CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: 1Sm 3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
MỤC LỤC
1. Thầy ở đâu – Hãy đến mà xem
2. Đến, xem và ở lại
3. Hành trình ơn gọi
4. “Chúa tìm ta – Ta tìm Chúa”
5. Gặp Chúa- Đổi Đời
6. Ơn gọi
7. Vai trò trung gian
8. Gặp gỡ Tin Mừng
9. Tôi đã gặp
10. Giới thiệu Chúa cho anh em mình
11. Hãy đến mà xem
12. Hãy đến mà xem – ViKiNi
13. “Hãy quên đi cái tôi…”
14. Truyền giáo trong thế giới ảo
15. Nghề mai mối
16. Chúa Nhật 2 Thưởng Niên
17. Ơn gọi
18. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
19. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
20. Đáp lời Chúa gọi
21. Lắng nghe tiếng Chúa
22. Họ đến và ở lại với Người
23. Ở lại với Chúa
24. Tiếng Chúa gọi – AM Trần Bình An
25. Vai trò trung gian
26. Đến mà xem – AM Trần Bình An
27. Chúa Nhật 2 Thường Niên
28. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
29. “Các anh tìm gì thế?”
30. Chúa gọi con người hợp tác
31. Các anh tìm gì thế?
32. Chiên Thiên Chúa
33. Này Chiên Thiên Chúa
34. Chúa Nhật 2 Thường Niên
35. Đây là Chiên Thiên Chúa
36. Chúa Nhật 2 Thường Niên
37. Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a
38. Chúa nhật 2 Thường Niên
39. Cuộc hội ngộ thần linh sơ khởi
40. Chúa Nhật 2 Thường Niên
41. Chúa Nhật 2 Thường Niên
42. Gặp gỡ Đức Kitô.
43. Chúa kêu gọi con người hợp tác
44. “Hãy đến mà xem”
45. Chúa Nhật 2 Thường Niên
46. Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
47. Hãy đến mà xem
48. Lựa chọn theo Chúa
49. Giới thiệu
50. Hoàn hảo
51. Chúa Nhật 2 Thường Niên
52. Được kêu gọi để ở lại
53. Giới thiệu
54. Chúa Nhật 2 Thường Niên
55. Cuộc gặp gỡ
56. Các môn đệ đầu tiên – JKN
57. Đáp lời Chúa kêu gọi
58. Bước theo Ngài – Thiện Mỹ
59. Chúa Nhật 2 Thường Niên
60. Chúa Nhật 2 Thường Niên
61. Đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày
62. Môn đệ Chúa Giêsu
63. Chúa Nhật 2 Thường Niên
64. Đến và ở lại – Anmai, CSsR
65. Chiến dịch Anrê
66. Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
67. Ơn gọi theo Chúa
68. Hành trình hay là biến đổi
69. Chúa Nhật 2 Thường Niên
70. Chú giải của Noel Quesson
71. Chúa Nhật 2 Thường Niên
72. Các môn đệ đầu tiên
73. Lắng nghe
74. Đổi đời – Trầm Thiên Thu
75. Tuân phục Thánh Ý Chúa
76. Ở lại – Huệ Minh
77. Hành trình của đức tin – Lm. Đan Vinh
**************************
1. Thầy ở đâu – Hãy đến mà xem
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng này đã được Đức Thánh Cha dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII. Để gặp được Đức Giêsu, cần có người giới thiệu. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình. Ông Anrê cũng đã giới thiệu Đức Giêsu cho em là Simon, và dẫn ông này đến gặp Ngài. Chẳng ai thực sự gặp được Đức Giêsu mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Đức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ. Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê là thấy Đức Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau. Họ chấp nhận tự xóa mình. Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu. Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi theo Đức Giêsu. Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa. Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào. Đức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ. Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng mình, phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình. Tôi đang tìm gì? Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn? Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi? Đức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời. Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Đến nhà một người là đi vào thế giới của người đó. Hai ông không chỉ muốn biết Đức Giêsu qua lời Gioan. Họ muốn đích thân gặp gỡ Ngài. Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Đức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của Ngài. Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta. Đừng sợ đi theo Đức Giêsu để đến nhà Ngài. Đừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn. Nơi nào có những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội, những người khác văn hóa và tôn giáo, nơi đó là nhà của Đức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức. Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành. Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc hạnh ngộ này, nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi Kitô hữu. Chúng ta phải được giới thiệu Đức Giêsu, phải đích thân gặp Ngài, và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
– “Các anh tìm gì thế?” Theo ý bạn, người trẻ hôm nay đang làm gì? Đang tìm ai? Nơi bản thân bạn, đâu là mối bận tâm lớn nhất của bạn hiện nay?
– Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại câu trả lời cho những vấn đề sâu xa nhất của bạn không? Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại bình an cho thế giới hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay, Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và khiêm nhu, con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa Không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
2. Đến, xem và ở lại
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều kể chuyện Đức Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên, gồm hai cặp anh em ruột. Để đáp lại, họ phải bỏ nghề đánh cá, bỏ lưới và thuyền, bỏ cha mẹ, bỏ gia đình thân yêu. Đó là những điều cao quý và thân thương đối với họ. Họ chấp nhận bỏ để theo Đức Giêsu, bước vào cuộc sống mới, bấp bênh hơn, phiêu lưu hơn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng kể chuyện Đức Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga 1,35-51). Không thấy nói đến chuyện họ bỏ gia đình hay nghề nghiệp, nhưng hai môn đệ đầu tiên đã phải bỏ một điều khác. Họ đã bỏ vị thầy cũ của họ là Gioan Tẩy giả để đi theo vị thầy mới là Đức Giêsu.
Con đường đến với Thầy Giêsu gồm nhiều bước. Các bước này xâu thành một chuỗi, gắn kết với nhau. Bước trước chuẩn bị cho bước sau. Bước sau lại chuẩn bị cho bước kế tiếp. Lỡ một bước là làm hỏng cả hành trình, vì mỗi bước đều có tầm quan trọng như nhau.
Hai môn đệ của Gioan Tẩy giả đã mở lòng để dấn bước. Và Đức Giêsu cũng mở lòng để mời gọi hai ông. Như một sự tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua chỗ Gioan và hai môn đệ của ông đang đứng. Bước một bắt đầu bằng lời giới thiệu của Gioan. Lời này không dễ hiểu: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36).
Trước đây Gioan đã từng làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Dù chưa hiểu tại sao thầy mình gọi vị này là Chiên Thiên Chúa, nhưng hai môn đệ vẫn nghe và tin vào lời của thầy.
Họ đã đáp lại bằng hành động đi theo Đức Giêsu: đó là bước hai. Đi theo có thể coi là bắt đầu hành trình làm môn đệ. Đức Giêsu đi trước, hai môn đệ đi sau (Ga 1,37). Không rõ họ đi như vậy bao lâu, chẳng ai nói một câu. Hai ông ngần ngại, nhút nhát không dám lên tiếng trước. Đức Giêsu có biết rằng hai người này đang đi theo mình không, hay đơn giản chỉ là tình cờ đi chung đường?
Có. Ngài biết rõ hai ông cố ý đi theo mình. Và Ngài đã quay lại, đã nói câu nói đầu tiên: “Các anh tìm gì?” Đây là bước thứ ba, bước của Đức Giêsu (Ga 1,38). Các anh theo tôi để tìm gì? Các anh nghĩ tôi có thể cho cái gì?
Câu hỏi của Đức Giêsu bắt người ta đi vào lòng mình để nhận ra đâu là khao khát sâu thẳm của trái tim. Đức Giêsu đã mở lời, bắt đầu cuộc đối thoại.
Câu hỏi của Ngài đã được trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?” (Ga 1,38): đó là bước thứ tư, biểu lộ lòng khao khát. Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn thăm nhà Thầy. Muốn biết nhà Thầy vì chúng con muốn biết chính Thầy.
Muốn biết rõ một người thì chỉ mong đến nhà người ấy. “Các anh hãy đến mà xem”: đó là bước thứ năm (Ga 1,39). Lời mời của Đức Giêsu đáp lại lòng mong mỏi của họ.
Ngài mời họ đến nhà để vén mở cho họ thấy thế giới của mình. Hai ông vui sướng đáp lại ngay, đó là bước thứ sáu (Ga 1,39). Họ đã đến, đã xem thấy nơi ở, và đã ở lại với Đức Giêsu. Có thể họ đã ở lại cả đêm để trò chuyện với vị Thầy mới. Ngây ngất và hạnh phúc như người khám phá ra kho tàng, Anrê nhận ra vị Thầy này chính là Đấng Mêsia (Ga 1,41).
Bao giờ cũng cần những người giới thiệu như Gioan Tẩy giả. Và bao giờ cũng cần những người giới thiệu như Anrê. Ông đã hưởng niềm vui quá lớn đến độ vào hôm sau ông đã lập tức đi tìm người em là Simôn (Ga 1,41-42), rối rít khoe với em về khám phá mới, và không cần nhiều bước, ông dẫn em đến ngay với Đức Giêsu. Philipphê cũng sẽ giới thiệu Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45).
Chuyện giới thiệu Đức Giêsu sẽ còn kéo dài đến tận thế. Nói chung rao giảng Tin Mừng là tiếp tục giới thiệu. Không ai có thể giới thiệu Đức Giêsu nếu đã không đích thân gặp Ngài và tin Ngài. Không ai thực sự gặp Đức Giêsu và tin Ngài mà lại không muốn giới thiệu Ngài cho người khác.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin hãy đi trước con và làm thầy dẫn lối. Con xin đi theo Ngài từng bước thôi.
Xin hãy đi sau con và làm người bảo vệ. Con sẽ đưa Ngài đến thăm tệ xá của lòng con.
Xin hãy đi bên con và làm người bạn đường. Con sẽ trò chuyện với Ngài suốt đường đi.
(gợi hứng từ Saint Exupéry)
3. Hành trình ơn gọi
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.
Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng. Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.
2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.
– Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.
– Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.
Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.
Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.
4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.
Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.
Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội. Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.
Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?
2. Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?
3. Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?
4. “Chúa tìm ta – Ta tìm Chúa”
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Có người so sánh lịch sử Cứu độ như một thiên tình sử giữa Thiên Chúa và con người. Mối tình này cũng có những lúc mặn nồng, cũng có khi phai nhạt. Mối tình này pha lẫn yêu thương thắm thiết và những giận dỗi hờn ghen. Kinh Thánh là cuốn sách ghi lại mối tình thân thương đó. Tuy vậy, nếu Thiên Chúa bao dung quảng đại và yêu thương vô bờ, thì con người lại nhỏ nhen thấp hèn và tội lỗi bất xứng. Dù thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn không ngừng tìm kiếm con người và con người cũng miệt mài tìm kiếm Chúa. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định: hành trình con người và hành trình Đức tin là những nỗ lực khôn nguôi để tìm kiếm Chúa. Và, thật kỳ lạ, chính Chúa cũng đang tìm kiếm chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra Ngài và lắng nghe lời Ngài giáo huấn.
Con người tự nhiên có khuynh hướng tìm kiếm Chúa, như cây cỏ hướng về ánh mặt trời, như sông suối xuôi về nguồn cội. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa” (Tự thú, I,1,1). Không gặp được Chúa, con người còn khắc khoải chờ mong và chưa tìm được sự an bình thực sự. Có muôn nẻo đường tìm kiếm Chúa. Người ta tìm Chúa nơi sức mạnh của thiên nhiên vũ trụ, nơi trật tự xoay vần của tứ thời bát tiết, nơi những triết lý cao siêu hay những tác phẩm nghệ thuật. Tuy vậy, những điều vừa được liệt kê chỉ phản ánh vẻ đẹp của Chúa hay quyền năng của Ngài. Cần phải gặp gỡ Chúa bằng lý trí và con tim. Lý trí tôn nhận Chúa là Chúa muôn loài. Con tim yêu mến Đấng là Tình yêu trọn vẹn.
Tin Mừng Thánh Gioan kể lại, hai môn đệ của ông Gioan Tẩy giả nghe thày mình giới thiệu về Đức Giêsu, liền đi theo. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Các anh tìm gì?”, thì các ông lại trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa Thày, Thày ở đâu?”. Câu hỏi này vừa thay cho câu trả lời: “Chúng tôi muốn tìm Thày”, vừa diễn tả một cuộc tìm kiếm. Khi ở lại đàm đạo với Chúa, các ông nhận ra Người là Đấng Messia. Cuộc tìm kiếm của các ông đã có kết quả. Các ông sẵn sàng rời ông Gioan Tẩy giả để đi theo Đấng Messia. Không những thế, các ông còn giới thiệu những người khác đến với Chúa Giêsu. Ông Anrê đã giới thiệu em mình là Simon, sau này là Phêrô. Ông Simon đã nhiệt thành đến với Chúa và nhận Người là tôn sư.
Nếu con người nỗ lực khôn nguôi tìm kiếm Chúa, thì chính Thiên Chúa cũng đi tìm kiếm con người. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng vô hình và thiêng liêng cao cả, chỉ nguyên nỗ lực từ phía con người mà thôi thì sẽ rơi vào bế tắc. Lịch sử Cứu độ chứng minh, nhiều lần Thiên Chúa có sáng kiến ra tay cứu giúp và cải hoá con người. Cậu bé Samuel đang phục vụ tại Đền thờ Silô. Sớm chiều quen với ánh nến và hương trầm. Một đêm kia, Chúa gọi cậu. Ở tuổi của cậu, chưa thể phân biệt được lời gọi của Chúa hay lời gọi của con người. Với hướng dẫn của thày Tư tế Hêli, cậu Samuel đã thưa với Chúa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Tác giả sách Sanuel kể lại: từ ngày đó, cậu bé Samuel chuyên cần lắng nghe lời Chúa và không để cho một lời nào ra vô hiệu. Cậu đã được gặp gỡ Chúa và được Ngài cho biết ý định của Ngài cũng như những điều Ngài sắp làm đối với dân Israel. Vâng, Thiên Chúa đã chủ động tìm kiếm con người và ngỏ lời với họ. Đó cũng là điều Ngài thường làm trong lịch sử.
Tin vào Chúa chính là gặp gỡ Ngài. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ thân tình, cá vị với Chúa. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một sự vật hay một sự kiện, là cuộc gặp gỡ với một Đấng, một Ai đó, một Con Người đang hiện diện giữa chúng ta” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Chúa được thực hiện bằng lời cầu nguyện và chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa. Bởi khi cầu nguyện là chúng ta tâm sự với Chúa; khi nghe Lời Chúa là lúc Ngài nói với chúng ta. Cầu nguyện là mối tâm giao, là sự trao đổi thân mật, giãi bày tấm lòng trước nhan Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta mở con tim để lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa với Chúa như cậu bé Samuel trong đền thờ Silô: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Nhờ cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta được gặp Chúa trong đời, mặc dù còn nhiều ồn ào, bon chen và toan tính.
Một khi gặp gỡ Chúa, cuộc đời của chúng ta phải được canh tân biến đổi. Qua cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Chúa, được thể hiện nhờ Bí tích Thanh Tẩy, “chúng ta được hiến thánh trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu là Chúa của họ và cũng là Chúa của chúng ta” (Bài đọc II). Thánh Phaolô đã diễn tả vinh dự lớn lao của những người đã được thanh tẩy. Họ trở nên thành viên của một gia đình vĩ đại, bao trùm và hiện diện trên toàn cõi địa cầu. Trong Giáo Hội của Chúa Kitô, không còn phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ, nhưng tất cả đều trở nên con cái Chúa, có Thiên Chúa là Cha.
Để thực sự gặp gỡ Chúa, người tín hữu cần có đời sống nội tâm sâu xa. Bởi lẽ cuộc sống ồn ào bon chen và đầy tham vọng dễ làm chúng ta quên Chúa. Hãy tìm những giây phút lắng đọng tâm hồn để gặp gỡ Chúa, để nghe Ngài khuyên nhủ và giáo huấn chúng ta. Chắc chắn những giây phút này sẽ đem lại cho chúng ta sự ngọt ngào nội tâm, cùng với niềm vui và hạnh phúc trong cuộc đời. Như hai môn đệ đầu tiên, một khi cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể giới thiệu Người cho những người xung quanh.
5. Gặp Chúa- Đổi Đời
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài đọc 1, Sách Sa-mu-en kể Cậu bé Sa-mu-en gặp được Đức Chúa trong lúc phụng sự Ngài trong Nhà của Đức Chúa và Chúa đã biến đổi và làm cho ông trở thành một tiên tri lớn loan báo Nước Chúa sau này. Đến bài Tin Mừng, Thánh Gioan tông đô mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và hai môn đệ của ông Gioan tẩy giả. Hai môn đệ gặp Chúa và đổi đời.
Điều chú ý trước hết là các ông này gặp được Chúa là nhờ lời giới thiệu Gioan Tẩy Giả: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Và hai ông trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Rõ ràng hai môn đệ theo Chúa Giêsu rồi, tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Rồi các môn đệ đáp trả: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà… mà Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. Hãy đến và xem cái gì? Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu. Cuối cùng, chính vì đã cảm kinh nghiệm được tình yêu của Chúa mà Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là ông Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Quả thế, Ông đã gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Và ông dẫn em mình tới và cùng với em mình là Phêrô tìm hiểu, cùng khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Thánh và ở lại với Người. Điều đáng học hỏi đây đó là niềm tin của ông Anrê càng được củng cố, càng lớn lên và trưởng thành là nhờ ông biết chia sẻ sự hiểu biết về Chúa cho người khác. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông môn đệ đầu tiên không còn là cuộc sống như trước mà đã làm thay đổi tận căn.
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Gặp rồi, có nhớ Lời Chúa dạy làm gì không? Chúng ta có để Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng ta chưa? Nếu có rồi mà tại sao ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi, vẫn còn chia rẽ, ganh ghét nhau, chưa hiệp nhất?… Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trả lời rằng vì dục vọng, tức vì quyền, tiền và tình làm cho thân xác ta ra hoen ố mà chúng ta không biết rằng thân xác ta là Đền Thờ của Thánh Thần. Mà Thánh Thần đang ngự trong chúng ta là chính Thiên Chúa. Vậy đừng vì dục mà đánh mất Thiên Chúa nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta. Cho nên, trong Thư Chung Mục Vụ năm 2015, Hội Đồng Đức Giám Mục Việt Nam kêu gọi: “Mọi tín hữu hãy tham dự những cử hành phụng vụ cách ý thức và sống động hơn, không những để chu toàn lề luật mà còn để gặp gỡ Chúa và để Chúa biến đổi đời sống chúng ta. Như thế, Phụng vụ sẽ trở thành nguồn lực thánh hóa bản thân, đồng thời đem tinh thần Phúc Âm vào môi trường sống trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội” (số 2).
Vậy, giờ này chúng ta gặp Ngài đang gặp Chúa và lát nữa chúng ta lại đón Ngài vào nhà của chúng ta là tâm hồn của mỗi người. Chúng ta hãy để Chúa nói và dạy, đồng thời khi về với cuộc sống hãy làm theo Chúa dạy, chắc chắn đời ta sẽ thay đổi dần dần: thay vì dùng lời tục tiểu mà chửi mắn nhưng lấy lời lành mà khuyên người; thay vì lo thu vén cho mình, ích kỷ không biết cho đi, nhưng yêu thương giúp đỡ nhau khi ốm đau, khi hoạn nạn. Và nhất là biết sẵn sàng chia sẻ niềm đức tin này cho anh cho em khác nhờ đồng thời chia sẻ cuộc sống an bình của mình cho mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nỗ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Vì vậy, Đức Thánh Cha Phan xicô nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
Ước gì lời bài thánh ca này trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh. Nguồn suối nếu bế tắc, thì dòng sông mau cạn khô. Tình yêu không Kitô ôi tình yêu sao cằn cổi. Vì Chúa chính dòng suối nguồn yêu thương vô biên, biển yêu thương nối liền các hoang đảo với đại dương”.
6. Ơn gọi
Chúa nhật hôm nay có thể được coi là Chúa nhật của ơn gọi. Thực vậy, bài đọc một ghi lại câu chuyện Chúa gọi Samuel một cách đích danh và cậu đã đáp lại tiếng gọi ấy: Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Đoạn Tin Mừng ghi lại câu chuyện Chúa Giêsu thâu nhận những môn đệ đầu tiên, được ghi lại trong Phúc âm theo thánh Gioan, thì mọi sự dường như đã bắt đầu từ các môn đệ. Các ông đến với Chúa trong những trường hợp khác nhau. Có người đang là môn đệ của Gioan tiền hô. Có người được anh rủ tới. Có người đến với Chúa sau lời giới thiệu: Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Cũng có người đến vơi Ngài sau lời xác quyết Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Tin Mừng còn nói là họ đã đến với Ngài và sau khi đã xem chổ Ngài ở, họ đã ở lại với Ngài.
Chỗ Ngài ở, hiển nhiên không phải là đền đài nguy nga lộng lẫy, bởi vì chính Ngài đã từng tuyên bố: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Họ đến với Ngài chỉ vì Ngài và chỉ vì được Ngài lôi cuốn. Chúa Giêsu đã lôi cuốn họ và sự lôi cuốn này có sức biến đổi hẳn con người của ho.
Chúa Giêsu không muón thực hiện sứ mạng của Ngài một cách đơn độc và lẻ loi, trái lại Ngài luôn mong muốn sứ mạng ấy phải được thực hiện bởi chính Ngài và được tiếp nối bởi những người đã từng chứng kiến những việc Ngài đã làm. Sứ mạng ấy là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Chúng ta cũng đã đến với Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta cũng đã trở thành Kitô hữu bằng nhiều cách khác nhau: qua sự giới thiệu của một người bạn hay của một người thân, sau một biến cố đáng ghi nhớ trong đời hay sau khi đọc xong một cuốn sách. Và thông thường nhất đó là chúng ta được diễm phúc sinh ra trong một gia đình Kitô hữu. Vấn để thiết yếu của mỗi người chúng ta, đó là đi theo Chúa và ở lại với Ngài. Nghĩa là trở thành môn đệ của Ngài, trở thành người được Ngài mời gọi và sai đi, trở thành người loan báo Tin Mừng về tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Sự gắn bó với Chúa cũng như với lời Ngài, sự lắng nghe để nhận ra ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa trong từng sự kiện, trong gừng biến cố của cuộc sống thường ngay phải là thái độ người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu cần phải có.
7. Vai trò trung gian
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Vai trò người làm trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người bao giờ cũng hết sức cần thiết. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy điều đó.
Bài đọc I, kể lại ơn gọi của Samuel: Từ nhỏ, Samuel ở lại trong đền Silô để giúp việc cho Thầy Hêli. Vào một đêm nọ, khi Samuel đang ngủ bên cạnh hòm bia Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi Samuel ba lần. Hai lần đầu, cậu tưởng là Thầy Hêli gọi, nên cậu đến trình diện. Nhưng sau đó, Thầy Hêli cho biết là tiếng Chúa gọi, nên lần thứ ba Samuel đã mau mắn đáp trả lại rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”(1Sm 3,9). Thế rồi, Samuel được Chúa chọn thay thế thầy Hêli, làm thủ lãnh dân Do thái.
Bài Tin mừng hôm nay được thánh Gioan tường thuật lại việc các môn đệ đầu tiên gặp gỡ và đi theo Đức Giêsu chính là nhờ vai trò trung gian của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin mừng cho biết: Khi thấy Đức Giêsu đi qua, Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn về phía Người và giới thiệu với Anrê và Gioan rằng: “Đây là chiên Thiên Chúa.” (Ga 1,36). Thế rồi, hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Sau thời gian đó, hai ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Khi trở về nhà, Anrê lại làm trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”(Ga 1,41). Sau đó, Anrê dẫn Simon tới gặp Đức Giêsu và được Người đổi tên cho Simon là Kêpha, nghĩa là Đá (x. Ga 1,42).
Như vậy, nhờ thầy Hêli mà Samuel nhận ra tiếng Chúa gọi, nhờ Thánh Gioan Tẩy Giả mà Anrê và Gioan đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và nhờ Anrê mà Simon tin theo Đức Giêsu và trở thành Kêpha, tức là Đá. Cho nên, Thánh Gioan Tẩy Giả trở thành trung gian nối kết giữa Anrê và Gioan với Đức Giêsu, còn Anrê trở thành trung gian nối kết giữa Phêrô với Đức Giêsu. Và cứ như thế, nhờ trung gian của các Tông đồ, các môn đệ, các kitô hữu đầu tiên và của Giáo hội suốt hai ngàn năm qua mà vô số người ngoại giáo trở thành kitô hữu.
Ngày hôm nay, để cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người cũng cần có những vai trò trung gian.
Trước hết, vai trò trung gian trong ơn gọi linh mục và tu sĩ. Samuel đã nhờ Thầy Hêli mà gặp được Chúa, trở thành lãnh tụ của dân Do Thái. Để trở thành linh mục, tu sĩ cũng cần có những người làm trung gian. Đó chính là cha mẹ, người thân, bạn bè, thầy cô giáo lý viên, cha xứ, cha đỡ đầu, những người bảo trợ…Chính nhờ gương sáng của các vị này mà nhiều bạn trẻ đã có chí hướng đi tu làm linh mục hay tu sĩ. Sống trong một đất nước nghèo như ở Việt Nam chúng ta thì sự nâng đỡ về vật chất cho các ứng sinh tu sĩ và linh mục tương lai là điều hết sức cần thiết. Vì thế, có thể nói đa số các linh mục tu sĩ trưởng thành như hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ của những người trung gian như: cha xứ, cha đỡ đầu, người bảo trợ.
Thứ đến, vai trò trung gian trong việc giúp người tội lỗi trở về với Chúa. Qua dụ ngôn con chiên lạc, người đàn bà đánh mất đồng bạc, chúng ta thấy Đức Giêsu chú trọng đến việc “đi tìm”. Người chủ chăn đi tìm con chiên lạc. Người đàn bà đi tìm đồng bạc đã đánh mất. Chúng ta cũng phải trở thành người trung gian đi tìm “các con chiên lạc” hay “đồng tiền bị đánh mất”. Đó là những người kitô hữu nhưng sống đạo khô khan, sa vào các tệ nạn, phạm tội nặng hay thậm chí họ không còn sống đạo nữa. Họ có thể là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè của chúng ta. Chúng ta có thể giúp họ trở về với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự khuyên bảo, dẫn dắt họ đến với các linh mục, đến với bí tích Giao hòa. Đó là trách nhiệm tái truyền giáo của chúng ta.
Thứ ba, người kitô hữu làm trung gian để giúp người ngoại giáo trở thành người kitô hữu. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho Anrê và Gioan. Anrê đã giới thiệu Đức Giêsu cho Simon. Suốt 2000 năm qua, Giáo hội không ngừng giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân. Thế nhưng con số kitô hữu trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Tại Việt Nam, người Công giáo chỉ chiếm khoảng 10%. Vì vậy, vai trò trung gian của người kitô hữu vẫn luôn quan trọng và cấp bách. Chúng ta có thể rao giảng về Chúa cho họ, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nhưng hiệu quả hơn cả đó chính là làm gương sáng bằng chính đời sống bác ái yêu thương. Đó chính là trách nhiệm truyền giáo của chúng ta.
Nhưng để chu toàn vai trò trung gian giữa con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người thì người làm trung gian cần phải dành nhiều thời gian để: gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa như Anrê và Gioan; lắng nghe tiếng Chúa như Samuel. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội, qua sự khuyên dạy của Bề trên như Cha xứ, cha mẹ hay những người khôn ngoan. Chúng ta cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo qua lương tâm.
Mặt khác, người trung gian cần phải có một đời sống mẫu mực, nghĩa là phải có Chúa trong mình thì mới có thể đem Chúa đến với tha nhân, vì “không ai cho cái mình không có”. Để có Chúa trong mình, cần phải xa tránh tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Cônrintô, khi đã chịu Phép Rửa tội là đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần nên họ không được phạm tội tà dâm, vì như vậy sẽ làm ô uế thân xác. Ngài nói: “Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 18-20). Lời mời gọi các tín hữu Côrintô cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta hôm nay. Ngày hôm nay do ảnh hưởng bởi sách báo, phim ảnh, internet nên con người lại càng dễ bị cám dỗ phạm tội dâm dục hơn. Vì thế, để tránh được tội này cần phải thường xuyên cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, đồng thời cần phải xa tránh các dịp tội bằng cách quyết tâm không đọc sách báo xấu, không vào các trang mạng xấu, không xem phim ảnh dâm ô và xa tránh những nơi ảnh hưởng đến đức trong sạch.
Xin cho tất cả mọi người kitô hữu chúng ta biết xa tránh tội lỗi nhất là tội dâm ô, để sống thánh thiện, xứng đáng làm cầu nối cho tha nhân đến với với Chúa. Amen.
8. Gặp gỡ Tin Mừng
Tin Mừng là để được loan báo, và chia sẻ cho người khác. Thực vậy, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã loan báo cho các mục đồng: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít. Còn đối với các đạo sĩ Phương Đông, con đường dẫn đến Tin Mừng lại là một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.
Thực vậy, có muôn ngàn cách thế và nẻo đường khác nhau để Thiên Chúa hướng dẫn con người nhận ra Tin Mừng, Lời Chúa hôm nay cũng muốn gợi lên cho chúng ta ý tưởng đó.
Gioan Tiền Hô đã gặp Chúa Giêsu và giới thiệu Ngài cho các môn đệ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Và các môn đệ đã từ giã Gioan là thầy mình, để đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày hôm đó. Rồi đến lượt Andrê đã trở về và dẫn anh mình là Simon đến gặp Chúa Giêsu và đã được Ngài đổi tiên cho ông là Kêpha.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng luôn có những diễn tiến như vậy. Một người nào đó gặp Chúa, họ trở về và loan báo cho người khác. Như các mục đồng chăn chiên, như ba nhà đạo sĩ phương Đông, như Andrê với Simon, như Philipphê với Nathanael…
Hoặc nếu không qua trung gian, thì chính Chúa Giêsu lại gặp gỡ con người trong chính cuộc sống của họ: Người thì đang giặt lưới dưới thuyền, kẻ thì đang trầm tư suy nghĩ dưới gốc cây vả, kẻ khác thì đang ngồi ở bàn thu thuế hay đang ở trên cây cao như ông Giakêu…
Thiên Chúa luôn đến với chúng ta qua một trung gian: Trung gian của một người đã gặp Chúa, trung gian của một cuộc sống hay của một biến cố nào đó. Có thể nói: Bao nhiêu cuộc gặp gỡ và biến cố trong cuộc sống là bấy nhiêu dịp để nhận ra Tin Mừng, là bấy nhiêu dấu chỉ mời gọi để gặp gỡ Chúa.
Thánh Phanxicô Xaviê đã nhận ra con đường Chúa muốn ngài đi qua lời nhắc bảo của thánh Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Thi sĩ Paul Claudel đã nhận ra tiếng Chúa trong tiếng hát của lời kinh Magnificat vào buổi chiều ngày lễ Giáng sinh. Văn sĩ Andrê Frossard cảm nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa qua ánh nến lung linh trên bàn thờ. Đức Hồng Y Lustiger vào năm 14 tuổi, đã nhận ra Đấng Cứu Thế trong một buổi chiều thứ sáu Tuần Thánh. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có nhận ra tiếng Chúa mời gọi qua những biến cố, qua những sự việc của đời thường hay không? Và hơn thế nữa, liệu bản thân và cuộc đời chúng ta có trở nên là một dấu chỉ cho sự hiện diện và tình thương của Chúa hay không?
9. Tôi đã gặp
Là người đạo gốc, chúng ta vốn thường xuyên đọc kinh xem lễ, nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta băn khoăn tự hỏi: Liệu chúng ta đã thực sự gặp gở Chúa hay chưa? Vậy thế nào là gặp gỡ Chúa? Kinh Thánh đã kể lại biết bao nhiêu sự gặp gỡ.
Trong Cựu ước, qua bài đọc một, chúng ta thấy Samuel đã gặp gỡ Chúa ngay từ buổi thiếu thời và đã bước theo tiếng gọi của Ngài trong suốt cuộc đời.
Trong Tân ước, trước tiên là các môn đệ. Các ông đã đi theo Chúa, nhất là khi đã cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng mặc bao gian truân nguy hiểm trên con đường thực hiện sứ vụ.
Tiếp đến là những người phụ nữ. Chẳng hạn như người đàn bà ngoại tình đã được Chúa che chở bình an trước những kẻ cực đoan định ném đá chị. Hay như Madalena, ngay từ buổi gặp gỡ Chúa đã đoạn tuyệt với cuộc đời tội lỗi để sống xứng đáng với ơn tha thứ chị đã nhận lãnh.
Đặc biệt nhất là thánh Phaolô. Kể từ khi bị ngã ngựa trên đường đi Đamas, ông đã bừng tỉnh. Từ một kẻ say sưa bắt bớ các tín hũu, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành và xác tín: Đức Kitô sống trong tôi… và không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Ông đã cảm nhận mình là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ của Thiên Chúa, và trong suốt cuộc đời còn lại ông đã trung thành với ơn gọi của mình, là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại.
Trong lịch sử Giáo Hội, sự gặp gỡ làm thay đổi cuộc đời đã được thể hiện qua hình ảnh của thánh Augustinô, thánh Ignatiô và nhiều vị thánh khác. Từ một cuộc sống sa ngã trác táng, họ đã trở nên những con người thánh thiện, nhiệt thành với sự nghiệp Nước Chúa.
Một câu nói của Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi, đã làm chuyển hướng cả cuộc đời của Phanxicô. Một câu trong Phúc âm: Hãy bán tất cả, làm phúc cho kẻ nghèo rồi đến mà theo Ta, đã thay đổi hẳn con người của Antôn.
Và gần đây, Mẹ Têrêxa thành Calcutta, mẹ đã gặp Chúa nơi những người nghèo khổ mà mẹ đã đem cả cuộc đời mình để phục vụ. Cha Lelotte trong cuốn “Những người trở lại trong thế kỷ 20” ghi lại hơn ba mươi khuôn mặt từ giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân và cả những người ngoài Kitô giáo, cha trình bày kinh nghiệm gặp gỡ Chúa một cách độc đáo, riêng biệt của từng người. Và từ ngày ấy cuộc đời của họ đã biến đổi một cách sâu sắc. Nhưng dẫu bởi cách thức nào đi chăng nữa, thì qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy, tất cả đều cảm nhận được Chúa một cách rất cụ thể, Ngài thực sự hiện diện mà họ có thể nhìn thấy, có thể trao đổi. Đồng thời cũng họ cảm nhận được tình thương cao cả của Ngài đối với con người qua hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế, chia sẻ thân phận của con người, chịu mọi khổ nhục và cuối cùng chịu chết trên thập giá để làm chứng cho tình yêu.
Qua sự gặp gỡ yêu thương ấy, con người chỉ có một cách đáp trả duy nhất là thực hiện lời dạy của Ngài: Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đó là một ơn huệ lớn lao và cũng là một đòi hỏi triệt để của Chúa đối với con người. Dấu chứng của sự gặp gỡ Chúa là một cuộc sống biến đổi tích cực được thể hiện qua sự an bình và tình yêu thương. Và như thế, chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa?
10. Giới thiệu Chúa cho anh em mình
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một bé gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: “Giá mà ông chủ Naamna được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh”. Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua dể mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: “Hãy đi tắm trong dòng song Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi”.
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đây tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an”.
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: “chúng tôi đã gặp Đấng Mesia” (Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin Mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi, sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm Người hài lòng, vì sau đó Người phán: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Pherô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi nhất trong Thánh Kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia”.
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế gian. Amen.
11. Hãy đến mà xem
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn sóng của đài phát thanh. Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe bằng tai.
Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa bên kia trái đất.
Thế là từ khi có truyền hình, không ai mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.
***
Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai chặng đường như thế. Khởi đầu, Thiên Chúa không trực tiếp tỏ mình cho loài người nhưng chỉ phán dạy qua các ngôn sứ, – như thể qua xướng ngôn viên trên các đài phát thanh – nên chân dung của Thiên Chúa còn rất mờ mịt đối với loài người.
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1a). Tiến sang giai đoạn hai, Thiên Chúa không còn mặc khải Người bằng lời qua trung gian các ngôn sứ nữa, nhưng đã bày tỏ chính Mình qua Con chí ái là Đức Giêsu Kitô. “Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1b)
Thế là từ đây, Lời của Thiên Chúa – tức Ngôi Lời – không còn là tiếng nói từ cõi xa xăm vọng lại, nhưng đã mặc lấy một hình hài, một thân xác để cho mọi người không những được nghe tiếng mà còn có thể nhìn ngắm, đụng chạm, tiếp xúc với Ngôi Lời.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14)
“Người là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa” (Dt 1,3)
Thế là chương trình mặc khải của Thiên Chúa đã chuyển sang một khúc quanh mới: giai đoạn mặc khải qua hình ảnh, qua chân dung – như kỹ thuật vô tuyến truyền hình hiện nay – đã khai mở. Nhờ đó, nhân loại không những có thể “nghe”, mà còn “thấy tận mắt, được chiêm ngưỡng và được chạm đến Lời” của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. (thư IGa 1,1)
***
Hãy đến mà xem
Trăm nghe không bằng một thấy. Nghe tường thuật về một trận bóng sao bằng tận mắt xem trận đó, ít nữa qua chiếc TV.
Chính vì thế nên khi Anrê và một môn đệ khác của Gioan Tẩy Giả được giới thiệu cho biết Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, hai ông liền tìm gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Người. Chúa Giêsu quay lại hỏi: “Các anh tìm ai?”. Họ thưa Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến mà xem”. Hai anh em nầy đến với Chúa Giêsu, ở lại với Người, rồi mới sống gắn bó và trở thành môn đệ của Người.
***
Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến mà xem”, nhưng chúng ta có thể nhìn xem Chúa ở đâu?
Trước hết là trong Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết kinh thánh là không biết Chúa Giêsu”. Từng trang, từng dòng trong kinh thánh đều hoạ lại chân dung Chúa Giêsu và âm vang lên sứ điệp của Người. Biết bao nhiêu người nhờ thường xuyên nhìn ngắm cuộc đời và lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu trong Tân Ước, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đã được diễm phúc cảm nghiệm được Chúa là Đấng tuyệt vời khôn tả.
Dostoievski, đại văn hào trứ danh người Nga ở thế kỷ 19, cũng là ngôi sao sáng trong trong làng văn học thế giới, từng viết nhiều tác phẩm đồ sộ có giá trị vượt thời gian và không gian, thường chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin Mừng nên mới cảm nhận được nét đẹp cao quý tuyệt vời của Chúa Giêsu và đã tuyên xưng Người qua bức thư gửi cho bà Von Vizine. Bức thư nầy thường được gọi là kinh tin kính của Dostoievski: “Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, nếu ai chứng minh với tôi rằng Đức Giêsu ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”.
Ước gì chúng ta thường xuyên “đến mà xem” Chúa Giêsu trong kinh thánh, “ở lại với Người” nơi bí tích thánh thể, để rồi say mê Người như Dostoievski và trở thành môn đệ Người như Anrê và người bạn của ông.
12. Hãy đến mà xem – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đức Giêsu nói với mấy anh thanh niên: “Hãy đến mà xem”. Tôi tự hỏi, lúc đó Chúa Giêsu là người lang thang không nhà, không cửa, “không có hòn đá gối đầu”, thế mà Người lại gọi họ theo Người. Khi họ hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu”, Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Xem gì? xem hòn đá gối đầu ư? xem một người cùng khổ ư? Thật là bạo phổi, nếu không phải là vớ vẩn!
Nhưng không, không phải đến xem hòn đá, mà là nhìn kỹ một người sống mạnh mẽ. Không phải xem người cùng khổ, nhưng thấy một tấm lòng cao cả, thương yêu những người cùng khổ.
Xưa cũng như nay, người ta chỉ tin những gì xem bằng mắt, bắt bằng tay. Họ đã nói: Trăm nghe không bằng một thấy, đừng nghe những gì nó nói, phải nhìn kỹ việc nó làm. Khổng Tử cũng dậy môn đệ: “Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhơn yên sưu tai?” – Hãy nhìn kỹ cách họ làm, quan sát do đâu họ làm, cứu xét việc có an lành không? Họ làm có yên vui không? (Luận ngữ II, 10). Để xác nhận một lý thuyết là chân thực, các nhà khoa học đòi phải được thí nghiệm và kiểm chứng.
Quan sát, suy nghĩ và hành động là phương châm khôn ngoan. Đức Giêsu muốn gọi Gioan và Anrê làm môn đệ, Người muốn họ phải biết sống theo phương châm khôn ngoan ấy, chứ không phải theo Người cách mù quáng.
Sau những lời giới thiệu của vị Tiền Hô, chắc mấy anh thanh niên đó đã thảo luận nhiều về Đức Giêsu: Đấng Chiên Thiên Chúa. Dầu vậy, mấy anh còn phải tiếp xúc trực tiếp với Người. Phải quan sát Người với tất cả trí óc, con tim và ý chí của các anh. Các anh đã thấy Người sống với các anh rất giản dị, chân thành, siêu thoát, hiền hòa khả ái, trong buổi chiều thanh bình êm đềm, thân mật để cho từng lời nói, từng việc làm và nhất là tâm tình của Người như một cuốn phim diễn ra trước khối óc, con tim, chứ không phải chỉ xem bằng mắt, bắt bằng tay của giác quan tầm thường. Lúc đó, Thần khí tình yêu thanh khiết, nồng nàn của Người như men thơm dậy hương đậm đà trong lòng mình. Chân lý cao cả nhiệm mầu của Người như ánh sáng chiếu tỏa rạng ngời trong tâm trí mình. Và sức sống mãnh liệt của Người như máu đào tươi sống dạt dào chảy tràn vào con tim mình. Toàn diện con người các anh đã thấm nhuần tinh thần cao siêu lạ lùng của Người. Mỗi người các anh đã cảm động và vui mừng thốt lên: “Lạy Thầy, con theo ai được! Vì chỉ Thầy mới có lời ban sự sống trường tồn” (Ga. 6, 68).
Các anh đã thành môn đệ nghĩa thiết và chứng nhân trung tín của Đức Giêsu, “vì ngay sáng hôm sau, Anrê đã đi tìm em mình là Simon và nói: Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia (tức là Đấng Kitô). Rồi kéo em đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: Anh là Simon, con ông Giona, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”.
Đức Giêsu đã kêu tên Simon thân mật như bạn hữu và đã đổi tên tục Simon thành danh hiệu Phêrô nghĩa là Đá tảng. Như vậy, bài Tin mừng hôm nay trình bày một đường lối trực tiếp gặp gỡ Chúa, cho ta khám phá thấy ơn Chúa gọi ta để ta quyết tâm theo Chúa.
Lời Chúa hôm nay còn cho ta thấy, trước khi được trực tiếp gặp Chúa, ta cũng cần nhiều trung gian hướng dẫn, giới thiệu cho ta đến với Chúa. Vị tiền hô đã giới thiệu cho Gioan và Anrê đến theo Chúa.
Rồi Anrê lại giới thiệu cho Simon được gặp Chúa. Ngôn sứ Samuen đã kể lại kinh nghiệm đó trong bài đọc 1. Khi còn nhỏ, Samuen đã sống với thầy tư tế Hêli trong đền thờ, được thầy huấn luyện và dạy dỗ về Thiên Chúa, Samuen đã trở thành cậu bé rất đạo đức tốt lành. Cậu ngủ trong đền thờ, bên hòm bia Thiên Chúa, được Chúa gọi bốn lần, cậu đều mau mắn thức dậy thưa: Dạ, con đây và lanh lẹ chạy đến thầy Hêli ba lần vì tưởng thầy gọi. Lần thứ bốn Chúa gọi, cậu vẫn không mê ngủ, không cựa quậy, tỉnh dậy ngay, kính cẩn thưa như thầy Hêli dạy: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Ước chi những cậu bé của chúng ta được như Samuen, đồng thời chúng ta phải nỗ lực huấn luyện con em mình biết luôn luôn kính cẩn cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.
Biết lắng nghe lời cha mẹ, lắng nghe lời linh mục, lắng nghe giáo lý, lắng nghe lời Chúa, mới được Chúa đến mời gọi: “Hãy đến mà xem”.
Bài đọc hai, thánh Phaolô đã hướng dẫn tín hữu giáo đoàn Côrintô khám phá và gặp gỡ Chúa trong chính bản thân mình. Nhưng điều thiết yếu là thân xác ta không được dùng để gian dâm, mà chỉ để phụng sự Chúa, lý do là Chúa làm chủ bản thân ta, đã mua chuộc ta bằng giá rất đắt. Chỉ như thế, ta mới khám phá thấy bản thân ta là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, khiến ta được kết hợp với Chúa nên một tinh thần, cho ta xứng đáng tôn vinh Thiên Chúa, và được sống lại với Đức Kitô.
Lạy Chúa, ơn kêu gọi chúng con thật cao cả quý giá vô cùng. Xin cho chúng con biết đến mà xem Chúa trong bản thân chúng con, xem Chúa trong mọi người, xem Chúa trong chính Đấng Mesia, chúng con mới mong khám phá ra ơn Chúa gọi chúng con. Đến gặp gỡ Chúa, sống nghĩa thiết với Chúa, hiệp thông sự sống dồi dào của Chúa và được chia sẻ sứ mạng cứu độ muôn dân của Chúa.
13. “Hãy quên đi cái tôi…”
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát sinh hoạt quen thuộc vẫn mời gọi chúng ta: “Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời”. Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Xem ra từ thích danh vọng đến hám danh hám lợi thật gần, gần đến nỗi nhiều người đã trơ trẽn nhận phần vinh quang về mình, cho dù vinh quang đó không do công của mình.
Ngày nay ai cũng sợ bệnh thành tích. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến ham danh hão huyền. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến biết bao tiêu cực bởi sự gian dối, lường gạt. Những con người ham danh thường là sống giả dối, thiếu chân thật. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Nhưng đôi khi họ chỉ là một loại Lý Thông cướp công Thạch Sanh như trong truyện dân gian Việt Nam.
Có một nhà truyền giáo tâm sự rằng: ngài đã từng truyền giáo tại Đông Timor. Đó là một đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Người dân còn thiếu rất nhiều phương tiện tối thiểu của cuộc sống. Ngài đã vận động rất nhiều các cá nhân và tổ chức từ thiện ở mọi nơi để giúp đỡ cho người dân Đông Timor. Nhiều nơi hưởng ứng và nhờ đó ngài đã có rất nhiều tặng phẩm để tặng cho người nghèo. Tự nhiên ngài được người dân kính nể, yêu mến và biết ơn. Thế nhưng, ngài lại mắc cở khi được người đời ca tụng. Vì ngài biết rất rõ, ngài chỉ là kẻ phân phát, là trung gian chứ không phải là chủ nhân. Ngài chẳng có chỉ ngoài đôi tay để đón nhận và trao ban. Ngài không có quyền nhận cái không phải của mình. Vì tiền bạc, của cải là của những nhà hảo tâm trao cho ngài để ngài trao đến cho anh em nghèo khó. Từ đó, ngài đã rút ra kinh nghiệm rằng: cái khó của người làm công tác từ thiện là làm sao đửng nhận mình là người ban phát, đừng tưởng rằng những tặng phẩm đó là của mình cho người nghèo. Hãy khiêm tốn đừng nhận phần đó về mình là những lời khen, những lới tán dương… Hãy biết cho đi cả danh dự của mình, vinh quang của mình. Hãy tự biết mình chỉ là tôi tớ hèn mọn được Chúa sử dụng mang lại niềm vui cho những anh em nghèo khó.
Đó cũng là cung cách của thánh Gioan Baotixita. Ngài luôn sống khiêm tốn trước mặt mọi người. Ngài đã từng không dám nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: “Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn “nhỏ bé để Chúa được lớn lên”. Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa. Ngài muốn dùng cuộc đời chứng nhân của mình để tôn vinh Thiên Chúa.
Hôm nay, ngài cũng sẵn sàng để các môn đệ của mình đến với Chúa. Ngài không dám giữ các môn đệ cho riêng mình. Ngài đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.
Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh mình. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không nhằm rạng danh mình. Dấn thân để mang anh em đến với Chúa, để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải đến với mình để tâng bốc tán dương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng quảng đại để cho đi cái riêng của mình để làm giầu có cho Thiên Chúa, như Gioan đã cho các môn đệ đến với Thầy Giêsu, như Anre đã mang em mình là Simon đến với Chúa. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Người đời thường đua nhau danh vọng. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công… Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen.
14. Truyền giáo trong thế giới ảo
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Ngày nay không ai phủ nhận sự tích cực của công nghệ thông tin. Con người ngày nay đang tận dụng rất nhiều về công nghệ để giải quyết công việc hằng ngày. Với thời đại hôm nay chỉ cần ngồi một chỗ là có thể làm được mọi thứ từ làm việc đến mua sắm, học tập, giải trí… Đặc biệt là công nghệ đã giúp con người giải quyết tốt các vấn đề việc làm nhờ sự phát triển đa phương tiện.
Tuy nhiên mặt tiêu cực của công nghệ thông tin cũng đưa con người vào một lối sống mới mà người ta gọi là “sống ảo”. Sống ảo là sống không thực với hiện tại, luôn có những suy nghĩ, ý tưởng dựa vào những gì xa vời mà internet mang lại. Với thế giới ảo này người ta cũng dễ phạm tội từ việc bêu xấu, đả kích nhau, lừa tiền, lừa tình… dẫn đến phạm pháp giết người cướp của tràn lan.
Theo số lượng thống kê mới đây nhất của Facebook thì Việt Nam có khoảng 30 triệu người dùng thường xuyên trên Facebook, và con số này còn tăng trưởng mỗi ngày. Như vậy với dân số hơn 90 triệu dân thì 1/3 dân số Việt Nam biết đến mạng xã hội Facebook.
