốn tác giả sách Tin mừng thuật lại. Trong trình thuật này, thánh Gioan không chú ý đến biến cố cho bằng nói lên ý nghĩa của nó. Phép lạ này gợi lên hình ảnh Manna trong sa mạc, một thứ bánh vật chất mau hư nát, còn thứ bánh mà Đức Giêsu ban cho là một thứ manna mới ban sự sống trường sinh.
Có nhiều chi tiết trong phép lạ này báo trước về phép Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ lập. Quả vậy, vài ngày sau phép lạ này, trong bài giảng thuyết về bánh sự sống, Ngài tuyên bố là Ngài sẽ ban thịt mình cho người ta ăn và máu Ngài cho người ta uống:”Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Các con hãy cho họ ăn.
- PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU.
- Đức Giêsu làm phép lạ.
Trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay nối tiếp câu chuyện xẩy ra tuần trước. Đức Giêsu và các Tông đồ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một chút sau cuộc truyền giáo đã thấm mệt, đồng thời Thầy trò trao đổi với nhau về công việc vừa qua, nhưng không thể được vì dân chúng kéo đến quá đông, khiến các Ngài không có thời giờ ăn uống. Đức Giêsu muốn đem các ông đến nơi thanh vắng để Thầy trò nghỉ ngơi và chỉ dẫn thêm cho các ông.
Nhưng vừa đến nơi thì dân chúng đã đến trước. Ngài chạnh lòng thương họ, bỏ chương trình nghỉ ngơi để dạy dỗ họ. Mà vì đây là nơi rừng vắng, nên dân chúng không tìm được thức ăn. Ngài thương họ đang đói khát nên làm phép lạ cho bánh hóa nhiều. Phép lạ này được kể trong thánh Marcô song Phụng vụ hôm nay mượn ở thánh Gioan.
Trong khung cảnh giữa nơi hoang vắng, trước một đám đông dân chúng hầu như mệt lả sau một ngày đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng dạy và được chữa lành.. Đám môn đệ giờ đây cũng mệt nhoài không hơn gì họ. Thế mà Đức Giêsu lại bảo các Tông đồ hãy cho họ ăn. Các ông đều có ý nghĩ rằng trong nơi hoang địa này lấy gì cho họ ăn, giả như có được 200 đồng mua bánh đi nữa thì cũng chẳng thấm vào đâu với số người đông đảo này. Nhưng Đức Giêsu đã ra tay, chỉ với 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, Ngài đã làm cho 5000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ, được ăn no nê, lại còn thu được 12 thúng đầy miếng bánh vụn.
Qua phép lạ này, dân chúng rất hồ hởi và muốn tôn phong Ngài làm vua vì coi Ngài như một tiên tri có quyền năng, Đấng phải đến trong thế gian. Nhưng Đức Giêsu thấy họ hiểu sai ý định của mình và có thể gây ra nguy hiểm cho việc truyền giáo nên Ngài lánh mặt họ, trốn lên núi một mình.
- Sứ điệp Đức Giêsu gửi đến cho ta.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta ăn no, không chỉ có mục đích làm cho người ta khỏi bị chết đói mà còn mang nhiều ý nghĩa cao quí hơn mà Đức Giêsu muốn gửi cho chúng ta qua phép lạ này.
- a) Tiên báo phép Thánh Thể.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều không phải chỉ để nuôi 5000 người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, mà quần chúng đông đảo vô số kể là Giáo hội qua mọi thời đại. Đức Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, các” cộng tác viên của Đức Kitô và những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng sống cho nhân loại (1Cr 4,1) (Hồng Phúc).
- b) Tình thương và quyền năng của Đức Giêsu.
Tường thuật phép lạ làm cho bánh hoá nhiều của Tin mừng Gioan hôm nay – cũng như các tường thuật tương tự trong các sách Tin mừng khác – đều muốn nói với chúng ta về lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đức Giêsu tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Ngài không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm ra đâu của ăn. Nếu chúng ta đem so sánh Đức Giêsu với tiên tri Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay, thì chúng ta thấy Đức Giêsu chẳng thua kém Êlisê chút nào về lòng thương yêu đối với những người đang đói. So với tiên tri Êlisê, Đức Giêsu lại trổi vượt hơn nhiều về quyền năng, vì Ngài đã làm cho bánh ra nhiều, còn Êlisê chỉ ban phát bánh mà ngài đã nhận được mà thôi, còn việc làm cho bánh ra nhiều lại là việc của Thiên Chúa: Êlisê khi nhận được những tấm bánh người ta biếu ông, thì đã nói với tiểu đồng: ”Phát cho người ta ăn”, nghĩa là ông chia sẻ những tấm bánh của mình với những người đang đói. Còn Đức Giêsu đứng trước hàng ngàn người bụng đang đói, đã thực hiện phép lạ biến 5 chiếc bánh và 2 con cá thành một khối lượng thật nhiều bánh và cá để làm cho mọi người no nê. Rõ ràng trong phép lạ bánh hoá nhiều, Đức Giêsu vừa thể hiện lòng thương, vừa thể hiện quyền năng của một vị tiên tri của Thiên Chúa (Vietcatholic)
- c) Tin vào Chúa quan phòng.
Theo sách Sáng thế, trước khi dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vạn vật từ hư vô, và Ngài đã trao vũ trụ này cho con người quản lý. Thiên Chúa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người làm việc để làm ra của ăn. Con người được sống trong cảnh an nhàn thư thái trong vuờn đdịa đàng. Sau khi phạm tội, con người bị đuổi ra khỏi vuờn địa đàng, phải làm việc cực nhọc mới có của ăn, nhưng Thiên Chúa vẫn tạo mọi điều kiện để con người làm việc và có đầy đủ của ăn.
Vì thế, ta thấy tư tưởng này được viết trong sách Kinh Thư mà các dân tộc Đông phương vẫn tin tưởng:”Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc”: Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt nam cũng trình bầy tư tưởng đó trong ca dao tục ngữ như “Trời sinh, trời dưỡng” hoặc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban cho. Thánh vịnh cũng có câu:”Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”(Tv 144,16).
Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì chỉ trong năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt.
- BÀI HỌC CHÚA DẠY CHÚNG TA.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều có mục đích thoả mãn cơn đói khát vật chất của đám dân chúng đi theo Chúa cả một ngày đàng, nhưng còn hơn thế nữa, phép lạ này còn đem lại cho chúng ta nhiều bài học thiết thực cho cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
- Cộng tác vào công trình của Chúa.
Thiên Chúa toàn năng có thể làm được mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài lại muốn chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Ngài có thể biến đá thành cơm bánh, nhưng Ngài vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ pháp có câu: ”Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp bạn”.
Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Issrael khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học bổ ích.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Năm chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: ”Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa. Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (trang 5).
Truyện: Mẹ Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng.. ..
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước ( Theo M. Link).
- Cộng tác bằng việc làm cụ thể.
Lòng thương cảm là một tình cảm tốt. Nhưng thương cảm suông thì chưa có giá trị, chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng thương cảm nhiều khi trở thành hình thức hay giả dối, như người ta thường nói:
Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào.
Lòng cảm thương ấy cũng có, nhưng số người ra tay hành động vì lòng thương cảm lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu phương tiện. Các Tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Có một sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Khi Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được”. Anrê thì nói:”Để coi thử, tôi có thể làm được gì và phần còn lại tôi trao cho Đức Giêsu”. Chính Anrê đã đem cậu bé đến với Đức Giêsu, và bởi việc đem cậu bé ấy lại mà phép lạ đã xẩy ra. Đức Giêsu bắt các ông vào cuộc, dù khó khăn cũng phải vượt qua. Với sự cố gắng của Anrê mà Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 cái bánh và 2 con cá. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người và thu lượm được 12 thúng đầy bánh vụn. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Truyện: Thánh Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp mọt số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào. Một hôm, trong lúc họ đang hội họp như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng, mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
- Phải tiết kiệm những của Chúa ban.
Đức Giêsu đã nói:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Thánh Phaolô cũng xác nhận: Mọi sự chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban khi Ngài nói:”Tất cả là hồng ân”. Ngày nay đói khát và dư thừa, thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái nguợc hiện nay trên thế giới. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh thừa. Đức Giêsu bảo các môn đệ đi thu lượm những miếng bánh thừa ấy. Ngài dạy cho mọi người biết tiết kiệm. Tiết kiệm là biết trân trọng những cái Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức rằng của cải trên thế giới là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các võ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy (Flor MacCarthy).
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giầu sang phú qúi. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào việc với niềm tin: dù chi với “năm chiếc bánh và 2 con cá”, Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Ngài sẽ biến đổi khuôn mặt thế giới nên nhân bản hơn, Ngài sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tốt tươi hơn.
- Phải tìm của ăn thiêng liêng.
Khi ma qủi đến cám dỗ Đức Giêsu đang chay tịnh trong bốn mươi ngày, Ngài đã trả lời cho hắn:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4). Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời, nhưng còn cần phải giải quyết các nạn đói khác nữa. Đó là nạn đói văn hoá. Đó là nạn đói những nhu cầu thiêng liêng.
Ngày nay được ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp cũng chưa đủ, người ta còn cần nhu cầu tinh thần, nhu cầu văn hoá nữa. Người ta muốn nâng cao tinh thần hơn, nếu chỉ biết ăn ngon ngủ kỹ thì không hơn con vật bao nhiêu. Con người có lý trí cần phải có nhu cầu hiểu biết, nhu cầu giải trí, tinh thần phải được vươn cao hơn vật chất. Tuy người ta chê người lười biếng không chịu làm việc, nhưng cũng nói lên rằng: ăn ngon ngủ kỹ cũng chưa đủ mà còn phải có nhu cầu giải trí nữa:
Ăn no rồi lại nằm quèo,
Thấy giục trống chèo, bế bụng đi chơi.
Con người có hai phần: linh hồn và thể xác. Linh hồn phải có những nhu cầu khác với thể xác, cao hơn thể xác, linh thiêng hơn. Nhu cầu tâm linh của con người ngày nay càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện.
Đối với đời sống thể xác, con người cần có của ăn vật chất để duy trì và phát triển sự sống. Đối với đời sống linh hồn, con người cũng cần phải có của ăn thiêng liêng để giúp linh hồn được sống và phát triển. Linh hồn có một nguồn lương thực dồi dào và không bao giờ cạn kiệt, đó là Lời Chúa và Thánh Thể:
– Lời Chúa là nguồn sống mới nuôi linh hồn ta: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Lc 4,4).
– Thánh Thể là nguồn sống dồi dào và nhu cầu khẩn thiết cho linh hồn:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống”(Ga 6,54- 55).
Hai nguồn sống này Chúa vẫn ban cho ta mọi ngày trong Thánh lễ Misa. Mỗi lần đi tham dự Thánh lễ, Chúa ban cho chúng ta được dồi dào sự sống trong hai nguồn sống ấy.
Thánh lễ được chia ra hai phần:
– Phụng vụ lời Chúa: Chúng ta được trực tiếp nghe Lời Chúa trong các bài Sách Thánh và được tăng cường bằng các lời giảng dạy của Linh mục chủ tế. Thật vậy, Lời Chúa đem lại sự sống cho con nguời:”Lời Thầy nói là Thần khí và là sự sống”(Ga 6,63).
– Phụng vụ Thánh Thể: Bánh rượu được trở nên mình và máu Chúa Kitô để trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Chúa thiết tha mời gọi: ”Các con hãy nhận lấy mà ăn… Các con hãy nhận lấy mà uống”(Lc 22,17- 20; 1Cr 11,25).
Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ xử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Igatiô Loyola yêu chuộng:
“Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy ý xử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa” (M. Link).
Ngày nọ, có một anh thanh niên chở vợ cùng đứa con 5 tuổi đi trên một chiếc xe Honđa, từ Bến Tre đi Thành Phố Hồ Chí Minh. Đang chạy ngon trớn bỗng nhiên chiếc xe của anh bị nổ bánh xe trước. Do tốc độ hơi cao nên anh đã không làm chủ được tay lái để xe của mình đâm vào một chiếc xe tải cùng chiều. Sau khi đâm vào xe tải thì cả hai vợ chồng đã chết tại chỗ còn lại đứa con của họ may mắn được cứu sống.
Điều đáng nói là đứa nhỏ này giờ đây bơ vơ không ai chăm sóc. Cùng lúc đó có một bác gái thấy vậy nên đã nhận đem về nuôi dưỡng như con của mình. Đúng là đứa nhỏ này thật may mắn. May mắn vì chính bác gái tốt bụng này đã đi bước trước đến với em. Nhờ đó em được lớn lên trong sự chăm sóc đầy tình thương của bác ấy.
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Đây là một phép lạ quan trọng nên đã được cả bốn Thánh sử ghi lại. Nếu đem so sánh bản văn Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay với bản văn của Thánh Matthêu chúng ta sẽ thấy có sáu chi tiết khác nhau.
Trong sáu chi tiết khác nhau có hai chi tiết cho thấy Chúa Giêsu thật sự đã đi bước trước đến với dân chúng. Chi tiết thứ nhất là trong Tin mừng Matthêu khi thấy dân chúng đói thì các Tông đồ đã đề nghị với Chúa Giêsu (Mt 14, 15), còn ở đây chính Chúa Giêsu gợi ý (Ga 6, 5b). Chi tiết thứ hai là trong Tin mừng Matthêu sau khi làm phép lạ xong Chúa Giêsu đã bảo các Tông đồ đem phân phát cho dân chúng (Mt 14, 19), còn ở đây chính Chúa Giêsu đem phân phát cho dân chúng (Ga 6, 10).
Đi theo Chúa Giêsu được nghe giảng dạy quả là điều hết sức cao quý cho người Do thái thời ấy. Điều cao quý ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi họ được Chúa Giêsu quan tâm lo cho ăn no nê về phần xác. Nhớ lại tuần trước, khi các Tông đồ về trình diện cũng chính Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu các ông đi nghỉ ngơi (Mc 6, 31)
Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta được làm con của Chúa. Chúa luôn ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết trước khi chúng ta cầu xin hay chẳng dám cầu xin. Qua Bí tích Hòa giải Chúa đã sẵn sàng tha thứ cho trước khi chúng ta xưng thú. Vậy còn chần chừ gì nữa mà chúng ta không mau mắn đến với Tòa giải tội mỗi khi lỡ phạm tội.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy biết đi bước trước để tha thứ cho anh chị em mỗi khi họ lỡ xúc phạm đến mình.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn)
Tin Mừng chủ nhật tuần qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu chạnh lòng thương đến dân chúng, vì họ giống như đàn chiên bơ vơ không có người chăn dắt, còn Lời Chúa hôm nay chúng ta lại được nhìn thấy Chúa Giêsu thương đến đoàn người đang đói ăn, khi họ đi theo Ngài. Điều đó cho thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ cho người ta ăn của ăn tinh thần mà còn là thức ăn của thể xác.
Trong khung cảnh buổi chiều tàn hoang vắng, khi mọi người đã mệt mỏi và đói khát, Chúa Giêsu quan tâm đến nhu cầu của họ, vì họ cần được ăn. Ngài hỏi ông Philipphê có gì cho họ ăn không. Ngài thừa biết việc gì sẽ xảy ra khi nhìn thấy đoàn người đang đói. Và sau đó phép lạ đã xảy ra, Ngài hoá bánh ra cho khoảng 5.000 người đàn ông ăn no nê, còn dư lại 12 thúng đầy, không tính trẻ con và đàn bà, từ 2 con cá và 5 chiếc bánh của một cậu bé. Chúa Giêsu thết đãi một bữa tiệc lớn cho đoàn người đông đảo trong ngày hôm đó.
Từ biến cố vĩ đại này, chúng ta rút ra được điều gì cho đời sống đức tin hôm nay khi nghĩ đến sự chêch lệch giữa người giàu và kẻ nghèo vẫn đang diễn ra trong thế giới này. Có hàng triệu người không có miếng ăn, chết vì nghèo đói, bệnh tật; có kẻ lại quá dư thừa hoang phí. Phải chăng phép lạ hoá bánh không còn nữa cho những người đang đói ăn! Đây cũng là vấn nạn mà con người thường đặt ra và tìm câu trả lời.
Vào một ngày mùa đông, một người đàn ông đi ngang qua cây cầu, ông ta nhìn thấy một em bé đang ngồi xin ăn, nó đang bị cảm lạnh vì rét và cần được có cái gì đó ăn cho đỡ đói. Khi nhìn thấy cậu bé đáng thương này, ông ta đã tức giận và hỏi Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm cái gì đó cho đứa bé này? Và Chúa trả lời: Ta đã làm nhiều điều cho cậu bé này, con không thấy sao? Người đàn ông ấy ngạc nhiên nói rằng ông ta không thấy Chúa làm gì cho nó cả. Chúa nói: Ta đã dẫn con đến với đứa bé này, nhưng con vẫn làm ngơ.
Trở lại với Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, chúng ta lại thấy phép lạ được xảy ra khởi đi từ 5 chiếc của một cậu bé. Khi Chúa Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, thì bánh đã hoá ra nhiều. Như vậy, bánh được hoá ra nhiều là có nhờ sự cộng tác của bàn tay con người. Điều đó cho ta thấy rằng, Chúa cần cộng tác và chia sẻ của con người. Mỗi khi linh mục dâng lễ vật lên Thiên Chúa, ngài đọc: “Lạy Chúa là Chúa Tể trời đất, chúc tụng đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người…”. Rồi các tông đồ đem đi và phân phát cho dân chúng ăn và còn dư lại 12 thúng đầy.
Theo Kinh Thánh, con số 12 là biểu tượng của 12 chi tộc Itrael, 12 vị Tông đồ và đồng thời nó cũng ám chỉ đến tất cả mọi người chúng ta. Như vậy, ơn thánh của Chúa không chỉ dành cho các dân tộc, cho đám đông đi theo Ngài, mà là cho tất cả chúng ta hôm nay. Chúa Giêsu không trực tiếp ban phép lạ hoá bánh bằng của ăn vật chất, nhưng Ngài vẫn ban phát cho chúng ta của ăn thiêng liêng bằng chính Thịt và Máu của Ngài cho nhân loại, đó là Bí tích Thánh thể và là dấu tích tình yêu của Thiên Chúa ban cho con người.
Lạy Chúa, khi gặp đau khổ, hoạn nạn, thử thách, chúng con thường rơi vào tâm trạng của kẻ phẫn nộ, than van, oán trách…, và cũng giống như người đàn ông kia nhìn thấy đứa bé cần cái ăn, cần áo ấm, cần một chút lòng hảo tâm, ông ta lại bảo Chúa không làm gì cho đứa bé. Và chúng con cũng làm như vậy, chúng con không biết tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân. Chúng con vẫn thờ ơ, lạnh lùng và khép kín khi nhìn những người đau khổ, kẻo đói ăn đang sống chung quanh. Chúng con có đôi mắt để nhìn, nhưng không thấy; có đôi tai để nghe, nhưng đã bị điếc; có đôi tay để làm, nhưng đã bị tê liệt; có trái tim để yêu thương và chạnh lòng, nhưng đã bị chai sạn và khô cứng.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta tù đày các người đã viếng thăm…”.
Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài. Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.
Tại sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là sự thiếu cần kiệm.
Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
– Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Nhiều khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao giờ mới trả cho hết nợ.
Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
– Tích tiểu thành đại.
– Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn.
– Nhiều dòng nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn.
– Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Dân Ý Đại Lợi thì nói:
– Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia, đó là sự tiết kiệm.
Trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
– Sở dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm trong việc chi tiêu.
Tại nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Sự tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng thân.
Có một thanh niên tới một ngân hàng xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gút bị rơi trên đất, liền gọi lại và thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.
Để kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa thãi thì một đồng, một cắc cũng không.
Đừng tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn? Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm.” Kính thưa ACE, có thể giờ đây Chúa cũng đang nói với từng người trong chúng ta: “Ta lấy đâu cho có đủ cơm-bánh, rau-củ-quả, thịt-cá…cho hơn tám trăm triệu dân người Việt Nam trong lúc này, chưa nói tới, vaccine, thuốc men và các phương tiện y tế khác”? Tôi tin rằng, Chúa cũng đang hỏi như vậy, có ý thức tỉnh lòng trí chúng ta mà thôi, vì Chúa biết việc Chúa đã, đang và sẽ làm gì cho chúng ta và cả nhân loại. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, như soi sáng và làm cho chúng ta ý thức, xác tín hơn trước những ơn thánh Chúa ban cho, vì Chúa biết rõ những nhu cầu cần thiết, cấp bách của con người hiện nay. Chúa cũng đang thúc bách chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa trong những cách thế mà Chúa đang mời gọi, để chính Chúa là Đấng luôn yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và chữa lành dân Ngài.
Bài đọc một trong sách các Vua thuật lại câu chuyện của Ngôn sứ Êlisê-người của Thiên Chúa, chỉ với hai mươi chiếc bánh được làm từ mạch nha và lúa mì đầu mùa, được dâng tiến, nhưng khi vâng lời làm theo sự truyền dạy của Êlisa, hơn một trăm người được ăn no và còn dư. Phép lạ Chúa đã cho xảy ra để nuôi dân Ngài vì nhờ có sự cộng tác của một người từ Baal-salisa mang đến để dâng bánh cho Êlisê, đồng thời, vì nhờ có những người phục vụ đã dấn thân, tin tưởng làm theo những gì mà Êlisê-người của Thiên Chúa truyền dạy: “Xin dọn cho dân chúng ăn”. Dẫu rằng, ban đầu họ nghi ngờ, phản ứng: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” nhưng sau khi họ đã làm theo, thì phép lạ đã xảy ra.
Tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa Giêsu làm phép lạ bánh cá hóa ra nhiều để nuôi sống dân chúng. Chúa Giêsu đã hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Theo tâm lý, phản ứng và suy nghĩ thông thường của con người thì Philipphê đã thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Thật vậy, sức của con người là không thể làm được điều mà Chúa Giêsu muốn làm, vì nó vượt ngoài khả năng và ngay cả vượt quá sự hiểu biết, suy tưởng của con người. Thế nhưng, với Chúa Giêsu, là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, Đấng Tạo dựng nên mọi sự, là Người Cha luôn khoan dung-nhân hậu, là Người luôn chạnh lòng thương trước những nỗi thống khổ, cơ cực của con người, thì mọi sự đều có thể. Qua phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều; trước hết, là do tình yêu thương, lòng nhân ái và sự quan phòng của Chúa dành cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Kế đến, phép lạ Chúa làm cũng do sự cộng tác của con người, em nhỏ đã có đem theo bánh và cá. Ông Anrê, thưa cùng Chúa rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Chúng ta thử hỏi: giữa mấy ngàn người đông đúc như vậy, tại sao ông Anrê lại biết em nhỏ này có bánh và cá để mà ông trình bày với Chúa Giêsu? Phải chăng em nhỏ này đã ngồi gần chỗ Chúa Giêsu hay gần chỗ của các môn đệ, có phải chăng khi Chúa nói với Philipphê về ý định lấy đâu ra bánh và cá, thì em đã nghe, hay là em đã đọc ra và hiểu được ý của Chúa Giêsu về việc này, nên em đã nói lại cho Anrê biết: “Nè…nè…chú Anrê, cháu đang có năm chiếc bánh và hai con cá, chú xem thử rồi đưa cho Chúa đi, nếu Chúa đang cần dùng”. Gioan đã không nói cho chúng ta biết lý do-nguyên nhân, nhưng đây chính là sự cộng tác, nỗ lực, lòng quảng đại-hy sinh rất lớn của em nhỏ và qua đó mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Sau hết, phép lạ Chúa làm cũng do lòng tin, sự cộng tác của các môn đệ khi các ông đón nhận từ Chúa rồi phân phát cho dân, bên cạnh đó cũng có sự cộng tác của biết bao người khi họ ngồi xuống trật tự thành từng nhóm, họ cũng trao nhau, sẻ chia bánh và cá mà mình nhận được cho các người ngồi xung quanh mình. Thật là đẹp, khi mọi người quan tâm, cộng tác và chia sẻ cho nhau, nhờ đó mà bánh và cá Chúa làm phép lạ, trao ban đã được lan tỏa, chia sẻ cho hết mọi người.
