Suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tin Mừng hôm nay là lời tâm sự của Đức Giêsu, Ngài khẳng định mục đích của đời mình là ném lửa trên mặt đất và Ngài mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Lửa Đức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Đức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau. Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Đức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Đừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra.
Lửa thiêu hủy những cằn cỗi. Lửa thanh lọc những ô nhơ. Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá. Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng ta cần làm cho mong muốn của Đức Giêsu thành tựu.
Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Đức Giêsu chia sẻ cho ta điều đang đè nặng trên Ngài. Ngài linh cảm về thử thách lớn lao Ngài sắp chịu. Đúng là Ngài đang lên đường đi gặp nó. Ngài gọi đó là Phép Rửa mà Ngài phải chịu.
Đức Giêsu can đảm đón nhận Phép Rửa đáng sợ này. Ngài thấy mình sẽ bị nhận chìm thật sâu trong đó.
Đức Giêsu tiếp tục nói điều phải nói, làm điều phải làm. Ngài dám trả giá cho sự trung tín của mình. Nỗi khổ đau và cả cái chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều đó chẳng làm Ngài chùn bước.
“Các anh có thể chịu Phép Rửa mà Thầy sẽ phải chịu không?”
Ngài đã hỏi các con ông Dêbêđê như thế (Mc 10,38), và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế.
Chẳng có Phép Rửa nào khác ngoài Phép Rửa Ngài đã chịu. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Tin Mừng Đức Kitô dành cho người hiền hòa, chứ không nhu nhược.
Chúng ta phải có cùng một mong muốn và khắc khoải như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Thế giới hôm nay đầy đau khổ do con người gây ra cho nhau chỉ vì trái tim đóng băng lạnh giá. Theo ý bạn, làm sao để làm nóng lại trái tim con người?
– Sống là chấp nhận trăn trở, khắc khoải. Bạn thấy mình hay trăn trở về điều gì? Bạn có trăn trở về Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình Yêu và gieo rắc Tình Yêu khắp nơi. Amen.
2. Phải chi lửa ấy đã bùng lên
(Trích dẫn từ ‘Manna’ của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu… Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội)?
– Bạn có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
3. Đức Kitô là lửa tình yêu – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ngày khai mạc Olympic năm 1988 ở Đại Hàn đã trình diễn rất nhiều màn ngoạn mục đầy ấn tượng. Một trong những màn đó là rước lửa thiêng Olympic từ Hy Lạp tới và một lực sĩ đã dùng cung tên bắn ngọn lửa từ dưới đất bay lên vút trời nhào xuống ngọn đuốc cao bùng cháy sáng rực, soi sáng cho các cuộc tranh tài thể thao suốt ba tuần lễ.
“Đức Giêsu đã đến ném lửa vào trái đất” cho trái đất bùng cháy lên soi sáng cho chúng ta biết thi đua nhau trình diễn những màn ngoạn mục tuyệt đẹp về cuộc đời của mình. Người mong muốn lửa tình yêu của Người được bùng lên trong đời sống chúng ta, đến nỗi Người nói: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”.
Giêrêmia đã phải chịu phép rửa ấy dưới hố giếng sâu đầy bùn sình ghê tởm, đầy những hạng độc ác, đầy bọn hiếu chiến chỉ lo liên kết với Ai Cập chống Babilon. Họ không nghe lời can gián của Giêrêmia, họ muốn xử tử ông và đẩy dân tộc đến chỗ diệt vong bởi tay ngoại bang Babilon. Còn Giêrêmia và những ai trông cậy Chúa sớm muộn gì cũng được Chúa cứu thoát.
Đức Giêsu cũng mong muốn chịu một phép rửa kinh khủng gấp bội Giêrêmia. Phép rửa Đức Giêsu chịu bắt đầu ngay từ ngày sinh ra trong hang bò lừa tối tăm buốt giá. Đó là hình ảnh hố giếng sâu trần gian đen tối đầy bùn nhơ, đã được người đem ánh sáng vinh danh Thiên Chúa đến chiếu soi cho trái đất rực rỡ vinh quang.
Thứ đến, Đức Giêsu đã đến sông Gioc-đan chịu phép rửa của Thánh Thần, nơi bao nhiêu tội nhân đang mong chờ Người đem lửa Thánh Thần đến thanh tẩy họ.
Tột đỉnh của phép rửa Người chịu là phép rửa bằng máu chảy ra từ trái tim của Người khi bị treo trên thập giá để tẩy xóa tội lỗi trần gian, thay cho máu chiên bò hy tế đầy hôi tanh.
Nếu người ta lấy máu ngón tay viết huyết thư để tỏ nỗi tâm huyết của mình, thì Đức Giêsu chẳng những lấy hết máu trong trái tim, mà còn lấy cả mạng sống mình, viết lên bức thư tâm huyết bày tỏ cho muôn dân thấy tình yêu Thiên Chúa thương yêu họ biết chừng nào!
Tình yêu Thiên Chúa đã bốc lửa cháy lên trong bụi gai giữa đồng hoang, cho Môsê thấy lòng Thiên Chúa thương yêu dân Israel đang bị nô lệ Ai Cập, và truyền cho Môsê đến gặp vua Pharaon phải cho dân về quê hương Đất Hứa.
Tình yêu Thiên Chúa đã cháy lên thành ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho dân đi trong đêm tối giữa rừng núi hoang vu.
Tình yêu Thiên Chúa tỏa sáng khắp núi Sinai để ban mười giới luật cho dân sống trong ánh sáng thánh thiện của Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa rực rỡ như than hồng đốt tất cả mọi bợn nhơ bám vào miệng lưỡi ngôn sứ Isaia, để ông rao giảng Tin Mừng về Đấng Cứu thế. Chính lửa trời này đã xuống thiêu đốt của lễ của Êlia, làm cho dân nhận biết chỉ có Thiên Chúa của Êlia là Thiên Chúa thật để họ bỏ tà thần Baal, trở về thờ phượng Thiên Chúa. Lửa đó đã hóa ra chiếc xe hỏa chở Êlia lên trời.
Lửa bởi trời đó nay được chính Đức Giêsu đích thân ném xuống thế gian cho đến ngày tận thế, cho đến ngày hoàn tất công cuộc cứu độ muôn dân. Chính lửa đó làm cho muôn dân được sáng lên trong ánh sáng phục sinh.
Chính lửa ấy Đức Giêsu và Thần linh của Người đã đốt lên trong lòng các thánh tông đồ trở nên những lực sĩ vô địch chạy đua bao quanh khắp thế giới để cho lửa tình yêu của Thiên Chúa bùng lên khắp mặt đất.
Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta đã được chịu phép rửa trong máu Trái tim Chúa, đã được đốt lên trong lửa Chúa Thánh Thần thêm sức, chúng ta phải cháy lên, nóng lên, phải cố gắng hằng ngày đi nung nấu mình trong ánh sáng của Phúc âm, rèn luyện mình trong lò lửa cầu nguyện, để trở thành đuốc thiêng soi sáng vận động trường thế giới sáng lên, nếu không, ta sẽ bị vất bỏ ra ngoài như đồ bị mửa ra vì “nóng không nóng hẳn, dở dở hâm hâm sẽ bị mửa ra”.
Tất cả các môn đệ chân chính của Đức Kitô, đều phải trở nên chứng nhân như cột lửa sáng dẫn lối chỉ đàng cho muôn dân thoát cảnh tăm tối. Tất cả mọi Kitô hữu đích danh phải kiên cường như những lực sĩ, phải chạy đua tận lực, phải xiết ga để đoạt cúp, phải kiên trì tập luyện trừ khử mọi trở lực tính mê tội lỗi. Phải “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chịu ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Bài II). Vậy tất cả anh em là đèn sáng thế gian, đặt trên giá đèn, sưởi ấm cho gia đình, đốt nóng xóm làng, soi sáng khắp phố phường cho mọi người nhận biết Chúa, nhận được lửa tình yêu cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thao thức, khắc khoải đón nhận lửa tình yêu của Đức Kitô để trở nên những lực sĩ, những vận động viên chạy đi khắp nơi thắp sáng các gia đình trong xứ đạo, trong làng nước và cả thế giới này.
Thầy đem lửa xuống trần gian.
Sách có chữ: Đạo bất viễn nhân. Đạo không bao giờ xa người, vì thế ngày nào có người thì ngày ấy phải có đạo, bằng không thì người chẳng còn là người nữa. Tuy nhiên theo thời gian, đạo chia làm hai giai đoạn, đó là đạo cũ và đạo mới. Đạo cũ cũng gọi là đạo lề luật có từ khởi thuỷ cho đến Chúa Giêsu sinh ra. Còn đạo mới được gọi là đạo tình thương xuất hiện kể từ Chúa Giêsu cho đến ngày tận thế. Đạo cũ dựa trên lề luật cho nên nó nặng nề. Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng: Mắt đền mắt, răng thế răng. Đồng thời nó cũng thẳng thắn và phân minh: Tội phạm ở đâu thì hình phạt ở đó. Đời ông Noe vì phạm tội cho nên loài người đã bị trừng phạt bằng trận đại hồng thuỷ. Đời ông Abraham vì tội lỗi mà hai thành Sođoma và Gômôra đã bị thiêu huỷ. Đời ông Maisen, vì tội thờ bò vàng ma dân Do Thái đã nhiều phen bị khốn đốn.
Thế nhưng, khi Chúa Giêsu giáng trần, Ngài ban hành đạo mới tức là đạo tình thương. Đạo tình thương không giẫm chân lên đạo lề luật, nhưng bổ túc và tăng cường làm cho đạo lề luật trở nên hoàn hảo hơn. Đạo lề luật đặt nền móng trên hình phạt trong khi đạo tình thương xây dựng trên sự tha thứ: Hãy yêu thương kẻ thù, hãy tha thứ cho nhau mãi mãi. Chính vì thế Chúa Giêsu có lý khi quả quyết: Gánh Ta thì nhẹ nhàng và ách Ta thì êm ái.
Sáng lập ra đạo tình thương mà thôi chưa đủ, Chúa Giêsu còn biểu lộ tình thương ấy cho mọi người nhận biết. Để đạt mục đích ấy, Chúa Giêsu đã dùng việc làm và lời nói như sách Tông đồ Công vụ đã bảo: Chúa Giêsu làm trước và nói sau. Vậy thì Ngài đã làm gì? Tôi xin thưa: Ngài đã xuống thế để ở cùng chúng ta để yêu thương chúng ta và để chết vì chúng ta như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Suốt cuộc đời đã không ngừng yêu thương từ người lành như các môn đệ đến những kẻ tội lỗi như bọn thu thuế và đĩ điếm, từ người đau yếu đến kẻ đã chết, từ người quê mùa đến kẻ thông biết, Ngài đã thực hiện đúng như thánh Phaolô đã diễn tả: Ta đã trở nên tôi tớ mọi người để sinh ích cho mọi người. Đức Kitô nhận Ngài là Thiên Chúa, đã hạ mình xuống trở thành con người để nhờ đó con người trở thành Thiên Chúa. Ngoài việc làm, Chúa còn dùng lời nói, vậy Chúa đã nói những gì? Ngài bảo kẻ không yêu thì ở trong sự chết. Ngài còn nói gì nữa? Ngài bảo kẻ nào yêu Ta thì Cha Ta sẽ yêu lại nó và chúng ta sẽ đến cư ngụ tại nhà nó. Rồi Ngài lại còn nói gì nữa? Ngài bảo những kẻ đã được Cha Ta trao phó cho Ta thì Ta không để một ai bị hư mất. Ngài chính là người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về. Vậy chúng ta phải làm gì? Thánh Augustinô trả lời: Tình yêu kêu gọi tình yêu. Chúa đã yêu thương chúng ta cho nên chúng ta cũng phải lấy tình thương mà đáp trả. Yêu Chúa là đi một đường với Chúa: Kẻ không đi với Ta là kẻ phản bội Ta. Mà con đường của Chúa gồm trong hai điểm: mến Chúa và yêu người: Hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và mong cho lửa ấy bừng cháy. Vậy trước hết xin cho lửa ấy bừng cháy trong con tim trong cõi lòng của chúng ta, để nhờ đó sẽ bừng cháy trong xã hội chúng ta đang sống.
Đức Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào bộ mặt của thế giới ngày nay, thì khách quan mà nói: Đức Kitô đúng là đã gây chia rẽ. Ngài chia rẽ những kẻ tin và không tin. Rồi ngay giữa những kẻ tin thì cũng còn có chuyện Công giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo. Rồi giữa người công giáo với nhau, hiện nay cũng có phe nọ phe kia, và phe nào thì cũng lấy Chúa ra để biện minh cho lập trường của mình. Người ta đã chẳng chia rẽ nhau vì Chúa đó ư? Quả thật đúng như lời ông già Simêon đã nói: Trẻ nhỏ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp ngã.
Thực ra vấn đề không phải là Đức Kitô đã gây chia rẽ bằng cách xúi giục người ta ghen ghét hận thù nhau, hay là khích bên này chống lại bên kia. Chúa đến thực sự để đem lại sự bình an, để xây dựng một thế giới có công lý và tình thương, nền tảng của hoà bình. Nhưng hoà bình đó, đúng như Ngài đã nói, không phải là loại hoà bình kiểu thế gian, nghĩa là hoà bình của một sự thoả hiệp vì hèn nhát hay vì áp lực. Bình an của Ngài là bình an nhờ giá máu thập giá, nghĩa là bình an được xây dựng trên công lý, một công lý mà người ta phải đấu tranh, phải hy sinh, phải liều mạng mới có thể đạt được.
Hoà bình phải là thành quả của công lý, nhưng có được công lý, hay nói đúng hơn thực hiện được công lý, không phải là chuyện dễ. Người ta có thể dễ dàng kết bầu kết bạn với nhau để ăn nhậu, để chơi bời, nhưng tìm người hợp tác làm ăn thì không phải bao giờ cũng dễ. Ăn cho đều, kêu cho sòng, là nguyên tắc không phải bao giờ cũng thực hiện được, bởi vì khi làm thì ai cũng muốn phần ít, nhưng khi hưởng lợi thì lại muốn phần nhiều. Như thế, ngồi nhà mát, mà được ăn bát vàng, phải chăng đã là cái thói thường của người đời.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên án thứ công lý ăn gian ấy, Ngài đấu tranh cho người nghèo, đem công lý đến cho những kẻ tội lỗi, bởi vì họ mới chính là những người đáng thương. Công lý của Chúa là bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Là hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhu, là kẻ khó nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chính vì lý do ấy mà Ngài đã gây chia rẽ bất đồng. Nói khác đi, những ai theo đúng đường lối của Chúa, thì sẽ không thể nào đứng chung hàng ngũ với những người chà đạp và bóc lột những kẻ nghèo túng và thấp cổ bé miệng.
Vì thế, những ai đứng về phe Chúa thì cũng phải đứng về phía những người nghèo hèn khốn khổ. Chính Ngài đã đến với họ, sống với họ, chết như họ và cho họ. Tuy nhiên liệu chúng ta có can đảm đứng về phía Ngài và cùng bước đi với Ngài hay không.
Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh sáng và sức nóng.
Ánh sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và đốt cháy những gì nhơ nhớp.
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Tuy nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Thực vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem Chúa đến cho những người chung quanh.
Để kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị sáng lập hội Bác ái Vinhsơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt thành bênh vực cho Chúa.
Vào năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.
Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.
7. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
– Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
– Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
– Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
8. ”Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Báo Tuổi Trẻ trong bài “Một cái chết bắt đầu cho sự sống” đã viết về anh Nguyễn Đức Minh như sau:
“… Vật vã với cơn đau ngày càng tăng, từ đầu năm anh tìm đến khoa giải phẫu của Trường Đại Học Y Dược rồi về nhà lập tờ di chúc, trong đó chỉ có 3 điều ước mong: hiến xác, đề nghị gia đình không làm đám tang lớn để lấy tiền giúp người khốn khó và dành những vật dụng riêng gồm máy đánh chữ, cassette, ampli, dụng cụ học tập của Câu lạc bộ Bừng Sáng. Chị hai của Đức Minh cho biết: “Em tôi lo gia đình không thực hiện lời hứa nên đã bắt cha mẹ ký xác nhận cho xác em mới chịu lên bàn mổ. Trước khi mổ, em còn dặn bác sĩ viện trưởng có gì thì đưa xác em đi ngay để gia đình khỏi đổi ý…”
Mong ước của anh Minh giúp chúng ta phần nào nhận ra được những khao khát của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc Thương Khó: “Thầy ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!” Chính Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên măt đất, và Ngài ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên. Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và huỷ diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ trên đường Emmau đang tuyệt vọng.
Ngọn lửa ấy, có lẽ rất cần chạm đến cuộc đời chúng ta. Vì cuộc đời quanh ta vẫn còn đó những bóng tối của đọa đầy, của bất công. Vì cuộc đời quanh ta vẫn còn đó những người đang thất vọng chán chường. Phải chi ngọn lửa của Đức Kitô luôn được thắp sáng nhờ những người môn đệ của Chúa. Những con người luôn làm cho ngọn lửa ấy mãi bừng cháy lên trong thế giới quanh ta.
Vâng, sự trăn trở và ước mong cho ngọn lửa ấy bừng lên dường như vẫn đang là lời mời gọi thiết tha mà Chúa muốn nơi chúng ta: “Phải chi lửa ấy đã bừng lên!” Chúa vẫn mời gọi chúng ta thực hiện niềm ước mong mà Chúa đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới trở nên ấm áp hơn, cho con người biết sống cho nhau và vì nhau. Cho con người biết lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy. Cho công lý ngự trị và hoa bác ái nở rộ tràn lan trên mặt đất.
Nhưng, để có thể gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng, là phải chấp nhận bị khước từ và đe doạ. Chính Chúa khi còn tại thế đã linh cảm những gì xảy ra cho đời mình. Chúa sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau của cô đơn phản bội.
Hôm nay, Chúa lại mời gọi chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối:
Bóng tối của bất công, sa đoạ và tuyệt vọng.
Bóng tối của hận thù, cục bộ và chia rẽ.
Bóng tối của nghèo nàn và lạc hậu.
Bóng tối ở ngay trong lòng mình.
Đôi khi bóng tối quá dày đặc mà ngọn lửa của chúng ta lại qúa yếu ớt, khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi. Nhưng sau đêm dài là ánh bình minh. Sau gian khó hy sinh là những ngày gặt hái tươi vui. Như Chúa khi bị treo trên thập tự giá. Khi bị giam trong mồ. Bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Chúa, nhưng ngọn lửa Phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm thắp sáng ngọn lửa yêu thương giữa đêm đen của ích kỷ hận thù hôm nay. Xin cho ánh lửa tình yêu của chúng ta mãi lan toả đến tận cùng trái đất. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát thật phũ phàng về tình yêu mà sao vẫn được nhiều người hát: “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề nuối tiếc”. Phải chăng con người ngày nay hay thay đổi và muốn thay đổi? Phải chăng con người ngày nay không còn khả năng giữ ngọn lửa tình yêu để rồi nó vội cháy, vội tàn? Và có thật với lòng mình tình yêu đến và đi không hề nuối tiếc?
Thực ra tình yêu khởi phát từ con tim, tình yêu sẽ xoáy vào tim qua thời gian thì làm sao khi mất nó lại không làm ta đau lòng? Yêu và mất chắc chắn sẽ là nỗi quặn đau trong trái tim con người. Điều quan trọng là hãy biết giữ lửu yêu thương. Hãy biết chăm chút cho tình yêu từng ngày qua từng nghĩa tử quan tâm, chăm sóc vỗ về lẫn nhau. Nhưng đáng tiếc, người ta thích nhóm lửa tình yêu mà lại không đủ kiên nhẫn để gìn giữ nên dễ tàn lụi theo thời gian.
Người ta nói rằng, nhìn một đôi trả tiền trong quán ăn, có thể biết quan hệ của họ. Nếu người đàn ông trả tiền, thì họ là tình nhân. Còn ngược lại, khi đàn bà trả tiền – đó là vợ chồng. Khi còn yêu nhau, họ quấn quýt hết giờ hết buổi, mà vẫn thấy thời gian trôi nhanh như chớp mắt. Cưới nhau, thời gian là vô tận, nhưng có những ngày chẳng ai nói với nhau câu nào, thậm chí cả câu chào cũng không!
Nguyên nhân chình là ngọn lửa tình thiếu chăm sóc nên cũng nguội dần theo thời gian. Ngọn lửa ấy phải được thắp sáng mãi mới có thể mang lại mái ấm gia đình ngập tràn hạnh phúc hân hoan. Nếu tình yêu không được hun nóng từng ngày thì gia đình sẽ lạnh vắng cô đơn.
Chúa Giêsu khi vào trần gian Ngài cũng ném ngọn lửa yêu thương vào cuộc đời. Ngọn lửa ấy Ngài đã thắp lên trên cây thập tự là biểu tượng cho mọi tình yêu bất diệt trên thế gian. Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ trên đường Emmau đang tuyệt vọng. Lửa dẫn lối cho những ai đang lạc lối và hun nóng cho những mảnh đời lạnh giá của cô đơn, thất vọng.
Ngọn lửa yêu thương của Chúa ném vào thế gian vẫn mong được bừng cháy trong thế giới hôm nay. Lửa yêu thương cần phải luôn thắp sáng trong mỗi gia đình. Ngọn lửa ấy cần được lan tỏa trong mọi môi trường của cuộc sống. Vì nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại hôm nay cũng cần nghe lời yêu thương cảm thông để thoát khỏi những u sầu, tuyệt vọng trong cuộc sống.
Thế nên, người ky-tô hữu cần phải giữ ngọn lửa yêu thương trong trái tim mình. Đừng để sự ích kỷ, dối gian dập tắt ngọn lửa yêu thương trong tim mình. Hãy thắp sáng ngọn lửa yêu thương trong lòng mình. Đừng dập tắt ngọn lửa ấy bằng đam mê lười biếng, bằng ích kỷ tham lam. Đừng dập tắt hy vọng, niềm tin nơi tha nhân khi chúng ta đối xử thiếu tình yêu.
Ước mong nơi các gia đình hãy theo lời Chúa mà giữ mãi ngọn lửa yêu thương. Ước mong các gia đình hãy để cho ngọn lửa tình yêu Chúa chiếm hữu để nhờ đó gìn giữ gia đình luôn rộn ràng niềm vui và hân hoan. Amen.
10. Hoàng tử bình an đến mang sự chia rẽ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay xem ra thật nghịch lý: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 51-53).
Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Đức Giêsu được Isaia loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thiên chào đón với những lời ca tiếng hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Khi đi rao giảng, Người đã từng công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, 9). Chính Đức Giêsu, khi bị bắt, đã truyền cho Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26, 52). Nay lại tuyên bố: “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51). Chúng ta lý giải sao cho sự mâu thuẫn này?
Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt xem đâu là sự bình an và hiệp nhất mà Đức Giêsu mang đến, và đâu là sự bình an và sự hiệp nhất Người muốn tẩy chay. Người đến ban bình an và hiệp nhất cho người lành, bình an dẫn tới sự sống đời đời, và Người tẩy chay sự bình an và hiệp nhất giả tạo, chỉ ru ngủ lương tâm và dẫn tới sự đồi bại.
Không phải Đức Giêsu có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn. Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn, chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau. Lời và con người Đức Giêsu sẽ phát hiện những điều gì giấu kín nhất trong chốn sâu thẳm lòng người. Cụ già Simeon đã tiên báo điều này, khi bồng Hài Nhi Giêsu trên tay mình và nói: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Isrel phải sụp đổ. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư của nhiều tâm hồn được biểu lộ” (Lc 2,35).
Phải chăng “lưỡi gươm” mà Đức Giêsu đã mang xuống trái đất, chính Người là nạn nhân đầu tiên cho sự chống đối này? Đúng thế, Chính Đức Giêsu sẽ là nạn nhân thứ nhất, Người sẽ thí mạng sống Người vì nó. Tiếp theo, người trực tiếp hơn hết dính líu trong thảm cảnh này là Đức Maria Mẹ Người, như cụ già Simeon đã nói về Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).
Chính Đức Giêsu cũng đã phân biệt hai kiểu bình an khi nói với các môn đệ mình rằng: “Thầy để lại bình an cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các các con đừng xao xuyến” (Ga 14, 27). Sau khi phá hủy sự bình an và tình liên đới giả tạo của loài người trong sự dữ và sự tội nhờ sự chết của Người, Đức Giêsu đã hoàn tất sự bình an và hiệp nhất mới là hoa quả của Chúa Thánh Thần. Đó là sự bình an Người cống hiến cho các môn đệ trong đêm Phục Sinh, khí nói “Bình an cho anh em!”
Đức Giêsu nói rằng sự “chia rẽ’ này cũng có thể xảy ra trong gia đình: giữa cha và con trai, mẹ và con gái, anh em và chị em, nàng dâu và mẹ chồng. Và vô phúc thay, chúng ta biết điều này thỉnh thoảng gây đau đớn thật sự. Người nào đã gặp được Chúa và muốn nghiêm chỉnh theo Chúa, thường thấy mình ở trong tình huống khó khăn phải lựa chọn: Hoặc làm cho những người tại nhà được hạnh phúc và lơ là Thiên Chúa và việc thực hành đạo đức, hoặc là theo những cái sau và đặt mình xung đột với những người của mình, những kẻ mang lại rắc rối cho mình vì mọi sự nhỏ mọn mình làm cho Thiên Chúa và vì lòng sốt sắng.
Nhưng sự chống đối thâm nhập còn sâu hơn, trong chính con người, và trở thành một trận chiến giữa xác thịt và tinh thần, giữa tiếng mời gọi đi tới ích kỷ và sự hưởng thụ quá đáng, và tiếng gọi lương tâm. Sự chia rẽ và xung đột bắt đầu bên trong chúng ta. Thánh Phaolô đã minh họa điều này cách rất kỳ lạ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt; đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gal 5,17).
Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy: ” Bản chất của hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Is 32,7). Hòa bình là kết quả của một trật tự đã được chính Thiên Chúa, Ðấng Sáng Lập, ghi khắc vào xã hội loài người và phải nhờ những người luôn luôn khao khát một nền công bằng hoàn hảo hơn thể hiện ra trong hành động…Do đó, hòa bình không bao giờ đạt được một lần là xong, nhưng phải xây dựng mãi mãi. Vì ý chí của con người yếu đuối và bị tội lỗi làm tổn thương, do đó muốn có hòa bình mỗi người phải luôn luôn kiềm chế dục vọng của mình và chính quyền phải canh phòng cẩn thận.