Dù facebook có mặt tốt mặt xấu nhưng thực tế trong thế giới ảo đó hiện đang có số lượng người tham gia rất nhiều. Là người ky-tô hữu chúng ta có bao giờ nghĩ mình phải là gạch nối cho những con người trong thế giới đó biết Thiên Chúa, hiểu Thiên Chúa và sống gắn bó với Thiên Chúa hay không?
Thiết nghĩ đây là cánh đồng truyền mà Chúa đang nhắc nhở chúng ta nếu không nhanh tay gặt hái thì chim trời sẽ tha đi hết. Nếu người ky-tô hữu chúng ta không tận dụng những công nghệ hiện đại để tiếp cận với cánh đồng truyền giáo mênh mông này thì ma qủy sẽ cướp đi biết bao linh hồn. Ngày xưa các nhà truyền giáo phải lặn lội cả hàng tháng trời để tới những vùng sâu vùng xa mong tiếp cận với những người chưa biết Chúa để nói về Chúa cho họ. Ngày nay chúng ta chỉ cần một nút nhấn có thể gởi một thông điệp về Chúa cho hàng ngàn con người trong một giây. Tại sao chúng ta không tận dụng cơ hội giới thiệu Chúa cho anh em đang khi chúng ta có khả năng để giới thiệu Chúa?
Thánh Gioan Tẩy Giả đã luôn tận dùng mọi thời cơ để giới thiệu Đấng Cứu Thế đến cho mọi người. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông nơi hoang địa hay nơi sông Giordan. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin khi mà một lượng người rất lớn đang sống ảo thì một sứ điệp về Chúa rất cần được chúng ta loan tải trên trang cá nhân của chúng ta. Một hành vi tưởng chừng như nhỏ nhoi nhưng chúng ta tin rằng Chúa sẽ làm điều kỳ diệu qua những nỗ lực của chúng ta. Một hành vi tưởng như dã tràng xe cát biển đông nhưng với quyền năng Chúa sẽ cứu rỗi được nhiều linh hồn. Điều quan yếu là ta đã biết tận dụng phương tiện truyền thông hiện đại để nói về Chúa cho con người hôm nay. Amen.
15. Nghề mai mối
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cưới xin ngày xưa ở Việt Nam thường lệ thuộc vào ông mai bà mối. Ông mai bà mối được xem là một nghề. Khi nhà trai muốn kiếm vợ cho con. Họ cần một bà mai để kiếm vợ cho con. Họ nhờ vả bà mai kiếm cho họ một cô con dâu vừa đẹp vừa ngoan. Có khi gia đình nào có con gái đến tuổi cập kê kiếm chồng không ra, hay gọi nôm na là ế chồng thì cũng nhờ đến bà mai. Sở trường nổi bật của bà mai là phải thật dẻo mồm dẻo miệng, nói dở thành hay, mới hy vọng kết mối tơ duyện cho đôi vợ chồng.
Điều hay nơi các bà mai mối thường đóng vai trò con thoi khiêm nhường. Nhiệm vụ của họ chỉ là giới thiệu hai gia đình quen biết nhau, đốc thúc gặp gỡ để hai họ đi đến việc thăm viếng làm quen rồi đề nghị đám hỏi, đám cưới…
Theo thời gian, với cuộc sống hiện đại, khi các mối quan hệ ngày càng mở rộng, toàn cầu, con người sẽ dễ dàng tìm được bạn đời ưng ý, song thực tế, chuyện mai mối vẫn là điều đang diễn ra hàng ngày, chỉ có điều ở hình thức khác, hiện tượng khác hơn và ông tơ bà mối cũng khác hơn ngày xưa.
Có một người bạn tâm sự: “Hôm vừa rồi, mình vừa giới thiệu cô bạn thân với anh bạn đồng nghiệp. Tưởng chỉ làm bạn, ai dè thành đôi đấy. Cũng khá đẹp đôi với nhau. Mà mình cũng mát tay thật. Đây là đôi thứ 3 đấy. Cứ không ngờ mà lại thành thật. Hai đôi trước cưới nhau rồi. Mà toàn là bạn thân thiết của nhau cả. Cũng thấy vui vui vì đã làm được điều có ích”.
Sự khác biệt của ông tơ bà mối ngày nay không còn là một nghề nữa, nhưng nó lại đa dạng nơi mọi thành phần. Có thể là một người bạn, người anh, người chị, thậm chí là một chiếc điện thoại, máy tính cũng thành bà mối tình duyên.
Tình yêu Thiên Chúa đến với con người cũng cần ông mai bà mối. Thiên Chúa cần một ai đó để giới thiệu về tình yêu Chúa cho con người. Thiên Chúa cần một bà mối nói thật hay, sống thật tốt để giới thiệu Chúa cho anh em của mình. Thiên Chúa cần chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em lương dân đang sống bên cạnh mình. Hãy nói về tình yêu của Chúa. Hãy mạnh dạn giới thiệu Chúa đến cho bạn bè, cho đồng nghiệp và cho anh em của mình.
Ngày xưa là thời các nhà truyền giáo làm nghề giới thiệu Chúa, hôm nay không còn các nhà truyền giáo chuyên biệt mà là từng người chúng ta. Mỗi người phải có bổn phận làm ông mai bà mối cho anh em, bè bạn của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng từng là ông mai bà mối cho Đấng Cứu Thế. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.
Thế nên, , không phải chỉ Gioan mới được Chúa mời gọi làm người “mai mối” cho Ngài đến với nhân loại. Không phải chỉ Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả những ai mang danh kitô hữu. Qua bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói và bằng cả hành động. Hãy mạnh dạn nói về Chúa. Hãy chia sẻ niềm vui làm con Chúa cho tha nhân. Nhất là hãy sống một đời nhân chứng khi biết nói không với tội lỗi, khi biết vượt lên những bon chen tầm thường để chọn Chúa làm gia nghiệp. Và chắc chắn điều mà chúng ta có thể thuyết phục tha nhân tin theo Chúa là hết mình sống vì Tin mừng qua giới luật yêu thương.
Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Amen.
16. Chúa Nhật 2 Thưởng Niên
(Suy niệm của JB. Nguyễn Quốc Tuấn)
BƯỚC THEO ĐỨC KITÔ TRONG CUỘC SỐNG HÔM NAY
Cuộc sống hôm nay đang đặt ra cho người Kitô hữu rất nhiều chọn lựa: chọn lựa giữa niềm tin vĩnh cửu với sự hấp dẫn kỳ thú của những thành tựu vĩ đại do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại, giữa hành vi buông thả, tự do quá trớn với thái độ đúng mực theo nền tảng luân lý truyền thống, nhất là sự cân nhắc chọn lựa giữa các “thần tượng” trần thế với lời mời gọi lý tưởng đến từ thập giá Đức Kitô… Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta bắt gặp được câu trả lời thỏa đáng cho những chọn lựa ấy. Tin mừng Ga 1, 35 – 42 đã gợi lên cho chúng ta kinh nghiệm đáp trả đích thực của người môn đệ Chúa trước lời mời gọi của Đức Kitô.
1. Tiếng gọi từ thập giá
Gioan Tiền hô đã không giới thiệu Đức Giêsu “với hai người trong nhóm môn đệ” như là vị vua hùng dũng sẽ đem vinh quang cho toàn cõi Israel ở phương diện trần thế, nhưng “là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36b). Khi nghe biết tước hiệu của Đấng đang “đi ngang qua” là “Chiên Thiên Chúa”, chắc hẳn hai môn đệ của Gioan (Anrê và một môn đệ khác) không khỏi sững sờ và kinh ngạc về vai trò và vị thế của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời giới thiệu của Gioan mở ra bước ngoặt trọng đại có liên quan đến sứ vụ của các ông và toàn nhân loại. Cũng chính trong thời điểm ấy, hai môn đệ của Gioan đã lắng nghe “tiếng gọi từ phía bên trong”, nhắc bảo các ông hãy bước theo Đấng cứu độ đích thật, là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1, 33b). Nghiệm thấu điều này, hai môn đệ “liền đi theo Đức Giêsu” với tất cả niềm tín thác và hy vọng về giá máu cứu độ của “Chiên Thiên Chúa”. Hành trình sứ vụ trước mắt các ông là chặng đường đau khổ để minh chứng cho sự chọn lựa đúng đắn của mình vào thập giá Đức Kitô. Với tất cả tình yêu tận hiến, hai môn đệ của Gioan đã trở thành những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Tiếng gọi từ thập giá vẫn vang vọng trong tâm thức của người Kitô hữu hôm nay và với hết thảy những ai đang hướng chiều về Đấng là “Chiên Thiên Chúa” đang “đi ngang qua” đời họ với bao nỗi niềm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc… Có khi, dường như ta đã tỏ ra e sợ trước những khổ đau đến từ thập giá. Có lúc, người mang danh kitô hữu lại nhát đảm, thậm chí khước từ, chạy xa khỏi mối dây thông hiệp với cuộc khổ nạn, phục sinh của “Chiên Thiên Chúa” trước những đắng cay, nghiệt ngã của cuộc lữ lành đức tin. Giữa bộn bề, ngổn ngang của bao định hướng, lựa chọn và những áp lực, cám dỗ của lối sống hình thức, tiếng gọi từ thập giá nhiều khi bị chìm lắng và có nguy cơ tan biến trong tâm khảm chúng ta…Hệ quả là, ta phải đứng giữa trăm chiều do dự, lần mò giữa mục tiêu tối hậu với những phương tiện tạm thời, làm cản lối về vinh quang đích thực chỉ có thể tìm thấy nơi thập giá Đức Kitô.
Thái độ đáp trả của hai môn đệ mời gọi ta hãy dứt khoát, can đảm bước ra khỏi lối mờ tối của những lựa chọn và hướng thắng về phía thập giá, ở đó, “Chiên Thiên Chúa” là mẫu hình lý tưởng nhất cho đời ta. Vì chỉ nơi “Chiên Thiên Chúa”, ta mới được biến đổi trong tiến trình hoán cải nội tâm thực sự, nhờ hiệu quả “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).
2. Sống với Đức Kitô
Bước theo Đức Kitô, cũng có nghĩa là chúng ta biết đáp trả cách nhiệt thành và kiên trung trước tiếng gọi từ thập giá. Như hai môn đệ của Gioan, sau khi đã nghe Gioan giới thiệu Đấng “là Chiên Thiên Chúa”, hai ông đã không hề do dự nhưng đã hoàn toàn dứt bỏ lối cũ và nhất mực bước đi theo Người, để sống với Người. Câu hỏi của các ông, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38b), hàm ẩn niềm khát khao kiếm tìm tận căn thân thế và hành động yêu thương của “Chiên Thiên Chúa” khi Người cứu độ nhân loại. Được tình yêu cứu độ thúc bách, các ông đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người” (Ga 1, 39b). Để từ đây, “hai người trong nhóm môn đệ” của Gioan có thể thông dự vào đời sống thần nhiệm sâu xa và sung mãn của Đức Kitô, nhờ lòng tin và tình yêu tận hiến cho vinh quang thập giá.
Đời sống của người kitô hữu là một tiến trình bền bỉ, liên tục kết hiệp mật thiết và sinh động với sự sống của Đức Kitô. Dấu chứng cho sự kết hiệp này được biểu tỏ qua thái độ hy sinh trao hiến của chúng ta như hệ quả do bởi giá máu cứu chuộc của Con Chiên Thiên Chúa. Dù phải đối diện với những chọn lựa đầy khó khăn, người tông đồ của Đức Kitô hôm nay cũng được mời gọi đáp trả tiếng Chúa qua hành động kiếm tìm và “ở lại” trong tình yêu của Người.
Sống với Đức Kitô là cảm thông, sớt chia và làm triển nở tình yêu cứu độ của Người. Hôm nay, ta không thể “đến xem chỗ Người ở” cách thể lý, nhưng mỗi người chúng ta là thành viên chính thức, được hạnh phúc thông dự vào “Ngôi Nhà” Giáo hội do Đức Kitô thiết lập nên, là chính Nhiệm Thể của Người. Do đó, khi ta chu toàn sứ vụ của một chi thể ngay giữa lòng Giáo hội thì ta cũng đồng thời được kết hiệp với sự sống trọn hảo của Đức Kitô.
Sống với Đức Kitô, là tháp hiệp vào trong từng hơi thở, trong ánh mắt yêu thương, trong mỗi cử chỉ, hành vi trao hiến của Người. Tình yêu của Đấng “là Chiên Thiên Chúa” sẽ hiển trị khi ta biết mở rộng cõi lòng để đón nhận và đỡ nâng biết bao phận người đang bị vùi dập giữa những khổ đau của kiếp nhân sinh. Như Đức Kitô, ta hãy dõi ánh mắt yêu thương về phía hận thù và hãy nói lời thứ tha được khởi phát từ con tim dạt dào Đức ái trong ta. Như Đức Kitô, ta hãy cúi xuống và vực dậy nhân loại hôm nay đang cố rời xa những chuẩn mực nền tảng của Tin Mừng.
Ta hãy “ở lại” với Đức Kitô trong nhiệm tích Thánh Thể, để được thông truyền sự sống và tình yêu tuyệt hảo, nhờ đó, ta có được sức mạnh thần linh để sống chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay.
3. Chứng nhân cho Đức Kitô
Theo lời mời gọi của Đức Giêsu, Anrê và người môn đệ ẩn danh không chỉ “đến xem” và “ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39b), nhưng các ông đã báo tin vui cho Si-mon và những người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga 1, 41b). Như vậy, được sống với Đức Giêsu dù chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của buổi đầu gặp gỡ, các môn đệ đầu tiên đã thấu cảm gương mặt đích thực của “Chiên Thiên Chúa” như lời giới thiệu của Gioan. Các ngài đã được biến đổi thành những tông đồ thực thụ nhờ được “ở lại” trong tình yêu của Đức Kitô. Tình yêu ấy thúc bách các ngài tiến xa hơn trên hành trình sứ vụ giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” cho muôn người, dẫu phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân trung thành của Người trước một nhân loại đang tỏ ra lãnh đạm với chân lý và mục tiêu tối hậu. Trong bối cảnh ấy, tiếng gọi từ thập giá vẫn không ngừng âm vọng trong cõi sâu thẳm của con người, kêu mời sự dấn thân quả cảm của những tâm hồn thiện chí cho sự sống và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến đổi thế giới này.
Các môn đệ đầu tiên chỉ có thể giới thiệu Đức Kitô cho những người khác sau khi các ông đã “đi theo”, đã “đến xem” và “ở lại” với Người. Chúng ta chỉ có thể trở nên chứng nhân mạnh bạo, can trường của Đức Kitô khi ta đã sống kinh nghiệm thông dự vào tình yêu thập giá cách trọn hảo.
17. Ơn gọi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng ngay đời hiện tại này nữa.
1) Chúa gọi Samuel
Samuel là người con được sinh ra sau khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.
Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần, nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa. Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.
Thiên Chúa có chương trình cho Samuel. Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô (1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15, 9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).
2) Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô
Con người là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.
Cả thân xác con người cũng là quý giá đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.
3) Ơn gọi
Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao, thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay “dâng hiến” không phải là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình sẽ “chọn” bậc sống đó.
Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa muốn tôi sống đời “dâng hiến,” thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.
Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho biết những nét đẹp của đời sống gia đình.
2. Xin bạn liệt kê những nét đẹp của đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).
3. Theo ý riêng của bạn, đời sống nào giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?
18. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: “Mỗi người có một ông quan trong bụng”. Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại, ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian của người Việt Nam: “Coi trời bằng vung” hay “coi trời bằng ngọn rau má” là thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy, ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: “Gioan đang đứng và nói chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông”, chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Đấng ông loan báo, Đấng cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Đấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Đấng Messia thì ông giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô” và rồi ông đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Đức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng, phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã thúc nhắc chúng ta: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món quà của đức “Mến Chúa và Yêu Người”.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
19. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người.” (Ga 1:35-42)
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.
Cha:
Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng queyền cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.
Con gái:
Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!
Cha:
Dèm pha mặc kệ dèm pha.,
Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui vào… chi ra!
Con trai:
Con quan phung phí xa hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưói mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi
Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?
Cha:
Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. (1:36).
Trong một lớp giáo lý tân tòng, một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và ngàng lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói: “Tôi muốn có cái mà anh ấy có.” Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng. Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm kiến thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin đó.
Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô.
Đây cũng chính là điều mà Anrê và Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô (Pl 3:8). Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến và xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến và xem”, nhưng còn “Ở lại với Người” để trở nên môn đệ của người.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời (Mt 10:37). Gặp gỡ và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1:37). Sau đó những công việc mục vụ và rao truyền Tn Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Geiesu. Ba lần Anrê được nhắc đến trong Phúc âm của Gioan với vài trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu (1:42); đứa bé trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu (6:8-9); đưa mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu (12:22). Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài (1:45-47). Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”
Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).
20. Đáp lời Chúa gọi
(Suy niệm của Lm. Đam Trần Đình Nhi)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Thánh Gioan kể lại một cách hết sức thích thú câu chuyện Chúa Giêsu gọi hai môn đệ đầu tiên. Thích thú thật, vì đó là câu chuyện cho phép chúng ta tha hồ dùng trí tưởng tượng mà hình dung ra bất cứ điều gì chúng ta thấy thích hợp với tâm tình cầu nguyện của chúng ta. Vậy trước hết chúng ta cứ để phần tưởng tượng lại mà tâm sự với Chúa, còn bây giờ chúng ta xem câu chuyện xảy ra như thế nào.
Chúng ta biết rõ hai người môn đệ này thuộc nhóm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Với linh đạo “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30), ông Gioan Tẩy Giả thấy không có vấn đề gì khi ông vừa nhận ra Chúa Giêsu “đi ngang qua” liền nói cho các môn đệ biết đấy chính là “Chiên Thiên Chúa”. Lời ông Gioan giới thiệu giản dị, nhưng chứa đựng cả một bí mật cao cả, đã khiến cho hai trong số các môn đệ ông quyết định “đi theo Chúa Giêsu”. Đều là “đi”, nhưng người thì đi ngang qua làm như không để ý gì, kẻ thì đi theo để gặp cho được người mình chưa biết là ai. Bề ngoài xem ra như chuyện tình cờ, nhưng bên trong là động lực mạnh mẽ: Chúa Giêsu cố ý đi ngang qua để lọt vào sự chú ý của những kẻ Chúa muốn gọi, còn hai môn đệ ông Gioan cố ý đi theo Chúa Giêsu là để khám phá một mầu nhiệm.
Điểm thứ hai lôi cuốn chúng ta chú ý, đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa Chúa Giêsu và hai ông. Những câu hỏi và trả lời giống như giữa những người bàng quan với những lời lẽ rời rạc. Tuy nhiên những lời rời rạc ấy lại hàm ẩn ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tìm gì không giống như tìm một vật để đâu đó hoặc đánh mất, nhưng là một hành trình tìm kiếm chân lý, tìm Đấng là Tin Mừng với tất cả những giá trị siêu việt của Thiên Chúa. Ở đâu không có nghĩa là một nơi chốn, vì “chồn có hang, chim có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cho nên “ở đâu” có nghĩa là cả một kho tàng tích trữ tất cả những mặc khải Thiên Chúa muốn tỏ ra cho nhân loại. Cuối cùng là lời mời gọi Đến mà xem. Lời mời gọi “Đến mà xem” mở ra một chân trời mới cho hai môn đệ ông Gioan. Phải đến thì mới thấy được, nghĩa là phải thoát ra ngoài cái vỏ con người của mình thì mới thấy được Chúa Giêsu là Đấng nào.
Kết thúc câu chuyện tìm kiếm này, thánh sử ghi lại rõ ràng: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Hai ông đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Cả một ngày họ ở lại với Chúa Giêsu và chúng ta không rõ với khoảng thời gian đó họ đã khám phá được những gì. Thánh sử chấm dứt câu chuyện, không quên ghi lại câu chuyện thật ấn tượng ấy đã xảy ra vào khoảng giờ thứ mười, rồi ngài im lặng ở đây, nhường lại để chúng ta tưởng tượng mà lắng nghe hoặc nói với Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Như hai môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, chúng ta thực sự đã được Chúa gọi làm môn đệ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Tuy mang danh người môn đệ của Chúa, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thực sự đi theo Chúa, hỏi Chúa rằng “Thầy ở đâu?”, đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Tất cả những hành vi trên, người môn đệ đích thực cần phải xét lại mỗi ngày để coi mình còn giữ được căn tính môn đệ hay không.
Thay vì đi theo Chúa, chúng ta đi theo những gì thế gian quyến rũ mời gọi. Thay vì hỏi Chúa “Thầy ở đâu?”, chúng ta đã giả thiết Chúa chỉ ở trong nhà thờ, do đó trong cuộc sống thường ngày, chúng ta không muốn Chúa có mặt để Người khỏi cản trở chúng ta sống theo thế gian. Mỗi tuần một lần, chúng ta quả có đến “xem chỗ Người ở”, nhưng thực ra chúng ta không ở lại với Người, có nghĩa là không sống mối tương quan mật thiết với Người trong cầu nguyện.
Thánh sử Gioan đã kể thêm sau câu chuyện rằng ông Anrê, một trong hai môn đệ ấy, đã về nhà và đem em mình là Simôn Phêrô đến giới thiệu cho Chúa Giêsu. Đây cũng là điều chúng ta phải tự hỏi: Có bao giờ tôi giới thiệu một người nào đó và đem họ đến với Chúa chưa? Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta đấy!
21. Lắng nghe tiếng Chúa
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B). Chủ điểm của Chúa Nhật này là ‘Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông đồ cho Chúa.’
Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!” Bài Phúc Âm (Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa. Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.
Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v… Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi 12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16…), và có cố gắng sống xứng đáng và trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.
Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc Chúa Giêsu đã “ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ.” Điều này cho thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26). Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1…)
Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22 tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường hợp khác.
Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…” (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ. Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.
Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan, 1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008) thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.
Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo, Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v… Ngoài ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.
Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết ‘lắng nghe tiếng Chúa gọi’, trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong thế giới chúng ta hiện nay.
22. Họ đến và ở lại với Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.
Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.
“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.
“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).
Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.
Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.
“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.
“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)”. Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.
Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.
Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.
Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.
Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).
Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.
Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…
23. Ở lại với Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo thì cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu. Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”( Mt 4,17). Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thầy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9) Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian.. Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi … Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x.Ga 1,29–34). Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđêa đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình và lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình,nhưng nhìn thằng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Phúc Âm hôm nay kể câu chuyện: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Kitô” (Ga 1,36-37). Bấy giờ Gioan rất nổi tiếng. Những người Do thái ở Giêrusalem cử các Thầy Tư tế và Lêvi đến hỏi xem liệu ông có phải là Đức Kitô, là Êlia hoặc ngôn sứ không (Ga 1,19-23). Gioan trả lời trung thực: “Không! Tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,20). Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa (1,23). Đức Kitô là Đấng đến sau ông, cao trọng hơn ông vì có trước ông (1,30). Đấng ấy được Thánh Thần xức dầu (1,33), và sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa (1,33; Mt3,11). Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài (1,27). Nhiệm vụ của ông là làm cho mọi người và cả các môn đệ của ông hiểu đươc điều đó. Gioan mong ước khi có dịp sẽ giới thiệu cho các môn đệ về vị Thầy đích thực mà họ cần phải theo. Bởi thế, khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hiểu ý thầy, hai môn đề liền đi theo Chúa Giêsu trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc, Gioan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai môn đệ không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Gioan thì giáo dục tôn giáo của Gioan đã thất bại. Nếu hai môn sinh cứ đòi ở lại với Gioan là dấu chứng Gioan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai môn sinh là kết quả thành công của Gioan trong sứ mạng làm người dọn đường cho Chúa.
Chúa Giêsu quay lại và hỏi: Các anh tìm gì thế? Hai môn đệ đã không đi “tìm gì” mà là tìm một Con Người. Họ đi tìm Đức Kitô. Họ mang nặng nổi khát khao đi tìm một trái tim, một vị thầy. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu hỏi ấy là câu hỏi muốn hiểu, muốn tìm đến và muốn ở lại với Thầy. Chúa Giêsu không trả lời là Ngài ở nơi này nơi kia và cũng không mời họ đến thăm chơi. Chúa nói “hãy đến mà xem” rồi sẽ biết. “Đến mà xem” là lời mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ thân thiết. Trăm nghe không bằng mắt thấy “cứ đến mà xem” cũng là câu nói Philipphê thuyết phục Nathanael (Ga 1,46).Thánh sử Gioan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh: “Họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người” (1,39).
Chỗ ở của Chúa Giêsu có gì hấp dẫn mà giữ chân các ông ở lại? Đầy đủ tiện nghi và sung túc chăng? Chắc chắn là không rồi, vì Chúa đã từng nói:” Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Rày đây mai đó nên nơi Chúa ở là “khách sạn ngàn sao”, chẳng có gì hấp dẫn như biệt thự hay khách sạn mấy sao. Sự hấp dẫn các môn đệ chính là con người Chúa Giêsu. Chính cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài đã hấp dẫn họ và họ nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, vị Thầy mà họ đáng theo.
Chúa kêu gọi các môn đệ, trước hết để họ “ở lại với Ngài” trong bầu khí huynh đệ thân tình (x. Ga 1,35-39), rồi Ngài mới sai họ đi thi hành sứ vụ. Yêu thương nhau là một dấu chỉ, là chứng từ cốt yếu, là đòi hỏi tiên quyết và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ Đức Giêsu.“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài. Các môn đệ vui mừng hân hoan, họ muốn chia sẽ với người thân yêu nên khi trở về, Anrê gặp em là Simon, nói với em về Đấng mà mình đã gặp và dẫn em đến diện kiến Chúa. Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô. Trên đá tảng Phêrô, Chúa xây Hội Thánh và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Một cuộc gặp gỡ. Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, những ai đã gặp Người đều thay đổi dần cuộc đời mình.
Gioan Tẩy Giả là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Giới thiệu Chúa còn mình thì lặng lẽ rút lui để Chúa lớn lên. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng được trao ban. Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương.Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương.Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng.Dung mạo đúng nhất của Thiên Chúa là tình yêu thương “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “ Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Để giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Bài học đầu tiên của các môn đệ là “ở lại với Chúa”. Chỉ khi sống với Chúa mới biết Chúa. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa. Để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa. Sống với Chúa chính là chuyên chăm học hỏi, suy niệm Lời Chúa và chiêm nghiệm trước Thánh Thể mỗi ngày để trở nên người giới thiệu Chúa cách trung thực và chính xác cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Gioan và hai môn đệ mà xét lại bản thân. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người của Chúa. Xin cho con luôn chọn Chúa qua những chọn lựa nhỏ bé nhiều lần trong ngày để Chúa chiếm trọn cuộc sống con và để con thông hiệp vào cuộc sống Chúa nhờ đó con được ở lại với Chúa.
Và Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng mỗi ngày trong đời con. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.
24. Tiếng Chúa gọi – AM Trần Bình An
Olalla Oliveros, người mẫu nổi tiếng đã tham gia chụp nhiều bộ ảnh quyến rũ, diễn viên chính trong nhiều bộ phim, gương mặt của cô xuất hiện trên các tấm biển khắp Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nữ người mẫu đã quyết định trở thành một nữ tu, gia nhập Dòng thánh Michael. Mặc dù sự nghiệp vẫn đang phát triển, nhưng Olalla Oliveros không còn cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ.
Ở tuổi 36, cô quyết định từ bỏ sự nghiệp và khoác lên mình chiếc áo nữ tu sau khi đến viếng Nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha. Không muốn nói nhiều về quyết định của mình, Oliveros chỉ cho biết cảm giác khi tới nơi này giống như có một trận động đất rung chuyển trong người: “Chúa không bao giờ sai, Ngài hỏi tôi có sẵn sàng theo Ngài và tôi không thể từ chối.”
Trên một trang web, Oliveros chia sẻ rằng cô đã có những cảm giác rất kỳ lạ. Từ sau chuyến thăm nhà thờ, hình ảnh bản thân mặc chiếc áo nữ tu luôn hiển hiện trong tâm trí Oliveros. Vì thế, cô đã quyết định từ bỏ công việc của mình để trở thành một nữ tu và đổi tên thành Olalla del Sí de María. Trên tờ El Tiempo, Oliveros chia sẻ: “Là một người mẫu bạn phải có thân hình chuẩn, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tôi cảm thấy áp lực. Tôi cũng mệt với những lời nói dối, hình thức, một xã hội đầy bạo lực, ngoại tình, ma túy, rượu, thù oán và một thế giới đề cao vật chất, hưởng thụ, dâm dục, lừa đảo.” Oliveros cho biết thêm: “Tôi không lấy việc trở thành một nữ tu để lăng xê tên tuổi của bản thân, mà chỉ muốn trở thành một hình mẫu đề cao phẩm giá thực sự của người phụ nữ.”
Oliveros không phải là người mẫu đầu tiên quyết định từ bỏ cuộc sống bận rộn trên sàn catwalk để chọn lấy một cuộc sống bình lặng trong tu viện. Amada Rosa Pérez là một trong những người mẫu hàng đầu của Colombia trước khi trở thành một nữ tu vào năm 2005, vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống căng thẳng của mình. (Theo Daily Mail)
Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan tường thuật Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu những môn đệ với Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Lập tức họ được Đức Giêsu mời gọi theo Người. Rồi họ lại giới thiệu người khác đến với Chúa. Bây giờ, Đức Giêsu vẫn không ngừng mời gọi mọi người bỏ mọi sự theo Người. Điển hình như các người mẫu, diễn viên tài sắc Olalla Oliveros và Amada Rosa Pérez đã đáp lời, mặc dù sự nghiệp còn đang lẫy lừng thành đạt.
Tiếng gọi
Hôm nay, tín hữu Kitô không còn vinh hạnh được thánh Gioan Tiền Hô trực tiếp giới thiệu đến với Chiên Thiên Chúa, như các môn đệ thuở xưa. Nhưng may mắn thay, Giáo Hội không thiếu các đấng như môn đệ Anrê, sẵn sàng tận tụy chỉ dẫn đến Đức Giêsu. Đó là những Chủ Chiên tốt lành, những tu sĩ chân chính, những tông đồ giáo dân nhiệt thành. Hoặc Chúa gửi đến những dấu chỉ riêng cho từng người. Một lời khuyên nhủ nhắc nhở của bè bạn. Một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một gia cảnh lục đục bất an. Một thất bại cay đắng, ê chề…Vấn đề là người tín hữu có thức tỉnh, sẵn sàng và khao khát lắng nghe, tìm hiểu, giải mã dấu chỉ, để nghe được tiếng Đức Giêsu mời gọi hay không? Hay cứ đắm đuối, mải mê, mù lòa trong cõi ta bà tục lụy, thì làm sao nghe được tiếng Chúa gọi?
“Đến mà xem!” Bằng rất nhiều dấu chỉ, Thiên Chúa luôn xót thương, luôn kiên nhẫn mời gọi, luôn nhẫn nại chờ từng người đáp lại, tựa như Người Cha tốt lành trông ngóng đứa con hoang, biết ăn năn sám hối, đáp lời, mà quay trở về.
“Hãy theo Thầy!” Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?” (Đường Hy Vọng, số 61)
Lời đáp
“Dạ, con đây!” Ngôn sứ Samuel đã luôn tỉnh thức, mau mắn cả ba lần đều thân thưa tiếng Chúa gọi. Một tâm hồn chân thành, tinh tuyền, trong sáng, nhạy cảm, sẵn sàng lắng nghe, đón nhận Lời Chúa, để thực thi Thánh Ý Chúa. “Xin Ngài phán, vì tôi tờ Ngài đang lắng nghe.”
Hai Tông đồ Anrê và Gioan cũng đều nhiệt thành, sẵn sàng tuân theo lời mời gọi “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại vời Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. (tức bốn giờ chiều ngày nay) Không chút chần chừ, so đo, suy xét, họ bỏ tất cả nghề nghiệp, huyết tộc, thân bằng quyến thuộc, dứt khoát dấn thân theo Đức Giêsu, Đấng chẳng có nhà cửa, cũng chẳng có chỗ tựa đầu nữa. (Mt 8, 20)
Đức Giêsu cũng thân thương mời gọi, an ủi, cứu giúp tất cả những ai đang khốn khổ, cực nhọc: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Vì chỉ ở nơi Người mới có sự bình an viên mãn, niềm hoan lạc, mà thế gian không bao giờ có. “Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an của Ta cho các ngươi; không phải thế gian ban cho thế nào, thì Ta cũng ban cho như vậy đâu! Lòng các ngươi chớ xao xuyến, chớ nhát đảm” (Ga 14, 27)
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng là việc Chúa chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Chứng nhân
Ông Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho ông Anrê. Ngài đã gặp Chúa, ở lại với Chúa dù chỉ một ngày, đã cảm nghiệm Tình Yêu tuyệt vời, nay lại tiếp tục giới thiệu cho Simon. Trước hết, ông Anrê gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.” Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu.
Gặp gỡ Chúa, ở lại trong Tình Yêu còn gì hân hoan, sung sướng, hạnh phúc hơn? Còn gì tuyệt vời hơn được nương náu bên Người Cha chí nhân, chí thánh, nguồn cội tinh tuyền của con người? Người luôn đầy lòng thương xót, tha thứ, biến đổi, thánh hóa con người bùn nhơ, tội lỗi, bất nghĩa, bất tín, bất trung thành bạn hữu, anh em của Người. Chính vì nếm trải cảm nghiệm thần thánh, mà ông Anrê vội vàng tìm gọi em mình là Simon cùng theo, làm môn đệ Đức Giêsu cực trọng.
Có Chúa là có tất cả, dù bao phong ba cuộc đời thử thách, ngôn sứ Khabacúc vẫn trung kiên xác tín: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô liu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn. Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, ngó vào chuồng bò bê hết sạch. Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì ĐỨC CHÚA, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, làm cho tôi mạnh sức, cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao vời.” (Kb 3, 17-19)
Đức Giêsu liền sai cùng bốn mộn đệ đầu tiên làm chứng nhân, rao truyền ơn cứu độ đến mọi người, mọi dân tộc: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 17) Bởi vì “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.” (Mt 10,8)
“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ, thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con thành tâm và tỉnh thức nghe thấy tiếng Chúa gọi. Chúng con vốn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ bị sự đời cám dỗ quyến rũ. Vậy xin Chúa tha thứ và cảm biến, đối mới chúng con, để chúng con luôn nhạy cảm nghe được tiếng gọi qua các dấu chỉ, hầu được kết hiệp cùng Chúa trong từng giây phút cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con hằng ngày biết lắng nghe Lời Chúa mời gọi, để tỉnh thức ăn năn, sám hối, trở về cùng Chúa luôn. Amen.
25. Vai trò trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Nghe hai từ trung gian, không ít nguời trong chúng ta cảm thấy khó chịu. Quả thật trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như trong các dịch vụ, hễ có trung gian là hầu như có “phết phẩy”, có những chi phí không như ý. Dĩ nhiên không ai chấp nhận một sự tồn tại của chuổi các trung gian nặng nề, vô bổ, gây phiền hà và gây lãng phí. Vì thế người ta tìm cách loại bỏ bớt những trung gian ấy ngay cả trong các sinh hoạt hành chính. Chuyện bỏ bớt “các cửa, các dấu” để tiến đến mô hình một, cửa một dấu là một trong những nổ lực của cải cách hành chánh nước Việt thời gian vừa qua. Thế nhưng cần phải xác nhận rằng tác nhân trung gian vẫn còn đó vị trí và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.
Một chân lý trong niềm tin Kitô giáo: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Không kể đến thưở ban đầu của buổi sáng tạo, thì ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thường qua các trung gian là tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì các trung gian luôn có đó vị trí, vai trò cần thiết dường như là tất yếu theo chương trình Thiên Chúa đặt định.
Hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli. (x.1 Sm 3,3b-10) (Bài đọc 1). Chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy. Nhờ một trung gian là Anrê mà Simon Phêrô đã đến gặp Chúa Giêsu và Hội Thánh chúng ta đã có được một vị Tông đồ nhiệt thành, một vị Giáo hoàng tiên khởi. (x. Ga 1,35-42) (bài Tin Mừng). Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và chính thân xác chúng ta là Đền thờ, là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. (x. 1Cor 6,13-20) (Bài đọc 2).
Qua các bài đọc của Thánh lễ Chúa Nhật II TN B, xin được đề ra vài tiêu chí của sự trung gian hầu cho các tác nhân trung gian thực sự là những chiếc cầu nối hữu hiệu, cách đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người.
1. Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ngài vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường, anh em như thể chân tay. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy Gioan Tẩy giả giới thiệu.
Hình như ít có ai tranh cãi về tiêu chí này. Để làm trung gian thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã đóng vai trò một trung gian.
2. Được Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra tiêu chí này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ (x.Gr 1,4-5) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang mạc là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến (x. Is 40,1-5).
Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa? Nhìn vào cuộc đời vị Tiền Hô, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống (các hiện tượng xảy ra với nhà Giacaria), qua việc dạy bảo của mẹ cha (việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh (nếu không có yếu tố này thì Gioan hẳn sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào).
3. Được Hội Thánh chuẩn nhận: Cái tiêu chí này được thể hiện qua vai trò của Tư Tế Hêli. Dù rằng tư tế Hêli còn thiếu sót trong một vài trách nhiệm của mình như lơ là việc dạy bảo con cái khiến cho hai người con trai của ông là Khópni và Pinkhát ra hư hỏng (x. 1 Sm 2,22-35), nhưng không ai phủ nhận vai trò của ông trong việc hướng dẫn trẻ Samuel lắng nghe tiếng Chúa phán.
Chúng ta cần thú nhận rằng cái tiêu chí thứ ba này thường gây tranh luận cho nhiều người bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, đặc biệt, với các anh em ly khai. Thế nhưng dòng lịch sử thánh minh định rõ rằng Thiên Chúa đã dùng con đường này, phương thức này. Phương thức này, con đường này đã manh nha hình thành trong thời Cựu Ước qua việc Thiên Chúa truyền lệnh cho Môsê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lêvi lo việc tế tự (x.Xh 4,13-16; 28,1-5). Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên các Tông đồ và trao quyền tài thẩm cho các ngài (x. Mt 16,13-19; Ga 20,19-23). Trong thực tế, dù là cá biệt, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng “thầy cả Hêli”. Ước gì Kitô hữu chúng ta làm theo lời dạy của Chúa Cứu thế: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ…” (Mt 23,2-3).
Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn càn thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gủi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu hiến tế trên các bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chằng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x. Lc 17,21).
26. Đến mà xem – AM Trần Bình An
Hành trình đến với Chúa ai cũng đều trải qua nhiều bước, lắm khi thăng trầm, gian lao, thử thách, chứ chẳng mấy khi êm ả như hai ông Anrê và Gioan, đã khéo léo theo một lộ trình khá suôn sẻ đến ơn gọi. Tiên quyết, hai ông đã được ông Gioan Tẩy Giả chuẩn bị sẵn sàng hành trang. Nếu không có tấm lòng thành khẩn, hai ông đã không tìm đến với vị Tiền Hô khổ tu, để qua từng bước Thanh tẩy và khởi sự truy tầm ơn gọi.
Khi từ biệt gia đình, thân quyến, bè bạn, xóm làng để ra đi làm môn đệ ông Gioan Tiền Hô, hai vị cũng đã nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi thống hối, ăn năn, hầu sẵn sàng và xứng đáng diện kiến Đấng Cứu Thế. Một điều kiện ắt có cho bất cứ ai muốn tìm gặp Chúa.
San bằng những hầm hố tham lam, ham muốn đê tiện xấu xa, uốn nắn những khúc khuỷu lắt léo điêu ngoa, man trá, dối gian, cùng tẩy xóa tội nhơ qua Phép Rửa, hai vị mới có hội truy tìm Ơn Gọi trên con đường thiên lý.
Nhưng kìa lạ thay, chính Chúa Giêsu lại chủ động mời gọi nhị vị, khi thấy họ chỉ dám lẽo đẽo, đeo bám theo Ngài xa xa. Nên Ngài mới ngoảnh mặt ngó lại, thân thương hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? “Người bảo họ: “Đến mà xem.” Điều kỳ lạ trong đoạn Tin Mừng này theo thánh sử Gioan, là câu trả lời của nhị vị đó lại là một câu hỏi ngược lại Chúa. Có lẽ họ quá sức bối rối, vì cảm thấy Chúa đã nhìn thấu tâm can, biết tỏ tường mong muốn nhiệt thành của họ, nên thay vì trả lời với Ngài: “Chúng con tìm Ngài,” thì họ lại mau mắn tôn Ngài làm Sư phụ, tình nguyện làm đệ tử chân truyền: “Thưa Rabbi, Thầy ở đâu?”
Nhưng Sư phụ Giêsu không vội trả lời cho họ, vì thực ra Ngài sống vô gia cư, làm gì có nhà cửa, dinh thự, lầu son gác tía. Ngài cũng chẳng có nơi trú ẩn cố định, thì biết lấy địa chỉ nào cho các tân đệ tử. Bởi chưng“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Vậy dưới con mắt thế gian, theo Thầy Rabbit Giêsu thì cũng như phiêu lưu cùng Thầy.
Người ngoài không hiểu được tại sao người ta theo tiếng gọi của Chúa, họ cho ta là điên. Chính Chúa Giêsu cũng bị Hêrôđê gọi là điên, và chúng ta hãnh diện được ở trong “nhà thương Biên Hòa” của Chúa. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV 68)
Chưa hết, khi đến xem tận mắt, biết nơi tạm trú xuềnh xoàng, nghèo nàn, xác xơ của Sư phụ, họ đã ở lại với Người ngày hôm ấy.Một quyết định dại dột và bất ngờ với thiên hạ, nhưng là chọn lựa sáng suốt tuyệt vời của người theo Chúa. Bởi chưng họ đã tìm được Minh Chủ, đấng mà thầy cũ của họ đã loan báo vô cùng tôn kính: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”(Ga 1, 27)
Thật vậy, gặp và sống bên Chúa Giêsu còn gì vui thích hơn, chẳng có gì trên thế gian có thể sánh nổi. Nên Chúa đã mời gọi: “Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Lạy Chúa Giêsu, khi xưa Ngài đã kêu gọi các môn đệ, nay xin luôn nhắc nhở con dấn bước theo Ơn Gọi, để con được sống trong tình yêu vô biên của Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu con luôn biết tìm đến nương náu bên Chúa Giêsu qua Lời Chúa và Thánh Thể, hầu con được sung mãn hồng ân cứu độ. Amen.
27. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nam)
“Họ đã đến xem chỗ Người ở
Và ở lại với Người ngày hôm ấy”
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác trong công trình cứu độ. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa quyền phép vô cùng, làm được mọi sự. Nhưng Ngài không muốn làm một mình, mà luôn kêu gọi con người cộng tác với Ngài.
– Khởi đầu lịch sử cứu độ, Thiên Chúa chọn ông Abraham làm cho ông trở nên cha của mọi dân tộc đông đúc. Từ dòng đời này phát sinh Đấng Cứu Thế.
– Để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Ai Cập, Thiên Chúa đã chọn Môisen lãnh đạo dân Do Thái.
– Để có một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài, Thiên Chúa đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu đuối nhất. Đó là cậu bé Đavít.
– Để cho lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ vô danh miền Nazaret.
– Để tiếp tục công việc loan báo Tin mừng và cứu độ trần gian, Chúa đã chọn 12 tông đồ, 72 môn đệ.
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác với Ngài trong việc cứu độ nhân thế. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng minh rất rõ chân lý trên: Thiên Chúa chọn và gọi Samuel để ông thay thế thầy cả Heli. Ngài gọi ông 3 lần và Samuel đã thưa: “Xin Ngài cứ phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Thế là Samuel đã trở thành thủ lĩnh dân Do Thái.
Bài Tin mừng ghi lại biến cố Chúa Giêsu gọi và chọn 3 tông đồ đầu tiên là Gioan, Anrê và Phêrô. Các tông đồ đi theo Chúa, đến gặp gỡ Chúa và ở lại với Người. Chính Chúa Giêsu đã gọi họ đích danh: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu khởi đi từ việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Đi theo Chúa Giêsu hay gặp gỡ Chúa Giêsu là bước đầu cần thiết để trở thành môn đệ. Gặp gỡ gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1,37). Sau đó những công việc mục vụ và rao giảng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Từ việc gặp gỡ “đến mà xem” tới việc ở lại với Người. Trăm lần nghe không bằng một lần thấy; ở lại với Người để thấy, để hiểu, để yêu mến và noi gương sống như Người.
Gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống của mình, rồi phải giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Chúa trao phó. Đó là bổn phận, sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô và người kitô hữu.
Theo đạo Công Giáo không phải đi theo một tổ chức hay gia nhập một đảng phái… nhưng là đi theo một nhân vật độc đáo là Đức Giêsu và qua Chúa Giêsu đến với Chúa Cha.
Qua Tông Huấn Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng Benêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: “Đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng hằng kêu gọi chúng ta bước theo Ngài” (Verbum Domini số 72).
Làm cách nào chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu trong cuộc sống hôm nay?
– Gặp gỡ Chúa trong thánh kinh, trong lời của Người, học hỏi, suy niệm lời Chúa. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết Kinh thánh là không biết Đức Giêsu”.
– Cao điểm của cuộc gặp gỡ Đức Giêsu là thánh lễ. Vì thánh lễ là trung tâm đời sống Giáo hội và đời sống Kitô hữu. Tông huấn Verbum Domini số 52 dạy: “Chính Chúa Giêsu đã hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc kinh thánh trong Giáo hội”.
– Gặp gỡ Đức Giêsu qua việc cầu nguyện và suy niệm lời Chúa hằng ngày.
– Gặp gỡ Đức Giêsu một cách cụ thể qua việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ… “Cho anh em một chút nước lạnh, là cho chính Chúa”.
Ngày xưa Chúa kêu gọi Samuel, các tông đồ Gioan, Anrê, Phêrô… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi mỗi người chúng ta làm môn đệ để đem Tin mừng cho anh em. Chúng ta hãy mau mắn, quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa như các môn đệ, như Samuel xưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.
28. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
(Suy niệm của Yvane Fournier-Guérard)
Sứ vụ được thực hiện do các chứng nhân. Nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ hiểu được vai trò Phúc Âm hóa của họ.
Một vị tiền hô.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài, chiếc rìu đã đặt bên gốc cây. Một vị ẩn sĩ, Gioan Tẩy Giả, loan báo Nước Trời và lớn tiếng đòi hỏi người ta hoán cải con tim để đón tiếp Đấng Mêsia đang đến. Bằng dấu chỉ Phép rửa trong đó tín đồ được dìm vào dòng nước sông Giođan để lấy lại sự thanh sạch của con tim. Gioan nhắc nhở mọi người rằng một Đấng khác sẽ đến và thanh tẩy trong Thánh Thần.
Những gì Gioan đã làm trong hoang địa: quy tụ môn đệ, rao giảng sự thống hối và mong đợi một vương quốc sắp tới, đều đã chuẩn bị người ta nghe lời Chúa Giêsu. Bởi vì trước đó quần chúng đã thức tỉnh trước sứ điệp thiêng liêng của Gioan nên họ đón tiếp Chúa ân cần hơn và đã hiểu lời Ngài hơn. Tỉnh thức là giai đoạn đầu tiên của việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Một lời sống động.
Rồi chiên Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả nhìn nhận là lớn hơn mình đã đến. Mảnh đất đã sẵn sàng nên hạt giống có thể gieo được. Chúa Giêsu thực sự bị thu hút bởi lời rao giảng của Gioan. Ngài đã nhìn thấy những đám đông được Gioan thuyết phục và những con người tự nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Ngài đã xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ngài đã nhận ra mảnh đất tốt lành, nơi đó cỏ dại ích kỷ, hận thù, tội lỗi của dân Ngài đã được nhổ sạch.
Chúa Giêsu đã đi theo Gioan và từ nay ông sẽ theo Ngài và sẽ khuyên các môn đệ của ông cũng làm như vậy nữa.
Giai đoạn thứ hai của sứ vụ là tiếp đón Đấng đang đến cùng với sứ điệp và chân lý của Ngài.
Đây không chỉ là một trò chơi.
Anh chị em còn nhớ trò chơi điện thoại được dùng trong những buổi sinh hoạt hay trong những lớp dạy về truyền thống chứ? Người thứ nhất tham gia trò chơi rỉ tai người thứ hai một sứ điệp ngắn và người này nói lại cho người thứ ba, v.v… đến người cuối cùng thì ít khi sứ điệp còn giữ được nguyên vẹn như ban đầu. Vì nghe không rõ nên các sứ giả liên tiếp nhau thay đổi sứ điệp được truyền đi và như vậy đã phản bội chính sứ điệp.
Các môn đệ đầu tiên không phản bội sứ điệp. Sau khi đi theo Chúa Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan, sau khi nhìn thấy và đích thân nghe vị tôn sư, họ đã mời anh em và bạn bè của họ đến gặp Ngài.
Chính nhờ lưu lại với Ngài mà việc hoán cải con tim đã được thực hiện. Ngôn sứ Samuel cũng đã sống kinh nghiệm này, và dân Samari đã diễn tả đúng chân lý này khi nói với người phụ nữ Samari: “Không phải vì những gì chị kể cho chúng tôi mà chúng tôi tin, nhưng bởi vì bản thân chúng tôi đã được nghe Ngài”. Nhưng cần phải có ngôn sứ Êlia trong Cựu Ước, cần phải có các môn đệ đầu tiên và người phụ nữ Samari để cho người ta đến với Chúa Giêsu.