Trong hoàn cảnh hiện nay của chúng ta, thật chúng ta không khác gì đoàn người năm xưa khi họ đang vừa đói, vừa mệt…nhiều người trong chúng ta thì đang hoang lo sợ, sợ bị lây nhiễm, sợ chết, sợ đói khát…Chúa đang biết rất rõ những nỗi thống khổ và nhu cầu của chúng ta, Chúa như đang nói thì thầm vào tai và đánh động vào lòng trí của mỗi người chúng ta về ý định của Ngài: “Ta muốn cho họ ăn, Ta muốn cho họ được chữa lành”. Bao nhiêu chuyến xe, gói hàng, đồ ăn thức ăn thức uống, thuốc men, vaccine, dụng cụ y tế…chúng ta có được tất cả mọi sự là do từ lòng quảng đại, hy sinh của mỗi người, như em nhỏ năm xưa đã được góp lại và tiến dâng cho Chúa, để rồi nhờ qua tay của các người thiện nguyện, qua nhiều cách thế, những nhu cầu thiết yếu này được đến với ACE chúng ta trong những tháng ngày qua và sẽ còn dư cho những ngày tháng sắp tới. Chúa vẫn đang làm phép lạ và phép lạ vẫn đang xảy ra với từng giây phút với những ai tin và cộng tác với Chúa.
Phép lạ chỉ không thể xảy ra khi con người tự đóng cõi lòng mình lại, khi con người không tin nhận tình thương của Chúa; không thể có phép lạ khi con người chỉ biết trục lợi cho bản thân, mưu toan chiếm đoạt, bóc lột người khác lúc đau khổ; phép lạ không thể xảy ra, khi con người chỉ biết nghĩ cho bản thân mình mà không quan tâm, không đồng cảm, không yêu thương và không sẻ chia cho ACE mình; phép lạ cũng không thể xảy ra khi con người quá hoang mang lo lắng, khi không biết tuân thủ các nguyên tắc về y tế, trật tự…
Lạy Chúa, chúng con tin thật, Chúa đang làm phép lạ để nuôi sống và cứu chữa chúng con qua muôn vàn cách thế. Xin thêm sức mạnh, lòng tin và lòng mến cho chúng con, để chúng con biết cộng tác với Chúa trong mọi khả năng, nhờ đó mà ơn thánh nuôi dưỡng và chữa lành của Chúa được lan tỏa đến cho mọi người. Amen.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma- ha- mát- Gan- đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa”, ở đó Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lê-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn: bánh hóa nhiều cho trăm người ăn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Dấu lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su cho đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 t.Cn.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ly kỳ ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
- Thời kỳ đói kém:
“Khi nạn đói xảy ra trong xứ” (4: 38): Nạn đói nầy không phải là chuyện hi hữu ở miền Pa-lệ-tin. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lê-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-ô này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa…” (4: 42). Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hay “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa điểm nơi xảy ra phép lạ.
- Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ không giữ quà tặng cho riêng mình, nhưng liền chia sẻ ngay với những người túng thiếu và quà tặng nầy hóa ra nhiều. Nhờ tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch cho trăm người ăn có nhiều điểm tương đồng với những bài trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch cho năm ngàn người ăn không kể đàn bà trẻ con:
- Ngôn sứ Ê-li-sa bảo tiểu đồng của mình: “Phát cho người ta ăn” (4: 42). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
- Tiểu đồng thưa: “Có bằng nầy, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (4: 43). Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!” (Ga 6: 9).
- Vị ngôn sứ nói: “Cứ phát cho người ta ăn!… Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các tác giả Tin Mừng viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
- Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ” của chiếc bánh khác: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau. Đoạn trích hôm nay (4: 1-6) là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
- “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
- Ơn gọi làm người Ki tô hữu:
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trong đó mọi người, dù dân Do thái hay lương dân, đều được mời gọi để chia sẻ cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc hết mọi người Ki-tô hữu nhớ rằng, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại; hãy lấy tình đức ái mà chịu đựng lẫn nhau” (4: 2). Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29). Tiếp đó, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (4: 3) Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
- Lời tuyên xưng đức tin:
Trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức này tự nguồn gốc có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”, vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng cách ban Lời Hằng Sống của Ngài (Mc 6: 34). Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: dấu lạ hóa bánh ra nhiều. Câu chuyện hóa bánh ra nhiều của thánh Gioan là phần mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
- Nơi chốn:
Dấu lạ hóa bánh nhiều là dấu lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mình thuật lại. Ngoài ra, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Như vậy, dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành hoàn vũ, Ngài không chỉ chăm lo cho dân Do thái mà cho cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài trình thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là biển hồ Ti-bê-ri-a” (6: 1). Tuy nhiên, địa danh biển hồ Ti-bê-ri-a nhắc chúng ta nhớ đến bửa ăn vào lúc trời vừa sáng mà Đức Giê-su Phục Sinh dọn sẵn cho các môn đệ (21: 9-14), sau một mẻ lưới cá lạ lùng, xa hơn một chút sau suốt một đêm đánh cá vất vả trong sương lạnh mà không bắt được một con cá nào.
Có đám đông dân chúng đi theo Ngài vì họ đã chứng kiến những dấu lạ Ngài đã thực hiện. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan không bao giờ dùng từ “phép lạ” như các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng “dấu lạ”, vì phép lạ nhắm đến quyền năng siêu phàm của Đức Giê-su khiến người chứng kiến phải kinh ngạc, trong khi dấu lạ đòi hỏi người chứng kiến phải tìm hiểu để khám phá ra ý nghĩa của thực tại mà dấu lạ nhắm đến.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ biển hồ, nhưng “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (6: 3). Trong Cựu Ước, núi Xi-nai là nơi Thiên Chúa hiện ra và ban Lề Luật như giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Trong Tân Ước, núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của dấu lạ hóa bánh ra nhiều…
- Thời điểm:
Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả cho chúng ta thời điểm xảy ra dấu lạ hóa bánh ra nhiều: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái” (6: 4). Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ mà những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một ý nghĩa sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Đức Giê-su trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, trong đó dấu lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, đó là bàn tiệc Thánh Thể.
- Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su khi nhắc Ngài là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” (6: 5). Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một môn đệ rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”, ông trả lời ngắn gọn nhưng thực tiển: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối quan hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay cũng rất thực tiển: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy, Đức Giê-su nêu lên với ông một vấn nạn: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”, câu hỏi này hàm chứa một thực trạng: một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ như ông Phi-líp-phê mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp nào, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó dấu lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất phương thế nào giải quyết cho vấn đề này, tuy nhiên chẳng có phương thế nào được gặp thấy ở đây.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ “để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (6: 6). Điều này cho thấy dấu lạ hóa bánh ra nhiều hoàn toàn xuất phát từ tấm lòng yêu thương của Ngài đối với đám đông dân chúng đang mệt mỏi và đói khát này. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê như thế là để ông ý thức rằng nếu chỉ cậy dựa vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phi-líp-phê tính toán một cách thực tế: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (6: 7). Như chúng ta biết, tiền công nhật là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy mà dù có hai trăm đồng bạc mà mua bánh đi nữa, cũng chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu của một đám đông dân chúng quá lớn, như lời nhận xét của ông Phi-líp-phê: “Cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, câu trả lời của ông Phi-líp-phê cho thấy rằng chỉ cậy dựa vào giải pháp nhân loại mà thôi, không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
- Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Ông An-rê thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (6: 8). Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông hóa ra nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm dấu lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một dấu lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách thức như vậy.
- Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:
Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (6: 10). Dân chúng từ một đám đông hỗn tạp đi theo Ngài, trở thành một cộng đoàn có trật tự chỉnh tề hàng ngũ. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lê-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô nhắc nhớ điều nầy khi xác định “cỏ xanh” gợi nhớ Tv 23 về “người mục tử nhân hậu”. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
- Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:
Không ai có thể phủ nhận rằng dấu lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11). Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14: 22). Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là thân thể vinh quang của Đức Ki-tô hóa ra nhiều, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, cùng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
- Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa hay sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
- Phản ứng của dân chúng:
Phấn khích trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua” (6: 14). Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (6: 15). Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất ghi lại phản ứng của dân chúng.
9- Nét đặc trưng của dấu lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan:
Chúng ta ghi nhận rằng dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể là gia sản chung của tất cả các cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi.
Trong các bài trình thuật của các Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su, “cầm lấy năm chiếc bánh… dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ, để các ông dọn ra cho dân chúng” (Mc 6: 41). Quả thật, điều Chúa Giê-su làm với bánh nghe có vẻ như lệnh truyền cho “thừa tác viên” Ki-tô giáo tiếp tục thực hiện như vậy khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Tin Mừng Gioan cũng mô tả cử chỉ của Chúa Giê-su theo cùng nghi thức như vậy, nhưng với hai nét đặc thù thậm chí còn mang đậm nét Ki-tô giáo hơn: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11).
Về nét đặc thù thứ nhất, kiểu nói: “dâng lời tạ ơn” của Tin Mừng Gioan thuộc nền văn hóa Hy-lạp, trong khi kiểu nói: “dâng lời chúc tụng” của các Tin Mừng Nhất Lãm thuộc văn hóa Do thái. Kiểu nói Hy lạp: “dâng lời tạ ơn” (“eucharisteô”) cho chúng ta thuật ngữ: “lễ Tạ Ơn” để chỉ bàn tiệc Thánh Thể của Ki-tô giáo. Kiểu nói nầy lại còn xuất hiện ở 6: 23: “Có những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn”.
Về nét đặc thù thứ hai, chính Đức Giê-su đích thân phân phát bánh cũng như Ngài sẽ làm như vậy vào buỗi chiều Tiệc Ly, chứ không qua các môn đệ như Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là dấu lạ tối hậu nhắm đến việc Đức Giê-su không chỉ là Đấng ban Bánh Trường Sinh, nhưng còn là Bánh Trường Sinh nuôi dưỡng dân chúng, đặc biệt ở bàn tiệc Thánh Thể, như chính Ngài sẽ công bố trong diễn từ về Bánh Trường Sinh: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53).
Như vậy, qua dấu lạ hóa bánh ra nhiều, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
Thánh Lễ là nét đặc trưng của Ki-tô giáo. Ngay từ rất sớm, Hội Thánh đã xem Thánh Lễ là nguồn sống của mình. Cv 2: 42 ghi nhận nếp sống của các tín hữu sơ khai: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”. Thánh Phao-lô, trước khi thuật lại bàn tiệc Thánh Thể, đã nói với tín hữu Cô-rin-tô: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11: 23). Đối với người Ki-tô hữu, Thánh Lễ là một ân ban vô giá không thể chuyển nhượng, cũng không có thể được thay thế bởi bất kỳ hành vi đạo đức nào. Nhờ Thánh Lễ, người Ki-tô hữu có được sức mạnh thần thiêng giúp họ đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Lm Henry de Lu-bac tóm tắt tiến trình phát triển của Ki-tô giáo bằng một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa: “Thánh Thể làm nên Hội Thánh và Hội Thánh làm nên Thánh Thể”.
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông Elisa đã gạt bỏ những thói tục rườm rà và nhấn mạnh rằng bánh phải được phát cho dân, mặc dù bánh ấy làm từ hoa mầu đầu vụ dành để dâng cho Thiên Chúa. Và trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu phân phát bánh cho dân, họ đã đi theo Người vào nơi hoang địa.
Lương thực là nhu cầu đầu tiên của đời sống. Không có lương thực, không thể có đời sống, kể cả một đời sống cao hơn. Cho kẻ đói ăn là mối đầu tiên của việc thương yêu phần xác con người. Vào ngày phán xét sau cùng, Đức Giêsu sẽ nói: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn” hoặc “Khi Ta đói, các ngươi đã không cho Ta ăn”.
Khi Đức Giêsu gặp dân đang đói. Người cho họ lương thực, và khi làm thế, Người biểu lộ lòng quảng đại cao cả của Người – mọi người ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy.
Đức Giêsu cầm năm cái bánh và dâng lời tạ ơn, chúng ta cũng phải dâng lời tạ ơn khi chúng ta ăn. Trong một thế giới có hàng triệu người đang đói, chúng ta không thể coi lương thực ta dùng là chuyện đương nhiên.
Mỗi ổ bánh (có thể dùng một ổ bánh thật cho cộng đoàn nhìn thấy) cũng là cả một phép lạ như những ổ bánh Đức Giêsu đã ban cho dân. Nó được làm nên bởi bàn tay của nhiều người và bàn tay của Thiên Chúa. Điều này được diễn tả rất đẹp trong lời nguyện dâng bánh trong thánh lễ “Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của mọi loài thụ tạo. Nhờ lòng nhân hậu của Chúa chúng con có được bánh này để tiến dâng. Được làm bởi hoa màu của đất và lao công của con người, nó sẽ trở thành bánh sự sống cho chúng con”.
Thiên Chúa làm cùng một phép lạ qua thời tiết bốn mùa và thời vụ. Trong cánh đồng, Người nhân lên nhiều không phải bánh mà là những hạt ngũ cốc, đến nỗi nếu chúng ta góp phần của mình sẽ có đủ cho mọi người. Chỉ một hạt lúa mì có thể sinh ra bảy mươi hạt khác.
Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề rất khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân. Nhưng những người cứ mãi lo lắng bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ ăn. Một phần ba trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các vũ khí hạt nhân. Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Chúng ta cảm nghiệm sự quảng đại ấy mỗi lần chúng ta ngồi xuống dùng bữa và đặc biệt khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể. Kinh nghiệm của lòng quảng đại phải là kết quả của việc mở rộng tâm hồn, và ước muốn quảng đại với những người khác, những người không may mắn như chúng ta.
Một linh mục cử hành thánh lễ trong một giáo xứ ở Dublin và giảng bài Tin Mừng hôm nay, đã cho rằng phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều là một phép lạ của lòng quảng đại. Và cũng dễ hiểu được tại sao.
Trước hết có lòng quảng đại lạ lùng của một cậu bé đã cho năm cái bánh và hai con cá, làm cho phép lạ có thể được thực hiện. Quà tặng ấy tuy nhỏ, nhưng đối với cậu bé là một vật to lớn bởi vì đó là tất cả những gì cậu bé có. Nhiều người muốn đóng góp cho sự sung túc của người thân, nhưng không muốn cho khi không có họ.
Rồi đến sự quảng đại lạ lùng của Đức Giêsu. Người không chỉ nuôi tất cả mọi người, nhưng Người còn cho họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý, và vẫn còn dư lại mười hai thúng đầy.
Vị linh mục rời bàn thờ vào cuối thánh lễ, lòng sung sướng vì nghĩ rằng mình đã giảng một bài giảng hay. Khi ông đang cởi áo lễ trong phòng áo thì một bà đứng tuổi đến hỏi xem có người nào đã để lại một bao mua hàng ở đó không. Bà nói bà đã mang nó vào nhà thờ, nhưng giờ đây bà không tìm thấy nó. Cậu bé giúp lễ đưa cho bà một cái bao mới: không ai để lại một cái bao nào trong phòng áo.
Linh mục đang chờ đợi bà nói một câu như sau: “Hạng người nào mà lại ăn cắp đồ của người khác trong nhà của Chúa” hoặc đại loại như thế. Nhưng bà không nói như thế. Không có một vẻ gì tức giận hay cay cú, bà nói đơn giản: “Có lẽ người ấy cần nó hơn tôi”.
“Trong bao có gì?” Linh mục hỏi.
“Hai ổ bánh mì” bà đáp.
Câu trả lời của bà làm vị linh mục thích thú. Nhưng cũng làm cho ông cảm thấy phải khiêm nhường, bởi vì ông biết rằng ở địa vị của bà, chắc là ông không quảng đại như thế. Ông cũng phải khiêm nhường vì một lý do khác. Ông đã rao giảng lòng quảng đại và người phụ nữ này đã thực hành nó. Lòng quảng đại của bà xuất phát từ tâm hồn.
Chúa nuôi dưỡng chúng ta ở đây trong bữa tiệc Thánh Thể vừa chắc chắn, vừa quảng đại như khi Người nuôi dân trong hoang địa. Người nuôi dưỡng chúng ta nhiều đến nỗi khi chúng ta ra đi, chúng ta có thể nuôi dưỡng những người khác.
Lòng quảng đại phải có vị trí trung tâm trong đời sống của mỗi Kitô hữu, và chúng ta mỗi ngày cố tìm những cơ hội để thực hành lòng quảng đại với một người khác. Không chỉ bằng việc cho tặng những đồ vật, nhưng đặc biệt hơn bằng việc cống hiến – thời gian, năng lực và sự yêu thương của chính mình.
Niềm vui là một hoa trái yêu thương của lòng quảng đại. Bạn hiếm khi gặp một người quảng đại mà xấu xa. Bạn cũng sẽ không bao giờ gặp một người keo kiệt mà hạnh phúc.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
MUỐN LÃNH ĐẠO? HÃY HỌC CÁCH PHỤC VỤ
Những câu chuyện phép lạ trong các Tin mừng mời gọi chúng ta suy gẫm về sự chăm sóc của Thiên Chúa và đưa ra những chiến lược để chúng ta có thể quan tâm lẫn nhau. Tin mừng hôm nay tập trung vào câu chuyện nổi tiếng Đức Giêsu cho đám đông dân chúng ăn bánh và cá, một câu chuyện đã gợi hứng cho các dịch vụ cứu trợ, đó là mang lương thực đến cho những ai có nhu cầu. Bốn Tin mừng đều kể câu chuyện này, và hôm nay chúng ta nghe trình thuật của thánh Gioan.
Thánh Gioan đã đưa ra những chi tiết độc đáo mang ý nghĩa biểu tượng về sự kiện này. Ngài đặt phép lạ này diễn ra gần ngày lễ Vượt Qua, vốn gắn liền với quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trước cuộc Xuất hành cũng như với bánh không men. Thật phù hợp, Đức Giêsu cũng phân phát bánh cho đám đông. Tương tự trong Tin mừng Gioan, vào lúc kết thúc sứ vụ, Đức Giêsu chịu đóng đinh vào ngày lễ Vượt Qua. Vì thế, dấu lạ diễn ra vào thời điểm này cho thấy có sự nối kết giữa dấu lạ này với những biến cố cứu độ trong quá khứ cũng như với ơn cứu độ qua cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Khi đã lánh lên một ngọn núi, Đức Giêsu và các môn đệ vẫn bị đám đông dân chúng đi theo. Thánh Gioan ghi lại rằng Đức Giêsu biết mình sẽ làm một dấu lạ vào dịp này, tuy chi tiết này không được rõ ràng trong các Tin mừng Nhất lãm. Nếu Đức Giêsu đã dự định cho dân chúng ăn thì những câu hỏi mà Ngài đặt ra cho các môn đệ mang một ý nghĩa mới. Chẳng hạn, câu hỏi của Đức Giêsu với ông Philipphê là có thể mua lương thực ở đâu được hiểu như một phép thử. Có thể Đức Giêsu muốn thử xem ông Philipphê có nhận ra quyền năng của Ngài hoặc xem ông có lòng trắc ẩn với đám đông hay không.
Dường như Philipphê đã không vượt qua được phép thử này khi ông không nhận ra quyền năng của Đức Giêsu cũng như không sẵn lòng giúp đỡ dân chúng. Thay vào đó, ông lại chú trọng đến sự khó khăn khi phải lo cho quá nhiều người ăn. Khi Anrê cho nhóm biết là có năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu bảo các môn đệ sắp xếp đám đông để Ngài có thể phục vụ họ.
Đức Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn. Chỉ Tin mừng Gioan kể Đức Giêsu chính là người đã phân phát bánh. Trong các Tin mừng Nhất lãm, Đức Giêsu đã sai các môn đệ phân phát bánh và cá. Có thể Gioan có chủ đích nhấn mạnh đến sự chăm sóc cá nhân và khả năng của Đức Giêsu. Ngài đã nêu gương và làm mẫu cho các môn đệ, những lãnh đạo tương lai, về sự quan tâm và chăm sóc đối với người khác.
Khi để Đức Giêsu phân phát thức ăn, thánh Gioan khắc họa lại cách rõ ràng hơn những hành động tương tự của các ngôn sứ trong Cựu ước. Chẳng hạn, trong bài đọc một trích sách các Vua quyển thứ hai, chúng ta nghe câu chuyện của ngôn sứ Êlisa cho nhiều người ăn. Dù rằng đồ đệ của ông cũng giống như các môn đệ của Đức Giêsu đều phản đối khi họ phải lo việc ăn uống cho quá nhiều người, nhưng với một ít bánh mì và bánh lúa mạch, Êlisa đã phân chia của ăn cho rất nhiều người mà vẫn còn dư.
Những câu chuyện phép lạ, hay chính xác hơn là những dấu chỉ của quyền năng, được các Kitô hữu tiên khởi sử dụng cho nhiều mục đích. Các truyền thống xem Đức Giêsu như là một ngôn sứ có thể thực hiện biết bao việc lạ lùng và nhờ đó đã thu hút được nhiều người gia nhập vào cộng đoàn đức tin. Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu sẽ được củng cố bằng những việc làm phi thường của Ngài trong suốt cuộc sống. Hơn thế, những câu chuyện này còn đưa ra những kiểu mẫu và nguyên tắc cho những môn đệ Đức Giêsu. Nhận ra những nhu cầu của cộng đoàn, Đức Giêsu đáp lại cách nhanh chóng và hiệu quả, thể hiện lòng vị tha, khả năng ứng biến và quan tâm đến lợi ích của người khác. Đức Giêsu thậm chí còn đảm bảo rằng thức ăn dư sẽ được thu lại để không hoang phí, qua đó nhắc nhở đừng lãng phí nhưng hãy bảo tồn tài nguyên cho tương lai. Khi suy gẫm về câu chuyện này, chúng ta được thôi thúc để có ý thức áp dụng những nguyên tắc quan tâm này vào chính cuộc sống của mình.
Việc đọc lời cảm ơn trước mỗi bữa ăn là một điều rất tốt. Khi mô tả phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, các thánh sử nói với chúng ta rằng “Đức Giêsu cầm lấy bánh và dâng lời tạ ơn”. Chúng ta cũng phải dâng lời cảm tạ khi chúng ta ăn. Trong một thế giới mà hàng triệu người đang đói, chúng ta không nên dùng bữa mà coi đó là chuyện đương nhiên.
Một buổi tối nọ, một người đàn ông ngồi xuống cùng với gia đình trước một bàn đầy thức ăn, ông và vợ ông cúi đầu trong lúc con gái họ đọc lời cảm tạ: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con. Đặc biệt chúng con cám ơn Chúa đã cho chúng con nhiều lương thực. Amen”
Bình thường, nghi thức nhỏ này đem lại niềm vui to lớn cho người cha. Nhưng tối nay vì những lý do kỳ lạ, ông cảm thấy khó chịu. Ông nhận thức rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển và có quá nhiều lương thực, trong lúc những người sống trong thế giới thứ ba lại có quá nhiều thiếu thốn. Vừa rồi, ông có đọc trên báo rằng hàng năm có khoảng bốn mươi triệu người chết vì đói và những bệnh tật có liên quan và một phần trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Và ông tự hỏi: “Tại sao chúng ta là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều quà tặng như thế? Phải chăng chúng ta xứng đáng được nhiều lương thực hơn những người khác đêm nay sẽ đói, và thay vì cám ơn Thiên Chúa, họ sẽ vào giường với tấm lòng cay đắng?”
Ông đưa ra một câu hỏi sâu xa đầy phiền nhiễu ấy, làm ông không còn thấy ngon miệng nữa. Phải chăng việc chúng ta có lương thực để ăn có nghĩa là chúng ta được hưởng ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng điều đó có nghĩa là Người nuôi sống những con cái mà Người ưa thích và để những kẻ bất xứng phải đói? Xin Thiên Chúa giữ gìn để chúng ta không chấp nhận một quan điểm như thế. Tốt hơn, xin Người hướng dẫn để chúng ta có một nhận thức đúng về lòng nhân hậu của Người.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa trở thành một lời báng bổ nếu nó khiến cho chúng ta có những ý nghĩ như thế và nếu chúng ta cám ơn Thiên Chúa vì lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta mà không ý thức về trách nhiệm mà lòng nhân hậu ấy đòi buộc chúng ta.