Phát sinh từ tình yêu tha nhân, hòa bình trần gian là hình ảnh và là kết quả của hòa bình Chúa Kitô, hòa bình do Ðức Chúa Cha mà đến. Vì chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử hòa bình đã dùng thập giá Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa; Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể. Người đã hủy diệt hận thù trong chính xác thể Người, và sau khi đã khải hoàn phục sinh, Người đã đổ tràn Thánh Thần tình yêu đầy lòng con người.
Nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi và cũng thắng vượt bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: “Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thành lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không còn tập luyện để chiến đấu” (Is 2,4). (Trích Hiến chế “Gaudium et spes”, số 78).
Xin cho thế giới được hưởng nền hòa bình do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Nữ Vương Bình An cầu cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và chúng ta về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”. Lửa ấy là gì? Theo các nhà chú giải Thánh kinh, lửa ấy chính là: Tin Mừng, là Chúa Kitô, là Chân lý và là Thần Khí. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chúa Kitô và Tin Mừng tình yêu cứu độ của Ngài đồng thời Tin Mừng của Chúa cháy lan ra khắp mọi người qua việc sống kết hiệp với Chúa và Tin Mừng của Ngài trong đời sống của chúng ta.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc và ai sống các mối phúc thì họ sẽ được Nước Thiên Chúa làm gia nghiệp (Mt 5,3-12). Qủa thế, trước khi Chúa ném lửa là Tin Mừng và chính thân mình Ngài vào trần gian, Chúa Giêsu đã làm cháy ngọn lửa ấy rõ ràng nơi toàn bộ cuộc sống của Ngài. Chẳng hạn, Ngài đã yêu thương, đồng hành, sẻ chia, nâng đỡ, an ủi, giúp đỡ, hy sinh, tha thứ đối với các tội nhân, với những người nghèo, những người bị đẩy ra bên lề, các bệnh nhân và những người đau khổ…. Rồi, khi Chúa Giê-su thấy nhiều người đi theo Ngài đang bị mệt mỏi và kiệt sức, bị bỏ rơi và như đoàn chiên không có chủ chăn, Ngài đã chạnh lòng thương họ với nỗi cảm thông sâu xa trong con tim của Ngài và Ngài đã chăm sóc họ bằng cách hóa bánh và cá ra nhiều để cho họ ăn. Rồi khi Ngài gặp bà góa thành Na-im, người đang tiễn đứa con duy nhất của mình tới mộ, Ngài đã cảm thấy có một sự đồng cảm mạnh mẽ với sự đau đớn khôn cùng này của một người mẹ đang than khóc đứa con của mình, đến độ Ngài đã làm cho người con ấy được sống lại và trao người con này lại cho bà (xc. Lc 7,15). Tiếp nữa, Ngài đã trừ quỷ cho những người bị quỷ ám. Và cuối cùng, Chúa Giêsu đã chịu nạn, chịu chết, phục sinh để cứu độ mọi người sống thánh thiện và khỏi chết muôn đời.
Tin Mừng tình yêu cứu độ của Chúa được thể hiện trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian để rồi Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần tội lỗi bằng ánh sáng Phục sinh thánh thiện và sai các môn đệ đi loan báo ánh lửa phục sinh, lửa Tin Mừng cứu độ vào trần gian và làm cho Lửa ấy bừng cháy lên nơi chính mỗi người và mọi người nơi trần gian này. Cụ thể, trong ngày chúng ta chịu Phép Rửa Tội, sau khi đổ nước Rửa Tội, Linh mục trao chúng ta cây nến được thắp lên từ ngọn lửa của cây nến Phục sinh và nói: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin, để khi Chúa đến, con xứng đáng ra nghinh đón Người với toàn thể các thánh trên trời”. Như vậy, sau khi Rửa tội, Chúa đã ném lửa vào cuộc đời và tâm hồn chúng ta, chúng ta phải giữ lửa Chúa Kitô phục sinh cháy mãi cho đến khi Chúa đến, đừng để nói tắt lịm kẻo lúc ấy chúng ta sống trong bóng tối tội lỗi thì khốn khổ biết bao. Cho nên, Lời Chúa trong Thư Do thái hôm nay nói rằng: “Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”.
Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay những ước mong Lửa của Giêsu bùng lên trên thế gian, có nghĩa rằng Ngài mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, tội lỗi bằng lửa tình yêu, thánh thiện, bao dung và công bằng. Vâng, Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, trong ngày lễ Hiện Xuống, trong ngày chịu Phép Thêm Sức, Ngài ban lửa Thánh Thần làm các tông đồ xưa và chúng ta hôm nay can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết Chúa Kitô và Lửa Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Trong hành trình sống đức tin, chúng ta gặp không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, những tội lỗi nhưng với ngọn lửa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô đã ném vào đời người Kitô hữu, chúng ta hôm nay hãy mạnh dạn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa ấy bằng đức tin, đức cậy và đức mến nồng nàng của ta đối với Chúa đồng thời sống thánh và thiện mỗi ngày để Lửa Tin Mừng Chúa Kitô bùng cháy lên nơi mỗi người, gia đình và giáo xứ chúng ta bằng các công việc từ bi bác ái, hy sinh đồng hành với các gia đình đang gặp khó khăn và thử thách.
Giờ đây tôi xin mời cộng đoàn cùng đứng lên hát bài Thánh Ca: Hãy thắp sáng lên như một lời cầu nguyện và xin quyết tâm với Chúa Giêsu rằng:
1. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên. Thắp sáng lên con tim nồng nàn. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên ngọn lửa yêu thương. Cuộc đời bao tăm tối quanh tôi. Ta cần đến ánh sáng chiếu soi. Này bạn hỡi xin chớ lãng quên. Ánh nến trái tim cho đời đẹp thêm.
ĐK: Hãy thắp lên đời ta. Hãy thắp cho trần gian. Thắp sáng lên tình yêu, sáng lên niềm tin, niềm tin GIÊSU. Hãy thắp lên đời ta. Hãy thắp cho trần gian. Đốt cháy tan niềm đau, xoá bóng đêm từ lâu vây kín quanh đời.
2. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên. Thắp sáng lên tươi vui đầy tràn. Này bạn hỡi hãy thắp sáng lên, ngọn lửa hân hoan. Đời hạnh phúc khi sống trao ban. Đem tình CHÚA toả sáng thế gian. Này bạn hỡi xin chớ hững hờ, xin chớ ơ hờ CHÚA đang đợi chờ.
12. Bình An, Niềm Vui, Ơn Cứu Độ – An Phong.
Tin mừng chúa nhật 20 thường niên C thuật lại những lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Những lời này gợi lên một viễn cảnh bi thảm cho sứ vụ của Người trên trần gian: đó là cuộc Thương khó trong tương lai, những đấu tranh làm phân rẽ con người với nhau.
Khi vào trần gian, Đức Giêsu đã đưa lửa vào, và Người ước mong lửa đó bùng lên. Theo Kinh thánh, Lửa là biểu tượng hình phạt của Thiên Chúa, nhất là vào lúc tận cùng thời gian. Lửa còn là biểu tượng cho sự thanh tẩy và làm đổi mới. Chúa Giêsu sẽ thực hiện cuộc thanh tẩy tâm linh nhờ Chúa Thánh Thần.
Đức Giêsu cũng nói đến phép Rửa mà Người sẽ phải chịu. Đây là biểu tượng của việc dìm vào đau khổ – cuộc Thương khó. Người sẽ phải “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình” (Dt 12,4).
“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao?… Không phải thế đâu, nhưng đúng hơn là để gây chia rẽ”. “Sự chia rẽ là đối cực của sự bình an. Nhưng đây là sự chia rẽ vì Chúa, một sự chia rẽ đi vào qui luật của thập giá: Khi mất đi là khi tìm thấy, khi chết đi là khi được sống muôn đời. Hơn nữa, Đức Giêsu đã hứa: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Bởi thế Đức Giêsu không đến trần gian để gieo sự bất hòa, nhưng là đem đến sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng nghĩa với sự bình an. Sự bình an Đức Giêsu mang đến là sự bình an phải chiến đấu trong chân lý, phải được xây dựng trong khó nhọc, trước hết ở trong chính bản thân ta rồi lan tỏa chung quanh ta: đó là dám chấp nhận những mệt nhọc, đói khát, thua lỗ, nhường nhịn vì những điều lành, biết tách mình ra khỏi những đố kị và muôn vàn những cái vừa vụn vặt vừa tầm thường của cuộc sống. Lương thực của sự bình an luôn là một thách thức” (Văn Hòe).
Trong lịch sử nhân loại, Đức Giêsu Kitô quả thực là một nghịch lý. Người đã nên dấu chỉ cho người ta chống đối. Người đã đóng ấn chứng từ của mình bằng việc tự nguyện hy sinh bản thân trên thập giá. Cuộc sống và cái chết của Người đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống.
Trong một thế giới thiếu vắng hơi ấm tình người, thiếu vắng một niềm hy vọng đích thực và tình yêu, Đức Giêsu đã mang đến lửa tình yêu của Người. Ngọn lửa đó sưởi ấm cõi lòng con người, thắp sáng niềm hy vọng. Đó là ngọn lửa Tình Yêu Cứu Độ, nơi đó tất cả chúng ta được thanh tẩy.
Người kitô hữu là người được “vầng đông từ chốn cao vời tỏa xuống hào quang sáng chói, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Thiên Chúa chiếu soi chúng ta, để chúng ta được bình an. Khi cuộc sống có những lo âu, buồn chán, tuyệt vọng, chúng ta hãy tìm đến với ơn Chúa; “ơn Chúa sẽ lôi cuốn bạn, cho tới khi bạn tìm lại được nguồn vui” (thánh Bênađô). Người kitô hữu đích thực là người sống trong niềm vui, bình an và ơn cứu độ của Chúa. Người kitô hữu đích thực thắp lên ngọn lửa tình yêu của Thánh Thần trong lòng mình và nơi người khác.
Phải chăng chúng ta đang sống trong bình an, niềm vui và ơn cứu độ của Thiên Chúa?
Phải chăng chúng ta đang thắp lên ngọn lửa tình yêu, hy vọng và cứu độ để sưởi ấm trần gian?
Lạy Chúa,
Xin đừng để chúng con thất vọng
khi đứng trước khổ đau thử thách.
Xin giúp chúng con nhận ra
giữa những tăm tối vẫn còn ánh sáng,
giữa những đau buồn chóng qua luôn có niềm vui đích thực,
và nhất là giữa những thăng trầm biến đổi
luôn có những hồng ân và sự hiện diện đầy yêu thương.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
DỆT NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN CHIẾN TRANH
Chúng ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành những kẻ yếu hèn. Nhưng nếu chúng ta mơ ước có tâm lòng thanh thản, cuộc sống hòa bình, môi trường sống an lành (gia đình, cộng đoàn, công việc, làng xóm hay khu phố, cho đến đất nước và thậm chí thế giới), bài suy niệm hôm nay sẽ nói với chúng ta rằng chúng ta không tìm thấy những điều đó nơi Chúa Giêsu: “Ta không ban hòa bình cho các con như thế gian cho” (Ga 14,27)
– Thầy đến mang lửa xuống, nhưng trước hết Thầy phải chịu phép rửa bằng lửa. Các con đừng tưởng Thầy đến để thiết lập sự bình an trên trái đất, mà là đem sự chia rẽ.
Nếu lời này đụng chạm đến chúng ta và thậm chí làm chúng ta phẫn nộ, chúng ta phải tự kiểm tra: nỗi lo sợ chia rẽ của chúng ta có lành mạnh, cao cả, hoặc chỉ là một ước muốn an thân khá tầm thường? Mác đã nói: một dân tộc khốn khổ tạo ra, cùng với tôn giáo, một loại thuốc phiện. Có bao giờ chúng ta rút ra từ Tin Mừng đôi chút thuốc an thần nào chưa? Và đây là thuốc an thần hiệu quả nhất dưới mắt chúng ta: “Các ngươi hãy thương yêu nhau”, các ngươi hãy làm dịu tất cả các xung đột của các ngươi.
Dĩ nhiên, điều đó không xuôi chảy. Vì lý do là việc muốn yêu thương như Chúa Giêsu (chúng ta thường quên xác định) dẫn chúng ta đi đến chỗ làm chia rẽ, giống như Ngài. Và dẫn đến việc chính chúng ta bị chia rẽ. Chúng ta thường kinh nghiệm điều này. Chính ngày mà chúng ta chọn thực sự để yêu thì những xung đột gay gắt nhất nổi lên. Tại văn phòng của chúng ta, để tỏ ra huynh đệ với đồng nghiệp, chúng ta phải tố cáo bất công của cấp trên. Để yêu thương người Palestin chúng ta quay lưng lại gia đình của chúng ta. Để giúp đỡ những người hàng xóm nghèo nàn, chúng ta xung đột với vợ và mẹ vợ: “Ông bố làm thế là hy sinh các con của mình!”. Để lãnh đạo một cuộc đấu tranh nghiệp đoàn, một trong những người bạn của tôi đã thất bại trong việc tiến thân và các cô con gái của ông ta đối xử với ông ta là… ông già thảm hại. Trong khi chia sẻ số phận với những người bị áp bức tại một nước nọ ở Châu Mỹ La tinh, một linh mục xung khắc với Giám mục bảo thủ của mình và linh mục đó tự hỏi ai là người có lý. Trong một cộng đoàn người ta biết rằng trở lại một vấn đề công bằng, nghèo nàn hoặc ý nghĩa của Tin Mừng là sẽ châm ngòi lại những xung đột. Người ta im lặng nhưng trong những con tim bị xem là nhát đảm, sự an bình đã bị phá vỡ.
Do lời này phải đi vào tận thâm tâm của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ luôn luôn là sự chia rẽ bởi vì tâm lòng của chúng ta xấu xa. Khi chúng ta muốn yêu thương và đấu tranh cho tình yêu, chúng ta chỉ làm điều đó do sự vụng về, sự hăng hái hoặc sự sợ hãi của chúng ta. Trước mặt chúng ta những người Kitô hữu tốt nhất, trong đó có các thánh, cũng yêu thương chúng ta theo khả năng của họ, cũng với con người tội lỗi của họ.
Những người như chúng ta, chúng ta không ngừng có nguy cơ tạo ra những hòa bình pha tạp: hòa bình của người cai trị làm im lặng cả thế giới và thiết lập sự yên tĩnh một cách gượng gạo; hòa bình của những người bị ám ảnh do tình thương yêu huynh đệ tránh sự xung đột nhỏ nhặt nhất bằng cách để các hoàn cảnh trở nên tệ hại; hòa bình của những người đấu tranh đơn thuần vì công bằng là người xếp loại người ta và bình thản tiến bước giữa những người tốt và những người xấu. Chúa Giêsu đâm lưỡi gươm chia rẽ vào trong các hòa bình sai lạc này.
Hòa bình nào đây? Một nền hòa bình hay đặt vấn đề, nóng bỏng và yêu thương xen vào giữa các xung đột và ở lại đó. Hòa bình đó không tìm kiếm những cái hồ yên tĩnh, mà là muốn làm cho có thể sống được trong các phong ba bão táp.
Đối với một người con của Tin Mừng, không có sự an bình nếu không nói là ở nghĩa trang mới có một công việc kiến tạo hòa bình kiên trì và thông minh có thể có ở khắp nơi; trong tâm lòng bị xuyên qua của chúng ta, trong nhóm của chúng ta nơi đó nổ ra một cuộc đấu tranh cần thiết, trong Giáo Hội nơi đó luôn luôn sẽ có những người duy trì trật tự và những người suy nghĩ ra cái mới.
Chính ở giữa chúng ta là những người bất toàn và tội lỗi phải làm lại những hòa bình tạm bợ của chúng ta, các hòa bình này sẽ bị phá hủy khi thì do những kiêu ngạo của chúng ta, khi thì do lưỡi gươm Tin Mừng. Sẽ phải can đảm bắt đầu lại mà không nghĩ đến những kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến đấu. Người ta chỉ có thể trở thành một người thợ xây dựng hòa bình bằng cách dệt nên hòa bình bằng những sợi len chiến tranh.
14. Ước mong lửa yêu thương bùng lên
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Khi nói về lửa, chúng ta liên tưởng đến tình yêu, sự nồng nhiệt và nóng ấm. Thật vậy, lửa là biểu tượng của Tình yêu. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần-Ngôi Ba Tình Yêu đã ngự xuống trên các Tông đồ dưới hình lưỡi lửa (x. Cv 2, 3). Nhưng lửa cũng nói về sự hiện diện của Thiên Chúa như nơi bụi gai cháy mà Môsê đã gặp gỡ và đối thoại với Ngài (x. Xh 3,2-6). Lửa cũng là biểu tượng của sự thanh lọc trong ngày Cánh Chung qua cuộc xét xử (x. Mt 13, 40)
Chúa Giêsu đã đến “Ném lửa vào mặt đất.” Đó là ngọn lửa tình yêu từ trong trái tim của Người. Chính tình yêu đã thúc đẩy Chúa đến với nhân loại, ở cùng và yêu nhân loại với trọn cả tấm lòng. Vì thế, Chúa mong lửa tình yêu của Người bừng cháy trong mỗi tâm hồn Kitô hữu-những người được Chúa yêu thương cứu độ. Chúa cũng mong ước lửa của Người nơi chúng ta được bùng lên, lan tỏa ra bằng đời sống nhiệt thành với sứ mệnh làm chứng nhân cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đời thường, sưởi ấm thế giới giá băng lạnh lẽo, thiếu vắng tình yêu và hy vọng.
Chúa muốn làm mới lại thế giới này bằng lửa tình yêu của Người và bằng sự thanh tẩy. Chúa cũng ước mong xua tan đi bao tăm tối, bao đau thương, chiến tranh hận thù của gian trần. Vì thế, “phép rửa” Chúa phải chịu chính là để dìm thế giới vào trong tình yêu hiến tế của Người. Nhờ những đau đớn và cái chết của Chúa mà nhân loại được cứu. Chúa đã trả giá đắt để cứu độ chúng ta, Người chỉ mong cho chúng ta được sống, được yêu thương và bình an, một bình an đích thực mà nhân loại chúng ta đang thiếu.
Bình an là một trong những ân huệ lớn lao mà chúng ta ước mong. Không có hòa bình, chúng ta sẽ sống trong bất an. sợ hãi. Người Do thái xưa đã chờ đợi Đấng Mêsia và Ngài được gọi là Hoàng Tử Hòa Bình (x. Is 9,5). Vậy khi Chúa Giêsu- Đấng Mêsia đến trần gian, ngay đêm Người giáng sinh, các thiên thần đã hát vang “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”(Lc 2,14) Trong những lần Chúa rao giảng và chữa lành, Người thường nói với các tội nhân hay bệnh nhân: “Con hãy đi bình an.”( Lc 8,48;7,50) Và khi sai các môn đệ đi rao giảng, lời nhắn nhủ của Người là cần phải chào chúc bình an cho những nhà mà các ông vào.(x. Lc 10, 5) Thánh Phaolô cũng khẳng định “Chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên dân Do thái và dân ngoại thành một.”(Ep 2,14)
Như thế, lời Chúa Giêsu nói “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.”(Lc 12,51) có làm cho chúng ta lo âu và sợ hãi chăng? Chúa Giêsu không đem hòa bình đến thế gian, nhưng chính Người là Hòa Bình, là sự Bình An đích thực. Sự Hòa Bình mới này đến làm đảo lộn và thay đổi hòa bình của thế gian. Bởi vì, đó không phải là một hòa bình của dễ dãi, không có rắc rối khó chịu. Nhưng là hòa bình được xây dựng trong sự khó khăn, chiến đấu. Bình an mới này cần phải vượt qua chính mình, dám từ bỏ những gì là trái với tinh thần của Chúa Kitô và không theo Tin Mừng. Vậy từ đó, những chia rẽ là hệ lụy sẽ xảy ra.
Chúng ta nhìn thấy hằng ngày trong các gia đình, đầy dẫy những thách đố mà chính Chúa đã loan báo. Sẽ có một ngày chúng ta cần phải quyết định theo Chúa hay khước từ Chúa, và điều này diễn ra trong một mái nhà thì ắt sẽ có sự chia rẽ hình thành, sẽ có đau đớn. Đó là lúc mà ngọn lửa tình yêu Chúa thanh luyện lòng chúng ta và đem cho chúng ta một bình an đích thực.
Khi chúng ta chọn theo Chúa, dám chấp nhận những hệ lụy theo sau, ta sẽ đạt được bình an chân thật là chính Chúa. Chúng ta cũng sẽ gặp những thách đố khi chọn sống sự thật, công bằng, bác ái, yêu thương và tha thứ… Chắc chắn đời sống của Kitô hữu luôn là một cuộc chiến đấu với chính bản thân, với môi trường, hoàn cảnh, công việc và những người xung quanh…, để thực thi Tin Mừng và giữ vững đức tin. Có Chúa Kitô trợ giúp, chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta mà không sờn lòng nản chí, vì chính Chúa đã là mẫu gương cam chịu để cho người tội lỗi chống đối. Còn chúng ta, chúng ta chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.(x. Dt 12,1-4)
Ước gì mỗi Kitô hữu cũng có được can trường và bền chí như thánh Phaolô “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững đức tin.”( 2Tm 4,7) Hạnh phúc cho chúng ta nếu cuối hành trình trần gian, ta có thể công bố những lời này. Xin cho chúng ta luôn biết kín múc nguồn Tình yêu nơi Thánh Thể Chúa, và thắp lên ngọn lửa tin yêu trong chính tâm hồn ta, trong cuộc sống và chiếu sáng cho mọi người thân trong gia đình, nơi lối xóm, giáo xứ, công xưởng…và bất cứ ai ta gặp gỡ hằng ngày. Để khi nhìn vào đời sống của Kitô hữu, người ta có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa Tình Yêu. Và rồi ngọn lửa yêu thương của Chúa sẽ được bùng lên trên mặt đất này như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong trái tim chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa và xin cho chúng con lòng nhiệt thành làm chứng nhân cho tình yêu. Amen.
15. “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.
Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?
Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.
Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.
Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.
Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.
Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.
Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.
Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Nhiều lời Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ, nếu chưa muốn bảo là chói tai. Thường chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về Con Người Ðức Giêsu Kitô và nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các Thiên Thần đã không hát khúc ca hòa bình trong ngày Người giáng sinh sao? Và trọng tâm giáo lý của Người chính là tình thương. Người đã đến để thi hành sứ vụ hòa giải, giữa Thiên Chúa với loài người, và giữa Do Thái với dân ngoại. Thế mà hôm nay, trong đoạn văn vắn tắt của Luca, chúng ta thấy Người nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm.
Chúng ta sẽ phải hiểu Lời Chúa thế nào đây? Chú giải cẩn thận một đoạn Kinh Thánh là phận vụ của một khoa học đặc biệt. Còn trong một buổi phụng vụ, chúng ta chỉ nên tựa vào Lời Chúa vừa công bố để tìm ra giáo lý của Hội Thánh cho đời sống hiện tại của chúng ta. Và giáo lý này khởi sự ngay từ bài học Cựu Ước.
- Vì Lời Chúa, bị bắt bớ
Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm tiên tri, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).
Ðoạn văn hôm nay nói đến giai đoạn thật gay cấn. Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Ðức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Ðấng luôn trung thành. Và dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên. Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.
Nhưng vì Ai Cập khiêu khích để yểm trợ cho Giuđa. Vua Babylon tạm thời nới lỏng vòng vây Giêrusalem để đánh phá Ai Cập trước. Lợi dụng lúc một phần quân Babylon rút đi, Giêrêmia muốn lẻn về thăm quê ở Anatốt, chỉ xa Giêrusalem chừng một giờ đường bộ thôi. Nhưng ông bị lính Giuđa bắt giữ, cho rằng ông muốn đi theo quân Babylon. Thế là kẻ thù của ông ra mắt vua xứ Giuđa, xin nhà vua xử lý một tên phản quốc, với những lời lẽ mà chúng ta đã nghe đọc bài sách hôm nay. Cuối cùng họ đã quăng ông xuống một giếng bùn, để ông lún xuống dần dần mà chết đi.
May có một người dân ngoại làm hoạn quan trong hoàng cung nghe biết. Ông đến xin nhà vua cho kéo Giêrêmia lên khỏi giếng. Nhà tiên tri thoát chết trong lần này. Nhưng rồi chẳng bao lâu, quân Babylon trở lại. Giêrusalem thất thủ. Nhà tiên tri bị người Do Thái kéo sang Ai Cập và dường như ông đã chết ở đây, giữa những kẻ suốt đời vẫn thù ghét ông, vì ông luôn luôn nói Lời Chúa cho dân ngỗ nghịch.
Do đó Giêrêmia đã trở thành nhà tiên tri đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay. Chính tư tưởng phấn đấu này là chủ đề của tất cả Lời Chúa hôm nay và là trọng tâm của bài Tin Mừng mà bây giờ chúng ta muốn tìm hiểu.
- Vì Tin Mừng, bị chống đối
Như lúc đầu đã nói, nhiều lời trong bài Tin Mừng hôm nay không ngọt tai tí nào. Chúng ta thích hơn nếu Ðức Giêsu Kitô nói Người đem hòa bình đến. Vì chúng ta quen quan niệm Người có lòng nhân từ và công cuộc của Người là cứu thế. Tôi sẽ không làm dịu bớt tính cách “chát chúa” của những lời Người tuyên bố hôm nay để phục vụ khuynh hướng tự nhiên của chúng ta quen quan niệm đạo là bác ái và vì thế đạo nên tránh nói những lời thẳng nhặt. Tuy nhiên trước hết chúng ta cần hiểu đúng ý Chúa trong các lời tuyên bố này.
Người ta có thể nghĩ ngay đến chung thẩm, tức là phán xét chung trong ngày sau hết, khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: Người đến đem lửa xuống thế gian và Người mong biết bao cho lửa ấy cháy lên. Quả thật trong Kinh Thánh có rất nhiều đoạn nói đến lửa để ám chỉ việc phán xét. Và thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Giêsu như “Ðấng sẽ đến để thanh tẩy trong Thánh Thần và trong lửa”. Hơn nữa, Người còn nói: “Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây: cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa” (Mt 3,10).
Tuy nhiên mặc dầu có những ý kiến như thế, chúng ta vẫn có quyền tự hỏi: Không biết đoạn văn này có nhất thiết phải được hiểu như vậy không? Có điều chắc chắn, Ðức Giêsu không khi nào khẳng định việc chung thẩm, như chúng ta hiểu, sẽ xảy đến trong lúc Người đang ở giữa xã hội loài người. Thời gian phán xét là bí mật của Chúa Cha. Ngài sẽ trao quyền xét xử ấy cho Ðức Kitô sau này. Thế nên khi Ðức Giêsu đến theo lời giới thiệu của Gioan, thật ra chưa có việc phán xét; nhưng mới chỉ có sự phân biệt “để ý nghĩ của nhiều tâm hồn phải bày ra”, như lời Luca nói; nghĩa là để các tâm hồn phải lựa chọn thái độ: hoặc đón nhận hoặc khước từ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến trong thế gian nơi Ðức Giêsu Kitô.