Đây là giai đoạn thứ ba của việc Phúc Âm hóa: chúng ta được mời gọi loan báo cho kẻ khác con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
Chúng ta là những lời sống động của Thiên Chúa bằng cuộc sống hơn là bằng lời nói. Phải đích thân gặp gỡ Ngài, lắng nghe Ngài, lớn lên trước mặt Ngài và tôn vinh Ngài bằng thân xác chúng ta được xem như đền thờ của Ngài. Chứng nhân không vượt qua giai đoạn cuối này là một chứng nhân giả. Lời của họ trống rỗng và sứ điệp của họ rất có nguy cơ bị méo mó bởi chính những cách nhìn riêng của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ như sau: “Hãy đến mà xem”. Kẻ lớn lên trước mặt Chúa, như Samuel, có lẽ không tự mình ý thức được rằng “không lời nào của họ là không có hiệu quả”, nhưng đã xảy ra đúng như vậy.
Được gọi với tư cách là ông bà, cha mẹ, với tư cách là giới trẻ, với tư cách là những người đã chịu phép rửa để truyền đạt đức tin, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giữ chúng ta lại bên cạnh Ngài. Xin cho luật tình yêu của Ngài trở nên thiết thân với chúng ta như tác giả thánh vịnh và cho chúng ta biết nói: “Này con đây” trong mọi hoàn cảnh, trong lúc “miệng chúng ta loan báo tình yêu và chân lý của Ngài cho toàn thể đại hội”. Khi đón tiếp Ngài đến trong Thánh lễ này, chúng ta hãy thưa: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Chúa”.
29. “Các anh tìm gì thế?”
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta một khuôn mẫu của hành trình trở nên người môn đệ của Đức Giê-su. Hành trình bao gồm ba bước.
1. Bước thứ nhất: được giới thiệu
Thầy Gioan giới thiệu Đức Giê-su cho hai anh học trò của mình:
Đây là Chiên Thiên Chúa.
(c. 36)
Lời giới thiệu này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng ta chúc bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên Chén Thánh (hoặc Dĩa Thánh), long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Trong hành trình trở thành người môn đệ của Đức Kitô trong ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, chúng ta cũng cần có những “Gioan” giới thiệu, giúp chúng ta hiểu, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô, là “Chiên Thiên Chúa”.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, thay vì tự mình xét xử và lên án, để trở thành Đường Đi và Sự Sống cho chúng ta.
* Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, thay vì dùng bạo lực chống lại bạo lực, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu thì hiền lành.
2. Bước thứ hai: đi theo và gặp gỡ
Hai môn đệ, một trong hai mang tên Anrê, đi theo Đức Giê-su.
Hai môn đệ nghe ông (Gioan) nói,
liền đi theo Đức Giê-su.
(c. 37)
Chúng ta được mời gọi thán phục hai người môn đệ này, vì hai ông đã đặt hết lòng tin nơi lời giới thiệu của thầy Gioan và đã liều lĩnh đi theo người mà mình chưa thực sự hiểu biết và gặp gỡ. Điều này giả định hai ông phải có khát khao gặt gỡ và tìm kiếm “Chiên Thiên Chúa”, tìm kiếm Đấng Cứu Độ; và việc hai ông “liền đi theo Đức Giê-su” cũng giả định sức thu hút của Người, cho dù Người chưa lên tiếng hay chưa làm gì cho hai ông.
Chúng ta hãy hình dung ra hình ảnh rất đẹp này: Đức Giêsu đi trước, hai người đi sau: hai bên vẫn chưa quen nhau, vẫn còn khoảng cách, nhưng lòng đã hướng về nhau rồi.
***
Đây là bước quyết định hay bước ngoặt. Đức Giê-su biết có hai người đi theo mình, nhưng có lẽ cố ý để như thế một hồi lâu. Hai người chủ động đi theo Đức Giêsu, nhưng chính Ngài dừng bước, quay lại, thấy và lên tiếng trước:
Hai anh tìm gì vậy?
(c. 38)
Câu hỏi này xem ra thật bình thường, vì chúng ta vẫn hay hỏi nhau với những câu hỏi tương tự như thế trong đời thường. Nhưng vì là của Đức Giêsu, nên câu hỏi này mãi mãi và mỗi ngày đụng chạm đến nơi sâu thẳm của hai môn đệ và của tất cả những ai đang đi theo Đức Giêsu, trong đó có chúng ta.
Thật vậy, trong hành trình đi theo Chúa của chúng ta, ở mỗi giai đoạn sống, ở mỗi ngày sống, trong mỗi dự định và lựa chọn, trong mỗi công việc lớn nhỏ, và trong Thánh Lễ này nữa, Đức Giêsu cũng hỏi chúng ta: “Con tìm gì vậy?” Nếu Đức Giêsu hỏi đích thân từng người chúng ta, hỏi Cộng Đoàn chúng ta, chúng ta sẽ trả lời làm sao? Coi vậy mà không dễ trả lời, vì một đàng, điều chúng ta đi tìm đôi khi rất khó nói ra; đàng khác, điều chúng ta đi tìm, có thực sự là điều chúng ta khao khát trong sâu thẳm tâm hồn và một cách bền vững hay không, bởi lẽ lòng ước ao của chúng ta luôn vượt quá những gì những cụ thể, những gì được xác định hay phát biểu. Quả vậy, vì khó trả lời, và hơn nữa bị hỏi rất bất ngờ nên hai người trẻ đã đáp lại hẳn là với sự bối rối bằng một câu hỏi:
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
(c. 38)
Và câu hỏi này cũng thật kì cục, vì chưa làm quen gì hết mà đã hỏi người ta ở đâu! Tuy nhiên, Đức Giêsu chẳng bắt bẻ gì hết, ngược lại, Ngài như đã quen biết hai anh từ lâu, nên mời đến tham quan nơi ở của Ngài, Ngài nói với họ:
Hãy đến và các anh sẽ thấy.
(c. 39)
Và họ đã không chỉ đến tham quan chỗ ở của Ngài, nhưng còn lưu lại với Ngài. Sau này, hai môn đệ này và tất cả những ai đi theo Đức Giê-su, trong đó có chúng ta, sẽ nhận ra rằng Đức Giêsu không có một nơi ở nào cố định hết trên trần gian này. Ngài đến từ Thiên Chúa và Ngài sẽ đi về cùng Thiên Chúa (x. Ga 13, 3). Đây cũng chính là hành trình của các môn đệ, của mỗi người chúng ta; và chúng ta được mời gọi “lưu lại với Ngài” mọi nơi mọi lúc, bởi vì Ngài là đường đi và chính Ngài cũng lưu lại với chúng ta mọi nơi mọi lúc, với mầu nhiệm Thánh Thể của Đấng đã chết, đã Phục Sinh, đang sống và hiện diện giữa và trong chúng ta.
3. Bước thứ ba: giới thiệu Đức Giêsu
Vẫn còn một bước nữa, đó là, sau khi đến xem nơi ở của Đức Giêsu và lưu lại với Ngài, một trong hai người là Anrê đi giới thiệu Đức Giê-su cho người khác. Người khác ở đây không phải là người xa và lạ, nhưng là Simon, em của mình. Thực vậy, Anrê gặp em mình và nói:
Chúng tôi đã gặp Đấng Messia.
(c. 41)
Và Anrê không chỉ giới thiệu thôi, nhưng còn dẫn em Simon đến gặp Đức Giêsu. Như thế, ông Anrê đóng vai trò của thầy Gioan Tẩy Giả đối với em mình.
Một khi đã gặp được và tin vào Đức Giêsu, ai trong chúng ta cũng có sứ mạng giới thiệu Ngài cho những người thân cận và thân yêu và dẫn họ đến gặp Đức Giêsu. Và điều này rất tự nhiên, bởi vì gặp được Đức Giêsu là niềm vui, bởi vì Ngài mang lại ý nghĩa cho cuộc đời đầy khó khăn thử thách của chúng ta, và Ngài là ánh sáng và là con đường dẫn chúng ta ngay hôm nay đến với Nguồn Sự Sống, là chính Thiên Chúa.
***
Bốn bước (được giới thiệu về Đức Giêsu, đi theo Đức Giêsu, gặp gỡ Đức Giêsu và giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhất là cho những người thân cận) diễn tả cho chúng ta bốn chặng đường làm nên hành trình trở nên môn đệ của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ trải qua từng bước một lần là xong. Vì thế, bốn bước này cũng còn là bốn yếu tố lúc nào cùng phải có trong hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta: lúc nào chúng ta cũng cần được giới thiệu và dạy dỗ về Đức Ki-tô, lúc nào cũng cần đi theo Ngài, gặp gỡ Ngài đích thân, và lúc nào chúng ta cũng cần giới thiệu, loan báo, trình bày Ngài bằng lời và nhất là bằng cách sống cho người khác.
30. Chúa gọi con người hợp tác
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc hôm nay đều nói đến ơn gọi. Chúa kêu gọi mọi người và từng người một: Chúa đã gọi Samuel làm tiên tri, Chúa đã gọi các Tông đồ đi theo Chúa để rao giảng Tin mừng, và qua lời khuyên nhủ của thánh Phaolô tông đồ, Chúa kêu gọi mọi tín hữu hãy tránh xa thói dâm ô, hãy giữ thân xác cho trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải đáp trả lại tiếng Chúa gọi như Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa: ”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”, và tìm gặp Chúa:”Hãy đến mà xem” để theo Chúa:”Hãy theo Ta”. Sau khi đã theo Chúa, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho những người khác như ông Anrê đã làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1Sm 3,3b-10.19.
Theo tác giả sách này, Samuel được Thiên Chúa gọi làm tiên tri ngay từ nhỏ và thuộc loại tiên tri đầu tiên. Lúc ấy Samuel là cậu bé giúp lễ, hầu việc Chúa tại đền thờ Silô bên cạnh thầy cả Hêli già nua, và chính cậu sẽ thay thế vai trò của Hêli.
Bài đọc 1 cho biết: một đêm cậu Samuel đang ngủ bên cạnh hòm Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi cậu 3 lần. Lần nào cậu cũng tưởng thầy Hêli gọi và đã đến trình diện. Nhưng sau cùng, thầy Hêli cho biết đó là tiếng Chúa gọi và Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa như thầy Hêli đã dạy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do thái thay thế cho thầy cả Hêli.
+ Bài đọc 2: 1 Cr 6,13-15, 17-20.
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên trục lộ giao thông, nó là nơi tấp nập để trao đổi hàng hoá, tư tưởng và cả thân xác nữa… Cuộc sống phóng túng, sắc dục được coi như là tự do và tự nhiên. Vì thế, thánh Phaolô cảnh giác những độc giả của Ngài. Ngài dạy họ rằng đối với những Kitô hữu đã trở nên thân thể của Chúa Kitô do phép rửa tội, họ không được làm ô uế thân thể họ vì họ đã được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Những lời căn dặn của thánh Phaolô vẫn không mất tính cách thời sự của nó:
– Thân xác con người là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
– Thân xác đã được cứu chuộc bằng máu của Đức Kitô.
– Vì thế, chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 1,35-42.
Khi Gioan Tẩy giả đang đứng ở bờ sông Giorđan giảng đạo và làm phép rửa, trông thấy Đức Giêsu đi qua, ông đã chỉ tay vào Chúa Giêsu giới thiệu cho hai môn đệ của ông là Anrê và Gioan:”Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói đó có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe nói thế, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ở của Ngài và ở lại đàm đạo với Ngài một ngày. Thế là từ môn đệ của Gioan, hai ông đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu.
Sau đó, Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon. Chúa cũng đã nhận Simon làm môn đệ và còn đổi tên ông là Kêpha, nghĩa là đá, cho ta đoán được trước vai trò tương lai của ông.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời gọi và đáp trả
I. LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA GỌI.
1. Phải biết lắng nghe.
Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta mọi nơi mọi lúc, vì thế tâm trí chúng ta cần phải tập trung mới nghe được tiếng nói của Chúa. Ngài nói với chúng ta trong sự thinh lặng, trong sự kín đáo, trong tâm hồn tĩnh lặng không để cho ngoại cảnh làm xáo trộn tâm hồn.
Chúa đã gọi Samuel trong đêm thanh vắng và Samuel đã nghe ra được tiếng Chúa, nên đã mau mắn thưa:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Nếu ta đang bận rộn về những nỗi lo vật chất, si mê những của phù du, đầy những dục vọng, thì ta sẽ không nghe được tiếng Chúa gọi. Tiếng nói của chúng lớn quá làm át cả tiếng Chúa vì Chúa nói nhỏ nhẹ, âm thầm, phải có đôi tai thính của tâm hồn mới có thể nghe thấy.
Truyện: Dòng suối vọng từ xa.
Một nhà thám hiểm nọ, lạc mất giữa sa mạc, đi từ đụn cát này sang cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ, chân ông vấp phải một cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi trên gốc cây, ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và ông cũng không còn chút hy vọng sống sót nào.
Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc: bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình, ông ngẩng đầu lên, trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức: đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối (Cử hành phụng vụ Chúa nhật, tr 109).
Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa. Có thinh lặng từ cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống.
2. Phải tìm gặp gỡ Chúa.
Chúng ta tin rằng Chúa ở khắp nơi mà chẳng ở nơi nào cả, nhưng nếu chúng ta tìm thì sẽ gặp được Ngài. Thực ra, Ngài đang ở giữa chúng ta, cùng đi với chúng ta, nhưng chỉ có người thiện chí mới nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Hãy tìm gặp gỡ Chúa như ba Tông đồ Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là cuộc gặp gỡ tuyệt vời bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó:”Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều). Ngày nay chúng ta không thể gặp Ngài một cách cụ thể như ba Tông đồ xưa, nhưng chúng ta có thể tìm gặp Ngài trong các biến cố xẩy ra từng ngày: lời khuyên của một người bạn, của một người khôn ngoan, của một đoạn Thánh kinh, một sự thử thách, một sự thất bại, một tư tưởng đột xuất nào đó, đều là những dấu chỉ của Thiên Chúa, lời kêu gọi của Chúa Kitô.
Truyện: Thánh Phanxicô Borgia.
Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào dòng Tên, trở nên vị thánh. Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói:”Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”! Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Ngài đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Ngài đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bờ sông Giorđan.
Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Ngài chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Nguời ta vẫn có thể đi sát bên Ngài mà không hay biết, vẫn có thể thấy Ngài mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai “Đây là chiên Thiên Chúa”. Tuy nhiên chỉ có người nào biết tìm kiếm và khát khao chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể lay động và lắng nghe (Fiches dominicales B, tr 66).
II. ĐÁP TRẢ TIẾNG CHÚA GỌI.
Trong đêm tối, Chúa đã gọi Samuel và muốn ông làm tiên tri và thay thế vai trò của thầy cả Hêli, Samuel đã mau mắn đáp trả lời mời gọi ấy:”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Đáp lại tiếng gọi của Chúa đòi phải có sự can đảm và liều mạng vì nhiều lúc Chúa trao cho ta sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, đau khổ, gian nan thử thách, có khi phải hy sinh cả mạng sống nữa. Sự đáp trả lại tiếng gọi của Chúa nơi Abraham đã nói lên đức tin của ông và nói lên ông đã tỏ ra can đảm thế nào trước tiếng gọi của Chúa.
Truyện: Thomas Merton.
Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia, khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton qùi gối xuống và cầu nguyện:”Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó, ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
Phải có thiện chí đi tìm Chúa trong cuộc sống. Mặc dầu Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà muốn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Thánh Augustinô đã viết:”Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”. Cứ nỗ lục tìm Chúa thì sẽ gặp được Ngài vì Chúa đã nói:”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy”. Vậy nếu ta đi tìm Chúa mà Chúa lại không muốn cho chúng ta gặp được Ngài sao? Điều đó hoàn toàn mâu thuẫn. Và khi đã gặp được Ngài ta phải tin theo.
Truyện: Phim Ben Hur.
Nhiều người đã được xem cuốn phim Ben Hur, một cuốn phim hoành tráng. Nội dung câu chuyện rút trong tiểu thuyết nhan đề Ben Hur của đại tướng Lew Wallace.
Cuốn sách thành hình có lẽ do một sự ngẫu nhiên. Hai sĩ quan cao cấp, là bạn thân với nhau gặp nhau trên một chuyến xe lửa. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, hai ông cùng giống nhau trong quan niệm vô thần. Đó là đại tướng Lew Wallace và đại tá Robert Ingersoll. Nhất là đại tá Robert Ingersoll người vô thần nổi tiếng ở Mỹ quốc.
Trong câu chuyện hai ông đề cập đến vấn đề tôn giáo, vấn đề vai trò Chúa Giêsu trong tôn giáo. Một người nói:Tôi rất bất bình khi người ta dị đoan mê tín mà đem thần thánh hóa con người Giêsu lịch sử, và coi như là con của Thượng đế.
Rốt cuộc, vị đại tướng đề nghị: Tôi thấy nên có một người nào đứng ra viết một bộ tiểu thuyết về con người Giêsu bằng xương bằng thịt thực sự. – Thưa đại tướng, tôi rất tán thành ý kiến ấy và đại tướng nên đảm nhận việc này.
Đại tướng ưng nhận và bắt đầu tìm tài liệu nghiên cứu. Ông bỏ ra khá nhiều thì giờ và công phu để nghiên cứu kỹ lưỡng về đời sống Chúa Giêsu. Ông cố gắng chứng minh Chúa Giêsu chỉ là người chứ không phải thần thánh hay con Thượng Đế gì hết.
Sau cùng, bộ tiểu thuyết được tung ra cho dân chúng, sách bán chạy như tôm tươi, vào số cuốn sách bán chạy nhất. Người ta đã đem câu chuyện đóng thành phim và cuốn phim thu hút nhiều khán giả nhất.
Nhưng một điều đặc biệt đáng chú ý là trong khi lao công khổ cực để khám phá sự thật thì đại tướng Wallace đã tìm thấy chân lý. Chân lý đảo lộn quan niệm cả cuộc đời của vị đại tướng đó là: Chúa Giêsu không phải chỉ là người không mà Ngài còn là Con Thiên Chúa nữa.
Đại tướng Wallace đã trở thành môn đệ của Chúa vậy.
Wallace đã thành tâm tìm hiểu Chúa nên đã tìm thấy sự thật. Đây cũng là thiện chí tối thiểu Chúa đòi để gặp được Chúa vậy (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 139).
III. GIỚI THIỆU CHÚA CHO NGƯỜI KHÁC.
Chúng ta đã được hân hạnh biết Chúa và tin theo Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Nếu Chúa Giêsu đã dạy:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không” thì chúng ta cũng phải chia sẻ hồng ân ấy cho người khác để họ tin theo Chúa mà được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Hôm nay Anrê giới thiệu Phêrô em mình cho Chúa Giêsu:”Chúng tôi đã gặp Đức Messia”(Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê là người luôn đứng ra giới thiệu người khác cho Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, ba lần nhắc đến Anrê, là ba lần ông dẫn người khác đến với Chúa Giêsu: ở đây ông dẫn Phêrô đến với Chúa, thứ đến ông dẫn em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, cuối cùng ông đưa những người Hy lạp thắc mắc đến với Chúa. Anrê rất vui đưa được người khác đến với Chúa. Ông nổi bật như là một người chỉ có mong muốn là chia sẻ vinh quang, ông là người có tâm tình truyền giáo. Sau khi chính mình đã được ở gần Chúa, ông dành trọn đời mình để dẫn đưa người khác bước vào tình yêu thương đó.
Khi Anrê đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu, Ngài nhìn ông, đó là một cái nhìn tập trung chăm chú, chẳng những thấy mặt bên ngoài mà còn đọc được cả tâm trí bên trong nữa. Khi nhìn Simon, tên của ông lúc bấy giờ, Ngài bảo:”Ngươi là Simon, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha “(nghĩa là đá). Khi một người có mối liên hệ mới đối với Chúa, cuộc đời người ấy như được bắt đầu lại, trở thành một người mới, nên cần một tên mới…
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Chúa Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh. Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong sách Tin mừng
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác ? Nếu chúng ta tin Phúc âm là Tin mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những kẻ mà chúng ta biết đang tìm kiếm một niềm tin ?
Chúng ta có nhiều cách giới thiệu Chúa cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh: nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu. Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài giảng hùng hồn.
Người ta thường nói:”Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một sức lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế, người ta cũng thường nói:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Truyện: Gương sáng của một Linh mục.
Chuyện kể rằng: một hôm, trên đường trở về nhà xứ, một linh mục kia vừa đi vừa cầm trí đọc kinh. Có hai thanh niên cùng về chung đường. Khi đã đi cách linh mục kia một đoạn khá xa, họ gặp một người hành khất ngồi bên lề đường giơ tay xin họ. Một anh cho ông ấy mấy đồng lẻ trong khi anh kia nảy ra một ý tưởng, anh nói với bạn:
– Ông cha hồi nãy thế nào cũng đi qua đây. Tôi cá với anh là ông ta chẳng bố thí cho người ăn mày này đâu, chúng ta thử rình xem.
Cả hai trốn vào bụi cây gần đó. Ít phút sau, vị linh mục kia đi tới. Ngài đứng lại nhìn người ăn mày, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi nói với người ăn mày:
– Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc tôi chẳng có đồng nào giúp ông.
Hai thanh niên nghe thấy thế thì khúc khích cười nói:
– Anh thấy chưa, tôi nói có sai đâu.
Lúc ấy người ăn mày lại tiếp tục nài xin. Vị linh mục nhìn người ăn mày rồi bảo ông ta:
– Ông đợi tôi một chút.
Ngài nhìn trước nhìn sau, rồi chui vào bụi cây gần đó, loay hoay một hồi rồi bước ra, tay cầm một chiếc quần dài đã cuộn gọn lại. Ngài đưa cho người ăn mày và ân cần nói:
– Đây, ông bạn cầm đỡ chiếc quần này, tuy nó hơi cũ lại đang mặc dở dang, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng kể cho ai nghe đấy. Thôi tôi đi nhé.
Hôm sau, có hai người khách lạ đến bấm chuông nhà xứ rất sớm và xin xưng tội. Vị Linh mục nhận ngồi toà giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được hai thanh niên thuật lại, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Vị Linh mục ngẩn ngơ thốt lên:
– Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ thôi mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn. Tạ ơn Chúa.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn ; Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn ; Chúa chỉ nhờ giọng nói của chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con”.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa” (M. Link).
31. Các anh tìm gì thế?
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
Chưa bao giờ nhân loại đứng trước nhiều lựa chọn như ngày hôm nay, dễ dàng tìm kiếm như ngày hôm nay. Giữa một khối lượng thông tin khổng lồ, con người dường như bị chìm đắm trong thế giới thông tin. Chắc chắn không phải tất cả mọi thông tin đều có lợi cho mỗi người. Tìm kiếm rồi sở hữu cái đúng cái tốt thì giúp mình triển nở. Và ngược lại, tìm kiếm và thủ đắc cái xấu, cái độc thì làm cho ta bị băng hoại. Các bài đọc Sách thánh trong Chúa nhật II thường niên B đưa ta đến thái độ cần phải có trên con đường ta đi tìm kiếm giữa cuộc sống hôm nay.
Tâm hồn ta đang hướng về đâu
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel (1Sm 3, 3b-10.19) kể về câu chuyện Thiên Chúa gọi Samuel. Trong đêm tối, Thiên Chúa đã cất tiếng gọi Samuel; thế nhưng Samuel đã không nhận ra tiếng Chúa; Cậu tưởng tiếng của thầy Eli. Tiếng Chúa liên tục kêu gọi bên tai cậu nhưng cậu chỉ nghĩ đến thầy Eli mà thôi. Cậu nghe thấy tiếng Chúa nhưng lại nghĩ đến thầy mình. Vì chỉ nghĩ đến thầy, chỉ biết có thầy nên cậu không nghe được tiếng Chúa.
Quả thực, lòng ta hướng về điều gì thì ta sẽ dễ dàng nhận ra điều ấy hơn; và thậm chí ta còn đồng hoá những thứ khác với điều ta đang quan tâm. Người ta thường nói: bác sỹ thì nhìn đâu cũng thấy bệnh; cảnh sát nhìn đâu cũng thấy tội phạm; doanh nhân nhìn đâu cũng thấy lợi nhuận; người đang yêu thì nhìn đâu cũng thấy người mình yêu… Bởi khi ấy, tâm hồn ta hướng chiều về đối tượng và bị đối tượng ấy chiếm hết cả tâm hồn mình.
Giữa một xã hội bôn ba ngược xuôi tìm kiếm: người thì đi tìm tiền; người thì đi tìm tình; người đi tìm danh; người lo kiếm chữ; kẻ lo tìm nhà. Tất cả đang nháo nhác đi tìm. Vậy nên chẳng lạ gì khi cỗ máy tìm kiếm Google đã trở nên công ty hàng đầu trên thế giới chỉ sau ít năm thành lập. Nếu bạn quan tâm tới điều gì, bạn sẽ bị lôi cuốn vào con đường tìm kiếm cái đó. Thậm chí, thế giới điện toán internet sẽ quẳng vào xung quanh bạn toàn là những thứ bạn đang quan tâm.
Chính các môn đệ trong bài Tin Mừng của Chúa nhật này cũng đi tìm kiếm. Thế nhưng chỉ khi Đức Giêsu hỏi các ông “Các anh tìm gì?” (Ga 1,38) thì các ông mới thực sự đối diện với thực tại lòng mình.
Thái độ cần có
Đối diện với câu hỏi của Chúa Giêsu, các môn đệ đã tìm lại được thái độ căn bản của cuộc tìm kiếm: “Lạy Thầy, Thầy ở đâu”. Các ông đã không còn khơi khơi chạy theo dư luận, tìm kiếm giá trị trần gian. Các môn đệ đã muốn tìm gặp chính Thiên Chúa. Chính thái độ khẳng định sự tìm kiếm Thiên Chúa trong cuộc đời đã dẫn đưa các môn đệ đến gặp Chúa, ở với Chúa, cảm nghiệm về Chúa. Thái độ khát khao tìm kiếm Thiên Chúa sẽ giúp con người nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa giữa đủ mọi màu sắc của cuộc sống, nhận ra được tiếng nói của Thiên Chúa giữa muôn vàn cung điệu.
Bài đọc thứ hai được trích trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto (1 Cr 6, 13c-15a, 17-20). Thánh Phaolô đã bàn giải về thái độ tìm kiếm ấy càng rõ rệt hơn. Cũng là thân xác con người, nhưng nếu bạn chỉ tìm kiếm sự vui thú xác thịt, chỉ thoả mãn dục vọng thì bạn chỉ thấy nơi thân xác con người là sự dâm ô. Trái lại, với thái độ luôn tìm kiếm Thiên Chúa, Thánh nhân đã nhận ra thân xác chính là đền thờ của Chúa Kitô; Ngài nhận ra uy quyền của Thiên Chúa và lời mời gọi nên thánh trong chính thân xác của mình.
Tìm kiếm Thiên Chúa, nền tảng của cuộc sống
Gặp được Thiên Chúa là bạn có tất cả. Có thể bạn phải tìm kiếm của cải trần gian, miếng cơm manh áo để đảm bảo cho đời sống này; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên bạn và mọi thứ trên trần gian này. Có thể bạn đang tìm kiếm sự ổn định đời sống gia đình, chuẩn bị cho tương lai; nhưng bạn đừng quên Thiên Chúa là nguồn cội và là cùng đích bạn tìm về. Chỉ nơi Ngài bạn mới có nguồn bình an hạnh phúc đích thực trường cửu. Có thể bạn đang tìm kiếm người bạn đời tri âm tri kỷ; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã đến để tìm cách ở cùng bạn, chia sẻ vui buồn với bạn.
Chính khi bạn gặp gỡ Thiên Chúa là bạn gặp lại được chính mình. Chính ở nơi Thiên Chúa bạn mới thấy mình không phải là kẻ vô danh nhưng là con Thiên Chúa; bạn thấy cuộc đời có ý nghĩa này đưa bạn vào đời sống vĩnh cửu chứ không phải nó qua đi rồi hết; bạn mới thấy giá trị của lao nhọc và khổ đau, thấy giá trị của sự cố gắng vươn lên trong cuộc sống của bạn; và bạn mới thấy được mình cần phải vượt ra khỏi vũng lầy của tội lỗi, của chán trường; bạn mới biết thanh lọc những giá trị trong cuộc sống.
Trong buổi tiếp kiến với hơn 9000 khách hành hương ngày 17 tháng 9 năm 2008, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô đã khẳng định: “Tìm kiếm Thiên Chúa là nền tảng của mọi nền văn hoá”. Nếu thực sự khát khao và lên đường đi tìm kiếm Thiên Chúa, chắc chắn bạn sẽ gặp Ngài. Bởi chính Ngài đang tìm kiếm bạn, đang chờ đợi bạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin khơi lên trong con lòng khao khát Chúa như xưa Chúa đã khơi lên trong lòng các môn đệ. Xin cho con được ở lại với Ngài để con được xác tín sự hiện diện của Ngài trong con. Xin dẫn con đi và xin kéo con về mỗi khi con lang thang lạc bước trên đường tìm kiếm Nước Trời.
32. Chiên Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Thánh Danh ‘Chiên Thiên Chúa’ được thánh Gioan Tiền Hô dùng để chỉ Đức Kitô Cứu Thế. Có lẽ đây là lời tiên tri quan trọng nhất trong cuộc đời rao giảng của Gioan, đấng đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Đây cũng là lời tiên tri cuối cùng của Ngài trước khi chịu xử trảm chém đầu dưới tay hoàng đế Hêrôđê. Ngoài giải thích linh ứng bởi Thánh Thần thì không còn giải thích nào thích hợp hơn làm sáng tỏ điều gì dẫn đến việc Gioan giới thiệu Đức Kitô với các môn đệ mình khi ông gọi Ngài là Chiên Thiên Chúa. Điều Gioan với thiệu với môn đệ mình xưa kia nay được Kitô hữu tuyên xưng ba lần trước khi đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Khi Gioan tuyên xưng Đức Kitô là ‘Chiên Thiên Chúa’ ngài có lẽ không hiểu rõ ràng như ngày nay chúng ta biết đó là việc Đức Kitô chịu chết thay cho nhân loại, xoá tội trần gian và sống lại để ban sự sống trường sinh cho nhân loại.
Điều chắc chắn là hình ảnh chiên hiến tế thánh Gioan biết có nguồn gốc xa xưa từ Cựu Ước. Cả hai biến cố lịch sử trọng đại đều liên quan đến hình ảnh chiên hiến tế, được ghi nhận trong cuốn sách đầu trong Cựu Ước là sách Sáng Thế Kí chương 12-13 và 22.
Biến cố lịch sử trọng đại thứ nhất Yavê giải thoát dân Ngài khỏi thời kì nô lệ dưới triều đại của Pharaô. Trong ngày đó gia đình dân Chúa chọn giết con chiên làm bữa ăn và dùng máu chiên bôi trên khung cửa trước nhà. Nhà nào có máu chiên trên khung cửa mọi người được bình yên và thoát nạn chết. Sau đó toàn dân Israel an toàn ra đi khỏi vùng đất nô lê, vượt qua Biển Đỏ. Biến cố này phát sinh ngày lễ kính hàng năm của dân tộc Do Thái đó là lễ Vượt Qua tưởng niệm ngày được tự do, giải thoát khỏi ách nô lệ của ngoại bang.
Biến cố thứ hai Yavê Thiên Chúa thử tổ phụ Abraham khi nói với ông hãy hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Ngài. Để chứng tỏ lòng yêu mến Yavê hơn chính bản thân mình Abraham thương con nhưng Ngài thương Thiên Chúa nhiều hơn nên không ngần ngại hiến tế con một mình cho Yavê. Thiên Chúa sai Thánh Thần Chúa xuống can thiệp cứu Isaac khỏi chết và thay thế bằng một con chiên sừng mắc bụi gai. Điều này dẫn Abraham trở thành tổ phụ của những ai có lòng tin vào Thiên Chúa.
Thời Cựu Ước biến cố bôi máu chiên trên khung cửa trước nhà trở thành biểu tượng của an toàn, của bào vệ dân Israel khỏi sự chết. Ngoài ra chiên còn là hình ảnh của giải thoát khỏi tình trạng nô lệ để được sống tự do. Từ đó phát sinh ngày mừng kính lễ Vượt Qua hàng năm. Thịt chiên là thực phẩm chính trên bàn ăn của các gia đình ở phương Tây, là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính nuôi cơ thể. Lông chiên giữ cơ thể ấm suốt mùa đông giá rét. Chiên Thiên Chúa thực hiện nhiều điều kì diệu ngoài sự suy hiểu của con người. Ngoài việc nuôi dưỡng tâm linh Kitô hữu, máu Chiên Thiên Chúa xoá sạch tội trần gian và việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Từ đó biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa thừa hưởng những hồng ân Thiên Chúa ban cho Đức Kitô, Con yêu dấu Ngài.
Chúng ta không những tránh khỏi sự chết, còn được ban cho sự sống trường sinh khi Đức Kitô gánh tội trần gian chịu khổ hình vào đúng dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vì thế chúng ta có thể nói nhờ vào cuộc tử nạn và Máu Thánh Đức Kitô đổ ra chúng ta Vượt Qua được sự chết tiến đến đất hằng sống trường sinh.
33. Này Chiên Thiên Chúa
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Môn chơi chữ có thể rất vui. Một số người nói một từ và bạn có thể trả lời theo những gì đến trong tâm trí bạn. Thí dụ, tôi nói “nhỏ” và bạn nói “lớn”. Tôi nói “bóng đá”, bạn nói “bóng chày”. Gioan Tẩy Giả nói Đây Chiên Thiên Chúa” và chúng ta có thể nói “cái gì?”.
Để trình bày Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tẩy Giả đã có thể làm tốt hơn khi tuyên bố: “Hãy chiêm ngắm, đó là Chúa của các ngươi” hoặc “Đó là Đấng Cứu Độ” hay “đấy là Đức Kitô” không hay hơn sao? Tất cả những tước hiệu này xem ra diễn tả rõ ràng hơn: “Chiên của Thiên Chúa”.
Thật ra, đối với người Do thái, tước hiệu mà Gioan Tẩy Giả rao giảng thì từ: “Chiên Thiên Chúa” gợi lên trong tâm trí họ toàn bộ giáo lý đức tin của dân riêng Thiên Chúa. Ngay lập tức, họ nghĩ rằng không phải là một con chiên nhỏ bé nhưng là sự lớn lao của quyền năng và lòng thương xót Chúa hướng đến họ qua dấu máu của con chiên, nhờ đó họ được cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập và được mang đến sự tự do và đời sống mới nơi đất Hứa. Mỗi năm và dịp lễ Vượt Qua, họ lại tưởng nhớ và mừng lễ Cứu Độ bằng việc tham dự vào bữa ăn tối Vượt Qua.
Trong Thánh Lễ, việc mừng sự cứu độ của chúng ta trong Đức Kitô, chúng ta nhìn lên Mình và Máu Chúa, chúng ta nhận biết Người bởi chúng ta hiểu những lời của vị linh mục: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Khi chúng ta nghe những lời này trước khi rước lễ, chúng ta được mời gọi nhớ lại những gì mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, Người như Chiên Vượt Qua. Chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta trong những lời tuyên xưng Thánh Thể. Khi nhớ chiên Vượt Qua đã bị hy sinh sát tế như thế nào, chúng ta được mời gọi suy niệm về chung kết là việc Chúa ngự đến như là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ thế gian này: “Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, và Chúa Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang”.
Khi suy niệm về sự giải thoát đã ban cho các tổ phụ chúng ta, trong đức tin, chúng ta được mời gọi suy niệm về việc được giải thoát khỏi tội lỗi của chúng ta: “Lạy Chúa, bằng thánh giá và sự Phục Sinh của Người, Người đã cho chúng con được tự do. Chúa là Đấng Cứu Độ thế gian”. Khi suy nghĩ về đời sống mới của các tổ phụ tinh thần của chúng ta nơi đất Hứa, chúng ta được mời gọi suy niệm đời sống mới của chúng ta trong Đức Kitô: “Bằng cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, bằng việc sống lại, Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta”. Khi suy niệm về các tổ phụ đã kỷ niệm sự giải thoát của mình bằng việc dự phần vào bữa tối Vượt Qua, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm việc chúng ta cử hành ơn cứu độ của chúng ta nơi bữa tiệc Thánh Thể: “Lạy Chúa Giêsu Kitô khi chúng con ăn bánh và uống chén này, chúng con tuyên xưng việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
Khi mời gọi mọi người lên hiệp lễ, vị linh mục nói: “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” hay là câu “Hạnh phúc thay những người được gọi đến dự bữa tối với Người”. Bữa tối hoặc tiệc đây không phải ám chỉ bữa tối sau hết nhưng là tiệc cưới của Con Chiên Thiên Chúa trên thiên đàng nơi mà các tín hữu của Chúa mừng Giao Ước tình yêu và trung tín (Kh 19,9). Bữa tiệc huy hoàng và đời đời là số phận của chúng ta bởi vì chúng ta nên một với Chiên Thiên Chúa ở trên trời.
Không có từ đơn giản nào mà thích hợp như một câu trả lời khi chúng ta nghe xướng: “Đây Chiên Thiên Chúa”, nhưng một cuộc suy niệm sâu xa về sự phong phú của tước hiệu này sẽ giúp chúng ta hiểu biết Chúa Giêsu tốt hơn và dẫn chúng ta tới dự phần đầy đủ hơn nơi bữa tiệc Thánh Thể của Chiên Thiên Chúa.
34. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚNG TA
Tin Mừng Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng cho chúng ta biết, Ba Nhà Đạo Sĩ đã nhìn thấy “ngôi sao của Người” (Mt 2, 2), ngôi sao vừa “ló dạng” (c. 2,9), Ngôi sao Giêsu. Mùa Thường Niên mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Ánh sao, hay của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh mình rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 35). Chúng ta cùng nhau suy niệm phương cách Gioan giúp các môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, từ đó rút ra bài học về ơn gọi truyền giáo của mình.
Hai môn đệ Gioan đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn đợi ai khác?” Đấng phải đến, theo niềm tin của người Dothái là chính Đấng Cứu Thế, Đấng họ hằng mong đợi theo ngôn sứ Malakia tiên báo: “Hãy dọn đường Chúa” (Ml 3,1).
Gioan được sai đến để làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Ông đã nhận ra Người bên giòng sông Giorđan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Người là: “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).
Khi sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, hẳn Gioan không phải là người không biết đến vai trò và sứ vụ của Chúa Giêsu, bởi vì khi ngài còn được tự do, chưa phải ngồi tù, chính Gioan nhận ra Chúa Giêsu ngay từ khi còn trong lòng mẹ, bằng chứng là Gioan đã nhảy mừng lên vì vui sướng khi được Đức Maria đến thăm mẹ mình là bà Elisabét. Gioan cũng thấy cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên trên vai Chúa Giêsu và có tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến:”Con là Con yêu dấu của Cha ; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1,11); và cũng chính ông đã loan báo về Đấng đến sau mình: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Vì uy quyền và chức vụ của Đấng ấy là Con Đấng Tối Cao, khiến ông không đáng cúi xuống cởi giây dày cho Người; sau cùng, Gioan tuyên bố: “Đây là chiên Thiên Chúa”.
“Đây là chiên Thiên Chúa”, lời này được cất lên từ miệng ông Gioan khi thấy Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên: Chúa Giêsu đi ngang qua, lúc ấy chừng 4 giờ chiều. Gioan và ông Anrê, hai thanh niên con nhà chài lưới, nghe lời giới thiệu của thầy mình liền cất bước đi theo Chúa Giêsu, “Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39). Người quay lại hỏi hai thanh niên, “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1,38). Họ ngạc nhiên trước câu hỏi của Chúa, họ trả lời: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ, “Hãy đến, và các ngươi sẽ thấy” (Ga 1,39). Cả hai cùng đến, và họ đã trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đúng là gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh. Chưa dừng lại ở đó, Anrê thấy mình biến đổi, và được đầy tràn hạnh phúc, ông đã chạy về tìm người anh kể cho anh biết, “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia” (Ga 1,41). Và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu. “Chúa Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá” (Ga 1,42).
Phêrô! Simon, là Đá ư? Không ai trong số họ được chuẩn bị để hiểu những lời này. Họ không biết rằng Chúa Giêsu đã đến để xây dựng Giáo hội của Chúa bằng những viên đá sống động. Người đã chọn hai môn đệ đầu tiên là Gioan và Anrê, và đặt Simon là đá để xây Hội Thánh của Người.
Trong lịch sử cứu độ, thánh Gioan Baotixita được xem như là nhân vật lớn cuối cùng của thời Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của Tân Ước. Ông là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện, ông có sứ mệnh rất quan trọng là giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.
Như Gioan trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải làm gì để thi hành ơn gọi truyền giáo của mình? Bằng lời rao giảng chăng? Chưa đủ, bằng đời sống đạo, đời sống bác ái chăng? Hơn thế nữa, trong thế giới hôm nay, chúng ta cần đưa mọi người đến với Chúa Giêsu, để họ nhận biết Chúa là Đấng quyền năng, giàu lòng thương xót, nhân từ, hết mực thứ và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Người đến để mang tình yêu, sự sống và hạnh phúc cho con người. Từ đó nẩy sinh đức tin trong mọi người, biến họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta noi gương hai môn đệ của Gioan, những người đầu tiên đã theo Chúa và ở lại với Chúa, đi vào trong tương quan thân tình với Chúa để Chúa trực tiếp hướng dẫn, sau này làm chứng cho Chúa.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta sẵn sàng lui vào hậu trường để Chúa Giêsu được lớn lên và can đảm giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác để họ tin theo và thi hành ơn gọi truyền giáo của mình. Amen.
35. Đây là Chiên Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nếu Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, lời Chúa mời gọi chúng ta sống sao cho xứng đáng làm con Thiên Chúa, thì Chúa nhật này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhất là của chính Gioan để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tin Mừng hôm nay trình bày Gioan Tẩy Giả thật đúng với sứ mạng của ông là chỉ cho mọi người biết Đấng Cứu Thế: Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 35). “Chúa Giêsu đang đi và Gioan nói”, là một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Năm Phụng vụ mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh: “Đây là Chiên Thiên Chúa”(Ga 1, 35).
Đây là Chiên Thiên Chúa
Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân (Ga 3,16), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Người là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.
Gioan là mẫu người tìm Chúa và giới thiệu Chúa
Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa mặc khải trong xác phàm, Lời làm người để cứu chuộc nhân loại. Gioan là tiếng, ông là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền là một công thức tuyệt đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa: “Đây là Chiên Thiên Chúa”(Ga 1, 35). Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.
Gioan không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, nhưng ông đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia việc thực hiện lời hứa. Ông đã sống đến cùng ơn gọi của mình là chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Noi gương Gioan sống chứng nhân
Con người tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đáp trả, con người lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho tha nhân, nên câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). là câu hỏi mà hai anh em nhà Anrê và Simon Phêrô sau khi được thầy Gioan giới thiệu đã hỏi Chúa. Khuynh hướng tự nhiên nơi tâm hồn con người là đi tìm Chúa, và Thiên Chúa luôn luôn mau mắn đáp trả, mời gọi con người đến gặp Người: “Hãy đến mà xem” (Ga 1, 39)..
Hai chàng thanh niên hỏi, rồi một câu trả lời có tính cách như là một lời mời gọi. Khi nghe những lời chỉ dẫn đó, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền theo Chúa Giêsu. Phải chăng đây là một biến cố đầy ý nghĩa? Khi Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1, 38) thì hai môn đệ trả lời cũng bằng một câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Và Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười (Ga 1, 39). Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đến lượt Anrê, Anrê lại dẫn anh mình là Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Khi trình bày lại cuộc gặp gỡ nầy với Chúa Giêsu, phụng vụ ngày hôm nay muốn chứng tỏ điều trọng nhất trong đời sống chúng ta. Hỏi là kết quả của cuộc kiếm tìm. Con người đi tìm Thiên Chúa. Con người, tận trong thâm tâm, hiểu rằng cuộc kiếm tìm này là định luật nội tại của cuộc sống. Con người đi tìm đường đi trong thế giới hữu hình, và qua thế giới hữu hình, con người đi tìm cái vô hình trong cuộc hành trình thiêng liêng của mình.
Mượn lời vịnh gia, mỗi người trong chúng ta có thể thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đi tìm nhan thánh Chúa; xin đừng ẩn mặt xa con” (Tv 27. 26, 8-9). Mỗi người trong chúng ta có một lịch sử cá nhân riêng và mang trong mình khát vọng muốn thấy nhan Thiên Chúa, một ước vọng mà người ta cảm thấy cùng với việc khám phá thế giới tạo vật.
Chúng ta hỏi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Giáo Hội trả lời cho chúng ta mỗi ngày rằng: Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể, bí tích của sự chết và sống lại, trong và nhờ bí tích này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong lịch sử con người.
Câu trả lời cho câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” Còn cần phải được nghe như sau: Thầy ở trong tất cả mọi người được cứu chuộc. Đúng vậy, Chúa Kitô, Đấng có những lời ban sự sống đời đời, Đấng là “Đầu của Dân mới và phổ quát của tất cả những con cái của Thiên Chúa” (LG số 13), hiện diện trong dân Người. Gioan đã làm chứng và giải thích về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời để thông phần vinh quan với Lời; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá: “Đây là Chiên Thiên Chúa “(Ga 1, 35). Đến lượt chúng ta, là thành phần của Giáo hội, thành phần sống động và có trách nhiệm, hãy là những đồ đệ và là những chứng nhân của Chúa Kitô, Đấng mạc khải Thiên Chúa Cha. Hãy sống trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Amen.
36. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Bài Tin Mừng hôm nay: Ga 1, 35-42 trình bày cho chúng ta thấy Gioan và Anrê bước theo Chúa Giêsu, (là những Tông Đồ đầu tiên theo Chúa Giêsu làm thành những Tông Đồ nồng cốt cho 12 Tông Đồ sau này). Nhìn vào ơn gọi của hai ông (sự dấn thân quyết liệt, mau mắn bước theo Chúa Giêsu của hai ông,) ta thấy được một vài ý nghĩa:
Người đi theo Chúa Giêsu trước tiên là người có lòng muốn
Sống trong xã hội thời đó, giống như những người Do Thái khác, Anrê và Gioan cũng có tâm tình khao khát, các ông trông mong Đấng Thiên Sai đến để giải thoát họ. Hơn nữa hai ông còn muốn “mặt giáp mặt”, muốn gặp được Người để thỏa lòng mong muốn. Bởi vì Người là “Chiên Thiên Chúa”, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Messia mà các ông đợi trông, muốn gặp mặt tự trong cõi lòng. Nên khi nghe Gioan Tiền Hô giới thiệu, Anrê và Gioan tin ngay và liền bước theo Đức Giêsu.
Phần mình, Đức Giêsu muốn hai ông ý thức việc làm của mình, Người muốn các ông xác tín rõ ràng việc đi theo của hai ông: hai ông đi theo Đức Giêsu để làm cái gì? Người muốn các ông không phải là những người hùa theo đám đông, nghe dư luận, làm theo tiếng nói quần chúng mà không có sự ý thức. Phải có sự phân định ơn gọi rõ ràng, có sự thúc bách tận cõi lòng. Sống có mục đích. Vì thế Người hỏi: “các ngươi tìm gì?”
Đối với mình, vì đã có lòng khao khát, đã có thao thức, đã có để tâm nghe, đã có lòng muốn bước theo nên khi nghe được tiếng Người hỏi, và như bắt được tần sóng, hai ông đã thưa: “Thầy ở đâu?”. Lòng muốn của các ông được Đức Giêsu tạo ban cho cơ hội bước theo Đức Giêsu.
Người đi theo Chúa là người có lòng mến Chúa thật sự
Tình yêu Đức Kitô thật mãnh liệt, đã lôi cuốn hai ông. Hai ông đã bỏ Gioan Tiền Hô mà dứt khoát đi theo Đức Giêsu, dám sống dám chết cho Người, dám dấn thân cho Người.
Thế nên nếu ta có thiện chí, có lòng khát khao thật sự, tận thâm tâm, trong cõi lòng của mình để bước theo Chúa như hai ông Anrê và Gioan trong bài Tin mừng hôm nay thì Đức Giêsu sẽ cho ta gặp được chính Người, Người sẽ biến đổi ta. Lòng mến Đức Giêsu thật sự được thể hiện qua cách đáp trả dứt khoát của hai ông.
“Hãy đến mà xem.” Khi nghe Đức Giêsu mời gọi, các ông liền mau mắn bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu. Và rồi chẳng những hai ông đến xem mà còn ở lại, lưu lại. Nhờ đó hai ông được Đức Giêsu biến đổi. Ở với Đức Giêsu, các ông được sưởi ấm lòng mến, thắp thêm niềm tin, đón nhận được nguồn bình an cần thiết, được bồi bổ tình yêu. Hơn nữa các ông còn được học biết cách sống của Người: yêu người, yêu Thiên Chúa, biết cầu nguyện, sống đời sống mới. Qua cách bước theo của các ông, chúng ta nhận thấy việc theo Chúa không phải là việc theo thời ” người ta đi theo thì mình cũng đi” hay vì tình cảm ham thích nhất thời ” ngày một, ngày hai” ,thích hùa theo dư luận cho vui,..nhưng quan trọng phải chú ý tới là: ý thức việc theo Đức Giêsu của mình là gì?. Việc theo Đức Giêsu phải thật sự dựa trên lòng mến chân thánh, tha thiết, trọn vẹn.
Người theo Chúa là người biết lắng nghe và đáp lại ý Chúa
Động cơ theo Đức Giêsu thiết yếu dựa trên việc người môn sinh dõi theo tiếng Chúa , ý muốn của Chúa, muốn thực hiện điều Đức Giêsu muốn. Do đó ta phải chuyên chăm cầu nguyện, cầu nguyện liên lĩ, cầu nguyện không ngừng. Khi ta mở lòng mình ra để chìm sâu vào trong ơn Chúa, chìm sâu vào sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Giêsu trong cõi lòng mình, thì trí ta, lòng ta sẽ sáng suốt nhận thấy được điều Người muốn, để ta thực thi và chỉ muốn làm đẹp lòng Người mà thôi. Và khi đó ta không còn mong làm điều mình muốn nữa mà là mong muốn thực thi thánh ý Chúa. Nên là người Kitô hữu, ta hãy hoàn toàn dấn thân, toàn tâm toàn ý, đem hết cả tâm trí để bước theo Đức Giêsu, ta sẽ để Người dùng quyền năng theo cách của Người thực hiện chương trình cứu độ qua cuộc đời chúng ta.
Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta theo Chúa qua Hội Thánh. Chúng ta hãy thành tâm đáp lại lời mời gọi của Chúa. Tuy nhiên cũng giống như các môn đệ, kẻ được mời gọi không dừng lại ở người trung gian mà phải vượt lên tất cả, trực diện với chúa, sống với Chúa, ở lại với chúa. Đây là công việc của mỗi cá nhân mà không ai thay thế. Bên cạnh đó, đến với Chúa, người môn đệ trở thành nhân chứng cho người anh em xung quanh. Chúng ta có trách nhiệm giúp họ, nói về Chúa cho họ, chỉ cho họ về với Chúa. Đó còn là bổn phận cấp thiết cho chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và dám sống cho Chúa.
37. Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Có những cuộc gặp gỡ thay đổi hẳn cuộc đời của chúng ta. Cuộc gặp gỡ làm nảy sinh tình yêu hay nối kết những cuộc đời với nhau. Tường thuật của thánh Gioan hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc gặp gỡ quyết định của hai thanh niên với Chúa Giêsu. Chắc không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu đi ngang qua chỗ Gioan Tẩy Giả đang giảng và làm phép rửa. Ngài đã biết trước những gì Ngài muốn làm. Ngài đang chờ hai môn đệ của Gioan. Ngài thi hành sứ mệnh rao giảng Nước Trời, nhưng không chỉ có một mình, Ngài cần có những môn đệ để tiếp nối công trình dài hạn của Ngài.
Gioan đang đứng với hai môn đệ, thấy Chúa Giêsu đi qua, ông giới thiệu với hai môn đệ:
“Đây là Con Chiên Thiên Chúa”.
Họ hiểu ngay, vì họ biết Con Chiên Thiên Chúa là ai, vì Kinh Thánh đã nói nhiều đến Con Chiên này. Con chiên quen thuộc nhất và được nhắc đi nhắc lại hằng năm là con chiên vượt qua thời ông Môsê. Máu con chiên đó được bôi lên cửa của những người Do Thái, nhờ đó họ thoát khỏi sự tàn sát của sứ thần và nhờ đó họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Và mỗi năm, vào dịp lễ Vượt qua, mọi nhà đều ăn con chiên theo nghi thức đã được ban truyền.
Con chiên được nhắc đến cũng là con chiên bị đưa đến lò sát sinh mà không hở môi. Con chiên đó gánh lấy tội của nhân loại, là người đầy tớ của Thiên Chúa. Họ hiểu ngay lời của thầy Gioan Tẩy Giả, và họ bước theo người được giới thiệu là Con Chiên Thiên Chúa. Họ chưa biết rằng cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ quyết định cuộc đời của họ.
Hai môn đệ của Gioan là Anrê và người môn đệ không tên đi theo Chúa Giêsu. Thánh Gioan thánh sử thường giấu tên ngụ ý rằng người môn đệ vô danh đó có thể là chúng ta. Hai môn đệ đến gần Chúa Giêsu, Ngài quay lại hỏi: “Anh em tìm gì thế?” Các ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đến mà xem”. Đây là cách nói của người Do Thái, nếu nói theo kiểu Việt Nam, chúng ta sẽ dịch ra như sau: “Mời các anh đến chơi cho biết”. Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ theo tiếng Do Thái vì ý nghĩa của câu nói Do Thái mạnh hơn. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy gì? Khởi đầu là một tìm kiếm, là một gặp gỡ. Họ ở lại với Ngài, và sau cùng nhìn nhận Ngài và gắn bó với Ngài. Tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị, họ khao khát, họ tìm kiếm một cái gì đó sâu xa hơn. Họ cảm thấy còn thiếu một cái gì mà họ chưa có thể nhận ra. Tâm hồn họ như nai rừng khao khát tìm về suối nước trong, như mảnh đất khô cằn không giọt nước.
Chúa Giêsu đến mang lại điều họ đang cảm thấy cần. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa. Họ đã từng nghe nói đến nhưng hôm nay, thầy của họ mới chỉ cho thấy. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa? Có thật vậy không? Và họ đã đến với Ngài, tìm Ngài. Họ đã gặp. Nhưng không phải chỉ nói vài câu xả giao, mà họ muốn biết Ngài sâu xa hơn. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Nghĩa là Thầy là ai? Thầy sống như thế nào? Đáp trả sự tìm kiếm của họ, Chúa Giêsu mời họ đến nhà và họ được ở lại với Ngài ngày hôm ấy.
Ở lại với Ngài, và lúc ấy mới bốn giờ chiều. Trong đêm đó, họ đã trao đổi những gì với nhau? Thánh sử không nói đến, nhưng câu chuyện đưa họ đi đến niềm tin. Họ đã gặp được Đấng họ đang mong chờ. Họ vui mừng loan báo cho anh em mình: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Mêsia!” Họ đã gắn bó với Ngài. Ngài đã chinh phục được những môn đệ đầu tiên, những con người sẽ theo Ngài vô điều kiện, sẽ sống chết với Ngài. Ông Simon, anh của Anrê cũng được ông dẫn đến với Chúa Giêsu và ông này đặc biệt đã được đổi tên mới: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô”. Đổi tên, theo tục lệ Do Thái, là dành riêng người này cho một công việc quan trọng. Và đúng thế, sau này Phêrô là vị lãnh đạo nhóm Mười Hai, tiếp tục công việc của Ngài.
Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đến với Ngài, vì Ngài là sự sống, là tình yêu, là những gì làm cho cuộc sống hôm nay của chúng ta mang một ý nghĩa vững bền và tươi sáng. Giáo hội không ngừng giới thiệu Ngài cho chúng ta. Và “dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ”. Thế nhưng chúng ta có tìm kiếm Ngài như hai môn đệ kia không? Tìm kiếm mới có thể gặp được. Chúng ta có thích ở lại với Ngài không? Hay chúng ta chỉ thích bay nhảy theo những mời gọi của thế gian? Ông Nicôđêmô ban đêm đã đến tìm Ngài và ông đã được mãn nguyện. Ông Giakêu, khao khát được nhìn thấy và ông đã được Chúa nhìn đến ông. Những cuộc gặp gỡ đã thay đổi cả cuộc đời. Chúng ta có muốn cho cuộc sống chúng ta tươi đẹp không? Hãy đến với Ngài, ở lại với Ngài, chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Ngài đang chờ những Anrê, những Simon thời đại này. Ngài kêu gọi mọi người không trừ ai vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
Chúng ta có sẵn sàng dấn thân theo Ngài không?
“Hãy đến mà xem”. Chúng ta xem gì? Có phải là cây lau phất phơ trước gió không? Chắc là không. Chúng ta sẽ thấy một con người như mọi người nhưng là Con Thiên Chúa, Đấng đang mời gọi chúng ta vào thân mật với Ngài, chia sẻ thân phận cứu thế với Ngài. Sống như kẻ không nhà, không có nơi gối đầu, luôn sống theo ý Cha trên trời, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Đó là khuôn mặt của Con Chiên Thiên Chúa.
“Đến mà xem” không phải chỉ để xem mà để theo. Theo Ngài, chia sẻ sứ mệnh của Ngài, đó là tiếng gọi, không dành cho một số người được biệt đãi mà cho mọi người tin. Tin mà không đồng hành với Ngài thì không gọi là tin. Tin chính là dấn thân triệt để với Ngài, Đấng đã nhìn đến phận hèn của chúng ta và đã kêu gọi chúng ta. Tin là đáp trả lời mời gọi của Chúa: “Hãy đến mà xem”. Nhưng không chỉ xem mà “ở lại trong tình thương của Ngài”, loan báo cho người khác: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Đó là tin mừng mà chúng ta cần loan báo. Nam hay nữ, chúng ta đều phải loan báo cho mọi người hồng ân Chúa ban cho chúng ta là được biết Ngài. Bà Mađalêna trước mộ Chúa đã gặp được Ngài và đã loan báo cho các môn đệ, người phụ nữ Samari, ngỗ ngáo và lăng loàng, sau khi đã gặp Ngài, đã vội chạy về làng báo tin: “Tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
Chúng ta có gặp được Ngài chưa? Có lẽ chúng ta đã gặp Ngài thường xuyên, trong thánh lễ, trong những lúc cầu nguyện, nhưng những cuộc gặp gỡ đó đã mang lại gì cho chúng ta? Chúng ta có cảm thấy muốn ở lại với Ngài không hay chúng ta chỉ gặp vì bắt buộc, vì thói quen và chúng ta mong mau về nhà để lo việc khác? Chúng ta có thực sự gắn bó với Ngài không? Ngài chiếm chỗ nào trong tâm hồn chúng ta? Ngài luôn mời gọi, nhưng chúng ta có đáp lại không?
“Hãy đến mà xem”. Hãy đến vì Ngài đang ở nơi bàn thờ. Ngài là Con Chiên đến để gánh tội trần gian và cũng để ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Hãy đến với Ngài, đáp trả tình yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài vì Ngài là của ăn ban sự sống. Ăn lấy Ngài để biết tình yêu của Ngài êm dịu như thế nào và loan báo tình yêu đó cho mọi người, để tất cả đều được chia sẻ hạnh phúc mà Ngài đã mang đến cho chúng ta.
38. Chúa nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: “Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1Sm 3, 10).
Kính thưa quý anh chị em,
Lắng nghe và thực hành chân lý làm con người khôn ngoan trong mọi lãnh vực. Điều này lại càng đúng trong lãnh vực mạc khải, vì Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan vô cùng, dạy bảo con người nhận biết Chúa và đạt tới chân lý, để được hạnh phúc và cứu độ.
Adam/Eva, thủy tổ loài người, đã không khôn khi bỏ ngoài tai lệnh truyền của Chúa, làm theo ý riêng, đã gieo đau khổ và sự chết cho hết thảy mọi người.
Chúa Giê-su, chuộc lại sự bất trung của Adam bằng vâng phục trọn vẹn ý Cha, đã nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai muốn lắng nghe và thực thi ý Cha trên trời: “Ai giữ Lời Chúa Kitô, thì quả thực, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Jn 2, 5).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức lắng nghe, nhận diện, đáp trả lời mời gọi của Chúa theo một tiến trình sư phạm phù hợp khả năng con người.
Bài đọc I, trích sách Samuel, được xem như bản mẫu trong việc biện phân ơn gọi. Samuel, cậu bé giúp việc cho thầy cả Ê-li, ngủ trong đền thờ Chúa. Đó là môi trường thiêng thánh thích hợp cho việc gặp gỡ giữa Chúa và con người.
Thoạt nghe gọi tên mình, Samuel chưa xác định tiếng Chúa, nên đã chạy lại Ê-li để nghe lời dạy bảo của thầy. Thái độ nhanh nhẹn muốn đáp trả và phục vụ của cậu làm tiền đề cho sự dễ dạy, nhiệt thành của vị ngôn sứ đáng kính khi nhận chỉ thị của Đức Chúa.
Ơn gọi của Samuel luôn cần sự nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn của Ê-li: “con về ngủ đi, và hễ có ai gọi, thì con thưa: lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1Sm 3, 9).
Nhờ Ê-li, Samuel nhận ra ơn gọi của mình: được Đức Chúa ở cùng, ông không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu (cf. 1Sm 3, 19).
Theo cách thức Ê-li, Hội Thánh đặc biệt coi trọng việc đồng hành giúp biện phân và thanh lọc động lực ơn gọi, nhất là trong việc đào tạo hàng giáo sỹ.
Người theo Chúa phải như Samuel, không nhằm mục đích danh, lợi, thú, nhưng trên tất cả, gắn bó mật thiết với “Lời”, nhằm phát sinh hiệu quả, đem lại sự sống trần gian.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, mời gọi hai môn đệ Gio-an: hãy đến và hãy nhìn xem, để học biết Giê-su trước khi muốn theo làm môn đệ.
Thật vậy, lòng chân thành khát khao chân lý là sức mạnh nứu kéo các ngài đến và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Ở lại ngày hôm ấy là đặt mình trong trường Giê-su, chấp nhận để được đào tạo theo mô hình của vị tôn sư Giê-su “Hiền lành và khiêm nhường”.
Ở với Giê-su, các ngài đã được hấp thụ lửa nóng tông đồ, nên ngay sau đó, đã không ngại giới thiệu cho em mình là Simon Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng mê-si-a” (Jn 1, 41).
Lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Hãy đến và hãy nhìn xem”, vừa là một sự thôi thúc khám phá kiếm tìm sự thật, vừa là thách thức cần vượt qua chính mình: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa không hề ru ngủ môn đệ bằng những ảo tưởng hão huyền: danh vọng, lợi, thú, nhưng đảm bảo cho họ được gấp trăm ngay ở đời này và nhất là hạnh phúc đời đời, khi họ bền tâm bước theo Ngài trên con đường thập giá.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, cảnh báo đỏ đối với những kẻ chỉ lo sống theo xác thịt cho thỏa các đam mê. Những người đó không được Nước Thiên Chúa làm phần gia nghiệp.
Đối với Phao-lô, người môn đệ không rập theo thói đời này, không chiều theo lối sống hưởng thụ của số đông, trái lại: sống thánh thiện trong mọi hoàn cảnh để nên giống Chúa là Đấng chí thánh đã kêu gọi và tuyển chọn họ giữa thế gian.
Hãy luôn ý thức mình là người được chọn của Thiên Chúa, nên phải mặc lấy những tâm tình: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, nhẫn nại, ôn hòa chịu đựng lẫn nhau và hãy biết tha thứ cho nhau thật lòng. Hãy lấy yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện.
Như vậy, anh chị em làm phải, Thiên Chúa tình yêu và sự sống sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.
Chúa sẽ vui, vì thấy chúng ta là môn đệ đích thật và sinh nhiều hoa trái thánh thiện. Đó là cách tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
* Một là: Sống đúng, sống đẹp ơn gọi kitô hữu của mình. Kitô hữu, không phải là một danh xưng thuộc về một cộng đoàn, nhưng là một sứ vụ phải chu toàn, vì khi chịu phép rửa tội, người môn đệ trở nên men, muối và ánh sáng trần gian. Sống công chính, liên đới, hiệp thông yêu thương, đầy lòng bác ái, vị tha, đích thực là men, là muối và là ánh sáng cho đời. Người ta cứ dấu này mà nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là yêu thương nhau.
* Hai là: Nhẫn nại, bền chí vác thập giá mình hằng ngày theo Chúa là cách biểu lộ lòng tín trung với đức tin. Đó mới là đức tin thật. Đức tin có việc làm. Đức tin đem lại niềm vui, hạnh phúc và sự sống muôn đời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng ta luôn mãi! Amen.
39. Cuộc hội ngộ thần linh sơ khởi
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chúa Nhật tuần này, niên lịch phụng vụ của Giáo Hội bước vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên, một mùa phụng vụ được chia làm hai phần, phần sau Mùa Giáng Sinh và phần sau Mùa Phục Sinh. Chính vì theo ngay sau Mùa Giáng Sinh, ý nghĩa phụng vụ của mùa thường niên phần đầu này gắn liền với Mùa Giáng Sinh. Ở chỗ, Chúa Giêsu tiếp tục việc tỏ mình ra cho dân Do Thái. Đó là lý do chúng ta thấy, ngay sau biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tuần trước mở màn cho Mùa Thường Niên, mở màn cho việc Chúa Giêsu bắt đầu công khai tỏ mình ra nơi dân Do Thái, Giáo Hội đã không đọc ngay đến bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chay tịnh trong hoang địa 40 đêm ngày ở tuần này, một biến cố xẩy ra ngay sau khi Người Chịu Phép Rửa, như được bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm ghi nhận, mà là một bài Phúc Âm khác, bài Phúc Âm của Thánh Gioan, bài Phúc Âm trình thuật về cuộc hội ngộ sơ khởi giữa Chúa Giêsu và những người đầu tiên muốn tìm đến với Người.
Một điểm khác cũng cần lưu ý về phụng vụ ở đây nữa là, Giáo Hội bao giờ cũng lấy bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho tuần thứ hai của Mùa Thường Niên thay các bài Phúc Âm Nhất Lãm của từng chu kỳ A với Thánh Mathêu, B với Thánh Marcô và C với Thánh Luca. Và bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Hai Thường Niên này mang một ý nghĩa chuyển tiếp liên quan đến biến cố Chúa Giêsu bắt đầu công khai tỏ mình ra. Thật vậy, theo tiến trình Phụng Vụ, một tiến trình cử hành trong một năm tất cả Mầu Nhiệm về Chúa Kitô, thì trước khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai tự tỏ mình ra cho dân Do Thái đang trông đợi Đấng Thiên Sai, Người cần phải được giới thiệu với thành phần dân này.
Trước hết, qua biến cố Phép Rửa ở sông Dược-Đăng, Người đã được Chúa Cha giới thiệu đặc biệt với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vị sau đó đã chứng thực rằng: “Thực ra tôi không biết Người. Đấng sai tôi đến lấy nước mà làm phép rửa bảo tôi rằng ‘khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì đó là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần’. Giờ đây chính mắt tôi đã thấy và chứng thực ‘Vị này là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn’” (Jn 1:33-34). Thế rồi, sau khi đã nhận diện thực sự ai là Đấng Đến Sau mình nơi biến cố làm phép rửa cho Người, “ngày hôm sau” Thánh Gioan liền giới thiệu Người với dân Do Thái nói chung, như bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A cho thấy, cũng như cho môn đệ của mình nói riêng, như bài Phúc Âm Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B tuần này. (Còn chu kỳ Năm C của Chúa Nhật Hai Thường Niên, Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại biến cố tiệc cưới Cana, nơi các môn đệ đầu tiên được thấy vinh hiển của Thày mình lần đầu tiên tỏ ra qua việc can thiệp của Mẹ Maria, Vị ở trong trình thuật này như cũng đóng vai giới thiệu Con Mẹ cho các môn đệ của Người).
So sánh giữa bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A và Năm B của Chúa Nhật Hai Thường Niên, chúng ta thấy có điểm giống nhau và điểm khác nhau ở ngay câu mở đầu của bài Phúc Âm. Nơi chu kỳ Năm A, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với dân Do Thái về Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” khi “Gioan thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình”; còn nơi chu kỳ Năm B, bài Phúc Âm Thánh Gioan, bài Phúc Âm liên tục với bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A, cho thấy Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với hai môn đệ “đang ở Bêthany bên kia sông Dược-Đăng” về Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” khi “ông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua”. Như thế, bối cảnh của việc Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu “Chiên Thiên Chúa” khác nhau, trước hết, khác nhau ở đối tượng được giới thiệu, lần đầu cho chung dân Do Thái và lần sau cho riêng hai môn đệ; sau nữa, khác nhau ở hành động của vị được giới thiệu, lần đầu khi Tiền Hô thấy “Chúa Giêsu tiến đến với mình”, lần sau khi Chúa Giêsu “đi ngang qua” chỗ của ông; còn nữa, khác nhau ở thời điểm giới thiệu, lần đầu xẩy ra trước khi Chúa Giêsu vào hoang địa chay tịnh, lần sau xẩy ra sau biến cố chay tịnh, vì Chúa Giêsu không chọn môn đệ trước biến cố này; sau hết khác nhau ở vị trí giới thiệu, lần đầu ở bên này sông Dược-Đăng, lần sau “ở Bêthania bên kia sông Dược-Đăng”. Nên lưu ý ở đây là không phải tự nhiên có chuyện ngẫu nhiên xẩy ra sự kiện vị trí giới thiệu khác nhau này đâu. Bởi vì, vị trí ban đầu này, tức ở “Bêthania” xứ Galiêa này, chính là vị trí Đấng Phục Sinh hẹn gặp “anh em” của Người (x Mt 28:10), để lập Bí Tích Rửa Tội cho các vị thi hành (x Mt 28:16-19) trước khi Người thăng thiên về trời (x Lk 24:50).
Vấn đề của bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật Hai Thường Niên Năm B hôm nay không dừng lại ở những chi tiết giống nhau hay khác nhau nơi việc Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu, mà là nhấn mạnh đến tác dụng của việc giới thiệu này. Thật ra, không biết Tiền Hô Gioan Tẩy Giả có ý giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình bấy giờ hay chăng, hoặc chỉ tự nhiên hô lên như thế khi thấy lại Đấng Thiên Sai vô cùng cao trọng hơn mình (x Jn 1:27), một phản ứng không thể nào cầm hãm của một con người cao trọng nhất trong thành phần được nữ giới sinh ra (x Mt 11:11). Và không biết có phải Chúa Giêsu cũng cố ý đi ngang qua chỗ của vị tiền hô này để âm thầm kêu gọi hai môn đệ này của thánh nhân hay chăng? Chỉ biết rằng, sau khi nghe thấy thày mình nói “Chiên Thiên Chúa kìa!”, hai môn đệ của thánh nhân liền, như Phúc Âm thuật lại, “đi theo Chúa Giêsu”. Tại sao lần đầu Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” với chung dân Do Thái, hai môn đệ này không “đi theo” Người như lần này? Phải chăng vì lần đầu Chúa Giêsu mới có ý đến với chung dân Do Thái thôi, chưa có ý gọi họ nên họ chưa cảm nhận được tiếng Người gọi để đi theo Người, đúng như Người sau này đã khẳng định trong Bữa Tiệc Ly: “Không phải các con đã chọn Thày, mà là Thày đã chọn các con” (Jn 15:16).
Thật thế, chính vì Chúa Giêsu muốn gọi hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này mà lời Tiền Hô nói “Chiên Thiên Chúa kìa” đã đánh động họ. Tại sao hai môn đệ này lại bị tác động theo Chúa Giêsu qua danh xưng “Chiên Thiên Chúa” mà không phải với danh xưng “Đấng Thiên Sai” như một trong hai người họ sau này tuyên xưng trong cùng bài Phúc Âm hôm nay? Phải chăng lý do hai môn đệ này theo Chúa Giêsu là vì muốn biết xem vị được thày mình nói là “Chiên Thiên Chúa”, đến sau thày mình nhưng trổi vượt hơn thày mình, có thực sự là “Đấng Thiên Sai”?
Chỉ biết rằng, sau khi “họ đến nơi Người ở và ở với Người hôm đó”, thì cả hai người môn đệ này đã phải chứng thực là “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai”, thậm chí một trong hai đã thúc giục anh em mình đến gặp Đấng Thiên Sai ấy nữa. Thế nhưng, Chúa Giêsu ở đâu và đã làm gì hay nói gì với hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này mà cả hai đã nhận thực “Chiên Thiên Chúa” là “Đấng Thiên Sai”? Phúc Âm không cho chúng ta biết thêm những chi tiết hy hữu và ly kỳ này, nhưng thái độ của Chúa Giêsu ngay từ ban đầu đã thu phục được lòng người thiện chí muốn tìm kiếm sự thật rồi vậy. Tức là, nếu cả hai tìm nhau thế nào cũng gặp nhau. Trước hết, hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng muốn tìm gặp Đấng Thiên Sai là gì, ở chỗ, đã bỏ thày mình để đi theo Chúa Giêsu, và sau nữa, Chúa Giêsu cũng đã không tìm kiếm những ai thành tâm thiện chí khao khát chân lý là gì, ở chỗ, đã tỏ ra cởi mở với họ, đúng hơn đã chủ động tìm họ trong chính lúc họ đang bối rối và âm thầm tìm kiếm Người, qua lời Người mời gọi họ, vừa khách quan “các người tìm kiếm gì đó?” vừa chủ quan “hãy đến mà xem”.
Một vấn đề nữa liên quan đến vấn đề đức tin nhận biết và mạc khải thần linh cần phải đặt ra ở đây nữa là, tại sao các hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không căn cứ vào một dấu hiệu nào khác để xem “Chiên Thiên Chúa” như thày họ nói có phải là “Đấng Thiên Sai” hay chăng, mà lại căn cứ vào nơi Người ở? Khi được Chúa Giêsu hỏi “các người đang tìm kiếm gì đó?”, họ đồng thanh thưa bằng một vấn nạn: “Thưa Thày, Thày hiện đang ở đâu vậy?”. Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người được mở đầu bằng hai câu hỏi được hai bên đặt ra cho nhau, Thiên Chúa hỏi trước, con người hỏi sau.
Câu con người hỏi Thiên Chúa rất ư quan trọng, vì câu này, theo ý nghĩa sâu xa của nó, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Đấng đến sau Tiền Hô Gioan Tẩy Giả. Hai môn đệ của vị Tiền Hô này không hỏi “tên Thày là gì?” hay “Thày là ai?”, mà là “Thày hiện đang ở đâu?”. Dĩ nhiên, câu con người hỏi Thiên Chúa mở đầu cho cuộc hội ngộ thần linh này có thể không sâu xa quá như vậy, mà chỉ liên quan đến nơi ở về không gian của “Con Chiên Thiên Chúa” này thôi. Tuy nhiên, câu hỏi này là tất cả vấn đề chủ yếu vô cùng quan trọng liên quan đến thân mệnh của Chúa Giêsu, một vấn đề Người đã phải giải đáp trong ba năm công khai của Người, bằng lời nói vô cùng khôn ngoan và việc làm vô cùng quyền năng, nhất là vào những ngày cuối đời, bằng cuộc Vượt Qua của Người, để chứng thực Người từ Cha mà đến, tức Cha đã sai Người, và Người phải trở về cùng Cha, tức Người làm trọn ý Cha (x Jn 17:8), nghĩa là để chứng thực rằng “Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:10).
Về phần mình, Thiên Chúa đã không trả lời con người một cách dứt khoát: “Ta là Đấng Thiên Sai đây”, “Ta là Thiên Chúa làm người đây”, mà là một cách thách thức, một cách khách quan, một cách mời gọi, hoàn toàn tôn trọng quyền tự do và sự chọn lựa của con người, tùy theo tầm nhận thức và lòng thành thực của họ: “Hãy đến mà xem”. Có thể Chúa Giêsu đã dẫn hai người môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đến coi chỗ Người đã ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa chăng, một địa điểm giống như nơi ở của thày họ cũng trong hoang địa (x Mk 1:6; Mt 11:7-9, 3:1), một vị thày đã được dân Do Thái cho là Đấng Thiên Sai (x Jn 1:19-20)? Tuy nhiên, dù xem gì thì xem, thấy gì thì thấy, nếu con người thực sự khao khát thiện hảo và tha thiết tìm kiếm chân lý, chắc chắn họ sẽ gặp được những gì họ tìm kiếm và ước mong: “Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no thỏa vậy” (Mt 5:6). Quả thế, chính vì “chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), mà hai người môn đệ thành tâm thiện chí hết sức mong đợi nhân vật được Thiên Chúa hứa sai ấy đã thực sự gặp Người: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai”.
Như thế, chỉ cần con người chẳng những thành tâm thiện chí khao khát chân thiện mỹ, như một Samuel dù ngủ nhưng vẫn nghe được tiếng Chúa gọi trong đền thờ, một sự kiện được thuật lại trong bài đọc một hôm nay, mà còn dám dấn thân tìm kiếm khi thấy những dấu chỉ thời đại, như ba chiêm tinh vương Đông Phương trong Lễ Chúa Hiển Linh, hay như hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là, sau đó, tức sau khi đã nhận ra dấu chỉ của Người, nhận ra “ngôi sao của Người” (Mt 2:2), còn dám đến tận nơi để triều bái Người, chứ không sợ Sự Thật như một quận vương “Hêrôđê tìm giết con trẻ” (Mt 2:13), hay như con người thời đại văn minh ngày nay đang sống theo chủ nghĩa luân lý tương đối, “vì những việc họ làm đều gian ác” (Jn 3:19), hoặc, sau khi đã được Chúa mở đường “hãy đến mà xem”, còn dám ở lại với Người, như trường hợp hai môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, chứ không dập tắt sự thật như trường hợp tổng trấn Philatô muốn tránh né sự thật và hàng đầu trước cái hóc búa lẫn rùng rợn của vấn đề “chân lý là gì?” (Jn 18:38), chắc chắn họ sẽ gặp được Đấng hằng muốn tỏ mình cho chung loài người và cho riêng từng người.
Dầu sao, lời tuyên xưng “chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai” của hai môn đệ này cũng chỉ là cảm thức ban đầu của họ, một cảm thức tin tưởng, một Cảm Nghiệm Thần Linh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có nhiều cảm nghiệm thần linh, nhiều cảm thức tin tưởng, đã trở thành hão huyền, hoang tưởng, vì sự thật không phải như họ nghĩ. Đó là lý do, cảm thức đức tin này nơi con người tuyên xưng “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai” còn cần phải được thử thách về tính cách chân thực của nó nữa mới được, mới xác thực, mới đúng như vậy. Bởi thế chúng ta không lạ gì với sự kiện hay hiện tượng, cho dù tuyên xưng như thế mà họ vẫn còn hay vẫn có thể chối bỏ sự thật, điển hình nhất là trường hợp của trưởng đoàn tông đồ Phêrô (x Mt 16:16; Mk 14:27-31). Đó cũng là lý do mạc khải là một tiến trình của sự thật, cho tới khi sự thật hoàn toàn chiếm hữu con người, đến nỗi khiến con người chẳng những không thể chối bỏ sự thật, mà còn rao giảng và sẵn sàng chết đi để làm chứng cho sự thật, như trường hợp của phó tế Stephanô, Vị Tử Đạo Tiên Khởi được Giáo Hội kính nhớ ngay sau Lễ Giáng Sinh hằng năm, hay của thành phần Kitô hữu tử đạo khắp nơi qua mọi thời đại.
Như thế, đời sống của một người Kitô hữu từ khi lãnh nhận Phép Rửa đến khi lìa đời là một cuộc Hành Trình Đức Tin, một cuộc Cảm Nghiệm Thần Linh cho tới khi họ trở thành chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô, tức là cho đến khi Chúa Kitô hoàn toàn chiếm đoạt và sống động trong họ, nhờ đó, thế gian có thể, qua bản thân họ và nhờ đời sống họ, nhận biết Sự Thật, nhận biết Đấng Cứu Thế duy nhất, Đấng “là đường, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6).
40. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
“LẠY CHÚA, XIN HÃY PHÁN…
VÌ CON ĐANG LẮNG TAI NGHE!”
Ngày kia, có một chị giáo dân rất năng động, đầy nhiệt huyết đến gặp Cha xứ sau giờ lễ sáng. Vừa thấy Cha, chị liền chào và đi ngay vào điều chị ấy muốn hỏi.
– Thưa Cha, con cầu nguyện biết bao nhiêu lần, nhưng con chưa bao giờ cảm nghiệm được việc Chúa đáp lời con!?
Cha xứ mỉm cười, hỏi lại chị:
– Thế chị cầu nguyện thế nào?
– Dạ, sau khi cảm tạ Chúa, con đi ngay vào vấn đề…và cứ thế con cứ nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, hàn thuyên với Ngài như chưa bao giờ được hàn thuyên, đại loại là vậy đấy Cha!!!
Dĩ nhiên, câu chuyện trên chưa kết thúc, và có thể còn dài lê thê, vài trường thiên đoạn tình nữa cơ. Thế nhưng, thưa quý ông bà anh chị em, chúng ta có thể dừng câu chuyện ấy, và hướng nhìn về gương cầu nguyện, đáp lời và lắng nghe của tiên tri Sa-mu-en trong bài đọc I hôm nay. Sa-mu-en cảm nghiệm, nghe lời Chúa gọi ông ít nhất ba lần. Làm sao Sa-mu-en lại nghe được tiếng đáp lời của Chúa, mà chị giáo dân trẻ kia lại không thể nghe dù chỉ một lần Chúa nói chuyện với chị? Thiết nghĩ, đây cũng là câu trả lời của vị linh mục trong câu chuyện trên: chị nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, thế thì làm gì mà chị có thời giờ để nghe Chúa nói chuyện, mặc dù Chúa cũng tha thiết ước mong hàn thuyên đôi điều với chị!
Và khi nghe được tiếng Chúa mời gọi trong cung lòng sâu thẳm tâm hồn, Sa-mu-en đã không chút do dự, dâng toàn tâm trí của ông cho Chúa, và hướng cả con người mọn hèn của ông lên cùng Chúa, hầu chú tâm lắng nghe điều Chúa muốn nhắn gửi ông “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3, 10). Kinh nghiệm từ đời sống cầu nguyện cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa nói chuyện và lắng nghe chúng ta, tương ứng với hành động của chúng ta: lắng nghe và nói chuyện với Người. Một cuộc đàm thoại thân tình, một cuộc hội ngộ, đối thoại của hai con tim!
Thứ đến, tiên tri Sa-mu-en cũng để lại cho ta gương sống tín thác khi cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1Sm 3, 10). Ông không van nài, xin Chúa hãy nói những điều mà ông muốn nghe, những điều làm thoả trí toại lòng của ông, nhưng ông xin Chúa cứ phán bảo những gì Chúa muốn thổ lộ và thực hiện nơi ông. Trong khi cầu nguyện, mỗi lúc tham dự Thánh lễ, lắng nghe bài giảng của vị chủ tế, chúng ta thường có xu hướng chỉ thích nghe những điều chúng ta muốn, những điều thuận với ý riêng, kế hoạch, đề án của chúng ta; mà chúng ta quên một điều tối quan trọng, đó là: Lời Chúa sống động như con dao hai lưỡi, đánh động tâm can chúng ta dẫu rằng chúng ta không muốn mở đôi tai, mở tâm hồn để đón nhận!!! Chỉ có tâm hồn luôn mở rộng, mới có thể vui tươi đón nhận bất cứ điều gì mà Chúa muốn nhắn bảo, gửi đến cho chúng ta. Và chỉ trong tâm tình tin tưởng và tín thác như vậy, chúng ta mới có thể ‘ở lại với Chúa’ (x. Ga 1, 39) như các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm trong bài Tin Mừng ngày hôm nay. Được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su ‘Đây Chiên Thiên Chúa’ (x. Ga 1, 36), các ông ước ao muốn biết, tận mắt chứng kiến chỗ của Chúa Giê-su, và sau khi đến xem thì các ông đã ở lại với Người. Thái độ, hành vi ‘ở lại’ trong Tin Mừng Gio-an có một ý nghĩa rất sâu sắc. Không chỉ đơn thuần là cử chỉ ở cùng, hàn thuyên, tâm sự với ai đó thôi, mà con ước ao kết hiệp mật thiết, trở nên đồng hình đồng dạng với người đó nữa. Trong trường hợp này, các môn đệ ước ao được trở nên một với Chúa Giê-su qua cách ăn ở, cách sống, lối suy nghĩ, cách đối nhân xử thế, v.v…Như thế, nơi các ông luôn chan chứa niềm vui bất tận vì cũng được Người ở cùng, và Chúa Cha đồng hành với các ông như câu khẳng định của Chúa Giê-su ‘ai ở trong Thầy, thì Thầy ở trong người ấy, và Cha Thầy cũng ở trong người ấy’ (x. Ga 14, 23). Điều này cũng xác thực nơi tiên tri Sa-mu-en. Sau khi, ông tín thác, dâng hiến hoàn toàn cho Chúa và lắng nghe làm theo Lời Người, thì ông ‘ở lại’ và ‘lớn lên’ trong Chúa “…Sa-mu-en ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa” (1Sm 3, 19).
Trong đời sống đức tin, và cuộc sống thường nhật của chúng ta, Thiên Chúa cũng ước mong ta chuyện trò với Người, và Ngài mong mỏi chúng ta biết lắng nghe Lời của Ngài, một sứ điệp tình yêu mang lại niềm hạnh phúc vô biên, và giải thoát chúng ta khỏi những lo toan, mệt nhọc chán chường của tâm thể thần lực con người; để rồi chúng ta có thể ‘ở lại trong Chúa’ và ‘ở lại với anh chị em’.
Lạy Chúa giàu lòng xót thương, xin đoái đến chúng con là những kẻ yếu đuối, dễ ngã xa, tách lìa khỏi tình yêu bao dung của Người và lòng yêu thương của anh chị em. Xin ban cho chúng con một trái tim luôn biết rộng mở, lắng nghe thấu đáo, chấp nhận hoàn toàn chương trình của Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng con.
Đáp tiếng Chúa gọi mời
Sa-mu-en cất lời:
“Xin Ngài hãy phán dạy,
Con chú tâm nghe Lời”
Khi con còn trong nôi
Nghe tiếng ru à ơi
Đến lúc con thành người
Vẫn nhớ Lời Hằng Sống. Amen!
41. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Vào Chúa Nhật II Thường Niên năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm “ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt khoát, bởi vì Ngài nhìn thấu tận cõi lòng sâu kín của con người.
1Sm 3: 3b-10, 19
Bài Đọc I, trích từ sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, thuật lại chuyện tích về “ơn gọi” của con trẻ Sa-mu-en. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở với em mọi ngày suốt cuộc đời của em.
1Cr 6: 13c-15a, 17-20
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên phẩm giá của thân xác là chi thể của Đức Ki-tô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Ga 1: 35-42
Tin Mừng Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của các môn đệ với Đức Giê-su. Ngài đưa mắt nhìn dứt khoát trên Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội tương lai của Ngài.
BÀI ĐỌC I (1Sm 3: 3b-10, 19)
Ngôn sứ Sa-mu-en là một trong những nhân vật hấp dẫn của Cựu Ước. Cuộc chào đời của ông tiên vàn là một “dấu chỉ”.
1. Đứa con của lời khẩn nguyện.
Mẹ ông là bà An-na, một trong hai người vợ của ông En-ca-na quê thành Ra-ma-tha-gim. Đây vẫn còn thời đại đa thê vào thế kỷ XI trước Công Nguyên. Tuy nhiên, chỉ những bậc vị vọng và giàu có mới có thể có nhiều vợ. Chúng ta ghi nhận rằng hai sách Sa-mu-en và hai sách Các Vua không cho thấy bất kỳ trường hợp đa thê nào khác ngoài trường hợp hy hữu nầy. “Một vợ một chồng” là thể chế gia đình thông thường nhất ở Ít-ra-en. Bà Pơ-nin-na có nhiều con trong khi bà An-na không có một đứa con nào. Vì thế, bà An-na rất khổ tâm và cảm thấy bà Pơ-nin-na như đối thủ đang chọc tức mình để hạ nhục mình.
Chồng bà yêu quý bà và chiều chuộng bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa trai sao?” (1Sm 1: 8). Tuy nhiên, bà An-na vẫn không nguôi nỗi phiền muộn nên quyết tâm khấn hứa với Đức Chúa.
Vào dịp đại lễ hằng năm, bà cùng gia đình hành hương lên thánh địa Xi-lô. Ở đó, bà khấn hứa với Đức Chúa rằng nếu Ngài ban cho bà một đứa con trai, bà xin dâng hiến trọn cuộc đời cậu để phụng sự Ngài. Khi con trẻ sinh ra, bà giữ trọn lời khấn nguyện. Khi con trẻ lớn khôn, bà dẫn đứa bé lên đền thánh Xi-lô và trao gởi con mình cho thầy cả Ê-li. Vào ngày đó, bà dâng hy lễ lên Đức Chúa và hát bài ca chúc tụng Thiên Chúa. Đây là nguồn cảm hứng đầu tiên mà Đức Ma-ri-a đón nhận khi Mẹ hát lên bài ca “Magnificat” của Mẹ.
2. Ơn gọi.
Kể từ đó, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa bên cạnh thầy cả Ê-li. Nhưng Đức Chúa có những dự định lớn lao hơn đối với đứa trẻ nầy và rất sớm Ngài khai lòng mở trí cho cậu hiểu. Đây là câu chuyện về ơn gọi mà chúng ta đọc vào ngày lễ hôm nay.
Ơn gọi của trẻ Sa-mu-en vén mở khoa sư phạm của Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ bé mọn và những người yếu đuối để thi hành những ý định của Ngài. Thứ nữa, chính Ngài luôn luôn đề xuất sáng kiến. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê trong hoang địa theo cùng một cách thức như thế (Sh 3: 1-6) và sau này Ngài cũng sẽ kêu gọi ngôn sứ I-sai-a ở trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo cùng cách thức vậy (Is 6: 1-12).
Thiên Chúa ba lần đánh thức cậu khi đang cậu ngủ say trong trạng thái hồn nhiên vô tư lự. Ngài “khẻ đánh thức” cậu, vì thế cậu tỉnh dậy mà không chút sợ hải. Bản văn nói với chúng ta: “Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Chúa, và Chúa chưa mặc khải Lời Người cho cậu”. Suốt cuộc đời mình, “Chúa ở với cậu, và Người thực hiện mọi lời Người đã phán với cậu, không sót lời nào”. Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng của dân Ít-ra-en, nhưng là một vị Thủ Lãnh vĩ đại nhất.
BÀI ĐỌC II (1Cr 6: 13c-15a, 17-20)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô, chắc hẳn vào mùa xuân 55. Giáo đoàn Cô-rin-tô là một trong những giáo đoàn thánh nhân đã thiết lập. Tuy nhiên, cộng đoàn nầy gặp phải nhiều vấn đề. Thánh nhân vừa mới nhận được những thông tin thật đáng lo ngại về đạo lý, vì thế thánh nhân ra sức giáo huấn họ. Trong bức thư nầy, chúng ta gặp thấy những quan điểm thần học cao vời của thánh nhân.
Đoạn trích hôm nay đề cập đến những vấn đề thân xác theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Để hiểu được những lời khuyên bảo của thánh nhân, chúng ta phải đặt những lời khuyên này vào trong bối cảnh thành phố Cô-rin-tô đương thời.
1. Bối cảnh thành phố Cô-rin-tô.
Cô-rin-tô là một thành phố mới; thành phố xưa đã bị phá hủy vào thời đế quốc Rô-ma chinh phục vào năm 146 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da đã phục hưng thành phố nầy và thiết lập thành một thuộc địa Rô-ma vào năm 44 trước Công Nguyên. Thành phố hoàn toàn được xây dựng lại và sớm lấy lại vị thế của mình là thủ phủ thương mại.
Với hai thương cảng, một ở phía đông (biển Ê-gê), và một ở phía tây (biển I-o-ni), giữa đường từ Châu Á đến Rô-ma, thành phố nầy được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi. Với số lượng phu khuân vác, thợ thủ công, hàng hóa phong phú, nhiều ngân hàng, thành phố tứ xứ nầy tạo nên một vùng đất thuận tiện cho việc phát triển các tệ nạn: óc con buôn, nạn hám lợi và cuộc sống xa hoa. Ngoài ra, ở đây còn có cuộc sống sa đọa do bối cảnh tế tự xa xưa còn được lưu truyền. Vào thuở xa xưa, thành phố đã phụng thờ nữ thần tình ái và sinh sản. Có đám đông nữ tư tế phụ trách việc tế tự này. Đây là một hình thức trụy lạc thánh, tự nguồn gốc được coi như nghi thức sinh sản và hành vi lôi kéo ân phúc của nữ thần. Thành phố Cô-rin-tô chắc chắn không là thành phố đức hạnh.
2. Sự mới mẽ của Ki-tô giáo.
Những nhà luân lý ngoại giáo tố cáo cuộc sống phóng túng và đề cao sự khổ chế của thân xác nhân danh chủ nghĩa nhân bản thanh cao và lý tưởng. Thánh Phao-lô đem lại cho luân lý Ki-tô giáo một chiều kích hoàn toàn khác: tội lỗi tác hại đến “những mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa”. Người ta dễ thấy điều nầy ở nơi cách thức sử dụng thân xác của mình. Để sống đức độ, thánh nhân công bố: “Thân xác con người không phải để gian dâm, nhưng để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.
3. Ba luận chứng:
Thánh nhân xây dựng lời công bố này trên ba luận chứng vững chắc tựa như “kiềng ba chân”. Luận chứng thứ nhất gây ấn tượng nhất và cũng mới mẽ nhất trong lịch sử tư tưởng: “Thân xác của chúng ta sẽ được sống lại”. Luận chứng thứ hai được gợi ý cách ngắn gọn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Ki-tô sao?”. Đây là một trong những đề tài chủ đạo và tâm đắc mà thánh nhân sẽ nhắc lại ở nơi các thư khác. Luận chứng thứ ba dẫn chúng ta lên đến một bình diện không kém phần cao vời: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người”. Được kết hợp với Đức Ki-tô, qua cầu nguyện, Thánh Thể, tận hiến, vân vân, chúng ta không còn ý muốn nào khác ngoài ý muốn của Chúa.
Đặt nền tảng trên ba luận chứng trên, thánh Phao-lô đẩy đến cực điểm khi lên án chống lại tội gian dâm: tội duy nhất làm ô uế thân xác của mình. Thánh nhân nêu bật sự tương phản giữa việc kết hợp với Chúa nhờ đó chúng ta được nâng cao lên đến mức hiệp nhất “tinh thần” với Ngài, và những kết hợp thấp hèn đánh mất phẩm giá của thân xác.
4. Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Tiếp đó, thánh nhân khai triển phép Rửa Ki-tô giáo: thân xác chúng ta đã trở nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, vì thế, không còn thuộc về chúng ta nữa. Dâng hiến thân xác của mình cho một thần linh nào khác là tội thờ ngẫu tượng (đây cũng là đề tài trong thư gởi tín hữu Ga-lát và thư gởi tín hữu Ê-phê-xô).
5. Giá máu cứu chuộc của Đức Giê-su.
Lời ghi nhận cuối cùng được diễn tả đầy cảm xúc: “Thiên Chúa đã trả giá rất đắt mà chuộc lấy anh em”. Đức Ki-tô không khinh chê thân xác bởi vì Ngài đã mặc lấy một thân xác như chúng ta. Thân xác này, Đức Ki tô đã hiến dâng để bị đóng đinh vào thập giá, ngõ hầu nhờ hy tế nầy, chúng ta được dự phần vào sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta không được làm tổn hại đến thiên ân mà Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt như thế. Vì thế, câu kết luận tất yếu phải có là: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.
Trong đoạn văn đậm đặc đạo lý nầy, thánh nhân chỉ gợi ý, bắt đầu với ơn Phục Sinh và kết thúc với ơn Cứu Chuộc, đây là hai thái cực bất khả phân của khoa thần học thánh Phao-lô.
TIN MỪNG (Ga 1: 35-42)
Bài Đọc I tường thuật ơn gọi của cậu bé Sa-mu-en, cậu được thánh hiến cho Thiên Chúa ngay từ lúc còn niên thiếu, trong khi Tin Mừng Gioan trình bày hoàn cảnh ơn gọi của các môn đệ tiên khởi của Đức Giê-su; tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị rồi.
1. Thời gian: ngày thứ ba của Tuần Lễ Khai Mạc.
Hoạt cảnh được định vị ở bên bờ sông Gio-đan hay trong vùng phụ cận. Theo diễn tiến thời gian của “tuần lễ khai mạc”, hoạt cảnh nầy được định vị vào ngày thứ ba sau ngày thứ nhất Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Giê-su trước giáo quyền Do thái và ngày thứ hai ông làm chứng cho Đức Giê-su trước đám đông dân chúng. Hoạt cảnh diễn ra cuộc cuộc gặp gỡ này được định vị “vào ngày thứ ba” thật có ý nghĩa, nó gợi lên biến cố Phục Sinh tương lai. Chính là vào buổi chiều “ngày thứ ba” của biến cố Phục Sinh sau khi Đức Giê-su đã chịu chết và mai táng trong mộ, các Tông Đồ đã phân tán, nay quy tụ lại, nghĩa là Giáo Hội được khai sinh. Vì thế, việc khai sinh Giáo Hội ẩn hiện trong câu chuyện nầy. Ơn gọi của ba môn đệ đầu tiên trong đó có Phê-rô, vì thế, Giáo Hội được ươm mầm rồi. Chính đó là lý do tại sao thánh ký đặt việc Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành “Kê-pha” (“Phê-rô”) ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên.
2. Tước hiệu: “Chiên Thiên Chúa”.
Hoạt cảnh rất sống động và tự nhiên. Gioan Tẩy Giả đang đứng với hai môn đệ của mình. Khi thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông nói với hai môn đệ về Đức Giê-su dưới tước hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu nầy muốn nói lên điều gì?
2.1-Chiên Vượt Qua.
Đối với người Ki-tô hữu, mà sách Tin Mừng thứ tư này viết cho họ, tước hiệu nầy gợi lên Hy Tế Vượt Qua của Đức Giê-su, Ngài bị kết án tử vào đúng thời điểm chiên Vượt Qua bị sát tế ở tại sân Đền Thờ (Ga 19: 14). Ngoài ra, các bản văn Kinh Thánh đã mô tả “Người Tôi Trung” bị nhục mạ, bị ngược đãi thậm tệ, chẳng mở miệng oán than, “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Chúng ta biết các Tông Đồ đã trải qua biết bao khó khăn mới có thể chấp nhận ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ và bị đóng đinh.
Rõ ràng đây không thể là quan niệm của vị Tiền Hô khi gọi Đức Giê-su dưới tước hiệu Chiên Thiên Chúa, vì thánh nhân không được diễm phúc thấy cuộc Hiến Tế của Đức Giê-su như Con Chiên bị sát tế. Xem ra đối với Gioan Tẩy Giả, “Chiên Thiên Chúa” là hình ảnh của sự tinh tuyền và thánh thiện. Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã thấy “Thần Khí ngự xuống trên Ngài” (Ga 1: 32), được sánh ví với “Chiên Vượt Qua” mà Luật đòi buộc “không tì vết”.
2.2-Chiên Khải Hoàn.