Để hiểu được lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong việc Người ban ơn, chúng ta phải suy nghĩ với niềm tin rằng Thiên Chúa ban cho anh chị em của chúng ta. Vì thế không một ai được nói rằng: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã chúc lành cho con với tiền bạc và của cải”, để rồi cứ tiếp tục sống như thể chỉ có một mình ta ở thế gian. Đến một lúc nào đó, người ấy nhận ra mình đã tôn thờ ngẫu tượng là của cải và tính ích kỷ của mình. Của cải dĩ nhiên là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Người, nhưng của cải cũng là những cơ hội để phục vụ mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta.
Chúng ta không thể nhân lương thực lên nhiều như Đức Giêsu đã làm. Nhưng chúng ta cũng không bắt buộc phải làm thế. Tất cả điều chúng ta phải làm là chia sẻ lương thực hoặc tiền bạc. Đức Giêsu tiếp tục hỏi chúng ta như đã hỏi Philipphê:”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?”.
Trong ánh sáng đó, còn gì thích hợp hơn một lời cảm tạ trước mỗi bữa ăn? Đại khái như lời cảm tạ sau đây: “Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì lòng nhân hậu của Chúa đối với chúng con, và đặc biệt vì lương thực dồi dào này. Xin cho chúng con biết sử dụng quà tặng của Chúa sao cho những người khác cũng biết lòng nhân hậu của Chúa và cảm tạ Chúa như chúng con”.
Đây là một phép lạ lớn: Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thãi: đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người:
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành sử hầu như thường xuyên của Chúa
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu: Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi nhờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế (nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ), nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể:
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hòa thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hòa lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài có suy tính cân nhắc cẩn thận…
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt. 14,13- 21; Mc. 6,31- 34; Lc 9,10- 17; Ga 6,1- 13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32- 38;Mc 8,1- 10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây? Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm: – Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. – Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao? – Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này – Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15) Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi. Với 5000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống thì cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy- mã- lạp- sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Ga 6: 1- 15: Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, cho dù sự cộng tác ấy rất nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại nhờ vào tình thương của Người.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13- 21; Mc 6,31- 34; Lc 9,10- 17; Ga 6,1- 13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32- 38; Mc 8,1- 10).
Tuy kể cùng một câu chuyện “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng trình thuật của Tin Mừng Gioan có những chi tiết khác biệt với trình thuật Nhất Lãm. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm ý nghĩa mà bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay muốn truyền đạt.
Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê. Đông đảo dân chúng đi theo, cả trên bộ lẫn dưới thuyền, “vì họ đã từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm”. Cho nên “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ”.
Câu chuyện xảy ra vào thời gian: “Sắp đến lễ Vượt Qua là Đại Lễ của người Do thái”. Lễ Vượt Qua cho tới nay vẫn là ngày lễ lớn nhất của người Do thái, vì là lễ kỷ niệm ngày dân Ítraen trong Cựu Ước được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đưa họ ra khỏi Aicập, dẫn họ đi và nuôi dưỡng họ trong hoang địa cho tới khi họ vào được Đất Hứa. Sách Tin Mừng Gioan kể tới ba lần Lễ Vượt Qua, từ khi Đức Giêsu khởi đầu đi rao giảng (Ga 2,13- 25) cho tới khi Chúa được tôn vinh tại Giêrusalem (Ga 13- 20). Câu chuyện “bẻ bánh” ở chương thứ sáu xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua lần thứ hai, tại một ngọn núi gần Biển Hồ (Ga 6,1- 14).
Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào khung cảnh nhóm Mười Hai trở về sau khi được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng. Đám đông kéo đến thật đông. Các tông đồ có sáng kiến xin Người giải tán đám đông để họ đi mua thức ăn, vì nơi họ đang tụ tập quanh Người là nơi hoang vắng. Người bảo các ông phải đích thân cho họ ăn. Các ông thú nhận mình bất lực. Các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống cỏ. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các ông và các ông dọn ra cho dân; cá cũng vậy. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều minh họa sứ mạng của các tông đồ là nuôi dân bằng Lời Chúa (rao giảng) và Bánh của Chúa trao.
Tin Mừng Gioan mở ra một viễn tượng khác. Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu vì đã chứng kiến dấu lạ Người làm trên những kẻ đau ốm. Gioan dùng kiểu nói “dấu lạ” để cho thấy việc Người chữa lành các kẻ đau ốm bằng quyền năng lạ thường, là “dấu hiệu” tỏ bày ơn cứu độ, chứ không phải tất cả. Vì thế Đức Giêsu sẽ trách những người tìm đến với Người vì đã được ăn bánh no nê, chứ không phải vì đã đọc ra ý nghĩa của dấu hiệu chỉ về Người là Bánh ban Sự Sống đời đời. Họ như những đứa con nít, thấy ai cho bánh cho kẹo thì chạy theo. Nói chuyện gì ngoài bánh kẹo thì không nghe. Hết bánh hết kẹo thì bỏ đi.
Ở đây cũng nên đọc lại sách Xuất Hành từ chương 3 tới chương 17. Ngay từ đầu dân Ítraen đã không tin vào Thiên Chúa, cũng không tin vào Môsê. Khi tới bờ Biển Đỏ và bị quân đội của Pharaô đuổi sau lưng thì họ oán trách ông Môsê. Sau khi vượt qua biển và thấy xác quân Aicập dạt vào bờ thì “họ tin vào Đức Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ của Người” (Xh 14,31). Nhưng chỉ mấy ngày sau, thiếu nước uống, thiếu bánh, thèm thịt thì họ lại oán trách ông Môsê (x. Xh 15,23- 27 ; 16,1 – 17,7) ; thâm chí họ toan ném đá ông nữa (Xh 17,4). Diễn biến câu chuyện trong toàn chương thứ sáu của Tin Mừng Gioan có chút gì tương tự như câu chuyện trong sách Xuất Hành, nhưng theo trình tự ngược lại: được ăn thì họ tìm đến nhưng khi nghe Người nói “trái tai” thì họ bỏ đi, kể cả một số môn đệ. Nếu chú ý tới “âm thanh”, ta có cảm tưởng âm thanh của Xuất Hành được dùng làm “nhạc nền”cho trình thuật của Gioan.(x. Tìm hiểu Tin Mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn công Đoan, SJ).
Câu chuyện Tin mừng Gioan cũng gợi nhớ lại, khi dân Itraen vượt qua Biển Đỏ rồi đi vào hoang địa, được một tháng thì hết lương thực mang theo, họ kêu khóc và oán trách ông Môsê và ông Aharon. Thiên Chúa nghe tiếng kêu than liền cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ (Xh 16,1- 36). Ăn mana một thời gian họ lại thèm thịt và kêu trách. Lần này thì Đức Chúa nổi giận: “Ông Môsê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con?…Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Đức Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. Dù có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển, liệu có đủ cho họ không?. Đức Chúa phán với ông Môsê: “Đức Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không”. (Ds 5,10- 12.21- 23). Sau đó Đức Chúa cho chim cút rơi xuống đầy quanh trại, họ ăn thả cửa như ông Môsê đã báo cho họ: “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy” (Ds 11,31- 35).
Bối cảnh của câu chuyện “hóa bánh ra nhiều” là hoang địa, dân chúng tự ý kéo đến. Các môn đệ xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua thức ăn. Chúa bảo chính các ông cho họ ăn, các ông thú nhận “chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Nguyên số đàn ông khoảng năm ngàn người. Đám đông lớn như thế mà chỉ có năm cái bánh và hai con cá, chúng ta như nghe ông Môsê than: “Dân có tới 600 ngàn bộ binh! Giết chiên giết bò, bắt hết cá biển lên có đủ cho họ không?. Thiên Chúa nói với ông Môsê: Đức Chúa mà chịu bó tay sao!”. Hôm nay, Đức Giêsu bảo: “đem lại đây cho Thầy”. Đọc lồng hai câu chuyện vào nhau, chúng ta nhận ra thánh sử gợi cho biết ý nghĩa của bữa ăn này. Môsê và Aharon thú nhận sự bất lực thì Đức Chúa tỏ vinh quang, cho mana, cho chim cút rơi xuống cho dân ăn. Đức Giêsu bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận bất lực thì Chúa ra tay. Mọi người ăn dư dả phủ phê no nê đầy ứ. Chúa cho họ ăn một bữa đã đời và để đời.
Hình ảnh Chúa truyền cho dân chúng ngồi xuống trên cỏ rồi cho họ ăn gợi nhớ Thánh vịnh 23: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”.
Chúa cầm bánh và cá, “ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ”, trong phong tục dân Itraen cho tới ngày nay, đó là cách mở đầu bữa ăn. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa cũng làm như vậy, nhưng kèm theo lời lập Bí Tích Thánh Thể cũng là bí tích của Giao Ước Mới. Vì thế, trong thánh lễ hàng ngày chúng ta cũng lập lại những lời này, và cụm từ: “Bẻ Bánh” đã sớm mang ý nghĩa đặc biệt chỉ về việc cử hành Bí Tích Thánh Thể (x.Cv 2,42). Chúa bảo các môn đệ cho dân chúng ăn, họ thú nhận là bất lực thì Chúa trao bánh cho họ để họ trao cho dân. Đó là nhiệm vụ mà các tông đồ sẽ thi hành ngay sau khi nhận được quyền năng Chúa Thánh Thần: phục vụ Lời và bàn ăn, cử hành lễ Bẻ Bánh. Bữa ăn đã thành hình vừa gợi lại dân của Cựu ước được Thiên Chúa nuôi trong hoang địa, vừa loan báo bữa ăn Lời Chúa và Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận ngày nay với tư cách là dân của Giao Ước Mới. (x. Tự đáy lòng, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm thành Tabgha, nơi Chúa đã làm phép lạ biến 5 cái bánh và 2 con cá hóa nhiều nuôi hơn 5.000 người ăn no nê. Khi chiêm ngắm bàn thờ và cung thánh trong ngôi Nhà thờ ấy, tôi thấy trên nền Nhà thờ phía trước Bàn thờ có khắc hình một chiếc giỏ đựng 2 con cá và 4 cái bánh. Tại sao lại là 4 chứ không phải là 5 cái bánh như Phúc âm kể? Đây là một sự thiếu sót có chủ ý của nghệ nhân làm nên bức hình đó. Vì cái bánh thứ năm không nằm trong giỏ nhưng nằm trên bàn thờ, đó chính là Mình Thánh Chúa mỗi khi dâng thánh lễ trên bàn thờ này.
Trong “Phép lạ hóa bánh ra nhiều”, Chúa không làm một mình và làm từ bàn tay không. Không làm một mình mà như dò ý môn đệ, chẳng phải vì quyền năng giới hạn mà chỉ vì Người muốn có sự cộng tác nào đó cho phép lạ trở nên hiện thực. Không làm từ bàn tay không mà cần có năm cái bánh, Chúa trân trọng sự đóng góp của con người, dẫu sự đóng góp ấy rất nhỏ. Năm cái bánh cho năm ngàn người. Tỉ lệ một phần ngàn có nghĩa lý gì. Muối bỏ bể! Thế nhưng trong mắt nhìn của Thiên Chúa, đó lại là cả một thiện chí hùn hạp làm ăn sinh lời đến chóng mặt.
Đức Bênêđitô XVI đã nói: phép lạ này không được làm từ không có gì, nhưng từ những gì bạn có, dù nhỏ bé, mang đặt trong bàn tay của Chúa. Chúa không đòi hỏi chúng ta những gì chúng ta không có. Chúa cho chúng ta hiểu rằng, nếu mỗi người đặt vào tay Ngài những tấm bánh, những con cá bé nhỏ, Chúa sẽ làm cho phép lạ được tiếp diễn hôm nay, bởi Ngài có quyền năng làm cho những cử chỉ yêu thương khiêm tốn của chúng ta trở thành quà tặng lớn lao cho anh chị em chúng ta.
Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, cho dù sự cộng tác ấy rất nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại nhờ vào tình thương của Người. Như Chúa Giêsu đã yêu thương quan tâm chăm lo đến mọi nhu cầu từ vật chất đến tinh thần cho dân chúng thì Kitô hữu, các môn đệ của Người cũng phải biết yêu thương chăm lo cho tha nhân như vậy.
Trong thánh lễ Tạ ơn dịp Kết thúc Hồ sơ Chân Phước Đức Hồng y FX Nguyễn Văn Thuận tại nhà thờ Santa Maria della Scala, ngày 06/7/2013, Đức cha Giuse Võ Đức Minh chia sẻ.
Nếu như năm xưa trên bước đường rao giảng về Tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đón nhận năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ của một em bé (x. Ga 6,9) để làm phép lạ nuôi sống hàng ngàn người, thì nay mình có thể dâng cho Chúa những cái nho nhỏ của cuộc đời mình: “Chúa bảo gì, cứ làm theo”.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ nhất: sống giây phút hiện tại. Làm cho giây phút hiện tại chan hòa tình thương của Chúa.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ hai: phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ ba: cầu nguyện. Ngài cho biết có những lúc quá đau, quá mệt, không đọc được một kinh. Chính lúc đó, ngài thều thào: “Chúa Giêsu ơi, có con đây”; và ngài như nghe tiếng đáp trả: “Thuận ơi, có Chúa Giêsu đây”.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ tư: phép Thánh thể. Thật kỳ diệu khi ngài có sáng kiến cử hành Bí tích Thánh thể mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay. Bàn tay trở nên chén thánh, trở nên bàn thờ. Không gian ngài đang sống, chính là nhà thờ chánh tòa của ngài. Mình Thánh Chúa Kitô là “thuốc” của ngài.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa chiếc bánh thứ năm: yêu thương theo chúc thư của Chúa. Trải qua muôn vàn thống khổ, ngài chợt nhận ra mình tích lũy trong bản thân một kho tàng vô cùng phong phú và quý giá. Đó là tình yêu thương.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ nhất: yêu mến Mẹ Maria La Vang. Ngài bắt đầu cuộc khổ nạn vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Trong người chỉ có duy nhất tràng hạt Mân côi. Từ lúc còn nhỏ, thân mẫu ngài đã dạy phải luôn đem tràng hạt trong mình: Đức Mẹ La Vang sẽ giữ gìn cho mình được bình an. Chính truyền thống đạo đức trong gia đình, dòng tộc, đã truyền vào tim ngài lòng sùng kính đối với Đức Mẹ La Vang.
- Làm theo Lời Chúa, ngài dâng cho Chúa con cá thứ hai: chọn Chúa. Như các Tông đồ năm xưa, ngài đã chọn Chúa, đi theo Chúa, gặp Chúa, sống bên Chúa; rồi tiếp tục ra đi đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết cộng tác với ơn Chúa, mỗi ngày xin cho con quảng đại đặt vào tay Chúa một món quà, một ước nguyện, để phép lạ xảy ra. Con xin là tấm bánh dâng lên Chúa, để Chúa biến đổi trở thành Thịt Máu Chúa. Con xin là tấm bánh dâng lên trong tay Chúa, để Chúa bẻ ra và phân phát cho anh em. Tấm thân con xin là tấm bánh dâng lên Chúa để được thuộc trọn về Chúa, để tuỳ ý Chúa sử dụng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác…
Hôm nay xin được chia sẽ về bài học Tiết Kiệm.
- Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều, được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13- 21; Mc 6,31- 34; Lc 9,10- 17; Ga 6,1- 13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32- 38; Mc 8,1- 10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1- 12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả, người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh,con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
- Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết:
Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu:Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất.Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày, chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đắt tiền, trang bị cho mình điện thoại di động đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện… rất bình thường, nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào, số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết:“Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản, mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4, mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào, đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào, tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần, thanh niên có; đâu khó, có thanh niên. Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa, thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố, quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện.(Nguồn: dunglac.org).
La Fontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè, chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về, gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó, dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
- Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết:
Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung, còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được, nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền, nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung, không ai khóc, của chung, không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta, cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm, nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm, nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu, nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống, chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món, càng sang, cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục, dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay, việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, – dòng tu, giáo xứ, địa phận – thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ, và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu. Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó, sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị, sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen. (Mana).
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
‘TỪNG CHÚT MỘT’ CHẲNG BAO GIỜ VÔ NGHĨA CẢ!
Mỗi khi được mời gọi đóng góp, hoặc chia sẻ những gì mình có, hầu giúp đỡ tha nhân, chúng ta thường nghĩ hoặc nói: bản thân tôi làm được gì? Phần của tôi quá ít ỏi làm sao mà giúp được ai?
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Có lẽ còn nhiều cách suy nghĩ, cũng như lời đáp khác, nhưng tựu chung lại: một mình tôi sẽ chẳng làm được gì! Đúng vậy, chỉ cá nhân chúng ta sẽ không làm gì được, nhưng phải chăng ’từng chút một’ lại vô ích sao? Các bài đọc hôm nay, đặc biệt, bài đọc I trích Sách các Vua quyển thứ 2 và bài Tin Mừng theo Thánh Gio-an, cho chúng ta một cách nhìn khác về sự ít ỏi, về sự không đáng kể, nhưng nếu được đặt vào bàn tay Chúa thì nó trở nên đông đảo, vô số, và vô kể.
Trước hết, từng chút một sẽ trở nên vô vàn nếu biết đặt niềm tin nơi Chúa và cộng tác với Ngài bằng cách đóng góp phần nhỏ của mình. Thời ngôn sứ Ê-li-sa, chỉ vỏn vẹn hai ‘hai mươi chiếc bánh mạch nha và lúa mì’ (x. 2V 4, 42) của một người xứ Baal-salisa mà đủ cho ‘một trăm người ăn’ (x. 2V 4, 43). Làm sao có thể như vậy được? Bởi lẽ ông tin tưởng vào lời tiên tri Ê-li-sa là ‘người của Thiên Chúa’ nói: “Cứ dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa phán như sau: ‘Người ta ăn rồi mà sẽ còn dư’ (2V 4, 43), hơn nữa, ông còn biết chia san phần nhỏ của bản thân. Tương tự, hình ảnh em bé mang ‘năm chiếc bánh và hai con cá’, mà được Tông đồ An-rê phát hiện, rồi thông báo cho Đức Giê-su, cũng biết đóng góp phần nhỏ của mình. Có lẽ đây là thức ăn đi đường của em và của gia đình em trong ngày hôm ấy. Giả sử, em bé này suy nghĩ như chúng ta: một mình tôi thì làm được gì! Quá ít ỏi chẳng thấm vào đâu! Rồi không chịu chia sẻ, vì sợ sẽ chẳng có gì để bỏ vào bụng trên đường về nhà. Như vậy, có lẽ Đức Giê-su vẫn làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng bằng một cách khác chăng! Tuy nhiên, thực tế, em bé đã sẵn sàng góp phần ít ỏi của mình, với tinh thần phó thác hoàn toàn vào Đức Giê-su, để Ngài lo liệu cho dân chúng. Và điều kỳ diệu đã đến! Phép lạ luôn đến từ đức tin vào Thiên Chúa. Một chút chẳng là gì, nhưng nó trở nên nhiều vô kể khi chúng ta tin tưởng vào Chúa, đồng thời chia san phần của mình, và giao phó cho Chúa.
Thứ đến, từng chút một sẽ trở nên vô kể, nếu biết vâng phục, thực hiện những gì Chúa truyền dạy. Ở bài đọc I, người từ Baal-salisa tuy sửng sốt trước lời nói của ngôn sứ Ê-li-sa, nhưng vẫn tuân phục và thực hiện như lời truyền. Kết quả của hành động đó quá rõ ràng: “Đoạn người dọn cho họ ăn mà còn dư đúng như lời Chúa phán” (2V 4, 44). Chúng ta đôi lúc cũng như Tông đồ Phi-líp-phê khi nghe Đức Giê-su nói cho đám đông ăn, ông liền đáp: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút” (Ga 6, 7), và chẳng khác gì với Tông đồ An-rê lúc thưa với Đức Giê-su: “…nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (x. Ga 6, 9). Tuy nhiên, các ông đã vâng phục, thực hiện những gì Ngài căn dặn: “Cứ bảo người ta ngồi xuống” (Ga 6, 10), và mọi việc diễn ra một cách kỳ diệu trước mắt các Tông đồ, với đám đông năm ngàn người đàn ông (chưa kể đàn bà, con trẻ). Trong những lúc này, nếu chỉ dùng lí trí thuần tuý, trí tuệ, kiến thức, nhằm áp đảo đức tin, thì chắc hẳn chúng ta khó làm theo điều có vẻ nghịch lý, nhưng thật sự đã xảy ra diệu kỳ. Đức tin khiến chúng ta đặt niềm tín thác vào Chúa, làm cho tâm hồn nhẹ nhàng mở rộng chứ không khép kín, biến sự bất tuân thành vâng phục trìu mến thiết tha, và đưa chúng ta đến việc hành động, thực hiện theo lời Chúa truyền dạy, đặc biệt, sống giới răn yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân.
Sau cùng, từng chút một sẽ trở nên dư dật hơn cả lòng mong đợi của chúng ta, nhờ vào ơn Thánh. Một khi chúng ta chia sẻ phần nhỏ bé của mình với cả niềm tín thác, và vâng phục làm theo Lời Chúa như em bé và các Tông Đồ trong bài Tin Mừng hôm nay, thì phần còn lại Đức Giê-su chắc chắn sẽ thực hiện, một hành động cao quý, vượt xa lí trí, mà chúng ta được diện kiến hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nơi Thánh Lễ qua vị Linh mục bất xứng, yếu hèn: “Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, và phân phát cho các kẻ ngồi ăn…” (x. Ga 6, 11). Ơn Thánh Chúa không những đủ đầy cho mỗi chúng ta, mà còn dư tràn, vượt trên sự kỳ vọng, lòng mong đợi, niềm khát khao của chúng ta như thể: “…thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư” (x. Ga 6, 13). Ơn Chúa tuôn đổ tràn ngập trên mọi ngóc ngách cuộc đời, mọi nẻo đường đời chúng ta, mọi trạng huống cuộc sống này, nhưng chúng ta đừng bao giờ lãng phí ân sủng Chúa ban như lời Ngài căn dặn các Tông Đồ: “Khi họ đã ăn no nê,… ‘Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi’” (x. Ga 6, 13). Để sống tinh thần này, chúng ta không thể không học nơi mẫu gương của Thánh Phao-lô khi ngài dặn dò các tín hữu thuộc giáo đoàn Ê-phê-sô “ăn ở xứng đáng với ơn gọi mà anh (chị) em đã lãnh nhận…Hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc” (Ep 4, 1-3). Được như vậy, chúng ta hằng cảm nghiệm và ngâm mình trong ân sủng Chúa.
Lạy Chúa, đối với chúng con “từng chút một có thể chẳng có nghĩa gì”, nhưng “từng chút ấy sẽ trở nên lớn lao, dư tràn” nhờ vào ơn Thánh, nhờ vào niềm tín thác và lòng vâng phục thực thi Lời Chúa dạy bảo chúng con.
Từng chút từng chút một Điểm này nối điểm kia Tạo mối duyên liền mạch Dây gắn kết cõi lòng Chia san chẳng đợi mong Tín thác, hằng trông cậy Một lòng vâng phục sống Mến Chúa và yêu người. Amen!
CHÚA GIÊSU CẦM LẤY BÁNH,
TẠ ƠN VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO NÊ
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32- 33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33- 41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
(Suy niệm của Lm. Mark Link)
Chủ đề: “Chỉ cần chúng ta trao phó cho Chúa Giêsu phần ít ỏi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta”
Jay Keler có viết một quyển sách nhan đề Growing Places (Những vùng đang phát triển), trong đó ông kể: Một đêm nọ, ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi may bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên lề đường bay. Jay liền hỏi người ngồi bên cạnh thì anh ta trả lời: Đấy là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng đe về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay đi nhận hành lý và lên xe buýt về một thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạnh, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch, ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình đi tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay, thằng bé chìa tay ra xin: Jay liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được một quãng mười bước, ông lại nghe âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầu lại nhìn thì nhận ra một thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé nọ giao cho chúng những đồng tiền xu mới xin được. Jay nói rằng suốt đêm ấy ông không hề chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khó, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Ta phải làm một điều gì mới được”, thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con nít đem về để dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn giấy, một chiếc ghế hoặc một cái bàn. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng một tấm vải rách nát cũ kỹ lau sach nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đấy là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà. Nó là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại. 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 mươi viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40,000 tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác chính là Mẹ Têrêsa.