Thế nên “lửa” mà Người nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đúng hơn nên hiểu về “Thánh Thần”. Người đến để cho những kẻ tin Người được Thần Khí của Thiên Chúa. Người mong muốn, đến nỗi nôn nóng thấy việc đó chóng xảy đến để loài người chóng nhận được Thánh Thần khiến họ có thể kêu lên “Abba! Lạy Cha”. Một cách cụ thể, có thể nói, trong suốt cuộc đời trần gian, Ðức Giêsu hằng mong mỏi ngày lửa Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ, vì đó là mục đích cuộc giáng sinh cứu thế của Người, để tất cả loài người trở thành con cái Thiên Chúa.
Thế mà, như chúng ta biết, Thánh Thần không thể được ban xuống cho các môn đệ, bao lâu Ðức Kitô chưa bị treo lên cây Thập giá. Do đó tiếp theo câu nói Người mong muốn biết bao cho lửa cháy lên, Chúa Giêsu đã khẳng định luôn: “Người phải chịu một phép rửa và lòng Người khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Câu nói này, ai cũng hiểu là để ám chỉ cuộc Tử nạn của Người.
Như vậy chúng ta có thể tóm tắt như sau: trong bài Tin Mừng hôm nay trước hết Chúa Giêsu bộc lộ ý chí cứu thế của Người. Người mong mỏi cho loài người được lãnh nhận Thánh Thần yêu mến và vì thế Người muốn đến ngày chịu tử nạn, lấy máu rửa sạch tội lỗi loài người để họ nhận được Nước sinh sống của Thánh Thần.
Nhưng mầu nhiệm Thánh giá là điên rồ đối với lương dân và là ô nhục đối với người Do Thái. Tính tự nhiên của xác thịt con người lập tức muốn phản kháng. Thái độ của Phêrô khi nghe nói lần đầu tiên, ai cũng biết. Ông kéo Ðức Giêsu ra nơi kín và xin Người đừng nghĩ như thế. Nhưng chính Ðức Giêsu không những lại khẳng định: Người sẽ đi vào con đường thập giá; Người còn nói thêm: ai muốn theo Người cũng phải làm như vậy. Và mầu nhiệm thánh giá là trọng tâm, nếu không phải là toàn bộ sứ điệp của Chúa Giêsu mang đến cho loài người. Do đó phải coi là phản Tin Mừng khi trong Ðạo Chúa không muốn nói đến phấn đấu và hy sinh. Lòng từ nhân, sự hòa giải và bình an của Thiên Chúa đem đến cho loài người, phải đi qua đường hẹp. Người có sức mạnh và kiên cường mới đón nhận được. Không những họ phải phấn đấu chống lại các khuynh hướng xác thịt và tội lỗi; nhưng vì sức mạnh của Satan còn nằm trong cả thế gian nữa, nên thường khi họ còn phải đương đầu với sức ép của các xã hội xấu. Dĩ chí, ngay nơi tổ ấm gia đình cũng có thể gặp những trở ngại cho đời sống đức tin và đạo đức. Hôm nay trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đã báo trước như thế và lịch sử cùng kinh nghiệm đều hùng hồn làm chứng đó là những điều rất thật.
Như vậy chẳng còn gì khác lạ, chói tai như lúc đầu chúng ta có thể nghĩ nữa. Chúa Giêsu chỉ nói những sự thật hiển nhiên đầy ơn cứu độ. Ðó là những lời Tin Mừng: Chúa Giêsu muốn chúng ta được tràn đầy Thánh Thần để chúng ta được thần linh hóa. Và cho được như vậy, chính Người phải đi vào con đường thánh giá. Và hết thảy chúng ta cũng phải vác lấy thập giá hằng ngày của mình. Hiểu như vậy, tác giả thư Hípri có lời khuyên chúng ta như sau.
- Chúng ta hãy cương quyết xông pha
Thật ra, sau những lời tin mừng chúng ta vừa trình bày và thấy gương sáng của Giêrêmia, chúng ta đã có thể tự mình đem ra những quyết tâm cho cuộc sống hằng ngày. Lời thư Hípri chỉ muốn hỗ trợ ý chí của chúng ta thôi. Có ba ý tưởng đáng ghi nhớ. Trước hết tác giả cho chúng ta thấy mình đang ở giữa một đoàn thể chứng nhân đông đảo. Ðó là các thánh trong Cựu Ước. Và ngày nay chúng ta phải kể thêm sự hiện diện đông đảo của các thánh thời Tân Ước. Những thế hệ anh hùng ấy đã gian truân khổ sở hơn chúng ta. Nhớ mình đang được nâng đỡ như vậy, chúng ta phải thêm tinh thần xông pha chiến trận đang chờ đợi chúng ta để đi tới vinh quang hạnh phúc mà các người đang được dự.
Hơn nữa không phải chúng ta chỉ có những chứng nhân bao quanh để khích lệ và cổ vũ; trước mắt chúng ta còn có một lãnh tụ dẫn đầu và lôi cuốn. Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Chính Người không những khơi nguồn mà còn viên thành niềm tin. Người đưa dẫn chúng ta từ đầu chí cuối. Người là đường đi, là sự sống, là sự thật của chúng ta. Nhờ vậy sự kiên quyết, kiên cường phấn đấu của người tín hữu không bao giờ là một sự bướng bỉnh, cố chấp, đi ngược lại quyền lợi và hạnh phúc của người khác; nhưng là sự bền chí, kiên tâm, trong con đường cứu độ.
Hơn nữa chính hình thức của sự phấn đấu kiên quyết này còn lấy cuộc đời của Ðức Kitô làm mẫu mực. Người đã khước từ vui sướng cho mình, kiên chịu thẹn thuồng xấu hổ và khổ hình thập giá vì loài người tội lỗi. Người không dạy chúng ta chịu đau khổ vì đau khổ, nhưng vì phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Người lấy phục vụ làm cứu cánh và chấp nhận phấn đấu như điều kiện. Chúng ta có đăm nhìn lên Người như vậy, cuộc đời phấn đấu của chúng ta mới có ý nghĩa cao quý, vì nói muốn góp phần xây dựng hạnh phúc chung cho nhân loại.
Ðối với một lý tưởng như thế, những thử thách của chúng ta đã là gì? Ðó là ý tưởng thứ ba của bài thư Hípri. Cuộc đời của chúng ta có gian khổ vẫn chưa là gì sánh với đời sống đầy thử thách của Giêrêmia và biết bao chứng nhân khác. Nó không nghĩa lý gì sánh với các đau khổ tình nguyện của Ðức Giêsu Kitô. Nhất là nó chẳng đáng sánh với mục đích xây dựng hạnh phúc của toàn thể xã hội.
Chúng ta sẽ cương quyết xông pha hơn. Nhưng như lời thư Hípri nói: chúng ta hãy đắm nhìn lên Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin. Người có lôi cuốn, hướng dẫn, chúng ta mới biết đi vào và hoàn tất cuộc hành trình trần gian. Người luôn hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ. Ðến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là hiện diện trước mặt chúng ta trong kho tàng Lời Chúa và đặc biệt trong các mầu nhiệm bàn thờ.
Ðến với Người ở đây chúng ta còn được chính Người đi vào con người và đời sống chúng ta để giúp chúng ta biết sống như Người và với Người, nghĩa là sống phấn đấu không ngừng cho phần rỗi và hạnh phúc của mọi người. Ðó là điều chúng ta tin tưởng và cử hành giờ đây nơi bàn thờ. Xin mọi người hãy hết mình tham gia.
17. Sứ mệnh – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babyon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉtìm tai hoạ”(Gr 38, 4). Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏmặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng: Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết” (Gr 38, 10). Sống ở đời luôn có kẻ ưa người ghét là thế!
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ,đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ.Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.
Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công Dung Ngôn Hạnh từ từ biến mất. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên (Lc 12, 49). Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.
Chúa Giêsu không dấu diếm sứ mệnh, Ngài nói: Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ (Lc 12, 51). Sự chia rẽ giữa sự thánh thiện và tội ác. Sự chia rẽ giữa người công chính và kẻ gian ác tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi một ai. Ngài hiện diện đó không phải để kêu gọi người công chính mà là kẻ tội lỗi. Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến, Chúa sẽnâng đỡ bổ sức cho. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.
Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn. Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và qúa cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…
Về sự sống con người: Phe phò phá thai (pro-abortion) chủ trương bảo vệ tự do và quyền bình đẳng của phụ nữ, trong khi hủy diệt sự sống của thai nhi. Tuy nhiên, Phong trào phò sinh (pro-life) vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do lương tâm và tựdo tôn giáo. Chúng ta căn cứ vào lương tâm và lời Mạc Khải để tìm đến sự thật. Sự thật có thể áp dụng chung cho mọi người, mọi dân và mọi nước. Chúng ta gọi là luật tự nhiên hay luật lương tâm đã được in ghi tận đáy tâm hồn.
Càng ngày càng có nhiều tệ nạn xảy ra trong xã hội con người. Các học viên được huấn luyện trở thành bác sĩ để cứu chữa con người, nhưng một số lại tìm cách hủy diệt mạng sống con người. Các công ty dược phẩm chế tạo thuốc để chữa lành, nhưng đồng thời cũng chế tạo các loại thuốc giết người. Các tòa án Tối Cao Pháp Viện, phải là nơi công lý được thể hiện, nhưng cũng lại đưa ra những chỉ thị và phán quyết độc hại hủy phá sự sống con người. Biết tin vào ai? Đâu là điều tốt hay điều xấu vàđiều lành hay điều dữ. Mỗi quan tòa đều có những lý luận sắc bén để biện luận và đôi khi ngụy biện để dấu diếm sự thật. Nhiều chính phủ dùng quyền lực của luật pháp để áp chế người dân đi ngược dòng đạo đức luân lý. Dù với quyền lực, họcũng không thể giết đi tiếng nói của lương tâm. Sự thật vẫn luôn là sự thật.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa (Dt 12, 2). Chúng ta tìm về nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoát.Tránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.
Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết: Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng (Dt 12, 3). Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.
Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nới với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 12:49-53: Mỗi kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau khi từ Việt Nam trở về, Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọcn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần, CHarlie hãnh diện nói:
“Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rãnh rỗi nghĩ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nữa lít máu lần thứ 65. Và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêxa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện chochuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.
Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trợ cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa” của tượng Nữ Thần Tự Do. Mọi người đều biết Charlie là con người đặc biệt. Lúc đầu nghe anh tự cho mình tước hiệu đó, ai nấy chỉ mĩm cười, nhưng giờ đây mọi người đều nhin nhận điều ấy một cách nghiêm chỉnh: “Ông ta đích thực xứng đáng và danh hiệu “Người giữ ngọn lửa”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vinh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, đều phải có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.
Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng vụ thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nổ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi…
Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bóng tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh áng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt h“ơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
19. Khủng hoảng niềm tin – Như Hạ, OP
Lửa đang bùng lên khắp nơi. Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Ðông tới những cuộc đặt bom phá hoại các nhà thờ tại Nam Dương, lửa đã thiêu sống bao sinh mạng và sản nghiệp. Lửa cũng được đề cập trong Tin Mừng hôm nay như mạc khải về sứ mạng Ðức Giêsu nơi trần gian.
BẬP BÙNG
Ngày Chúa sinh ra, thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14) Ðức Giêsu chính là sự bình an Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Người từng nói “Thầy để lại bình an cho các con” (Ga 14:25) Người vẫn được tôn xưng là “Thái Tử hòa bình.” Vậy tại sao hôm nay Chúa quả quyết ngược lại (Lc 12: 51)? Lời quả quyết đó làm nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ về sứ mệnh của Chúa trên trần gian. Nếu Người đến “đem sự chia rẽ” đến mối tương quan sâu xa nhất giữa các phần tử trong gia đình, làm sao tránh khỏi chiến tranh ngoài xã hội, quốc gia và quốc tế?
Tự bản chất sứ mệnh Ðức Giêsu là sứ mệnh hòa bình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Sứ mệnh đó đã được thực hiện nhờ cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và con người trên thập giá. Thực tế không thiếu người ngộ nhận hay khước từ công cuộc cứu độ của Chúa. Như thế, họ tự tách lìa khỏi đoàn người đón nhận ơn cứu độ. Không đón nhận ơn cứu độ tức là còn sống trong thế đối nghịch với Thiên Chúa. Chính vì thế mới thấy tự do như một định mệnh. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người. Lời Chúa như một tặng phẩm, chứ không như một gông cùm xiềng xích nhân loại.
Nhưng nếu chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Chúa, đương nhiên con người phải có một quyết định dứt khoát và cam kết sống chết với Ðức Kitô. Chính ý chí cương quyết này sẽ làm cho môn đệ Chúa khác với mọi người. Sở dĩ có thể quyết định và cam kết như thế, vì lòng người môn đệ nung nấu ngọn lửa do Thầy đã ném vào mặt đất (Lc 12:49). “Lửa ấy đã cháy bùng lên!” (Lc 12:49) Lửa đã lan khắp mặt đất. Ðó là “lửa thanh tẩy của Chúa Thánh Linh đã đến với các môn đệ trong Tông Ðồ Công Vụ, chứ không phải lửa thiêu hủy trong ngày phán xét.” (NIB 1995:266) Trong sách Ngụy Phúc âm cũng nói đến lửa sứ mệnh Ðức Giêsu: “Ai gần Tôi là gần lửa; ai xa Tôi là xa Nước Chúa.” (Tin Mừng Thomas 82) Khi Thánh Linh xuất hiện, một dân mới đã được tách ra khỏi thế gian.
Nhưng trước khi ngọn lửa Thánh Linh lan khắp thế gian, chính Ðức Giêsu cũng đãbị ngọn lửa đó thiêu đốt, đến nỗi “lòng Thầy khắc khoải biết bao.” (Lc 12:50) Ngọn lửa đã thiêu Thầy tới chết mà Thầy gọi là “phép rửa Thầy phải chịu.” (Lc 12:50) Tâm hồn Thầy bị giằng co và chìm ngập trong buồn sầu ứa lệ. Toàn thân Thầy rúng động “cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Thầy đã trải qua một cơn xao động tột độ khi đến gần Giêrusalem. Sự dằng co đó đánh dấu một chuyển mình lớn lao đưa Ðức Giêsu vào một khúc ngoặt quan trọng. Quả thực, chính Người cũng phải làm một quyết định rất lớn trước khi thực hiện sứ mệnh Chúa Cha trao cho Người. Sứ mệnh đó khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc nơi cái chết thê thảm trên thập giá. Ðó là đường lối Người đã chọn. Vì quyết định và lựa chọn đó, Người đã trở thành nạn nhân đầu tiên của sự chia rẽ giữa những người tin và không tin (NIB 1995:266). Ðúng như lời ông Simêon đã nói tiên tri từ thuở xa xưa (Lc 2:34-35). Người đã từng bị cả đối phương lẫn người thân chống đối (Ga 1:11; Lc 4:28-30) Kết quả Người đã bị dồn vào chân tường, bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn. Người đã chết để lộ ra những nét kinh hoàng trong cuộc đối đầu đó, đồng thời mạc khải trọn vẹn Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa đã tạo thành một lằn ranh giữa những người tin và không tin. Nghĩa là Ðức Giêsu đến để “đem sự chia rẽ” (Lc 12:51) và chống đối. Ngay từ xa xưa tiên tri Giêrêmia cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Ông đã tuyên sấm ngược với lòng mong đợi của mọi người. Bởi vậy ông đã bị kết án: “Con người ấy chẳng mưu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa.” (Gr 38:4) Biết làm sao được?! Ngôn sứ chỉ nói sự thật. Sự thật mất lòng. Căng thẳng. Căng thẳng đến độ ngôn sứ Giêrêmia suýt chết đói “trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn.” (Gr 38:7) Còn Ðức Giêsu thì chết khát thực sự trên thập giá. Ðúng là “sứ điệp?bình an dưới thế? bao giờ cũng phải kèm theo sự đối kháng man dại (2:14; 12:51; 19:42; 24:36). Thật là ngược đời, trong khi hòa giải là công tác của vị tiền hô thiên sai (Ml 4:5-6; Lc 1:17), thì đặc điểm của cuộc khủng hoảng cánh chung là sự chia rẽ bi thảm.” (NIB 1995:267)
Cái gì cũng có mặt trái, kể cả mạc khải của Thiên Chúa. Quả thế, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật, không bao giờ Ðức Giêsu nói những lời chói tai hôm nay. Nói khác, Lời Chúa “phơi bày mặt trái của mạc khải, lời cam kết, và những giá trị Nước Trời.” (NIB 1995:267) Lời Chúa đã can thiệp sâu vào những tương quan rất thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Không phải chỉ phân rẽ những mối tương quan đó, nhưng Lời Chúa còn “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy.” (Dt 4:12) Nghĩa là một cuộc chiến xảy ra ngay trong bản thân mỗi người khi quyết định nghe theo Tin Mừng Bình an của Chúa.
Bình an nào cũng phải trả giá. “Bất cứ nơi đâu Lời Chúa được đón nghe, sự chia rẽ cũng xảy ra giữa những người lắng nghe Lời Chúa (xc Ga:43; 9:16; 10:19).” (NIB 1995:267) Không thể không có mâu thuẫn và xung đột trong chính cá nhân và cộng đoàn. Có thế mới thấy Nước Chúa không dựa trên sức mạnh con người. Chúa có thể lợi dụng cả những đối kháng đó để mưu ích cho Nước Chúa. Vấn đề còn lại là con người có dám quyết định bước theo tiếng Chúa mời gọi hay không. Thực tế, “lời mời gọi con người đi tới quyết định là lời mời gọi?phân rẽ.?” (E.Earle Ellis 1966:182) Ðó là một bi kịch. Nhưng đó cũng là sự thật cho những ai sống theo tiếng mời gọi liên tục của Thiên Chúa.
Lời mời gọi đó nhắm tới việc tạo lập “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14) Nhưng không thể chiếm sự bình an đó một cách dễ dãi. Phải có một cuộc phấn đấu cam go mới có thể cam kết sống với Chúa và khước từ những tiêu chuẩn trần thế. Từ đó, “thái độ chúng ta đối với của cải vật chất cũng phải thay đổi và những trách nhiệm tinh thần phải được quan niệm một cách nghiêm chỉnh hơn.” (NIB 1995:267) Chính vì thế, theo Ðức Giêsu có nghĩa là thay đổi não trạng và nếp sống cho phù hợp với những tiêu chuẩn Nước Trời. Nghĩa là, mọi sự phải được đánh giá theo thánh ý Chúa. Từ nay, “những ai cam kết sống theo Ðức Giêsu đều thấy mối tương quan với tha nhân, kể cả với những người thân thương nhất, đều bị sự cam kết đó chi phối.” (NIB 1995:267) Ðức Giêsu đã cống hiến cho các môn đệ một tiêu chuẩn sống: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Nói khác, không còn con đường hạnh phúc nào ngoài việc theo sát lời Chúa. Chính Ðức Giêsu đã tìm được sức mạnh nơi thánh ý Chúa Cha để đem lại hạnh phúc cho chính mình và toàn thể nhân loại.
Nếu Ðức Giêsu đã không sống theo Lời Thiên Chúa, chắc chắn Người đã không thể thành công khi ném lửa xuống trái đất. Ngày nay, muốn tiếp tay với Chúa thiêu đốt cả trần gian, chúng ta phải để lời Chúa xâm chiếm trọn con tim và cuộc đời mình. Từ đó, “chúng ta sẽ thay đổi nếp sống cũ, dựa trên những giá trị, thứ bậc ưu tiên, mục đích và hành vi thành hình từ sự cam kết sống với Chúa Kitô. Những thay đổi này sẽ nhanh chóng tạo nên những khủng hoảng trong những mối tương liên quan trọng.” (NIB 1995:267) Mọi suy nghĩ sẽ đảo ngược. Mọi vấn đề sẽ phải đặt lại. Cuộc đời thánh Phaolô là một điển hình. Sau khi trở lại, thánh nhân đã chứng kiến một thay đổi ngoạn mục trong tâm hồn và nếp sống: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô.” (Pl 3:8)
HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG.
Kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của tất cả những ai đang nung nấu ngọn lửa Thánh Linh trong tâm hồn. Ngọn lửa lan tới đâu, tất cả đều biến đổi tới đó. Tất cả đều bứt tung trong lửa. Trong ngọn lửa đó, “chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình.” (Dt 12:1) Ngọn lửa đó cũng soi sáng để “mắt hướng về Ðức Giêsu là Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Từ đó, chúng ta mới thấy tất cả đổi mới. Chính niềm tin là ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa Thánh Linh sẽ cho ta thấy hết mọi sự, từ những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi chúng ta đến hồng ân Thiên Chúa tuyệt vời trong vũ trụ và con người.
Chính vì thiếu vắng niềm tin đó, nhân loại hôm nay vẫn chưa tìm được lối thoát. Cơn khủng hoảng hôm nay bắt nguồn từ việc chối từ Thiên Chúa trong cuộc sống. Bởi vậy, muốn có hòa bình, phải tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Muốn đạt tới niềm tin đó, con người sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này khác hẳn cuộc khủng hoảng vô thần. Một bên báo hiệu sự trưởng thành. Một bên dẫn tới tiêu vong. Những khủng hoảng đó dẫn tới những đối kháng khác nhau về mức độ và bản chất.
Hôm nay, Kitô hữu đang trải qua những khủng hoảng và gặp những đối kháng khắp nơi trên thế giới. Từ những cuộc bắt bớ, chém giết tại những nước không tôn trọng nhân quyền đến những giới hạn về nhiều mặt đối với những tín hữu đang tranh đấu cho sự sống. Ngay trên đất nước tôn trọng tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Kitô hữu cũng có thể bị bách hại. Chẳng hạn, hiện nay “Hội Ðồng Thành Phố New York đang cứu xét một đề nghị cấm phổ biến truyền đơn, lên tiếng phản đối, cố vấn, hay đến gần các phụ nữ nằm trong bệnh viện phá thai. Biểu tình phản đối phá thai có thể là một hành vi phi pháp và những người phạm pháp có thể lãnh sáu tháng tù.” (CWNews 16/8/2001) Phong trào ủng hộ phá thai phải mạnh tới mức nào mới ảnh hưởng tới cơ quan lập pháp như thế! Nhưng ÐGM Thomas Daily đã công khai phê bình: dự luật đó “trực tiếp tấn công những quyền tự do của người dân New York và đặc biệt nó giới hạn việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tôn giáo không thể chấp nhận được.” (CWNews 16/8/2001)
Cuộc đối kháng giữa những người phò và chống sự sống con người đang tạo nên khủng hoảng khắp nơi. Những người ủng hộ phá thai hay những kẻ sát nhân đang bách hại con người một cách có hệ thống và tổ chức trên cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Chẳng hạn, Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Châu chỉ chi viện nếu các nước Châu Mỹ La tinh tham dự vào những chương trình kế hoạch hóa gia đình của Liên hiệp quốc. Bằng chứng, sau cơn động đất tàn hại vừa qua, El Salvador đã được Quĩ Tài trợ Dân số của Liên Hiệp Quốc viện trợ cả những viên thuốc và dụng cụ phá thai (CWNews 16/8/2001)
Rõ ràng niềm tin đang mất dần ảnh hưởng trên lương tâm con người. Cuộc khủng hoảng vào tận gia đình và lan tới phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng đó bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa. Ðức tin cũng là ngọn lửa Ðức Giêsu ném vào mặt đất. Ngọn lửa ấy đang bùng lên từ trong tâm hồn đến cộng đoàn, mặc dù đang gặp trở ngại từ nhiều phía. Nhưng cuối cùng ngọn lửa sẽ lan ra khắp vũ trụ, vì Ðức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16:33)
20. Phải chi lửa ấy đã bùng lên!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
- Nguội lạnh
Một thân xác nguội lạnh – là một thân xác đã chết. Đó là một thây ma.
Một trái tim nguội lạnh – là một trái tim vô cảm. Đó là một trái tim chai đá.
Một tâm hồn nguội lạnh – là một tâm hồn đen tối. Đó là một tâm hồn không tìm thấy được Lẽ Sống.
Một linh hồn nguội lạnh – là một linh hồn hấp hối. Đó là một linh hồn đã đánh mất Niềm Tin.
Khi thân xác, tâm hồn kiệt quệ, mòn mỏi, rã rời… Đó là lúc con người “hết lửa”!
Tất cả trở nên buốt giá, tê liệt, không còn sức sống!
Phàm, đã là con người, ai cũng hơn một lần đau khổ. Thế giới đông người nhưng có lúc ta vẫn thấy mình rất cô đơn. Có những giọt lệ âm thầm chỉ một mình ta, không hề có ai chia sẻ.
“Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng.
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa..” (HMT).
Hết “lửa” là hết còn độ “nóng”. Hết còn “nhiệt”!
Hết còn “nhiệt thành”, hết còn “nhiệt tâm”, hết còn “nhiệt tình”, hết còn “nhiệt huyết” …
Tất cả trở nên giá lạnh, ủ rũ, thân tàn ma dại, đờ đẫn như kẻ mất hồn…
Bức tranh về cuộc đời trở nên ảm đạm, buông xuôi, còn sống nhưng coi như đã chết, sống còn đau khổ hơn cả cái chết.
“Một khối tình nức nở giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi,
Một lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng,
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn” (HMT)
- Lửa thế gian…
Thế nên, “lửa” là sức sống.
Khi thân xác hồi sinh thì nồng ấm dần lên.
Khi tình người được cải thiện thì nồng ấm dần lên…
Khi con tim biết yêu thương thì nồng cháy bùng lên…
Nhưng, ngọn lửa thế gian dễ dàng lịm tắt.
Ngọn lửa thế gian không đủ mạnh để bùng cháy trước giông tố cuộc đời.
Ngọn lửa thế gian không đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời.
Ngọn lửa thế gian không đủ mạnh để cuộc đời thôi giá lạnh.
Ngọn lửa thế gian bị dập tắt trong cơn phong ba tham vọng, bạc tiền…
Và con tim nhân loại lại giá lạnh và dửng dưng,
Thế giới lại giá băng và tình đời đen bạc…
Một thế giới nguội lạnh là một thế giới chết.
- Lửa ấy…Lửa Thánh Thần…
“Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc.12, 49).
“Lửa ấy” đến từ Thiên Chúa. “Lửa ấy” là Lời Chúa, là Lời Tình Yêu, là Giới Luật Yêu Thương.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga.1,9).