Mặt khác, vài bản văn thuộc trào lưu khải huyền Do thái đã gợi ra rằng Đấng Mê-si-a sắp đến như một con chiên yếu đuối, nhưng ở nơi con chiên nầy Thiên Chúa ban sức mạnh và quyền năng, vì thế, đây sẽ là con chiên khải hoàn (không phải Thiên Chúa thường sử dụng những người bé nhỏ và yếu đuối để thực hiện những dự định vĩ đại của Ngài sao?). Trong sách Khải Huyền của mình, thánh Gioan Tông Đồ lấy lại hình ảnh “Chiên Khải Hoàn” được liên kết với hình ảnh “Chiên bị sát tế”. Cả hai hình ảnh nầy diễn tả chỉ một nhân vật: Đức Giê-su Ki-tô.
Vì thế, như thường thấy trong Tin Mừng thứ tư, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” giả thiết nhiều mức độ đọc và hiểu khác nhau.
3. Các nhân vật.
Chúng ta biết rất rõ các nhân vật của hoạt cảnh nầy. Tuy nhiên, thái độ của mỗi nhân vật đáng cho chúng ta gẫm suy.
3.1-Gioan Tẩy Giả.
Trước hết, Gioan Tẩy Giả là một nhân vật đáng được ngưỡng mộ. Ông biết Đấng Mê-si-a có mặt ở đó. Ông mời gọi các môn đệ của mình đến gặp Ngài. Ông sẵn sàng nhường các môn đệ thân tín của mình cho Đức Giê-su. Ông có thể đi theo Đấng mà ông tiên cảm sự cao cả của Ngài. Nhưng không, sứ mạng của ông chính là chuẩn bị các tâm hồn, niềm vui của ông chính là mặc khải cho người khác nhận ra Chúa Giê-su: “Tôi đây không phải là Đức Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3: 28-29). Ông gieo nhưng Đức Giê-su gặt.
3.2-Ba môn đệ.
Ông An-rê, một môn đệ ẩn danh mà truyền thống sau này nhận dạng là Gioan Tông Đồ, tác giả của Tin Mừng thứ tư này, và ông Phê-rô là em của ông An-rê. Ba người này làm gì ở trong hoang địa miền Giu-đa này? Họ là những ngư phủ đến từ biển hồ Ti-bê-ri-a để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, vì danh tiếng của ông đã vang dội đến tận nơi họ đang sinh sống. Lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả rất nghiêm khắc, nhưng chắc chắn đã chinh phục bầu nhiệt huyết của ba ngư phủ trẻ tuổi này. Từ khi vị Tiền Hô chỉ cho họ “Chiên Thiên Chúa”, họ không chút ngần ngại bám theo Đức Giê-su. Như vậy, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Giê-su. Đoạn, họ trở về miền Ga-li-lê tiếp tục công việc chài lưới của mình. Tuy nhiên, ơn gọi của họ sẽ chín mùi; và rồi một ngày kia, trước tiếng gọi bất ngờ của Ngài: “Hãy theo tôi”, “họ rời bỏ tất cả mà theo Ngài”. Đó là lần ra đi theo đuổi ơn gọi của mình một cách dứt khoát.
3.3-Đức Giê-su.
Trong đoạn Tin Mừng nầy, thánh Gioan phác họa đôi nét về Đức Giê-su và ghi lại vài lời đầu tiên của Ngài.
Chính Đức Giê-su có sáng kiến bắt chuyện với hai người thanh niên đang dò dẫm bước đi theo sau Ngài – và sau này cũng sẽ là như vậy khi Ngài mời gọi họ làm môn đệ của Ngài. Khi thấy hai người đi theo mình, Chúa Giê-su quay lại và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”; họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu trả lời của Đức Giê-su: “Đến mà xem”, thật giản dị nhưng gợi lên sự hiếu kỳ ở nơi họ. Thế là “họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Nhưng thánh ký không nói cho chúng ta biết chính xác nơi ở của Ngài, bởi vì trong cuộc đời công khai, Đức Giê-su không có một mái nhà để trú ngụ. Thánh ký không nói cho chúng ta biết bất cứ điều gì về nơi ở của Ngài, cũng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về cuộc chuyện trò đầu tiên của Ngài với hai người môn đệ này. Tuy nhiên, tác động của cuộc gặp gỡ đầu tiên này ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong tâm khảm của họ qua tiếng reo vui của ông An-rê khi gặp em mình là Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”.
Từ giây phút nầy, thánh ký giữ mãi kỷ niệm sống động nầy, vì thời gian đã trôi qua rất lâu sau đó, ấy vậy, ông không thể nào quên giây phút tuyệt vời này: “Đó là vào khoảng giờ thứ mười” (tức bốn giờ chiều). Đây là chi tiết của một chứng nhân nhưng cũng là chữ ký của người bạn đồng hành ẩn danh của ông An-rê, tức là Tông Đồ Gioan, tác giả sách Tin Mừng mang tên ông.
4. Hai cái nhìn.
Chắc chắn ấn tượng chúng ta có khi đọc bản văn nầy đó là câu chuyện bắt đầu và kết thúc trên một cái nhìn. Cái nhìn đầu tiên là cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, cái nhìn của một vị ngôn sứ nhận ra Đấng Mê-si-a, nhưng không biết chính xác Đấng ấy sẽ như thế nào. Và cái nhìn của Đức Giê-su trên Phê-rô, cái nhìn thấu suốt đến tận cõi tâm can, cái nhìn xa trông rộng đến tận tương lai, và từ đó xác định sự chọn lựa của mình. Sẽ còn có những cái nhìn khác của Đức Giê-su trên Phê-rô. Thánh ký sẽ khai triển cái nhìn của Đức Giê-su một cách sâu xa trong Tin Mừng của mình.
42. Gặp gỡ Đức Kitô.
(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ” – Lm. Phanxico Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 1: 35-42: Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn.
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.
Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ huynh”.
Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt của các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là “khởi điểm của mọi hành trình Đức Tin”.
Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?
Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được người khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô tả như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian”. Hai môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức khắc đi theo Chúa Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đức Kitô và đã không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.
Bước thứ hai là đối thoại với Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Đức Thánh Cha nói: “Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi lại ta, người hỏi trở thành kẻ bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được Ngài kiếm tìm: “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi có vẻ tầm thường như những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây là một câu hỏi đặt vấn đề cho những ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa điều gì?
Chúa không chờ đợi một câu trả lời của trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ đáp trả bằng một câu vắn gọn: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài “Không có nơi gối đầu”. Ngài chỉ bảo: “Hãy đến mà xem”. “Hãy đến” là lời mời gọi của trái tim rộng mở. Hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu thẳm nhất. Các môn đệ đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Các môn đệ đã kinh nghiệm được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.
Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn. Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Anh chị em thân mến,
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng ta choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?…
“Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình”. Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con người cũ, tội lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được “tái sinh”, chưa “gặp lại mình”, chưa “nối lại những mối dây huynh đệ” với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi, sống đạo không phải là sống theo một điều gì, đi theo một ai khác hơn là sống theo Đức Giêsu Kitô.
Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?
Đức Thánh Cha nói: “Đức Giêsu ở bên cạnh chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng ngày. Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người nghèo; của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những cơ chế bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau khổ vì các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội, những lo âu của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở giữa mọi người, nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt lệ và nhắc cho những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn hết, nếu họ đặt niềm tín thác vào Ngài”.
Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người ích kỷ của mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh em, nhất là những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng. Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Như Đức Thánh Cha đã nói: “Cuộc gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức tin”. Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô, đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh Danh Chúa hơn.
43. Chúa kêu gọi con người hợp tác
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Hai môn đệ nghe Gioan nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga 1,37)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay chúng ta bước vào mùa Thường niên. Các bài đọc trong Thánh lễ sẽ dần dần dẫn bước chúng ta đi theo Chúa. Bước đầu tiên là Chúa đến gặp gỡ chúng ta và kêu mời chúng ta đi theo Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta nghe được tiếng kêu gọi của Ngài và mau mắn đáp lại.
II. Gợi ý sám hối
– Nhiều lần Chúa đã kêu gọi chúng ta, nhưng chúng ta không nghe thấy vì chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyện vật chất, thế gian.
– Chúa mời 2 môn đệ đầu tiên “Hãy đến mà xem”. Chúa cũng kêu mời chúng ta như thế. Nhưng rất ít khi chúng ta chịu khó đến với Chúa và chiêm ngắm Chúa.
– Chúa đã tạo dựng cho chúng ta một thân xác để chúng ta xử dụng mà tôn vinh Chúa. Nhưng rất nhiều lần chúng ta lại dùng thân xác mình để làm chuyện tội lỗi.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 Sm 3,3b-10.19)
Chuyện xảy ra vào cuối thời kỳ các Thủ lãnh (hay còn gọi là Quan án). Thủ lãnh lúc đó là thầy cả Hêli. Ông này có hai đứa con trai. Vì không được Hêli giáo dục kỹ, cho nên hai tên này rất vô đạo. Chúng lợi dụng chức vụ của cha chúng để làm nhiều điều xấu xa tội lỗi. Vì thế Thiên Chúa quyết định chọn người khác thay thế Hêli. Người đó là Samuel, khi ấy còn là một cậu bé được trao phó cho Hêli dạy dỗ trong đền thờ Silô.
Một đêm câu bé Samuel đang ngủ trong đền thờ thì Thiên Chúa gọi cậu 3 lần. Ban đầu cậu chưa biết đó là tiếng Chúa. Nhưng sau đó, được Hêli cho biết đó là tiếng Chúa thì Samuel đã mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do Thái thay cho thầy cả Hêli.
2. Đáp ca (Tv 39)
Đây là lời đáp ngoan ngoãn và quảng đại của kẻ được Chúa gọi: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
3. Tin Mừng (Ga 1,35-42)
Gioan và Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, Gioan tẩy giả đang đứng với họ thì thấy Đức Giêsu đi ngang qua. Gioan tẩy giả chỉ Ngài cho môn đệ thấy và giới thiệu “Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe thế Gioan và Anrê liền đi theo Đức Giêsu. Sau đó Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu cho anh mình là Simon. Đức Giêsu lại kêu gọi Simon và còn đổi tên ông thành Phêrô.
4. Bài đọc II (1 Cr 6,13c-15a.17-20) (chủ đề phụ)
Những giáo huấn của Thánh Phaolô trong đoạn thư này vẫn còn là căn bản cho giáo lý ngày nay về giá trị thân xác con người:
– Thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô,
– là đền thờ của Chúa Thánh Thần,
– đã được cứu chuộc bằng giá máu của Đức Kitô.
– Vì thế chúng ta không được dùng thân xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để tôn vinh Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Cảm nghiệm nhớ đời
a/ Cảm nghiệm của thánh Gioan tông đồ: Trong bài Tin mừng này, Thánh Gioan ghi lại một cảm nghiệm rất sâu sắc mà Ngài được trải qua và nhớ mãi suốt đời, đến nỗi khi Ngài ngồi lại để viết đoạn Tin mừng này (khoảng năm 90), việc đó đã trôi qua khoảng 60, 70 năm mà Ngài vẫn nhớ rất rõ “lúc đó là khoảng giờ thứ 10”. Cảm nghiệm gì mà sâu sắc như vậy? Thưa là cảm nghiệm được gặp Chúa và từ đó gắn bó với Chúa. Chính Thánh Gioan kể lại như sau:
Khi ấy Ngài đang là môn đệ của Gioan tẩy giả. Một hôm Đức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy giả liền chỉ cho các môn đệ mình và nói: “Đấy là Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe vậy, Gioan và một môn đệ nữa liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy họ đi theo sau lưng nên quay lại hỏi “Các anh tìm gì?” Họ không trả lời nhưng hỏi lại “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Đức Giêsu cũng không trả lời nhưng mời họ “Hãy đến mà xem”, rồi dẫn họ tới chỗ Ngài đang trọ. Họ đã đến và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Hẳn là một ngày rất ấm cúng, cho nên sau đó họ đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu luôn và 60, 70 năm sau Thánh Gioan còn nhớ kỹ lúc bắt đầu việc đó là “khoảng giờ thứ 10”. Thật đúng như lời của một thi sĩ rằng:
“Cái phút ban đầu lưu luyến ấy,
Nghìn năm hồ dễ đã mau quên”.
Thánh Gioan muốn chia xẻ cho chúng ta một kinh nghiệm quý giá, đó là: nếu có lần nào chúng ta được thực sự gặp Đức Giêsu và lưu lại trong tình thân mật với Ngài thì chúng ta sẽ không thể nào quên được Ngài, chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với Ngài.
b/ Cảm nghiệm của một số người khác:
– Văn hào Pháp Paul Claudel: một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.
– Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
2. Chúa vẫn còn kêu gọi
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng Ngài không thích làm một mình, mà luôn kêu mời con người chúng ta cùng làm với Ngài.
Bắt đầu lịch sử cứu độ, Ngài đã kêu gọi Abraham.
Khởi sự cuộc giải phóng dân do thái, Ngài kêu gọi Môsê.
Mở màn thời Tân Ước, Ngài đã kêu gọi Maria.
Khai mạc sứ vụ rao giảng Nước Trời, Ngài kêu gọi các môn đệ v.v.
Tóm lại, thời Cựu Ước vẫn thế, thời Tân Ước vẫn thế, và thời Hội Thánh cũng vẫn thế: Thiên Chúa luôn muốn kêu gọi con người hợp tác với Ngài trong công trình cứu độ.
Thánh Augustinô đã suy gẫm rất nhiều về điều này, và Ngài đã viết: “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”.
3. Chúa gọi, con người đứng lên
Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau:
Chúa cần một người cha cho dân Ngài
Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên…
Ngài cần một người phát ngôn.
Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên…
Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài.
Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên…
Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà.
Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên…
Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài.
Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài.
Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô…
Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác.
Ngài đã chọn Đức Cha: dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao?
4. “Hãy đến mà xem”
Đức Giêsu nói với Anrê và Gioan “Hãy đến mà xem”. Ý của Đức Giêsu là muốn gọi họ làm môn đệ. Nhưng Ngài chưa nói rõ ý đó ra, Ngài chỉ mời họ đến và xem.
Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Ngài rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể tưởng tượng nổi kiểu môn đệ gì mà ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy.
Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.
Câu Tin Mừng này nhắc tôi phải thường xuyên đến gần Đức Giêsu bằng những lúc cầu nguyện, và phải chăm chỉ xem Đức Giêsu bằng việc nguyện gẫm.
5. Giới thiệu Chúa cho anh em
Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.
Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.
Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: “Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh” Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.
Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: “Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi”.
Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an”.
***
Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.
Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.
Dường như mỗi lần Tin mừng Gioan đề cập đến Anrê thì liền sau đó Anrê lại dẫn một ai đó đến với Đức Giêsu. Anrê đã trở nên nổi tiếng vì ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu. Để rồi sau khi cầu nguyện tạ ơn, Người đã biến bữa ăn trưa của cậu bé trở nên bữa ăn tập thể nuôi sống hơn năm ngàn người.
Lần thứ ba, chúng ta gặp lại Anrê lúc Đức Giêsu vào Giêrusalem lần cuối. Có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. Cũng chính Anrê là người đã giới thiệu họ với Đức Giêsu. Và chắc hẳn đó là điều làm người hài lòng, vì sau đó Người phán: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga.12,32).
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
***
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
6. Một cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa
Trong đời của chúng ta có rất nhiều cuộc gặp gỡ.
Có những cuộc gặp gỡ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu và sớm rơi vào quên lãng. Đó là gặp gỡ hời hợt bề ngoài. Ta có thể nói chuyện với một người nào đó hàng giờ, có khi hàng năm nhưng vẫn thấy chưa thể cởi mở hết tấm lòng. Ta có thể sống chung một tập thể với một người nào đó nhiều năm trời nhưng không bao giờ hiểu được người đó.
Có những cuộc gặp gỡ mà sau khi chia tay, chúng ta cảm thấy mình còn nghèo nàn hơn trước.
Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ rất nhiều ý nghĩa, làm cho chúng ta giàu hơn, và có khi làm thay đổi hẳn cuộc đời chúng ta. Bạn có thể gặp một người nào đó chỉ một lần liền cảm thấy gắn bó với người đó. Với người đó, bạn có thể cởi mở hết tấm lòng.
Khi tình bạn nẩy sinh giữa ta với một người nào đó, ta không cảm thấy rõ ràng đời mình đã đổi thay, nhưng ta nhận thức được rằng đời mình đã có một cái gì đó khác trước, ta có thể yêu thương và chăm sóc người đó một cách dễ dàng không cần cố gắng.
Đừng nghĩ rằng hễ cứ sống với nhau lâu dài và kiên trì chiều chuộng nhau thì sẽ có tình yêu. Theo Kahlil Gibran, “Tình yêu là con đẻ của một sự thu hút vô hình. Nếu sự thu hút này không nẩy sinh trong một giây phút thì nó sẽ chẳng bao giờ nảy sinh cho dù trải qua nhiều năm và thậm chí nhiều thế hệ”.
Có những cuộc gặp gỡ rất tình cờ nhưng lại khiến người ta gắn bó với nhau suốt đời. Nhiều cặp vợ chồng đã kể về lần đầu tiên họ gặp nhau với những chi tiết mà suốt đời họ không thể nào quên.
Những điều nói trên giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và 3 môn đệ sau này sẽ trở thành tông đồ của Ngài: Anrê, Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời, bởi vì rất nhiều năm sau, khi Gioan viết Tin Mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là khoảng 4 giờ chiều).
Vừa khi gặp Đức Giêsu, họ đã bị Ngài thu hút. Tuy nhiên Ngài không hối thúc, Ngài để họ thong thả muốn tìm hiểu Ngài bao lâu tuỳ ý: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh.
Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thoải mái. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.
Có một khác biệt vô cùng to lớn giữa uy quyền và ảnh hưởng. Những người hành quyền trên chúng ta thì muốn chế ngự chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ họ hoặc một bản sao của họ. Trái lại, những người có ảnh hưởng trên chúng ta thực ra không có ý gò ép chúng ta, thay đổi chúng ta hay khuôn đúc chúng ta thành người giống như họ. Họ ban cho chúng ta một không gian mà trong đó chúng ta có thể tìm gặp chính mình và sống theo cách thức của mình. Đức Giêsu không hành quyền trên các môn đệ. Nhưng Ngài có ảnh hưởng sâu đậm trên họ. Cuộc gặp gỡ hôm ấy đã biến đổi hẳn cuộc đời của Gioan, Anrê và Phêrô.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu trong xác thể, nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài một cách thiêng liêng trong đức tin như gặp một người Bạn, một người Anh và một Đấng cứu tinh.
Ngày nay Đức Giêsu vẫn còn đi qua và luôn sẵn sàng đón tiếp những ai tìm gặp Ngài. Tuy nhiên Ngài không bao giờ ép buộc ai phải sống như Ngài. Đối với những ai có thiện chí muốn biết Ngài nhiều hơn, Ngài nói như đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”. (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu mời gọi những người muốn theo Người “Hãy đến mà xem”, để hiểu biết Người hơn mà chọn lựa thái độ đối với Người. Chúng ta hãy tin tưởng dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Xin cho mọi người trong Hội thánh biết năng tìm dịp gặp gỡ Đức Giêsu / để mỗi người càng hiểu biết và yêu mến Người hơn.
2. Xin cho mọi người trên thế giới chưa biết gì về Chúa Kitô / được có dịp gặp gỡ và hiểu biết Người là Đấng Cứu độ.
3. Xin cho mọi người đang gặp đau khổ và thử thách / biết tìm đến với Đức Giêsu Kitô để Người giải khổ và bồi dưỡng cho.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng họ đạo chúng ta biết dùng lời nói và việc làm của mình như dấu chỉ và dụng cụ để giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu Kitô, Chúa đã mời gọi chúng con “Hãy đến mà xem”, xin cho mọi người chúng con biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sẵn sàng của những kẻ được Chúa gọi “Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa”, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Ngày xưa Chúa đã kêu gọi Ông Samuel, Chúa đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Gioan, Anrê và Simon… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài để đem Tin Mừng của Ngài rao giảng cho thế giới. Chúng ta hãy đáp lại lời Ngài, suốt tuần lễ này nhiệt tình làm chứng cho Tin Mừng trong môi trường chúng ta sống và làm việc.
44. “Hãy đến mà xem”
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Theo tâm sinh lý, thông thường các em nhỏ thích, muốn bắt chước làm theo những gì mà chúng thường chứng kiến, điều mà thường xảy ra và lặp đi lặp lại nhiều lần. Tại các Trường Mầm Non ở Nhật Bản, hằng tháng họ đều có những hoạt động để tổ chức mừng sinh nhật cho các em. Một trong những việc đó là, khuyến khích các em viết ra, đứng lên và đọc trước toàn thể mọi người những ước muốn-nguyện cầu của mình. “Khi lớn lên, con ước muốn trở nên người làm nghề gì?” Đa phần các em thích trở thành giáo viên, số còn lại là muốn làm thợ làm bánh, thợ làm cơm hộp, tài xế xe bus…khi được hỏi tại sao con thích, thì các em chỉ cười và không biết vì sao, nhưng sau này khi lớn lên, nhìn lại những ước mơ thuở ban đầu ấy, các em nhớ lại và cho biết, đây chính là những người, với những nghề nghiệp mà hằng ngày các em được gặp gỡ, tiếp xúc. Trong đời sống ơn gọi và đức tin của mỗi người, chúng ta đều được mời gọi “Hãy đến mà xem”. Nhưng đến đâu và xem điều gì? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng dẫn, soi sáng và minh chứng cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa cho mỗi người qua việc chúng ta đến với Chúa qua Hội Thánh và qua các bí tích ban ơn sủng để cảm nghiệm và nhận ra ơn gọi làm tông đồ và ơn gọi nên thánh của chính mình.
Cậu bé Samuel trong bài đọc một đã dần dần khám phá ra chính ơn gọi của mình do bởi người mẹ trước hết đã dẫn cậu vào đền thờ, dâng cậu cho Chúa và gởi cho tiên tri Heli để cậu được hướng dẫn, giáo dục. Vì được ở trong đền thánh, nên ban đầu khi nghe tiếng gọi tên mình, Samuel đã chạy đến với Tiên tri vì cứ ngỡ Ngài đã gọi mình, nhưng sau khi được Heli hướng dẫn, Samuel mới biết đó không phải là tiếng của thầy mình mà là tiếng Chúa gọi nên cậu đã thưa: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”. Khi ý thức được ơn gọi mà Chúa ban cho, cùng với sự hướng dẫn của thầy Heli, “Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa”. Chính Samuel sau này cũng đã được tuyển chọn để trở nên Ngôn sứ của Thiên Chúa. Thật vậy, trước ơn kêu gọi để ra đi thực thi ý Chúa, thật quá nhiệm mầu, không thể hiểu và diễn tả, mà chỉ biết dâng lời cảm tạ tri ân.
Thánh vịnh 39 trong bài Đáp ca mời gọi chúng ta, mỗi khi ai đó nhận ra được tiếng Chúa kêu mời, thì tiếng Chúa thúc bách và làm cho họ không thể cưỡng lại trước lời mời gọi này, cho tới khi họ thốt lên lời đáp trả: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”. Ơn kêu gọi để làm môn đệ Chúa, để làm Tông đồ, để ra đi thực thi thánh ý và huấn lệnh Chúa được diễn tả cách thiết thực hơn trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu và nói về Chúa Giêsu cho môn đệ của ông, chính qua lời giới thiệu này, Anrê một trong hai môn đệ của Gioan đã tìm đến để xin gặp Chúa Giêsu; khi gặp Chúa họ đã hỏi về nơi Ngài cư ngụ. Thật thú vị là, Chúa đã không trả lời điều mà họ muốn hỏi, nhưng Chúa lại muốn mời gọi họ hãy tự đến khám phá, chứng kiến, cảm nghiệm để mà biết: “Hãy đến mà xem. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười”. Đây chính là sự cảm nghiệm của đời sống đức tin. Tường thuật của Tin mừng về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu lại càng thú vị hơn, chính Anrê, một khi ông đã cảm nghiệm và nhận biết về Chúa; biết ở đây không còn phải là nơi chốn mà Chúa Giêsu ở, nhưng ông biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”. Biết ở đây chính là mối tương quan với Chúa Giêsu, cho nên Anrê đã mau mắn, mạnh dạn giới thiệu để đem Simon anh mình đến với Chúa Giêsu nữa. Cuối cùng, không một chút chần chừ, Simon cũng đã mau mắn đáp trả lại lời kêu mời để đến với Chúa. Với ơn kêu gọi này đặc biệt này, Simon đã được biến đổi trở nên nền tảng ơn gọi và đức tin vững chắc “Kêpha-Đá” cho những ai muốn tin, đi theo ơn kêu gọi làm tông đồ của Chúa Giêsu. “Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá”.
Anh chị em rất thân mến,
là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều được mời gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để cùng với Ngài cảm nếm ơn thánh Chúa ban và cộng tác với Ngài để chuyển trao ơn Chúa cho tha nhân. Thật vậy, ơn kêu gọi này của chúng ta phải được đáp trả trước hết trong “cái nôi của gia đình” nơi mà quý cha mẹ và những người thân yêu là những người gieo mầm, nuôi dưỡng, giới thiệu và quãng diễn về ơn gọi. Thứ đến, ơn gọi này không thể nào sinh hoa kết quả, nếu chúng ta không đến với chính nguồn mạch là Đức Giêsu Kitô qua các bí tích của ân sủng. Cuối cùng, ơn gọi làm tông đồ được minh định với sự chứng thực và sai đi của Hội Thánh vì chính Đức Kitô là đầu của Hội Thánh và Thánh Thần là Đấng tuyển chọn và sai chúng ta ra đi.
Xin Chúa ban ơn giúp sức cho mỗi người chúng con biết đến với Chúa, để cảm nếm và nghiệm ra được chính ơn thánh Chúa đang kêu mời, tuyển chọn và sai chúng con ra đi để nên chứng tá tình yêu thương, ơn cứu độ của Chúa cho anh chị em trong mỗi môi trường mà chúng con đang sống. Amen.
45. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
ĐƯỢC CHÚA KÊU GỌI ƠN GỌI TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CỦA CHÚA.
Tin mừng Ga 1: 35-42: Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” cho các môn đệ của mình. Các ông bỏ Thầy mình để theo Chúa, trở nên những môn đệ dầu tiên của Chúa Giêsu.
Cả ba bài đọc KinhThánh của Chúa Nhật hôm nay đều cùng chung một đề tài, nói về Ơn gọi. Samuel, các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, những ai được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, trở nên chi thể của Đức Kitô, tất cả đều được Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa kêu gọi mọi người và từng người để họ liều mình đi theo Đức tin và phục vụ Thiên Chúa trong kế hoạch cứu rỗi của Ngài. Mỗi người đều có một ơn gọi riêng trước Chúa. Cần phải có con tim yêu mến và tự do đáp trả tiếng Chúa kêu mời. Hãy thưa lên với Chúa như Samuel: Lạy Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe! Hãy can đảm từ bỏ mọi sự để đến với Chúa như các môn đệ đầu tiên, vì Ngài cũng đang mời gọi mỗi người: hãy đến mà xem.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng ( Ga 1, 35-42)
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” cho các môn đệ của mình. Các ông bỏ Thầy mình để theo Chúa, trở nên những môn đệ dầu tiên của Chúa Giêsu. Từ các môn đệ đầu tiên này, những người khác được giới thiệu và được tuyển chọn. Nhân loại bắt đầu bứơc từ Giao Ước cũ qua Giao Ước mới. Bỏ Do Thái Giáo, bỏ Gioan tẩy Giả để theo Chúa Giêsu và ở với Người.
1. ” Hai môn đệ nghe ông nói liền theo Chúa Giêsu.”: Sau lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ ông liền quyết định bỏ thầy mình để theo Chúa Giêsu. Cũng giống như trường hợp của Samuel ( Bài đọc I), ơn gọi của các môn đệ đầu tiên được gợi lên do một người khác. Thiên Chúa có nhiều cách thế để gọi mỗi người, Ngài thường gọi qua một trung gian. Ở đây cũng có một diểm thú vị nơi Gioan Tẩy Giả, ông giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ của mình và chấp nhận để họ theo Chúa. Quả là một con người khiêm nhường, biết tự hạ, nhận rõ vai trò trung gian ơn gọi của mình. Chính ông cũng đã từng tuyên bố: Tôi phải nhỏ bé đi để Người được lớn lên. Vì thế, khi Chúa xuất hiện ông biết rút lui đúng lúc. Chính nhờ Gioan các môn đệ biết Chúa Giêsu, tin vào Người và đi theo Người.
2. Các ngươi tìm gì?”: Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng thứ IV. Cũng một câu hỏi như thế sẽ là lời đầu tiên của Đấng phục Sinh khi hỏi Maria Mađalêna: “Bà Tìm ai?” Một câu hỏi có ý hướng dẫn người đối thoại đến việc tìm gặp chính Chúa, là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia.
3. “Hãy đến mà xem.”: khi trả lời các môn đệ hỏi Người: “Thầy ở đâu?”, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp vào ý chính của câu hỏi. Người nói nơi chốn nào Người ở nhưng lại mời gọi các ông hãy đến mà xem. Người có ý muốn cho các ông biết rằng: không thể biết Người ở đâu nếu không đích thân đến xem Người. Động từ Hy lạp ‘xem’ ( Horân) không chỉ nói lên việc xem thấy bằng con mắt thể lý, nhưng còn bao hàm sự nhận thức và hiểu thấu một thực tại thiêng liêng. Điều này đòi hỏi không thể chỉ là sự chứng kiến những sự việc bên ngoài mà con là một quá trình dấn thân gắn bó với thực tại thiêng liêng ấy. Câu trả lời của Chúa Giêsu bao hàm hai ý nghĩa: khám phá nơi Người ở dưới đất tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá nơi ở thiêng liêng của Người, chính là Thiên Chúa Cha.
4. “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô” Andrê sau khi gặp Chúa Giêsu, đến ở với Người đã xác tín Người là Đấng Messia, và về giới thiệu cho người anh em của mình là Phêrô. Andrê vui mừng vì khám phá mới mẻ này. Niền vui ấy ông không giữ cho riêng mình nhưng đã chia sẻ với Phêrô, dẫn anh mình tới với Chúa Giêsu, Đấng Messia mà ông đã tin nhận. Từ Gioan, các môn đệ đầu tiên gặp gỡ Đấng Messia, rồi từ các ông, Philipphê, được giới thiệu, rồi tới Nathanael … và sau này đến toàn thể nhân loại. Một dây loan truyền Tin mừng vĩ đại đã xuất hiện để loan báo Đấng Messia đã đến và mời gọi mọi người đến với Người. Sự gặp gỡ và khám phá Đấng Messia khiến cho ai gặp được Người cũng vui sướng, được thay đổi vận mạng và mong muốn cho những ai mình gặp cũng được khám phá về người. Đây cũng chính là huyền nhiệm ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, làm Kitô hữu. Được gọi để gặp gỡ khám phá và đưa Chúa Giêsu Kitô đến cho người khác.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Trong Tin mừng hôm nay, hai từ được dùng để chỉ Chúa Giêsu: Một của Gioan giới thiệu Người là ‘Chiên Thiên Chúa’ và nơi môi miệng của Andrê xác tín Người là ‘Đấng Messia’. Cả hai từ này đều nói lên sứ mạng và bản tính của người. Người là Đấng Cứu thế. Người đến cứu độ nhân loại bằng việc tự hiến chính mình làm của lễ toàn thiêu đền tội thay cho nhân loại. Chúa Giêsu đến cứu độ chúng ta, vì yêu thương Người đã hoàn toàn tự hiến cho nhân loại. Người yêu thương đến độ chết cho người mình yêu. Không chỉ được Người yêu thương cứu độ, chúng ta còn được Người mời gọi đến ở với Người, chia sẻ sự sống thần linh với Người và tham gia vào công trình cứu độ của Người. Chiên ngưỡng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, nhận ra tình yêu của người, mỗi người chúng ta cũng khám phá ra huyền nhiệm ơn gọi Kitô hữu của mình. Được trở nên nghĩa thiết với Người và giới thiẹu cũng như đưa anh chị em chung quanh nghĩa thiết với Người như chúng ta.
III. Gợi Ý bài Giảng
1. Được gọi làm Kitô hữu là để đến ở với Chúa Giêsu Kitô: “Các ông đã ở lại với người ngày hôm đó”. Các môn đệ được gọi trước hết là để đến ở với Chúa. Ở với Chúa chính là giai đoạn đầu của một cuộc sống chung hiệp thông sâu xa với Chúa. Sau này chính Chúa Giêsu luôn luôn kêu gọi các môn đệ hãy ở với Người: ” Các con hãy ở lại trong tình yêu của thầy; hãy ở trong Thầy”. Như cành nho gắn liền với cây nho thế nào, người Kitô hữu môn đệ của Chúa cũng được mời gọi ở lại và nên một với Người như vậy. ( Tc Ga 15, 1-16) Chính nhờ việc ở lại với Chúa mà người ta mới hiểu biết, mới khám phá được Người là ai, Người làm gì? Sau khi đến và lưu lại với Chúa một ngày, Andrê mới khám phá ra Chúa Giêsu chính là Đấng Messia. Làm Kitô hữu là bạn hữu của Chúa Kitô. Là bạn có nghĩa là đi vào cuộc sống thân tình gắn bó với nhau.
2. Dấn thân vào ơn gọi Kitô hữu: Trình thuật Tin Mừng ghi lại sự kiện các môn đệ đầu tiên được gặp gỡ, tiếp xúc và đi theo Chúa Giêsu Kitô. Cuộc gặp gỡ đã biến đổi các ông từ những con người quê mùa thành Tông Đồ của Đấng Messia; từ những môn đệ của Gioan Tẩy Giả thuộc giao ứơc cũ trở nên những chứng nhân Tin Mừng của giáo ứơc mới trong Đức Kitô. Các ông đã dấn thân vào một hành trình mới, vào một tôn giáo mới, vào một cuộc đời mới. Khởi đi từ việc gặp gỡ Chúa qua sự giới thiệu của Gioan Tẩy giả, các ông đã lắng nghe tiếng Chúa gọi mời: “Hãy đến mà xem”, khi gặp gỡ Chúa, khi thấy Người, sống với Người các ông đã nhận ra Người là Đấng Messia và quyết tâm đi theo Người. Tin Mừng chỉ ghi lại cách vắn tắt xem ra câu chuyện chỉ diễn ra trong một ngày, nhưng đó lại là cả một hành trình dấn thân theo ơn gọi làm Tông đồ của Chúa. Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi theo Chúa, do đó, cũng phải băng mình dấn thân theo hành trình các tông đồ đã đi khi trước để sống ơn gọi Kitô hữu của mình. Cũng cần phải gặp được Chúa. Người vẫn đang hiện diện, đang đồng hành trên nẻo đường đời với chúng ta cần phải có thái độ thành tâm thiện chí muốn gặp Người chúng ta mới có thể thấy Người. Một lời giới thiệu của bạn hữu chung quanh, một sự kiện một biến cố trong cuộc sống, một lời khuyên của người khôn ngoan, một bản văn Kinh Thánh, một thử thách … đều có thể là những dấu chỉ đường dẫn chúng ta đến gặp Chúa; đều là những tiếng Chúa kêu mời chúng ta theo Người. Nhận ra Người đòi hỏi phải dấn thân lên đường, không chỉ thấy Người, nghe Người gọi là có thể thành Kitô hữu. Kitô hữu là ơn gọi đòi hỏi phải dấn thân suất cả cuộc đời. Ơn gọi Kitô hữu không thể chỉ một lần tin, một phép rửa là thành tựu viên mãn, nhưng nó là một hạt giống cần phải được chăm bón để lớn lên, để trổ sinh hoá trái. Ơn gọi Kitô hữu là một sự biến đổi không ngừng bản thân theo ánh sáng Tin Mừng để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô.
IV. Lời Cầu Chung
Lời Mở: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu đã yêu thương tuyển chọn chúng ta làm môn đệ của Người. Trong tâm tình vui mừng và cảm mến, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội Chúa từ giáo sĩ cho đến giáo dân luôn trung thành và chu toàn sứ mạng Kitô hữu của mình theo đúng ơn gọi riêng mà Chúa đã kêu mời tuyển chọn, để nhờ đó, mà Nước Chúa ngày càng phát triển.
2. Chúng ta cùng cầu nguyện cho con người và thế giới hôm nay. Xin cho mọi người, mọi quốc gia và dân tộc được nghe sứ điệp Tin Mừng nhờ công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo Hội ngày càng phát triển và thu được kết quả tốt đẹp, ngõ hầu muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Giêsu theo như ý muốn của Người.
3. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta. Xin cho mọi người, mọi gia đình luôn biết nỗ lực thực thi Lời Chúa, gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn luôn xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu của mình.
Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương tuyển chọn chúng con làm Kitô hữu, môn đệ của Chúa và sai chúng con đem Tin mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Xin cho chúng con có đức tin và ơn sủng để luôn sống trung thành với ơn gọi của mình. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
46. Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Thiên ký sự của thánh Gioan về ơn gọi của những môn đệ đầu tiên, đáng khâm phục vì lời văn bình dị và gợi ý. Ký sự diễn tả tiến trình cơ bản về mọi ơn gọi theo Đức Kitô: gặp gỡ, phát hiện, ưng thuận, thay đổi đời sống.
– Gặp gỡ. Hai môn đệ Anrê và Gioan gặp Đức Giêsu vì đã được Gioan Tẩy giả lưu ý họ về người. Cũng thế, Simon – Phêrô gặp Chúa, vì Anrê cho biết. Trong hai trường hợp này, ta thấy rằng một sự can thiệp của con người chính là con đường đưa người ta đến gặp Đức Giêsu. Nhưng tự nó sự can thiệp không có tính cách quyết định trong việc các môn đồ đi tìm Chúa. Điều khiến họ quyết định, chính là lời kêu gọi của Đức Giêsu: Hãy đến mà xem. Như vậy hai yếu tố đầu tiên trong tiến trình đáp ứng ơn gọi là: một người dẫn những người khác đến nơi gặp gỡ- Thiên Chúa kêu gọi. Một câu hỏi được đặt ra: đó bao giờ chúng ta nghĩ rằng có thể chúng ta cũng dẫn một người nào đó đến gặp Đức Giêsu không? Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết rõ Đức Giêsu là ai. Giống như Anrê, chúng ta đã tìm thấy Đấng Cứu thế. Liệu chúng ta có lo lắng đến việc không nên khư khư giữ làm của riêng điều chúng ta tìm thấy? Để cho lời gọi của Chúa đến với một người trong anh em chúng ta, có lẽ Chúa nhờ chúng ta dẫn kẻ ấy đến gặp Người.
– Phát hiện. Vì vậy hai môn đệ đến và nhìn thấy nơi Chúa ở. Sau khi đã lưu lại với Chúa tới sáng hôm sau, họ tin chắc đã gặp Đấng Cứu Thế. Họ phát hiện Đức Giêsu là ai. Ta có thể nghĩ xa hơn: Hai môn đệ đã phát hiện Đức Giêsu là ai đối với họ. Thật vậy, không những họ nhận Đức Giêsu đúng là Đấng Cứu Thế, mà lại còn khám phá thấy một liên hệ đặc biệt do Đức Giêsu thiết lập giữa Người với họ, Chúa kêu gọi họ hãy trở nên môn đệ Người – đặc biệt Phêrô được Chúa gọi là “Đá”, tức là đá tảng trên đó Đức Giêsu sẽ thiết lập Giáo Hội Người. Tới đây, ta nhận định: Trong tiến trình ơn gọi, con người lúc đối diện với Đức Kitô không những phát hiện Đức Kitô, trong bản thế là ai mà còn thấy rõ Đức Kitô là ai đối với người được gọi. Mỗi người chúng ta cũng có thể tự hỏi: Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Người gọi tôi làm việc gì? Ý muốn của Người ảnh hưởng trên tôi thế nào?
– Ưng thuận và thay đổi. Đoạn Phúc âm kể lại đầy đủ: Sau khi gặp Đức Giêsu và ở lại với Người tơí hôm sau, những môn đệ tình nguyện theo Chúa. Toàn bộ Phúc âm theo thánh Gioan cho biết một việc: Sự ưng thuận theo Chúa đã đếm lại đổi thay trong đời họ. Họ bỏ lại tất cả để theo Đức Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô xoay đổi đời sống con người theo một hướng hoàn toàn khác với chiều hướng bình thường. Thậm chí, ở đây lại là theo Chúa trong điều kiện sinh hoạt khác với mọi người. Kitô hữu được kêu gọi hãy uốn sửa đời mình cho phù hợp với khuôn mẫu Đức Kitô. Đó là điều làm thay đổi một đời người, thay đổi toàn diện.
Tóm lại, đoạn Phúc âm nói với chúng ta thế này:
1) Có những người đi tìm Đấng Cứu Thế.
2) Thấy họ tìm thì Chúa đến với họ và kêu gọi họ.
3) Những người ấy đáp ứng lời Chuá bằng một câu đáp tích cực nó biến đổi đời họ. Ba câu hỏi chờ chúng ta: chúng ta có phải là những Kitô hữu trên đường tìm Chúa không? Chúng ta có nghe thấy những lời mời của Chúa không? Câu đáp của chúng ta, tức là nếp sống Kitô giaó thực tiễn, có biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành môn đệ không?
47. Hãy đến mà xem
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 1: 35-42: Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người đang theo Chúa “hãy đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người”.
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu. Người giới thiệu hết sức cần thiết.
Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế ẩm.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: “đây Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu này nhất định hấp dẫn trong cộng đoàn của Gioan Tẩy Giả, bởi vì nó khích động sự tò mò của hai môn đệ đối với Chúa Giêsu và khiến họ lìa bỏ sư phụ của mình để theo Chúa Giêsu. Một trong hai người là Anrê. Còn người kia không được nêu tên. Nhiều người cho rằng có thể đó là người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, Gioan, con ông Giêbêđê. Hai môn đệ Gioan và Anrê đã “ở lại” với Chúa Giêsu. Động từ “ở lại” được dùng ba lần ở đây. Đối với Gioan, đó là một từ ngữ thần học đánh dấu đức tin được thực hiện và gắn bó với Chúa Giêsu (xem ví dụ 6,56; 8,31; 10,40; 15,4).
1. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Họ đã đến và đã xem. Họ thấy Ngài thân thiện, niềm nở, nồng ấm. Họ biết mình đã gặp được một sư phụ tuyệt vời, và thế là một tình nghĩa gắn bó được phát sinh. Khi ở với Ngài, họ cảm thấy hoàn toàn bình an thanh thản. Qua tiếp xúc với Ngài, họ còn khám phá chính bản thân họ. Thấy cung cách của Ngài, họ cảm mến và thấy rằng mình cũng phải cố gắng sống theo cung cách ấy.
2. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Đó là tiến trình mà mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi thực hiện trong đời sống tôn giáo của mình. Tin thường thông qua những trung gian loài người, nhưng điều cốt yếu hệ tại ở lời kêu gọi của Chúa cũng như ở sự tự do và bằng lòng gắn bó với Chúa Giêsu.
Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không, nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa này”.
Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
3. Lời mời gọi “đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người”
Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người là một lời mời dịu dàng khởi đầu tình bạn mà các môn đệ đang đi tìm. Thời gian và sự tiếp xúc cá nhân với Chúa là cần thiết để các ông vững mạnh trong ơn gọi của mình. Lúc đó khoảng 10 giờ tức là 4 giờ chiều, họ đã ở lại với Người. Đức tin không chỉ là sự tò mò thuần lý, nhưng là một sức mạnh ảnh hưởng trên cuộc sống: không thể hiểu đức tin nếu không sống đức tin. Vì thế, lúc đó Chúa không nói chi tiết về lối sống của Người mà chỉ mời họ ở lại. Thánh Tôma giải thích: Chúa nói giọng nhỏ nhẹ, thần bí vì Thiên Chúa chỉ có thể hiểu bằng cảm nghiệm, lời nói không thể diễn tả. Chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết này bằng chiêm ngắm những gì thuộc về Chúa, bằng lòng khát khao nếm sự ngọt ngào của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ đến với Chúa, xem chỗ Người ở và ở lại với Người và các ông đã khám phá ra con người của Chúa.
4. Đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người
Phải đến, đến gần Đức Giêsu thì mới hiểu Người rồi mới có thể làm môn đệ Ngài. Không thể hiểu nổi kiểu môn đệ lại ở xa Thầy, không thường xuyên đến gần Thầy mình. Rồi phải xem nữa. Môn đệ không chỉ nghe Thầy dạy, mà còn phải xem cách Thầy sống để sống theo. Không thể chấp nhận kiểu môn đệ mà không sống theo gương Thầy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta là những người đang theo Chúa “hãy đến với Chúa Giêsu, xem chỗ Người ở và ở lại với Người”. Amen.
48. Lựa chọn theo Chúa
“Một trong hai người… đã đi theo Chúa Giêsu”.
Một thương gia người Mỹ, lúc chết đã làm chúc thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên Grace lúc đó 23 tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một triệu đô la, với điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo. Cuối cùng nữ tu Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô đã mất cả phần tài sản to lớn đó.
Bước đường theo Chúa đôi lúc cũng đòi một sự lựa chọn như vậy. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người đầu tiên xin làm môn đệ Chúa. Trong giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa, chỉ có Gioan Tẩy Giả được ban ơn đặc biệt nhận ra Chúa, ông giới thiệu Chúa: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Người Do Thái nghe danh hiệu này theo ý nghĩa thường gặp trong Kinh Thánh, là tôi tớ Thiên Chúa, một người tôi tớ âm thầm phục vụ lò sát sinh. Những người nghe thánh Gioan lúc đó là những người thiện chí, muốn cải thiện, họ quanh quẩn bên vị tiền hô để học hỏi sống chính trực. Họ biết Chúa Giêsu là người tốt, nhưng không phải một ông vua, không hứa hẹn giàu sang vinh hiển, tuy nhiên cũng có người quyết định đi theo Chúa.
Chúa Giêsu tiếp đón họ rất bình thường, chẳng có gì là niềm nở. Chúa hỏi họ như hỏi người lạ: “Các anh kiếm gì?” Chúa không phải một người quảng cáo hay tuyên truyền. Chúa bảo các ông: “Hãy đến mà xem”. Việc tìm hiểu rất cần thiết, chứng tỏ một tâm hồn khát khao chân lý, một tâm hồn có khả năng tiến bộ. Trong buổi đàm đạo đầu tiên này, có lẽ những người theo Chúa không được hứa hẹn gì, ngoài việc nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng đã được hứa ban trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh cũng đã nói trước Đấng Mêsia sẽ chịu bạc đãi, khổ đau. Họ chưa hiểu cặn kẽ số phận Đấng Cứu Thế, nhưng cũng lờ mờ thấy theo Chúa là phải chấp nhận khó khăn, hy sinh và có khi nguy hiểm nữa, nhưng họ đã quyết định theo Chúa.
Các ông đi theo Chúa trong niềm vui phấn khởi. Các ông vui không vì đã tìm ra một món lợi, nhưng vì từ lâu các ông vốn khát khao ơn cứu độ, các ông tha thiết chia sẻ tâm tình mong chờ Đấng Cứu Thế của Kinh Thánh, và bây giờ thấy lòng mong đợi đó được đáp ứng. Các ông có được niềm vui lớn lao, và khi vui người ta thấy cần chia sẻ, niềm vui sẽ tràn đầy và truyền lan. Các ông đi nói lại với bạn bè, với bà con thân thuộc: Chúng tôi đã thấy Đấng Cứu Thế, cũng gọi là Đức Kitô. Các ông muốn người thân cũng vui với mình, và muốn mọi người cùng đi theo Chúa như mình.
Đầu tiên Gioan Tiền Hô đã gửi Anrê và Gioan đến với Chúa. Rồi Anrê và Gioan đi gọi Simon và Philipphê mời gọi Nathanael. Khởi đầu là do Chúa. Ơn gọi của Chúa như một niềm vui lan tràn từ người nọ tới người kia như nước chuyển qua những ống dẫn và ta có cảm tưởng như nếu không có người hướng dẫn thì những người kế cận sẽ không nhận được ơn gọi của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết lắng nghe lời Chúa gọi và luôn cố gắng truyền thông cho anh chị em, để mọi người sớm thành môn đệ Chúa.
49. Giới thiệu
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi muốn chia sẻ với anh em một bổn phận quan trọng, đó là: Bổn phận giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
Thực vậy, Gioan Tiền Hô lúc bấy giờ xuất hiện bên bờ sông Giordan, ông rao giảng về tâm tình ăn năn và trao ban phép rửa sám hối. Mọi người đều kính trọng ông và coi ông như là một vị tiên tri. Thế nhưng ông đã thẳng thắn xác quyết với họ: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến”.
Cũng chính ông đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
Rồi ông đã khiêm nhường thú nhận: “Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Nghe lời giới thiệu ấy, Andrê và Gioan đã bước theo Chúa. Chúa Giêsu quay lại thấy hai ông liền phán:
– Các ngươi tìm chi.
Các ông thưa:
– Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Chúa Giêsu bảo:
– Hãy đến mà xem.
Hai ông đã đến cùng Chúa và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ này, Andrê đã đi tìm em mình là Simon và nói với ông:
– Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế, tức là Đức Kitô.
Và chính Andrê đã dẫn Simon đến cùng Chúa. Thoạt nhìn thấy Simon, Chúa Giêsu liền phán:
– Con là Simon, kể từ nay con sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá.
Phúc âm còn kể tiếp, sau khi được Chúa gọi, Philipphê, đã đến gặp Nathanael và nói:
– Chúng tôi đã gặp Chúa Giêsu, con ông Giuse quê tại Nagiarét, là đấng Maisen mà các tiên tri đã nói tới trong lề luật.
Nhưng Nathanael đáp lại: “Ở Nagiarét nào có cái chi hay?”
Philipphê liền nói: “Hãy đến mà xem”.