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay; cậu bé nọ có 5 ổ bánh và 2 con cá, Chúa Giêsu đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền giao bánh và cá cho Chúa Giêsu để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thết đãi hơn 5000 người no nê.
Đấy cũng chính là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “Bánh và Cá’ của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà. Câu chuyện Mẹ Têrêsa, câu chuyện người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay cũng như câu chuyện Phúc Âm hôm nay đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau. Đó cũng là chủ điểm bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với các thanh niên tại Edinburg trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982. Đức Giáo Hoàng nói với họ: “Giờ đây tôi xin nhấn mạnh chủ điểm này: cậu bé trong Phúc Âm đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có để rồi Chúa Giêsu thết đãi đám dân 5000 người no nê một cách thật lạ lùng và đồ ăn vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các bạn sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói với các bạn điều này: ‘Hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chap nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn’.”
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Ngài sử dụng theo ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi khả năng của mình như Mẹ Têrêsa, như người đàn ong trong bài đọc thứ nhất và như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm chưa? Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, “Tôi cần tài năng các anh, tôi cần lòng quảng đại của các anh, tóm lại tôi cần các anh, cần đôi chân, đôi tay, môi miệng các anh. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân các anh để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các phố thị của các anh. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay các anh để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người vô gia cư và lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Tôi chỉ biết nhờ miệng lưỡi các anh để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã chịu đau kho và chịu chết cho họ”
Tóm lại trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài đieu gì: chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta- Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cư niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã biến đổi những ổ bánh và 2 con cá trong bài Phúc Âm hôm nay vậy. Đấy chính là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời Kinh nguyện rất được Thánh Ignatiô de Loyola yêu chuộng. Xin mời yên lặng hiệp ý cùng tôi:
“Lay Chúa, xin hãy nhận lấy tự do, trí nhớ, sự hiểu biết và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con va tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài để Ngài tùy nghi sử dụng. Chỉ xin ban cho con tình yêu và ân sủng như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa”.
(Suy niệm của Lm Gioan Lê Quang Tuyến)
Tin mừng Ga 6: 1- 15: Từ lòng quảng đại của em bé trao ban năm chiếc bạnh và hai con cá, Chúa đã làm phép lạ để nuôi lấy hơn năm ngàn con con người khác. Một việc nhỏ đã làm nên một phép màu.
Kính thưa cộng đoàn,
Tuần qua chúng ta được chiêm ngưỡng, Chúa Giêsu như vị mục tử nhân lành, Ngài đã chạnh lòng thương xót đoàn dân của ngài như đàn chiên không người chăn dắt. Tuần này, chúng thấy được tấm lòng của người mục tử ấy, không chỉ chăm lo cho chúng ta phần hồn, nghĩa là được giáo huấn, được dậy dỗ để sống tốt, để được bình an, nhưng Ngài còn lo lắng cho chúng ta về phần xác, tức là cho chúng ta luôn được no ấm trong phương diện thể lý. Câu chuyện hóa bánh ra nhiều mà Tin Mừng theo Thánh Gioan thuật lại hôm nay chứng minh cho chúng ta điều ấy. Đám đông dân chúng thì túng quấn, bơ vơ lạc lõng như đàn chiên không người chăn dắt. Chúa đã chạnh lòng xót thương. Chúa đã nhận thấy tình trạng thật bi đát và đáng thương của họ. Họ đáng thương không chỉ vì đói khát về thể lý, tức là đói khát cơm bánh, nhưng còn đói khát về đời sống tinh thần, tức là thiếu lời Hằng sống của Chúa. Đây mới là điều cần nhất trong cuộc sống con người hôm nay.
Quả vậy, nếu quan sát thật kỹ, chúng ta có thể nhận thấy rằng, trước khi làm phép hóa bánh ra nhiều để nuôi đam đông ấy, Chúa Giêsu đã giảng dậy và trao ban cho họ Lời Hằng sống. Lời hằng sống của Chúa có sức biến đổi cuộc sống đau thương chán trường và mất hy vọng thành cuộc sống hân hoan vui sướng và chan chứa niềm vui. Lời hằng sống của Chúa còn có sức biến đối con người ích kỷ, chỉ nghỉ đến mình, thành con người của hiệp thông, dám mở lòng ra đối với anh em của mình để đón nhận, để sẻ chia.
Khi nhìm thấy đám đông dân chúng đang đói khát, Chúa đã chạnh lòng thương và thốt lên rằng “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn? Thánh Gioan đã nói rõ với chúng ta rằng “Chúa biết việc Chúa sắp làm.” Điều ấy Thánh Gioan muốn nói với chúng ta rằng, Chúa có thể thực hiện phép lạ một mình, không cần đến sự giúp đỡ của con người. Nhưng Chúa đã không làm điều ấy. Chúa muốn con người chúng ta cộng tác với Chúa và nhất là với nhau để làm nên một phép lạ vĩ đại, phép lạ của lòng nhân ái, phép lạ của tình thương yêu, phép lạ của cuộc sống sẻ chia. Chính Thánh Augustino đã nói với chúng ta niềm tin ấy “ Khi tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Được cộng tác vào chương trình của Chúa, đó là một hông ân lớn lao cho con người. Từ lòng quảng đại của em bé trao ban năm chiếc bạnh và hai con cá, Chúa đã làm phép lạ để nuôi lấy hơn năm ngàn con con người khác. Một việc nhỏ đã làm nên một phép màu.
Nhìn vào cuộc sống hôm nay, chúng ta vẫn nhận thấy hoàn cảnh đáng thương của biết bao con người nghèo khổ và đói khát. Họ đói khát cơm bánh, đọi khát tình thương , đói khát công lý, đói khát nhân phẩm con người… tấ cả đang chờ đời một phép lạ và phép lạ đang chờ đợi lòng quảng đại của chúng ta.
“Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Lời đáp của tông đồ Philipphe biểu lộ tâm trạng bất lực và bi quan của con người. Đó cũng là tâm lý bình thường mà chúng ta có khi phải đối diện với những hoan cảnh khó khăn tương tự. Chúng ta dễ dàng buôn xuôi, dễ dàng chán nản và dễ dàng bỏ cuộc. Chúng ta dường như đánh mất niềm tin vào sự quan phòng của Chúa. Chính sự thiếu tin tưởng này mà cuộc sống chúng ta cứ lầm than vất và và bất hạnh.
Năm 1999, giải nobel Hòa Bình dành cho một tập thể những người thiện nguyện. Đó chính là “tổ chức các thày thuốc không biên giới.” Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. Số tiền thương của họ là 980.000 đô là Mỹ cũng được dành cho những người bất hạnh trên toàn thế giới.
Thiên Chúa vẫn và đang làm cho những phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi nấng đòan dân lầm than, ngang qua những bàn tay nhân ái của những con người có trái tim nhân ái “không biên giới”.
Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con. Xin ban cho chúng con tâm lòng nhân ái, biết sẻ chia cho nhau tấm bánh cuộc đời, để tình thương ấy đước nhân rộng khắp nơi trên thế giới. Amen.
MINH HỌA LỜI CHÚA
CHÚA DƯỠNG NUÔI HỒN XÁC LOÀI NGƯỜI
- Thống kê của cơ quan lương thực
Thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp quốc cho biết:
“Mỗi ngày có khoảng 400 triệu người đi ngủ với bụng đói, và 15 ngan người chết vì đói khát.”
Thế giới văn minh với khoa học kỹ thuật tân tiến này vẫn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải đang nằm trong tay 20% người giàu có.
Thế giới nghèo đói không phải vì thiếu tài nguyên, nhưng vì tài nguyên bị cất giấu trong túi những người ích kỷ, những kẻ tham lam!…
***
Tin mừng hôm nay nói đến cả 5000 người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em chẳng có gì ăn. Nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em nhỏ, làm sao Chúa nhân thêm đủ nuôi sống họ mà còn dư? Phải chăng em nhỏ này có lòng rộng lượng hơn người lớn. Một tâm hồn đơn sơ không nghĩ riêng mình, chẳng ích kỷ tham lam, hy sinh đóng góp cho Chúa vào việc nuôi sống con người, mặc dầu chỉ đóng góp một phần nhỏ nhoi thôi.
“Chúng con hãy lo cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ, và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta phải hoàn thành trách nhiệm, không thể chạy trốn, không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho người khác. Phải biết đóng góp những gì mình có với Chúa, để Người nhân lên thêm nuôi sống đồng bào đồng loại.
Thánh Gioan hôm nay mô tả phép lạ của Chúa Giêsu giống như việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc ly: “Người cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn…” Bí tích Thánh thể được gọi là “Bữa tiệc bẻ bánh, là bữa tiệc chia sẽ tình thương”. Chúa Giêsu thông ban tình thương của Người cho chúng ta, để chúng ta bẻ chia cho anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo đói tình thương, nghèo đói cơm bánh xung quanh chúng ta. (Theo “Lẽ sống”, 2).
- Vương quốc của ta đã suy đồi
Một vị vua đang cai trị vương quốc của mình. Một hôm vua rảnh rỗi nên nói với các quan cận thần:
– Hôm nay ta rảnh rỗi, ta muốn thử lòng dân xem họ quảng đại hay ích kỷ thế nào. Ta sẽ cải trang thành người ăn mày nghèo khổ đi khắp nơi. Ai có lòng quảng đại, ta sẽ thưởng bội hậu.
Thế là nhà vua cải trang đi khắp nơi, nhưng không ai chú ý trợ giúp. Buồn bã trở về cung điện, nhà vua tâm sự với các quan:
– Vương quốc ta đã đến lúc suy đồi, vì thần dân đối xử với nhau tệ bạc quá, không biết thương yêu giúp đỡ nhau. Ai có tiền thì trọng vọng, kẻ không tiền bị khinh rẻ bỏ bê!…
***
Nếu Chúa Giêsu đến thăm viếng chúng ta trong dung mạo một người bần cùng nghèo khổ, chúng ta có tiếp đón Người không?
Là môn đệ Chúa, chúng ta biết rõ Lời Người đã mạc khải cho chúng ta; Người đồng hóa với anh chị em nghèo đói đau khổ xung quanh chúng ta: “Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát, các con đã cho uống… Bấy giờ các người công chính thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… Ta bảo thật các con, mỗi lần các con làm như thế cho một trong những an hem bé nhỏ nhất của Ta là các con đa làm cho chính Ta” (Mt.25,35- 40).
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, để cho dân chúng đói khát ăn no. Đó là dấu chỉ người cần nhờ chúng ta cộng tác với Ngươi, để đem lại niềm an vui hạnh phúc cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em nghèo đói bất hạnh. Người không đòi hỏi chúng ta phải làm những công việc to lớn, nhưng chỉ những điều nhỏ bé đơn sơ, như 5 chiếc bánh và 2 con cá, như một nụ cười, một lời thông cảm, một miếng khi đói… (Theo “Ánh sáng thế gian”).
- Bánh và cá
Trong tác phẩm “Những vùng đang phát triển”, tác giả Jay Kesler kể:
Đêm nọ ông từ máy bay đang bước xuống một phi trường ở Ấn độ. Ông thấy nhiều người nằm ngủ dọc theo đường bay, hỏi ra ông mới biết họ là những người vô gia cư. Đi được một lúc, ông nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại, ông thấy một chú bé cụt chân đang đi tới với hai cái nạng. Nó chìa tay ra trước mặt. Ông liên cho nó số tiền lẻ còn trong túi rồi đi đến khách sạn. Đi khoảng mười bước, ông lại nghe có tiếng động kỳ lạ khác. Ông quay nhìn lại thì thấy một đám trẻ ăn mày khác đang đánh thằng bé lúc nãy bằng những chiếc nạng của nó. Chúng bắt thằng bé phải giao số tiền xin được cho chúng… Và suốt đêm đó ông không sao ngủ được vì thảm cảnh đó!
Nhưng rồi một ngày nọ có một người nữ trung niên đến với đám trẻ nghèo khổ hung dữ đó. Bà dồn hết tiền bạc của bà thuê một căn nhà cũ để dạy dỗ chúng. Và hiện nay bà đã có 80 trường trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc kẻ hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ bị bỏ rơi và 40.000 tình nguyện viên giúp đỡ bà lo cho người nghèo đói bệnh tật trên khắp thế giới. Người nữ đó không ai khác hơn là mẹ Têrêsa Calcutta.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại một chú bé dâng cho Chúa Giêsu 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá, để Người thực hiện việc Người muốn làm: cả 5000 người ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Bà giao cho Chúa “bánh và cá” của bà, để Người nhân lên gấp bội.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại mình và tự vấn: chúng ta đã đặt vào tay Chúa được gì? Bao nhiêu? Để Người nhân lên giúp đỡ anh chị em nghèo đói bất hạnh xung quanh chúng ta. Chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêsa, như người đàn ông trong bài đọc thứ nhất và như em bé trong Tin mừng hôm nay chưa?
Chúa Giêsu luôn cần đôi tay, đôi chân, môi miệng chúng ta. Người cần nhờ đôi chân chúng ta để đến với những kẻ nghèo đói bệnh tật, Người cần đôi tay chúng ta để trao ban cho họ: Người cần nhờ môi miệng chúng ta để nói cho họ biết tình thương vo cùng của Người. (Theo “Sunday Homilies”).
- Nhà truyền giáo ăn mày
“Hàng giám mục chúng tôi không xấu hổ khi phải ngửa tay xin anh chị em giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo. Đức Giêsu, Thầy của chúng ta đã từng mượn thuyền của ông Simon để ngồi giảng, mượn con lừa ở Bếtphagê để vào thành Giêrusalem, căn nhà của bà Maria để làm phòng Tiệc ly. Và cuối cùng đã được an táng trong ngôi mộ của một người bạn” (Đức Giáo hoàng Phaolô VI).
Kế hoạch hành khất để phát triển công tác truyền giáo tại Năm Căn đang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay đến một ông giám đốc ở đầu đường P. Sáng nay mình đi thẳng tới đó. Trước mắt mình là một tòa nhà nhiều tầng, ông giám đốc đang đứng nói chuyện với ai đó ở một góc sân. Ông cao lớn và lực lưỡng. Cả con người của ông toát ra uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông, nhưng biết rất nhiều về ông, qua bạn bè của ông. Mình đon đả đón chào:
– Chào ông bảy.
– Cha có chuyện gì thế?
– Con đi truyền giáo ở Năm Căn thiếu thốn về mọi phương diện. Con đến xin ông Bảy giúp đỡ.
– Cha muốn tôi giúp cái gì.
Giáo điểm của chúng ta chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có xuồng để di chuyển. vậy ông Bảy giúp chúng con một cái máy Kohler 7.
Ông giám đốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phương, rồi đi vào hành lang và biến mất trong tòa nhà đồ sộ. Còn mình thì đứng trơ ra đó. Hụt hẫng!…
***
Thế là nhà truyền giáo lủi thủi về nhà viết thư tâm sự với thầy cũ của mình:
Thầy kính mến,
Hôm nay noi gương Đức Phao lô VI, con hiên ngang chìa tay xin tiền bố thí để làm công tác truyền giáo. Nhưng con bị “nhún vai” một cách tàn nhẫn. Chính vì thế mà con nhớ lời Thầy đã dạy chúng con, khi chúng con còn mài đũng quần trên ghế Chủng viện. Thầy dạy rằng: “Các giáo xứ giàu phải chia tài nguyên cho các giáo xứ nghèo. Nhưng trong thực tế người giàu ít khi nào chịu mở hầu bao. Người giàu luôn luôn từ chối một cách khéo léo rằng; “Sông to thì gió cả”, nghĩa là kẻ giàu thì có trăm công nghìn việc phải làm…
Đúng thế, cái ông giám đốc của tòa nhà đồ sộ kia đang có trăm công nghìn việc phải làm. Việc của ông là những việc lớn. Cái máy Kohler nhỏ mọn của giáo điểm truyền giáo chỉ làm rày chuyện lớn của ông. (Trích “Nhật ký truyền giáo”).
- Đây là cậu học sinh dễ thương
Một thương gia Mỹ, kể lại:
Lúc nhỏ tôi học rất kém, đội sổ mãi đến khi vào trung học.
Ngày nọ nhân một lớp học nhảy, cô giáo tôi có mời người chị đến tham dự. Vừa bước vào phòng nhảy, cô giáo dẫn người chị đi thẳng đến chỗ tôi, đặt tay trên vai tôi giới thiệu:
– Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất.
Cô đã không nói: “Đây là cậu học sinh dở nhất lớp…”, mà cô lại bảo: “Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất”. Lời đó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Từ đó tôi đạt được nhiều thành tích khả quan: tốt nghiệp cao học, làm giáo sư, và nay đang phát đạt trong lãnh vực kinh doanh. Tất cả đều nhờ cô giáo đó. Cô cho tôi biết tôi là người có giá trị, tôi cũng có thể trao ban cho người khác cái gì đó, chẳng hạn một nụ cười dễ thương…
***
Trong cái nhìn đức tin, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất vô nhị. Vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay đần độn cũng bình đẳng trong phẩm giá con người. Và giá trị đích thực của con người không hệ tại những gì họ có mà ở những gì họ trao ban. Chân lý này đã được Chúa Giêsu minh chứng trong toàn bộ cuộc sống của Người, mà cao điểm là cái chết của Người trên khổ giá vì phần rỗi nhân loại.
Đặc biệt Người đã trao ban lương thực cho những kẻ theo Người trong Tin mừng hôm nay. Và lương thực nuôi phần xác này tiên báo lương thực thiêng liêng Người sẽ trao ban, đó là Người lấy Thịt Máu Thánh Người làm của ăn nuôi linh hồn con cái Người.
Câu chuyện của cậu học sinh trên đây còn minh họa tuyệt vời cho phép lạ Chúa Giesu hóa bánh ra nhiều. Nhờ một lời khen đơn sơ mà cậu học sinh dở nhất lớp đã thành tài. Nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa cho cả mấy ngàn người ăn no nê và còn dư. Như thế, nhờ một trao ban nhỏ bé, Chúa nhân lên gap bội.
Hiểu được như thế, chúng ta mới thấy: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có cái gì đó để trao ban. Và với ơn Chúa, trao ban nhỏ bé của chúng ta sẽ có giá trị vô cùng, sẽ nhân lên to lớn, sẽ đem lại niềm an vui hạnh phúc cho đồng loại.
(Theo “Như lòng Chúa khoan dung”).
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.
Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: “Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”.
Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép của Ngài. Ngài muon hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý Ngài như thế này: “Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn an người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác, được kêu là “bánh từ trời”, tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã hội”.
Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ: “Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.
Những cử chỉ của Đức Giêsu: “Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những người ngồi đó” nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Chủ đề: Chỉ cần chúng ta trao cho Chúa phần nhỏ nhoi của mình, Ngài sẽ biến phần ít ỏi ấy thành bội phần vượt quá những kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta.
Ai cũng biết Martin Porre là đứa con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần dân trong xã hội, nhưng cậu có một tâm hồn rộng mở, ai xin gì cũng cho, ai nhờ vả gì cậu cũng không từ chối. Cậu có một tấm lòng quảng đại đến độ bớt xén số tiền mẹ sai đi mua đồ ăn, để giúp người nghèo khổ. Cậu đã cố gắng học nghề thầy thuốc để có dịp phục vụ đồng loại. Vì hành động quảng đại đó mà Chúa đã làm bao điều trọng đại nơi con người hèn mọn đó.
Đức cha Cassese, một vị thừa sai có tâm hồn rộng mở, đến nỗi đang làm Giám Mục Sàigòn (1957), nhân một dịp đi thăm và tiếp xúc với người thượng ở Lâm Đồng, ngài đã quyết định xin Tòa Thánh từ chức Giám Mục, để đi giúp dân nghèo thiểu số không nhà không cửa, giúp những người cùi người hủi trên cao nguyên Di Linh, Đà Lạt. Nhờ việc làm bé nhỏ của Ngài mà Chúa đã làm biết bao sự lạ lùng nơi dân tộc thiểu số.
Ngày nọ, một phụ nữ trung niên Ấn Độ đã có một tâm hồn rộng mở khi đi thăm một khu phố nghèo, sống chui rúc bẩn thỉu. Bà đã nảy ra ý định phải làm một cái gì để giúp họ. Thế rồi bà dành dụm được một số tiền vừa đủ để mua một căn nhà cũ, sửa sang cho khang trang, rồi bà đi khắp các nơi đưa về những trẻ em mồ côi nơi hè phố để dạy dỗ, để nuôi nấng. Nhà không có lấy một cái bàn, cái ghế. Bà đã cho lấy sàn nhà làm bảng viết dạy lũ trẻ. Đây là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày nay bà đã có hàng 100 trường học trang bị đầy đủ. 300 nhà phát thuộc lưu động, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện săn sóc cho người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 người trên thế giới tình nguyện theo chí hướng và giúp đỡ bà. Người thiếu nữ đó không ai khác ngoài Mẹ Terêsa Calcuta.
Một điều lạ nữa ngay trước mắt mà chúng ta nhận thấy: Một Linh Mục gầy ốm, khẳng khiu, Ngài có một tâm hồn rộng mở, Ngài đã nghĩ đến cách lập Dòng bản quốc để giúp họ nên thánh. Nhờ ý nghĩ nhỏ nhoi đó, mà Chúa đã làm cho phần ít đó nên đầy dẫy những người có chí hướng nên thánh. Đó là Cha Quorum Primus, người sáng lập nên Hội Dòng Đồng Công của chúng ta.
Và không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy suy gẫm bài Tim Mừng ấy: Một cậu bé nọ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, người ta đã yêu cầu cậu đem đến cho Chúa để Ngài thiết đãi dân chúng. Cậu liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thiết đãi hơn 5000 người ăn no nê và còn dư được 12 thúng đầy.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã làm. Mẹ trao phó cho Chúa “công việc nhỏ mọn của Mẹ “, để Ngài thực hiện kế tiếp. Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt quá ước mơ của Mẹ. Câu chuyện của thánh Martin, của Cha Bề Trên sáng lập Dòng Đồng Công, hay của người đàn ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng như câu chuyện Phúc Âm, đều nêu lên cùng một chủ điểm giống nhau: Nếu một mình đối đầu với những thách đố khó khăn, và lo sợ, trước viễn cảnh tương lai, thì thật là rùng rợn. Nhưng nếu: “Đặt cả cuộc đời mình vào trong tay Chúa Giêsu thì Ngài sẽ tiếp nhận, và sẽ chúc lành cho nó, sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của chúng ta”.
Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm: Cuộc sống và khả năng của chúng ta, để Ngài sử dụng theo thánh ý Ngài?
Nói rộng hơn, chúng ta đã dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình, như Mẹ Têrêsa, như thánh Martin, như Cha Bề Trên sáng lập, như cậu bé trong bài Phúc Âm hôm nay cho Thiên Chúa chưa?
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta, “Cha cần khả năng của anh chị em, Cha cần lòng quảng đại của anh chị em. Cha muốn anh chị em hiến cho Cha đôi bàn tay vạm vỡ, đôi chân dẻo dai. Hiến cho Cha môi miệng ngọt ngào, hiến cho Cha trí năng sắc sảo và tâm hồn quảng đại… để Cha thực hiện những điều lớn lao và cần thiết gấp bội, cho thế nhân, cho các linh hồn đang cần đến sự hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em”.