“Lửa ấy” được “ném vào thế gian”, và “Lửa ấy” được Thánh Thần làm cho bùng cháy lên trong mọi con tim biết đón nhận Lời Chúa.
“Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng ấy sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. (Ga.14,26).
“Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga.15,13).
Thánh Thần ban sức mạnh để Lời Chúa biến thành hành động, Lời Chúa được rao giảng, thực thi với lòng nhiệt thành, can đảm và khôn ngoan. “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv.2,3).
“Lửa ấy” bùng cháy lên tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Một tình yêu chan hòa trên thế giới, nơi đó mọi người là anh em và Thiên Chúa là Cha.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, cho tâm hồn tín hữu được nhuần thấm muôn ơn, và cháy lửa yêu mến Ngài” (Tung hô Tin Mừng lễ Hiện Xuống).
- Phải chi lửa ấy đã bùng lên…
Nỗi lòng của Chúa Giêsu yêu thương con người thật tha thiết. Ngài muốn con người nhận ra được sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho con người và mọi người đều là con cái Chúa nên phải yêu thương nhau. Chúa Giêsu đã ném ngọn lửa Tình Yêu Thiên Chúa vào mặt đất. Ngài muốn Lời Yêu Thương – Tin Mừng – được bùng cháy khắp nơi. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc.12,49).
Ngọn lửa Tình Yêu ấy bùng cháy không chỉ bằng lời, mà bằng hiến tế của chính Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất! (Lc.12,50).
Nhưng, lửa ấy chưa bùng cháy lên trong hết mọi con tim như lòng Chúa mong ước! Lửa ấy chưa bùng cháy lên trên cõi trần gian này. Nên trần gian còn tăm tối. Thế gian còn giá lạnh. Thế giới còn hận thù, chiến tranh, chia rẽ…
Bởi chuyến tàu dục vọng của cuộc đời luôn luôn hấp dẫn. Danh vọng, bạc tiền, chức quyền, địa vị… đâu dễ hy sinh. Chấp nhận sự thật nhiều khi cũng không dễ dàng gì, dù biết chắc chắn không thể sai lầm.
Sự thật là Giêsu vô tội, nhưng để bảo vệ một Giêsu vô tội, người có quyền lực lại lo ngại trước cái giá phải trả sau này.
“Các ngươi cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy”. (Ga.19,6).
Chúa Giêsu Ngài hiểu rõ sự yếu đuối của con người. Con người chỉ có thể hiệp nhất một trong chân lý. Thế nhưng, như Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu “Sự thật là gì?” (Ga.18,38), rồi cũng không muốn tìm hiểu xa hơn, vì xét thấy chẳng có lợi gì mà còn có thể mang họa. Thế nên, trong cuộc đời, có biết bao nhiêu ngã rẽ, và cũng có nghĩa là đối diện với bất hòa, chia rẽ.
“Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba…” (Lc.12,52).
Vì thế, mang tâm tình của Chúa Giêsu, những môn đệ Chúa, những Ki-tô hữu, chúng ta, luôn khát khao và không ngừng cố gắng thực hiện niềm khao khát ấy: “Phải chi…”
Phải chi Thế Giới cùng chung lời ca tụng Chúa …
Phải chi Đất Nước cùng một lòng ca ngợi Thiên Chúa…
Phải chi mọi người trong Gia đình đều thờ phượng chúa…
Phải chi những người tin Chúa yêu thương đoàn kết nhau… Phải chi… Phải chi… và rất nhiều cái “phải chi…”.
Đó là tâm tình, là ước mong của Chúa Giêsu, và ta tiến bước theo Ngài với tâm tình đó: “Phải chi lửa ấy đã bùng lên…” (Lc.12,49).
Lạy Chúa,
Phải chi con là Vua,
Con sẽ bắt mọi người theo đạo.
Phải chi con có nhiều bạc tiền, cơm gạo,
Con sẽ bố thí cho những người nghèo.
Phải chi con có đủ sức vượt núi băng đèo,
Con sẽ đến những miền xa xăm rao truyền Lời Chúa.
Phải chi đời con đừng chóng già nua tàn úa,
Con sẽ phục vụ Chúa dài lâu…
Và… Phải chi…Phải chi…nhiều lắm…
Con không kể hết đâu…
Con tính toán đủ điều vì danh Cha cả sáng…
Nhưng, dù những gì con mơ đạt được hàng trăm hàng vạn…
Lại thiếu con tim bùng cháy lửa tình yêu…
Cơn gió lốc cuộc đời sẽ cuốn hết mọi điều…
Khi Lửa Tình Yêu trong cõi lòng đã tắt…
Rồi tất cả ảo ảnh đời biến mất
Khi Lửa Tình Yêu Chúa không còn bùng cháy trong tim…
Lạy Thánh Thần, nguồn sức mạnh vô biên:
“Cho lửa ấy bùng lên trong cuộc sống”! Amen.
21. ‘Ai ở gần Ta, là ở gần lửa’ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Lửa trong Cựu Ước tượng trưng cho quyền năng tối thượng, tác động thanh luyện và sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Tiến xa hơn, Tân Ước nhìn thấy trong lửa biểu tượng của tình yêu vô biên và làm biến đổi của Thiên Chúa đối với loài người. Nói về lửa Người mang đến thế gian, Chúa nghĩ nhiều nhất đến sứ mạng của Người giữa nhân loại. Chúa đem đến một sự hiện diện mới mẻ của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa không chỉ là Đấng tạo nên khởi nguyên đầu tiên, Người là Toàn thể Tình yêu đến biến đổi con người bằng một sáng tạo mới. Origênê, một tác giả thời đầu Giáo hội, gán cho Đức Giêsu dụ ngôn này: Ai ở gần Ta là ở gần lửa. Làm sao có thể khác được? Trong các ngôn ngữ khắp địa cầu, tình yêu bao giờ cũng chọn lửa làm phương cách diễn tả huống hồ là Tình yêu nóng cháy vô cùng của Thiên Chúa so sánh với một lò lửa đỏ rực. Đức Kitô là sự mạc khải về Tình yêu ấy. Không thể đến gần Đức Kitô mà không thấm được ánh sáng và sức nóng. Khi Chúa phán thêm rằng Người phải nhận lãnh một sự thanh tẩy (Chúa ám chỉ sự thanh tẩy do Thương khó và Phục sinh), Đức Giêsu vạch rõ sự thể Người đến tạo ra một khởi nguyên mới. Thực tại trước kia nay biến đổi nhờ được ghép thêm một thực tại cao quý hơn, con người được nâng lên hầu tham gia sự Tuyệt Đối. Theo hướng suy niệm ấy, chúng ta chú ý đến hai việc:
1) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng. Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người. Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và pahỉ đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc giữa và lúc kết thúc.
2) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch. Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, – do đó chúng ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu, vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương hướng Chúa muốn.
22. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Ngày hôm nay “căng thẳng” là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều người. Chúng ta nhận biết rằng, căng thẳng ở nơi công việc, căng thẳng trong hôn nhân, căng thẳng trong lần gặp gỡ nhau cuối cùng. Sự căng thẳng xảy ra khi sức mạnh chuyển đến những hướng đối nghịch. Một thí dụ đơn giản là một sợi dây cao su. Khi kéo sợi dây theo hướng đối nghịch bạn cảm thấy căng thẳng. Nếu sự căng thẳng tiếp tục tăng lên sợi dây sẽ đứt, Chúa Giêsu cảnh báo rằng giáo lý của Ngài sẽ mang đến những sự căng thẳng và sẽ tận cùng bằng chia rẽ ngay cả những người trong gia đình.
Trong gia đình Giáo Hội có sự căng thẳng, đặc biệt là trong nhiều nơi đối với phụng vụ. Chúng ta phải trở thành sống động giống như một gia đình hạnh phúc, luôn hợp nhất và bình an, nhưng những lực kéo đang kéo tới hướng đối nghịch, một số ước vọng hướng tới việc phục hồi Công đồng Vatican II, còn những người khác lại muốn trở lại thần học và những thực hành thuở ban đầu.
Đây là một cuộc nói chuyện thẳng thắn. Sự chuyển động trở lại phía sau thì không đúng hướng. Nhiều người muốn tin rằng Đức Giáo Hoàng thì bảo thủ cực đoan và hối hận vì Công đồng Vatican II đã dẫn Giáo Hội đến không phải chỉ những ước muốn vô vọng; và là một sỉ nhục cho Chúa Thánh Thần. Đực Giáo Hoàng có vẻ như đã bác bỏ những tiếng nói mạnh mẽ phàn nàn chống lại Công đồng, ngài không đồng ý với ý hướng của họ.
Tại một cuộc gặp gỡ quan trọng của các Hồng Y trên thế giới vào mùa hè năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Phụng vụ không nghi ngờ gì là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Tiến trình canh tân phụng vụ trong tinh thần của Công đồng Vatican II vẫn luôn tiếp tục dưới sự hướng dẫn và giám sát của thánh bộ phượng tự và kỷ luật của các bí tích”.
Đức Giáo Hoàng đã hành động theo lời tuyên bố trang trọng trong Hiến chế về phụng vụ của Công đồng. Một tuyên bố sẽ linh hứng cho mọi người trong Giáo Hội và phải hướng dẫn mỗi Giám mục, linh mục:
“Nhiệt thành trong việc đề xướng và canh tân phụng vụ phải được xem như một dấu chỉ sự xếp đặt quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta, như là một chuyển động của Thánh Thần trong Giáo Hội của Người. Sự kiện này còn là một đặc điểm nổi bật của đời sống Giáo Hội cũng như mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta” (số 43).
Các bạn đã chia sẻ những đau buồn khi đọc những bài viết tấn công của những người Công Giáo về Công đồng Vatican II: “Công đồng Vatican II đã mở cửa cho những sự dữ bước vào Giáo Hội, bởi vì Công đồng đã làm một cuộc cách mạng tầm cỡ thế giới chống lại trật tự của Thiên Chúa”. Nếu các bạn đã tham dự vào điều đó, cám ơn Chúa vì sự nhiệt thành này. Nếu các bạn có buông thả bởi bất cứ sự thay đổi nào, hãy loại bỏ chúng như là một sự dữ. Theo lời khuyên của thư Do Thái: “Hãy để chúng ta luôn nhìn ngắm vào Chúa Giêsu, Đấng luôn luôn linh hứng và hoàn hảo đức tin của chúng ta”.
Dĩ nhiên có những lạm dụng chống lại phụng vụ nhưng không thể thứ lỗi cho việc tấn công vào chính việc phục hồi phụng vụ. Chúng ta không thể loại bỏ hệ thống tòa án của xứ sở chúng ta bởi vì những quan tòa và bồi thẩm đều thất bại khi hành động theo sự công chính. Sự lạm dụng không phải là hệ thống mà là một sự đối nghịch lại với hệ thống. Đừng chấm dứt nơi mặt sai chống lại Thiên Chúa như đã làm bởi những hoàng tử làm với tiên tri Giêrêmia, vị tiên tri của Thiên Chúa là đưa ông tới sự chết. Sự thúc đẩy và phục hồi phụng vụ thánh là công việc của Thiên Chúa qua Thánh Thần. Đừng trở nên nguyên nhân gây ra sự căng thẳng trong Giáo Hội. Hãy bảo đảm là các bạn đang cố gắng trong cùng một hướng với Chúa Thánh Thần.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Nói đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ khác, nhưng nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta. Vì thế, đâu đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao cảnh giác: phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Chúa Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Ngọn lửa Chúa Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Ngọn lửa bên trong Chúa Giêsu không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng. Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người. Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và pahỉ đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc giữa và lúc kết thúc.
Ngọn lửa bên trong Chúa Giêsu phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch. Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, – do đó chúng ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu, vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương hướng Chúa muốn.
Chúa Giêsu đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Chúa Giêsu đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy lên. Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nếu con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu con người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng được ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Và rồi chúng ta hãy nhớ: “Không ai có thể cho người khác cái mình không có”, nghĩa là chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bogn1 tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng áng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
Ta xin Chúa khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
24. Bước theo Đức Kitô trên đường Thập Giá
(Suy niệm của Huệ Minh)
Trang sách Giêrêmia mà ta vừa nghe thật gay cấn.
Vua xứ Giuđa bấy giờ đã tuyên thệ phục tùng vua Babylon trước mặt Thiên Chúa. Nhà tiên tri coi lời thề đó như thánh ước vì đã lấy Danh Ðức Giavê mà thề. Do đó, khi vua Giuđa và hàng khanh tướng có ý đồ bội ước, phản lại vua Babylon và cầu cạnh vua Ai Cập, thì nhà tiên tri phải lên tiếng. Ông tố cáo sự lật lọng của nhà Giuđa đối với Thiên Chúa là Ðấng luôn trung thành.
Lẽ dĩ nhiên ông đã lợi dụng cơ hội này để kể hết các bội phản của dân thất ước. Ông bực mình nhất vì thái độ giả hình của họ. Họ cứ vỗ ngực xưng mình là dân của Chúa đang khi không ngớt vứt bỏ lệnh truyền của Người. Họ căn cứ vào việc Chúa đã chọn họ làm dân ưu tuyển, để luôn cư xử bất công với mọi dân khác, coi dân ngoại chỉ như bàn đạp cho họ tiến lên.
Giêrêmia chống đối thái độ giả đạo đức và tự phụ khinh người ấy. Ông luôn nhắc nhở phải trở về với Thiên Chúa và biết rằng Người coi trọng các dân tộc. Nhưng những lời ông nói đều bị bỏ ngoài tai. Vua Giuđa tiến hành ý đồ phản lại Babylon. Nước này đem quân xuống đánh, vây chặt thủ đô Giêrusalem. Giêrêmia cũng bị nằm trong vòng vây.
Và như vậy, Giêrêmia đã trở thành ngôn sứ đặc biệt của Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Cuộc đời của ông báo trước cuộc Tử nạn của Người. Ông là một trong đoàn thể chứng nhân đông đảo bao quanh chúng ta, trong cuộc đời đầy phấn đấu hiện nay.
Cuộc đời của Giêrêmia rất đỗi éo le. Nói đúng hơn, từ ngày Thiên Chúa đặt lời của Người trong miệng ông để ông làm ngôn sứ, tuyên bố các phán quyết của Người thay cho chính Người, Giêrêmia đã trở thành tường đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Giuđa và hàng khanh tướng. Ngay hàng tư tế cũng tuyên chiến với ông (x. chương 1). Chẳng phải tại ông bướng bỉnh. Ngược lại, ông luôn cảm thấy mình chỉ là một đứa trẻ. Nhưng Lời Chúa đã ập xuống trên ông, bắt ông đứng dậy tuyên sấm cho dân phản loạn. Họ đã chối bỏ mạch nước hằng sống để đào cho mình bể rò không chứa được nước (2,13).
Thân phận của Giêrêmia là như vậy. Thân phận của Chúa Giêsu chắc có lẽ cũng giống thân phận đau khổ của Giêrêmia.
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51).
Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua con đường tự hiến, thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
Thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.
Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.
Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.
Ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.
Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Thiện Duy)
Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong năm 2012, 12 vị thừa sai đã thiệt mạng trên những bước đường truyền giáo. 10 vị là các linh mục, hai vị còn lại là một nữ tu và một giáo dân. Trong 4 năm liên tiếp, Mỹ Châu là vùng đất nơi máu các nhà truyền giáo đổ ra nhiều nhất. Trong năm qua đã có 6 linh mục bị giết tại đây. Tại Phi Châu, 3 linh mục và một nữ tu bị giết. Tại Á Châu, một linh mục và một giáo dân bị giết. Thống kê này không kể đến số các nhà truyền giáo trong đó có cả các Giám Mục bị đánh đập đến mang thương tích, bị giam cầm, khủng bố, hăm dọa, mạ lỵ công khai tại một số quốc gia.
Trong bối cảnh đau thương như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay vang lên như thể củng cố thêm đức tin cho những chiến sĩ đức tin của Chúa, rằng đó là thân phận của những ngôn sứ.
- PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: Gr 38, 4-6. 8-10
Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân của mình sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Cám ơn Chúa, còn có những người thấy được tội ác đó nên đã giải cứu cho Giêrêmia.
- Đáp ca: Tv. 39
Đây là lời kêu xin rất phù hợp với tâm tình của tiên tri Giêrêmia: “Tôi đã trông cậy ở Chúa, và Ngài đã nghiêng mình về bên tôi”. Chúa nghiêng mình về phía những người cầu khẩn Ngài chi vậy? Thưa để “Kéo tôi ra khỏi hố diệt vong”, giống hoàn cảnh của tiên tri Giêrêmia; và để “làm cho chân tôi vững bước”. Sau khi kéo ra khỏi chỗ chết, Chúa sợ tiên tri của Chúa nản lòng, nên Ngài còn củng cố thêm sức mạnh để họ tiếp tục thực hiện sứ mạng ngôn sứ của mình.
- Bài Đọc II: Dt 12, 1-4
Tác giả thư Do Thái mời gọi họ hãy “kiên trì trong đức tin”, vì Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.
- Tin Mừng: Lc 12, 49- 53
Đang trên đường lên Giêrusalem, nghĩa là sẽ đi đến cái chết, nên CG đã chia sẻ với các môn đệ về sứ mạng của Ngài và những hệ lụy khi phải chấp nhận sứ mạng đó.
Ngài đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Ngài là Đấng cứu thế. Ngài thực hiện sứ mạng của mình không bằng quyền lực, sức mạnh, nhưng bằng sự yếu nhược và cái chết. Có phải là Ngài thất thế, Ngài đành bó tay trước sức mạnh của kẻ khác không? Thưa không, mà đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì con người chúng ta còn biết rõ một sự thật: “Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tiêu tan”. Thì huống hồ chi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài muốn dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng ta chứ không phải con đường của quyền lực, sức mạnh. Chính vì vậy “phép rửa” mà Ngài muốn nói đến ở đây chính là con đường thập giá mà Ngài sắp bước vào. Đó là sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Tiếp theo, Ngài nói đến những hệ lụy của thân phận ngôn sứ đó. Ngài nói: “Anh em tưởng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Mới nghe điều đó chúng ta giật mình, vì Thiên Chúa mà lại đem đến sự chia rẽ cho người ta sao? Hơn nữa Ngài đã từng chúc phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, chẳng lẽ Ngài lại tự chúc dữ khi là người đem đến sự chia rẽ? Chúng ta phải hiểu Ngài đích thực là Vua Hòa Bình, chính Hòa Bình Ngài đem đến sẽ khiến cho những ai không đón nhận bị chia rẽ. Những ai không đón nhận chân lý của Ngài sẽ tự mình chia rẽ. Hơn thế nữa họ còn quay lại chống đối với những người đón nhận chân lý đó. Thậm chí ngay trong một gia đình, sẽ có người đón nhận và có người từ chối, hậu quả là sự chia rẽ. Đó là hệ lụy của thân phận ngôn sứ, sẽ bị những người từ chối chân lý chống đối, và muốn giết chết.
- THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
- Tấm gương của Môsê
Trong suốt những tuần qua, các bài đọc ngày thường của năm lẽ kể lại cho chúng ta thân phận ngôn sứ của ông Môsê. Thiên Chúa trao cho ông sứ mạng mà ông không muốn và không có khả năng. Nhưng vì nghe lời Thiên Chúa và thương mến dân tộc của ông mà ông đã chấp nhận thân phận ngôn sứ, chấp nhận lãnh đạo một đoàn dân cứng cổ cứng đầu. Đến nỗi có những lúc ông tuyệt vọng, ông than trách với Chúa: “Chúa coi, con không cưu mang, không sinh ra dân này, mà Chúa bảo con hãy bồng nó vào lòng mà đem đến miền đất ta đã thề hứa với cha ông chúng. Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức với con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn. Tuy nhiên, giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Chính ông là người đã đứng ra van xin Chúa tha thứ cho dân nhiều điều, đã đứng ra nhận lỗi về phần mình, đã xin Chúa có phạt thì phạt ông chứ đừng phạt dân mà tội nghiệp! Và cũng chính vì dân chúng mà Môsê đã không vào được vùng đất Chúa hứa, nhưng phải chết ở bên ngoài vùng đất đó. Đó là tấm gương của một ngôn sứ và những hệ lụy khi chấp nhận thân phận ngôn sứ. Tất cả vì sứ mạng mình đã lãnh nhận, không nghĩ gì đến bản thân mình.
- Một lần ý thức
Chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng nhiều khi chúng ta không biết hoặc quên sứ mạng ngôn sứ của mình. Chính vì vậy hôm nay là dịp để một lần chúng ta ý thức mình đã là ngôn sứ, vì vậy phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ và những hệ lụy của thân phận ngôn sứ.
III. CHẤP NHẬN THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
- Thân phận ngôn sứ
Thiên Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ta đặt Lời của Ta vào miệng ngươi”. Chính vì vậy ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Thiên Chúa. Các ngôn sứ ý thức nguồn gốc thần linh những sứ điệp của mình, nên họ nói: “Đức Chúa phán”, hoặc “Đó là lời Chúa”, chứ không phải lời của họ.
Kitô hữu là người nói thay lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy họ phải thường xuyên nối kết với Thiên Chúa để có thể biết, hiểu và trình bày lại cho người khác những giáo huấn tinh tuyền của Ngài. Cần phải lưu ý là “những giáo huấn tinh tuyền”. Ngày hôm nay có quá nhiều “sứ điệp từ trời”, “sứ điệp của Đức Maria”, “sứ điệp mang danh của Đức Giáo Hoàng này, Đức Giáo Hoàng nọ”… Kitô hữu cần phải khôn ngoan để phân biệt đâu là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta. Chúng ta đừng tìm đâu xa, sứ điệp đích thực của Thiên Chúa nằm trong Thánh Kinh và Giáo lý cũng như những lời giảng dạy chính thức của Hội Thánh. Họ hãy thông truyền bằng cách sống theo Lời Chúa và Luân Lý của Giáo Hội, cũng như tiếng nói của lương tâm ngay lành.
Mấy ngày nay người ta xôn xao câu chuyện bác sĩ Nguyệt đã làm đơn tố cáo bệnh viện Đa Khoa Hoài Đức ở Hà Nội “nhân bản kết quả xét nghiệm”. Việc này làm cho những bệnh nhân bàng hoàng vì kết quả xét nghiệm của mình được lấy từ những mẫu có sẵn. Việc làm này của chị có thể nói là hành động của một ngôn sứ vì chị đã dám nói lên sự thật, dám nói lên công lý, dù biết mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.
Còn chúng ta, chúng ta đã dám sống theo lời Chúa dạy, đã dám sống theo luân lý Kitô giáo và tiếng nói lương tâm ngay lành chưa?
- Hệ lụy của ngôn sứ
Tuy nhiên khi chấp nhận thân phận của một ngôn sứ thì chúng ta cũng phải đón nhận những hệ lụy của nó. Ông Môsê, tiên tri Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các tiên tri đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Chúng ta là những ngôn sứ, cũng phải chấp nhận những chống đối, những hiểu lầm, những ghen ghét, những loại trừ… nói chung là những bách hại để sống sứ mạng của ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính gia đình chúng ta. Chồng kêu vợ đi lễ, cô ta trả lời: “Ông ráng đi đi, mai mốt thành ông cha luôn!” Nếu người chồng không chấp nhận thân phận ngôn sứ sẽ bỏ luôn vai trò ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính khu xóm của chúng ta. Tháng Mân Côi, khu trưởng lại bàn về việc rước Đức Mẹ về nhà đọc kinh, thay vì được nhận lời, còn bị chửi nữa. Nếu không chấp nhận thân phận ngôn sứ chúng ta sẽ dễ chán nản.
Những bách hại đó đôi khi trong chính đoàn thể của chúng ta. Ai làm gì cho mình giận là mình không thèm tham gia nữa, làm như thể mình phục vụ những con người trong hội đoàn đó chứ không phải phục vụ Chúa và Giáo Hội vậy?
Những bách hại đó dành cho mọi ngôn sứ, nhưng thường dành cho những người đứng đầu nhiều hơn.
Khi giết được cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người ta đã thả cho giáo dân của cha về.
Các Linh mục làm việc bác ái, người được thì hớn hở, người không được thì giận hờn, thậm chí bỏ đạo luôn.
Giáo dân trong họ đạo bắt cha sở phải làm theo ý của họ với luận điệu họ đạo này là của chúng con, cha phải làm theo những gì chúng con đề ra…
Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin:“Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến”. Như thế, người tín hữu vẫn luôn phải trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng họ có Chúa nâng đỡ và phù trì. Sự gian nan ấy không làm nghẹt đức tin và lòng trông cậy nơi họ, nhưng trái lại, như lửa thử vàng, gian nan thử thách, chính sự gian nan là bằng chứng cho một tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và phó mình vì tôi”.
26. Thế nào là hòa bình của thế gian?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ)
Đức Giêsu nói: “các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Chúng ta cần phải hiểu cho đúng hai chữ hòa bình và chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây. Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng mang hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “hòa bình” có nhiều nghĩa: hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Vâng, Đức Giêsu chính là người mang lại hoà bình. Nhưng không phải là thứ hoà bình dễ dãi. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”. Hoà bình đích thực chỉ có thể đạt được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức Giêsu là bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống chung thân thiết nhất là gia đình huyết tộc.
Trong cuộc đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là một sự hiện diện trung lập, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức Giêsu là một loại thuốc nổ, một loại thuốc nổ bắt chúng ta phải thay đổi, biến chúng ta trở thành chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo Chúa và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải can đảm và kiên trì như con đường cô Mai Tâm đã trải qua:
– Mai Tâm là một Phật Tử, nhưng được gởi học ở trường Công Giáo
“… vì là con gái đầu lòng trong một gia đình Việt Nam có 9 người con, tôi phải hy sinh rất nhiều cho các em tôi, bố mẹ tôi lại được giáo dục theo nhân sinh quan truyền thống Khổng – Phật. Để chúng tôi có được một nền giáo dục và tư cách tốt, cha mẹ chúng tôi đã gửi chúng tôi vào học các trường Công Giáo: trường thánh Maria ở Hà Nội và sau này trường Thánh Phaolô ở Sài Gòn. Một môn giáo lý đã lôi cuốn tôi. Cuộc đời Đức Giêsu Nadarét, gương sáng và những giáo huấn của Ngài cho quần chúng làm tôi thích thú.
Chúa Giêsu đã chết vì yêu thương chúng ta trên thập giá. Tôi bị đánh động bởi những lời của Người: “hãy yêu thương người khác như chính mình” (Mc 12,31).