Cuối cùng Nathanael đã đi tìm gặp Chúa, đã tin nhận Chúa với lời tuyên xưng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel”. Và ông đã trở nên một trong số 12 tông đồ của Ngài.
Từ những chi tiết tôi vừa kể, chúng ta thấy: Gioan Tiền hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, trong đó có Gioan và Andrê. Rồi sau đó, Andrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là Phêrô. Còn Philipphê, một khi đã đi theo Chúa, ông cũng đã giới thiệu Chúa cho Nathanael. Còn chúng ta thì sao?
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng rằng, bổn phận giới thiệu Đức Kitô, làm chứng về Ngài cũng như rao giảng Phúc âm là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân, thì không cần phải vướng mắc chi vào chuyện đó.
Nghĩ như vậy là lầm. Đúng thế, với Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên người Kitô hữu. Và như chúng ta thường định nghĩa. Người Kitô hữu là người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc sống của mình, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và sống gắn bó mật thiết với Ngài qua những tâm tình cầu nguyện.
Thế nhưng có Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa, phải đem Chúa đến cho những người chung quanh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán: “Các con là muối, là men, là ánh sáng. Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…”
Bởi đó, bằng một cuộc sống đạo đức, chúng ta thực sự có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái yêu thương, chúng ta đem Chúa đến và giới thiệu Chúa cho những người chung quanh chúng ta.
50. Hoàn hảo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái)
“Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người.” (Ga 1,35-42)
Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.
Cha:
Con ơi! Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng quyền cao,
Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan,
Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.
Con gái:
Thôi… con sợ lắm cha ơi!
Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!
Cha:
Dèm pha mặc kệ dèm pha.
Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau,
Nhà tranh, vách lá chui vào… chui ra!
Con trai:
Con quan phung phí xa hoa,
Thời trang đủ kiểu, cưới mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi
Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?
Cha:
Mày tưởng có bằng là ngon?
Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng
Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn”. Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. (1:36).
Trong một lớp giáo lý tân tòng, một thiếu nữ trẻ đang học đạo để lập gia đình, chia sẻ tâm tình và sự lựa chọn của cô như sau. Trong cuộc đời cô, cô chưa bao giờ nghe biết hay được học hỏi điều gì về tôn giáo cả. Gia đình cô rất ghét đạo Công giáo. Nhưng chàng và ngàng lại yêu thương nhau tha thiết. Khi chàng ngỏ ý muốn cưới nàng làm vợ với điều kiện cả hai phải có cùng một niềm tin tôn giáo, nàng chấp nhận ngay. Cô nói: “Tôi muốn có cái mà anh ấy có.” Cô chia sẻ rằng cô nhận thấy, đối với chàng đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và chi phối toàn bộ cuộc đời chàng. Trong đức tin chàng có sự bình an và hạnh phúc. Đó là điều cô cũng đang đi tìm kiến thì tại sao cô lại không chấp nhận được. Trong khi đó chàng không có nhiều tiền bạc, nhưng rất hài lòng về cuộc sống của mình, và chu toàn những bổn phận hằng ngày. Cuộc sống phản ảnh đức tin mà chàng và cô muốn là một phần của niềm tin đó. Cô đã chọn lựa “cái hơn” của đức tin, của tình yêu và hạnh phúc nơi Đức Giêsu Kitô.
Đây cũng chính là điều mà Anrê và Philip muốn tìm khi họ bỏ Gioan Tẩy Giả để theo Chúa Giêsu. Họ không những chỉ muốn “cái hơn” mà thôi, nhưng còn là sự sung mãn nhất, đầy đủ nhất và hoàn hảo nhất nơi Đức Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta được sinh ra với một ước muốn tự nhiên và lòng khao khát đi tìm hạnh phúc và sự sung mãn. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng cái mà chúng ta đang ước muốn, đang đi tìm, đang chờ mong, đang cố gắng đạt cho được bằng mọi cách, ở bất cứ thời đại nào hay thế hệ nào, chỉ tìm thấy đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô (Pl 3:8). Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến và xem”, Ngài cũng mời chúng ta không chỉ “đến và xem”, nhưng còn “Ở lại với Người” để trở nên môn đệ của người.
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu là sự chọn lựa giữa việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu và các lý do chính đáng khác trên đời (Mt 10:37). Gặp gỡ và gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1:37). Sau đó những công việc mục vụ và rao truyền Tn Mừng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.
Theo William Barclay, Anrê là một nhân vật luôn luôn giới thiệu người khác đến với Chúa Geiesu. Ba lần Anrê được nhắc đến trong Phúc âm của Gioan với vài trò này: đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu (1:42); đứa bé trai với năm chiếc bánh và hai con cá đến cho Chúa Giêsu (6:8-9); đưa mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu (12:22). Anrê là con người với trái tim truyền giáo.
Và sau này cả Philip nữa, sau khi đã gặp Chúa Giêsu rồi, cũng đi mời Nathanael đến với Ngài (1:45-47). Giới thiệu Chúa Giêsu đi vào cuộc đời của tha nhân là thành quả của sự kết hiệp mật thiết và cá nhân giữa ta với Chúa.
Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng. Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì. Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”
Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.
Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).
51. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Ga 1: 35-42: Mỗi người là một kiệt tác vô cùng độc đáo mà Thiên Chúa dựng nên. Ngài đã kêu gọi mỗi người làm môn đệ Ngài theo những cách khác nhau.
Suy Niệm
Mỗi người là một kiệt tác vô cùng độc đáo mà Thiên Chúa dựng nên. Ngài đã kêu gọi mỗi người làm môn đệ Ngài theo những cách khác nhau. Người được Chúa gọi lập gia đình để cộng tác với Chúa tiếp tục trong công trình tạo dựng, người sống đời độc thân vui tính để loan báo Tin mừng giữa đời, người thì lo cho nước Chúa lớn mạnh trong ơn gọi dâng hiến. Mỗi người đều được Chúa ưu ái chọn gọi để chia sẻ đức tin của mình cho anh chị em.
Bài đọc I trích sách Samuel thuật lại việc cậu bé Samuel sống trong đền thờ với lời hứa của bà Anna mẹ người trước Chúa, vì bà liên lỉ xin Chúa cho bà sanh được một đứa con, bà sẵn sàng dâng đứa duy nhất của mình cho Chúa. Chúa đã đáp lời bà. Đang đêm ngủ trong đền thờ, cậu bé Samuel đã nghe tiếng gọi, mơ mơ màng màng không biết từ đâu, cậu nhanh nhẹn đáp lại bằng cách chạy đến bên thầy cả Hêli. Sau ba lần, thầy cả Hêli giúp cậu nhận ra tiếng Chúa, để rồi cậu đáp lại: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”.
Mỗi người chúng ta được mời gọi hãy tập cho mình có một kinh nghiệm gặp gỡ và lắng nghe tiếng Chúa. Muốn thế, chúng ta hãy theo lời dạy của Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô. Ngài đã chia sẻ đức tin của mình rằng thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta hãy biết gìn giữ thân xác mình được sạch trong, thanh thoát mới có thể dễ dàng đến được với Chúa. Một kinh nghiệm có thể gặp gỡ Chúa mà bài học Gioan Tẩy Giả hôm nay trong đoạn Tin mừng, ngài sẵn sàng chia sẻ đức tin của mình, giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ, chấp nhận việc thất thoát thua thiệt, mất học trò để họ đi tìm chân lý. Sở dĩ Chúa quay lại hỏi họ: Các ông tìm gì? vì ngày nay có những người tìm kiếm theo đuổi những mục tiêu khác nhau nào là tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui, đam mê… chứ không phải đức tin, không phải chân lý cứu độ.
Với lời giới thiệu của Gioan, hai môn đệ đã tin, nên đã lên đường đến với Chúa Giêsu. “Họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó”, điều này khiến họ đáng được trở nên những tông đồ tiên khởi. Câu nói “Ở lại với Chúa Giêsu”, đồng nghĩa với việc mong muốn tham dự vào sự sống, vào nguồn hạnh phúc, muốn chia vui sẻ buồn với Chúa. Như lời bài hát “Em ơi ở lại” với ca từ “Em ơi em ở lại, ở lại với anh đi em ở lại…”, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi chúng ta như thế để có thể khám phá niềm vui kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu đã khiến Anrê, một tâm hồn quảng đại sẵn sàng chia sẻ đức tin của mình với người này người khác. Chính những điều Anrê và các môn đệ nhìn thấy đã thay đổi cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới, đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã có kinh ghiệm về Người, thậm chí dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng. Ngày nay không thiếu những người chính vì có kinh nghiệm thực sự về Chúa Giêsu đã sẵn sàng loan báo Tin mừng. Ngày 30/12/2020, hãng tin Fides của Thánh Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc đã công bố báo cáo thường niên về con số 20 nhà truyền giáo bị sát hại trên toàn thế giới trong năm 2020. Họ là tất cả những người đã được rửa tội, vì “nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi thành phần Dân Chúa đều trở thành môn đệ truyền giáo. Thậm chí ngày nay nhiều vị tử đạo hơn trong những thế kỷ đầu tiên.
Như ngạn ngữ có câu: “Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là người thế nào”. Xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng con thường xuyên tiếp xúc với Chúa, ở lại lâu giờ với Chúa bên Nhà Chầu trong cầu nguyện, sống trong tình thân mật với Người qua lời kinh nguyện ngắm. Nhờ đó, chúng con sẽ dần dần chúng con sẽ được biến đổi, trở nên môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
52. Được kêu gọi để ở lại
Khi yêu thương ai, chúng ta thường muốn người ấy được ở lại với mình. Trong trường hợp hai người ngang hàng với nhau thì được ở lại trong nhau thì cả hai đều được lợi. Còn nếu như một người lớn muốn người cho người nhỏ được ở lại thì lợi ích dường như luôn thuộc về người nhỏ. Bởi vì, đó là tình thương được thể hiện qua sự lo lắng, quan tâm và chăm sóc.
Hôm nay, qua đoạn tin mừng Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ (Gioan và Anrê) được ở lại với Người. Chúa Giêsu thấy các ông đi theo mình thì đã hỏi: “Các anh tìm gì thế? Họ đáp: Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? Người bảo họ: Đến mà xem”. (Ga 1, 38b – 39). Nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39b)
Chúng ta không biết hai ông đã được xem nơi ở của Chúa Giêsu như thế nào. Tuy nhiên, như có lần Chúa Giêsu đã nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9, 57). Do đó, chắc chắn nơi ở của Chúa Giêsu không phải là một cung điện nguy nga tráng lệ.
Dầu vậy, quan trọng hơn là các ông được lĩnh hội một năng lực hết sức quý báu từ Chúa Giêsu. Năng lực ấy chính là tình thương mà Chúa Giêsu dành cho các ông. Một tình thương có thể nói không ai ở trần gian có thể đem đến cho các ông. Cảm nhận được điều đó nên ông Anrê đã không chỉ giữ cho riêng mình mà ông đã vội vàng dẫn em mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 42)
Được ở lại với Chúa và trong Chúa thì không còn hạnh phúc nào bằng. Khi ở lại trong Chúa chúng ta sẽ được Người thông ban những ân sủng dồi dào và cần thiết. Và nhất là chúng ta sẽ được tình thương của Người ấp ủ và chăm sóc. Chỉ khi được như thế chúng ta mới có thể có đầy đủ năng lực để sống. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Được biết những tu sĩ thuộc dòng của Mẹ Têrêsa Calcutta mỗi ngày phải quỳ trước Thánh Thể Chúa ít nhất là một giờ đồng hồ. Mặc dù dòng của Mẹ là dòng hoạt động chứ không phải là dòng chiêm niệm. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thế. Cho dù bận trăm công nghìn việc nhưng ngài không bao giờ bỏ những giờ chầu bên Thánh Thể Chúa.
Phần chúng ta, những giây phút đặc biệt được ở lại trong Chúa đó là những lúc chúng ta đi dâng Thánh lễ và cử hành các giờ đạo đức (Kinh sáng và Kinh tối). Chúng ta thường nghĩ rằng đó là những việc làm bổn phận của mình với Chúa. Thế nhưng chúng ta hãy nhớ rằng đó là những giây phút chúng ta đang đáp lại lời mời gọi của Chúa để được ở lại trong Người. Chắc chắn Chúa sẽ thông ban cho chúng ta được nhiều năng lực cần thiết và quý giá hơn những gì chúng ta mong đợi.
53. Giới thiệu
(Suy niệm của Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai và cũng chứng tỏ ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có mãnh lực thôi thúc hai môn đệ đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn người kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan, tác giả bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu tên mình. Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai ông và hai ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về, hai ông đã biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế, và lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình là Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của Giáo Hội sau này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu, nên ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau đó, Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn đệ cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh truyền của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp nơi rao giảng cho mọi người”. Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã chịu phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích của giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít, nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng ai muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người đó và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa. Chúng ta có biết Chúa không?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì thấy mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ đủ đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng kiến thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình mà coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để được xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở đi, không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng lòng với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa, cũng chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn luôn được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi quan, mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa cho đủ, nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt mọi người và có giá trị hơn nhiều bài giảng, “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” là thế.
Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể làm việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện thì luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải ai cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người tốt, vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay, chúng ta cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới, chúng ta hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình, vì một cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
54. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
BẠN SẴN SÀNG NHƯ THẾ NÀO ĐỂ CHẤP NHẬN TIẾNG GỌI CỦA THIÊN CHÚA?
Các bài đọc Chúa nhật 2 Thường niên năm B giúp hiểu biết về tầm quan trọng của những khởi đầu mới và việc đáp trả ơn gọi phục vụ.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về ơn gọi ngôn sứ của Samuen. Phục vụ dưới quyền tư tế Êli, Samuen đã nghe tiếng Chúa gọi trong Đền thờ. Chúa gọi tên ông. Samuen đáp lại “Hineni”, là từ Do Thái thường được dịch là “Này con đây”. Thiên Chúa gọi Samuen ba lần và cứ mỗi lần như vậy Samuen đều đáp lại “Hineni”, “Này con đây”. Lời đáp trả của Samuen không chỉ nói rằng ông đang hiện diện.Từ “Hineni” thường xuất hiện như một lời đáp trả trước những chỉ dẫn và tiếng gọi của Thiên Chúa. Ý nghĩa của từ này có thể nhìn nhận tình trạng hiện diện trước nhan Chúa, và biểu lộ sự mở lòng để lắng nghe và đáp trả tiếng gọi của Ngài.
Câu chuyện tiếng gọi ngôn sứ của Samuen kể lại việc Thiên Chúa tuyển chọn và Samuen sẵn sàng đón nhận. Trong khi đa phần chúng ta hầu như không nghe Thiên Chúa gọi mình, chúng ta nên chú tâm đến thế giới và, giống như Samuen, mở lòng đáp trả tiếng Chúa gọi chúng ta.
Bài Tin mừng của thánh Gioan hôm nay nói về thời gian đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Sau khi chịu phép rửa, hành động tiếp theo của Ngài là gọi các môn đệ. Trong trình thuật của thánh Gioan, hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy giả đã đi theo Chúa Giêsu. Anrê mời em ông là Simon đến gặp Chúa Giêsu và khẳng định Ngài là Đấng Mêsia. Khi Simon đến, Chúa Giêsu nói, “Ạnh sẽ được gọi là Kêpha” (được dịch là Phêrô). Đối với Phêrô, được gọi bằng một danh xưng mới tượng trưng cho một khởi đầu mới và một cái nhìn trước về vai trò của ông dựa trên tác vụ của Chúa Giêsu. Nguồn gốc của những danh xưng này nối kết với từ “kepha” trong tiếng Aram và “petra” trong tiếng Hy lạp, và cả hai đều có nghĩa là “đá”.
Năm 2020 đầy khó khăn về mọi phương diện; và chúng ta hy vọng tháng Giêng năm 2021 sẽ là sự khởi đầu của một giai đoạn ít biến động hơn. Bên cạnh niên lịch mới, tuần trước chúng ta đã bắt đầu Mùa Thường Niên. Chúng ta nên dành thời gian này để tạ ơn vì những khởi đầu mới, để suy ngẫm về quá khứ và đón chờ những cơ hội xuất hiện trong tương lai.
Trong các bài đọc hôm nay, cả Samuen và Phêrô đều đóng vai trò như những hình mẫu về cách phản ứng lại trước những khởi đầu mới và những tiếng gọi phục vụ: hãy mở lòng. Chúng ta phải mở tâm trí và con tim trước những gì Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta thực hiện. Samuen được kêu gọi phục vụ như một ngôn sứ, một vai trò khó khăn nhưng có ý nghĩa, vì ông phải khích lệ và phê phán dân chúng để giúp họ sống ngay chính. Tương tự như vậy, các môn đệ mà Chúa Giêsu kêu gọi phải mở lòng ra trước những cơ hội cũng như trở ngại mà họ chưa biết khi gắn kết với Chúa Giêsu. Những môn đệ đầu tiên này cuối cùng đã trở thành những nhà lãnh đạo phục vụ cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Chúng ta hãy để mình được truyền cảm hứng bởi những mẫu gương Kinh thánh này và hãy bước tới tương lai với sự cởi mở và sẵn sàng phục vụ.
55. Cuộc gặp gỡ
Trong suốt quá trình của đời sống, chúng ta có nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người. Hầu hết những cuộc gặp gỡ này đều ít có ý nghĩa, và chẳng bao lâu, bị quên lãng.
Mỗi ngày, bạn có thể gặp gỡ một số người, nhưng không bao giờ gần gũi với họ, mà chỉ ở bề ngoài mà thôi. Bạn có thể nói chuyện với một số người hàng giờ, thậm chí hàng năm, mà vẫn không hề cảm thấy bạn đã bộc lộ con người đích thực của bạn cho họ. Bạn có thể sống nhiều năm trong cùng một cộng đoàn với người khác, mà vẫn không bao giờ biết về họ, hoặc nói chuyện về những điều sâu xa hơn với họ. Một số quan hệ với người khác mà thậm chí còn đưa chúng ta quay trở lại với chính mình, trở nên nghèo nàn hơn, sau khi chúng ta ra đi. Đây là một trong những điều đáng buồn nhất trong cuộc sống.
Nhưng có những cuộc gặp gỡ khác mang ý nghĩa vĩ đại; chúng phong phú hóa, và đôi khi, còn dứt khoát làm thay đổi cuộc sống của chúng ta nữa. Có thể bạn chỉ vừa mới gặp gỡ một người nào đó, và ngay tức khắc, một mối quan hệ liền được hình thành. Bạn có thể bộc lộ bản thân mình, một cách rõ ràng và thực sự. Đây là một trong những điều thú vị và thỏa mãn nhất trong cuộc sống.
Khi một tình bạn được khai sinh, thì không có một sự thay đổi nào rõ rệt trong cuộc sống con người – mà chỉ là một sự nhận thức rằng cuộc sống của người đó trở nên khác hẳn, khả năng yêu thương và chăm sóc của họ đã được mở rộng một cách lạ lùng, mà không hề có bất cứ sự nỗ lực nào từ phía người đó.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu đến từ tình bạn lâu dài và sự kiên nhẫn theo đuổi. Theo Kahlil Gibran “Tình yêu là kết quả của sự thu hút về mặt tinh thần, trừ khi sự thu hút này được tạo ra trong một chốc lát, theo năm tháng, hoặc thậm chí qua nhiều đời, người ta vẫn sẽ không tạo ra được nó”. Nhiều cuộc gặp gỡ có ý nghĩa tình cờ xảy ra. Một số người sẽ nói điều này với bạn, về cách họ gặp gỡ người bạn đời của mình: họ không bao giờ quên được những sự kiện của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Một khi chúng ta đã yêu mến hoặc căm ghét một người nào, thì hầu như chúng ta nhớ được từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Điều này giúp chúng ta hiểu biết được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và ba môn đệ sau này trở thành các tông đồ của Người – Phêrô, Anrê và Gioan. Rõ ràng họ đã có một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhiều năm sau, khi Gioan viết sách Tin Mừng, ông vẫn có thể nhớ được chính xác về ngày giờ diễn ra cuộc gặp gỡ đó – đó là vào khoảng giờ thứ 10 (4 giờ chiều).
Khi được gặp Đức Giêsu, Người đã lôi cuốn họ ngay. Người dành cho họ nhiều thời gian theo lòng họ mong muốn. Họ nhận thấy Người nồng nàn, thân thiện, hiếu khách. Họ biết rằng họ được gặp gỡ một nhân vật quan trọng, và một tình bạn hiếm có được khai sinh. Họ cảm thấy hoàn toàn được bình an nhờ sự hiện diện của Người. Thông qua cuộc tiếp xúc với Người, họ bắt đầu khám phá ra chính con người của họ. Nhờ tính cách của Người, họ có được tầm nhìn về con người mà họ có thể trở thành.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa quyền lực về ảnh hưởng. Những người nắm quyền lực trên chúng ta áp bức chúng ta, cố gắng biến chúng ta thành nô lệ, hoặc bản sao của con người họ. Những người gây ảnh hưởng trên chúng ta thì lại không hề cố gắng xoay chuyển, thay đổi, hoặc đúc khuôn chúng ta. Họ tạo ra cho chúng ta một khoảng không gian, trong đó chúng ta có thể tìm thấy bản thân mình, và đường lối của riêng mình. Đức Giêsu không áp đặt quyền lực trên các môn đệ của Người. Nhưng Người gây ra một ảnh hưởng sâu xa trên họ. Cuộc gặp gỡ với Người mãi mãi thay đổi cuộc sống của Phêrô, Anrê và Gioan.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu bằng xương thịt. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Người một cách thiêng liêng trong lòng tin, với tư cách là một Người bạn, một Người anh Cả, và một Đấng Cứu độ. Không nhận biết Đức Giêsu là chưa khám phá được điều mà đạo Công giáo hướng tới. Đạo Công giáo đưa đến một mối quan hệ nồng ấm, gần gũi với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mãi mãi ra đi rồi. Nhưng Người vẫn luôn gần gũi với những ai chân thành tìm kiếm Người. Người không bao giờ áp đặt bản thân Người trên bất cứ ai. Đối với kẻ nào thích được hiểu biết nhiều hơn nữa, thì Người nói câu mà Người đã nói với Gioan và Anrê “Hãy đến mà xem”.
Tất nhiên đó không phải là một cuộc gặp gỡ một lần cho tất cả, nhưng chúng ta đang nói về một mối quan hệ đang phát triển với Người.
56. Các môn đệ đầu tiên – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giêsu mà không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy bổn phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là biết và tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này có cần được giới thiệu lại về Đức Giêsu để họ biết và tin Ngài đích thực hơn, nghĩa là niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức Giêsu, bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình – thay vì tìm Ngài và lợi ích cho Ngài – trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ những ưu đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giêsu cho người chưa biết Ngài
Đức Giêsu nói: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v.v…). Nhưng tin không phải chuyện ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì mới có 3 người mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người – hay hơn nữa – mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ hội hay “nhân duyên” (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phaolô cũng viết: “Kinh Thánh nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng” (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ theo Ngài: hai môn đệ này một người là Anrê, và người kia chắc hẳn là Gioan (nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân mình). Nhờ Gioan Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giêsu cho người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao người không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng ta, những người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Giacôbê nói: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ “đức tin chết”, những đức tin giả hiệu, là “hàng giả”, loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ). Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề “phúc âm hóa mới”, hay “tái phúc âm hóa”, nghĩa là giới thiệu lại Đức Giêsu cho những người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong Giáo Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội, của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự vào Đức Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành “muối” (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành “men” (Mt 13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần “một chút men (là đủ) làm cả khối bột dậy men” (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta chuyện này: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê” (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: “Men Pharisêu tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai (x. Mt 23). Còn “men Hêrôđê” có thể là thói ham thích quyền bính, thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả mọi sự – kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi – để đạt được hay duy trì quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại “men” này thực chất thì như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời. Chính những loại “men” này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc “tái phúc âm hóa” này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ lại gì cho mình
Thái độ của Gioan Tẩy giả cũng là một gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. Anrê và Gioan (nhỏ) đều đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng như đã từng nói với dân chúng: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Khi nói những lời ấy, Gioan Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn giới thiệu Đấng ấy để mọi người – kể cả các môn đệ của ông – tin và hướng về Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gioan Tẩy giả “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ thì có “hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu”. Khi hai môn đệ rất ưu tú của mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn Gioan Tẩy giả cảm thấy một niềm vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn, và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện, khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy giả. Thiết tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu giới thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin ấy cho người khác. Amen.
57. Đáp lời Chúa kêu gọi
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Sau 9 năm trường giầm gìa trong vũng bùn lầy trụy lạc tội lỗi, Thiên Chúa đã kêu gọi và thức tỉnh lương tâm Margarita de Cortone, bằng cách cho người cô gái hoang đàng ấy chứng kiến một cảnh ghê rợn. Một thây chết nát rữa thối tha là tình nhân của nàng trước đây, tại một góc rừng lúc bất ngờ nàng đi qua. Trước cảnh hãi hùng đó, khiến nàng rất bàng hoàng xúc động và tự hỏi: “Lạy Chúa, sau đó còn lại cái gì?” Thế rồi, người con gái tội lỗi đó đã trở về với gia đình, xin lỗi thân phụ. Để tỏ lòng ăn năn sám hối, nàng đã tròng một giây thừng vào cổ và đã đến xin các Cha Dòng Thánh Phanxicô hướng dẫn. Rồi sau 3 năm đầy thử thách, với nhiều đêm ngày khóc lóc, ăn chay, đền tội, Margarita đã khoác trên mình bộ tu phục Dòng Ba Thánh Phanxicô, sống cuộc đời thánh thiện.
Để đáp lại tình Chúa yêu thương và lời kêu gọi của Chúa, Margarita đã biến nhà mình thành một bệnh xá vừa săn sóc bệnh nhân vừa lao động sản xuất để nuôi họ. Ma quỉ căm hờn, dùng trăm phương ngàn kế để cám dỗ Margarita bỏ đàng nhân đức, trở lại đàng tội lỗi trụy lạc; nhưng Margarita đã toàn thắng và luôn vững tiến trên đàng nhân đức. Ơn Chúa tuôn trào trên tôi tớ trung nghĩa của Ngài, khiến Margarita đã làm cho vô số tội nhân cải tà qui chính, bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Chúa.
I. TIẾNG CHÚA LUÔN KÊU GỌI CON NGƯỜI
Bài sách Samuel hôm nay thuật lại câu truyện Chúa đã gọi Samuel, để trao cho cậu một trọng trách của Chúa. Giữa đêm khuya đang ngon giấc trong Đền Thờ, bỗng tiếng Chúa vọng bên tai cậu: “Samuel! Samuel!” Cậu giật mình thức giấc, vội vã chạy lại Thầy Cả Heli thưa: “Này con đây, vì Thầy gọi con”. Cứ như vậy, mãi tới lần thứ ba, Thầy Cả Heli biết đó là tiếng Chúa kêu gọi Samuel, nên đã bảo cậu: “Con hãy đi ngủ lại, và nếu Người gọi con, thì con hãy thưa rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!” Samuel về chỗ ngủ lại. Chúa tới gần và lại gọi Samuel như trước: “Samuel! Samuel!” Và Samuel thưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!”
Tiếng Chúa kêu gọi con người bằng nhiều cách thế khác nhau: Chỉ một vài trường hợp đặc biệt, Chúa đã thân hiện đến, kêu gọi đích danh, như trường hợp của cậu Samuel, nhưng hầu hết Chúa đã dùng những cách thế thông thường, như lời khuyên nhủ của các vị đại diện Chúa, lời giảng dạy của một vị giảng thuyết, một ơn soi dẫn trong tâm hồn, một giấc chiêm bao hay một biến cố nào đó của cuộc đời. Trong tất cả mọi hoàn cảnh đó, các Thánh đã mau mắn đáp lại, khi các ngài nhận ra thánh ý Chúa.
Thánh Phanxicô thành Assisi, một chàng trai giầu sang háo danh, cũng chỉ vì nghe lời Chúa phán được trưng lại trong một bài giảng: “Con người được lợi lãi cả thế gian, mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì”. Ngài đã quyết tâm bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và đã chinh phục được biết bao người theo ngài, để hiến thân phụng sự Chúa, xây dựng Giáo Hội và giúp ích cho biết bao linh hồn.
Thánh Ignatiô, một sĩ quan quân đội bị trọng thương, đang thời gian nằm điệu trị tại bệnh viện, bất ngờ đọc cuốn truyện các Thánh, ngài cảm thấy thán phục, nên đã quyết tâm sống theo thánh ý Chúa soi dẫn, lập nên một Hội Dòng lớn với danh hiệu Dòng Chúa Giêsu, đem lại bao lợi ích cho Giáo Hội và thế giới.
Thánh Augustinô, từ một chàng trai trụy lạc tội lỗi được cải hóa và đã trở nên một vị Đại Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội, chinh phục biết bao linh hồn trở về với Chúa, qua những tác phẩm giáo huấn và lời giảng dạy khôn ngoan của ngài… Còn biết bao trường hợp tương tự, ơn Chúa đã thực hiện cách lạ lùng nơi đời sống của các Thánh.
II. THÁI ĐỘ CHÚNG TA TRƯỚC LỜI CHÚA
Ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, Chúa đã kêu gọi chúng ta theo Chúa, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, ban cho chúng ta được diễm phúc làm con Chúa; đồng thời, ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm tông đồ đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn người. Nhưng để thực thi sứ mạng tông đồ đó cách hữu hiệu hơn, Chúa còn dùng nhiều cách thế, nhiều hoàn cảnh, nhiều cơ hội thuận tiện khác nhau hoặc bởi nhiều biến cố, nhiều nguyên nhân khác nhau, để kêu gọi và tỏ cho chúng ta biết thánh ý Chúa, muốn chúng ta sống trong ơn gọi hay địa vị nào, hợp với mỗi môi trường và hoàn cảnh khác nhau; đồng thời, ban cho chúng ta những ơn thánh cần thiết, để chúng ta có thể làm trọn thánh ý Chúa.
Nhưng đứng trước lời Chúa kêu gọi, chúng ta cần có thái độ nào? Chúng ta đã mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lại lời mời gọi ân tình của Chúa như các Thánh đã làm chưa?
Margarita sau khi bỏ đàng tội lỗi, không những ngài đã trở thành một vị Thánh, mà ngài còn chinh phục biết bao linh hồn tội lỗi khác trở về với Chúa.
Thánh Phanxicô, Ignatio, Augustinô, sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ngài đã trung thành phụng sự Chúa, không những bằng đời sống thánh thiện của mình, mà các ngài còn tận lực dùng ảnh hưởng, dùng tài sức khôn ngoan thông thái Chúa ban, để cải hóa, chinh phục biết bao linh hồn cũng can đảm hiến thân phụng sự và làm tông đồ vinh danh Chúa. Sự nghiệp lớn lao và gương mẫu thánh thiện của các ngài vẫn còn tồn tại trong Giáo Hội và có sức chinh phục các linh hồn qua muôn thế hệ.
Các Thánh đã không hề làm uổng phí ơn Chúa đã ban cho các ngài, bởi vì các ngài đã hết lòng phụng sự yêu mến Chúa, chỉ khát khao làm vinh danh Người. Do đó, các Thánh đã tận lực dùng mọi cách thế, với tất cả khả năng, lợi dụng mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, để cổ võ, khuyến khích, chinh phục, lôi kéo các linh hồn về cho Chúa, để họ cũng được diễm phúc làm con Chúa, phụng sự và yêu mến Chúa. Như trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Gioan Tiền Hô thấy Chúa Kitô đi ngang qua, ngài giới thiệu với hai môn đệ của ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa” và cho hai môn đệ ông đi theo Chúa. Rồi khi Anrê đã gặp được Chúa rồi, lại sung sướng giới thiệu với Simon: “Chúng tôi đã gặp được Đấng Messia” và dẫn ngay anh mình đến với Chúa Giêsu.
Khi các Thánh đã nhận biết Chúa, cảm nghiệm được hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa, các ngài cũng sốt sắng, khát khao chia sẻ niềm vui sướng và thôi thúc người ta đến với Chúa, để họ cũng được hưởng niềm an vui hạnh phúc được yêu mến và phụng sự Chúa như các ngài. Cũng giống như cậu Samuel, các Thánh mỗi ngày càng tiến cao trong đàng thánh thiện, lập thêm nhiều công phúc, làm vinh danh Chúa, vì được Chúa hằng ở cùng các ngài, các ngài không để uổng phí lời nào trong các thánh ngôn Chúa phán dạy (xem 1 Sam 3:19).
KẾT LUẬN
Chớ gì chúng ta có tâm hồn như Mẹ Maria và các Thánh, luôn mau mắn, dứt khoát, can đảm và quảng đại đáp lời Chúa kêu gọi, tiến thân theo Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự và làm vinh danh Ngài. Để cũng luôn được tâm hồn ngoan thảo thưa được với Chúa: “Này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” (xem Heb 10:7).
58. Bước theo Ngài – Thiện Mỹ
Người Ấn Độ kể rằng:
Có một thanh niên khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm anh cầu nguyện cho ước mong được thành sự thật.
Không bao lâu Chúa hiện đến với anh dưới hình dạng một người đẹp đẽ, uy quyền và dễ mến. Chúa hỏi anh:
– Con có muốn đi với Ta một quãng đường không?
Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh cùng sánh bước như đôi bạn tri kỷ. Đi được một lúc Chúa hỏi:
– Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta ít nước không? Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hân hoan. Còn gì sung sướng cho bằng đi tìm nước cho Chúa.
Nhưng anh đi mãi mà không thấy nước đâu. Anh tiếp tục đi và sau cùng anh tới một dòng sông, anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa thì tình cờ xuất hiện một cô gái xinh đẹp, cô gái đẹp tới độ làm người thanh niên không còn thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng nghĩ đến mang nước về cho Chúa nữa.
Anh lân la đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh nhiều con cái, không gì hạnh phúc cho bằng… Thế rồi chuyện không may xảy ra, một cơn ôn dịch xảy tới, người thanh niên đưa vợ con đi nơi khác. Khi đi qua một chiếc cầu thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên,cuốn cả vợ con anh. Còn anh thì may mắn bám được vào một gốc cây. Anh khóc thương cho số phận vợ con cũng như kiếp cô đơn của mình.
Giữa lúc đó Chúa lại xuất hiện trước mặt anh. Ngài ôn tồn hỏi:
– Này con, con có mang nước về cho ta không? Con làm gì để Ta chờ đợi cả tiếng đồng hồ vậy!
Chắc hẳn ai ai cũng thầm trách người thanh niên đểnh đoảng đến thế. Nhưng xét cho kỹ thì đó là sự mê hoặc thường tình của con người. Cũng như khi đọc lại những trang đầu của bộ sách Kinh Thánh, khi nguyên tổ đồng hành với Thiên Chúa trong ân sủng, lại bị sai sót rơi vào lời dụ dỗ của ma quỉ, để rồi loài người bị gián đoạn nhiều ngàn năm chờ đợi vị cứu tinh. Hôm nay Phúc Âm tỏ cho chúng ta thấy việc Chúa lại bắt đầu cuộc sống thân tình với loài người.
Hôm ấy Thánh Gioan Tẩy Giả cùng với hai môn đệ đang đứng bên bờ sông.Trông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa Hai môn đệ nghe nói, liền xin phép Thầy để theo Chúa. Có lẽ hai môn đệ này đã được nghe nói về Chúa Giêsu nhiều và đã hỏi ý Thầy trước nên mới vội vã xin theo Ngài.
Nghe bài Tin Mừng trên chúng ta lại thèm khát cho số phận “sinh sau đẻ muộn” của mình vì không được tốt số sống đồng thời với Chúa Giêsu để rồi theo sát khít bước chân của Ngài, sống chết với Ngài như các Thánh Tông Đồ năm xưa. Nhưng giả sử tất cả chúng ta có được sống chung với Ngài, theo bước chân Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi. Giả thiết này cũng chỉ giải quyết được những thanh niên, còn các phụ nữ ngày xưa đâu có ở luôn bên Chúa và những người bệnh tật, trẻ con, già cả làm sao mà ở với Chúa được. Thế nên Chúa chỉ chọn 12 Tông Đồ mà thôi. Và để trả lời đáp án này, Chúa Giêsu nói với chị người Samaritana bên bờ giếng Giacóp rằng: “Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật”.
Như chúng ta đã biết:”Chúa ở khắp mọi nơi”. Đó là giáo lý sơ đẳng cho mọi tín hữu. Và trong thời đại này Lời Chúa đã được lan tràn khắp thế giới. Hơn nữa ta có thể thấy Ngài hiện diện trong mọi tạo vật.
“Mắt và cánh của một con bướm đủ để đánh đổ một nhà vô thần” (Diderot).
Chẳng hạn chúng ta yêu thích người bạn trăm năm của mình không những vì dáng vẻ bên ngoài, vì con tim nồng ấm, mà còn vì Thiên Chúa ở trong hữu thể của họ. Thiên Chúa ngự trị giữa gia đình nơi từng người con trai cũng như con gái. Nhờ đó chúng ta sẽ phấn khởi phục vụ và dẫn đưa cả gia đình về miền đất hứa vĩnh cửu.
Sứ mệnh con người không phải là kiếm cho được nhiều tiền, cũng không phải là tìm kiếm một ước vọng sa xôi hão huyền. Sứ mệnh con người là nhận biết Thiên Chúa để yêu mến và phụng sự Ngài. Người tu trì thể hiện tình yêu Chúa nơi cộng đoàn tu trì hoặc cộng đoàn dân Chúa. Còn giáo dân thể hiện tình yêu Chúa nơi mái ấm gia dình. Tất cả mọi trái tim làm nên khối tình yêu vĩ đại dâng lên Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống.
Thật sự đời sống của con người chỉ có ý nghĩa khi nhìn thấy bước chân của Ngài ở khắp mọi nẻo đường trong cuộc sống. Ngài ẩn mình trong muôn ngàn hoa sắc thắm, trong giòng suối mát dù ở tận rừng sâu thẳm, trong bầu trời lấp lánh của các vì sao, trong trái tim của nhân loại nơi người em thơ cũng như người già yếu v.v.
Mỗi người sẽ hoàn thành công việc bước theo chân Ngài trong trách vụ được trao phó để rồi đời sống mai hậu sẽ được phần thưởng nhiều hay ít là tùy ở sự đáp yêu của từng người.
Để bước theo chân Chúa Giêsu cách mau lẹ, chúng ta hãy nhìn lên gương mẫu tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ đã đồng hành với Chúa Giêsu từ lúc thưa lời xin vâng đầu tiên trong ngày truyền tin cho đến lời xin vâng cuối cùng trên thập giá. Vì thế Đức Mẹ được ban tặng mọi danh hiệu nhân đức cao cả.
59. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
CÁCH THỨC THIÊN CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI
Bài Sách Thánh trích từ Sách Sa-mu-en thuộc phần Cựu Ước và bài Phúc Âm theo thánh Gioan của Chúa Nhật thứ 2 Mùa Thường Niên hôm nay có một tương quan hết sức mật thiết. Bài Sách Thánh trình bày câu chuyện cậu học trò Sa-mu-en được Chúa kêu gọi làm Tiên Tri, còn trong bài Phúc Âm thánh sử Gioan tường thuật lại ơn kêu gọi hai môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, mà một trong hai người môn đệ đó là chính tác giả của bài Phúc Âm.
Điều quan trọng khiến chúng ta không thể bỏ qua được trong hai bài tường thuật về ơn gọi của cậu học trò Sa-mu-en cũng như của các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu là sự can thiệp của một đệ tam nhân, của người làm trung gian. Vâng, trong ơn gọi của Sa-mu-en chính là Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li, người mà cha mẹ Sa-mu-en đã trao phó con trai mình để ngài giáo dục và dẫn dắt cậu trên đường hiến dâng cho Thiên Chúa. Một hôm đang ngủ, Sa-mu-en bỗng nghe như có ai gọi tên cậu và cậu liền chạy lại cùng Thầy Cả Hê-li ngay và thưa: “Này con đây, Thầy đã gọi con!” Thầy Cả Hê-li biết ngay là Thiên Chúa gọi cậu bé nên đã cho cậu về phòng và căn dặn hãy cứ tiếp tục mau mắn và sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi như thế. Vậy, Thầy Cả Hê-li đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thầy Cả đã dầy công dạy dỗ và dìu dắt Sa-mu-en trở thành ngoan ngoãn thuần thục, để chuẩn bị sẵn sàng cho sứ mệnh từ Trời Cao giao phó. Nay thời giờ cho sứ mệnh đó đã điểm, một Đấng Cao Cả hơn muốn đòi lại cậu bé Sa-mu-en và Thầy Cả Thượng Phẩm Hê-li đã dâng hoàn trả lại cậu bé cho Đấng Cao Cả đó.
Còn trong bài tường thuật của Phúc Âm, Gioan Tiền Hô cũng đã cảm nghiệm được rằng sứ mệnh huấn luyện đoàn môn đệ đang luôn vây quanh ngài đã đến lúc hoàn tất. Một Đấng khác cao cả hơn ngài đã đến và cũng chỉ vì Đấng đó mà ngài đã huấn luyện đoàn môn đệ kia bấy lâu. Nay đã đến lúc ngài phải trao trả lại các môn đệ cho Đấng đó. “Kìa là Con Chiên Thiên Chúa”, Gioan Tiền Hô đã chỉ tay về phía Đức Giêsu và giới thiệu cho hai người môn đệ như thế khi ngài thấy Đức Giêsu đang đi ngang qua trước mặt mình. Và hai người môn đệ đã hiểu được ngay lời thầy mình: “Hai người môn đệ nghe ông nói và liền theo Đức Giêsu.”
Qua sự diễn biến về ơn gọi của Sa-mu-en và của hai người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra được đường lối của Nước Thiên Chúa, hay nói cách khác, cách thức hành động của Thiên Chúa. Đó là không một ai được kêu gọi trực tiếp dâng hiến phụng sự Thiên Chúa hay làm môn đệ Đức Giêsu, nhưng đương sự phải nhờ vào đời sống đức tin có ấn tượng mạnh mẽ, gương sống đạo sâu sắc và sự tận tâm giúp đỡ của đệ tam nhân, của đồng loại khác. Dĩ nhiên, sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Giêsu và người môn đệ là một điều hoàn toàn mang tính cách cá nhân. Vâng, tiếng “xin vâng” đáp lại lời kêu mời của Thiên Chúa, tiếng “xin vâng” của đức tin và của lòng tuân phục đối với Thiên Chúa, không một ai có thể làm thay cho người khác được. Đó là ngưỡng cửa mà mỗi người phải tự bước qua với tất cả ý thức trách nhiệm. Thế nhưng, khoảng cách trên đoạn đường tìm về ngưỡng cửa đó, chúng ta cần phải có sự hướng dẫn của bao người khác, những người đã đi trước và đã bước qua ngưỡng cửa đó trước chúng ta, những người đã có đầy đủ kinh nghiệm về Thiên Chúa như Thầy Cả Hê-li; và những người được gửi tới để làm bạn đường hướng dẫn chúng ta, như Gioan Tiền Hô: Cha mẹ, các cha linh hướng, các thầy cô và bạn bè tốt, v.v…
Vâng, Ơn gọi sống đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa ban, và “Thánh Thần hoàn toàn tự do, muốn thổi đâu tuỳ ý”, tuy nhiên ảnh hưởng và sự dìu dắt nâng đỡ của kẻ khác cũng hầu như là một điều kiện tất yếu trong Ơn Gọi vậy. Cũng như, không hẳn là một thửa đất đã được cày bừa thuần thục là sẽ được bác nông dân gieo hạt giống tốt vào đó, nhưng điều kiện để bác nông dân gieo hạt giống của mình vào thửa đất là trước hết thửa đất phải được cày bừa và sửa soạn thuần thục trước đã.
Tiếp đến, Sa-mu-en sẽ không bao giờ quên Thầy mình là Hê-li, hai Tông đồ Gioan và An-rê cũng sẽ không bao giờ quên sư phụ đầu tiên của các ngài là Gioan Tiền Hô. Cũng vậy, chúng ta không bao giờ được phép quên ơn những người đã dạy dỗ, đã giúp đỡ chúng ta trong việc nhận biết Thiên Chúa, biết khám phá ra và đầy tin yêu đáp lại tiếng Người mời gọi chúng ta, dù cho đã xảy ra trong tuổi thơ qua đường lối vâng lời đơn sơ như trường hợp cậu bé Sa-mu-en, hay qua những thăm dò và tìm hiểu dè dặt của các thanh thiếu niên trưởng thành như trong trường hợp của các môn đệ Gioan Tiền Hô. Mỗi người hành động tương tự theo lứa tuổi và cách thức của mình như thế đều đúng và đều quan trọng. Tuy nhiên, trường hợp thứ hai cần phải nối tiếp, đổi mới và đào sâu trường hợp thứ nhất, nói cách khác, sau khi tìm hiểu Ơn Gọi của mình, con người còn phải biết đơn sơ phó thác đáp lại tiếng Chúa, biết đơn sơ tin tưởng vâng theo Thánh Linh Chúa hướng dẫn. Bởi vậy, bạn đừng coi thường đức tin đơn sơ của tuổi thơ, nhưng bạn cũng đừng ngạc nhiên khi một ngày nào đó đức tin đơn sơ của tuổi thơ được thay thế bằng đức tin có ý thức và đầy thâm tín của người trưởng thành. Cả hai giai đoạn đều cần thiết và đều bổ túc cho nhau.
Vâng, nếu ngày nay bạn là một người trưởng thành với đời sống đức tin sống động, là do đức tin đó đã ăn rễ sâu trong con người bạn từ tuổi thơ rồi. Nhưng cả hai giai đoạn đó của đức tin – trong tuổi thơ và tuổi trưởng thành – đều cần đến sự nâng đỡ và hướng dẫn của kẻ có kinh nghiệm trong vấn đề.
Dĩ nhiên mỗi giai đoạn mỗi khác. Cách thức hướng dẫn của thầy cô ở nhà trường, của các giáo lý viên hay của cha xứ ở các lớp giáo lý khác với sự chỉ dạy của cha mẹ ở nhà khi các ngài lần đầu tiên dạy cho bạn biết kêu tên Chúa hay dạy cho bạn cách giơ tay làm Dấu Thánh Giá, v.v.. Cũng vậy, cách thức hướng dẫn của Thầy Cả Hê-li đối với bé Sa-mu-en không giống thái độ của Gioan Tiền Hô đối với hai môn đệ trưởng thành của ông. Thầy Cả Hê-li dạy bé Sa-mu-en: Con hãy làm như thế này. Còn Gioan Tiền Hô lại sử dụng một phương pháp khác: Ông chỉ giới thiệu và cho các môn đệ thông tin về Đức Giêsu: “Kià là con Chiên Thiên Chúa”.
Cả hai trường hợp, Thầy Cả Hê-li và Gioan Tiền Hô đều nhằm cùng một mục đích: Trao trả những người được giao phó cho mình lại cho Đấng Cao Cả hơn, vì sứ mệnh của các ngài là sống và hướng dẫn dạy dỗ kẻ khác cho Đấng đó mà thôi.
Đàng khác, qua thái độ sống gương mẫu và cách thức thực thi tốt sứ mệnh được giao phó cho mình của Hê-li và của Gioan Tiền Hô, chúng ta cảm nhận được rằng thật không gì đẹp đẽ và cao quí hơn là được hướng dẫn và giúp đỡ kẻ khác trên con đường dẫn tới Đức Kitô. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải học nơi các ngài là khi nào phải biết can đảm chấm dứt sứ mệnh đã nhận lãnh, khi nào phải rút lui khỏi chức vụ và nhiệm sở đã được trao phó, để nhường lại cho người kế vị và nhất là trao trả lại cho Thiên Chúa. Không phải tất cả các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các vị Linh mục, v.v… đã xử sự như Thầy Cả Hê-li và như Gioan Tiền Hô. Nhưng, hoặc họ quá dính bén một cách trần tục vào chức vụ thiêng liêng, hoặc họ chỉ muốn các thụ nhân của họ phải luôn lệ thuộc và phải luôn nhờ đến sự chăm sóc giúp đỡ của họ.
Họ quên rằng một chương trình giáo dục chỉ được coi là thành công khi người thụ nhân trưởng thành, tự có thể tìm ra cho mình một hướng đi riêng độc lập và không còn cần đến sự hướng dẫn của nhà giáo dục nữa. Cũng vì thế, khi người thanh niên tự chọn cho mình một con đường sống khác với sự dự định và lòng mong muốn của chúng ta – là cha mẹ, cha linh hướng và các nhà giáo dục – thì chúng ta phải tôn trọng sự tự do đó.
Mỗi người đều được tự do thờ phượng Chúa theo cách thức của mình. Mỗi người đều được tự do chọn lựa cho mình con đường tìm đạt hạnh phúc. Chúng ta phải tôn trọng sự lựa chọn đó, cả khi chúng ta tin chắc rằng sự lựa chọn đó hoàn toàn khác với sự hướng dẫn chính đáng của chúng ta và sẽ không dẫn tới Thiên Chúa, thì điều chúng ta vẫn cần phải làm là hãy tôn trọng sự tự do đó. Vì không ai được phép ép buộc người khác phải chạy đến cùng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng không ép buộc bất cứ ai phải đến với Người. Nếu không, mọi sự sẽ đưa tới một hậu quả tồi tệ hơn.