Tóm lại, trong sứ điệp Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài, để Ngài thực hiện những phép lạ cả thể. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì, – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, mọi việc làm, sự hy sinh và nguồn sinh lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng nó, để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên, vượt khỏi niềm mơ ước của chúng ta, giống như Ngài biến đổi 5 tấm bánh và 2 con cá. Đấy mới chính là lời mời gọi Chúa ngỏ với chúng ta qua bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời kinh nguyện rất được thánh Ignatio de Loyola yêu chuộng. “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí nhớ, sự hiểu biết, và toàn bộ ý chí của con. Xin hãy nhận lấy toàn thân con, và tất cả sở hữu của con. Ngài đã ban tặng cho con, giờ đây con xin hiến tặng hết cho Ngài, để Ngài tùy ý sư dụng, như thế là đủ cho con rồi và con không còn mong muốn điều chi khác nữa”.
(Suy niệm của An Phong, OP)
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Chúa hóa bánh nuôi 5000 người được ăn no. Đây là một phép lạ có tầm mức quan trọng lớn theo truyền thống Tin mừng và phép lạ này duy nhất được cả Bốn Tin mừng thuật lại. Qua phép lạ này, Đức Giêsu biểu lộ quyền năng của một Đấng Messia, Đấng Cứu nhân Độ thế, và các môn đệ cần tin tưởng vào Ngài.
Ăn uống là một trong những nhu cầu cơ bản của đời sống con người. Tuy đây không phải là nhu cầu duy nhất và đầy đủ; vì người ta không “sống để mà ăn”. Nhưng ăn uống vẫn là nhu cầu đầu tiên của cuộc sống; bởi lẽ, người ta không thể sống nếu không được ăn và trong cuộc đời làm người, con người luôn phải lo toan sao cho có đủ ăn, và xa hơn là ăn ngon. Con người vẫn cần phải “ăn để mà sống”.
Một đứa trẻ thiếu ăn, suy dinh dưỡng, sẽ không thể lớn lên, khỏe mạnh, thông minh, không thể học hành cho đến nơi đến chốn. Quả thật, chuyện ăn uống có dính dáng đến cả sứ mệnh làm người, vì nó chắc chắn ảnh hưởng đến tương lai của đứa trẻ. Thử hỏi các bà nội trợ một ngày bỏ ra bao nhiêu thời gian để đi chợ, để nấu nướng, chuẩn bị bữa cơm cho gia đình? Thử hỏi một đời người đã mất bao nhiêu thời giờ cho các bữa ăn?
Như thế, ăn uống là một nhu cầu rất thật và là chuyện rất thực tế của đời người. Thế nên, chẳng lạ gì, Đức Giêsu quan tâm đến “cái ăn” của con người. Hẳn là Người yêu thương và muốn cứu độ trọn vẹn con người. “Chúng ta lấy đâu ra bánh cho từng ấy người đây?”. Đức Giêsu đã hỏi các môn đệ như thế, và đó cũng là một câu hỏi rất thực tế mà, ngày nay, Người cũng đang hỏi chúng ta.
Tất nhiên, khi nghe câu hỏi này, các môn đệ lo lắng, bối rối. Chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta chẳng những phải lo của ăn cho mình, nhưng còn phải nhìn thấy biết bao người đang đói ăn chung quanh mình, trên thế giới. Nhiều lúc chúng ta cũng chẳng biết làm thế nào.
Với lòng tin tưởng, các tông đồ mang đến 5 chiếc bánh và 2 con cá; với chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta tin tưởng nơi Người và quảng đại đóng góp phần nhỏ nhoi của mình. Chính Người sẽ làm cho phần nhỏ nhoi ấy có thể trở nên một dấu chỉ giúp người ta nhận ra Chúa Giêsu “hẳn là Vị Ngôn Sứ”.
Lạy Chúa Giêsu, Nhiều lúc chúng con thấy cả cuộc đời thật vô nghĩa, vì chỉ để đi kiếm miếng ăn. Nhiều lúc chúng con muốn thoát nợ áo cơm để “làm chuyện lớn lao”; nhưng lại không sao thoát được. Nhưng chính Chúa đã dạy phải lo đến miếng ăn; để trong miếng ăn hàng ngày, chúng con nhận ra Chúa còn nuôi nhân loại bằng Bánh Hằng Sống bởi trời nữa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Từ chút đóng góp nhỏ nhoi
Chương 6 của Tin Mừng Gio- an được trích đọc trong mấy Chúa nhật liên tiếp, khởi đầu với trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiếp đó là những lời giải thích về đề tài Bánh Trường Sinh. Trong phần sau này, Đức Giêsu tuyên bố rõ ràng: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này se được sống muôn đời” (6,51). Lời tuyên bố này là chìa khoá để giải thích phép lạ hôm nay: việc hoá bánh ra nhiều là sự kiện báo trước về bí tích Thánh Thể.
Các môn đệ của Đức Giêsu cũng tham gia vào việc chuẩn bị bữa ăn. Quanh Đức Giêsu, có các ông Phi- líp- phê, An- rê là anh ông Phê- rô, và có lẽ cả các môn đệ khác nữa. Ngoài ra, lẫn trong đám đông, còn một cậu bé có mang theo năm chiếc bánh và hai con cá; ông An- rê đã giới thiệu cậu bé với Đức Giêsu.
Chắc chắn rằng, nếu không có những chiếc bánh và mấy con cá của cậu bé, Đức Giêsu cũng có thể làm phép lạ để nuôi sống đám đông. Thế nhưng, Đức Giêsu muốn cho thấy một khía cạnh đặc biệt: phép lạ luôn là lời đáp trả trước một đề nghị hay một lời mời.
Như thế, Đức Giêsu muốn tôn trọng trật tự của sự việc: việc hoá bánh ra nhiều không xuất phát từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một cậu bé. Ai mong muốn chính mình trở thành phúc lành cho người khác, thì phải đem đến cho Đức Giêsu điều mình có. Người không yêu cầu người ta điều họ không có, nhưng trong đôi tay thánh thiện và nhân ái của Người, điều người ta chia sẻ sẽ trở thành phép lạ, dư tràn và phong phú.
Về phần mình, cậu bé có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay những người thân quen. Làm như thế, cậu chỉ nuôi sống một vài người, chứ không góp phần làm cho việc hoá nhiều được dễ dàng. Trong hoang địa, một nơi ở xa các làng mạc, thì phần thức ăn dù nhỏ nhoi của cậu cũng là một điều rất quý giá, giúp cậu vượt qua cơn đói. Nhưng cậu đã trao tất cả cho Đức Giêsu, và Người đã dùng quyền năng mà làm cho bánh và cá hoá ra nhiều để nuôi cả đám đông. Không phải chỉ một mình cậu được nuôi sống, mà tất cả mọi người đều được ăn no…
“Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,9). Một đồng bạc là tiền công của một ngày làm việc, thế mà có bỏ ra một số rất lớn cũng chẳng đủ chia cho mỗi người… Năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá “với bằng ấy người thì thấm vào đâu!” Như thế, theo cái nhìn con người, tình trạng này quả là bất lực, không thể nào giải quyết nỗi. Điều này làm rõ lên một chủ đề lớn trong Tin Mừng thứ tư: chỉ có Thiên Chúa mới có kha năng nuôi sống một đám đông như vậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đem lại cho mỗi người phần của họ, làm cho họ được no nê, thoả mãn.
Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu, lớn lao, nhưng Người lại muốn nhân loại đóng góp phần của mình. Chính từ phần đóng góp ít ỏi ấy, Thiên Chúa lại ban cho họ những hồng ân khác, nhất là sự sống.
Người không muốn làm vua
Những người chứng kiến phép lạ Đức Giêsu đều nhận ra đây là một điều hết sức kỳ diệu. Mọi người đều nhìn nhận Đức Ki- tô có uy quyền của Thiên Chúa: Người đã bày tỏ uy quyền qua việc hoá bánh ra nhiều. Sự kiện này làm cho người ta nhớ ngay đến những kỷ niệm thời xuất hành: ông Mô- sê đa can thiệp và Thiên Chúa đã ban cho dân Do- thái có bánh ăn trong hoang địa. Do đó, dân chúng nghĩ rằng thời gian cứu độ đã đến và Đức Giêsu là “vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Họ tính bắt Người để tôn làm vua, nhưng “Người lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Những kỷ niệm thời Xuất Hành
Người ta có thể so sánh ngôn sứ Ê- li- sê trong bài đọc 1 với Đức Giêsu. Tuy nhiên, những chi tiết trong trình thuật Tin Mừng hôm nay có vẻ gần gũi hơn vơi những biến cố thời xuất hành. Từ bờ bên này sang bờ bên kia – đi qua Biển Đỏ; xa khỏi làng mạc; – không còn những của ăn của đất Ai- cập; ông Phi- líp- phê bị thử thách – dân Do- thái bị thử thách; Đức Giêsu cho đám đông ăn no – Thiên Chúa nuôi dân bằng man- na.
Xưa kia, dân Do- thái đã trải qua những biến cố này để tiến đến giao ước; đối với các độc giả đã được nghe nói về mầu nhiệm Phục Sinh, thánh Gio- an nhấn mạnh rằng sự kiện này xảy ra ít lâu trước lễ Vượt Qua. Rõ ràng tác giả muốn các độc giả hiểu rằng dấu chỉ của giao ước chính là bí tích Thánh Thể. Như vậy, con người sẽ trở thành hòm bia, thành căn lều để Thiên Chúa cư ngụ.
Ngôn sứ hay vua
Trong hoang địa, dân Do- thái nhìn nhận ông Mô- sê là thủ lãnh của mình. Họ đi theo ông vì họ đã chứng kiến những dấu lạ ông làm. Giờ đây, đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, vì họ đã thấy Đức Giêsu chữa lành các bệnh nhân và làm nhiều dấu lạ khác. Hôm nay, Đức Giêsu không chỉ chữa lành, Người còn nuôi sống họ. Trước mắt họ, Đức Giêsu là “Vị Ngôn Sứ, là Đấng phải đến thế gian”.
Thế nhưng, thay vì tiếp tục đi theo Đức Giêsu trên con đường Người muốn họ đi – con đường đi đến cái chết và sự phục sinh – , đám đông lại muốn thu nhỏ con người thiên sai này, bằng cách đưa Người vào trong cơ chế của họ. Họ muốn tôn Người làm vua.
Biết được điều đó, Đức Giêsu đã lánh đi. Người là Vua, là Vua ngay từ khi mới sinh (x. Mt 2,2), nhưng Vương quyền của Người phát xuất từ thập giá chứ không do ý thích của người phàm. Con đường của Người vẫn còn dài ở phía trước, chứ không phải là kết qua của những việc đã làm, nên Người đã lánh đi, đã từ chối, như trước đây Người đã từ chối với Xa- tan, và sau này, với Phi- la- tô. Mỗi lần một người hay một thể chế muốn nắm lấy Đức Giêsu để phục vụ những chương trình riêng của mình, Người cương quyết khước từ.
Tôn Đức Giêsu lên làm vua, đó là một sự cắt đứt, bởi vì việc hoá bánh ra nhiều là một dự báo về Nước Trời, nhưng là Nước của Thiên Chúa, chứ không phải nước của loài người đang muốn tái lập quyền lực chính trị của mình. Do đó, Đức Giêsu đã lên núi một mình…
Hãy đóng góp phần của mình “Một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Cậu bé đó chính là bạn, là chúng ta, là tất cả cac Ki- tô hữu. Trước nỗi thống khỗ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy, ta đã đặt nền móng cho Nước Trời.
Đàng khác, bạn thấy đó, trước khi phân phát bánh, Đức Ki- tô đã dâng lời tạ ơn – tiếng hy- lạp là Eucharistia. Người tạ ơn ai, nếu không phải là Chúa Cha, như Người vẫn quen làm. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi sống cả đám đông, lại còn dư mười hai thúng đầy. Nhờ lời tạ ơn của Đức Giêsu, phần đóng góp nhỏ nhoi của cậu bé trở thành nguồn mạch dồi dào.
Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta: hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là Tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Ki- tô biến đổi thành bánh bởi trời, thành bánh là chính Người, bánh ban sự sống muôn đời.
“Ngày nay, Thiên Chúa đòi chúng ta làm tăng thêm cho chính chúng ta cũng như người khác những tấm bánh đem lại sự sống, những tấm bánh bao trùm mọi hình thức của cuộc sống, những tấm bánh tròn, những tấm bánh dài, cả những tấm bánh có hình dáng lạ kỳ. Theo nghĩa này, chiếc bánh không chỉ là cung cấp năng lượng cần thiết để sống, nhưng còn là những chiếc bánh tràn đầy Thần Khí, tràn đầy niềm vui.
“Cho dù con người thời nay không diễn tả rõ, nhưng chắc chắn, người ta không chỉ cần bánh ăn, mà cả hoa hồng nữa.
“Chúng ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc, để được sung mãn, nhưng chúng ta cũng phải biết rằng hạnh phúc luôn ở bên kia hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là một mục đích, nhưng là một chân trời để hướng tới. Bạn có muốn đi xa hơn nữa không?…” (theo P.Talec.)
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ la tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Cac môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
MUA ĐÂU RA BÁNH CHO NHỮNG NGƯỜI NÀY ĂN
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa- sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cưu tù nhân của Đa- sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đo cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
87. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Đức Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong TM IV, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Đức Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Tuy nhiên, nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn TM Ga khác với các bản văn TMNL ở nhiều điểm. Điểm khác biệt đầu tiên và chính yếu nằm nơi cách giải thích câu truyện (xem bài diễn từ của Ga 6, từ c. 26). Sự cố xảy ra được TM IV xác định bằng những chi tiết chính xác hơn: “bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria” (c. 1); “có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (c. 2; x. 2,23: tương đương với Mc 6,31- 33; Mt 14,13- 14 và 15,30- 31); đám đông không có đức tin chân thật (sau 2,23 cũng như về cuối truyện ch. 6); khái niệm “dấu lạ” (c. 14) để gọi “phép lạ” đặc biệt của TM IV, với y nghĩa là “đặc tính hiện tượng bên ngoài cần vượt quá để nắm được ý nghĩa đích thực” (dân chúng chỉ quan tâm tới chuyện lạ lùng thôi: x. cc. 14- 15.26).
“Sách các Dấu lạ” của TM Ga là từ ch. 2 đến hết ch. 12. Chương nói về “Bánh trường sinh” (6,1- 71) nằm trong phân đoạn có bố cục sau đây:
Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái) (5,1–10,42)
B (5,1- 47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa- bát)
C (6,1- 71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1- 41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù bởi ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa- bát)
C’ (10,1- 21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22- 42): Các công việc và chân tính cua Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến).
Có thể xác định bố cục tổng quát của chương 6 theo một lược đồ đồng tâm như sau:
- a) cc. 1- 15: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
- b) cc. 16- 21: Cảnh với Đức Giesu và các môn đệ
- c) cc. 22- 59: Diễn từ của Đức Giêsu
b’) cc. 60- 65: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
a’) cc. 66- 71: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (6,1- 4);
2) Dấu lạ bánh hóa nhiều (6,5- 13);
3) Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (6,14- 15).
3.- Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu lên núi (3.15): Quả núi này không có trên bản đồ, nhưng được dùng thường xuyên trong Kinh Thánh và các Tin Mừng (x. Mc 9,2; Mt 5,1; 15,29; 28,16) như là khung cảnh cho một mạc khải.
– và ngồi đó (3): Đây là tư thế của người cai trị và giảng dạy.
– quan tiền (6): Một quan tiền là lương của một ngày làm công.
– thu lại (12): Đây không phải chỉ là “nhặt lại” (như trong Mc 6,43 và các bản văn song song) mà là “quy tụ” (synagein) các miếng vụn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1- 4)
Các chi tiết tác giả cung cấp khiến ta có cảm tưởng đây là một bài tường thuật chính xác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp nhiều yếu tố gợi tới một quá khứ, hoặc mang tính biểu tượng: giống như Môsê, có một đám đông đi theo Đức Giêsu; đám đông đi theo Người vì cùng lý do như dân Israel khi họ theo Môsê: những dấu lạ lớn lao Người đã làm; Đức Giêsu lên núi và ngồi xuống, tương tự Môsê lên núi để dạy dỗ dân chúng. Ngoài ra, chi tiết “lễ Vượt Qua” vừa kín đáo gợi đến cái chết của Đức Giêsu (là lúc Đức Giêsu ban mình Người làm bánh đích thực ban sự sống), vừa gợi lại việc Môsê đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập và phép lạ man- na. Điều này không phải là gán ghép, vì tác giả TM IV thích tháp các mạc khải của Đức Giêsu vào trong khung các đại lễ như Vượt Qua, Lều, Cung hiến. Đức Giêsu vừa hoàn tất vừa vượt quá tất cả những gì các đại lễ của Israel nhắm tới và loan báo. Người là Môsê mới sẽ dẫn đưa dân Người trong một cuộc xuất hành mối để đi từ kiếp nô lệ sang tự do.
* Dấu lạ bánh hóa nhiều (5- 13)
Trong các TMNL, chính các tông đồ lưu ý Đức Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Đức Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6). Trong các TMNL, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Đức Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5). Rồi trong một lời bình luận riêng (c. 6), tác giả TM IV giải thích rằng Đức Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử (peirazô) Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Đức Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về Đức Chúa (Yhwh) ban man- na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành (x. Ga 6,25- 40). Sách Đnl giải thích các biến cố Xuất Hành vừa như là dấu chỉ vừa như là những thử thách (x. Đnl 4,34; 7,19; 29,2; so sánh với 8,16; 13,4; x. Xh 16,4; 15,25; 20,20). Theo cùng một cách như thế, tác giả tuy rõ ràng thấy việc nuôi đám đông là một dấu chỉ (sêmeion, Ga 6,26.30), ở đây lại công bố rằng việc này cũng là một thử thách.
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Đức Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6- 15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng nhắm cho thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” (paidarion) và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42- 44: Êlisa hóa bánh ra nhiều; “cá nhỏ” (opsaria) nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các TMNL, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Đức Giêsu phân phát (c. 11). Đây là cách tác giả TM IV tập trung chú ý vào Đức Giêsu. So sánh với các TMNL, chúng ta thấy rõ điểm này. Trong khi các TMNL quan tâm đến Nước Thiên Chúa và lời rao giảng của Thầy chí thánh, TM IV lại chủ yếu nhắm đến “con người” Đức Giêsu, và điều này đã xuất hiện ngay ở những dòng đầu tiên của TM: tác giả chỉ nói qua về phép rửa, nhưng nói rõ Đức Giêsu là ai (Ga 1,29- 34); nhân tiện nói đến các môn đệ đầu tiên, thì nói cho biết Đức Giêsu là ai và Người có thể cống hiến điều gì (1,35- 51); và khi nói về các điều kiện để trở thành môn đệ, thì ngài nêu bật tình yêu đối với Đức Kitô (phải đi tìm Đức Kitô, phải khao khát Người).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Đức Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng. Quả thật tác giả TM IV không kể lại việc thiết lập Bí tíchThánh Thể, nhưng cả ngài lẫn nguồn của ngài không thể không biết đến biến cố này. Động từ “phân phát” (diadidonai) có thể đã được vay mượn từ nghi thức Thánh Thể. Công thức “tạ ơn” (eucharistein: c. 11) cũng thế. Cuối cùng, cc. 12- 13 có chứa hai yếu tố độc đáo là động từ “thu lại” (synagein) và danh từ “các miếng thừa” (klasmata) thuộc về nghi thức Thánh Thể và ta thấy có trong sách Điđakhê (9,4). Còn công thức “kẻo phí đi” (c. 12b) khiến ta nghĩ tới sự cẩn thận của Hội Thánh khi thu lại các mẩu Mình thánh Chúa.
Khi dùng động từ “thu lại” theo nghĩa “quy tụ” (khác với Mc 6,43 và các bản song song dùng động từ “nhặt lại”), hẳn tác giả TM IV muốn nhắc đến Bí tíchThánh Thể có mục đích tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Ở đây chúng ta thấy TM IV muốn gợi lại phép lạ man- na trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man- na cần thiết (Xh 16,4.16- 18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Đức Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Đức Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
* Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (14- 15)
Người Do Thái vẫn chờ đợi là vào thời đại thiên sai, phép lạ man- na được tái diễn. Do đó, khi Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15). Chi tiết này hoàn toàn có thể mang tính lịch sử. Tại Paléttina vào thời ấy, do niềm hy vọng vào Đấng Mêsia, thường xuyên xảy ra những cuộc nổi loạn về chính trị, những cuộc bạo loạn thường xuyên bị người Rôma đàn áp tàn bạo. Đức Giêsu muốn tránh thứ hiểu lầm này.
Tuy nhiên, tác giả TM IV ghi lại sự cố này không chỉ vì quan tâm đến lịch sử, nhưng còn muốn nêu bật tính phù phiếm của lòng nhiệt thành của đám đông. Lẽ ra bánh vật chất phải giúp họ hiểu Đức Kitô là ai. Họ không thấy phép lạ là một “dấu chỉ” chứng thực Đức Giêsu là Đấng Mêsia chân chính, nhưng là một xác nhận định kiến sai lầm của họ về Đấng Mêsia. Họ chỉ quan tâm đến bánh, chứ không quan tâm đến Đấng Mêsia ban bánh. Họ đã “đọc” dấu chỉ theo lược đồ riêng của họ, nên không nắm được ý nghĩa đích thật của dấu chỉ. Do đó, Đức Giêsu lánh mặt. Người muốn cho dân chúng hiểu rằng tư cách Mêsia của Người thuộc về một bình diện khác. Tuy nhiên, vị Thiên Chúa đi trốn sự chờ đợi của loài người đó lại có mặt ngay để giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi (x. 6,12.21).
+ Kết luận
Dấu chỉ giới thiệu Đấng Mêsia không phải chỉ có phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng là toàn bộ các sự kiện: phép lạ, niềm hứng khởi của đám đông và việc Đức Giêsu đi trốn. Muốn hiểu Đức Giêsu là ai, phải hiểu được sự tương phản giữa ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách hiểu của đám đông và ý nghĩa theo cách hiểu của Đức Giêsu. Ngoài ra, chúng ta phải hiểu mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi làm “dấu lạ” này: tấm bánh thuộc về một người phải trở thành lương thực cho tất cả mọi người. Chúng ta chỉ có thể có một thế giới mới, khi người ta từ khước tính ích kỷ, và chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu la chia sẻ của cải của mình cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
- Con số những người theo Đức Giêsu đạt tới đỉnh cao với việc làm cho bánh hóa nhiều: khoảng năm ngàn người đàn ông. Nhưng sau Bài giảng về bánh ban sự sống từ trời xuống, chỉ còn lại Nhóm Mười Hai (Ga 6,67). Chính Đức Giêsu hướng dẫn một tiến trình làm sáng tỏ. Người khẳng định rõ ràng những gì Người phải làm, chứ không làm một vài chuyện thỏa hiệp tùy theo sự chờ đợi của dân chúng. Tiêu chuẩn Người nhắm không phải là con số các kẻ đi theo Người, nhưng là sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó. Nếu chúng ta đặt nơi Người những chờ đợi sai lầm, chúng ta sẽ thất vọng về Người. Nếu ngược lai, chúng ta lắng nghe Người và đón nhận các ân huệ Người ban, Người sẽ đưa chúng ta đến sự sống viên mãn.
- Mọi sự bắt đầu nơi Đức Giêsu. Không ai yêu cầu Người cung cấp lương thực cho đám đông ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn cho người ta thấy như vậy: Người tự mình mà đến, không cần lệnh hoặc lời cầu xin, theo trách nhiệm Chúa Cha giao. Người hành động theo sáng kiến riêng, phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Người quyết định cho đám đông ăn; Người truyền lệnh và các môn đệ mời dân chúng ngồi xuống. Bánh thì chưa có, thế mà người ta đã phải ngồi xuống, có thứ tự và gần nhau, để được phục vụ, như trong một bữa tiệc. Kế đó Đức Giêsu đã cư xử như một người cha gia đình khi bắt đầu bữa ăn: cầm lấy bánh, đọc lời kinh chúc tụng, tạ ơn, rồi phân phát bánh. Từ số tài nguyên nghèo nàn, Người cho đám đông ăn no nê. Sau đó, Người ra lệnh cho các môn đe thu gom các mẩu thừa. Mỗi việc đều được Người bố trí và quyết định và đều diễn tả sứ mạng của Người.