– Muốn được Rửa Tội khi lên 8, nhưng phải đợi đến năm 21 tuổi
Lên 8 tuổi, tôi xin cha mẹ cho phép tôi được Rửa Tội nhưng cha mẹ tôi đã từ chối bởi các ngài không hiểu nhiều về giáo lý của đạo Công Giáo. Đối với các ngài, đạo Công Giáo hình như là một sản phẩm nhập cảng từ Phương Tây. Song tôi vẫn đợi. Tôi vẫn học Kinh Thánh và 12 năm sau tôi trở thành sinh viên phân khoa giáo dục. Rồi tôi lại được một học bổng của UNESCO cho đi học về phát triển cộng đồng ở Mêhicô. Thật đúng là Thiên Chúa đã hoạt động trong đời tôi. Tôi có cơ hội vắng nhà hai năm. Tôi giải thích hoàn cảnh của tôi cho một linh mục ở Mêhicô và bày tỏ ước nguyện muốn trở thành Kitô hữu.
Tôi đã 21 tuổi, tuổi trưởng thành để quyết định mà không cần phải có sự ưng thuận của bố mẹ. Vì vậy, ước mơ của tôi đã thành hiện thực. Tôi đã được Rửa Tội. Xin cảm tạ Chúa! tại Mêhicô tôi đi dự lễ mỗi Chúa Nhật và sống đời Kitô Hữu.
– Trở về Việt Nam, bị cha mẹ làm khó dễ
Nhưng rồi hai năm trôi qua nhanh chóng, tôi trở lại Việt Nam sống với bố mẹ. Chúa Nhật nào các ngài cũng thấy tôi vắng nhà. Mẹ tôi đâm ra lúng túng. Mẹ tôi đã yêu cầu tôi bỏ đạo. Tôi lại bắt đầu đau khổ nhiều hơn và ban đêm tôi cảm thấy như bị Satan quấy phá qua lời nói của mẹ tôi. Một hôm bố tôi thấy tôi đeo Thánh Giá ở cổ, ông giật lấy và yêu cầu tôi phải bỏ đạo. Tôi thưa lại là tôi có thể làm mọi việc trừ việc bỏ đức tin. Thế là ba năm liền bố tôi không hề trò chuyện với tôi. Tôi kiên nhẫn chịu đựng đau khổ này.
– Xin đi phục vụ chương trình Phát Triển tại Á Châu
Tôi bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn Thiên Chúa bằng cách suốt nhiều năm tôi làm việc cho các đồng bào nghèo của tôi trong những giai đoạn chiến cuộc khó khăn. Tôi đã đi nhiều nơi giữa nguy hiểm và muôn vàn khó khăn. Với sự giúp đỡ của các cha dòng Tên, tôi được các ngài giới thiệu về Phong Trào Đoàn Kết Tin Tưởng tại Việt Nam (the Credit Union Movement) và tôi trở thành người giáo dân đầu tiên gia nhập tổ chuyên môn của dòng Tên chuyên về Đời Sống Phát Triển Kinh Tế Xã Hội tại Á Châu (Socio-Economic Development Life in Asia, gọi tắt là SELA). Trong tư cách là một nhân viên xã hội tôi cũng cố gắng đẩy mạnh sự phát triển cộng đồng và các hợp tác xã nông nghiệp.
Đã 20 năm tôi đấu tranh để sống đức tin của mình giữa một xã hội không phải là Kitô Giáo. Lúc đó, Việt Nam chỉ có 10% dân số là người Công Giáo. Dù vậy, tôi vẫn tìm thấy một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Giáo Lý Công Giáo giúp người ta trở nên lạc quan. Hy vọng, tình yêu, bình an, phục vụ cho công bằng và đem lại bình an cho thế giới.
27. Ngọn lửa tình yêu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.
Lửa ấy là gì?
Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).
Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).
Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.
Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.
Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.
Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.
Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.
“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: “Xưa Thiên Chúa đã phán: ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm’, Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2Cr 4, 6).
“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.
Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.
“Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình”.
“Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.
“Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu”.
“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó”.
“Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác”.
“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.
Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm C mời gọi các Ki-tô hữu phải kiên vững đức tin trong sứ mạng của mình dù gặp phải những chống đối, thù nghịch.
Gr 38: 4-6, 8-10
Vì trung thành với sứ mạng của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mọi người thù ghét và bách hại. Các Ki-tô hữu coi vị ngôn sứ này là hình bóng của Đức Ki-tô.
Dt 12: 1-4
Tác giả khuyên những Ki-tô hữu gốc Do thái của ông phải kiên trì đức tin trong mọi gian nan thử thách bằng cách noi gương các bậc tiền nhân, nhất là mẫu gương tuyệt hảo của Đức Ki-tô.
Lc 12: 49-53
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt đến tuyệt đỉnh khi Ngài báo trước sứ mạng của các môn đệ sẽ đồng nhất với sứ mạng của Ngài trong cùng một tình yêu tận mức dành cho con người.
BÀI ĐỌC I (Gr 38: 4-6, 8-10)
- Hoàn cảnh bi thương của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Đây là một trong những bài trình thuật kể về những đau khổ mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a phải chịu vì trung thành với sứ mạng của mình. Ngôn sứ đã tuyên sấm rằng thành đô Giê-su-sa-lem sẽ bị điêu tàn nếu dân chúng vẫn cứ bất trung với Thiên Chúa của mình. Dĩ nhiên, đối với các thủ lãnh, lời tuyên sấm này phản ảnh tinh thần chủ bại và phản quốc, vì thế họ tìm cách bịt miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a bằng cách thả ông xuống “hầm không có nước mà chỉ có bùn”. Nhưng ngôn sứ được cứu nhờ viên thái giám người Cút là ông E-vét Me-léc.
- Một cuộc đời trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa:
Để có thể hiểu những nỗi đau giằng xé trong tâm khảm của vị ngôn sứ, chúng ta đừng bỏ qua những lời tâm sự đến xé lòng của ông theo hình thức cầu nguyện như:
“Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì,
để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với con?
Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người,
thế mà vãn cứ bị nguyền rủa.
Quả vậy, lạy Đức Chúa,
con đã chẳng đem thiện chí phục vụ Ngài hay sao?
Nào con đã chẳng cầu khẩn với Ngài cho thù địch
khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải gian truân?” (Gr 15: 10-11),
nhất là:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.
Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”.
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến pahri hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20: 7-9).
Thật ra, ngôn sứ Giê-rê-mi-a vốn là một con người hiền lành, không muốn làm mất lòng bất kỳ một ai. Trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa mà ông trở nên kẻ thù địch của mọi người, vì những thông điệp của ông đi ngược lại những mong ước của mọi người. Vì thế, đoạn trích dẫn hôm nay không nên nhấn mạnh sự giải thoát cho bằng sứ mạng trung thành chuyển giao lời của Đức Chúa mà ông bị loại trừ và chịu đau khổ. Quả thật, sự đau khổ của Giê-rê-mi-a tiên trưng sự đau khổ của Đức Giê-su, được phác họa trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 1-4)
- Noi gương các bậc tiền nhân:
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc Thư gởi tín hữu Do thái mà chúng ta đã khởi sự đọc vào Chúa Nhật trước. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc lời khuyến dụ kết thúc danh sách các bậc anh hùng Cựu Ước. Các ngài là những “chứng nhân” về niềm tin sắc son kiên vững trong mọi gian nan thử thách. Tác giả Thư gởi tín hữu Do thái mời gọi chúng ta noi gương các bậc tiền nhân kiên trì giữ vững đức tin trong mọi gian nan thử thách. Như một vận động viên, để có thể đạt được vòng nguyệt quế chúng ta phải chấp nhận cởi bỏ khỏi bản thân mình bất kỳ thứ gì làm vướng víu cuộc chạy đua của mình.
- Đức Giê-su là mẫu gương tuyệt hảo của người Ki-tô hữu:
Đối với người Ki-tô hữu, Đức Giê-su còn vĩ đại hơn gấp vạn lần các bậc anh hùng Cựu Ước. Khi sống tại thế, Ngài đã không chỉ “khai mở” con đường đức tin nhưng còn “kiện toàn” lòng tin bằng cách “cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Chính nhờ hướng về Ngài, người Ki-tô hữu sẽ thành toàn cuộc đời mình qua những gian nan thử thách của cuộc đời này.
TIN MỪNG (Lc 12: 49-53)
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt tới cao điểm khi Ngài mặc khải rằng việc họ thuộc về các môn đệ Ngài sẽ đặt họ vào những cảnh ngộ không yên thân thoải mái đâu. Thực vậy, ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giê-su được đề cập ở 12: 49-50 có những phản hồi trực tiếp đến các môn đệ ở 12: 51-53. Tin Mừng hôm nay có hai ý được gợi lên qua hai cặp hình ảnh: “lửa và phép rửa” (12: 49-50), “hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53).
- “Lửa và phép rửa” (12: 49-50)
Bằng cặp hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giê-su nói đến sứ mạng sắp đến của Ngài. Trước hết, “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”: Trong Kinh Thánh, hình ảnh “lửa” thường mô tả tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa cho con người (x. Đnl 4: 24; Xh 13: 22; vân vân). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người tận mức ở nơi biến cố Nhập Thể của Con Ngài (Ga 3: 16). Qua hình ảnh “lửa”, Đức Giê-su tự nguyện hiến dâng mạng sống mình vì chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Vì thế, Chúa Giê-su những ước cùng mong đến giờ thực hiện tình yêu tận mức của Ngài đối với con người được bừng cháy trên Thập Giá.
Tiếp đó, Đức Giê-su mô tả cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài qua hình ảnh phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”, nghĩa là Ngài sẽ dìm mình vào trong cái chết, nhưng từ cái chết Ngài sẽ sống lại trong vinh quang để không bao giờ chết nữa. Qua hình ảnh “phép rửa”, Đức Giê-su tha thiết ước mong được hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Cũng thế, chúng ta chịu phép rửa, nghĩa là chúng ta dìm mình vào trong cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô, tức là chết cho tội lỗi mình, và được tái sinh vào một đời sống mới chan chứa muôn vàn ân phúc: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4).
Qua cuộc sống mới này, chúng ta, những người Ki-tô hữu, phải bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu theo cùng cách thức như Đức Giê-su đã châm ngọn lửa ở nơi các môn đệ Ngài, như lời của thánh Phao-lô: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
- “Hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53)
Con Thiên Chúa đã giáng trần với một sứ điệp hòa bình: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14) và hòa giải: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5: 11). Các ngôn sứ cũng đã loan báo sứ mạng của Đấng Ki-tô là sứ mạng hòa bình (x. I s 9: 5tt; Dcr 9: 10) và thánh Phao-lô cũng xác quyết chính Đức Giê-su “là bình an của chúng ta” (Ep 2: 14-15). Tuy nhiên, vì cưỡng kháng lại công trình cứu độ của Đức Ki-tô do tội, con người trở thành những đối thủ của Ngài: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?”. Bất công và lầm lạc dẫn đến chia rẽ và chiến tranh: “Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Ki-tô đến. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người vượt thắng tội lỗi và cũng vượt thắng bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: ‘Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thánh lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không tập luyện để chiến đấu’ (Is 2: 4)” (Vatican II, Gaudium et spes, 78).
Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên, dù rằng “Người đã đến loan Tin Mừng bình an” cho hết mọi người (Ep 2: 17-18), tuy nhiên, suốt cuộc đời tại thế, Đức Giê-su đã là dấu chỉ của sự mâu thuẫn (x. Lc 2: 34). Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết rằng sự bất đồng và chia rẽ đồng hành với công việc truyền bá Tin Mừng (x. Lc 6: 20-23; Mt 10: 24). Ngay cả trong gia đình vốn là nơi yêu thương và đùm bọc nhau, đôi khi vì niềm tin vào Ngài và vào Tin Mừng của Ngài lại trở thành cuộc bách hại ngay trong gia đình mình. Vì thế, Chúa Giê-su nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình theo kiểu thế gian, nghĩa là không có chiến tranh, bách hại, mà là hòa bình của Thiên Chúa, một thứ hòa bình ngự trị trong cõi thâm sâu của lòng người, đó là hòa bình mà thế gian không thể nào ban cho được.
“Lời Chúa Giê-su nói về sứ mạng của Người cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Người: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là một thứ bình an mà phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân không cùng niềm tin với mình. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: ‘Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa’ (Cv 14: 22). Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng ‘chia rẻ’: a) Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác; b) Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 12, 49-53 và đoạn trước liên hệ với nhau qua chủ đề “Chúa đến” (12:49.51; 12:36.37.38.39.40.43.45). Tuy nhiên, đoạn trước quy chiếu về ngày Chúa Giêsu đến trong quang lâm; còn ở đây, sứ mạng của Người trên trần gian. Đối với đoạn tiếp sau (12:54-59), Luca đề cập đế những người không biết nhận ra chính Người và sứ mạng của Người qua những việc Người đang thực hiện. Ý tưởng và bố cục của đoạn nầy có thể phân chia như sau: – Sứ mạng qua hình ảnh lửa và nước (12:49-50); – Những phân rẽ do chọn lựa (12:51-53).
Hai câu 49-50 nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu trên trần gian. Động từ “đến” (c. 49) một đàng xác định sứ mạng của Chúa Giêsu khi Người đến (x. 5:32; 7:34; 12:49.51; 19:10); đàng khác chỉ chính Người là “Đấng Đang Đến”, erchomenos. Thể aorist của động từ “đến” chỉ sự kiện đã xảy ra là Chúa Giêsu đã đến trên trần gian nầy. Những động từ khác “muốn”, “có” thanh tẩy, “bồn chồn” (c. 50) đều ở thì hiện tại. Chúng nói đến tình trạng hiện đang xảy ra nơi Chúa Giêsu: Người ước ao mọi sự được hoàn tất. Sứ mạng của Người được trình bày qua hai hình ảnh ẩn dụ là “lửa” (c. 49) và “nước (c. 50).
“Tôi đã đến ném lửa trên trần gian” (c. 49)
Luca thường dùng cách nói “ném vào lửa”. Hành động “ném lửa trên mặt đất” khác với “mang lửa xuống từ trời”. Gioan và Giacôbê muốn đem lửa từ trời xuống để trừng phạt dân làng Samaria, vì họ đã không tiếp đón họ và Chúa Giêsu (9:54). Cũng thế, “ném vào lửa” (3:9; 12:28) chỉ việc thiêu hủy và tiêu diệt. Theo hướng nầy, “lửa” chỉ sự phán xét, nhất là sự phán xét cuối cùng và dứt khoát (x. 17:29.31-35). Mặt khác, Luca cũng dùng “lửa” để chỉ Thánh Thần (3:16; Cv 2:3). Cả hai ý nghĩa nầy khó áp dụng ở đây, vì ước muốn của Chúa Giêsu là lửa ấy cháy lên “từ nay trở đi” (c. 52). Chưa đến lúc của sự phán xét và án phạt dứt khoát, cũng như chưa đến lúc Thánh Thần được ban xuống, khi Chúa Giêsu đang còn thi hành sứ mạng trên trần gian nầy. Như thế, có thể hiểu là lửa chỉ sứ mạng của Người. Người không đến để chỉ phán xét và ban Thánh Thần. Người còn làm nhiều điều hơn thế. Cụm từ “trên trần gian” chỉ một nơi chốn, và hướng về chiều ngang: dài và rộng. Sứ mạng của Người được loan báo ra khắp nơi và cho mọi người. “Lửa” có tính cách quyết định: hoặc sinh trái tốt hoặc bị thiêu đốt, được soi sáng khỏi tối tăm và rạng rỡ vinh quang (x. 2:32), được đốt cháy lên (x. 24:32). Vậy, Chúa Giêsu đến, ban sự sống và đặt con người vào một sự chọn lựa dứt khoát. Ai từ chối Người, sẽ bị lửa thiêu hủy (3:9.17). Còn ai nhận biết Người, sẽ được ban Thánh Thần (x. 3:16).
“Có một thanh tẩy Tôi phải chịu” (c. 50)
Theo ý tưởng của văn mạch, lửa Chúa Giêsu mang đến liên hệ với thanh tẩy (c. 50), đồng thời cả sự chia rẻ giữa những quan hệ thân thiết nhất trên trên gian nầy (c. 51-53). Trong đoạn song song với Luca, Marcô đặt “chén” bên cạnh thanh tẩy (Mc 10:38) để chỉ cuộc khổ nạn Chúa Giêsu sẽ chịu. Điều nầy soi sáng cho việc hiểu “thanh tẩy” ở đây. Nó cũng ám chỉ cuộc khổ nạn Người sẽ chịu. Lửa chỉ sứ mạng trải dài; trong khi “chịu thanh tẩy” là lúc sứ mạng ấy kết thúc. Chúa Giêsu không rơi vào định mệnh đã sắp sẵn. Ngược lại, Người đã tiên báo điều nầy (9:22; 18:31), và Người “bồn chồn” mong sớm thực hiện thanh tẩy ấy.
Những phân rẽ do chọn lựa (cc. 51-53)
Luca dùng cách diễn tả “Các ông nghĩ…. Không! Tôi nói với các ông…”, tìm thấy lại trong 13:2-3.4-5, để kéo chú ý vào điều được nói ở vế sau. Ở đây là sự chia rẽ, đối nghịch với bình an như người ta thường nghĩ (c. 51). Dẫn chứng là sự chia rẽ trong gia đình (cc. 52-53). Chúa đến làm cho con người phải chọn một thái độ. Không thể có thái đột trung lập. Đem đến bình an là mục đích của sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu (x. 1:79; 2:14; 10:5-6; 19:38). Ai đón nhận Người, được hưởng bình an. Bình an nơi con người là tình trạng thông hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa (x. 7:50), là trật tự tự nhiên hoàn hảo như ý Thiên Chúa muốn (x. 8:48). Đối lại bình an là chia rẽ, chống đối, chiến tranh, gươm giáo (c. 51b). Trong đoạn song song Matthêô nói đến “lưỡi gươm” (Mt 10:34). “Chia rẽ”, diamerismos, bởi động từ dia-merizō, có nghĩa là “chia làm hai” (x. 11:17; 12:51.53). “Chia rẽ” gợi lên nhiều khía cạnh khác với “gươm”. Chia rẽ là sự bất đồng ý kiến, khác biệt quan điểm, đặc biệt giữa các thành phần trong cùng một đơn vị, tổ chức. Trong sự chia rẽ, mỗi bên đều chịu trách nhiệm về sự việc nầy.
Chúa đến, không phải ai cũng đón tiếp Người. Nhiều lần Người nói đến sự từ chối, chống đối, và cả thù ghét Người nữa. Thái độ của họ tỏ ra bên ngoài là không tìm hiểu những “dấu hiệu” để nhận ra Người (cc. 54-56). Bởi đó, do việc chọn lựa đi theo Người hay từ chối Người, sự phân chia không thể tránh khỏi hình thành. Sự phân rẽ nầy Simôn đã báo trước (2:34).
Sự phân rẽ nầy vào tận quan hệ mật thiết nhất của gia đình (c. 53). Gia đình gồm năm người và chia thành hai nhóm: nhóm 2 người là cha và mẹ, cũng là mẹ chồng; nhóm ba người là con trai, con gái và dâu. Sự xung đột giữa họ có tính cách hỗ tương; bên nầy chống đối bên kia. Điều nầy khác với việc thế hệ trẻ nổi lên chống đối thế hệ già trong Matthêô (x. 10:35; Mica 7:6). Sự chống đối nầy bắt đầu ngay “từ nay trở đi”. Cụm từ nầy chỉ thời gian từ khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng. Mọi sự nên hiệu lực từ lúc Người nói ra (x. 5:10; 12:52; 22:18; 22:69).
Sứ mạng của Chúa Giêsu là cứu chuộc, ban bình an, và qui tụ mọi người nên một trong Người. Tuy nhiên Người trở nên cớ cho con người phân rẽ với nhau, tùy theo sự chọn lựa của họ.
(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói:
“Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.
Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trở cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa”.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.
Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi…
Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bogn1 tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng áng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến lửa và phép rửa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong lửa ấy bùng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Lửa Chúa nói là gì? Tại sao Chúa lại ném lửa vào mặt đất? Phép rửa Chúa nói là gì? Chúa đã chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả ở sông Gio-đan, tại sao Chúa còn phải chịu một phép rửa nữa. Đó là những điều chúng ta cần tìm hiểu.
Trước hết, về lửa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần đề cập đến lửa: ông Mô-sê thấy lửa cháy trong bụi gai, đây là hình ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa khi ông Mô-sê gặp gỡ Ngài. Dân Do Thái thấy cột lửa đi trước hướng dẫn họ trong sa mạc. Ngọn lửa từ trời thiêu hủy hai thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi. Lời Chúa mạnh mẽ như lửa nơi miệng ngôn sứ Giêrêmia. Ngọn lửa ngôn sứ I-sa-i-a nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông trở nên thanh sạch để loan báo sứ điệp cho dân. Ngôn sứ Ê-li-a được ví như ngọn lửa, và lời giảng dạy của ông như đuốc cháy, và ông được đưa về trời trên một chiếc xe bằng lửa. Hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa cho phép các ông xin lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Samari từ chối không đón tiếp Chúa. Mưa lửa từ trời xuống như là một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới. Lưỡi lửa của Chúa Thánh Thần đậu trên các tông đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói Ngài đã đến ném lửa vào mặt đất.
Như vậy, Kinh Thánh nói đến lửa, để chấp nhận các của lễ, để thanh lọc, thánh hóa cũng như để luận phạt, hủy diệt những kẻ tội lỗi, những dân thành sống vô luân, đồi trụy. Nhưng cao cả hơn, lửa để biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, cũng như lửa là biểu tượng tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa đối với con người. Lửa được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay mang ý nghĩa sau cùng này.
Bởi lẽ với sự nhập thể của Ngài, Chúa Giêsu đã đem sự hiện diện của Thiên Chúa đến giữa nhân loại, Chúa đã đem ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa đến giữa cuộc sống con người. Chúa còn nói: “Thầy còn mong cho lửa ấy bùng lên”. Có nghĩa là Chúa mong cho nhiều người đem ngọn lửa của đời mình vào tình yêu của Thiên Chúa do Ngài mang đến để thế gian được thắp sáng trong tình Chúa cũng như trong tình người. Nhưng trước đó, Chúa phải làm cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy thật to để mọi người trải qua mọi thời đại và sinh sống khắp nơi được thấy. Đó là hành động chết trên thập giá để đổ máu cho tình yêu thương cuối cùng mà trong bài Tin Mừng Chúa gọi là “phép rửa”.
Thực vậy, cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là phép rửa mà Chúa muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Một lần khác, trên đường lên Giêrusalem, hai môn đệ Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho hai ông được ngồi bên hữu bên tả Chúa khi Chúa được vinh quang, Chúa đã trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Cả hai lần, rõ ràng Chúa muốn nói đến cuộc thương khó của Ngài qua tiếng phép rửa. Chúa phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện sự hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người.
Càng mong lửa tình yêu lan rộng, Chúa càng nóng lòng chờ đợi cuộc thương khó và cái chết đau thương trên thập giá của Ngài. Phần chúng ta, để nhập cuộc vào con đường phát huy tình yêu thương này của Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải đặt lại bậc thang giá trị: Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong con tim chúng ta, trong cuộc sống và mọi hoạt động của chúng ta, sau đó mới đến những người thân yêu. Khi có sự mâu thuẫn giữa hai bổn phận hay giữa hai ý định khác nhau, chúng ta phải chu toàn phận sự về Thiên Chúa trước. Khi phải chọn lựa giữa hai đối tượng tương phản, chúng ta phải chọn lựa Thiên Chúa.
32. Lửa trên mặt đất – McCarthy
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”
Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị bách hại và một số bị giết chết.
Giêrêmia là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.
Các ngôn sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen, ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.
Một đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiêp nhất giả hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.
Khi nhà văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào của lợi ích bản thân.
Những sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.
Đức Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.
Sứ điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.
Suy Niệm 2. CHẠY ĐUA
Vào thời đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động. Đó là hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn người tham gia vào các cuộc chạy Maratông trong thành phố và trên khắp thế giới. Một vấn đề đặt ra: chạy Maratông một mình hay chạy với người khác, trường hợp nào cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: “Người chạy đường dài cô độc” nói lên tất cả.
Một vận động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo hò cổ vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng thông thường của người ấy.
Chúng ta lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác đang chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp vào số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ. Chúng ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra sức mạnh gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong một dòng chảy mạnh mẽ.
Điều gì trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực v.v…
Chạy Maratông không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Maratông tự nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.
Không phải chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác giả sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất chấp cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của “đám mây vô số nhân chứng” đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những người đã chạy đua trước họ.
Các Kitô hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo dài từ các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn luôn tìm lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh nhân. Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những “anh hùng của đức tin”, các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn thấy lời hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt mỏi cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: “Chúng tôi ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc”.
Như một phi công tiền phong đã nói: “Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn. Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: “Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể được thực hiện lại”.
Nhưng đặc biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã dẫn đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương sáng cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.
Sứ điệp ấy thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây không phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta cùng nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất dành cho tất cả mọi người.
33. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Trong xu hướng toàn cầu hóa thì định luật cạnh tranh càng trở nên khắt khe: đó là điều làm cho nhiều người lo lắng, và cách đặc biệt các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ không còn khả năng tự bảo vệ nền kinh tế vốn quá yếu kém của mình. Nói được rằng ý niệm cạnh tranh giờ đây bao hàm luôn một thuộc tính đáng sợ “không khoan nhượng”.
Thực ra sự cạnh tranh trên bình diện cuộc sống thường ngày chỉ là một phản ảnh tất yếu của một cuộc cạnh tranh nằm ngay trong sâu thẳm bản thân mội một con người. Lời Chúa hôm nay muốn phơi bày thực tại ấy, một thực tại mà con người ở mọi thời dường như luôn tránh né và không muốn đối diện.
Giêrêmia hôm nay bị các vương công ném xuống giếng bùn không phải vì Giêrêmia tranh giành địa vị hay tiền bạc với họ, nhưng chỉ vì Giêrêmia tố cáo sự bội tín của họ đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa. Các vương công đang biến Dân Chúa trở thành dân của những tham vọng chính trị trần thế, rời bỏ Giao Ước họ đã ký kết với Thiên Chúa theo đó “Họ là dân riêng của Chúa, và Chúa là Thiên Chúa của họ”. Các vương công thì muốn chạy theo thế lực của Ai Cập, một Đế Quốc mới. Họ muốn dân quy phục Ai Cập, phục vụ quyền lợi của Đế Quốc này.