Quả vậy, chúng ta hãy quan sát xem chính Đức Giêsu đã tôn trọng sự tự do của hai người thanh niên là Gioan và Anrê đang tìm đến với Người một cách nhã nhặn như thế nào: “Các anh muốn tôi giúp được gì cho các anh đây?” Người hoàn toàn để hai chàng thanh niên được tự do trình bày ý nguyện của họ: “Thưa Thầy, nhà Thầy ở đâu?”, nghĩa là họ muốn nói: Trước hết chúng tôi chỉ muốn có những thông tin chắc chắn về Thầy đã! Đối lại, Đức Giêsu cũng chỉ cho tin một cách hết sức khách quan, chứ không khuyến dụ hay lôi kéo hai anh: “Các anh hãy tới xem cho biết”, và “họ đã đi với Người và đã nhìn thấy nhà người đang ở, và họ đã ở lại đó với Người cho hết ngày hôm đó”. Sau rất nhiều năm, vị thánh sử và đồng thời cũng là người môn đệ còn ghi rõ: “Đó là vào giờ thứ mười”. Chính đó là giờ mà lần đầu tiên trong đời anh đã bước qua ngưỡng cửa nhà Đức Giêsu và đã được làm quen với Người. Điều đó nói lên rằng suốt đời anh sẽ không bao giờ quên những giờ phút hạnh phúc được sống với Đức Giêsu.
Sau cùng, để có thể cảm nghiệm được cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã nung nấu, động viên và thay đổi được con người của hai chàng thanh niên đó như thế nào, chúng ta hãy nhìn vào thành quả của buổi gặp gỡ: Chỉ mấy ngày sau đó, An-rê đã tìm gặp em mình là Simon và dẫn chàng đến gặp Đức Giêsu. Qua sự kiện đó, đường lối căn bản cố hữu của Thiên Chúa lại được sử dụng ở đây, là người này hướng dẫn người kia tới cùng Người, kẻ này giúp đỡ kẻ nọ tìm gặp được Người, và cứ thế mãi! Vậy để thử nghiệm xem đức tin của chúng ta có còn sống động hay không và liệu chính chúng ta đã bước qua ngưỡng cửa để vào nhà Đức Giêsu hay chưa, chúng ta hãy tự hỏi lòng mình là chúng ta đã nỗ lực thực thi đường lối cơ bản của Nước Thiên Chúa, tức đưa dẫn người khác đến cùng Đức Giêsu hay không!
60. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
HÃY ĐẾN, XEM VÀ Ở LẠI CÙNG NGƯỜI
Norman Vincent Peale là tác giả nổi tiếng viết khá nhiều sách trong đó có best-seller “The Power of Positive Thinking”. Một ngày kia, đang dạo phố ở Hồng Kông, Peale tình cờ đi ngang qua một tiệm xâm hình. Trên khung cửa kiếng trưng bày đủ loại đủ kiểu xâm nhưng có một hàng chữ đập mạnh vào mắt Peale: “Born to Lose”. Không nén nỗi tò mò, Peale đẩy cửa buớc vào, chỉ vào hàng chữ trên rồi nói: “That one!”
Người thợ xâm không nói không rằng chỉ lẳng lặng ra hiệu cởi áo ngoài ra thì Peale liền xua tay: “Không! Tôi không có ý xâm đâu nhưng chỉ muốn hỏi là đã có ai vào xâm hàng chữ ‘Born to Lose’ kia chưa?” “Cũng có vài người.” “Ông không đùa đấy chứ?” Peale trố mắt kinh ngạc. Bằng một giọng lơ lớ tiếng Anh, người thợ xâm bình thản trả lời: “Before tattoo on chest, tattoo on mind.” (Truớc khi xâm trên ngực, [họ] đã xâm trong đầu rồi)…
Peale choáng váng mặt mày như không tin vào tai mình nữa. Sao ai lại vào đây và xâm trên da thịt mình những chữ rất tiêu cực kia? Oái ăm thay! Điều gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời này!!!
Thực thế, linh mục tâm lý gia dòng Tên John Powell đã viết là có những người không bao giờ tin tưởng vào khả năng mình. Giả như có ai nhờ điều gì hoặc cậy việc chi, họ điều tìm đủ mọi cách từ chối thoái thác. Có thể một phần vì ngại ngùng, nhưng cũng có thể phần lớn của sự ngại ngùng kia là họ không tin chính vào sức mình.
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ ‘đến và xem’ chỗ Người ở, họ đã đến. Đã xem. Và họ quyết định ‘ở lại’ cùng Người. Họ ở lại vì chẳng những họ tin Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa mà là Chiên Thiên Chúa sẽ làm những việc kỳ diệu của Người qua chính họ.
Họ ở lại. Không một chút đắn đo! Cũng chẳng một phút ngại ngùng! Chúng ta cũng thế. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đuợc mời đến và xem và dẫu cho muôn ngàn khó khăn chông gai đang chờ đón, chính chúng ta quyết định ở lại và cùng Người tiến buớc gieo Tin Mừng Cứu Rỗi.
Không phải dễ dàng đâu nếu không xâm trong óc trong tim một lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Và vào chính mình. Đuờng theo chân Chúa chỉ có thể cho những người tay áo luôn xắn cao sẵn sàng đối đầu với những hiểm nguy và thử thách thế trần.
Khi Thiên Chúa luôn là trọng tâm của cuộc đời, chúng ta sống vũng tin hơn vào chính mình vì thân xác mình, như lời thánh Phaolô, chính là “đền thờ Thánh Thần Chúa”. Và đền thờ này không phải đuợc giản đơn định giá qua lăng kính ‘ngoại hình cân đối’ mà là một tinh thần tuyệt đối trung kiên.
“Đuờng đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông!” Đã bước sang tuần thứ hai của năm mới, nhưng cũng chưa muộn lắm đâu khi chúng ta cầu chúc cho nhau đuợc thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Và hãy mạnh dạn xâm niềm tin ấy vào máu vào tim. Như Samuen và các tiên tri xưa kia. Như các thánh tông đồ hai ngàn năm truớc. Họ đã đến. Đã xem. Và đã trung kiên ỡ lại cùng Người…
61. Đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Nhìn thấy Đức Giêsu đi qua, ông Gioan tiền hô liền giới thiệu hai môn đệ của mình cho Chúa: Đây là Chiên Thiên Chúa (Ga 1:36). Một trong hai môn đệ đi theo Chúa thì Phúc âm hôm nay nêu danh tính là Anrê, còn ông kia được giấu tên. Tuy nhiên học giả Thánh kinh đoán là ông Gioan tông đồ vì ông có khuynh hướng hay giấu tên mình. Hai trường hợp khác ông cũng giấu tên là khi ông viết: Người môn đệ mà Chúa yêu (Ga 13:23; Ga 19:26-27; Ga 20:2) và ông còn tường thuật về: Người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước (Ga 20:4).
Hai môn đệ của ông Gioan tiền hô chấp nhận lời mời gọi của Chúa: Hãy đến mà xem (Ga 1:39). Họ đến xem nơi Chúa ở và quyết định ở lại với Người và đi theo Người. Gioan tiền hô không đặt vấn nạn về việc hai môn đệ đào ngũ đi theo Chúa, vì ông chủ trương Đấng cứu thế phải được tỏ hiện, còn ông phải rút lui vào bóng tối (Ga 3:30). Hành động đầu tiên của Anrê khi tìm thấy nơi Chúa ở là đi tìm anh mình là ông Simon để giới thiệu với Chúa. Khi Simon đến gặp Chúa, Chúa liền đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Chúa đặt cho ông tên này vì Chúa biết trước Người sẽ đặt ông làm đầu Giáo hội. Ông sẽ trở nên như tảng đá vững chắc cho toà nhà Giáo hội của Chúa.
Các ông đi theo Chúa, chắc chắn trăm phần trăm không phải vì Chúa ở nhà cao cửa rộng. Trong đời sống ẩn dật, Chúa ở tại nhà Nadarét. Còn trong đời sống công khai, Phúc âm chỉ nhắc Chúa ở lại nhà ông Dakêu (Lc 19:5) và có những lần ở nhà ba chị em Mác-ta, Maria và Ladarô (Lc 10:38; Ga 12:2). Những trường hợp khác ta có thể đoán khá chắc chắn rằng Chúa sống kiểu bụi đời: nay đây mai đó, có thể tá túc ở túp lều vải lưu động để che mưa nắng, đi thì gấp vào rồi mang theo. Lối sống vô gia cư này được Chúa xác nhận khi có người trong Phúc âm muốn đi theo Chúa, thì Chúa bảo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8:20; Lc 9:58). Theo Chúa trong trường hợp và hoàn cảnh như vậy phải kể là mạo hiểm, nếu chưa nói là liều lĩnh vì nước Trời. Bài trích sách Sa-mu-en quyển một cho thấy câu chuyện Chúa gọi Samuen để thi hành sứ mệnh lãnh đạo dân Chúa và làm ngôn sứ. Samuen trả lời sẵn sàng: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe (1Sm 3:10).
Nói đến ơn gọi nhiều người nghĩ rằng chỉ có linh mục và tu sĩ nam nữ mới được ơn Chúa gọi làm việc tông đồ truyền giáo. Thực ra mỗi người tín hữu đều có ơn gọi. Nói chung có ba thứ ơn gọi khác nhau: ơn gọi làm linh mục tu sĩ nam nữ, ơn gọi sống đời hôn nhân, ơn gọi sống độc thân giữa đời. Người giáo dân sống độc thân hay có gia đình qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều được gọi để làm việc tông đồ giáo dân bằng lời cầu nguyện, gương sáng, bằng việc bác ái phục vụ theo khả năng và phương tiện có thể.
Theo thánh Phaolô thì trong Giáo hội có những ơn gọi, những chức vụ và vai trò khác nhau khả dĩ để xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô (1 Cr 12:12-34). Công đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, kêu gọi người giáo dân làm việc tông đồ nơi gia đình, trong xã hội, trên bình diện quốc gia và quốc tế qua việc tông đồ cá nhân, việc tông đồ tập thể. Công Đồng ghi nhận: Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hoá. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa (TĐGD # 6).
Như vậy có ơn gọi nọ giá trị và cao qui hơn ơn gọi kia chăng? Cổ nhân thường nói: Tu là cõi phúc, tình là giây oan. Tuy nhiên tu mà không trọn kiếp thì cũng không hẳn là có hạnh phúc. Điều quan trọng là mỗi người sống ơn gọi của mình, tìm cách phát triển và hoàn thành ơn gọi. Trong một vở kịch mà tài tử chính diễn dở thì làm cho vở kịch kém giá trị. Trái lại người đóng vai phụ mà diễn hay, thì cũng được khen thưởng.
Sống ơn gọi là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Ngày chịu chức linh mục không phải là dừng bước làm linh mục. Ngày chịu chức linh mục mới chỉ là bước khởi đầu cho đời sống linh mục. Đời sống hôn nhân cũng vậy. Hôn nhân không dừng lại trong ngày đám cưới, trong tuần trăng mật. Tình yêu và đời sống hôn nhân phải được nuôi dưỡng và phát triển từ ngày này qua ngày khác, từ năm nọ qua năm kia. Ơn gọi làm người Kitô hữu cũng không dừng lại khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy hay Bí tích Thêm sức. Chứng chỉ rửa tội không phải là giấy thông hành để vào nước Trời, nếu người ta không sống và thực hành lời Chúa và không giữ giới răn Chúa. Mỗi người tín hữu cần tiếp tục học hỏi về đạo giáo và đường lối Phúc âm hầu làm tăng triển mối liên hệ với Chúa, sống đức tin và làm đổi mới đức tin.
Đó là tíến trình của việc làm môn đệ. Mỗi người Kitô hữu đã chịu Phép Thanh tẩy gồm cả linh mục, nam nữ tu sĩ đều được gọi để làm môn đệ Chúa. Việc người tín hữu đáp lại tíếng Chúa mời gọi không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta làm mới lại việc đáp trả. Còn việc chấp nhận hay không là tùy thuộc vào mỗi người. Bản tính loài người là yếu đuối, nhưng khi Chúa mời gọi ta làm việc nọ chuyện kia, Người ban đủ ơn để ta thi hành công việc.
Lời Chúa mời gọi không phải là tiếng gọi một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả và cộng tác với ơn Chúa. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn và cộng tác của mỗi người.
Lời cầu nguyện: xin cho được đáp trả và sống ơn gọi mỗi ngày: Lậy Chúa! Chuá hằng kêu gọi mỗi người đến những vai trò và phận vụ khác nhauđể phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Xin cho những người đứng giữa ngã ba đường không biết phải theo đường nào được nhận ra đường Chúa muốn họ đi để họ có thể đáp trả và theo đuổi. Và xin ban ơn để con hoàn thành ơn gọi. Amen.
62. Môn đệ Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Bênađô Nguyễn Tiến Huân)
Ngay ngày hôm sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Ga 1,35) Chúa Giêsu bắt đầu tuyển chọn những môn đệ đầu tiên như chúng ta đọc trong bài Phúc Âm hôm nay. Đang đứng với hai môn đệ mình, Gioan thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì nói với họ: “Đó là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ ấy là Anrê, người khác nữa thì thánh Gioan không nói nhưng dựa theo Nhất Lãm (Mt 4,18; Lc 5,10-11; Mc 1,16 và Ga 1,42), chúng ta biết môn đệ đó là Simon (Phêrô) đã bỏ Gioan Tiền Hô mà đi theo Chúa (Ga 1,37). Gioan không ngăn cản cũng không hỏi tại sao lại bỏ đi. Điều đó chứng tỏ Gioan rất bằng lòng và còn muốn cho các môn đệ mình đi theo Chúa Giêsu. Đúng như cương vị của một tiền hô, Gioan muốn giới thiệu cho mọi người tìm tới Chúa Giêsu chứ không giữ họ lại cho mình như người đã nói: “Ngài cần phải được lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ bé đi” (Ga 3,30). Khi ở trong ngục Gioan vẫn sai các môn đệ đến để được Chúa Giêsu dạy dỗ. Và Chúa đã khen Gioan là người lớn nhất trong Cựu Ước (Mt 11,2-11).
Lời Gioan giới thiệu Chúa Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Đó là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu trong vai trò tế lễ và đền tội như tiên tri Isaia đã báo trước về Ngài rằng: “Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng và không mở miệng như con chiên bị đem đi giết” (Is 53,7). Khi đi theo Chúa Giêsu các môn đệ này chỉ hỏi Ngài một câu rằng: “Thầy ở đâu?” (Ga 1,3-8). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà chỉ nói: “Hãy đến mà xem”. Họ đã tới và ở lại với Ngài luôn (Ga 1,39).
Để làm môn đệ Chúa, tất cả mười hai vị cũng đã bỏ hết mọi sự kể cả cha, mẹ, vợ con và tức khắc đi theo Chúa, để Chúa ở đâu, đi đâu, thì cũng ở đó, đi đó: “Có sướng cùng hưởng có họa cùng chịu”. Đó chính là tinh thần của kẻ theo Chúa và cũng là điều kiện Chúa đòi buộc: “Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình vác Thánh giá mà theo Ta” (Mc 8,34). “Kẻ nào đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ Ta” (Lc 14,26). Có họa cùng chịu nhưng cũng sẽ có sung sướng cùng hưởng: “Phàm ai bỏ cha mẹ vợ con ruộng vườn vì Ta thì sẽ lại được gấp trăm” (Mt 19,29). Và “khi con người được vinh hiển thì sẽ được ngồi trên mười hai ngai vinh hiển mà xét xử 12 chi tộc Israel” (Mt 19,28). Muốn theo Chúa mỗi người chúng ta cũng phải làm như vậy mà tất cả mọi người chúng ta đều là môn đệ Chúa đã chọn để chu toàn những sứ mệnh riêng trong đấng bậc của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con sẽ nhìn lại sứ mạng làm tông đồ Chúa đã trao phó cho con và quyết thực hiện những điều kiện Chúa đòi hỏi.
63. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Con người là một hữu thể luôn khao khát hạnh phúc. Là con người bất toàn nhưng luôn hướng về Đấng vĩnh cửu. Hai môn đệ của Gioan đang khát khao Đấng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ đã gặp được Đấng vĩnh cửu là Đức Kitô và đã sống hoàn toàn cho Ngài.
Anrê và Gioan đi tìm và gặp được Đức Kitô. Cuộc sống có những điều thú vị của nó nhưng nó không làm Anrê và Gioan thoả mãn. Lòng hai ông luôn mang trong mình niềm khát khao một điều cao quý hơn, khát khao điều gì đó tốt đẹp hơn, khát khao một điều gì đó bền vững hơn. Điều này thúc bách hai ông luôn ấp ủ một cuộc đổi đời, nó thôi thúc hai ông không dậm chân tại chỗ mà luôn “thao thức tìm kiếm” Đấng vĩnh cửu hạnh phúc. Sống trong tâm trạng đó nên khi nghe Thầy Gioan giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa” thì hai ông đã tức khắc đi theo Đức Giêsu. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Hai ông không muốn bỏ lỡ cơ hội này. Hai ông mạnh dạn bước tới “Chiên Thiên Chúa”. Hai ông không chần chừ, không tra hỏi Thầy điều gì thêm nữa, cũng không cần phải tính toán, không cần phải suy nghĩ thêm. Hai ông đã nhanh chóng và mạnh dạn đến với Đấng mà Thầy mình giới thiệu. Hai ông đã gặp được Đức Kitô.
Phần mình, Chúa Giêsu trả lời: “hãy đến mà xem”. Ngài không giới thiệu địa chỉ, nơi chốn nhưng Ngài nói: “hãy đến mà xem”. “Hãy đến mà xem” là lời mời gọi bước đi. Chúng ta là môn đệ nên hãy bỏ lại chỗ cũ, hãy bỏ lại con người cũ, hãy mặc lấy con người mới. Chúng ta hãy đến với Ngài bằng con người mới, đi trên hành trình mới, hành trình của sự từ bỏ, hy sinh và yêu thương. Chúng ta hãy đến mà xem tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ cho con người nơi Chúa Giêsu Kitô. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa tình thương: “Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy”. Khi gặp gỡ và “lưu lại” với Ngài, chúng ta học biết được kinh nghiệm về một tình yêu, tình yêu vĩnh cửu, về hạnh phúc trường tồn. Thật đúng như vậy hai ông Anrê và Gioan đã kinh nghiệm được điều ấy nên đã lưu lại với Chúa, lưu lại trong tình yêu của Ngài. Tình yêu làm cho hai ông trở nên gần gũi với Thầy và sự gần gũi làm gia tăng tình yêu. Hai ông đã đến với Chúa Giêsu, họ đã “lưu lại với Người”, nhờ đó hai ông đã nhận ra Người là “Đấng Kitô”. Như thế, có thể nói, nếu chúng ta có thao thức, chúng ta ước muốn tìm hạnh phúc là điều kiện đầu tiên tuy nhiên chúng ta cần phải bước đi. Chúng ta hãy bước đi bằng cách chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh, từ bỏ những gì là cũ, từ bỏ những gì không phù hợp, nó đang gây cản trở cho hành trình ta gặp Chúa. Chúng ta phải hết lòng cộng tác với ơn Chúa, bước đi trong đường lối và giới răn của Thiên Chúa thì ta mới đạt kết quả tốt đẹp như Đấng đang thúc bách mời gọi. Nói một cách khác, hành trình đón nhận đức tin của chúng ta là sẵn lòng đón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa và nỗ lực đáp trả tức khắc và liên lĩ lời mời gọi sống cho Đức Kitô.
Gặp gỡ được Đức Kitô, chúng ta sẽ có cơ hội đối thoại với Ngài. Chúng ta có chân thành mở rộng cõi lòng, chúng ta có thiện chí đáp trả thì chúng ta sẽ được nghe Ngài ngỏ lời, chỉ dạy giống như Anrê và Gioan đã được đối thoại với Chúa. Các ông đã nghe Chúa Giêsu hỏi: “các anh đi tìm gì?”. “Các anh đi tìm gì?”, đây quả thật là câu hỏi không tầm thường, một câu hỏi cho hai ông mà cũng là câu hỏi chất vấn đặt lại vấn đề cho những ai theo Chúa, cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài. Câu hỏi như một tiếng thức tỉnh lại tâm hồn mình, thức tỉnh cho những ai đang khao khát, thức tỉnh ý muốn của mọi người. Do đó, câu trả lời không phải bằng trí tuệ mà là bằng con tim, câu trả lời bằng tất cả tấm lòng yêu mến, yêu mến vào chính Đấng khơi nguồn khao khát. Đấng ấy chính là niềm hạnh phúc thật sự và vững bền mãi mãi. Vì thế hai ông trả lời bằng một câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu trả lời đơn sơ nhưng ẩn chứa tấm lòng khao khát gặp Chúa, mến yêu Ngài hết lòng, biểu lộ lòng trìu mến muốn gắn bó với Ngài, muốn dấn bước theo Ngài và muốn chia sẻ cuộc sống với Ngài.
Gặp gỡ được Đức Kitô thật là thú vị! Chúa Giêsu Kitô gặp gỡ các ông và đã biến đổi các ông. Chính Đấng Messia đã chiếm được cảm tình, giúp các ông xác tín đức tin và củng cố niềm hy vọng cho các ông. Kể từ đây, các ông sẽ ở lại với Ngài, sẽ cùng sống, cùng bước theo Ngài và trở nên giống Ngài. Chính tình yêu và niềm tin vào Chúa Giêsu hướng người môn đệ sống và làm cho cuộc đời mình mang ý nghĩa mới.
Khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho Phêrô. Anrê đã giới thiệu với Phêrô: ” chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Không dừng lại ở đó, Anrê đã dẫn Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê đã sung sướng gặp được Chúa, ông đã khám phá ra Chúa Giêsu chính là Đấng Messia mà ông mong chờ, Đấng mà muôn dân trông đợi và các tiên tri đã loan báo. Chắc chắn Anrê sẽ ở lại với Ngài nhiều hơn nữa, lâu hơn nữa để thêm tìm hiểu và khám phá mới nơi Đấng Messia nay. Nhưng giờ đây Anrê cùng chia sẻ, cùng khám với với Phêrô. Niềm vui và lòng mến của ông sẽ được củng cố, tăng thêm và càng lớn lên hơn nữa.
Là Kitô hữu, chúng ta đã gặp Chúa. Chúng ta đã gặp Ngài nơi tha nhân, nơi các biến cố trong cuộc sống. Chúng ta đã gặp Ngài nơi Thánh Lễ và các Bí tích, nơi kinh nguyện và các việc đạo đức. Đặc biệt chúng ta đã gặp gỡ một Thiên Chúa tình thương từ trời cao đến với chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu Kitô muốn đối thoại, đồng hành, chia sẻ cuộc sống dương thế với chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta ở lại với Ngài và Ngài giúp chúng ta thêm yêu mến và bền lòng bước theo Ngài, đi về cõi hạnh phúc thật, cõi hạnh phúc đời đời trong vương quốc tình yêu của Ngài. Ngài là tình yêu. Chúng ta như đang rơi vào biển tình yêu bao la của Ngài.Tình yêu giúp ta hướng gặp gỡ Ngài và củng cố tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Tình yêu Chúa Giêsu Kitô giúp chúng ta loại bỏ ích kỷ và thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu cho tha nhân, sẵn sàng dấn thân cho tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Khi được chất vấn về đức tin, chúng ta không do dự mà mạnh dạn chia sẻ đức tin của mình cho người khác. Chúng ta hãy bắt chước Thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô, Gioan Tẩy Giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình và Anrê chia sẻ đức tin vào Chúa Giêsu với Phêrô…Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Khi xưa Chúa Giêsu đã mời hai môn đệ: “Hãy đến mà xem”, thì hôm nay Ngài cũng mời gọi chúng ta không chỉ “đến mà xem” và còn “ở lại với Người” để trở nên môn đệ của Người, và để người ban cho dồi dào ơn phúc cho.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khát khao Chúa, muốn đi theo Chúa để làm môn đệ, để làm chứng nhân cho Chúa. Bởi vì Chúa chính là lẽ sống, là hạnh phúc và niềm hy vọng của chúng con. Amen.
64. Đến và ở lại – Anmai, CSsR
Thử hỏi ai trong chúng ta là người không biết yêu? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu được tình yêu là gì.
Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào. Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp 5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.
Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.
Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau, chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao vậy? Vô duyên quá chăng? Không! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi được ở gần nhau, ở bên nhau.
Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa trẻ xem, nó tin ai nhất? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng?
Hai anh chị cũng thế! Dù không nói ra, dù không cân – đo – đong – đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu. Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu móp méo.
Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang và Gioan giới thiệu ngay: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Sau khi nghe giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao đi ngay? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.
Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu được.
Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa được nghe.
Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe”. Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như chúng ta nghe: “Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. (1 Sm 3, 19)
Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông. Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.
Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy buồn cười lắm! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ lắng đọng để nghe không?
Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.
Những thú vui của danh vọng, địa vị, vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.
Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa, chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ của ông Gioan và Samuel.
Vâng! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.
65. Chiến dịch Anrê
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Chúng ta hãy nên bắt chước Anrê chia sẻ với người khác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu”
Cách đây mấy năm, có một ông lão được nhận vào bệnh viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá hỏi ông lão vài câu hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy tờ thủ tục nhập bệnh viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông quí chuộng hơn cả là tôn giáo nào?”. Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng trước đây chưa có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy”.
Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một vấn đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như sau: Nếu chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta lại không chia sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng vĩ đại nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia sẻ với người khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?
Điều này dẫn chúng ta đến với bài đọc ngày hôm nay. Bài đọc thứ nhất tường thuật việc Samuel chia sẻ niềm tin của mình với chàng Eli. Bài đọc thứ hai thuật lại việc thánh Phaolô chia sẻ đức tin của mình với tín hữu Côrintô. Và bài Phúc Âm trình bày Gioan tẩy giả chia sẻ đức tin với hai môn đệ của mình, và Andrê chia sẻ đức tin với anh em mình là Phêrô.
Chúng ta hãy chú ý vào bài Phúc Âm và đặc biệt vào trường hợp Andrê. Sự kiện thánh Gioan nhắc đến Andrê những ba lần trong Phúc Âm của ngài quả thực mang đầy ý nghĩ. Lần nào Andrê cũng dẫn đến với Chúa Giêsu một người nào đó, lần nào ông cũng chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác, trong bài đọc hôm nay, Andrê dẫn Phêrô, anh mình đến với Chúa Giêsu, mà Ngài đặt làm viên đá để xây dựng Giáo hội Ngài trên đó. Về sau, Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu một em bé có 5 ổ bánh và hai con cá (Ga 6: 8) và Chúa Giêsu đã dùng bánh và cá này để thiết đãi đám đông đang đói một bữa no nê. Sau cùng, chính Andrê lại dẫn đến với Chúa Giêsu vài người Hy Lạp (Ga 12: 20-22), để rồi Chúa Giêsu thừa cơ hội này dạy cho dân chúng những điều trọng đại.
Từ đó, chúng ta trở lại câu hỏi ban đầu; Nếu quả thực chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta lại không muốn chia sẻ kho tàng của chúng ta cho kẻ khác?
Câu trả lời mà chúng ta thừơng nghe là: người khác có thèm chú tâm đến Đức Giêsu đâu: câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi trên là nhiều người nghĩ rằng ông lão kia cũng chả chú tâm gì đến Chúa Giêsu. Có lẽ họ tự nghĩ; “Nếu ông lão chú tâm đến Chúa Giêsu hoặc nếu lão ta muốn trở thành một người Công giáo thì lão ta đã lo liệu được việc đó từ lâu rồi!”
Vài năm trước, một giáo viên trung học ở Chicago đã yêu cầu mỗi học viên trong lớp phỏng vấn ba người về vấn đề cầu nguyện. Các học viên phải đặt cho họ 5 câu hỏi:
– Anh (chị) có cầu nguyện không?
– Anh (chị) cầu nguyện hằng ngày hay chỉ thỉnh thoảng?
– Tai sao anh (chị) cầu nguyện?
– Khi cầu nguyện, anh (chị) cầu nguyện như thế nào?
– Ai đã dạy anh (chị) cầu nguyện?
Cuộc phỏng vấn của các học viên đem lại ba điều ngạc nhiên:
Thứ nhất, các học viên ngạc nhiên vì không ngờ người ta lại sẵn lòng bàn luận đến vấn đề cầu nguyện như thế.
Thứ hai, họ ngạc nhiên khi thấy có nhiều người cầu nguyện hằng ngày.
Và thứ ba, họ ngạc nhiên vì có nhiều bạn bè thân thiết của mình có cầu nguyện, thế mà trước đó họ chưa hề bao giờ bàn luận với nhau vấn đề ấy.
Một sinh viên nói về cuộc phỏng vấn:
“Tôi cứ tưởng các bạn tôi sẽ chế nhạo cuộc phỏng vấn, thế mà hoàn toàn khác hẳn, họ đã kính cẩn trả lời. Một trong các bạn tôi nói rằng anh thực vui mừng khi bàn về một điều thực sự có ý nghĩa như thế.
Một cô gái kết luận: “Điều tôi thu lượm được từ dự án phỏng vấn nói trên chính là:Người ta đã thực sự quan tâm đến vấn đề cầu nguyện”
Tất cả chúng ta đều đã đọc các bài viết trong các tạp chí bàn về cách thức trở nên một người nói chuyện có duyên hơn, hoặc bàn về việc trau dồi nhân cách bằng cách trau dồi nghệ thuật nói chuyện của mình. Các bài ấy luôn luôn nhấn mạnh điều này; Chúng ta nên nói đến những gì thân thiết và quan trọng đối với chúng ta. Thế mà có gì thân thiết và quan trọng hơn là niềm tin vào Chúa Giêsu? Ai còn nghĩ rằng người ta chả quan tâm gì đến những việc này thì nên ghi nhớ cuộc khảo sát của các sinh viên nêu trên. Người ta chẳng những ủng hộ cuộc khảo sát mà còn lấy làm hăng hái tham gia vào đó là khác.
Điều này khiến chúng ta đi đến một điểm quan trọng “chúng ta nên chia sẻ đức tin của chúng ta với kẻ khác”. Bất cứ ai nghĩ rằng điều này không quan trọng thì người ấy nên ghi vào tâm trí câu chuyện về ông lão nói trên. Giả như cô y tá chẳng hỏi ông về vấn đề tôn giáo thì chắc hẳn ông đã qua đời trong tình trạng chưa thực hiện được giấc mơ trở thành một người công giáo.
Và bất cứ ai nghĩ rằng việc chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác là chả quan trọng thì kẻ ấy nên ghi vào tâm trí bài Tin Mừng hôm nay. Giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin với ông anh Phêrô thì có lẽ chẳng bao giờ Phêrô trở nên tảng đá trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội Ngài. Và giả như Andrê đã không chia sẻ đức tin của mình với cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá thì có lẽ đám đông trên đồi sẽ trở về nhà bụng đói meo và Phúc Âm có lẽ đã không có được một trong những câu chuyện hứng khởi nhất của toàn bộ Kinh Thánh rồi!
Để kết luận, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? Nếu chúng ta tin Phúc Âm là Tin Mừng và nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng ta, với bạn bè chúng ta và với những ai mà ta biết đang tìm kiếm một niềm tin? đây là vấn nạn cực kỳ quan trọng mà Tin Mừng hôm nay đặt ra trước mỗi người trong chúng ta. Không ai có thể trả lời dùm chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời lấy, mỗi người tuỳ theo cách thức riêng của mình. Và chúng ta bị bắt buộc phải trả lời câu hỏi ấy. Tha nhân đang chú tâm vào đức tin của chúng ta, và sự chia sẻ đức tin của chúng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khấn nguyện. Xin quí vị yên lặng hiệp ý cùng tôi.
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ đôi bàn tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn, Chúa chỉ biết dùng trái tim chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn; Chúa chỉ nhờ giọng nói chúng con để chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng con. Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con biết rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa”.
66. Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Anh chị em thân mến,
Trong sách Các Vua quyển 2 có kể câu chuyện: Naaman, vị tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, ông là người có tài, có uy tín trước mặt nhà vua; nhưng ông phải khổ sở vì bệnh cùi. Một đầy tớ gái người Israel mà họ bắt được, đang phục dịch cho ông, cô nói: “Phải chi ông chủ gặp được vị tiên tri ở Samaria, vị này chắc sẽ chữa cho ông khỏi bệnh cùi.” Naaman đã xin vua Aram giới thiệu cho mình sang Israel, nhờ vị tiên tri (là Êlisêô) chữa bịnh. Naaman đã ra đi, tin theo lời giới thiệu của đầy tớ gái. Cuối cùng ông cũng đã được lành bệnh (sách Các Vua, q. 2, ch 5).
Hai môn đệ của thánh Gioan Tiền hô, đã tin lời giới thiệu của ông, nên đã đi theo Chúa Giêsu. Kết quả, nhờ lòng tin đó, họ gặp được Đấng Cứu thế và đã trở nên môn đệ của Chúa. Đây chính là đề tài chúng ta suy niệm hôm nay…
a/. Anh chị em thân mến, bài Tin mừng hôm nay có hai điều làm chúng ta suy nghỉ: một là lời giới thiệu của thánh Gioan cho 2 môn đệ mình và thái độ của họ. Hai là mời gọi của Chúa Giêsu “hãy đến mà xem” và thái độ đón nhận của họ:
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ mình: Đây là Chiên Thiên Chúa…Các ông nghe nói liền tin và đi theo Chúa Giêsu:
Trên đời này, người ta ai ai cũng muốn đi tìm cái hơn: muốn giàu có hơn, học giỏi hơn, có vợ có chồng sang hơn…Thật không may, con số nhiều người trên đời, chỉ biết đi tìm vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng thủ đoạn bất chính nữa. Xem ra chỉ có số ít là muốn đi tìm giá trị tinh thần cao cả hơn. Đó chính là các môn đệ của Chúa Giêsu. Hai môn đệ của thánh Gioan trong câu chuyện hôm nay đã cư xử như thế. Họ đã không ngần ngại bỏ thầy mình để đi tìm chân lý. Thái độ bỏ thầy mà theo Chúa Giêsu, có thể đuợc coi như một hành động dứt khoát với quan niệm sai lạc về Đấng Mêsia xưa nay của người Do thái. Chính vì lẻ đó, Chúa quay lại hỏi họ: Các ông tìm gì? Có nghĩa: Tại sao các ông không đi tìm các bậc thầy của Do thái, để học hỏi làm môn đệ? Tại sao và tại sao? Các ông lúc này cũng chưa hiểu Chúa bao nhiêu, nhưng vì tin vào lời giới thiệu của thầy mình là thánh Gioan, nên họ sẵn sàng đến với Chúa.
Chính hai môn đệ này là những người đã tin, nên đã lên đường trước, đến với Chúa Giêsu, nên đáng được Chúa thưởng công lớn lao: là cho họ trở nên những tông đồ tiên khởi.
Chúa nói với hai môn đệ: “Hãy đến mà xem!” Họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó: Chúa Giêsu muốn hai môn đệ đầu tiên có kinh nghiệm về cuộc sống, về Lời giảng dạy của mình, nên đã mời họ đến gặp gở Chúa. Chính các ông đã vui lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa. Phúc âm ghi rõ: “họ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm đó.” Ở lại với Chúa Giêsu, cùng một nhà với Chúa, những câu nói này cũng đồng nghĩa với việc muốn đuợc tham dự vào sự sống, vào nguồn hạnh phúc, muốn chia vui xẻ buồn với Chúa. Thực ra lúc này đây, các ông cũng không hiểu rõ lắm việc mình làm; chỉ có một điều chắc chắn ta không bỏ qua được, đó là chính các ông đã tỏ ra rất tích cực, sẵn sàng cộng tác với Chúa, dù rằng các ông không biết sẽ làm gì và như thế nào. Chắc chắn chính vì điểm này mà Chúa đã chọn các ông như lời Chúa nói: “Tôi sẽ làm cho các anh nên những kẻ lưới người.”
Thánh Augustinô đã nói: ‘Chúa dựng nên con, không cần có con; nhưng Chúa cứu chuộc con lại cần có con…Rõ ràng Chúa dựng nên ta không cần hỏi ý ta, nhưng khi cứu chuộc ta, Chúa lại muốn ta cộng tác vào; như thế con người mới thực sự tự do và lập nên công nghiệp trước mặt Thiên Chúa…
b/. Câu chuyện: Một cha xứ hỏi một nguời vợ công giáo trẻ (cô này theo đạo chồng): lý do nào mà cô theo đạo. Cô trả lời: Con là một phật tử, dù chỉ có danh mà thôi; nhưng con lại rất ghét đạo công giáo. Dĩ nhiên, từ nhỏ con không hiểu chút nào về đạo này. Khi lập gia đình với chồng con là người công giáo, con vì yêu anh lắm nên buộc lòng phải giữ đạo, để được sống chung với anh. Chồng con không giàu có, nhưng anh có cuộc sống tốt, anh có đức tin mạnh mẻ làm mọi người quí mến. Với anh, đức tin là điều quan trọng hơn hết. Cũng chính vì đó con thấy rằng: ” hể yêu anh, con cũng phải yêu cả những gì chồng con có. Chồng con có đức tin mạnh mẻ, con cũng muốn có đức tin như chính chồng con vậy”
Câu chuyện của người vợ này thật đáng khen, y như câu ông bà mình nói: “yêu nhau yêu cả lối đi.” Người vợ này vì yêu chồng, nên cũng yêu cả lối sống của chồng nữa. Điễm này quá giống với các môn đệ trong bài Tin mừng hôm nay…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến ngay với Chúa, và còn ở lại với Chúa ngày hôm ấy nữa. Cuộc đời ta, bao nhiêu lần ta được mời ta đến với Chúa, qua Bí tích rửa tội, qua lời giảng dạy của bề trên, qua các Bí tích, nhất là BT Thánh thể, qua anh em xung quanh, ta có sẵn sàng đến và ở lại với Chúa trong những dịp đó không?
67. Ơn gọi theo Chúa
Mỗi người là một kiệt tác của Thiên Chúa và được kêu gọi làm môn đệ Ngài theo đấng bực khác nhau. Có những người được Chúa gọi lập gia đình để công trình tạo dựng loài người được tiếp tục, có người sống độc thân lo cho nước Chúa lớn mạnh trong thế giới, mỗi người đều được Chúa gọi làm công việc Chúa muốn theo bậc sống của mình: giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân để cộng tác vào công trình của Chúa trong vị thế của mình.
Chàng trai Samuel trong bài đọc I được Chúa chọn gọi làm tư tế để thi hành ý muốn của Yavê thiên Chúa , thực hiện những công việc phục vụ cho tuyển dân của Ngài. Samuel vừa là tư tế vừa là ngôn sứ để truyền giảng lời Chúa cho dân Israel (x. 1Sm 2, 25; 3,20) Samuel đã làm thủ lãnh Israel để giúp dân trở về với Chúa, tuân giữ đúng các giới răn của Người. Nhờ trung thành với Chúa mà họ được bảo vệ khỏi sự xâm lấn của quân Philitinh và sống trong thanh bình. Samuel còn tìm cho dân những vị vua tài cán, đáp ứng nguyện vọng của dân chúng theo ý Chúa muốn.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô cho chúng ta biết: chúng ta được Chúa kêu gọi để kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thuộc về chính mình vì đã được chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu Kitô. Vậy phải tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác mình và giữ gìn tâm trí xứng đáng làm nơi Chúa ngự, không được phạm tội nhất là tội dâm dật làm cho toàn thân ra ô uế. Chúng ta là chi thể trong thân mình Chúa Kitô là Hội Thánh cần biết giữ mình trong sạch luôn luôn.
Trong bài Tin Mừng, hai môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả nghe thầy mình giới thiệu Đấng Cứu Thế liền đi theo và ở lại với Người. Họ đã đáp trả tiếng gọi của Chúa và còn giới thiệu cho anh em mình cũng được ơn trọng đại đó.
Anrê khám phá ra Chúa giêsu trước nhất nhờ nghe lời Gioan Tẩy Giả và ông nghĩ ngay đến anh mình là Simon Phêrô đang khát mong Đấng Cứu Thế. Ông đã đem đến cho Chúa người Chúa muốn gọi làm đầu Hội thánh của Người ở trần gian. Sau này, Anrê còn dẫn những người gốc Hy Lạp tới gặp Chúa Giêsu. Chắc hẳn là Người hài lòng với Anrê về những việc này. Ơn gọi của Anrê là giới thiệu về Chúa cho người khác và nhất là làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh bằng lời rao giảng và mạng sống của mình.
Một người được gọi đồng thời với Anrê là Gioan, người đã trung thành với Chúa tới cùng, người đã theo sát bên Chúa trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Gioan là người Tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa hết lòng và được gọi là môn đệ Chúa yêu. Nhờ lòng chân thành yêu mến Chúa mà ngài đã thắng vượt được tình nóng nảy và óc bè phái của mình (x. Mc 9, 38), trở nên một người biết thông cảm và hợp tác với người khác. Gioan khởi đầu bằng đức tin là lớn lên trong đức Ái. Gioan đã làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô và viết lại Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người trong Ngôi Hai cứu thế.
Mỗi người chúng ta được Chúa gọi làm gì? Có lẽ chúng ta không được Chúa hiện ra để kêu gọi như các Tông đồ và cũng không tử đạo theo kiểu của các ngài, nhưng mỗi người được Chúa gọi theo Chúa trong hoàn cảnh riêng của mình. Mỗi người hãy biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm để biết mình phải sống ơn gọi nào và nên làm những gì cho Chúa, cho tha nhân và bản thân. Có người được Chúa gọi làm một Anrê trong thời đại mới, biết giới thiệu Chúa cho người khác và dẫn đưa họ đến gặp Chúa. Cụ thể là rao giảng lời Chúa trong gia đình mình rồi cho những người xung quanh bằng gương sáng là việc làm để mọi người nhận ra ơn cứu độ Chúa ban. Chúng ta đã đáp trả tiếng Chúa thế nào? Chúng ta có là những người môn đệ theo sát bên Chúa như thánh Gioan, biết chết đi cho những tính hư nết xấu của mình: những thói ích kỷ, kiêu căng của mình để trở nên giống Thầy Giêsu ngày một hơn.
Để lắng nghe tiếng Chúa, chúng ta cần ở lại trong Bí tích Thánh thể để cảm nhận tình yêu và nỗi đau của Chúa Giêsu trên Thánh giá, bắt chước Chúa vâng phục Chúa Cha và hy sinh cho tha nhân được hạnh phúc. Mỗi người hãy quyết tâm sống cuộc sống chứng nhân giữa lòng đời qua việc đọc kinh, dự lễ sốt sắng, sống hòa thuận với mọi người trong gia đình cũng như trong thôn xóm, thể hiện tình bác ái huynh đệ qua việc giúp đỡ những người nghèo, tham gia những phong trào đoàn thể chứng tỏ sự gắn bó với Giáo hội, với họ đạo.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những môn đệ của Chúa, nhưng nhiều khi lại để mình bị lôi cuốn theo những cám dỗ trần thế và lơ là trong nhiệm vụ làm chứng cho Chúa, xin Chúa thương xót và ban ơn trợ giúp chúng con biết thắng vượt ba thù, biết yêu mến Chúa hơn để trung thành với Chúa và trở nên những người con xứng đáng với tình yêu Chúa Ba Ngôi.
68. Hành trình hay là biến đổi
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Lời mời gọi làm biến đổi cuộc đời
Giai đoạn từ sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa đến tiệc cưới Ca-na là một thời kỳ chuyển tiếp giữa Cựu và Tân Ước. Đối với các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, đây là những ngày có tầm quan trọng đặc biệt, có tính cách quyết định: các ông sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu, các ông sẽ nhìn thấy nước được biến thành rượu, các lời hứa được thực hiện. Đêm trở thành ngày, nghi ngờ biến thành đức tin.
Bên bờ hồ, ông Gioan đang đứng với các môn đệ của mình, như tượng trưng cho quá khứ đã dừng lại. Còn Đức Giêsu đi ngang qua và các môn đệ ông Gioan tiến đến với Đức Giêsu: hình ảnh của tương lai. Qua lời giới thiệu của ông Gioan, hai người môn đệ bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chiên Thiên Chúa, và sau đó chia sẻ cuộc sống với Người: họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy.
Con đường của các môn đệ đến với Đức Giêsu được mở rộng thêm với lời mời gọi “Hãy đến mà xem” , kèm theo một tình thân mật mà không có gì có thể lật ngược lại. Con đường này diễn ra không phải bằng lời nói nhưng bằng cuộc tiếp xúc với thực tại, bằng việc đi sâu vào cuộc sống và chia sẻ cuộc sống đó.
Đi theo Đức Kitô, các môn đệ đã xem và đã ở lại với Người. Tuy vậy, các ông không ở lại luôn đó Trong truyền thống Do-thái, việc đặt tên cũng có nghĩa là ban tặng cuộc sống.
Đức Giêsu ban cho ông Simon một đời sống mới, kiện toàn đời sống đang có sẵn. Đời sống mới này được diễn tả qua một nhiệm vụ mới: “Phêrô – Đá”. Như thế Simon Phêrô vẫn là con người đó nhưng đồng thời cũng là một người khác: ngay ở bên trong con người, có một đời sống mới, một trách nhiệm mới. Kê-pha: đó là tên gọi đầy yêu thương mà Con Người dành cho ông Simon. Từ nay trở đi, người thợ chài lưới tên là Phêrô sẽ phải nỗ lực để xứng đáng với tên gọi đó, qua đời sống làm môn đệ Đức Giêsu, cho đến một ngày chính ông sẽ gọi Người là Con Thiên Chúa.
Câu chuyện về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Đức Giêsu với các môn đệ là khởi đầu cho một con đường dài, cho mầu nhiệm hiệp thông: trời cao đã thầm thì những tên gọi vẫn được giấu kín, và ngược lại, trời cao chờ đợi trái đất khám phá và gọi lên danh hiệu của Thiên Chúa.
Một sự gắn bó
Xưa kia, trong Đền Thờ, cậu bé Sa-mu-en đã nhanh nhẹn đáp lại khi nghe được tiếng nói bí ẩn đang gọi cậu. Cậu đã chỗi dậy, sẵn sàng đón nhận tấm lòng ưu ái giúp cậu nhận ra chính Đấng đã gọi cậu.
Con đường dài của các ông Phêrô, Anrê, Gioan – và của tất cả mọi người – đã được bắt đầu từ xa xưa với cuộc di cư của tổ phụ Áp-ra-ham và cuộc xuất hành khỏi Ai-cập của dân Ít-ra-en.
Con đường này có đích điểm là Giêrusalem thiên quốc, là tận cùng thế giới. Đó là một cuộc ra đi đòi phải có lòng kiên trì ; đó là một hành trình rất dài trong sương mờ để dần dần các ông nhận ra người thợ mộc khiêm tốn của làng Na-da-rét cũng chính là Chiên Thiên Chúa.
Một hành trình như thế, một cuộc biến đổi như thế không chỉ là nỗ lực của trí óc, nhưng là một bước nhảy của tâm hồn. Tuy thế, vẫn cần phải có thời gian, phải có sự quen thuộc. Chính vì vậy, Đức Giêsu đã quay lại nhìn những người đang e dè bước đi theo mình và đưa ra lời đề nghị: “Hãy đến mà xem”.
Có thể giải thích lời đề nghị ngắn ngủi này như sau: “Anh em hãy đến ở với tôi, chia sẻ cuộc sống của tôi. Hãy tiếp xúc với tôi và loại bỏ mọi thành kiến, mọi ý tưởng có sẵn, rồi các anh sẽ dần dần quen thuộc với con người lạ kỳ của tôi, hiểu được con người được sai đến đầy bí nhiệm, con người mang nhiều tước hiệu mâu thuẫn: kẻ bịp đời và Thầy, con loài người và con Thiên Chúa, Chúa và Con Chiên.
Như vậy, quả là một hành trình khó khăn đối với các môn đệ cũng như cho tất cả mọi người. Người ta không thể lấy làm thoả mãn vì những điều đã có. Đức tin chỉ sáng tỏ dần vào cuối một con đường, nó mọc lên như bình minh rực rỡ thêm dần theo bước chân của người đi săn.
Phải nói thêm rằng, hành trình này là một khát vọng, một sự biến đổi không ngừng. Sau một chặng đường tìm kiếm, ông Anrê đã nói với em mình là ông Simon: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mêsia”. Lời giới thiệu này khởi đầu cho cuộc hành trình của ông Simon để “sẽ được gọi là Kêpha”, đồng thời cũng đưa tất cả các ông vào một chặng đường mới. Đức Giêsu luôn nhấn mạnh với các ông về sự thay đổi, về sự hoán cải dựa trên những xác tín đã có. Nếu người ta đã tìm thấy Đấng Mê-si-a, thì vẫn chưa phải là lúc nghỉ ngơi, vẫn chưa có quyền ở lại một chỗ ; trái lại, đó là lúc chấp nhận cách mãnh liệt hơn, cách tin tưởng hơn thân phận của Đấng Mê-si-a theo cách thức của Thiên Chúa, và cũng là dám phiêu lưu trong niềm tín thác để vừa là chính mình vừa là một người khác, vừa là con người vừa là con Thiên Chúa.
Gặp gỡ để đáp trả
Vậy, bài Tin Mừng này khích lệ và củng cố chúng ta.
Trước hết, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và trao tặng cho mỗi người một tên gọi riêng phù hợp với con người và sứ mạng của chúng ta. Mỗi người đều có một tên gọi riêng, tên gọi vĩnh cửu được khắc vào một viên sỏi trắng mà chỉ chúng ta mới biết (x. Kh 2,17). Mỗi chúng ta có nhiệm vụ khám phá tên gọi đó và đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng một đời sống phù hợp. Đó chính là hành trình của chúng ta.
Ngoài ra, bài Tin Mừng còn an ủi chúng ta nếu chúng ta gặp thấy những vấn đề trong đời sống đức tin. Đó là chuyện bình thường. Tuy vậy, chúng ta không được khép kín nơi chính mình, không được đứng yên một chỗ và thoả mãn với những điều đã tìm được. Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy đến mà xem căn nhà của Người, hãy đến gặp gỡ Người. Hãy đến mà xem Người sống thế nào và múc nước từ nguổn mạch nào. Hãy đi sâu vào bí mật của Người và hãy để lòng mình được sưởi ấm nhờ sự hiện diện của Người. Hãy tiếp xúc với Người và mắt của chúng ta sẽ bừng sáng.