- Đức Giêsu đã chứng tỏ khả năng giúp đỡ của Người là một khả năng không giới hạn: không chỉ có thể phục vụ các cá nhân hay các nhóm nhỏ, mà còn có thể đáp ứng nhu cầu của một một đoàn người rất đông. Không một trở ngại nào có thể giới hạn quyền lực của Người. Phần Người, Người có thể quy tụ tất cả mọi người lại quanh Người và cho mọi người được no thỏa; Người không loại trừ một ai, Người có đủ cho mọi người. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra cho loài người là: họ có biết trân trọng và muốn chấp nhận những gì Người sẵn sàng ban cho không?
- Đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua. Bởi vì Người đã xử sự một cách uy quyền và tự khả năng riêng, Người không chấp nhận để cho người ta áp đặt cho Người một vai trò trong đó họ có thể trục lợi theo ý riêng cua họ. Các việc quyền lực Người thực hiện càng to lớn, các hiểu lầm của dân chúng càng trầm trọng. Đức Giêsu tránh khỏi đám đông. Trong Bài giảng về bánh hằng sống, Người sẽ giải thích dấu lạ bánh hóa nhiều. Rõ ràng chúng ta không được quy định cho Người điều Người phải ban cho chúng ta. Chúng ta không được cư xử y như thể chúng ta biết rõ hơn Người điều gì tốt cho chúng ta. Đứng trước Đức Giêsu, Đấng uy quyền và tốt lành đến thế, chúng ta chỉ có thể bày tỏ hai thái độ, là cởi mở và tin tưởng.
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
Tương quan với sách Nhất Lãm
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn riêng của mình.
Dẫn nhập (cc. 1- 4)
Bài trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38; 21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với biến cố Xuất hành và với ông Môsê.
Dấu lạ (cc. 5- 13)
Ngay từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.
Có hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42- 44), hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định. Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh tươi của Tv 23,1- 2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.
Chúng ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ cho mọi thế hệ Kitô giáo.
Bài trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.
Từ bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Mục tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này, Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng. Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao ban cho mọi người.
89. Chú giải của Noel Quesson.
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều” và tiếp tục bằng “bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông “không tin”: Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích “những sự lạ” như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được “ý nghĩa” thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng (“Eucharistèsas” trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa” mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi- líp- phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: “Hãy cho họ có cái ăn”… cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống “thường nhật” với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: “Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!”.
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: “đói khát”, “hòa bình”, “công lý”, chúng ta thường trả lời: “Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta”. Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo “từ không mà có” (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: “Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?”. Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người “tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã “tạ ơn” (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống” tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường “cơn đói của thể xác” nhưng Người nghĩ đến “cơn đói Thiên Chúa” mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa “bánh” và “rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”.
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến”, chờ một “giải pháp lạ lùng” có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những “công thức ma thuật” sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ”, của “ngày mai vui tưới”. Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: “Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi “. Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ “chính trị” của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta “đóng khung” Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: “Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng”. Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con”, để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ “giải phóng” chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, “Người lui vào thanh vắng một mình”, Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu “Người là ai”, là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai “đói Thiên Chúa”? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66- 71).
90. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU
CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Bánh hóa nhiều dư dật.
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là “diễn từ về Bánh trường sinh” được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.
Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35- 44 và 8,1- 9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối.
“Sang bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu “lên núi ” và “ngồi” đó với các môn đệ.
Người “nước mắt lên” và nhìn “thấy đông đảo dân chúng” đến với mình.
- Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: “Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
- Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.
- Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể. Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê. Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng. Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
“Làm sao mà đủ cho 100 người được?” người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi. “Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ…”, ông Phipphê trả lời.
Cùng ra lệnh bảo làm:
- “Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh.
- “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Đức Giêsu bảo.
Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa:
- “Họ ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai.
- “Họ chất đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.
Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa.
Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành. Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người. Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào “ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13- 20; 11,55- 57).
Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: “Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây? (Ds 11,3). Nhưng X.Léon- dufour nhận xét thêm: “Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp “làm” đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay (“Lecture de l’Evangile selon saint Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 107).
Nếu Gioan thêm câu “Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy. Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.
Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể. A.Marchadour nhận xét: “Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ hành Thánh Thể.
Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo” (“L’evangile de Jean”, Centurion, trang 101)
- Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian “.
Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: “Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”. Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi “lên núi một mình”. Người không phải là “vi ngôn sứ” đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.
A.Marchadour kết luận: “Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình vì thế Gioan đã đẩy các môn- đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người” (O.C. trang 101)
BÀI ĐỌC THÊM.
- “Một dấu” chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết”
Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?
Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều “người môn đệ Chúa yêu” trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho.
Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt” mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (NL 8.3b).
Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ “Bẻ Bánh” tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.
Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước “một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm Vua- cứu- tinh vậy”.
- “Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể” (Mgr. L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”. DDB, trg 130).
Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.
- “Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”. (H.Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.76- 77).
Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu!
Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực “trường tồn đem lại phúc trường sinh” (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh ‘Thể”.
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Hai trăm đồng quan bánh cũng không đủ”: Số tiền quả là lớn vì một quan là tiền công của một ngày làm việc (Mt 20,2; Lc 10,35).
“Nơi ấy có nhiều cỏ”: Điều này xác nhận chi tiết nói rằng sắp đến lễ Vượt qua, vì lễ Vượt qua là thời kỳ duy nhất mà, sau những trận mưa mùa đông và trước cái nắng gay gắt của mùa hạ (bắt đầu từ tháng 5), người ta mới tìm thấy một ít cỏ ở Palestin.
“Bấy giờ Người trốn đi”: Như sẽ nói trong phiên tòa Rôma rằng vương quốc Người không thuộc về thế gian (18,36), Chúa Giêsu lúc này từ chối đảm nhận một vương quyền theo như quần chúng quan niệm. Đó đã là một sự đoạn tuyệt với những quan niệm cách chung và thiên sai phàm trần
KẾT LUẬN
Đám dân đông đảo đến cùng Chúa Giêsu để có của ăn, tượng trưng cho hết những kẻ đói khát về phần thiêng liêng đang “đến với Người” qua đức tin để xin người thoa dịu cơn đói của họ. Ngoài Người ra, không ai có thể cung cấp cho đám đông ấy thứ bánh mà họ đang trông chờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
- Trong đoạn hôm nay, ta khám phá ra một sự ám chỉ thường xuyên đến cuộc Xuất hành: việc vượt qua biển Galilê (hồ Tibêria) nhắc đến lần vượt qua Biển đỏ; bánh hóa nhiều gợi nhớ manna; những tiếng kêu ca của người Do thái (cc.41- 43.52.60- 61.66) nối tiếp những cuộc nổi loạn của người Hy bá chống lại Môisen trong hoang địa. Về phần ngọn núi, nó là phóng bản của núi Sinai. Sự nhấn mạnh rằng lễ vượt qua gần tới (c 4) đánh dấu vị trí của biến cố này đối với quá khứ (Lễ Vượt qua kỷ niệm Xuất hành), đối với hiện tại (lễ Vượt qua này là một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Kitô, và đối với tương lai (trong dịp lễ Vượt qua Do thái này, Chúa Giêsu sửa soạn cho một lễ Vượt qua mới, cho việc thiết lập Thánh Thể tại nhà Tiệc ly và cho việc cử hành nó cách mới mẻ trong Giáo Hội bằng Thánh lễ.
- Từ một hoàn cảnh cụ thể, Chúa Giêsu đòi hỏi các sứ đồ một sự vâng phục của đức tin. Lương tri tự nhiên khiến Người hỏi Philipphê: Ta mua được đâu bánh cho họ ăn? Rồi Người trả lời: Hãy cho họ ngồi xuống. Các sứ đồ thi hành lệnh của Thầy, và chắc hẳn họ cũng tự hỏi cái gì sắp xảy đến. Có lẽ họ nghĩ rằng: với Thầy họ thì không nên tìm hiểu. Gioan viết: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho những người dùng bữa”. Nhưng chắc chắn Người đã nhờ các sứ đồ làm công việc phân phát ấy. Thánh Mátcô thì bảo: “Người ban tiếp cho các môn đồ để họ thết đãi người ta” (6,41). Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đồ, trước sự bất khả, đã chống lại ý Chúa Giêsu? Có thể họ đã không phải là những cộng tác viên với công việc thần linh của Người. Thành thử ta thấy sự vâng phục của đức tin dẫn tại đâu. Nó làm cho kẻ tin trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa trong những công việc vô cùng vượt quá phương tiện loài người. Chúng ta có biết tuân hành những bổn phận mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là khi những công việc ấy vượt quá khả năng chúng ta?
- Dù không bàn đến tính cách kỳ diệu của việc hóa bánh, người ta tuy vậy cũng phải lưu ý rằng phép lạ đã chẳng xảy ra từ số không. Chúa Giêsu đã cần đến năm chiếc bánh và hai con cá do một em bé nhường lại như là chất liệu đầu tiên xét một cách nào đó. Ngày nay cũng vậy, tất cả mọi của cải dư dật, để có thể thấu đến nhiều người, thì trước tiên đòi buộc một sự để chung các tài nguyên đôi khi lúc đầu rất ít ỏi. Cái làm no nê thỏa mãn mỗi một người trong chúng ta, không phải là số lượng sản vật tích lũy mà mỗi người chiếm hữu cho mình, nhưng là ban phát và chia sẻ các sản vật đó cho tha nhân và chính việc ban phát chia sẻ này làm tăng giá trị và hương vị cho của cải, làm lộ ra cứu cánh đích thật của chúng: nuôi dưỡng sự thông hiệp của chúng ta với tất cả mọi người. Chúng ta kinh nghiệm điều này trong nhiệm tích Thánh Thể. Sẽ không có việc hóa bánh ra nhiều về phương diện phẩm cũng như không có bữa ăn thỏa mãn còn đói của chúng ta nếu chính chúng ta không mang tới bánh riêng của mình và chia sẻ nó một cách huynh đệ. Nhưng chỉ Lời Chúa trong Kinh Thánh mới có thể biểu dương và tạo ra những chiều kích vô biên của tình huynh đệ ấy.
- Vẫn biết Chúa Giêsu là vua, và Người sẽ khẳng định điều có trước Philatô (18,37), nhưng vương quyền của Người không thuộc về thế gian này (18,36) và Người không chịu để mình bị bắt lấy, bị tôn phong và thống trị như một quân vương trần thế. Người đến trong thế gian để chỉ làm chứng cho sự thật và thông ban sự thật cho chúng ta, không phải để thỏa mãn lòng khát vọng của cải và quyền lực của chúng ta. Người biết rằng Người sẽ lừa gạt chúng ta khi không cho chúng ta một thức ăn hư nát (x.6,26); người thấy phải giác ngộ chúng ta khỏi ý niệm sai lạc của chúng ta về đấu chỉ mà Người vừa thực hiện. Trong lúc này, Người chỉ có thể làm được việc đó bằng cách trốn đi; là Đấng đã hóa bánh ra nhiều, Người vẫn bất lực đối với những con tim khờ khạo và những dạ dày quá nô nê. Nếu chúng ta không nghe tiếng Người, thì người không muốn và không thể ngự trị trên chúng ta. Vương quyền của Người hệ tại chỗ giải phóng chúng ta nhờ sự thật (Ga 8,31- 36). Nhưng, ngay cả khi tung hô Người như là vua chúng ta, thì chúng ta vẫn thường quá ao ước làm nô lệ của ăn trần thế và bắt Người phục vụ cơn đói của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta sẽ mất công năn nỉ Người, vì hãy biết rằng chúng ta sẽ không thể bắt Người làm vua chúng ta ta trái với ý Người được; Người sẽ chạy trốn chúng ta và chúng ta sẽ không bao giờ bắt Người lài được nữa, trừ phi chúng ta thực sự lắng nghe Người với tất cả tâm hồn chúng ta (6,63). Và bấy giờ Người sẽ tự biến thành Bánh bổ dưỡng nuôi chúng ta vượt qua đời này, sẽ thành Nước hằng sống, ánh sáng và Sự sống của ta.
- Chúng ta đang sống trong một thời đại kỹ thuật mà xét trong toàn bộ chứ không xét trong chi tiết, là một thời đại do ý Thiên Chúa muốn. Vậy nếu chúng ta con thời đại chúng ta như một việc hóa bánh ra nhiều, thì chúng ta phải bảo rằng Tin Mừng hôm nay còn có nhiều điều muốn dạy chúng ta về thời đại kỹ thuật của chúng ta và về cuộc sống hoàn toàn cá nhân của chúng ta. Nếu không chúng ta cũng có thể thuộc vào số những kẻ đã góp phần một cách rất mầu nhiệm vào tội lỗi của thời đại này, cho dầu tội đó không có tên gọi trong các công thức xét mình của sách lễ chúng ta. Mỗi người đều góp phần tạo nên tinh thần của thế kỷ mình đang sống Và mỗi người đều có bổn phận sống trong thời này làm sao cho nó thành một thế kỷ mà trong đó Thiên Chúa có thể tin tưởng vào vẻ trong sáng của tâm trí chúng ta cũng như vào tình yêu của tâm hồn chúng ta đối với Ngài, và có thể ban cho chúng ta chính bánh của đời sống trần gian, ngõ hầu trong hoang địa của đời sống này, chúng ta nhận lãnh được bánh của sự sống vĩnh cửu đến thiên thu.
92. Chú giải của William Barclay
BÁNH VÀ CÁ
Có những lúc Chúa Giêsu muốn tránh khỏi đám đông. Ngài bị căng thẳng liên tục nên cần được nghỉ ngơi. Hơn nữa, đôi lúc Ngài cần ở riêng với các môn đệ để hướng dẫn họ hiểu biết sâu nhiệm hơn về chính Ngài. Ngài cũng cần có thì giờ để cầu nguyện. Trong cơ hội đặc biệt này, tốt nhất là tránh đi xa trước khi xảy ra sự va chạm với các người cầm quyền, vì thời điểm xung đột cuối cùng vẫn chưa đến.
Chúa Giêsu xuống thuyền và ra đi. Từ Caphacnaum qua bên kia bờ biển Galilê cách chừng bốn dặm. Dân chúng đã chứng kiến những điều lạ lùng Ngài làm, nên họ vội vã chạy vòng theo dọc bờ qua mé bên kia, vì rất dễ thấy hướng thuyền Chúa đi. Sông Giođan chảy vào mạn bắc biển hồ Galilê. Cách đó hai dặm về phía thượng lưu, có chỗ cạn. Gần chỗ cạn này, có một làng, gọi là Bétxaiđa để phân biệt với làng Bétxaiđa khác ở Galilê, và Chúa Giêsu đang nhắm đi đến điểm ấy (Lc 9,10). Gần Bétxaiđa có một cách đồng nhỏ cạnh bờ biển, lúc nào cũng có cỏ xanh, tên là Enbatigia. Đó là nơi phép lạ này xảy ra.
Thoạt tiên Chúa Giêsu đi lên ngọn đồi phía sau cánh đồng và ngồi với các môn đệ. Đám đông bắt đầu xuất hiện. Họ đã đi thật nhanh, vượt qua chín dặm đường vòng lên phía trên biển hồ, qua chỗ sông cạn mới đến nơi. Gioan cho biết lúc ấy đã gần đến Lễ Vượt Qua, nên các nẻo đường chắc có đông người bình thường. Có thể là nhiều người đang theo con đường ấy lên thành Giêrusalem. Nhiều khách hành hương từ Galilê lên phía bắc, vượt chỗ sông cạn, qua Bêrê đi xuống phía nam, rồi trở lại bên này sông Giođan gần Giêricô để đến Giêrusalem. Con đường đó dài hơn, nhưng tránh được vùng đất của dân Samari mà họ rất ghét. Dường như đám đông này càng ngày càng đông thêm, do số khách hành hương đang trên đường đi dự Lễ Vượt Qua.
Khi thấy đoàn người đông đảo ấy, Chúa Giêsu động lòng thương xót. Họ đang đói và mệt, phải cho họ ăn. Ngài quay sang Philipphê là điều tự nhiên, vì quê ông ở Bétxaiđa (Ga 1,44), ông biết rõ địa phương này. Ngài hỏi ông có thể đi tìm thức ăn ở đâu. Câu trả lời của ông đầy thất vọng, ông bảo cho dù có đi tìm được thức ăn đi nữa cùng phải tốn hơn hai trăm đồng mới đủ cho đám đông đó, mỗi người một ít. Một đồng là tiền lương một ngày của một công nhân. Theo tính toán của ông, phải có hơn sáu tháng lương của một công nhân mới dám nghĩ đến chuyện cho một đám đông như thế ăn mỗi người một chút.
Bấy giờ, Anrê xuất hiện. Ông đã phát hiện được một cậu bé có năm chiếc bánh lúa mạch với hai con cá. Chắc cậu bé đi chơi và mang theo các món ấy để ăn. Rồi như mọi trẻ nhỏ, cậu bị lôi cuốn nhập theo đám đông. Anrê có tính tốt là thường đưa người khác đến giới thiệu với Chúa.
Thức ăn cậu bé mang theo chẳng bao nhiêu. Bánh lúa mạch là loại bánh rẻ tiền nhất, bị coi thường. Trong kinh Mishnah có một điều về lễ vật mà một người đàn bà phạm tội ngoại tình phải dâng. Dĩ nhiên, người đó phải dâng lễ chuộc tội. Thêm vào đó là lễ chay gồm bột, rượu và dầu trộn lẫn với nhau. Thông thường bột dùng là bột mì, nhưng theo luật định cho trường hợp dâng lễ vật vì tội ngoại tình, thì bột có thể là bột lúa mạch, là thức ăn gia súc, và tội ngoại tình của người đàn bà là tội của súc vật. Bánh lúa mạch là bánh của người thật nghèo.
Còn cá chắc chẳng lớn hơn cá nục. Cá muối xứ Galilê vốn nổi tiếng khắp Roma. Vào thời đó, cá tươi là xa xỉ phẩm, ít có, vì không có phương tiện chuyên chở đi xa và khó bảo quản tươi được. Những loại cá nhỏ như cá nục thì nhiều vô kể trong biển Galilê. Người ta đánh bắt, sau đó đem muối. Cậu bé cũng có cá muối nhỏ để nuốt cho trôi khẩu phần bánh lúa mạch khô khan.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho đám đông ngồi xuống. Ngài cầm lấy bánh và Ngài chúc phúc. Khi hành động như thế là Ngài đã làm như một người cha trong gia đình. Lời tạ ơn mà Ngài dâng lên là câu thông thường vẫn được người Do Thái sử dụng trong mỗi nhà: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con tạ ơn Ngài, Đấng đã khiến đất sinh ra bánh”. Đám đông được ăn no nê. Ngay đến từ no nê cũng rất gợi ý. Theo nguyên văn tiếng Hy Lạp cổ, chữ đó chỉ việc cho súc vật ăn rơm, và khi dùng cho người có nghĩa là ăn no đến ngán.
Khi dân chúng đã no rồi, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thu nhặt những mẩu bánh vụn còn thừa. Tại sao lại có các mẩu bánh vụn? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì đó cho các đầy tớ giúp việc. Phần thừa đó được gọi là Peah, chắc đám đông đó đã để lại phần thường lệ cho số người đã phục vụ họ trong bữa ăn.
Số thức ăn còn dư thừa, người ta đã lượm được mười hai giỏ đầy. Chắc mỗi môn đệ đều có một giỏ (kophinos). Các giỏ ở đây có hình giống cái chai, người Do Thái luôn đem theo cái giỏ này khi đi đường. Sách Juvenal (3,14; 6,542) hai lần nói về “người Do Thái với cái giỏ và cuộn rơm” (gói cỏ khô dùng làm đệm nằm, vì rất nhiều người Do Thái sống đời du mục). Người Do Thái với chiếc giỏ bất ly thân là một hình ảnh rất đặc trưng. Một mặt vì cá tính hay thu nhặt, mặt khác vì họ phải đem theo khẩu phần của mình để giữ đúng luật Do Thái về vấn đề tinh sạch và không tinh sạch. Với các thức ăn còn thừa, mỗi môn đệ đều nhặt đầy giỏ mình. Thế là cả đám đông đã được ăn no nê, dư dật.
Ý NGHĨA CỦA MỘT PHÉP LẠ
Có ba cách người ta nhìn và giải thích phép lạ này.
- Chúng ta có thể xem phép lạ này là một việc có thực, xảy ra đúng như nghĩa đen là Chúa Giêsu đã làm cho bánh và cá của em bé tăng lên cho hơn năm ngàn người ăn và còn dư đến mười hai giỏ. Câu 5 cho biết khi nhìn thấy đoàn dân đông đảo đến cùng mình, Chúa Giêsu đặt vấn đề thức ăn cho họ với Philipphê ngay. Phần tường thuật trong Phúc Âm Mc 6,34- 38 ghi lại: Chúa động lòng thương “vì họ như chiên không có người chăn”. Ngài dạy dỗ, lo cho họ thức ăn tâm linh xong, lại truyền cho các môn đệ “anh em cứ bảo người ta ngồi xuống”. Lòng trắc ẩn sâu xa trong Chúa Kitô không thể chối từ hay lơ là một nhu cầu thể chất và tâm linh lớn lao của đoàn dân lúc bấy giờ. Do đó phép lạ này xảy ra như dân chúng đã chứng kiến, và Gioan ghi lại trong câu 14.
Tuy nhiên, có người cũng đặt câu hỏi, tại sao Chúa Giêsu từ chối hóa đá thành bánh trong lúc ma quỷ cám dỗ (Mt 4,3- 4). Thật ra, Chúa Giêsu làm phép lạ để bày tỏ vinh hiển và quyền năng Thiên Chúa, và đáp ứng nhu cầu đích thực của một người hoặc một đám đông dân chúng. Chúa không ích kỷ để chỉ thấy lợi riêng. Ngài đang bị đói sau 40 ngày không ăn. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần bén nhạy, nhìn thấy rõ vấn đề, khi làm bất cứ công tác hoặc chương trình gì: (a) Công tác đó có tôn vinh, làm sáng danh Chúa không? (b) Nhằm thỏa đáng nhu cầu lớn lao của công việc nhà Chúa, của cộng đoàn, hay chỉ vì lợi ích riêng của cá nhân, của đoàn thể mình, hoặc chỉ làm “để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”. Từ câu hỏi trên, chúng ta cũng có thể giải thích hai cách khác nhau sau đây:
- Đây có thể là bữa Tiệc Thánh. Vì trong phần kế tiếp lúc nói về ăn Thịt và uống Máu Ngài, ngôn ngữ Chúa dùng đúng là ngôn ngữ của bữa Tiệc Thánh. Có thể trong bữa ăn này, mỗi người chỉ nhận một mẩu bánh nhỏ như bánh của Tiệc Thánh, và sự cảm xúc về sự hiện diện của Chúa Giêsu cùng sự thực hữu của Thiên Chúa đã biến những miếng bánh thành thức ăn bổ dưỡng cho tấm lòng và linh hồn của họ, như trong Tiệc Thánh chúng ta ngày nay.
- Cũng có một lối giải thích thật dễ thương khác như sau. Khó có thể nghĩ rằng đám người theo Chúa suốt mười lăm cây số mà không chuẩn bị lương thực gì. Nếu có thêm những người hành hương nữa thì chắc chắn họ phải có đem theo bánh để ăn riêng, chẳng ai muốn đưa bánh mình ra. Lúc ấy Chúa Giêsu với nụ cười trên môi, đưa số bánh của Ngài và các môn đệ ra, Ngài tạ ơn Thiên Chúa rồi bẻ ra phân chia cho mọi người. Đám đông thấy thế cảm động, ai nấy đều đưa thức ăn của mình ra. Cuối cùng thì mọi người đều được ăn no nê và còn dư nữa. Có thể đây là phép lạ trong đó sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đám động ích kỷ thành một tập thể những người biết chia sẻ cho nhau. Câu chuyện này tượng trưng cho một phép lạ lớn hơn, đó là phép lạ thay đổi lòng người.
Dù hiểu thế nào đi nữa thì cũng cần phải lưu ý đến một số nhân vật.