Vào thời Đức Giêsu, những nhà lãnh đạo của Israel đạo cũng như đời đã biến Đền Thờ Giêrusalem thành một trung tâm quyền lực phục vụ cho những quyền lợi của phe nhóm và đảng phái chính trị: họ muốn một sự ổn định trong mối tương giao với Đế Quốc Rôma để giữ được quyền lợi của bản thân họ. Với quyền lực ấy họ phế bỏ những lề luật của Giao Ước không trực tiếp phục vụ cho tham vọng của họ: tạo nên một xã hội mà Đức Giêsu gọi là “thế hệ gian tà”. Thậm chí họ biến Đền Thờ thành nơi buôn thần bán thánh, thành hang trộm cướp, “để nuốt trửng đồng trinh cuối cùng của các bà góa”. Trong bối cảnh như thế, tất yếu con người như Đức Giêsu “đã đến ném lửa vào trái đất” lại còn “những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”, những con người như vậy tất yếu bị loại trừ theo định luật “cạnh tranh không khoan nhượng”.
Vào thời hoạt động của Phaolô, thời cực thịnh của Đế Quốc Roma, khi mà trong toàn đế quốc sự phồn vinh và hưởng thụ trở thành nếp văn hóa tiêu biểu, thì những lời rao giảng về “một Đức Giêsu chịu đóng đinh” đúng là sự điên rồ, và trở thành tư tưởng phá hoại sự ổn định xã hội. Vì vậy người ta nghỉ là phải cưỡng bách giập tắt. Người tín hữu bị ruồng bắt khắp nơi.
Trong xã hội ngày nay, để có cơm ăn áo mặc, và để có một cuộc sống có thể đối diện với mọi người, con người bị ném vào một guồng máy lao động không thể cưỡng chế. Những giá trị luân lý và đạo đức không cho người ta công ăn việc làm, không cho người ta leo lên những nấc thang xã hội, đều trở thành những giá trị nghiệt ngã phải chối bỏ. Vì thế người ta rời xa Giáo Hội, rời xa cuộc sống Đức Tin để đáp ứng những nhu cầu không thể thiếu của đời sống thường ngày.
Xem như thế, vào bất cứ thời điểm nào Lời Chúa luôn đặt trước mắt con người phải làm một cuộc lựa chọn. Sự lựa chọn nào cũng có những đòi hỏi tất yếu phải thanh tẩy những điều không tương xứng và không tương hợp. Và điều ấy tạo nên những đối kháng, những đấu tranh. Những con người như Giêrêmia, như Phaolô giống như chính Đức Giêsu đã phải dùng chính cái chết của mình để khẳng định sự bình an đích thật là sự bình an mà Giao Ước của Thiên Chúa trao ban. Sự bình an ấy đòi hỏi phải thanh tẩy tội lỗi khỏi cuộc sống. Sự thanh tẩy ở đây không phải là những cưỡng chế từ bên ngoài, không phải là những vu khống, bắt bớ, cho dù nó vẫn thường diễn ra như thế. Nhiều người đã nhân danh niềm tin để đòi cho được thứ tự do trong cơ chế, trong tổ chức, trong cơ cấu xã hội. Nhưng Tin Mừng lại chỉ mời gọi con người hãy dấn thân cho một cuộc đua tâm linh: nơi con người chỉ đối diện với chính mình.
Thánh Phaolô thật chí lý khi nhận định về mọi nỗi khổ cực và cả sự chết của Đức Giêsu. Đây không phải là cơ chế, tổ chức, cơ cấu xã hội là nguyên nhân cái chết ô nhục của Người, nhưng “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá…”, đúng như chính Người đã minh xác “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Sự đấu tranh kiên cường phải có là sự đấu tranh với chính mình, với lựa chọn phải có trong cuộc sống, để luôn luôn biết “mở miệng hát bài ca mới. Bài tán dương Thượng Đế chúng ta”.
Chúa Giêsu đã cảnh cáo dân chúng về hiểm hoạ của đời sống hưởng thụ – qua dụ ngôn phú nông ngu dại. Rồi Ngài lại khuyên những kẻ theo Ngài – qua dụ ngôn ông chủ về và kẻ trộm đến. Nhưng Ngài không muốn cho họ lầm lạc mà cho rằng nước ấy sẽ thiết lập ngay mà không cần phải tranh đấu và chờ đợi. Thời hiện đại là thời của tranh giành chia rẽ, mà nguyên nhân chia rẽ ấy lại là chính Chúa. Một ngày kia Ngài sẽ trở lại đem lại sự công bình, an lạc đến chỗ toàn thắng và lúc ấy Ngài sẽ là Vua của Hoà Bình. Còn bây giờ Ngài đến thế gian quẳng lên nó một đốm lửa chia rẽ, xung đột. Đó là điều không thể tránh được, nên Chúa Giêsu không ân hận gì khi thấy lửa bén cháy, nhưng cho đến khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá lửa ấy mới bùng lên thành hoả hoạn. Ngài cảm thấy bồn chồn mong cho xong cái kỳ hạn khủng khiếp ấy, Ngài sẽ là cây đuốc châm vào thế gian, ngọn lửa hừng của xung đột và chia rẽ. Sự chia rẽ sẽ xảy ra dầu ngay trong hàng ngũ những người thân yêu nhất.
- Trong tư tưởng của người Do thái, lửa là biểu tượng của phán xét.
Vì thế Chúa Giêsu nói Nước Ngài đến như một thời kỳ phán xét. Người Do thái tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ phán xét các dân tộc thế gian theo một tiêu chuẩn và phán xét, họ theo một tiêu chuẩn khác. Và sự kiện họ là người Do thái cũng đủ cho họ thoát khỏi sự phán xét của Ngài. Đối với những người đang nhìn biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa, thì những lời này khiến họ phải ngỡ ngàng, sững sờ. Họ đã coi Đấng Mêsia là Đấng Chiến Thắng, là Vua, và thời đại của Đấng Mêsia là hoàng kim thời đại… Mặc dầu tư tưởng chúng ta cũng muốn loại bỏ yếu tố phán xét ra khỏi sứ điệp của Chúa Giêsu nhưng nó vẫn tồn tại một cách bất di bất dịch.
- “Có một phép rửa mà Ta phải chịu”
Động từ Hi-lạp baptizein có nghĩa là dìm xuống nước. Trong thể thụ động nó có nghĩa là chịu dìm xuống nước. Thường thường từ ngữ đó được dùng theo nghĩa bóng. Chẳng hạn dùng để chỉ về một chiếc tàu bị sóng biển vùi dập và chìm xuống. Cũng có thể dùng chỉ một người “uống rượu như hũ chìm” và say đến chết. Cũng có thể dùng để chỉ một thí sinh bị tấn công bởi các câu hỏi dồn dập của các giáo sư khảo hạch. Nhưng đặc biệt nó được dùng để chỉ về một người nhận chìm trong một kinh nghiệm rùng rợn, khủng khiếp, đến nỗi có thể nói “các đợt sóng ba đào bao phủ lên tôi”. Nó có nghĩa của từ mà Chúa Giêsu dùng ở đây. Ngài muốn nói “Ta có một kinh nghiệm khủng khiếp mà Ta phải trải qua và đời sống đầy căng thẳng cho đến khi Ta qua khỏi nó và xuất hiện cách toàn thắng”. Thập giá hằng ở trước mặt Ngài luôn. Ý tưởng đó thật khác xa với ý tưởng của người Do thái về vị Vua của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến, không phải với những đạo binh báo thù và những ngọn cờ phấp phới, nhưng Ngài đến để phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
- Sự đến của Ngài chắc chắn mang lại sự chia cách.
Thực tế điều đó đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Kitô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân rẽ. Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con còn đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: Con ơi, hãy thương đếm mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ ngẹn ngào trả lời: Thưa cha, tại toà án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.
Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phanxicô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả cá sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
“Thầy không muốn đến để đem bình an…”
Sách Xuất Hành kể rằng Môsê dẫn đàn cừu đi vào sa mạc, đến núi của Thiên Chúa là Khoreb. Thần sứ của Giavê hiện ra cho ông trong ngọn lửa giữa bụi gai, bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu huỷ. Chúa phán cùng Moisê: “Chớ lại gần. Cởi dép khỏi chân đi vì đây là thánh địa”.
Lửa biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy đến để đem lửa xuống trần gian và mong muốn cho lửa cháy lên”. Lửa ấy là gì? Là sức mạnh, vừa soi sáng vừa đốt cháy của tình yêu Thiên Chúa. Là Chúa Thánh Linh đã đến trong ngày Hiện xuống để làm bừng sáng trí khôn, để nung nấu tâm hồn các tông đồ, đã làm cho các ông lãnh nhận phép rửa mà Gioan tiền hô đã loan báo: “Ngài sẽ đến, làm phép rửa anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11).
Vậy muốn trở nên đồ đệ chân thật của Chúa, chúng ta hãy đón nhận lửa tình yêu mà Chúa mang đến. Tâm hồn ta phải đầy lửa. Có lửa mới có thể đem chia sẻ cho người khác. Đó là điều kiện tiên quyết của những ai làm tông đồ của Chúa, nhưng ai có phận sự “làm cho lửa cháy lên” trong các linh hồn.
Lễ Hiện xuống năm 1544, trong khi Thánh Philipphê Nêri đang cầu xin Chúa Thánh Thần thì như có một bầu lửa xâm nhập vào tâm hồn, khiến người cảm thấy đầy lửa yêu mến. Phải chăng đây là triệu chứng một cơn bệnh mà Người mang theo suốt đời? Bệnh thể xác hay bệnh tâm linh, không ai dám quả quyết. Chỉ biết chắc một điều là sau khi Thánh nhân qua đời, các bác sĩ đã mổ khám tử thi, nhận thấy phía trên trái tim của Người, có hai chiếc xương sườn bị gẫy và cong uốn lên như để dành đủ chỗ cho trái tim. Philiphê Nêri là một vị tông đồ đầy lửa của thành phố Lamã.
Điều kiện thứ hai của vị tông đồ là sẵn sàng xả kỷ và hy sinh. Chúa phán: “Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Thật là trái ngược! Ngài “hiền lành và khiêm tốn trong lòng”, nhưng “lại đến để đem sự chia rẽ”, cha mẹ chống đối con cái, người trong nhà chia rẽ nhau!
Vì tình yêu chân chính đòi hỏi sự chọn lựa và hy sinh. “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta”. Lịch sử Giáo Hội nhan nhản những gương hy sinh của các vị Tông Đồ của Chúa. Thân mẫu của Thánh Nữ Catarina Sienna kêu lên ngày con ra đi sống đời tận hiến: “Ôi sức mạnh nào đã chiếm đoạt con tôi?” Đó là sức mạnh của Đấng đã chết trên cây thập giá cách đây XIX thế kỷ, nhưng vẫn còn lôi cuốn “tuổi trẻ, sắc đẹp và tình yêu” (Montalembert).
Chúa Giêsu thật là Đấng đã đem đến cho thế giới máu và lửa. Lửa của Tình Yêu. Máu của Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại như trong một phép rửa. “Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Yêu mến, tận hiến và hy sinh cùng là ba đức tính của người tông đồ của Chúa.
Tôi khốn khổ cơ bần, nhưng có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ giải thoát.
Ôi, Lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ(Tv 39).
36. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
37. Hai cách hiểu câu khó hiểu
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Quen tai với những lời dịu dàng của Chúa, nào là “Hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng;” nào là “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp…” mà hôm nay nghe từ miệng Chúa những câu ghê người: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”
Ta phải hiểu thế nào đây? Có 2 cách hiểu:
- Chính Giêsu là Đấng Thiên Sai
– Gioan Tẩy Giả khi bị tù đã nghi ngờ không biết ông Giêsu em họ mình có phải là Đức Kitô, là Đấng Chúa sai đên không. Và ông Giêsu đó đã ngầm bảo cho Gioan là chính mình là Đấng Thiên Sai, vì khi Đấng ấy đến thì “kẻ què được đi, điếc được nghe, mù được thấy, người chết sống lại…”
– Kinh Thánh và Do thái giáo chắc chắn biết rõ chủ đề chia rẽ trong gia đình vào thời buổi cuối cùng trước khi Đấng Thiên sai đến.
Sách Talmud, sách giảng giải bậc nhất của Do Thái giáo đã viết: “Thế hệ lúc con vua Đavít (tức Đấng Thiên Sai) đến là thế hệ mà con gái chống đối mẹ mình, nàng dâu chống đối mẹ chồng…”
Còn sách Tiên tri Mikê (7,6) nói về thời buổi cuối cùng khi Đức Kitô đến như sau: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch.”
Vậy, thay vì nói chính tôi là Đấng Thiên Sai, Đấng phải đến, thì Đức Giêsu nói “tôi đến gây chia rẽ mẹ chồng nàng dâu, con trai với cha, con gái với mẹ…” vì đó là những lời sấm, những hình ảnh Thánh Kinh dùng để chỉ ngày Chúa đến.
Ví như cô kia thách cậu nọ:
Bao giờ rau diếp làm cột đình,
gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Rồi bất ngờ có ngày anh lấy cô thật, anh Bất lấy chị Ngờ thật, thì thay vì nói hôm nay hai người lấy nhau, thiên hạ nói: hôm nay rau diếp làm cột đình, hôm nay gỗ lim thái ghém.
Thành ra chưa chắc Chúa có chia rẽ hay không, nhưng vì Kinh Thánh và sách Talmud nói, khi Đức Kitô đến, ngài sẽ chia rẽ nàng dâu mẹ chồng… thì Giêsu, thay vì nói chính mình là Đấng Kitô Thiên Sai, sẽ nói bóng gió: ta đến gây chia rẽ.
Mà có khi Ngài chia rẽ thật, vì Ngài đến đâu chia rẽ đó. Và đó là cách hiểu thứ hai.
- Ngài đến gây chia rẽ
Không phải Ngài đến có mục đích gây chia rẽ, mà là Ngài đến, kẻ yêu Ngài và kẻ ghét Ngài trở nên xa nhau, chia rẽ. Vợ chồng trẻ đang thương nhau, có kẻ thứ ba xuất hiện là một cô gái, chồng mến cô gái này, còn vợ thì ghét cay ghét đắng, thế là vợ chồng chia rẽ nhau vì người thứ ba đến. Ngài đến gây chia rẽ.
– Khi bế trẻ Giêsu trên tay, cụ Simeon nói: đứa trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp phạm, chia rẽ
– Trong dân chúng, có những người nghe các lời Đức Giêsu giảng thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Ki-tô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ.
– Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. (Giống y hệt vụ việc cha Long lòng Chúa Thương Xót hôm nay!)
– Các tông đồ, môn đệ cũng chia rẽ nhau vì một lời quá chói tai của Đức Kitô Giêsu: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống.
– Chia rẽ để phân biệt trắng đen, trúng sai, trung kiên hay bất tín. Thực tế chia rẽ đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Ki-tô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân tách.
Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì Đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Ki-tô hữu.” Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới.
Perpetua có một đứa con còn đang bú và nàng rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết Perpetua con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: “Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ Đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ ngẹn ngào trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ biết được đâu là điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình.”
Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: “Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.”
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hi sinh tất cả.
Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phan-xi-cô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.
Sẽ không có chia rẽ giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, khi… ai nấy sống đúng với danh hiệu Kitô hữu, tức là bằng hữu, là fan, là cùng phe với Chúa Giêsu Kitô. Amen.
Có một cô gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn cảnh, đã sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của cô thì bị mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng đêm, cô phải la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.
Sau một thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường, khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong vòng tay của Ngài.
Bài giảng được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Bài giảng này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn khóc. Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại cuộc đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn dắt. Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương chúng ta với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết của Chúa:
– Ta mang lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.
Theo các thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống… Chính ngọn lửa này đã làm phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân loại.
Thế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài đã thắp lên trong cõi lòng mỗi người.
Chính ngọn lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục sinh, để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm hồn cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt khoát với dĩ vãng tăm tối của mình.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu của Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế nhưng ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn đèn thiếu dầu?
Chính vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và cuộc đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.
39. Lửa tình yêu – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh Thần tình yêu
Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?
- Dựa vào đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?
- Đức Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Chúa gọi Giêrêmia, sai ông loan báo cho dân, nhân danh Chúa, những tai họa hình phạt sẽ xảy đến như đền thờ bị phá hủy, vua quan dân chúng phải đi lưu đày. Vì thế, Giêrêmia bị người ta ghét và muốn hãm hại; họ đã xin vua giết tiên tri, và đẩy Giêrêmia xuống giếng cạn để ông chết đói ở đó. Cũng may cho tiên tri, một người của Chúa đã đến xin vua để cứu Giêrêmia, và tiên tri đã được kéo lên khỏi giếng.
Tại sao Giêrêmia lại nói những lời dân không thích, để rồi người ta ném ông xuống giếng cạn? Sách tiên tri Giêrêmia cho thấy cuộc chiến nội tâm của ông. Đã có thời gian ông không nói cho dân những gì Thiên Chúa nói với ông, để hy vọng ông được sống an lành không bị người ta ghét bỏ hãm hại nữa, nhưng ông vẫn không được hạnh phúc: ruột gan ông bồi hồi. Ông đã trở lại với Thiên Chúa để có được một lương tâm an bình.
Sống, là phải chọn lựa. Chọn sống theo những gì Thiên Chúa muốn, là chọn điều tốt nhất cho mình, sẽ làm mình bình an hạnh phúc. Chọn làm điều ác điều dữ điều bất hảo, là mặc nhiên chọn không bình an và bất hạnh. Hạnh phúc của một người sống lương thiện không chỉ có ở đời sau, nhưng hiện hữu ngay tại đời này. Có bao người giầu cảm thấy không hạnh phúc, có bao người có danh vọng địa vị nhưng vẫn thấy bất hạnh. Hạnh phúc của con người tùy thuộc rất nhiều yếu tố. Một người sống đời gia đình, để hạnh phúc, cần có sự hòa hợp giữa vợ chồng con cái. Sự không thành đạt của một người trong gia đình, sự hư hỏng của một người con, cũng làm cho những bậc làm cha làm mẹ, cho dù là cha mẹ giầu sang và có địa vị, cảm thấy bất hạnh. Sự thành đạt, tiền của, công danh sự nghiệp, vợ chồng con cái, cha mẹ anh chị em, đều là những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc của mỗi người.
Giêrêmia đã chọn. Lúc đầu tiên tri đã làm theo tiếng Thiên Chúa yêu cầu; rồi vì thấy bị người ta ghét bỏ nên ông lại bỏ Thiên Chúa không làm theo lời Ngài chỉ dạy, nên ông thấy bất an; và cuối cùng ông đã trở lại với Thiên Chúa. Ông E-vét Me-léc đã chọn làm điều đúng điều phải và không sợ trái ý những người có quyền thế, khi tâu vua để kéo tiên tri Giêrêmia lên khỏi giếng cạn. Mỗi người trong cuộc sống đều phải chọn lựa làm điều tốt hay điều xấu, điều nên làm hoặc không được phép làm. Chính chọn lựa sống, làm họ được bình an hạnh phúc hay không.
Sự bình an sâu thẳm và sự “không có nguy hại về thể lý” đôi khi không đi chung với nhau. Chọn đồng lõa với điều ác, có thể không có gì xấu về thể lý xảy tới cho mình, nhưng người đó vẫn không có sự bình an thật, không có hạnh phúc thẳm sâu. Chọn điều đúng điều phải làm, có thể về thể lý gặp nguy hiểm, nhưng thâm sâu người đó vẫn cảm thấy bình an và hạnh phúc thật sự; chẳng hạn các anh hùng tử đạo. Các vị anh hùng tử đạo tuy dù qua chọn lựa của mình có thể bị hành hạ và bị giết, nhưng thâm sâu các ngài vẫn cảm thấy bình an, và biết rằng chọn lựa của mình có thể ảnh hưởng tích cực và có tính giáo dục cho con cái mình.
“Thầy đã đến ném lửa vào trần gian, và thầy mong ước lửa ấy bừng cháy lên.” Đức Yêsu mong ước người ta yêu mến sự thiện hảo, và ước chi con người luôn thực hiện điều lành điều tốt để danh Cha cả sáng, và mỗi người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu đến, không phải để đem lại hòa bình theo nghĩa khi tin vào Đức Yêsu, thì không có gì xấu về thể lý xảy đến; Ngài đến, làm người ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, giữa điều không được phép làm và điều phải làm, giữa Đức Yêsu và sự dữ. Bình an mà Đức Yêsu ban tặng, là bình an sâu thẳm trong tâm hồn chứ không phải là “không có điều gì xảy đến.”
Đức Yêsu đến, để người ta phải chọn lựa, chọn Ngài hoặc chọn điều xấu. Đức Yêsu là một giá trị mà người ta phải chọn lựa trên hết, trên cả gia đình anh em họ hàng. Ngày xưa, Đức Maria khi thưa tiếng “xin vâng,” là đã chọn Thiên Chúa trên thánh Giuse, trên gia đình cha mẹ, trên tình yêu riêng; và nhờ vậy, mẹ đã nên người nữ tuyệt vời. Đức Yêsu đã chấp nhận thân phận con người, và đã chọn sống kiếp người đến hơi thở cuối cùng bất chấp tất cả những đe dọa và khổ hình. Với cái chết, người ta tưởng Ngài đã bị hủy diệt, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Chọn lựa của Ngài, sống theo Ý Thiên Chúa, sống thân phận con người, là chọn lựa mang lại cho Ngài tất cả, kể cả con người sa đọa nay được cứu độ và được sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Theo bạn, giá trị con người hệ tại đâu?
- Đức Yêsu có hội đủ những giá trị mà bạn xác định trên không? Xin liệt kê những giá trị này?
41. Không hòa bình nhưng chia rẽ
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Những lời Chúa Giêsu nói mà thánh Luca ghi lại hôm nay không dễ hiểu và các nhà chú giải cũng không đồng ý với nhau vì có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Chúng ta thử tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay. Có lẽ các thánh sử đã tập trung lại trong một đoạn những lời Chúa nói trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong đoạn này chúng ta thấy Chúa nói đến ba điều: Lửa, phép rửa Ngài phải chịu, và sự chia rẽ.
Trong Cựu Ước, hình bóng của lửa được sử dụng nhiều lần với những tình huống khác nhau.
Thời Môsê, lửa bao quanh đỉnh núi Khoreb, nơi Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Israen. Lửa hỏa hào đó tượng trưng cho uy lực tuyệt đối của Chúa, làm cho dân khiếp sợ. Lửa đó chứng tỏ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối không ai có thể đến gần đến nỗi: “Không ai thấy Chúa mà còn sống”. Vì thế vinh quang Thiên Chúa tách Ngài ra khỏi đám dân cùng khổ.
Trong sách Xuất hành, Chúa đã hiện ra với Môsê trong một ngọn lửa hỏa hào, nơi bụi gai. Khi Môsê bước tới để xem sự gì đã xảy ra, thì từ ngọn lửa có tiếng phán: “Môsê, Môsê!” Ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Người lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, của Abraham, của Ixaac, của Giacob”. Môsê che mặt lại vì sợ nhìn thấy Thiên Chúa. Ngọn lửa hỏa hào là một hàng rào ngăn cách một Thiên Chúa cao cả tuyệt đối và Môsê, một con người tầm thường, nhỏ bé. Chúa Giêsu không tạo ra một hàng rào lửa như thế, vì chính Ngài là lửa thánh thiện được ban cho chúng ta. Ngài tỏ ra là một người “hiền lành và khiêm nhượng”, đến gần với mọi người, không tách biệt, nhất là đối với người tội lỗi. Ngài chứng tỏ Ngài là “Emmanuen”, nghĩa là Thiên- Chúa-ở-với-loài-người.
Ngài đã nhập thể, mang lấy kiếp người của chúng ta với tất cả sự yếu hèn và hạn chế của nó. Ngài hoàn toàn là người thật, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu có mang lửa đó xuống trần gian để ngăn cách con người với mình không? Chắc hẳn là không. Ngài đến để mang hồng ân tha thứ, để yêu thương và cho con người biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài đến để mời gọi con người đến với Ngài để tình yêu của Ngài giúp họ sống với Ngài trong một tình yêu sâu đậm, vững bền.
Vậy Ngài mang thứ lửa nào đến và Ngài lại mong cho nó cháy lên?
Ngài đến gọi Matthêu, người thu thuế, gọi Giakêu, trưởng ban thuế vụ, Ngài mời gọi hết mọi người: “Hãy đến với Ta hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho.” Ngài đến mang ngọn lửa đang nung nấu tâm hồn Ngài, và Ngài khao khát cho nó bừng cháy lên, ngọn lửa đó là tình yêu. Ngọn lửa đó không là ngọn lửa đã thiêu đốt thành Xôđôma va Gômôra, không phải là ngọn lửa mà tiên tri Êlia đã gọi đến thiêu hủy những người vua sai đến bắt ông.(xem:V1,10-14)
Chúa Giêsu đã mang lửa đến trần gian và mong nó bừng cháy lên trong lòng Giáo Hội, trong lòng con cái của Ngài, trong lòng những người đang mong cho Danh Cha cả sáng, nhưng nó chưa bừng cháy lên như Chúa mong ước.
Hãy mồi ngọn lửa của Ngài và mang nó vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta, cho thế giới nầy bừng cháy lên. Thế giới chúng ta đang sống đang chìm trong đêm tối của tội ác và bao nhiêu con người đang tuyệt vọng chờ đợi một ánh sáng nào cho cuộc sống của họ mang một ý nghĩa.
Thế giới của chúng ta đang đổ nát tan tành như ông Gabriel Marcel, một triết gia và là một kịch sĩ đã nói: “Thế giới nầy là một thế giới đổ nát. Người ta sống như đốt tàn một điếu thuốc”. Không còn gì có ý nghĩa cả, chỉ có lợi nhuận, vì ngọn lửa Chúa mang đến đã tắt dần, vì chính chúng ta, những người tin Chúa, đã không đủ lòng mến để nuôi ngọn lửa tình yêu ấy. Hận thù và tội ác đã như một làn sóng tràn ngập và đã dập tắt ngọn lửa tình yêu ấy.
Chúng ta không thể để cho ngọn lửa ấy tàn lụn. Ngọn lửa ấy chính là Thánh Thần. Đấng đã mang Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài tiếp tục công trình của Ngài nơi Chúa Giêsu. Ngài vẫn luôn cháy bừng trong Chúa Giêsu. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, là ngày đăng quang của Thánh Thần, Ngài hiển hiện như một ngọn lửa đốt cháy tâm hồn các Tông đồ, khiến các ông trở thành những ngọn đuốc, thắp sáng khắp nơi. Thánh Thần đó vẫn tiếp tục cháy trong Giáo Hội. Ngài đang cần những bó đuốc là chúng ta, để ngọn lửa tình yêu vẫn cháy và bừng lên. Xin Thánh Thần nung đốt chúng ta, dập tắt những đam mê trần tục đang giam hãm chúng ta. Hãy sống trong Thánh Thần, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng.