Ngạn ngữ cổ có câu: “Hãy cho tôi biết anh tiếp xúc với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là ai”. Chúng ta có thể áp dụng câu ngạn ngữ này vào bài Tin Mừng hôm nay và thấy thật là thích hợp. Nếu chúng ta thường xuyên tiếp xúc với Đức Giêsu, nếu chúng ta sống trong tình thân mật với Người, thì chúng ta sẽ dần dần nên giống như Người, sẽ trở nên môn đệ đích thực của Người.
Sống với Đức Giêsu, đó là nhìn xem với cặp mắt của Người, yêu thương với tấm lòng của Người và hành động với sức mạnh của Người.
Hãy dành những khoảnh khắc để nghe được lời mời yêu thương của Đức Giêsu. Hãy dành thời gian để đến xem chỗ Người ở. Mỗi lần hãy ở lại lâu hơn. Hãy trở lại đó thường xuyên và dần dần chúng ta sẽ được biến đổi.
***
Lạy Chúa,
Chúa muốn chúng con đưa Chúa đi
trên mọi hành trình của cuộc sống
trên những lối quen thuộc hằng ngày.
Chúa muốn chúng con thưa lên với Chúa:
Xin hãy đến và bước đi cùng với chúng con,
xin đừng chậm trễ,
xin đến và nhìn xem
nơi chúng con đang ở ;
xin ở bên chúng con
để mắt chúng con bừng mở
và hy vọng được nảy sinh.
Bấy giờ, nếu Chúa muốn,
chúng con sẽ bước đi theo Chúa
đến những miền xa xăm. (theo J.Y.Quellec)
69. Chúa Nhật 2 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Có một người đạo đức sau bao nhiêu năm tu thân tích đức, giờ đây ông ta muốn tìm một tôn giáo để hướng dẫn đời sống tâm linh. Nhưng ông ta tìm mãi vẫn không được. Một hôm, ông nhìn thấy bóng Thánh Giá của một tháp nhà thờ từ xa xa, ông thắc mắc về biểu tượng và ý nghĩa của Thánh Giá. Một cụ già giải thích: Đó là biểu tượng của đạo công giáo, vì một người đã hy sinh chịu chết trên Thánh Giá, để cho tất cả mọi người được sống. Ông ta gật đầu trầm ngăm suy nghĩ và xin cụ già dẫn đến nhà thờ.
Trên đường đi ông ta rất vui mừng và hồi hộp như vừa khám phá ra một chân lý mới. Đi được một lúc cụ già mới nói cho ông biết là đã bước vào ranh giới của họ đạo. Ông ta hơi ngở ngàn, vì ông ta nhìn thấy những quán nhậu bên đường, đang có nhiều người trong đó: có nơi thì ồn ào to tiếng, có nơi thì nói những lời không được đẹp cho lắm, có nơi thì chẵng những to tiếng mà thôi, nhưng còn dùng cả đến tay chân để rồi rược đuỗi nhau làm náo động cả đường phố.
Đi một quảng nữa, ông ta nhìn thấy những sòng bài, có nhiều người tụ tập chung quanh. Đi tiếp tục, ông nhìn thấy những đứa trẻ đang chơi. Nhưng cái đơn sơ hiền dịu đâu không thấy, mà chỉ nghe những lời cọc cằng thô lỗ chưởi bới nhau.
Ông ta bèn lắc đầu rút lui, không tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm nữa. Ông ta rút lui với một nỗi thất vọng; Thất vọng vì những điều ông nhìn thấy trước mắt. Nếu ông chịu đi thêm một chút nữa để đến nơi mà ông muốn đến, chắc là ông không đến nỗi thất vọng như thế. Như vậy việc ông thất vọng bỏ đi đó, trách nhiệm thuộc về ai? – Thuộc về chính ông ta. Nhưng còn thuộc về cả những điều mà ông đã nhìn thấy.
Các môn đệ thật may mắn, các ông đã được một người dẫn dắt tuyệt vời là Gioan Tẩy Giả. Chẵng những chỉ bằng lời nói, nhưng đi đôi với cả đời sống và hành động. Khi các môn đệ đến với Chúa Giêsu, các ông còn được kêu mời: “Hãy đến mà xem”. Ngài chẵng bảo gì hết, Ngài cũng chẵng đòi hỏi gì. Ngài chỉ nói: Hãy xem đi và quyết định cho cuộc đời của mình. Các ông đã nhìn xem cuộc đời của người giới thiệu, giờ đây các ông lại nhìn xem đời sống Đấng mà các ông được giới thiệu. Chính những điều các ông nhìn thấy đã thay đỗi cả cuộc đời các ông, và cũng đã làm cho cuộc đời các ông hoàn toàn mới.
Các ông đã nhìn thấy, nên các ông đã can đảm từ bỏ tất cả để bước theo Đấng mà mình đã thấy. Các ông cũng đã công bố, đã rao giảng, các ông còn dám dùng chính mạng sống minh chứng điều mình đã rao giảng, để cho bao nhiêu người nhìn thấy.
Ngày nay trên thế giới, được bao nhiêu người nhìn biết Thiên Chúa? Chỉ khoản 1/3 dân số thế giới. Còn Việt Nam chúng ta? – Không được 1/10.
Chúng ta là người công giáo, được biết Chúa rất lâu. Chúng ta đã được giới thiệu không phải chỉ bởi những con người tầm thường, nhưng chính Con Thiên Chúa tự giới thiệu Mình cho chúng ta. Con Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta nhìn xem chỗ Ngài ở mà thôi, nhưng Ngài còn cho chúng ta nhìn thấy bao nhiêu việc làm biểu lộ tình yêu thương của Ngài. Cái chết trên thập giá là tột đỉnh của tình yêu thương bao la đó. Vậy mà… Mỗi người thử nhìn lại mình xem. Những bước chân mà chúng ta bước theo Ngài như thế nào? Có phải là những bước chân dứt khoát – Hay chỉ là những bước chân nữa vời, chờ có dịp là vội rút lại ngay. Cuộc đời chúng ta ngày hôm nay có gì là mới mẽ tốt đẹp hơn không? Hay cũng vẫn còn là con người cũ và vẫn bước đi trên con đường cũ của bao nhiêu n#m xưa: Con đường của sự ương lười và chỉ biết hưởng thụ cách ích kỷ. Bao nhiêu người chung quanh, họ nhìn thấy được gì, chúng ta có dám mời gọi họ hãy đến mà xem cách sống của mình không? Chúng ta mời gọi người khác đến với Chúa, không chỉ bằng lời nói suông, nhưng phải bằng chính đời sống tốt đẹp và gương mẫu của một người biết yêu thương, với đầy đủ tinh thần trách nhiệm. Mọi người nhìn vào gia đình chúng ta, làm sao để họ có thể nhìn thấy được Chúa Kitô đang hiện diện thật sự. Đó là cách chúng ta mời gọi, rao giảng, minh chứng cho mọi người để họ đến với Thiên Chúa. Đó cũng là cách chúng ta bước theo Lời mời gọi của Chúa thật sự.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm bước theo Chúa và sống đúng với những gì mình đã biết.
70. Chú giải của Noel Quesson
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt” trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường” hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông”.
Đây là biểu tượng cho “nếp sống thường ngày”, bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm… cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như “không có cái gì xảy ra”, thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một “Tuần lễ đầu tiên”: chủ yếu là gây chú ý “buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, “Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, “Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một “Tin Mừng”: đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể “mạc khải” như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến “biến cố” sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là chiên Thiên Chúa”.
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là “Chiên Thiên Chúa” sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước “chuyển tiếp” từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc “giải phóng” ít-ra-en. Ngoài ra, từ “con chiên” trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa” hoàn hảo như “một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than”. Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một “con chiên Chúa”, có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm “bảo vệ cả đoàn chiên”. Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng “Đây Con chiên vô cùng hiền lành” không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại… Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
“Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp… Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá “liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi…”
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là “cái nhìn đầu tiên” của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt…
“Các anh tìm gì thế?”
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. “Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một “khẳng định”, nhưng là một “câu hỏi’. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ “cởi mở”, không thể “khép kín” trong một hệ thống đóng khung, như các “tư tế và trợ tế” đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ “tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. “Lạy Chúa, Chúa là ai?”, kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. “Không có Thiên Chúa! – Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia – Bạn có xác tín như thế không?”. Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: “Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết “hồ nghi”. Cũng vậy, cần phải biết “đặt câu hỏi”, như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: “Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể “thấm ướt” được, thì làm sao có thể tiếp thu… “.
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: ‘Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”.
Tìm kiếm… bước theo… cư ngụ… đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: “Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.
Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của “người môn đệ”: “kiếm tìm”(1,38), “đến xem” (1, 39 và 46), “quan sát” (l,39 và 41), “gặp thầy” (1,41 và 45), “bước theo” (l,37.38.40.43) “ở lại” (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc “bốn giờ chiều’, (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ “tìm kiếm” của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô”.
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay “ơn gọi”, thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha”, “tức là Phêrô”.
Trở nên môn đệ, nghĩa là “thay đổi” đời sống… đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một “con người mới”. Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã “tìm kiếm” Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ… Chinh Người khởi xướng trước nhờ “ân sủng” kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người… vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.
71. Chúa Nhật 2 Thường Niên
(Suy niệm của Vinh sơn Trần Xuân Bình, OP)
ĐIỀU QUAN TRỌNG LÀ LÒNG TIN KIÊN VỮNG
Kính thưa cộng đoàn!
Bài đọc I kể lại câu chuyện Đức Chúa gọi Sa-mu-en và Sa-mu-en đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Chính lời đáp trả này mà Đức Chúa đã ở với Sa-mu-en và “Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.”
Bài đọc II thánh Phao-lô tự vấn tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” Và ngài khẳng định, “ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.”
Còn bài Tin mừng hôm nay, thuật lại biến cố Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của ông Gioan đến sống thâm tình với Người, qua đó các môn đệ của ông Gioan đã xác tín vào lời giới thiệu của thầy mình về Đấng Kitô, “đây là Chiên Thiên Chúa” vì thế họ đã tuyên nhận Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a nghĩa là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Như vậy tất cả những ai sống thâm tình với Thiên Chúa đều được Chúa đoái thương cư ngụ trong tâm hồn và Thiên Chúa trở nên thân thiện và hằng quan tâm chăm sóc họ trong suốt cuộc đời.
Cũng vậy nhờ được đến sống thâm tình với Đức Giêsu tại nơi ở của Người mà các môn đệ đã trải nghiệm được tình yêu Thiên Chúa đối với họ qua con của Người là Đức Giêsu Kitô, đó là điều có lẽ suốt cuộc đời, họ luôn khắc ghi trong tâm hồn và thiết nghĩ đó cũng là niềm xác tín rất riêng tư nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi tín hữu về một Đức Kitô đã được trao ban cho con người và vì con người. Đó là Mầu nhiệm hiện diện của Con Thiên Chúa nơi thế gian, đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi con người.
Để có được trải nghiệm này không phải là chuyện dễ, thật thế làm sao chúng ta cảm nhận được một Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn và Người rất thân thiện và hằng quan tâm ủi an chúng ta? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa là ánh sáng cho trần gian? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên là đường dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha? Làm sao chúng ta cảm nghiệm được một Thiên Chúa đã được sinh ra trong tâm hồn chúng ta cho chúng ta và vì chúng ta? …
Điều quan trọng là lòng tin kiên vững mà Đức tin đã tặng ban cho chúng ta, chứ không phải là cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa, không hệ tại vào những tài năng của linh hồn, nhưng là từ tận nơi sâu thẳm của linh hồn. Chính vì thế, điều đó lý giải tại sao mà chúng ta không lãnh hội được. Thật thế Thiên Chúa luôn thân thiện, nhưng chúng ta không có một chút cảm nhận nào. Thiên Chúa rất thân thiện với chúng ta, nhưng chúng ta lại xa Người. Thiên Chúa ở trong còn chúng ta thì ở ngoài. Thiên Chúa luôn ở trong ngôi nhà tâm hồn chúng ta, thế mà chúng ta lại là kẻ xa lạ với chính ngôi nhà của chúng ta. Như lời sách Công vụ tông đồ đã nói: “Trong Người, chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17:28), Ngài bao bọc chúng ta mọi nơi mọi lúc. Cũng như thánh Âu-tinh, chúng ta tin tưởng cầu nguyện với Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin che chở con, và con đã được Người che chở”. Khi ấy, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần mách bảo trong sâu thẳm tâm hồn, vì này Triều Đại Thiên Chúa “đang ở giữa các ngươi” (Lc 17:21).
Khi Đức Giêsu Kitô sinh ra vào trong thế gian như một phàm nhân, thì Người cũng được sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Và như vậy, Người là ánh sáng soi chiếu thế gian, là ngọn đèn nội tâm dẫn đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha. Chúng ta hãy lắng nghe lời Người với một tấm lòng đơn sơ thành thật đừng ngờ vực. Nếu chúng ta chỉ lắng nghe mà không hành động theo, khi ấy chúng ta sẽ mất tất cả. Như vậy chúng ta không được biến đổi và không thể nhận biết được Thiên Chúa trong sâu thẳm tâm hồn, nơi mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa trong đó.
Đức Kitô đã sinh ra trong chúng ta và chúng ta cần nuôi dưỡng mối liên hệ thân thuộc với Người. Sự sinh ra của Đức Kitô cho phép chúng ta thông phần vào bản tính Thiên Chúa; như vậy, nhân loại được liên kết với Thiên Chúa sau khi xa lìa Thiên Chúa một thời gian rất lâu vì tội nguyên tổ. Sự sinh ra của Đức Kitô là qùa tặng cao qúi của Thiên Chúa nhờ sự sáng tạo của Người; xuất phát từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa vì chúng ta. Vì thế chúng ta được kêu mời đáp trả lại tình yêu ấy theo cùng cách thức, với lòng mến chúng ta sẵn sàng hiến dâng cả thân xác lẫn ý muốn cho Thiên Chúa, vì Người đã yêu chúng ta trước. Chúng ta có thể yêu Chúa qua lời cầu nguyện và qua sự phục vụ tha nhân.
Tất cả những điều nêu trên có thể lý giải cho chúng ta những vấn đề: tại sao chúng ta phải cầu nguyện, tại sao chúng ta phải ăn chay, tại sao chúng ta phải làm tất cả những việc lành, tại sao chúng ta phải rửa tội, tại sao Thiên Chúa phải trở nên phàm nhân, tại sao chúng ta phải sống thân tình với Thiên Chúa, tại sao tất cả những điều đó là cao cả nhất? Thưa! vì Thiên Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng ta, Người rất thân thiện và hằng chăm sóc ủi an chúng ta.
Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn ra và đến với Thiên Chúa trong sự cô liêu hoàn toàn, nhờ đó mà chúng ta tỉnh thức với những gì mà Đức Kitô mang tặng chúng ta: một thế giới mới, một thế giới nội tâm mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta và vì chúng ta. Đó là Mầu nhiệm hiện diện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ân sủng để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Nếu chúng ta chưa nhận ra thì hãy có sự ao ước để được nhận ra, nếu chúng ta chưa thể có sự ao ước để nhận ra thì hãy ao ước có sự ao ước đó. Vì chính Đức Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Lạy Chúa xin ban ân sủng cho chúng con để chúng con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn. Amen.
72. Các môn đệ đầu tiên
(Suy Niệm Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là “Tuần lễ khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu”.
– hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng (phủ định – khẳng định);
– ngày thứ ba (“hôm sau”, 1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (cc. 35-36);
– đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở vị trí này;
– ngày thứ tư (“hôm sau”, 1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen;
– “ngày thứ ba” (2,1): Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang” (2,11) tạiCana miền Galilê.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);
2) Anrê (1,40-42a);
3) Simôn (1,42b).
3.- Vài ghi chú về chú giải
– Ông Gioan đang đứng… (35): Có một nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12; Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum; theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
+ TM IV không nói gì tới các con ông Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề nói đến Philípphê và Natanaen.
+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV, các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt, và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang làm nghề chài lưới.
+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc, đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc về nhóm Gioan Tẩy Giả.
– thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ nơi ông, rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
– Các anh tìm gì thế? (38): “Tìm” (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là “tìm cách có lại những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc”. Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 …). Trong tiếng Híp-ri, “tìm” là darash; darash ha Torah, “tìm Torah”, có nghĩa là giải thích Kinh Thánh.
– Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ, câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa sâu hơn: “Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?”. Đối với ông, các môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất cứ người nào: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện” (14,8).
– Đến mà xem (39): Dịch sát là “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là “nếu như, với điều kiện”. Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin. Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng liêng của Người, tức Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
– Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”, Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên trời (x. Mt 13,44).
– Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng 4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14; 20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy “giờ thứ 10” hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu. Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). “Mười” là một con số hoàn hảo đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau, bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
– Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
– Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41): Dịch sát là “Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia” Heuriskein, tìm thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê “tìm thấy/ra” Simôn, báo rằng họ đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia. Sau được Đức Giêsu “tìm thấy/ra”, Philípphê “tìm thấy/ra” Natanaen và bảo rằng đã “tìm thấy/ra” Đấng Mêsia.
– Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là “tảng đá”. Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV dịch thành một câu hỏi: “So you are Simon the son of John? Vây anh là Simôn con ông Gioan à?”. Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con cái (Mt 1,25; Lc 1,63).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này, tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”“ (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là “cấu trúc trôn ốc” quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga 20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả là “đang đứng” (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29), sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh thức bởi một người khác, không phải bởi “ánh sáng” nhưng bởi “chứng nhân của ánh sáng” (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là “Rabbi”, không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu. Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức Giêsu là Rabbi. “Thưa Ngài” (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là “Kyrie”. Rabbi có nghĩa chữ là “thầy tôi” (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là “thầy”.
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng (1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh “bước theo” Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, “bước theo” (akoloutheô) có nghĩa là “đi đàng sau một người”; “trở thành môn đệ” (nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là “Rabbi”. Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ: “Các anh tìm gì thế?”, một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần túy chỉ có nghĩa là “Các anh muốn gì?”. Họ không đáp lại bằng một câu trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: “Thầy ở đâu?”. Nếu so sánh với ba TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc 4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh. Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51). Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa “Rabbi” (Ga 1,38), nhưng danh hiêu này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi của hai ông “Thầy ở đâu?” đã được Đức Giêsu nâng lên một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng chất đức tin: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy”.
Hai môn đệ hỏi: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. “Ở/ở lại”, menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40 lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).
Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng động từ này theo nghĩa thông thường là “ở lại, stay” hoặc “sống, live”, ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc. “Ở [lại]” thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là “abide”). Đức Giêsu “ở lại” với các môn đệ đang tin vào Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô “ở lại” (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch. 13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của “ở lại”. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với Người (Ga 14,2-3).
Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). “Ở lại” không chỉ là “ở với”, mà còn có nghĩa là “ở trong”. Trong thực tế, có một sự “ở lại trong nhau” giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga 6,56).
Tất cả những điều này đã được tiên báo khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe” (1,39). Một lời mời gọi (các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của Đức Giêsu, và họ đã “xem thấy”. Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến. Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10…), còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29), có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc 6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một “luận đề về đời môn đệ” (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng “ví dụ Anrê”.
Đối với ngài, Anrê là một con người bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44), một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga 4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là “trước hết (prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình” (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã được đưa vào trong “phong trào” của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng từ của ông đầu tiên. “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia”. Một lần nữa, tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: “nghĩa là Đấng Kitô”. Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi, “thầy của con”, bây giờ ông gọi Người là Mêsia, “Đấng được xức dầu”. Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi, thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi (Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga 1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: “Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen) Đấng Mêsia” (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, “chúng tôi” đây là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, “chúng tôi” đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với Ngài.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ lời với theo cách huyền bí: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới, tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38; 35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới “Kêpha” thành một tên Hy Lạp mới tương đương là “Phêrô” (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga 1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27; 20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc đời mỗi người là một chuyến “đi tìm” Đức Giêsu, được Người dẫn dắt, rồi sau khi đã thực sự “tìm ra, tìm thấy” Người, thì đi giới thiệu cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó, nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến. Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu hết sức quan trọng: “Hãy đến và các anh sẽ thấy!”. Tất cả mọi chuyện đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao? Dường như tôi chưa thật sự “đến” với Người, nên cũng chưa thật sự “thấy” được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ, nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ lùng của ông: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”. Anrê không chỉ giới hạn vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm sống tôi đã và vẫn đang có?
——————
[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
73. Lắng nghe
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi”. Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.
Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi”.
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc”. Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.
Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).
Trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho chúng ta biết về câu chuyện “nổi tiếng” về việc “lắng nghe” và “mau mắn đáp lại” của ngôn sứ “nhí” Samuen. Chuyện kể về một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!”. Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con”. Ông bảo rằng ông không gọi cậu, cứ về ngủ đi”. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuen lại dậy ngay và đến với ông Êli, nhưgn ông vẫn bảo là không gọi cậu.
Trẻ người, non dạ, nên Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Rồi cậu lại nằm ngủ, Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông bảo Samuen đi ngủ, hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”. Samuen về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10).
Đó là câu nói được trích dẫn nhiều mỗi khi nói đến việc thi hành Thánh Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng như “bị triệt buộc”. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, vì thế Ngài rất đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Samuen đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, thế nên Samuen được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Samuen vô cùng diễm phúc!
Diễm phúc không là tình trạng “tự nhiên” mà là động thái “có điều kiện” với lòng tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã “xin vâng” hoàn toàn khi rời quê hương đến Đất Hứa, ông không hề ngần ngại sát tế chính con trai mình, và Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến vậy, trong đó đã tiềm ẩn và mặc nhiên có nhân đức khiêm nhường – nền tảng của mọi nhân đức.
Có điều “trái khoáy” là chúng ta luôn muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Sao vậy nhỉ? Đó là vì ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, luôn tưởng mình là “số dzách” hơn người khác về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Thực sự chúng ta to gan, lớn mật tới mức dám làm vậy ư? Thật, không oan đâu! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1), nhưng hiếm khi chúng ta “nhận lỗi” (Tv 51:5) hoặc “lắng nghe điều Thiên Chúa phán” (Tv 85:9), nhất là khi ý Chúa khác hẳn ý mình.
Chắc hẳn ai cũng đủ kinh nghiệm để khả dĩ biết rằng “đời là bể khổ”, thế nên lúc nào chúng ta cũng phải cầu xin Thiên Chúa thương xót: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Và rồi chúng ta phấn khởi lắm: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa” (Tv 40:4). Thế nhưng chúng ta lại thường “ngủ quên trong chiến thắng”, chẳng khác chi chín người vô ơn bạc nghĩa trong chuyện “mười người phong hủi” (Lc 17:11-21).
Tác giả Thánh Vịnh cho biết rằng Thiên Chúa không thích tế phẩm, lễ vật, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Ngài không đòi chi, không cần gì, vì Ngài có tất cả. Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI biết mau mắn thân thưa: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Chúng ta càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài xót thương. Và đừng quên điều này: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Chẳng có gì vĩnh cửu vì mọi sự đều có lúc, có thời mà thôi (x. Gv 3:1-8). Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy thôi, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưngtôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể:“Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15).
Chưa cần nói vấn đề tinh thần, các vật chúng ta đang sở hữu cũng không là của chúng ta mãi mãi. Chẳng hạn tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình”, tức là mình sở hữu nó. Đúng vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó mãi mãi là của chúng ta, vì một lúc nào đó chúng ta không được sở hữu chúng nữa. Phũng phàng ư, thất vọng ư, buồn ư? Đời là thế nên nó thế đấy! Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được thì làm sao giữ những thứ khác?
Vì thế, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thầnsao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6:17-20). Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể (Thánh Thể). Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe và thực thi Thánh Ý Ngài. Bức tượng không thể phản đối nhà điêu khắc!
Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119:14). Tâm niệm được như vậy thì chẳng có gì lo ngại. Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài!
Hôm trước, khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1:29-30). Và ông đã làm chứng với mọi người: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1:32).
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp:“Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài, họ sẵn sàng “lắng nghe” và “thực hiện” như Ngài.
Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói:“Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói:“Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (Ga 1:42). Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô (Pièrre = Đá).
Dù chỉ là ngư dân, chuyên chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô “có tướng có tá” lắm, chắc hẳn “tướng mạo” như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu đã “thấu suốt” cả tâm địa của ông bộc trực: Nóng nảy nhưng tốt bụng. Và Ngài OK liền, “chấm” ngay. Thật vậy, dù tội chối Thầy lớn lắm, không chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng không sao, “chuyện nhỏ” thôi, vì Chúa Giêsu vẫn luôn giàu lòng thương xót và cho ông “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18). Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành tại trần gian.
Hôm nay là ngày bắt đầu tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Mỗi người là một cá nhân, với tính cách khác nhau, nhưng mỗi người không là một ốc đảo, mà luôn phải hài hòa trong một tổng thể, mang tính liên đới đa dạng, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Sự hiệp nhất rất quan trọng, cần thiết đối với mọi tổ chức hoặc nhóm. Ngay trong gia đình cũng vậy, thiếu sự đồng tâm nhất trí thì “ông nói gà, bà nói vịt”, gia đình khó có thể là một tổ ấm đích thực. Các cộng đoàn tu cũng vậy, mỗi người mỗi phách thì không thể là một cộng đoàn. Mỗi thành viên có biết lắng nghe thì mới khả dĩ hiệp nhất.
Đặc biệt năm nay là năm Tân Phúc Âm Hóa các giáo xứ và các cộng đoàn. Hai loại hình này là dạng “đời sống chung”, cần biết lắng nghe nhau để hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều mong muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu: “Xin cho họ nên một”. Tính “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần (x. Ga 17:1-24), chứng tỏ đó là tính chất đặc biệt lắm, vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108), xin giúp chúng con biết mau mắn lắng nghe lời Ngài dạy chúng con mọi nơi và mọi lúc, xin cũng giúp chúng con biết mau mắn đáp lại và sẵn sàng thực thi Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
74. Đổi đời – Trầm Thiên Thu
Sau khi những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng, người ta đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe. Nhưng Ngài thản nhiên nói với họ: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy” (Lc 13:2-5).
Mặc dù Chúa Giêsu không hề dùng chữ “đổi đời” nhưng ý Ngài muốn chúng ta đổi đời, tức là Ngài muốn chúng ta biến đổi (thay đổi, canh tân) để nên thánh. Muốn vậy thì phải từ bỏ ý riêng mà chấp nhận theo ý Chúa, nếu không chấp nhận thì không thể vâng lời – tuân phục. Lô-gích lạ lùng quá! Quả thật, tuân phục Thánh Ý Chúa là điều vô cùng quan trọng trong đời sống Kitô hữu, chính Đức Maria đã tiên phong nêu gương nhân đức này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Gabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Có nhiều dạng biến đổi – đơn giản nhất là thay chiếc áo, và “cao cấp” hơn là từ bỏ một thói quen, nhưng dạng đặc biệt nhất là Sự Chết. Ngưỡng-Sinh-Tử là “khoảng” thực sự kỳ diệu nên được gọi là “mầu nhiệm sự chết” như Thánh Phaolô xác định: “Không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1 Cr 15:51).
CHÂN THÀNH LẮNG NGHE
Cuộc sống luôn có những hệ lụy hợp lý, tương tự một tam đoạn luận (*). Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe, đặc biệt là lắng nghe tiếng Chúa – điều Thiên Chúa mặc khải. Kinh Thánh cho biết: Một đêm nọ, Chúa gọi Samuel, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuel chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Sau đó, Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuel cứ đi ngủ, và dặn rằng hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuel đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!”. Samuel liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuel là bài học và là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuel đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuel và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Tuyệt vời!
Tuy là Đấng chí thánh và cao cả, nhưng Thiên Chúa không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như Thánh Vịnh gia: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Thiên Chúa thật giản dị và rất bình dân, Ngài không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngài chỉ muốn chúng ta thành tâm yêu mến Ngài. Và thật lạ, ngay cả khi chúng ta ca tụng Ngài thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta, và Ngài chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Một khi nhận biết Ngài rồi thì chúng ta phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ – không biết thì không mến, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Cuộc đời có thuận lý và cũng có nghịch lý, cả phương diện xã hội lẫn tinh thần. Những người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn cố gắng bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói rằng sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, ức hiếp đồng loại, như vậy chỉ là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Tuy nhiên, cũng nên cảnh giác vì cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính. Thật lạ lùng và cũng thật đáng sợ!
QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG
Lắng nghe không dễ thực hiện, hành động lại càng khó hơn. Vì chúng ta là “người xấu” (Lc 11:13 ) nên dễ “nhìn xuống” mà khó “nhìn lên”, bởi vì “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Thật là khốn nạn quá! Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Đó là niềm hạnh phúc lớn lao lắm!
Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Ngài cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình. Có sự liên đới giữa ngoại tại và nội tại, giữa thể lý và tinh thần.
Về phần thể lý, Thánh Phaolô nói: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần do chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa ngay nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ, ông chợt nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua thì ông liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Nghe ông Gioan nói vậy, hai môn đệ của ông Gioan liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo chi ráo trọi. Chắc hẳn họ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết trong cuộc sống. Sau đó, Đức Giêsu quay lại và thấy các ông đi theo mình nên Ngài hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài không trả lời rõ ràng mà lại bảo họ: “Đến mà xem!”. Họ cũng không thắc mắc và liền đến xem chỗ Chúa Giêsu cư ngụ, và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo. Đó là hệ lụy tất yếu của động thái nhận biết và tin tưởng.
Một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu đó là ông Anrê, anh của ông Simôn Phêrô. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em trai đến gặp Đức Giêsu. Lúc đó, Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Cuộc đời có nhiều dạng thay đổi, thậm chí có khi là thay tên đổi họ. Chúa Giêsu đã đặt tên mới cho ông Simôn và biến đổi cuộc đời ông. Cái tên có thể ảnh hưởng cả cuộc đời, thay tên đổi họ cũng có nghĩa là cuộc đời sang trang mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Khi thực sự nhận biết Chúa, người ta sẽ can đảm theo Ngài và sẵn sàng tuân phục Ngài, tức là luôn làm theo giáo huấn của Ngài.
Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Được Ngài tiếp nhận tức là được trở nên con cái, tất nhiên con cái cũng có trách nhiệm và bổn phận riêng.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết Ngài để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin biến đổi con theo sự quan phòng và tiền định của Ngài, làm cho con trở nên khí cụ bình an của Ngài để minh chứng Lòng Thương Xót vô biên của Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
—————————-
(*) Tam đoạn luận [syllogism] là hình thức suy luận diễn dịch gồm 3 mệnh đề: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận. Ví dụ: Mọi người đều phải chết, tôi là người, vậy tôi cũng phải chết. Kết luận của tam đoạn luận có giá trị chặt chẽ, vì nó là một kết quả tất yếu, không thể chối bỏ nếu đã thừa nhận tiền đề. Nếu tiền đề đúng, kết luận phải đúng. Nếu tiền đề không đúng, kết luận không thể đúng, nhưng vẫn hợp lý.
75. Tuân phục Thánh Ý Chúa
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tuân phục Thánh Ý Chúa là điều quan trọng trong đời sống người Kitô giáo, và Đức Maria nêu gương tiên phong trong việc này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Ggabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.
Lắng nghe
Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe. Một đêm nọ, Chúa gọi Samuen, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuen lần nữa. Samuen lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuen chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).
Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuen cứ đi ngủ, hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuen đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!”. Samuen thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuen là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuen đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuen và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19).
Thiên Chúa chí thánh và cao cả, nhưng Ngài không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như tác giả thánh vịnh: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Chúa giản dị và rất bình dân, không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngay cả khi chúng ta ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ có lợi cho chính chúng ta, Chúa chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Nhận biết Chúa rồi thì phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.
Người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói là sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, hiếp đáp đồng loại, như vậy là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Đừng lầm tưởng! Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính.
Hành động
Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Thánh Phaolô xác định: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Người cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình.
Thánh Paolô nói về thân xác: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn chính là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác của mình.
Trình thuật Ga 1:35-42 kể lại chuyện ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông Gioan lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông Gioan nói vậy, họ liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo gì. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo.
Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.
Ông Simôn có tên mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Nhận biết Chúa thì sẽ can đảm theo Ngài, theo Ngài thì sẽ tuân phục Ngài, tuân phục Ngài là làm theo lời Ngài dạy. Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà là thuộc về Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Chúa để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa để rao truyền Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
76. Ở lại – Huệ Minh
Nhạc sĩ Nhất Sinh gói ghém tình yêu nam nữ thật đẹp qua bài hát “Tơ Hồng”:
Anh đến quê em nơi đây có dòng sông Cầu
Dự ngày hội Lim anh đã hứa khi xưa
Vượt bao đèo cao bao suối sâu
Nắng mưa gió sương anh không ngại
Chỉ mong gặp em người em gái
Hát câu dân ca người ở đừng về…
Ta chưa tham dự lễ hội hát quan họ để rồi chưa có cái cảm nghiệm của niềm vui lớn khi gặp nhau và cùng nhau hát những khúc ca quan họ. Vui lắm, tình cảm lắm, thân thương lắm để rồi ai ai cũng mong rằng “người ở đừng về”.
Cảm xúc “người ở đừng về” đấy thật dễ thương bởi lẽ nó xuất phát tự đáy lòng của con người.
Đúng vậy! Là người với nhau, gặp nhau đã là quý và muốn ở lại với nhau càng lâu càng tốt nên mới nói với nhau rằng “người ở đừng về”.
Thế nhưng trong đời thường, có lẽ hơn một lần ta sống cái cảm xúc “ở lại” với người thân khi họ đến thăm ta, họ đến nhà ta. Dĩ nhiên là cũng có lúc phải đi về nhưng rồi phải đi về vì ai phải trở về nhà nấy, trở về với công việc của mỗi người. Dẫu biết phải thế nhưng ai ai cũng muốn níu kéo “người ở đừng về”.
Cảm xúc “người ở đừng về” đó ngày hôm nay chúng ta bắt gặp nơi các môn đệ.
Chúng ta nghe lại: Khi ấy, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Rõ ràng, trước đó hai ông này không hề biết Chúa Giêsu và chẳng biết gì về Chúa Giêsu và dĩ nhiên không thể biết chỗ mà Chúa Giêsu ở. Nghe bảo “đến mà xem” và rồi đi đến nơi Người ở.
Thánh Gioan không nói nơi Người ở là như thế nào và Thánh Gioan cũng không nói rằng Chúa Giêsu đã mời họ ăn gì nhưng chỉ nói rằng họ ở lại với Người.
Và sau đó, ta thấy thánh Gioan nói tiếp rằng một trong hai người đi theo Đức Giêsu đã nói với Gioan rằng: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia.
Vấn đề cốt lõi là ở chỗ đó. Họ đã đến, họ ở lại và họ đã gặp Đấng Mêsia – Đấng Cứu Độ trần gian – và sau đó cuộc đời của các ông đã biến đổi.
Trở lại với bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng rất hay. Samuen là đứa con cầu con khẩn để rồi sau khi cất khóc chào đời sau khi thôi bú, cha mẹ đã dâng Samuel cho Thiên Chúa. Samuel ở trong thánh điện Silô với thầy cả Hêli. Và tại nơi đây Thiên Chúa đã kêu gọi và trao sứ mạng cho Samuel.
Sau khi thầy cả Hêli qua đời, Samuel đứng lãnh đạo quốc gia suốt 20 năm (1050-1030tcn). Ông là thủ lãnh trong vai trò giải quyết các công việc cho dân chúng. Ông còn có một vai trò khác quan trọng hơn, đó là làm tiên tri (ngôn sứ): đón nghe Lời Thiên Chúa và truyền đạt lại cho dân chúng.
Ở với Thiên Chúa để rồi ngày mỗi ngày cuộc đời của Samuel có Thiên Chúa ở cùng và ân huệ Thiên Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ông. Hiệu quả hay nói đúng hơn là ơn của sự “ở lại” với Thiên Chúa là như thế đó.
Thiên Chúa luôn mời gọi ta ở cùng với Ngài để Ngài yêu thương ấp ủ cuộc đời của chúng ta như gà mẹ ủ ấp gà con vậy. Đặc biệt, nơi Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta trong tin mừng theo Thánh Gioan: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
Tuyệt vời! Chắc có lẽ không gì tuyệt vời hơn cho bằng “ở lại” trong tình yêu của Thầy. Khi ở lại trong tình yêu của Thầy thì anh em sẽ cảm nghiệm được tình yêu đó và cũng sẽ yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Ngày nay, chẳng hiểu sao người ta cứ chạy loanh quanh như chiếc đèn cù và không có điểm dừng, cũng như không ở lại trong nhau nữa. Cũng dễ hiểu, khi người ta không ở lại trong Chúa thì làm gì có chuyện ở lại trong nhau. Hiệu quả của việc ở lại trong Chúa và ở lại trong nhau rất rõ ràng.
Có thể là vì chạy theo kinh tế thị trường, chạy theo xã hội để rồi nhiều và rất rất nhiều người sống theo cơ chế thị trường đó. Mở mắt ra, ta thấy cuộc sống bắt đầu xô dập. Từ sáng sớm đến chiều tối, vợ chồng con cái bắt đầu “cuốn theo chiều gió”.
Làm cái gì cũng nhanh nhanh cho kịp thời gian theo kiểu người ta vẫn ví von như “ma đuổi”. Nhanh, vội để rồi người ta thích mì ăn liền, cháo ăn liền, phở ăn liền, hủ tíu ăn liền. Sáng là như vậy, trưa thì thức ăn nhanh còn tối thì cơm hộp… Người ta bận đến độ không còn giờ dành cho nhau nữa.
Và, giờ dành cho Chúa thì như thế nào? Mỗi tuần Chúa dành cho người ta quá nhiều thồi gian: 7 nhân với 24 giờ. Chúa chỉ mời gọi người ta đến với Chúa có 1 giờ của 7 nhân với 24 thôi nhưng vẫn còn so đo tính toán.
Đến với Chúa thật buồn cười! Chuyện tưởng là cười nhưng có thật là ở Sài Gòn người ta kháo láo với nhau có 2 nhà thờ Lễ Chúa Nhật có giảng luôn tổng cộng 30 phút!!!
Đi lễ mà còn tính toán, còn chọn nhà thờ nào ngắn nhanh gọn để đến. Có khi khoảng cách từ nhà mình đến nhà thờ lễ nhanh đó thật xa nhưng miễn sao ngắn gọn là người ta cứ tìm đến. Tính làm sao lễ càng nhanh càng tốt và như thế là tròn bổn phận.
Đến với Chúa trong Thánh Lễ, quan trọng không kém việc rước Chúa là lắng nghe Lời Chúa. Chẳng may Cha nào giảng dài một tí là bắt đầu chia lòng chia trí và không ngần ngại lướt web hoặc tán gẫu. Và, có khi đi lễ là đi lễ “vọng”, lễ “gốc” và thậm chí cả lễ “ôm” nữa.
Cần kiểm chứng, ta có thể rảo quanh một số nhà thờ vào các giờ lễ ta sẽ thấy sự thật đau lòng như thế.
Sau khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, cần lắm những giây phút linh thiêng để lòng kề lòng với Chúa, trải lòng với Chúa nhưng lại cứ mong cho mau để… đi về.
Với Chúa là Chúa, là chủ cuộc đời người ta mà người ta còn tính toán như thế huống hồ chi là với con người. Tính quá để rồi trong gia đình không có giờ cơm chung, giờ kinh chung nữa.
Ban ngày thì đổ lỗi cho đi học, đi làm. Tối đến, mạnh ai nấy ăn mỗi người một dĩa để tranh thủ thời gian lướt web, xem phim.
Đấy là lý do bận của con người ngày hôm nay. Không còn giờ ở lại với Chúa và rồi không còn giờ để ở lại với nhau nữa.
Ngày hôm nay, khủng hoảng về đời sống gia đình ắt là điều dễ hiểu bởi lẽ người ta không còn “ở lại” với nhau. Làm cái gì cũng làm lẹ thật lẹ, mau thật mau và làm cho cố xong chứ không còn tâm huyết cho nhau nữa.
Điều đặc biệt nhất mà Chúa dành cho ta đó chính là Bí Tích Thánh Thể, Bí tích Tình Yêu. Chúa ở lại với ta mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây để rồi phần ta, ta có đến, có kết hiệp, có ở lại với Chúa như Samuen, như hai môn đệ ngày xưa hay không mà thôi.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để ngày mỗi ngày dù bận rộn chúng ta cũng dành thời gian để kết hiệp mật thiết hơn với Chúa. Có như vậy, ta mới cảm được tình Chúa thương ta và rồi ta cũng thương Chúa và thương anh chị em như Chúa mời gọi.
77. Hành trình của đức tin – Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Các môn đệ đầu tiên theo Đức Giêsu.
Sau khi được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su, hai môn đệ của Gio-an là An-rê và Gio-an đã đi theo đến nơi Người sống và đã ở lại với Người hôm ấy. Sau khi đã tin Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, An-rê lại giới thiệu Người với em là Si-mon. Ong dẫn em đến gặp để làm môn đệ và cộng tác với Người trong sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời.
CHÚ THÍCH:
– C 35-37:: +“Đây là Chiên Thiên Chúa”: Đức Giêsu là “Con chiên bị đem đi làm thịt” (x. Is 53,7), trở thành lễ vật “bị sát tế” trong cuộc khổ nạn (x. Lv 4,32). Máu Người đổ ra sẽ tẩy xóa tội lỗi và ban cho muôn người được ơn tha tội (x. Mt 26,28). Đức Giêsu cũng là người “Tôi Trung Đau Khổ” được Đức Chúa tuyển chọn và yêu mến mà ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 42,1). +Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Giêsu: Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả là An-rê và Gio-an đã nghe lời Gio-an Tẩy Giả, từ giã thầy để theo làm môn đệ Đức Giêsu.
– C 38-39: +Giờ thứ 10: Người Do Thái chia ngày thành 12 giờ, từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối. Giờ thứ 10 tức là 4 giờ chiều.
– C 40-42: +“Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô): Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu một thời gian mà hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã xác tín Người chính là Đấng Mê-si-a như Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu. An-rê lập tức về nhà rủ em là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Mê-si-a rồi!”. Rồi ông dẫn em đến gặp Đức Giêsu. +“Anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô): Vị tôn sư có quyền thay tên của người xin theo học bằng một tên gọi mới. Tên mới này mang ý nghĩa tượng trưng mà vị tôn sư muốn cho học trò đạt được. “Kê-pha” là tiếng A-ram mà người Do Thái thời Đức Giêsu xử dụng, nghĩa là “Tảng đá”, tiếng Việt là “Phê-rô”. Đặt tên Phê-rô cho Si-mon, Đức Giê-su muốn ông sau này sẽ nên đá tảng, trên đó Người xây dựng Hội Thánh của Người (x Mt 16,18).
CÂU HỎI:
1- Khi giới thiệu Đức Giê-su là con chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả muốn nói gì về sứ mạng cứu thế của Người?
2- Hai môn đệ của Gio-an vâng lời Thầy để theo làm môn đệ Đức Giê-su là hai ông nào?
3- Giờ của người Do thái được tính như thế nào?
4- Hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm gì sau khi tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai?
5- Đức Giê-su đã đặt tên Kê-pha cho ai và tên đó có ý nghĩa thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
2. CÂU CHUYỆN: Giới thiệu Chúa cho tha nhân.
Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở vì bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa chính thức theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, tôi đã gặp phải trở ngại từ phía gia đình nên chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi không còn liên lạc gì nữa vì bị mất địa chỉ của ông. Từ đó, tôi để tâm tìm một người nào khác giúp đỡ. Tuy nhiên, dù đã gặp khá nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy ai sẵn sàng trao đổi với tôi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp của tôi ngày một nặng hơn. Tôi tự nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là gia nhập vào đạo công giáo. Do đó hôm nay khi nghe cô hỏi về tôn giáo thì tôi rất vui. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin theo đạo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã liên lạc và mời được một linh mục đến ban phép Rửa Tội cho ông cụ trước khi ông nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong sự thanh thản, vì giờ đây cái chết đối với ông trở thành niềm hy vọng, và là một cuộc hành trình về Thiên Đàng để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của ông.
3. SUY NIỆM:
1) Những cuộc giới thiệu Đức Giê-su trong Tin Mừng: Tin mừng Gio-an nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông An-rê. Hôm nay An-rê đã giới thiệu Đức Giê-su cho em ông là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem trước cuộc khổ nạn, cũng chính An-rê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Đức Giê-su, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (x, Ga 12,31-32).
2) Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu An-rê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giê-su thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phê-rô. Nếu An-rê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” với Đức Giê-su, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su. Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh An-rê là: Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ gười này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như An-rê đã gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
3) Hãy đến mà xem: Đức Giê-su không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giê-su, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Đức Giê-su, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.
4) Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Đức Giê-su không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Đức Giê-su đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người
5) “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niemf vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.
4. PHÚT HỒI TÂM:
• Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đã đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su chưa? Mỗi lần rước lễ tôi có cảm thấy đã gặp Chúa Giê-su Thánh Thể không?
• Mỗi khi gặp một người nghèo khổ bệnh tật, tôi có ý thức Chúa Giê-su đang ở trong họ và đang chờ tôi giúp đỡ hay không?
• Tình yêu dành cho Chúa ở nơi tôi bây giờ ở mức độ nào? Tình yêu ấy có sức thúc bách tôi dấn thân đem Chúa giới thiệu cho người khác như An-rê đã làm trong Tin Mừng hay không?
• Nếu hiện giờ tôi đang dửng dưng với vấn đề Đức Tin là do đâu?
• Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì để củng cố lòng tin cậy mến Chúa nơi bản thân và sẽ sẽ đến thăm ai để giới thiệu Chúa cho họ?
5. LỜI NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con hiểu rằng: Chúa luôn nhờ đến đôi tay chúng con để phân phát chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói và động viên an ủi những người bất hạnh; Chúa đang nhờ trái tim của chúng con để yêu thương những người cô đơn hay đang lạc xa Chúa; Chúa đang nhờ miệng lưỡi của chúng con để an ủi động viên những người tội lỗi đang lạc xa Chúa, để trình bày về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người kẻ nghèo hèn. Hôm nay Chúa vẫn đang cần dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để xoa dịu những đau thương bất hạnh và góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, giúp tha nhân vui mừng và hy vọng được sống trong Nước Trời của Chúa sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
***
SUY NIỆM 2:
CHU TOÀN SỨ MỆNH GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN
1) Tin mừng Gio-an đã thuật lại việc ông An-rê đã giới thiệu em là Si-mon với Đức Giê-su như sau: An-rê là anh của Si-mon Phê-rô, ông đã được thầy là Gio-an Tẩy giả giới thiệu Đức Giê-su với ông. Ông đã đi theo Đức Giê-su đến nơi Người ở và ở lại với Người ngày hôm đó. Sau khi đã tin Người là Đấng Thiên Sai, An-rê liền đi gặp em là Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41), rồi dẫn em đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Si-mon và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là Đá. Ngày nay Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta giới thiệu Người với những ai chưa nhận biết, để họ tin và được hưởng ơn cứu độ của Người.
2) Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở do bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông đã tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, do gặp cản trở từ phía gia đình nên tôi chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn trực tiếp với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi mất liên lạc do không biết địa chỉ của ông. Từ đó, tôi ước mong có một người công giáo nào khác giúp tôi theo đạo. Tuy nhiên, dù đã gặp nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy có ai sẵn sàng trao đổi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp ngày một nặng hơn. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là được theo đạo công giáo. Hôm nay tôi rất vui khi nghe cô hỏi về tôn giáo. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin gia nhập đạo công giáo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã mời một linh mục đến dạy đạo và ban phép Rửa Tội trước khi ông cụ nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong an bình thanh thản, vì giờ đây cái chết không còn là đi vào chốn vô định, nhưng là một cuộc hành trình lên trời để gặp Thiên Chúa là Cha của ông.
3) Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao có nhiều tín hữu công giáo lại có thái độ thờ ơ, không nhiệt thành giới thiệu Chúa cho người thân và bạn bè để họ cũng được ơn cứu độ giống như mình?
– Có thể do họ nghĩ việc loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của các linh mục, mà chưa ý thức đó cũng là trách nhiệm của mọi tín hữu. Thực vậy, do đã được chịu phép rửa tội và Thêm Sức, họ được trở nên con Thiên Chúa và môn đệ Đức Giê-su, nên cũng có sứ mệnh làm chứng cho Người như lời Chúa phán với các môn đệ trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
– Có thể do họ chưa ý thức giá trị của thức ăn tinh thần là Lời Chúa, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc vật chất, đang khi Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
– Có thể do họ mang mặc cảm tự ti về vốn liếng giáo lý Thánh kinh ít ỏi của mình, nên không dám mạnh dạn đề cập về đức tin tôn giáo với những người không cùng tín ngưỡng.
– Nhưng lý do chính yếu là do thiếu lòng tin yêu Chúa, do chưa được tái sinh bởi Thánh Thần, nên họ không thiết tha với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Nếu có lòng tin yêu Chúa thật sự, thì chắc mỗi người chúng ta sẽ nhiệt tình giới thiệu Chúa như thánh Phao-lô đã viết: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14); “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16); Từ nay “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
4) Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn chúng con làm chứng cho Chúa cụ thể bằng đôi tay sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói; Chúa nhờ trái tim của chúng con để yêu thương tha nhân, nhất là những người đau khổ bất hạnh; Chúa nhờ miệng lưỡi của chúng con để giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con nên khí cụ bình an của Chúa, để xây dựng hòa bình và tích cực góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ gia đình, đến khu xóm và môi trường chúng con đang sống.- Amen.