- Anrê: có sự tương phản giữa Anrê và Philipphê. Philipphê nói: “Hoàn cảnh thật là tuyệt vọng, chẳng có thể làm gì được cả. “Anrê thì nói: “Để tôi coi có thể làm gì, và phần còn lại tôi trao cho Thầy mình làm”. Chính Anrê đã đưa cậu bé đến Chúa Giêsu. Chúng ta không thể biết được sẽ có gì xảy ra khi đưa một người nào đó đến với Chúa Giêsu. Nếu cha mẹ giáo dục con cái mình trong sự nhận biết, yêu thương, kính sợ Chúa, biết đâu một ngày nào đó đứa con sẽ có thể làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa và loài người. Khi một giáo lý viên đem một em bé đến với Chúa Giêsu, không ai biết được một ngày kia, em bé ấy sẽ làm được gì cho Chúa Giêsu và Hội Thánh. Có một câu chuyện kể rằng, một giáo lý viên người Đức mỗi sáng bước vào lớp học của mình đều trịnh trọng ngả mũ chào cả lớp. Có người hỏi tại sao ông làm như thế, ông đáp: “Có ai biết được một ngày nào đó, một trong các em đây sẽ làm nên công trạng”. Ông đã nói đúng.
- Cậu bé: Cậu bé chẳng có gì nhiều để dâng cho Chúa. Nhưng với lễ vật đơn sơ của cậu, Chúa Giêsu đã có chất liệu để thực hiện phép lạ. Nếu cậu cứ giữ lại bánh và cá cho riêng mình, thì sao?
Chúa Giêsu cần những gì chúng ta đem đến cho Ngài. Ngài không cần mỗi chúng ta mang đến thật nhiều, nhưng cần những gì chúng ta đang có. Có thể là thế giới đã không nhận được phép lạ này đến phép lạ khác, chiến thắng này để chiến thắng khác, chỉ vì chúng ta đã không chịu đem đến cho Chúa những gì mình có, không chịu đến với Chúa bằng chính con người hiện tại của mình. Nếu chúng ta bằng lòng dâng chính mình trên bàn thờ để phục vụ Chúa Giêsu thì Ngài dùng chúng ta. Có thể chúng ta hối tiếc và hổ thẹn vì mình không có gì nhiều để dâng, hối tiếc và hổ thẹn như vậy là đúng. Nhưng chúng ta không có lý do gì để từ chối dâng cho Ngài những gì mình có. Dù ít, bao giờ cũng thành nhiều trong tay Chúa.
ĐÁP ỨNG CỦA ĐÁM ĐÔNG
Đến đây, chúng ta thấy phản ứng của đám đông. Dân Do Thái đang trông chờ vị ngôn sứ mà Môsê đã hứa. “Từ giữa anh em ngươi, Đức Chúa và là Thiên Chúa ngươi sẽ lập nên một Đấng ngôn sứ như ta, các ngươi hãy theo Đấng ấy”. (Đnl 18,15). Dân Do Thái đang trông đợi Đấng Mêsia, Đấng được chọn của Thiên Chúa. Qua cả lịch sử, họ đã chờ đợi và đến bây giờ vẫn còn chờ đợi. Lúc ấy tại Bétxaiđa Giulia, họ đã sẵn sàng thừa nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ đã được hứa ban, và biểu tình tung hô, tôn Ngài lên nắm chính quyền. Nhưng chẳng bao lâu sau, một đám đông khác lại reo hò: “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!” Tại sao lúc đó đám đông lại hoan hô Chúa Giêsu?
Họ nhiệt tình ủng hộ Chúa Giêsu vì Ngài đã ban điều họ muốn. Ngài đã chữa bệnh tật, đã cho ăn no nê nên họ muốn tôn Ngài lên làm lãnh tụ. Ngài ta có thể mua được lòng trung thành theo cách đó, một sự trung thành lệ thuộc vào ân huệ, tặng vật, hay nói rõ hơn là bằng của hối lộ. Người ta có thể mua được tình thương theo cách đó, một tình thương bởi thức ăn thức uống. Trong những giây phút cay cú nhất, tiến sĩ Johnson đã định nghĩa lòng biết ơn là “một cảm thức sinh động về những ân huệ mà người ta hy vọng sẽ còn được nhận thêm”.
Thái độ của đám đông làm chúng ta ghê tởm. Nhưng chúng ta có hơn họ? Mỗi chúng ta muốn được an ủi khi đau buồn, muốn có sức mạnh khi gặp khó khăn, muốn được bình an trong cơn xáo trộn, muốn được sự trợ giúp lúc đời mình xuống dốc, thì chẳng hề có ai kỳ diệu bằng Chúa Giêsu, và chúng ta đến nói chuyện với Ngài, đi cùng Ngài, mở lòng mình ra cho Ngài. Nhưng khi Ngài đến cùng chúng ta với một đòi hỏi hy sinh, với một thách thức nỗ lực, với đề nghị vác thập giá, thì bấy giờ chúng ta chẳng muốn liên hệ gì với ngài. Nếu tự xét lòng mình, chúng ta sẽ thấy mình cũng chỉ yêu mến Chúa Giêsu vì những gì mình nhận được từ Ngài, còn khi Ngài đến với chúng ta bằng những thách thức, những đòi hỏi quan trọng, chúng ta lờ đi, có khi còn tỏ ra oán ghét, chống lại sự quấy rầy và đòi hỏi của Ngài.
Một lý do nữa để họ tung hô Chúa Giêsu là vì họ muốn lợi dụng Ngài cho mục đích riêng của họ, uốn nắn Ngài theo các ước mơ của họ. Họ đang trông chờ Đấng Mêsia theo ý riêng của họ. Họ tìm một Đấng Mêsia để làm vua và làm nhà chinh phục. Đấng đó sẽ đặt chân lên cổ chim phương hoàng và đánh đuổi người Roma khỏi xứ Palestine, sẽ thay đổi tình thế của Israel từ một nước bị trị thành một cường quốc thế giới, sẽ giải phóng họ khỏi số phận bị chiếm đóng để nâng lên thành một dân tộc đi chiếm đóng nhiều xứ khác. Họ đã chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm và họ nghĩ: “Người này có quyền phép kỳ diệu lạ lùng. Nếu chúng ta ép được ông theo các giấc mơ, kế hoạch của chúng ta thì mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra theo như điều chúng ta muốn”. Nếu thành thật, chắc họ đã phải thú nhận họ muốn lợi dụng Chúa Giêsu.
Một lần nữa, chúng ta có gì khác họ chăng? Khi chúng ta kêu cầu Chúa, có phải là để được sức lực tiếp tục thực hiện các mưu đồ, ý định của mình không? Hay là để có sự khiêm nhường, vâng phục, chấp nhận các chương trình, ý muốn của Ngài? Lời cầu nguyện của chúng ta là: “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện những điều Ngài muốn con làm” hay “Lạy Chúa, xin ban cho con năng lực để thực hiện điều con muốn làm?”.
Đám đông dân chúng theo Chúa lúc đó vì Ngài đã ban điều họ muốn, và họ ao ước sử dụng Ngài theo mục đích riêng của họ. Thái độ ấy ngày nay vẫn còn. Chúng ta muốn các tặng vật của Chúa mà không muốn thập giá, chúng ta muốn sử dụng Chúa thay vì để Ngài sử dụng chúng ta.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
“Xin Cha cho chúng con hôm nay LƯƠNG THỰC hằng ngày…”. Đó là một trong những điều thiết yếu trong lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta qua Kinh Lạy Cha (Mt 6:9- 13; Lc 11:2- 4).
Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Điều đó cho thấy chuyện ăn uống là điều cần thiết và cơ bản nhất để con người khả dĩ duy trì sự sống. Trước tiên, người ta cần ăn no và mặc ấm; sau đó mới có thể phấn đấu để ăn ngon và mặc đẹp. Vả lại, chuyện ăn uống được người ta coi là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của một con người bình thường. Trong bốn thứ cần học khi vào đời, ăn uống là thứ cần phải học đầu tiên: Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Ăn uống cũng được chú ý khi người ta có “văn hóa ẩm thực”. Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt, như con dao hai lưỡi vậy. Miếng ăn thực sự cần thiết nhưng cũng có thể là vinh hoặc nhục: “Người trí quý cái sức, kẻ dại quý cái ăn”. Ăn không lượng thì hại sức khỏe, ngủ không cân thì hại trí tuệ. Tục ngữ có câu: “Ăn được, ngủ được là tiên; không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo!”. Ăn để có sức khỏe, có sức khỏe thì an tâm sống: “Sức khỏe là vàng”.
Chúa Giêsu cũng rất thực tế. Ngài chăm lo những gì cần thiết và cơ bản nhất: Ăn uống. Ngài luôn quan tâm người nghèo, tại nhà ông Si- môn Cùi ở Bêtania, khi có một phụ nữ xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm cam tùng hảo hạng, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8; Mt 26:11; Mc 14:7). Và rồi Thánh Giacôbê cũng khuyên chúng ta “phải kính trọng người nghèo” (Thư Thánh Giacôbê, chương 2).
Người khổ chưa chắc là người nghèo. Nhưng người nghèo thì chắc chắn là người khổ – thậm chí còn hóa khốn, vì luôn bị người đời khinh miệt, nhìn bằng nửa con mắt, bị xa lánh vì sợ “hãm tài”. Vả lại, đáng quan ngại là vì “lý lẽ của người nghèo không được ai nghe thấy” (Sử gia Thomas Fuller, 1608- 1661). Có lẽ vì vậy mà người Việt thường “ghép đôi” hai tình trạng này thành một: Nghèo khổ. Quả thật, “sự nghèo đói là hình thức bạo lực tồi tệ nhất” (Mahatma Gandhi, 1869- 1948).
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người nghèo, vì thế họ luôn tin tưởng và nhủ thầm: “Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:6). Đồng thời họ luôn tâm niệm: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo, vì Chúa giải thoát con khỏi mọi gian nguy, và con đã dám nghênh bọn địch thù” (Tv 54:8- 9).
Chuyện ăn uống rất bình thường mà lại quan trọng. Thật vậy, chuyện ăn uống còn liên quan vấn đề kinh tế và chính trị, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Hiền triết Trang Tử (Zhuang Zhou hoặc Zhuangzi, 365- 290 trước công nguyên) đã nhận định: “Cản trở con người sống vui vẻ, tước đoạt khả năng dệt vải, may mặc, cày cấy, ăn uống, mà lại tô vẽ nó như là nhân nghĩa, đó là tội ác của thánh nhân”. Đó là một dạng giả nhân giả nghĩa, Chúa Giêsu rất ghét loại người này và Ngài đã 8 lần nguyền rủa họ là “đồ khốn” (Mt 23:13- 29) và còn gọi họ là “đồ ngu si mù quáng”. Nhức óc quá chừng!
Trình thuật 2 V 4:42- 44 đề cập chuyện ăn uống. Đó là chuyện về “nồi cháo độc”. Đã đói meo mà lại gặp loại chao này thì… chết sớm! Kinh Thánh cho biết: Khi ông Ê- li- sa trở về Ghin- gan, nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ. Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại thì hái trái dưa đắng ấy đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!”. Thế là họ không thể ăn được nữa. Nhưng ông Ê- li- sa bảo cứ đem bột đến cho ông. Ông bỏ bột vào và bảo múc ra cho mọi người ăn. Lạ thay, trong nồi không còn chất độc nữa. Phép lạ nhãn tiền!
Tiếp theo là “phép lạ hoá bánh ra nhiều”. Kinh Thánh kể rằng có một người từ Ba- an Sa- li- sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa. Đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê- li- sa bảo đem phát cho người ta ăn. Tiểu đồng nói chỉ có chừng nấy thì không thể đủ cho cả trăm người ăn được. Nhưng ông bảo cứ phát cho người ta ăn, vì Đức Chúa đã phán: “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Tiểu đồng vâng lời đem phát cho người ta. Họ đã ăn mà vẫn còn dư, đúng như lời Đức Chúa đã tuyên phán. Lại một phép lạ nhãn tiền nữa. Kỳ diệu quá!
Đối với Thiên Chúa, “không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37), Ngài có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu ông Áp- ra- ham kia mà (Mt 3:9). Vâng, với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Tác giả Thánh Vịnh đã tin nhận như vậy nên đã dâng lời xưng tụng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10- 11).
Thiên Chúa biết rõ phàm nhân cần có cái ăn để duy trì sự sống, thế nên Ngài luôn tạo cơ hội làm việc để con người mưu sinh. Không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, chắc chắn như vậy. Với kinh nghiệm sống, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ với chúng ta qua lời cầu nguyện chân thành: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người” (Tv 145:15- 18). Thiên Chúa chẳng chấp lách gì đối với những cái đầu nhỏ mọn, thiển cận và nông cạn của phàm nhân chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta biết khiêm nhường và chân thành cầu xin thì mọi sự đều đâu vào đó. Mà có làm vậy cũng chỉ lợi ích cho chúng ta mà thôi, chứ điều đó cũng chẳng thêm gì cho Ngài.
Với kinh nghiệm đầy mình, nhưng là kinh nghiệm “xương máu”, Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4:1- 2). Những lời lẽ rất chân thành, nhưng NGHE là một chuyện, BIẾT là một chuyện, LÀM lại là chuyện khác. Những khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!
Thánh Phaolô động viên thêm: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:3- 6). Những cái “một” rất kỳ diệu, đòi buộc chúng ta phải NÊN MỘT, vì thế mà không thể ba bè, năm nhóm hoặc bảy phe, không thể tiêu cực như chúng ta vẫn có “xu hướng” ngay trong các gia đình, các hội đoàn, các cộng đoàn, các giáo xứ,… Chắc chắn kiểu phe nhóm như vậy là đối lập với Thiên Chúa! Tại sao? Vì chúng ta cùng ĂN MỘT TẤM BÁNH – Thánh Thể của Đức Kitô.
Trình thuật Ga 6:1- 15 nói về phép lạ hoá bánh ra nhiều mà Đức Giêsu đã làm (Mt 14:13- 21; Mc 6:30- 44; Lc 9:10- 17). Trong phép lạ này có sự hiệp nhất: Đủ loại người đồng tâm nhất trí tụ họp nhau theo Chúa để cùng NÊN MỘT và được nghe lời khôn ngoan của Ngài. Thế nên Ngài thương họ lắm, thương biết sao cho vừa!
Địa danh là bên Biển Hồ Ga- li- lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti- bê- ri- a. Hôm đó có đông đảo dân chúng đi theo Chúa Giêsu, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho những kẻ đau ốm. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Thời gian đó sắp đến lễ Vượt Qua, đại lễ của người Do- thái. Ngước mắt lên, Ngài nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài không bất ngờ mà Ngài thấy thương họ. Ngài hỏi ông Phi- líp- phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Ngài nói thế là để thử ông, chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi.
Nghe vậy, ông Phi- líp- phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Các ông vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi! Phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh cho họ ăn sao? Tiền đâu mà mua chứ!”. Hai trăm quan tiền là số tiền lớn, dù chưa bằng số tiền giá chiếc bình dầu thơm mà người phụ nữ tội lỗi xức chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi ở làng Bêtania: Ba trăm quan tiền (Mt 26:6- 13; Mc 14:3- 9; Ga 12:1- 8), nhưng lại gấp nhiều lần số tiền ông Giuđa đã bán Thầy trong đêm định mệnh năm xưa: Ba mươi đồng (Mt 26:15).
Lúc đó, không biết ông Phêrô nhanh tay lẹ mắt thế nào mà ông liền thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”. Đức Giêsu cười: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chả biết Thầy tính mần chi, nhưng các ông cũng vâng lời Thầy, bảo người ta ngồi xuống cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Tính cả phụ nữ và trẻ em có thể lên tới cả chục ngàn người.
Mọi người đã yên vị, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệthu lại những miếng thừa kẻo phí. Chúa Giêsu rất tiết kiệm, không hề lãng phí, điều này nhắc chúng ta phải biết quý miếng ăn, biết nghĩ đến những người đang đói khổ.
Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Phần dư còn nhiều hơn phần gốc. Quá đỗi kỳ diệu! Thế nên mọi người rỉ tai nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”. Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Lại một bài học đắt giá nữa: Đừng coi trọng danh vọng, đừng tự tôn, đừng thấy người ta khen mà tưởng mình “ngon” hơn hoặc tài giỏi hơn người khác. Quan nhất thời, dân vạn đại. Tất cả sẽ qua đi, ngay cả những gì mình sở hữu cũng không thuộc về mình. Cuộc đời cũng chỉ còn lại tình yêu thương nhờ biết thương xót, ba nhân đức đối thần cũng “cô đọng” chỉ còn Đức Mến (Đức Ái) mà thôi.
Việc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều là “dấu chỉ” báo trước về Bí tích Thánh Thể, đồng thời cho chúng ta biết rằng nhu cầu ăn uống liên quan chuyện sinh tồn – cả thể lý và tâm linh. Biết chăm lo cho mình thì cũng phải biết chăm lo cho người khác: Yêu người như yêu mình. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà quan tâm nhu cầu thiết yếu của người khác. Vâng, quả thật là “có thực mới vực được đạo”. Thể lý yếu đuối có thể ảnh hưởng tinh thần, trí tuệ và tâm linh. Thể xác cần ăn uống để sống khỏe mạnh thì linh hồn cũng cần nuôi dưỡng để sinh tồn.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con không dám xin Ngài ban cho con những điều con muốn, mà con xin được can đảm chấp nhận và mau mắn thay đổi theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin ban cho mọi người có đủ lương thực hàng ngày, để nhờ đó mà họ có thể sống xứng đáng kiếp làm người, đồng thời họ có thể an tâm phụng sự Ngài hết linh hồn và hết sức lực. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
THỎA THUÊ (CN XVII TN- B – Tv 145:15- 18; Ep 4:1- 6; Ga 6:1- 15)
Muôn loài ngước mắt trông lên Chúa thương lo liệu cho ăn đúng giờ. Khi Ngài rộng lượng ban cho. Mọi sinh vật được thoả thuê muôn vàn. Lối đường Thiên Chúa chí nhân. Mọi việc Người làm đầy ắp yêu thương. Những ai đau khổ đoạn trường. Chúa luôn gần gũi đỡ nâng đêm ngày
Kiên tâm cầu khẩn Chúa hoài. Ngài không nỡ để lạc loài mãi đâu . Hãy luôn khiêm tốn trước, sau. Hiền từ, nhẫn nại, thương yêu hết lòng. Quyết tâm chịu đựng, chờ mong. Sẽ được no lòng, thỏa khát tâm linh. Hằng ngày có Bánh Ân Tình. Thánh Thể tốt lành, đừng có quên ăn!. Chúa Giêsu vẫn ân cần. Muốn cho ai cũng được luôn no lòng TRẦM THIÊN THU
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13- 21; Mc 6,31- 34; Lc9,10- 17; Ga 6,1- 13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32- 38; Mc 8,1- 10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm:
– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao?
– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay. “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê và còn dư dả.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng. Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa Giêsu làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ. Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!”(Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 – 7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy, Chúa hỏi: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Và Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Như thế, Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích là đào tạo lòng tin của các môn đệ. Chúa tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Người đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Người là vị Mục tử mà ngôn sứ Edêkien đã nói đến (Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Người là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẽ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại. Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời,dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14,20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh,chúc tụng” (Mc 14,22).Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (Lc 24,30) và của Giáo hội (Cv 2,42).
Được bánh ăn no nê, dân chúng muốn “bắt lấy Người tôn lên làm vua” (Ga 6,15).Họ tiếp nối Satan cám dỗ Người lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”; “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6,27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta,chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống chính là “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn Hy tế Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của hiến lễ Golgôtha được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
”Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6,38). Đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi,vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô.Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa
Các con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó cần trau dồi Lời Thiên Chúa. Vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa chứ không phải lời của thế gian. Cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời cũng phải trau dồi lời con người,là khả năng nói, loan báo,kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn. Công bố Lời Chúa vừa là một hồng ân vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: “Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn”. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người. Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui ta uống chén rươụ mừng nhưng khi buồn ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu là là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ. Tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng là chính đời sống của mình. Khi dâng lễ, đời sống riêng tư được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa.Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn. Qua Lời Truyền Phép của Linh mục, Chúa Kitô làm cho bánh rượu trở thành Thịt Máu của Người. Đồng thời Người cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ để rồi khi mỗi người rước lễ họ đón nhận Mình và Máu Chúa Giêsu là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35); “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Thánh Thể là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Tham dự thánh lễ cách đầy đủ tích cực trọn vẹn với tất cả con người là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa và nhiệt thành cộng tác với ơn Chúa.
Chúa Giêsu vẫn luôn vẫn hỏi chúng ta mỗi ngày “Các anh có mấy chiếc bánh” để trao cho tha nhân?
(Suy niệm của Lm. Ron Rolheiser, OMI)
Đào sâu hơn, Đức Phanxicô nói với người trẻ Paraguay:
“Chúa Giêsu biết rõ trong thế giới đầy cạnh tranh, ghen tuông và gây hấn này,
hạnh phúc thật phát sinh từ việc học cách kiên nhẫn, tôn trọng người khác,
từ khước kết án hay phán xét người khác.
Như người ta thường nói ‘cả giận mất khôn’.
Các con đừng để trái tim các con nhường bước cho giận dữ và ghét bỏ.
Hạnh phúc thay người hay thương xót.
Hạnh phúc thay những ai biết đặt mình vào đôi giầy của người khác,
Hạnh phúc thay những ai biết ôm ấp, tha thứ.
Lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta đều đã cảm nghiệm được điều đó.
Nó quả đẹp đẽ xiết bao!
Giống như ta nhận lại được đời sống của mình, nhận được cơ may mới.
Không gì đẹp đẽ bằng có được cơ may mới.
Như thể đời ta lại khởi đầu trở lại.
“Cũng hạnh phúc thay những ai đem lại sự sống và cơ hội mới.
Hạnh phúc thay những ai cố gắng và hy sinh để làm điều đó.
Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm và vướng vào hiểu lầm, cả ngàn sai lầm và hiểu lầm.
Thành thử, hạnh phúc thay những ai biết giúp người khác khi họ mắc sai lầm, khi họ cảm nghiệm sự hiểu lầm.
Những người này là bạn bè đích thực, họ không bỏ rơi ai.
Họ trong sạch trong tâm hồn, những người biết nhìn quá bên kia các sự việc nhỏ nhoi và biết vượt qua khó khăn.
Trên hết, hạnh phúc thay những ai biết nhận ra điều tốt nơi người khác”.
Để kết luận, Đức Phanxicô cho hay:
“các vị thánh nhân là bạn bè và là mẫu mực của ta…
Các ngài cho ta hay:
Chúa Giêsu không phải là nhà nghệ sĩ lừa đảo;
Người hiến tặng ta sự thành toàn đúng nghĩa.
Nhưng trên hết, Người hiến tặng ta tình bè bạn,
tình bè bạn đích thực, tình bè bạn ta cần.”
“Bởi thế ta phải trở nên bạn bè theo cách của Chúa Giêsu.
Không khép kín, nhưng tham gia đội banh của Người và chơi môn chơi của Người, đi ra ngoài và tạo bạn bè mỗi ngày một nhiều thêm.
Mang niềm hào hứng của tình bạn Chúa Giêsu đến cho thế giới, bất cứ các con ở đâu:
ở nơi làm việc, ở trường, trên WhatsApp, Facebook hay Twitter.
Khi các con đi khiêu vũ, hay đi uống trà lạnh tereré,
khi các con tụ họp ở công viên thành phố hay chơi trận banh nhỏ tại sân khu xóm. Nghĩa là tại những nơi bạn bè Chúa Giêsu vốn tụ tập.
Không phải để lừa đảo người khác,
mà là đứng bên cạnh họ và kiên nhẫn với họ.
Bằng lòng kiên nhẫn phát sinh từ việc biết rằng ta hạnh phúc,
vì ta có một Ngưòi Cha ở trên trời”.
***
MÙA THƯỜNG NIÊN
Trong quyển sách nhỏ với tựa đề Âm nhạc của Thinh lặng, David Steindl- Rast đã nhấn mạnh mỗi giờ trong ngày có điểm sáng và tính chất đặc biệt của nó đến như thế nào, và cách chúng ta chú tấm đến giây phút hiện tại khi chúng ta nhận ra và tôn trọng các “tác nhân đặc biệt” ẩn dấu trong mỗi giờ đó. Ông ấy đúng. Mỗi giờ trong ngày và mỗi mùa trong năm đều có một điều gì đó đặc biệt cho chúng ta, nhưng thường thường chúng ta không ứng trực để tiếp nhận tặng vật đó.