Thánh Thần nung nấu tâm hồn Chúa Giêsu và Ngài hướng về một phép rửa Ngài sắp chịu. Lời Ngài thật tha thiết: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất”.
Nói đến phép rửa, chúng ta liên tưởng đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan. Ông đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu ngày nào rồi sao lại còn một phép rửa nào nữa chưa được hoàn tất?
Những lời nầy vẫn còn giữ bí mật của nó, và các nhà thần học cũng chưa đồng ý với nhau về lời nầy. Một số đông đồng ý rằng đây là một cách loan báo cuộc tử nạn của Ngài. Chịu phép rửa là dìm mình trong nước để được thanh tẩy. Ngài sẽ dìm mình trong đại dương đau khổ nhục hình để tẩy xóa tội lỗi thế gian. Ngài là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, Ngài là người Tôi Tớ của Thiên Chúa phải chịu đau khổ để cứu chuộc con người như tiên tri Isaia đã nói.
Lúc Ngài nói đến phép rửa phải chịu, chính là lúc Ngài hướng về Giêrusalem để thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài.
Chúng ta dám uống chén của Ngài như hai môn đệ, con ông Giêbêđê đã hứa không? Chúng ta có cùng sống chết với Ngài như thánh Phaolô đã nói, hay chúng ta để Ngài cô đơn một mình, chìm ngập trong roi đòn hổ nhục?
“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài;
Nếu Ta kiên tâm chịu đựng, Ta sẽ cùng hiển trị với Ngài”.
Chúa Giêsu còn nói đến một điều khác, rất thực tế và hằng ngày vẫn xảy ra trước mắt chúng ta: sự chia rẽ.
Như thế, xem ra Ngài tự mâu thuẫn vì Ngài hứa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài. Hiện ra với các môn đệ, Ngài luôn chúc bình an cho họ, tại sao Ngài lại đem đến sự chia rẽ? Ngài vẫn là sự bình an của chúng ta, nhưng Ngài vẫn là cái cớ cho người ta chia rẽ. Ông già Ximêon, khi ẳm em bé Giêsu trong tay, ông đã tiên báo: “Trẻ nầy sẽ là cớ cho nhiều người chống đối”. Sự chia rẽ nằm ngay trong vận mạng của Ngài. Ngài sẽ bị chống đối và sau cùng bị đóng đinh trên thập giá. Sẽ có nhiều người yêu mến Ngài, nhưng cũng có những người không chấp nhận tình yêu của Ngài. Điều nầy xảy ra gần như trong mọi gia đình, trong nhiều giáo xứ, và trong Giáo Hội. Ma quỉ luôn gieo cỏ lùng vào trong ruộng của Chúa.
Chúng ta thuộc về ai? Nhiều khi chính những kẻ theo Ngài lại “giơ gót đạp Ngài”. Phêrô chối Thầy, Giudà nộp Thầy, Phaolô tiêu diệt Ngài… Nhưng tình thương của Ngài sẽ thắng. Phêrô quy hàng, Phaolô khuất phục.
Sự bình an của Ngài chỉ được ban cho những ai thành tâm nhìn nhận tình thương của Ngài, dám chọn con đường thập giá của Ngài.
Ngài vẫn có mặt ở đây, trên bàn thờ hiến tế. Ngài không bao giờ bỏ rơi những đứa con trung thành của Ngài. Chúng ta sẽ bị bách hại, bị đàn áp, bị thóa mạ, nhưng chúng ta vững tin vì Ngài vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế và mãi mãi là của ăn hằng sống nuôi dưỡng để chúng ta đạt đến vinh quang khi Ngài đặt mọi sự dưới chân Cha Ngài.
42. Lửa an bình – Lm. Bùi Quang Tuấn
Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hoàng tử Bình an”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình: “Các ngươi nghĩ: Ta đến để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo thật các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ! Vì từ nay, trong một nhà có năm người, sẽ có chia rẽ: ba với hai, hai với ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha với con, con với cha…”?
Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên bao nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc hay tổ chức nào trên thế giới?
Người ta sẽ phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: “Ta đến ném lửa xuống đất và Ta mong sao lửa đó được cháy lên”? Đây có phải là thứ lửa mà anh em nhà Zêbêđê từng đề nghị Chúa đổ xuống đốt trụi dân thành Samari hỗn láo, hay thứ lửa đã thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi xưa kia chăng?
Khi nhìn vấn đề qua lăng kính “Lưỡi là lửa” trong thư của Thánh Giacôbê, thì lửa của Đức Kitô đã tương phản với thứ lửa hoen ố “do chính hoả ngục nhóm lên” (Gc 3:6). Ngài chính là “Chiếc Lưỡi”—Ngôi Lời của Thiên Chúa, làm phát sinh bao “lời hằng sống”, nung đốt tâm hồn thế nhân và thúc đẩy một hành trình rao giảng. Lời Chúa phải được toả lan đến khắp mọi nơi và sưởi ấm cho hết mọi người.
Lời của Thiên Chúa đã từng thúc bách ngôn sứ Giêrêmia, một con người có tâm hồn diệu hiền và nhạy cảm, sinh ra để yêu mến, thích yên lành hơn gây phiền phức, thành một con người mang sứ mạng ra đi “để nhổ và lật đổ, để huỷ và để phá, để xây cất và để cấy trồng” (Gr 1:10).
Dù luôn cảm thấy mình như một đứa trẻ, nhưng Lời Chúa đã bắt ông đứng dậy, mở miệng ra nói những lời đanh thép và quyết liệt hầu thức tỉnh con cái Israel đang trong cảnh u mê lầm lạc. Thiên Chúa muốn cứu độ Israel qua việc vạch trần các thói hư nết xấu của dân chúng, sự lật lọng giả hình của hàng tư tế, thói bội phản thất ước của hạng quan quyền để từ đó Ngài đòi buộc họ phải có một sự chọn lựa phân minh: phúc hay hoạ, sống hay chết, bình an hay bất hạnh, cậy dựa Thiên Chúa hay con người.
Vì trung thành với sứ mạng truyền đạt Lời Chúa mà ngôn sứ Giêrêmia đã bị dân chúng đối xử tệ bạc. Có lần người ta tìm cách ném ông xuống một giếng bùn cho lún sâu đến chết, hầu không còn tuyên sấm những lời của Giavê nữa. Nhưng một vị hoạn quan người ngoại là Abđêmêlech biết chuyện, đã tìm cách cứu ông ra khỏi giếng bùn. Về sau vì không nghe lời ông, người Do thái đã phản lại vua Babylon và cấu kết với Ai cập. Thế nên chẳng bao lâu, đất nước Giuđa đã rơi vào sự tàn phá kinh hoàng của dân Babylon. Vị ngôn sứ đã bị một nhóm người bắt đưa sang Ai cập. Có lẽ ông đã chết tại đây, giữa những kẻ hằng chống đối giận ghét, vì cớ ông không ngừng nói Lời Chúa để cảnh báo và thúc dục họ.
Theo nhận xét của một nhà chú giải Kinh Thánh là cố linh mục Nguyễn Thế Thuấn,: “Sứ vụ của Giêrêmia quả đã thất bại lúc ông sinh tiền, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Bởi giáo lý của ông về một Giao ước mới, đặt nền tảng trên lòng đạo, tôn giáo nội tâm, ông đã là cha của Do thái-giáo trong cái nhìn tinh ròng nhất… Đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu, nêu cao những liên lạc thân mật mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, Giêrêmia đã chuẩn bị cho Giao ước mới, và cuộc quên mình chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa đã biến ông thành một dung mạo của Đức Kitô”.
Như vậy, Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã phô bày trọn vẹn dung mạo của người ngôn sứ khi phân rõ ánh sáng và tối tăm, điều tốt và điều xấu, chân thật và giả trá, cùng kêu gọi một thái độ rõ ràng: đón nhận hoặc khước từ, bước theo hay chống đối.
Lời ông Simêon nơi Đền thờ đã được xác nhận: “Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người té nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối” (Lc 2:34). Như thế tất có sự đối kháng, mâu thuẫn. Trong một gia đình, cộng đoàn, hay dân tộc, sẽ có người tin nhận và có người chống cự, có người tìm được bình an đích thực, nhưng cũng có người tự ru mình bằng thứ bình an giả tạo.
Bình an là nỗi khát khao trầm lặng của nhiều tâm hồn. Nhưng để có bình an đích thật lắm khi tôi phải trả giá bằng chiến đấu và hy sinh. Đây là một trong những điểm “nghịch lý” của Tin Mừng, nơi mà người ta thường bắt gặp những giá trị “trái ngược” như: cho chính là nhận, thu tích là mất đi, ai tìm sự sống sẽ phải chết, ai đành chết thì lại có sự sống…
Thực tế, có biết bao chân lý của Tin mừng đã không được nói ra vì sợ gia đình bất thuận, có bao sự thoả hiệp nghịch luân đã không được nhắc tới vì sợ cộng đoàn bớt người, và có biết bao nhập nhằng tội lỗi xấu xa vì sợ phải mang một vết thương rướm máu trong tâm hồn. Tất cả đều là những nguỵ trang giả dối và bình an trá hình.
Bình an thật sự chỉ có được khi con người biết “đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu” và “nêu cao những liên lạc mật thiết mà tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa”. Bằng việc nhận chân và nêu cao giá trị tinh thần, cùng sự liên lạc thẳm sâu với Thiên Chúa, mà người môn đệ chân chính của Đức Kitô dám hy sinh những mối quan hệ cao quí trong cuộc đời. Dù đó có là quan hệ ruột thịt thân thương như cha mẹ với con cái.
Chắc hẳn lịch sử Giáo hội không bao giờ quên được hình ảnh của một Phanxicô Assisi, người dám lột bỏ hết mọi giàu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời. Lịch sử cũng không thể quên được hình ảnh của một Giêrađô Majella quyết liệt trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ dòng chữ: “Mẹ ở lại. Con đi làm thánh.”
Lại còn nữa hình ảnh của một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nguy nan, để rồi cuối cùng, dù bị kết án lăng trì, vẫn không dập tắt được ngọn lửa khát khao: làm cho Tin mừng Phúc âm được cháy lên trên mảnh đất xa xôi và nghèo nàn này. Và còn nhiều… còn nhiều lắm các mẫu gương hào hùng của những con người đang tiếp nối việc thực hiện nỗi mong của Chúa Giêsu.
Là người Kitô hữu, tôi cũng được mời gọi dấn bước không ngừng trên hành trình loan báo các giá trị Tin mừng, để lửa yêu thương và bình an được bừng sáng khắp nơi trên thế trần.
43. Suy niệm của Lm. Vũ Mộng Thơ
THẦY KHÔNG ĐẾN ĐỂ ĐEM BÌNH AN NHƯNG ĐEM SỰ CHIA RẼ
Thoạt nghe những điều Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, ai trong chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên và tự hỏi: Tại sao Chúa Kitô lại mang đến sự chia rẽ… Ngài đã chẳng giảng dậy cho các môn đệ: “các con hãy học với Ta sự hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng thì tâm hồn các con sẽ có được sự bình an” sao? Chúa Giêsu còn nói: “Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống!”. Vậy nếu Chúa là Sự Thật, tức là Chân Lý thì Lời của Ngài không thể sai lầm được, không thể đi ngược hay mâu thuẫn với Sự Thật được. Tại sao và tại sao?
Là có lẽ tại vì chúng ta chưa suy niệm cho đủ và cho sâu Lời Chúa… cũng như trong cuộc đời chúng ta thường có thói quen kết luận “nhanh chóng và gọn nhẹ” những người chung quanh mình nhất là những người không cùng một lập trường với chúng ta, những người mà chúng ta không thích. Tục ngữ Việt Nam đã nói: “Sự Thật thì bao giờ cũng mất lòng”. Ít ra hôm nay chúng ta có thể suy niệm hai điều trong bài Tin Mừng:
– Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
– Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
– Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Nếu sự thật bao giờ cũng mất lòng thì Chúa Kitô không ngại làm mất lòng trước hết những Đạo sĩ và Biệt phái kiêu căng tự phụ thời của Ngài để rao giảng chân lý cho dân chúng, để lột mặt nạ giả hình của họ: ra luật nhưng không giữ luật, để họ không còn ăn chặn đầu chặn cổ toàn dân, bóc lột xương máu nhân dân… mà vẫn lên mặt dạy đời là “người công chính trước mặt Giavê, là người lo lắng cho quốc gia và vận mạng của dân tộc… Chúa Kitô cũng không như những người tâng bốc chế độ, ve vãn những người có quyền hành trong một quốc gia, một đoàn thể để hưởng lợi và được che chở. Họ chủ trương “gió chiều nào theo chiều ấy” để họ lừa dối lương tâm, quên hết hay mặc kệ lẽ phải, luật của Chúa của Giáo hội để làm những điều sai quấy, những điều thất đức mà ngay chính lương tâm họ cũng không dám tự hào và đêm về cũng không ngủ cho yên. Chúa Kitô còn chấp nhận chính cái chết, một cái chết nhục nhã nhất để làm chứng cho Sự Thật. Vì chính Ngài cũng là Sự Sống và là Đường cho chúng ta nối gót theo Ngài. Sự Thật thì muôn đời vẫn chiến thắng và tồn tại, còn sự gian trá hay những tay sai của sự gian trá chống lại sự thật… thì dù có quyền phép có khôn ngoan như Luccifer, như Lênin, như Hitler… cũng rất chóng bị tan rã. Cũng thế đối với những giáo phái (secte), những chế độ cầm quyền gian trá bóc lột nhân dân trái với lòng Trời thì cũng rất chóng bị tan rã, hạ bệ.
– Là người Công giáo (con của Chúa) chúng ta cũng có bổn phận phải bảo vệ cho Sự Thật.
Trước hết chúng ta hãy tự hỏi chính mình là đã có bao nhiêu lần tôi đã tự lừa dối chính lương tâm mình… thì đủ biết chúng ta còn rất nhiều thiếu sót trong lãnh vực này. Ai cũng muốn dễ dãi với chính mình nhưng lại rất nghiêm khắc với những người khác. Ai cũng muốn nghe người khác nói tốt về mình, khen tặng mình và không thích những ai chỉ trích phê bình mình. Ta phải tôn trọng sự thật và dám nói lên sự thật đó với con cái, với những ngưòi chúng ta có bổn phận dẫn dắt, dạy dỗ dù sự thật bao giờ cũng mất lòng. Cũng cần phải có “đắc nhân tâm”, sự tế nhị và suy tư cũng như cầu nguyện để thực hiện điều này. Không phải dễ. Chúng ta cần học với Tiên tri Giêrêmia hôm nay dù cho “Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”, dù biết là toàn dân không thích mình một tí nào ca, vì theo Lời Giavê, Tiên tri loan báo toàn những ăn chay hãm mình… nếu không sẽ án phạt. Nhưng Giêrêmia đã phải chiến đấu với chính mình để trung thành với sứ mạng của Giavê của Sự Thật dù với cái chết. Xưa kia các bạo quyền đã giết sạch các Tiên tri, lên án tử hình ngay chính Con Thiên Chúa… thì ngày nay họ vẫn tiếp tục ám sát Gandhi, Luther King, Don Romco, bỏ tù các nhà truyền giáo, bắt giam cha Nguyễn Văn Lý… nhưng chính những vị ấy đã và sẽ chiến thắng… còn bạo lực sẽ rất mau chóng tan rã. Bạn có đồng ý như thế không?
Câu hỏi gợi ý:
- Nếu bạn triệt để sống tinh thần Tin Mừng vượt mức bình thường của mọi người, hoặc hăng say dấn thân làm việc cho Thiên Chúa, nhân loại và Giáo Hội đến nỗi phải hy sinh rất nhiều, thì thái độ của những người chung quanh bạn thế nào? khen ngợi hay chê bai? ủng hộ hay chống đối?
- Đức Giêsu nói: Ngài đến không phải để đem lại hòa bình mà là sự chia rẽ, điều đó có đúng trong thực tế không? Xin đan cử vài trường hợp cụ thể.
Suy tư gợi ý:
- Tâm lý chung của con người
Những ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn bè…) chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người đã từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân, hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng, «mát»… thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.
- Tâm lý ấy bất lợi cho các ngôn sứ
Tâm lý của con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật là tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được tiếng Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương, đồng thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ phải đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những đồng đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc, và nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những điều mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những người thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là người thân thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không thể vì sự chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể làm gì khác hơn điều họ nghĩ.
Như thế, người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:
– Những hy sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm: Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ hơn người khác;
– Những hy sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà người ngôn sứ cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;
– Những hy sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất yêu thương mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình dấn thân ở mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá mức ấy có thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi, phải lo lắng và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc phải lo sợ cho sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân cho Chúa nhiều hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải phần nào chấp nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh mục hay một tu sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các bề trên mình, tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình có nhiệm vụ chăm sóc?
- Chúa và ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ
Người ta thường nghĩ Đức Giêsu hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức Giêsu và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.
– Đem lại bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm buộc họ phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải sống cao thượng, anh hùng… nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.
– Gây chia rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giêsu, của tiếng lương tâm, con người sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại, gây chia rẽ… Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng thời đánh giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng lương tâm mà trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội… có sự chia rẽ, xung đột, tranh đấu, chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng về những người làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.
- Sự chia rẽ đến từ những nhận thức khác nhau
Do cách nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác nhau, mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa, phục vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại ở mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và người ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này không thể có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.
Có những người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được những giá trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ trước mắt để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn người sau nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những giá trị đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng theo đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ nhau. Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt: cái tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi…
Chẳng hạn, Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng lại đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt và đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy xung đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo cho đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37).
Vậy, nhận thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước tiếng gọi của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong cùng gia đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau. Tình trạng có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà» (Mt 10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn sàng chấp nhận điều này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức ngôn sứ của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách ngôn sứ của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám can đảm chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc lương tâm con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình thương. Xin đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát trước bạo lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Kitô hữu buộc con phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình. Xin ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Kitô hữu trong con. Amen.
45. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh
“THẮP LÊN NGỌN LỬA SOI SÁNG THẾ GIAN”
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XX Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay hình như không có liên hệ gì đến chủ đề chung của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình trên thế gian cho đến tận thế ra qua chứng từ Giáo Hội của Người. Chắc có lẽ vì thế, vì không hợp với chủ đề chung của mùa phụng vụ như thế, nên bài Phúc Âm này cũng chẳng ăn khớp gì với các bài Phúc Âm trước hay sau tuần này, vì bài Phúc Âm tuần trước nói về việc các môn đệ cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”, và bài Phúc Âm tuần tới liên quan đến vấn nạn “Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”. Còn đối với hai bài đọc trong phần Phụng Vụ Lời Chúa Năm C hôm nay, bài đọc một có hơi dính dáng với bài Phúc Âm một chút, về vụ tiên tri Giêrêmia bị thù địch âm mưu sát hại, và bài đọc hai cũng thế, có liên quan mờ mờ với bài Phúc Âm, ở chỗ, bài đọc hai này huấn dụ Kitô hữu hãy vững mạnh trong Chúa Kitô. Thật vậy, bài Phúc Âm theo Thánh Luca hôm nay chỉ có 4 câu vắn vỏi song lại bao gồm những 3 ý tưởng rất mâu thuẫn nhau: thứ nhất là ước nguyện của Chúa Kitô muốn lửa Người mang xuống thế gian “được bùng cháy lên”; thứ hai là mục đích của Người tuy nhiên khi đến thế gian Người lại không phải “để đem bình an” mà là “chia rẽ”; thứ ba là hậu quả tất yếu không thể tránh của việc Người gây chia rẽ là cảnh xã hội bị hỗn loạn “một nhà sẽ chia rẽ nhau”. Bởi thế, để có thể đả thông vấn đề vừa có vẻ mâu thuẫn với sứ vụ của Chúa Kitô lại vừa có vẻ lạc đề phụng vụ của bài Phúc Âm hôm nay, theo tôi, chúng ta cần phân tích kỹ các vấn đề sau đây: Thứ nhất, “lửa” Chúa Kitô mang xuống thế gian như Người nói thực sự là gì? Thứ hai, Chúa Kitô đã làm cách nào để thắp lên ngọn lửa này như lòng Người mong ước? Thứ ba, Chúa Kitô có thắp lên được ngọn lửa này không, nếu có thì lửa này có tác dụng ra sao?
- “Lửa” Chúa Kitô mang xuống thế gian như Người nói thực sự là gì?
Để có thể hiểu được ý nghĩa đích thực về “lửa” Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây, trước hết, chúng ta hãy nhớ hai điều liên quan đến “lửa” này: Thứ nhất, “lửa” này là “lửa” được Người mang xuống từ trời, chứ thế gian không thể nào tự mình có sẵn thứ “lửa” trời này, và thứ hai, “lửa” này chỉ có một mình Người là Đấng mang nó xuống thế gian mới có thể đốt nó lên được thôi, vì “không ai đã lên trời, trừ một mình Đấng từ trời xuống là Con Người” (Jn 3:13). Thật ra, con người đã được thấy trước hình ảnh của thứ “lửa” trời này trong Mạc Khải Cựu Ước, và trong Mạc Khải Tân Ước con người còn được chính “lửa” trời này thiêu đốt nữa. Trước hết, con người được thấy trước thứ “lửa” bởi trời này trong Mạc Khải Cựu Ước ở bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi, qua thị kiến của Moisen, như được thuật lại trong Sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 2. Theo tôi, bụi gai bốc lửa mà không bị thiêu rụi này, và từ bụi gai bốc lửa ấy lại có tiếng Thiên Chúa phán, như câu 4 cùng đoạn sách này ghi nhận, là Mạc Khải về Thiên Chúa Ba Ngôi cũng là Mạc Khải về Bản Tính Hằng Hữu của Thiên Chúa, đúng như Danh Thánh Ngài đã tỏ cho Moisen biết ngay sau đó ỏ cùng đoạn 3, câu 14: “Ta là Đấng hiện hữu”.
Hình ảnh bụi gai bốc lửa mà không bị thiêu rụi lại có tiếng Thiên Chúa phán ra từ đó thực sự là một cuộc Thần Hiển cho thấy Mạc Khải về Thiên Chúa Ba Ngôi, ở chỗ: “Bụi gai” biểu hiệu cho “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) và Vượt Qua nơi con người của Đức Giêsu Kitô; “lửa” bốc lên nơi bụi gai là biểu hiệu cho Thánh Linh, Đấng là Quyền Năng Đấng Tối Cao đã thực hiện việc Lời Nhập Thể, như Phúc Âm Thánh Luca ghi nhận ở đoạn 1 câu 35; và tiếng phán ra từ “bụi gai” biểu hiệu cho Chúa Cha, như Ngài thường tỏ mình ra bằng tiếng phán từ trời trong trường hợp Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở sông Dược Đăng, hay bằng tiếng phán ra từ đám mây trong trường hợp Chúa Giêsu biến hình trên núi (xem Mt 3:17; 17:5). Hình ảnh bụi gai bốc lửa mà không bị thiêu rụi lại có tiếng Thiên Chúa phán ra từ thực sự là một cuộc Thần Hiển, chẳng những cho thấy Mạc Khải về Thiên Chúa Ba Ngôi, mà còn là Mạc Khải về cả Thiên Chúa Hằng Sống nữa, ở chỗ, “bụi gai bốc lửa mà không bị thiêu rụi” biểu hiệu Chúa Kitô tử giá được Thánh Linh làm cho sống lại từ trong cõi chết, như Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Rôma đoạn 8 câu 11 xác tín, Đấng Phục Sinh “được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt. 28:18), Đấng tông đồ Tôma chân nhận và tuyên xưng là “Chúa (và là) Thiên Chúa” (Jn 20:28), Thiên Chúa hằng sống.
Như thế, “lửa” được Chúa Kitô mang xuống từ trời đây là chính Thánh Linh hay là “quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49) các tông đồ lãnh nhận trong Ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem. Đúng vậy, như trên đã nhận định, “trong Mạc Khải Tân Ước con người còn được chính ‘lửa’ trời này thiêu đốt nữa”, vào chính lúc Thánh Thần hiện xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu từng vị tông đồ sau tiếng động như gió thổi mạnh lùa vào đầy nhà nơi các tông đồ đang tụ họp, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 1 câu 2 và 3. Chính vì “lưỡi” biểu hiệu cho việc truyền thông hay truyền đạt là sứ vụ của Vị Thần Chân Lý được Chúa Kitô từ Cha sai đến với Giáo Hội để làm chứng cho Người (xem Jn 15:26), và “lửa” biểu hiệu cho “quyền lực từ trên cao” xuống bao phủ các tông đồ, như đã bao phủ Mẹ Maria trong ngày truyền tin để Mẹ có thể thụ và hạ sinh Con Đấng Tối Cao (xem Lk 1:35), mà các tông đồ cũng đã truyền đạt, tức hạ sinh Chúa Kitô nơi tâm hồn của “khoảng ba ngàn ngư ời” (Acts 2:41), nhờ bài giảng tiên khởi (cách truyền thông) của Vị Trưởng Tông Đồ Phêrô sau khi “được đầy Thánh Linh” (Acts 2:4).
- Chúa Kitô đã làm cách nào để thắp lên ngọn lửa này như lòng Người mong ước?
Nếu “’lửa’ được Chúa Kitô mang xuống từ trời đây là chính Thánh Linh hay là ‘quyền lực từ trên cao’ (Lk 24:49) các tông đồ lãnh nhận trong Ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem”, như vừa nhận định, thì Chúa Kitô đã làm cách nào để thắp lên ngọn lửa này như lòng Người mong ước? Thật vậy, Người được Cha sai “đến thế gian là để làm chứng cho chân lý”, như Người tuyên bố với tổng trấn Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37 bằng chính cuộc Vượt Qua của Người. Thế nhưng, nếu không có Thánh Linh được Người thông ban cho các tông đồ sau khi sống lại từ trong cõi chết (xem Jn 20::22), các vị sẽ không thể nào nhận biết Người, cũng như nếu không có “quyền lực từ trên cao” xuống chiếm đoạt các vị, các vị cũng sẽ vĩnh viễn không thể nào thông truyền Người ra cho nhân loại. Bởi thế, việc Chúa Kitô Vượt Qua hay việc Người ra đi chính là việc Người thắp lên “Lửa” Thánh Linh, đúng như lời Người minh phán với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 16 câu 7: “Thày nói thật với các con là: Thày đi thì tốt hơn cho các con. Nếu Thày không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không bao giờ đến với các con; bằng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Ngài đến với các con”. Đó là lý do, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, sau khi nói đến việc mang lửa xuống thế gian và mong ước cho lửa ấy được thắp lên, Chúa Giêsu đã nói ngay đến cuộc tử giá của Người: “Thày phải chịu một phép rửa, và lòng Thày bồn chồn biết bao cho đến khi hoàn tất”. Mà “phép rửa” Người phải chịu đây là gì, nếu không phải là việc chính Người sẽ được rửa trong Thánh Linh, như hình ảnh Thần Hiển trong Sách Xuất Hành đã cho thấy về bụi gai bốc lửa, trước khi “Người”, như Vị Tiền Hô Gioan tiên báo ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 34, “chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Linh”.