Có những mùa đặc biệt trong năm, chúng ta nắm bắt tặng vật đó dễ hơn. Dù đôi lúc do áp lực hay xao nhãng, chúng ta không chú tâm đến mùa cao điểm như mùa Giáng Sinh hay Phục Sinh, nhưng chúng ta đều biết các mùa này đặc biệt và có những “tác nhân” trong đó đang đòi chúng ta phải đón nhận. Khi có ai nói: “Năm nay tôi quá mệt và có qua nhiều áp lực nên không nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Tôi bỏ lỡ dịp Giáng Sinh năm nay rồi!” là chúng ta hiểu ý nghĩa của câu này.
Và điều này không chỉ đúng với những mùa đặc biệt như Giáng Sinh và Phục Sinh. Nó cũng đúng, và có lẽ đặc biệt đúng với mùa mà chúng ta gọi là Mùa Thường Niên. Mỗi năm lịch Giáo hội để ra hơn ba mươi tuần cho cái gọi là “Mùa Thường Niên,” một mùa để chúng ta gặp gỡ các tác nhân hàng ngày, điều đặn, quen thuoc, đoán trước được và bình thường. Như những mùa lễ cao điểm, mùa này cũng có nghĩa là cho đời sống chúng ta một nét phong phú đặc biệt.
Nhưng chúng ta lại dễ dàng bỏ qua mùa này cũng như mục đích của nó. Khái niệm “Mùa Thường Niên” nghe có vẻ quá nhẹ cho dù chính chúng ta lại mong mỏi một cách vô thức ý nghĩa đích thực nó mang đến. Chúng ta có một “thời gian bình thường” nhỏ bé nhưng thật quý báu trong đời mình. Khi đời sống bị nhiều áp lực hơn, mệt mỏi hơn, bồn chồn hơn, có lẽ hơn bất kỳ điều gì, chúng ta mong mỏi có một “thời gian bình thường” im ắng, đều đặn, tĩnh mịch, và ở một nơi xa cách khỏi nhịp điệu hối hả của đời sống. Đối với nhiều người trong chúng ta, cụm từ “thời gian bình thường” sẽ làm chúng ta thở dài hỏi: “Đó là gì thế? Lần cuối tôi có một ‘thời gian bình thường’ trong đời là lúc nào?” Với nhiều người trong chúng ta, “thời gian bình thường” gần như có nghĩa là hối hả và áp lực, là “vòng quay bất tận,” là “cái cối xay.”
Nhiều thứ trong đời hợp lại chống “thời gian bình thường” này, không chỉ sự bận rộn cướp đi thời gian thư thái của chúng ta, mà còn những đau buồn, ám ảnh, mất sức khỏe, hay những gián đoạn khác, tất cả chúng như cười vào nhịp điệu cũng như công việc theo nếp, cướp đi ý thức về “thời gian bình thường” của chúng ta.” Đó chính là nguyên nhân suy sụp của người trưởng thành.
Tôi ngờ rằng, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy khi còn nhỏ chúng ta nhìn khác hẳn về chuyện này. Khi còn nhỏ, tôi thường thấy chán. Gần như lúc nào, tôi cũng mong có một cái gì mới, một ai đến thăm nhà, một mùa đặc biet để mừng lễ (sinh nhật, Giáng Sinh, Năm mới, Phục Sinh), hay gần như bất cứ chuyện gì lay tôi ra khỏi nếp sống thường nhật của “thời gian bình thường.” Nhưng đó là vì đối với một đứa trẻ, thời gian trôi quá chậm. Khi bạn bảy tuổi, một năm là cả một phần bảy cuộc đời bạn. Nó quá dài. Lúc trung niên và già hơn nữa, một năm chỉ là một mảnh nhỏ trong đời và thời gian trôi nhanh, quá nhanh đến nỗi khi đến một mức nào đó, có lúc bạn sẽ bắt đầu mong các dịp đặc biệt qua nhanh, khách về nhanh, các chuyện quấy rầy khuất mắt, để bạn chóng trở về nhịp sống bình thường. Nếp cũ chắc chắn là chán, nhưng chúng ta ngủ ngon hơn khi cuộc sống theo nề theo nếp bình thương.
Ngày nay, văn chương tôn giáo lẫn thế tục đều nói đến những khó khăn để tập trung vào giây phút hiện tại và trong việc gặp gỡ “hiện tại trần trụi” theo cách nói của Richard Rohr, hay “các tác nhân của một giờ” theo cách nói của David Steindl- Rast. Những gì văn chương nêu ra khác nhau về nội dung và ý nghĩa, nhưng cùng chung một điểm: Cực kỳ khó để chú tâm vào giây phút hiện tại, để thật sự ở trong hiện tại. Không dễ để sống trong “thời gian bình thường.”
Có một thành ngữ Trung Hoa vừa có ý chúc phúc vừa có ý nguyền rủa. Bạn có thể chúc cho ai đó: “Chúc bạn sống những giây phút lý thú!” Với một đứa trẻ, chúc như thế nghĩa là chúc lành, bởi đời sống cứ lặp đi lặp lại theo nếp. Thời gian trôi thật chậm trong suy nghĩ một đứa trẻ. Hầu hết trẻ con đã có đủ thời gian bình thường rồi.
Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta là người lớn, thì đó lại là lời nguyền hơn là chúc phúc. Những áp lực, buồn phiền, đau bệnh, mất mát, đòi hỏi, và những việc chen vào tưởng như không dứt đang bủa vây đời sống chúng ta, dù có lẽ chúng không được xem là “giây phút lý thú,” nhưng thực sự chúng đối chọi với nếp sống bình thường, điều đặn, đoán trước được và bình thường. Và chúng tước đoạt “thời gian bình thường” khỏi chúng ta.
Giáo hội muốn chúng ta hãy chú tâm vào những mùa khác nhau của năm. Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh, Lễ Thăng Thiên, và Lễ Hiện Xuống. Ngày hôm nay, tôi xin nói rằng, cần phải đòi hỏi chúng ta chú tâm đặc biệt đến Mùa Thường Niên – “thời gian thông thường.” Thất bại trong việc chú tâm vào thời gian này có lẽ là thiếu sót phụng vụ lớn nhất của chúng ta đó.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thái)
Ở một vùng truyền giáo nọ, ban đầu khi mới đặt chân đến, cha sở đã cố gắng hết sức để nâng đỡ đời sống vật chất cho dân nghèo. Người nghèo đi nhà thờ, ngài Phát cho chục ký gạo. Nhưng sau đó, không còn đủ gạo để phát nữa, thì số người đi tham dự Thánh Lễ cứ thưa dần và thưa dần. Đến một hôm, một người thường xuyên hay lui tới nhà thờ đã cho Ngài biết cái “tin dữ”. Cái “tin dữ” ấy là một số người trước đây vẫn thường xuyên lui tới nhà thờ vì có gạo nay lại không đi nữa. Họ nói thẳng là trước đây có nhận được gạo, nhưng nay thì không. Vì lý do không có gạo thì họ không đi nữa. Từ đó có danh từ “đạo gạo”.
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã đọc đoạn trích Tin Mừng Mác- cô, theo đó Đức Giêsu đã động lòng thương dân chúng tuôn đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng lời ban sự sống của Ngài và tiếp đó, phép lạ bánh hóa nhiều, loan báo Ngài là bánh ban sự sống từ trời xuống. Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, Ga 6:1- 15, Thánh Gioan sử dụng cùng câu chuyện hoá bánh ra nhiều mà Mác- cô diễn tả để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giêsu về “bánh ban sự sống”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật tiếp theo. Phép lạ bánh hóa nhiều là một trong những phép lạ được viện dẫn nhiều nhất: nó là phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký tường thuật. Quả thật, phép lạ nầy đánh dấu đỉnh cao thừa tác vụ của Đức Giêsu ở miền Ga- li- lê. Tuy nhiên dưới cái nhìn của thánh Gioan, phép lạ này chỉ là dấu chỉ nhằm mục đích chuẩn bị dọn lòng cho dân chúng tin vào Phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện sau này trong bữa Tiệc Ly. Nói cách khác, qua phép lạ đó, Chúa Giêsu muốn dẫn con người đi từ cơm bánh nuôi thân đến Thánh Thể nuôi hồn; từ của ăn vật chất đến lương thực thần linh. Bí tích Thánh Thể mới là phép lạ vĩ đại nhất, phép lạ của tình yêu. Với phép lạ này, Chúa Giêsu nuôi sống không phải chỉ 5000 người, mà là nuôi sống toàn thể nhân loại. Không phải chỉ là một thời cách đây 2000 năm, mà là mọi thời. Không phải chỉ là một nơi hoang địa xa xôi, mà là mọi nơi trên mặt đất này. Và trên hết không phải chỉ đem lại sự no thoả tạm thời cho nhu cầu thể xác, mà là đem lại sự sống thần thiêng, sự sống đời đời.
Vậy sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta là gì? Sứ điệp đó là khi phải vất vả mưu sinh, để có lương thực nuôi thân, chúng ta không được phép sao lãng lương thực nuôi hồn, tức là tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh thể mỗi ngày. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con người sẽ có được sự sống thần linh, sự sống dồi dao. Nhưng lương thực trường sinh mà chúng ta đón nhận trong Thánh Thể cũng phải là một cam kết. Cam kết phải sống thế nào để cuộc đời mà ta đang sống là bằng chứng đích thực nói lên sự hiện diện và tác động của Chúa trong con người mình, và để qua đó người khác nhận ra hình ảnh của Chúa nơi chúng ta. Nguyện xin Thánh Thể Chúa Giêsu hoạt động và biến đổi con người và cuộc đời mỗi người chúng ta thành dấu chứng của tình yêu và sức sống cua Thiên Chúa đối với mọi người.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ăn uống là chuyện rất ư bình thường hàng ngày nhưng cũng rất cần thiết, thậm chí điều bình thường đó còn là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của con người. Chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì miếng cơm, manh áo. Miếng ăn bình thường mà vô thường, bởi vì miếng ăn có thể là niềm vinh dự mà cũng có thể là nỗi ô nhục!
Cuộc sống là thực tế, không trừu tượng hoặc mơ hồ. Chúa Giêsu đã sống rất thực tế, do đó Đạo Yêu Thương của Ngài cũng thực tế, không thực tế thì chỉ là nói dối (1 Ga 4:20). Thánh Phaolô cũng dành cả chương 13 (13 câu)trong thư I gởi giáo đoàn Côrintô để đề cập đức ái. Thánh Phaolô không sử dụng từ “nói dối” mà ví những người không yêu thương thì “cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1 Cr 13:1). Ngày nay người ta gọi đó là dạng “chảnh”, “nổ”, chỉ khoác lác mà thôi.
Giáo Hội cũng rất thực tế:Trong kinh “Thương Người Có 14 Mối”, mối thứ nhất của phần “Thương Xác 7 Mối” là “cho kẻ đói ăn”. Giáo hội không thể nói suông, vì Giáo hội theo đúng cách thức của Đức Kitô. Tuy nhiên, có lẽ Kitô hữu (nói chung) và người Công giáo chúng ta (nói riêng) vẫn chỉ yêu người bằng lý thuyết, qua sách báo, qua những bài “thuyết pháp” hùng hồn, thậm chí là yêu người “online” mà thôi. Chúa Giêsu chưa một lần nói suông. Nếu can đảm mà nghiêm túc xét mình, liệu chúng ta đã theo Chúa đúng ý Ngài? Chắc hẳn chúng ta phải đấm ngực vô số lần! Thật vậy, danh nhân Mahātmā Gāndhī (1869- 1948, được dân Ấn Độ coi là Quốc phụ) đã nói thẳng: “Tôi sẵn sàng trở thành Kitô hữu nếu tôi tìm được các Kitô hữu thực thi Bài Giảng Trên Núi” – tức là Bát Phúc, là Tám Mối Phúc Thật. Chắc chắn chúng ta phải “giật mình” mà xét lại cách sống của chính mình ngay thôi, kẻo tự chuốc khốn cho chính mình!
Nói là làm, làm ngay, làm thật. Thấy thương dân chúng theo mình suốt ngày, Chúa Giêsu đã thực tế bằng cách hóa bánh ra nhiều hai lần: Lần một với 5 chiếc bánh và 2 con cá mà đủ cho khoảng 5.000 người ăn, chưa kể phụ nữ và trẻ em, lại còn dư 12 giỏ đầy (Mt 14:17- 21; Mc 6:30- 44; Lc 9:10- 17; Ga 6:1- 14); lần hai với 7 cái bánh và một ít cá nhỏ mà đủ cho khoảng 4.000 người ăn, cũng không kể phụ nữ và trẻ em (Mt 15:34- 38; Mc 8:1- 10). Quả thật, Chúa Giêsu vô cùng thực tế. Và Ngài cũng rất muốn chúng ta làm như vậy, nghĩa là PHẢI BIẾN LỜI NÓI THÀNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ. Người Công giáo cũng thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Thực tế thôi!
Như chúng ta đã biết, ăn uống là điều cần thiết nhất để duy trì sự sống. Ăn uống không chỉ là cái thú đầu tiên trong tứ khoái của con người, mà còn là bài học đầu tiên chúng ta phải học: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Còn nhiều thứ khác cũng phải học hỏi, đặc biệt là học hỏi về tinh thần, tâm linh: “Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan, đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu, đâu là trường thọ và sự sống, đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an” (Br 3:14).
Kinh Thánh cho biết: Một người trong nhóm các ngôn sứ ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, họ hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: “Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!” (2 V 4:40), nghĩa là nồi cháo đó có độc tố vì được nấu bằng những loại trái độc. Và họ không thể ăn được. Nhưng ông Ê- li- sa điềm nhiên nói: “Đem bột đến đây!”. Ông “vô tư” bỏ bột vào nồi rồi bảo: “Múc ra cho người ta ăn”. Lạ lùng thay, trong nồi liền hết chất độc.Ôi chao, không biết ông Ê- li- sa có nghiên cứu y dược hay không mà kết hợp thực phẩm khéo léo quá chừng!
Sau đó, có một người từ Ba- an Sa- li- sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Chúa, đó là 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê- li- sa không giữ riêng cho mình và những người trong nhóm, mà ông nói: “Phát cho người ta ăn” (2 V 4:42). Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”(2 V 4:43a). Ông cương quyết nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư” (2 V 4:43b).Và quả đúng như vậy, phép lạ đã xảy ra nhãn tiền. Sau khi tiểu đồng phát cho người ta ăn xong, vẫn còn dư như lời Thiên Chúa đã phán truyền. Mọi sự đều có thể xảy ra (x. Gv 9:1), bởi vì Thiên Chúa quyền linh, điều không thể trở thành có thể (x. Mt 19:26; Mc 10:27; Lc 18:27; Lc 1:37).
Vì vậy, “muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, và nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng” (Tv 145:10- 11a). Trong “muôn loài” đó có mỗi chúng ta, nghĩa là chúng ta phải biết tạ ơn Chúa. Bất cứ ai tin tưởng và ngước mắt trông lên Chúa, Ngài đều chạnh lòng thươngvà “chính Ngài đúng bữa cho ăn” (Tv 145:11b). Sự quan phòng của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm, chúng ta không thể hiểu thấu. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, biết rõ chúng ta cần gì, và “khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Tv 145:16). Không chỉ vậy,Ngàicòn “công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, gần gũi tất cả những ai thành tâm cầu khẩn Ngài” (Tv 145:17- 18).
Ôi, tình yêu Thiên Chúa quá bao la, lòng thương xót của Ngài quá hải hà, bởi vì Ngài luôn “chạnh lòng thương” những con người sầu khổ, thiếu thốn về vật chất hoặc tinh thần. Vâng, Thiên Chúa của chúng ta rất thực tế! Không chỉ vậy, Ngài còn ưu ái chấp nhận chúng ta là con cái, là thân hữu của Ngài (Ga 15:15b) mặc dù chúng ta chỉ là phàm nhân,là tội nhân, hoàn toàn bất xứng. Vì thế, chúng ta cần phải khiêm nhường mà nhận diện chính mình để không ảo tưởng.
Con người luôn cần được nhắc nhở và động viên. Mặc dù đang bị tù đày vì Chúa, Thánh Phaolô vẫn không ngần ngại bày tỏ: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4:1).Theo Thánh Phaolô, cách “sống xứng đáng” đó là:Ăn ở thật KHIÊM TỐN, HIỀN TỪ và NHẪN NẠI; lấy tình bác ái mà CHỊU ĐỰNG lẫn nhau; thiết tha duy trì sự HIỆP NHẤT mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở THUẬN HOÀ gắn bó với nhau (Ep 4:2- 3).
Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Chỉ có MỘT thân thể, MỘT Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có MỘT Chúa, MỘT niềm tin, MỘT phép rửa. Chỉ có MỘT Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4- 6). Tất cả đều là MỘT trong Thiên Chúa thì không có lý do gì mà tách rời. Có ai lại tự cắt lìa một phần thân thể của mình chứ? Mà đã là MỘT thì phải yêu thương, quan tâm, nâng niu và chia sẻ mọi thứ với nhau. Vâng, đó là vấn đề rất thực tế, nhưng con người vẫn chia ba bè bảy nhóm, nên Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người “nên một” (Ga 17:21- 23).
Rất chi tiết, Thánh sử Gioan kể: Hôm đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria,có đông đảo dân chúng đi theo Ngài, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Ngài đã làm cho các bệnh nhân. Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Ngài hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”(Ga 6:5).Thực ra Ngài nói thế là để thử ông thôi, chứ Ngài biết mình sắp sửa làm gì rồi.
Lúc đó, có lẽ ông Philípphê gãi đầu vì ngạc nhiên và nói: “Thầy ơi là Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7).Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Ngài: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Đức Giêsu mỉm cười và ôn tồn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (Ga 6:10). Rồi mọi người ngồi xuống trên cỏ, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Có lẽ lúc đó các tông đồ lắc đầu ngán ngẩm vì đông quá, có sẵn đủ thực phẩm mà phục vụ họ cũng mệt đứ đừ chứ chẳng giỡn chơi. Chỉ tính 5.000 người thì mỗi ông phải phục vụ khoảng 500 thực khách. Ui da, “căng” dữ nghen!
Khi đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý chứ không “chia khẩu phần”. Khi họ đã no nê rồi, Ngài bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6:12).Các môn đệ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.Thật là trên cả tuyệt vời. Kỳ diệu!
Mọi người chứng kiến dấu lạ Đức Giêsu làm,họ nói với nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!”(Ga 6:14). Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt và đi lên núi một mình. Ngài “thực tế” với người khác nhưng lại không “thực tế” với chính mình. Ngài không muốn được “tôn làm vua” mà lại “lánh mặt” và “đi lên núi”, đáng lưu ý là Ngài đi lên núi MỘT MÌNH mà thôi. Thầy Giêsu tỏ ra không thực tế mà lại rất thực tế. Hay quá chừng luôn!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xingiúp chúng con luôn sống “thực tế” như Đại Sư Giêsu là biết “chạnh lòng thương” tha nhân, dù họ là ai, đồng thời cũngsẵn sàng cầm lấy chiếc- bánh- cuộc- đời của chính mình,chân thành dâng lời tạ ơn, rồi vui vẻ bẻ ra và chia sẻ với bất kỳ ai. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Bẩn là dơ, là không sạch, là mất vệ sinh. Bẩn cũng có nhiều dạng và nhiều mức độ: Ô nhiễm môi trường là bẩn, ô nhiễm không khí là bẩn, ô nhiễm thực phẩm là bẩn, ô nhiễm nguồn nước là bẩn, ô nhiễm quản lý là bẩn, ô nhiễm tư tưởng là bẩn, ô nhiễm ánh mắt là bẩn, ô nhiễm lương tâm là bẩn, ô nhiễm giáo dục là bẩn, ô nhiễm âm nhạc là bẩn, ô nhiễm văn chương là bẩn,… Ô nhiễm nào cũng bẩn, cũng xấu, cũng có hại!
Các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày đưa tin về các loại bẩn. Nào là thịt thối, heo siêu nạc; nào là thuốc tăng trọng, cà- phê là đậu nành trộn với hàng chục loại hóa chất; nào là giá làm bằng đậu bẩn, trái cây được kích thích bằng hóa chất; nào là phở chứa phoóc- môn, nước tương (xì dầu) chứa chất 3- MCPD, sữa chứa melamine,… Cơ man nào mà kể. Đó là dạng bẩn thực phẩm gây hại cho cơ thể, có thể sinh ung thư, dẫn đến cái chết!
Chỉ nói riêng về thực phẩm thôi cũng đã thấy có nhiều mối nguy hiểm đe dọa tính mạng con người hằng ngày, tính đến mức từng giây. Dạng bẩn nào cũng nguy hiểm, nhưng dạng bẩn nguy hiểm và độc hại nhất là “lòng người bẩn”, là “lương tâm bẩn”. Tất cả sẽ không bẩn nếu lòng người không nhiễm bẩn, nếu lương tâm trong sạch. Có thể nói rằng mọi thứ bẩn đều bắt nguồn từ “lương tâm bẩn”, vì từ đó dẫn tới nhiều hệ lụy khác!
Lương tâm còn gọi là lương tri. Lương tâm bẩn cũng có nhiều mức độ, từ nhẹ đến nặng: Nói dối, gian lận, tham lam, lừa đảo, hối lộ, tham nhũng, nhiễu nhương, hiếu chiến, bịp bợm, trục lợi, thực dụng, độc ác,… Vĩ nhân Mahatma Gandhi (Ấn Độ) nói: “Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng. Có tòa án còn cao hơn tòa án công lý, và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa án khác”.
Aleksandr Solzhenitsyn so sánh: “Công lý là lương tâm, không phải lương tâm cá nhân mà là lương tâm của toàn bộ nhân loại. Những ai nhận thức rõ ràng giọng nói của lương tâm chính mình thường cũng nhận ra giọng nói của công lý”. Còn Jean Jacques Rousseau định nghĩa: “Lương tâm là tiếng nói của linh hồn; dục vọng là tiếng nói của cơ thể”.
Như vậy, vấn đề lương tâm rất quan trọng, vì Voltaire đã nhận định: “Con đường an toàn nhất là không làm gì trái với lương tâm. Với bí mật này, chúng ta có thể hưởng thụ cuộc sống và không sợ chết”.
Walter Lippmann lý giải: “Lương tâm của chúng ta không phải là vật chứa chân lý vĩnh cửu. Nó phát triển cùng với đời sống xã hội của chúng ta, và điều kiện xã hội thay đổi cũng dẫn tới sự thay đổi triệt để về lương tâm”.
Phàm cái gì từ con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ra ô uế. Có thể hiểu “cái từ con người xuất ra” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính Chúa Giêsu xác định: “Những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế” (Mt 20:18- 20).
Hãy cẩn trọng, vì có thể Chúa Giêsu đang lên án chính mỗi chúng ta: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23:27- 28).
Ngoại tại và nội tại đều cần thiết một môi trường trong sạch, không bị ô uế. Văn hào Victor Hugo nói: “Lương tâm là Thiên Chúa hiện diện trong con người”.
Ước gì mỗi chúng ta có thể nói được như văn sĩ trào phúng Mark Twain đã xác định: “Nhờ ơn Chúa mà ở đất nước chúng tôi có ba thứ quý giá không tả nổi: tự do ngôn luận, tự do lương tâm, và sự khôn ngoan để không bao giờ dùng đến cả hai thứ kia”. Ông Mark Twain là văn sĩ trào phúng, khôi hài, nhưng lại rất thật. Nghe ông Mark Twain nói mà phát thèm!
Thánh Phaolô nói về cái bẩn tâm linh: “Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ sự công chính. Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (Rm 6:18- 19). Dạng bẩn tâm linh còn độc hại hơn mọi dạng bẩn khác, dẫn đến cái chết đời đời. Khủng khiếp quá!