- Chúa Kitô có thắp lên được ngọn lửa này không, nếu có thì lửa này tác dụng như thế nào?
Như thế, Chúa Kitô quả thực đã thắp lên được Lửa Thánh Linh do Người mang xuống từ trời bằng cuộc ra đi hay Vượt Qua của Người. Và Lửa Thánh Linh này, trước hết, được Chúa Kitô thắp lên nơi các tông đồ sau khi Người sống lại từ trong cõi chết và “làm phép rửa trong Thánh Linh” cho các vị qua hơi thở của Người, và sau đó, Lửa Thánh Linh này lại được chính các tông đồ là những chứng nhân tiên khởi của Người thắp lên trên “khắp thế gian” (Mk 16:15) “cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8), sau khi các vị được “mặc lấy quyền lực từ trên cao” ở Giêrusalem trong Ngày Lễ Ngũ Tuần. Cũng chính vì Lửa Thánh Linh đã thực sự được thắp lên trên thế gian mà thế gian mới xẩy ra tình trạng như Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay: “Từ nay, năm người trong một nhà chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba: cha nghịch với con trai, con trai nghịch với cha; mẹ nghịch với con gái, con gái nghịch với mẹ; mẹ chồng nghịch với nàng dâu và nàng dâu nghịch với mẹ chồng”. Thật vậy, hạnh các thánh đã cho chúng ta thấy điều này, điển hình là trường hợp Thánh Phanxicô khó khăn (1182-1226) đối với vị thân phụ của mình, ông thương phú gia Pietro di Bernardone, khi thánh nhân trao trả cho ông mảnh vải cuối cùng trên thân thể của thánh nhân trước mặt Đức Giám Mục, để có thể hoàn toàn tự do theo Chúa Kitô; hay như trường hợp của Thánh Nữ Jeanne de Chantal (1572-1641) đã nhất quyết bước qua thân thể của Celse-Benigne, đứa con trai 15 tuổi của mình, đứa con nhất định ngăn cản ý định của mình trong việc theo Chúa v.v. Tại sao lại xẩy ra tình trạng gia đình chia rẽ nhau vì Chúa như vậy? Chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ lý do sâu xa của tình trạng không phải “bình an” mà là “chia rẽ” Người gây ra chỉ vì Lửa Thánh Linh do Người từ trời mang xuống thắp lên trên thế gian này. Lý do đó là, như Người xác định trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 16 từ câu 8 đến 11 về Đấng Phù Trợ sẽ đến khi Người ra đi: “Khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng tỏ cho thế gian thấy rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về công chính và về luận phạt. Về tội lỗi ở chỗ họ đã không chịu tin vào Thày; về công chính, vì Thày về cùng Cha nên các con không còn thấy Thày nữa; về luận phạt, vì vương chủ thế gian này đã bị lên án”. Lịch sử Giáo Hội đã cho thấy hết sức hiển nhiên sự thật này, qua việc thế gian sai lầm về tội lỗi, ở chỗ, vì không tin Người nên đã ra tay bách hại các chứng nhân của Chúa Kitô Phục Sinh, thành phần công chính ở chỗ, đã dám liều mạng sống mình để làm chứng cho đức tin vào Đấng Vô Hình, để rồi, máu chứng từ của các ngài đã hùng hồn lên án quyền lực sự dữ, tức càng ngày càng đẩy lui bóng tối tăm sự chết, bằng “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) là Chúa Kitô, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang.
Như thế, nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XX Mùa Thường Niên Năm C hôm nay nói về Lửa Thánh Linh thì ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay vẫn hoàn toàn ăn khớp với chủ đề chung của Phụng Vụ Mùa Thư ờng Niên Hậu Phục Sinh vậy.
Vấn đề thực hành sống đạo: Con Thiên Chúa Làm Người đã thực sự “Thắp Lên Ngọn Lửa Soi Sáng Thế Gian” được Người mang xuống từ trời bằng cuộc Vượt Qua của Người. Và “Lửa” Người thắp lên đây là Thánh Thần Người thông ban cho các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, cũng là Vị Thánh Thần Người đã từ Cha sai xuống trên Giáo Hội vào Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem sau khi Người Thăng Thiên về trời. “Lửa” Thánh Linh này từ đó đã được các Vị Tông Đồ Chứng Nhân Tiên Khởi cũng như các Vị Chứng Nhân Đức Tin Tông Truyền châm vào lòng người trên khắp thế giới bằng việc truyền giáo của các vị. Được thắp lên “Lửa” Thánh Linh khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Kitô hữu chúng ta có “cảm thấy lòng mình nóng lên” (Lk 24:32) chưa? Nếu chưa, chúng ta phải làm sao để thực hiện đư ợc bản chất Kitô hữu của mình “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14)?
Đoạn Tin mừng hôm nay có lẽ đã làm cho chúng ta thắc mắc và tự hỏi:
– Giới luật của Chúa là giới luật yêu thương. Suốt cả cuộc đời, Ngài không ngừng cổ võ cho tình yêu, vậy tại sau Ngài lại bảo: Ta đến để đem sự phân rẽ.Vậy sự phân rẽ ở đây phải được hiểu như thế nào?
Theo thiển ý của tôi, Chúa Giêsu đã thực sự phân rẽ. Phải, phân rẽ giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tồi, để rồi từ đó đòi buộc chúng ta phải có một chọn lựa căn bản, một thái độ dứt khoát, một lập trường minh bạch. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon:
– Trẻ nhỏ này sẽ nên như bia cho người ta chống đối.
Lời tiên tri này đã, đang và sẽ còn được thực hiện. Ngài đã phân rẽ thế giới này thành hai phe rõ rệt. Đang khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã thờ lạy Chúa nơi máng cỏ Bêlem, thì Hêrôđê đã ra lệnh truy lùng và tàn sát Chúa.
Trong cuộc sống công khai cũng thế, đang khi dân chúng say mê bước theo Chúa, thì bọn luật sĩ đã tìm mọi cách để ám hại Ngài và chắc chắn họ đã được thỏa mãn khi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Giáo hội hôm nay chính là hiện thân của Đức Kitô, chính là Đức Kitô được kéo dài qua dòng thời gian, nên cũng phải đi theo con đường của Ngài và chịu chung cùng một số phận với Ngài.
Đúng thế, sau bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Hiện xuống, hàng ngàn người đã tin theo Chúa và đã lập nên cộng đoàn Giêrusalen, thế nhưng các đầu mục Do Thái đã tức tối, bắt giam và xét xử các tông đồ. Những giọt máu đào của Stephanô đã khơi nguồn cho dòng máu anh hùng của các vị tử đạo trên toàn thế giới.
Giữa lúc Giáo hội đang phát triển mạnh mẽ, thì ba trăm năm cấm cách dưới thờ các bạo vương La Mã tưởng chừng như muốn nhận chìm con thuyền Hội Thánh… Tất cả những sự việc ấy, một lần nữa đã chứng thực cho lời tiên tri của ông già Simêon:
– Trẻ nhỏ này sẽ nên bia cho người ta chống đối.
Và chân lý ngàn đời của Đức Kitô đã trở thành sự thật:
– Thầy đến để đem sự phân rẽ.
Ngài đã phân rẽ nhân loại này thành hai giới tuyến rõ rệt. Thế nhưng, điều quan trọng đó là mỗi người chúng ta sẽ đứng vào giới tuyến nào? Theo Thiên Chúa hay theo Satan, theo Đức Kitô hay theo thế gian?
Sống là bơi ngược dòng nước và nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Sống là chiến đấu và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là cuộc chiến đấu giữa sự thiện và sự ác, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Sư thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Sống là chọn lựa và một khi đã chọn lựa Đức Kitô, thì chúng ta phải can đảm chiến đấu dưới bóng cờ của Ngài.
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô không có nghĩa là trở lại thời ký lạc hậu và tăm tối, chưa có ánh sáng văn minh và những phương tiện hiện đại như ngày hôm nay.
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là là trở lại thời kỳ người ta biết vâng phục thánh ý Chúa, biết sống chan hòa yêu thương và biết ra sức khử trừ tội lỗi…
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là phải biết nói không với những cám dỗ của ma quỉ, phải biết nói không với những quyến rũ của trần gian. Thà chết, chứ chẳng thà phản bội Chúa.
Hay như hoàng hậu Blanche de Castille đã nói với con mình là vua thánh Louis như sau:
– Thà rằng mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi là một cuộc chiến đấu dứt khoát và không khoan nhượng, một cuộc chiến đấu liên tục từng giây và từng phút, chẳng lúc nào được ngơi nghỉ, chẳng lúc nào được nới lỏng vì ma quỉ sẽ không bao giờ ngủ trưa và tội lỗi sẽ không bao giờ giải lao hay xả hơi, đúng như thánh Phêrô đã diễn tả:
– Ma quỉ như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé.
Hơn thế nữa, càng bị thử thách, chúng ta lại càng phải tin tưởng vào Chúa. Càng bị vùi dập, chúng ta lại càng phải vùng dậy mạnh mẽ hơn. Trong cuộc chiến đấu này, chúng ta phải luôn luôn tiến tới, bởi vì không tiến tức là lùi.
Vậy cuộc chiến đấu cam go này sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả nào?
Tôi xin thưa, đó là phần rỗi của lình hồn và niềm hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời, như lời Ngài đã phán hứa:
– Ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu rổi.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã xác quyết:
– Nếu muốn được hạnh phúc trong một ngày, thì hãy mặc một chiếc áo mới. Nếu muốn được hạnh phúc trong một tuần, thì hãy giết một con heo. Nếu muốn được hạnh phúc trong một tháng, thì hãy thắng một vụ kiện. Nếu muốn được hạnh phúc trong một năm, thì hãy lấy vợ, lấy chồng. Nếu muốn được hạnh phúc suốt cả một đời, thì hãy trở nên người tử tế. Còn nếu muốn được hạnh phúc đời đời, thì hãy sống và chiến đấu cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhận tư tưởng sau đây: – Hãy là một ngọn lửa cho tình yêu Chúa được bừng cháy.
Hãy là một chiếc ly thủy tinh cho ơn Chúa được tràn đầy.
Hãy là một tấm gương cho hình ảnh Chúa được phản chiếu.
Dù khi tôi cười, thì nụ cười ấy cũng sẽ nói về Chúa.
Dù khi tôi khóc, thì những giọt nước mắt ấy cũng sẽ rơi vào lòng bàn tay của Chúa.
Hãy là người chiến sĩ của Đức Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như qua mọi cảnh huống thăng trầm của đời mình.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy cháy bùng lên”. Đó là lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Ngọn lửa Chúa Giêsu ném vào thế giới là gì? Chúa muốn ám chỉ điều gì?
Trước hết chúng ta biết: lửa là một hình ảnh rất quen thuộc và có nhiều ý nghĩa khác nhau đối với nhiều dân tộc. Người Việt Nam quan niệm rằng: trái đất chúng ta đang sống được cấu tạo bởi năm chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức là sắt, gỗ, nước, lửa và đất. Theo văn chương Ba Tư, người ta tìm ra lửa trong một cuộc chiến với con rồng. Chuyện kể rằng: một dũng sĩ Ba Tư đã dùng một hòn đá lớn để ném con rồng, nhưng vì ném không trúng đích, hòn đá rớt trên một phiến đá khác và tẹt ra lửa. Hầu hết các chuyện thần thoại đều kết luận: lửa là một món quà quí giá Tạo Hóa đã ban tặng cho con người. Một số người xưa lại tưởng rằng: lửa là một vị thần, nên đã tôn thờ gọi là “ Bái Hỏa”.
Nói đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ khác, nhưng nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta. Vì thế, đâu đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao cảnh giác: phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Ngoài lửa vật chất ra, trong lòng mỗi người còn có một thứ lửa khác, là lửa dục, lửa tham. Lòng dục và lòng tham đó còn bén nhạy và mãnh liệt mạnh mẽ hơn lửa vật chất. Chẳng hạn: có phải mỗi khi trong lòng chúng ta muốn gì thì như có một sức mạnh như lửa không ngăn cản nổi không? Hoặc là khi chúng ta bực tức điều gì, thì có phải lòng chúng ta sôi sục lên không? Vì thế người ta nói: “Người gì mà nóng như lửa”, hay “nóng như lửa đốt”… Nhất là khi chúng ta để cho lòng dục lòng tham bùng lên, có phải nó sẽ gây nhiều tai hại không?
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần nói đến lửa với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong Cựu ước, lửa được dùng để chỉ Thiên Chúa hiện diện, chỉ sự tinh luyện xấu xa tội lỗi, và cũng ám chỉ hình phạt của Thiên Chúa. Trong Tân ước, cũng nhiều lần nói đến lửa, đặc biệt thánh Giacôbê đã mô tả cái lưỡi của con người là một ngọn lửa, vì tác dụng của nó có thể hại hơn cả lửa. Cái lưỡi ở đây ám chỉ những lời nói độc địa, ghê gớm, chẳng hạn: một lời nói vu oan có thể giết hại cả một con người. Một lời hành tỏi, nói hành nói xấu làm cho người khác phải buồn phiền, đau khổ, mất ăn mất ngủ…
Đặc biệt hơn nữa, ngọn lửa còn được dùng để diễn tả tình yêu. Đây chính là ý nghĩa của ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu đến trần gian như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ đó là tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài đối với loài người là ngọn lửa không bao giờ tắt, như trong kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu có câu: “Trái Tim Đức Chúa Giêsu là lò lửa yêu mến hằng cháy”. Thực vậy, khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài đem ngọn lửa tình yêu từ trời xuống trần gian. Lửa đó đã thắp lên tại Bêlem, lửa đó không ngớt thiêu đốt Chúa ba mươi năm ẩn dật ở Nagiaret, lửa đó đã bừng cháy trong hồi thương khó để lan tỏa cho hết mọi người. Nói rõ hơn, vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đem lửa tình yêu xuống thế gian. Ngài muốn mọi người tiếp nhận được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Vì thế, Chúa nói: Ngài mong muốn biết bao ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy lên.
Chúa Giêsu đem ngọn lửa tình yêu đến, vậy tại sao cũng trong bài Tin Mừng này Chúa lại nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Lời này có ý nghĩa thế nào? Có mâu thuẫn không? Chúng ta cần hiểu cho đúng.
Thật sự trong ba năm giảng dạy, chúng ta thấy Chúa chỉ luôn kêu gọi mọi người sống hiền lành khiêm nhường, đừng đố kỵ, ganh ghét, hận thù nhau, nhưng hãy thông cảm tha thứ và yêu thương nhau. Chẳng thấy Chúa đem gươm giáo đến, cũng chẳng thấy Chúa thúc đẩy người ta gây chiến, bất hòa, chống đối, chém giết nhau. Vậy lời Chúa tuyên bố trên đây chúng ta phải hiểu rằng: Chúa chỉ là nguyên nhân, là cái cớ để người ta chống đối những người tin theo Chúa, tức là vì Chúa mà người ta chống đối chém giết nhau.
Nói rõ hơn, Tin Mừng của Chúa được rao giảng, có người hoan hỉ đón nhận và có người ra sức chống đối, nghĩa là Tin Mừng của Chúa đem lại an bình và yêu thương, nhưng nó vẫn phải va chạm với thái độ của một số người chống đối. Những người chống đối lại va chạm với những người theo Chúa, thế là có sự chia rẽ nhau. Đó là trong xã hội. Ngay cả trong gia đình cũng có thể xảy ra sự chia rẽ, vì có người theo và có người không theo Chúa. Đây là sự chia rẽ vì niềm tin, vì lối sống đạo. Tình trạng này đã xảy ra thời Giáo Hội sơ khai, và vẫn xảy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền và đồng bào mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình. Như vậy, hai lời Chúa tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay, không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Chúng ta phải rao giảng, phải đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người, dù gặp hoàn cảnh nào cũng không được lùi bước, dù phải rướm máu hay đổ máu.
Chúa Giêsu đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy lên. Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nếu con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu con người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng được ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Nhưng chúng ta hãy nhớ: “Không ai có thể cho người khác cái mình không có”, nghĩa là chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ nếu chưa muốn nói là chói tai. Thường chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về con người Giêsu và nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các thiên thần đã không hát khúc ca hòa bình trong ngày Ngài giáng sinh đó sao? Và trọng tâm giáo lý của Ngài không phải là tình thương đó sao? Ngài chẳng đến để hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người, và giữa dân ngoại và Do thái đó sao? Thế mà hôm nay, trong đoạn vắn tắt của thánh Luca, chúng ta thấy Ngài nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm. Giải thích điều đó thế nào đây?
Chúng ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Lời thứ nhất loan báo Đức Giêsu đến “để ném lửa vào mặt đất”. Lửa đây là gì? Dĩ nhiên lửa đây không phải là thứ lửa vật chất mà chúng ta dùng để nhóm bếp hay dùng để đốt thuốc lá. Lửa ở đây phải được hiểu theo nghĩa tượng trưng. Trong Cựu ước lửa tượng trưng cho quyền năng tối thượng, sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Đó cũng có thể là lửa phán xét của Thiên Chúa để thiêu hủy những kẻ xấu và thanh luyện một số ít những người trung tín còn lại. Nhưng đối với thánh Luca, trước hết lửa là biểu tượng của thần khí đã ngự trên Đức Giêsu, đã xức dầu cho Ngài, đã sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, cho người đui được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan, loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Nhưng cũng chính vì đó mà Đức Giêsu trở thành dấu chỉ của sự chống đối trong suốt cuộc đời của Ngài. Cuối cùng khi sự bất hòa lên đến tột đỉnh Ngài đã bị các đối thủ giết chết. Đồng thời lửa đó cũng là thần khí đến thiêu đốt các tông đồ trong ngày lễ Hiện xuống. Chính ngọn lửa đó đã làm cháy tan sự lo lắng, sợ hãi trong các tông đồ và dẫn các ông ra đi làm chứng cho Đức Giêsu. Dẫu cho trong sứ vụ làm chứng đó, các ông gặp chống đối và phải thiệt thân.
Là Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận thần khí qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ trở nên dấu chỉ sự chống đối như Đức Giêsu.
Lời thứ hai của Đức Giêsu giới thiệu “cái chết” của Người như một phép rửa, mà Người sẽ bị nhận chìm trong đó để cứu rỗi dân Người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Từ “Phép rửa”, theo nguyên nghĩa là “sự nhận chìm trong nước”. Vào thời của thánh Luca, phép rửa không phải là mấy giọt nước xối trên trán như phép rửa của chúng ta ngày nay. Người nhận phép rửa phải nhận chìm toàn thân vào trong một hồ nước. Vì thế phải dịch câu nói của Đức Giêsu thế này: “Thầy phải được nhận chìm trong một hồ nước”. Khi nói như thế, cho thấy Đức Giêsu đang nghĩ đến cuộc khổ nạn, đến cuộc tắm máu,… hay chính xác hơn, Ngài đang nghĩ đến những dòng nước cuồn cuộn khổ đau và chết chóc, không bao lâu nữa sẽ dìm chết Ngài. Đức Giêsu xao xuyến nghĩ đến việc đó. Nhưng việc đó đối với Ngài là điều cần thiết như lời Ngài nói “Thầy còn một phép rửa phải chịu…”. Đây là một công thức thông thường để nói về cuộc khổ nạn khắc khoải ấy qua đó một ý định nhiệm màu được thực hiện.
Khi nêu lên chủ đề “ơn ban bởi thần khí” và “phép rửa trong cái chết”, thánh Luca đã cho thấy Đức Giêsu đã phải trả giá đắt biết bao cho sự cứu chuộc thế gian.
Phép rửa này là một cuộc vượt qua bắt buộc đối với Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Vì vậy Ngài hỏi ông Giacôbê và Gioan, khi các ông muốn làm lớn trong Nước của Ngài: “Các con có thể uống chén mà Thầy sắp uống, chịu phép rửa mà Thầy sắp chịu không?”
Bởi đó muốn được sống lại với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng phải chịu dìm mình vào cái chết của Người, nghĩa là chết đi cho thói hư, tật xấu và tội lỗi của mình.
Lời thứ ba của Đức Giêsu quả quyết rõ ràng, những ai theo Người cũng sẽ phải gặp thử thách trên bước đường đi của họ, và ngay cả trong gia đình của chính mình.
Hòa bình là một điều tốt lành nhất mà người ta chờ đợi từ Đấng Messia. Trái lại, lời giảng dậy và hành động của Đức Giêsu gây ra những phản ứng chống đối mạnh mẽ. Đức Giêsu là một con người bị truy đuổi. Ngài cảm thấy điều đó ở xung quanh mình. Nhưng thay vì từ bỏ hành động và sợ hãi, Ngài tiến thẳng về cái chết với một lòng can đảm đáng khâm phục. Và Ngài loan báo cho các bạn hữu của Ngài, chính họ cũng bị chống đối như vậy.
Như những người đồng thời với Đức Giêsu, chúng ta mơ ước hòa bình và chúng ta muốn hưởng trọn vẹn sự hài hòa yên tĩnh ấy, vốn là sự nghỉ ngơi của tâm hồn, của vợ chồng với nhau, của cha mẹ với con cái, của con cái với cha mẹ, của môi trường xã hội này với môi trường khác… Shalom, hòa bình là ước mong mà người Do thái nói với nhau mỗi ngày. Thực tế, đó là lý tưởng tóm tắt tất cả những gì người ta mong ước.
Thế thì tại sao Chúa lại có vẻ đề cao sự chia rẽ? Chúa không phải là hòa bình của thế giới sao?
Vâng, Đức Giêsu chính là người mang lại hòa bình. Nhưng không phải là thứ hòa bình dễ dãi. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”. Có những nền hòa bình lừa dối, những sự an ninh ru ngủ và nguy hiểm. Chúng chỉ dựa trên những thỏa hiệp, nhượng bộ, không dám bùng nổ vì sợ thiệt hại cho thân thể, của cải, danh tiếng của mình. Hòa bình kiểu đó chỉ che đậy những chống đối trầm trọng, ẩn chứa đầy sóng ngầm, che dấu chiến tranh lạnh, hay duy trì những phần tử đặt cạnh nhau mà không cảm thông lẫn nhau. Tất cả những điều đó là sự trái ngược của hòa bình. Hòa bình đích thực chỉ có thể đạt được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức Giêsu là bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống chung, hoặc huyết tộc, một gia đình, mà đáng lẽ sự đoàn kết được coi như điều hiển nhiên như năm ngón tay trong một bàn tay. Đứng trước việc Đức Giêsu đến, không còn gì không bị đảo lộn.
Trong cuộc đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là một sự hiện diện trung lập vô hại, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức Giêsu là một loại thuốc nổ, một thứ diêm sinh, là thứ lửa cực nóng thiêu đốt, thanh luyện, biến đổi cuộc sống con người và thay đổi bộ mặt thế giới. Lửa thần linh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa tội cũng phải bừng lên và hoạt động như vậy. Ánh lửa thiêng ấy phải thay đổi, biến chúng ta trở thành các chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo Chúa và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải có lòng can đảm và kiên trì. Bởi vì, thường khi nó khiến chúng ta rơi vào tình trạng sống khác với những người thân yêu và môi trường sống của chúng ta. Không phải vì giáo huấn của Chúa xấu hay dở, nhưng bởi vì nó đi ngược dòng đời, nó chống lại mọi cách suy tư và hành xử theo tính toán ích kỷ tự nhiên của con người. Do đó, tin Chúa và bước theo Chúa là một cuộc kháng chiến trường kỳ và đầy gian khổ.
Nếu đức tin nơi Chúa là một chọn lựa đầy yêu sách, thì xin Chúa làm cho đức tin ấy có thể, bởi ơn của thần khí Chúa: “Lạy Chúa, giữa lòng thế giới, xin hãy đốt lên ngọn lửa của thần khí Chúa”.
“Thầy đến để ném lửa trên mặt đất… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”. Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa nghe đến từ Đức Giêsu! Chúng ta không muốn chờ đợi Người dùng lửa và gươm (sự chia rẽ). Người cũng không muốn. Khi Giacôbê và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh từ trời xuống trên một ngôi làng người Samari, Người nói với hai ông ấy rằng họ không biết điều họ nói. Và khi Phêrô rút thanh gươm ra trong vườn cây dầu, Đức Giêsu nói với ông hãy cất gươm đi.
Đức Giêsu không đến để gây ra xáo trộn hoặc làm cho các gia đình tan vỡ. Nhưng thỉnh thoảng điều ấy đã xảy ra. Trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, hoán cải theo Kitô giáo hầu như dẫn đến việc bị gia đình từ bỏ, do đó người trở lại đạo phải chọn lựa giữa Đức Kitô và gia đình mình.
Rõ ràng khi Đức Giêsu nói về việc ném lửa và gây chia rẽ từ ngữ của Người không được dùng theo nghĩa đen. Tuy nhiên những lời ấy có ý nghĩa thực tế đối với Người. Đức Giêsu hiền lành nhưng không có nghĩa Người yếu đuối. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, Người cũng rất quả quyết như khi Người đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ.
Những lời ấy cũng thể hiện những điều rất mạnh mẽ trong giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người gây ra chia rẽ. Người dạy rằng Vương quốc của Thiên Chúa mở ra cho mọi người, thánh nhân và người tội lỗi, người Do thái và dân ngoại. Điều này đưa đến sự xung đột của Người với cơ chế tôn giáo của thời đó. Người gọi các kinh sư và người Pharisêu là những kẻ giả hình và những người mù dẫn đường. Họ gọi Người là một kẻ làm loạn và một người bị quỉ ám.
Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những điều “dễ nghe”, hẳn Người đã trở thành một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Người đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối. Lời Người làm tổn thương một vài người và làm những người khác tức giận. Những lời Người nói với người nghèo khác với những lời Người nói với người giàu. Những lời Người nói với người tội lỗi khác với những lời Người nói với Pharisêu. Chúng ta sẽ phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những khác nhau giữa người giàu và người nghèo, giữa người có đặc quyền và người cùng khổ. Một Tin Mừng nhạt nhẽo như thế không thể trở thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu hướng “thuần hóa” Tin Mừng, giản lược nó vào những lời nói hay đẹp và những kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết mùi vị, ánh sáng trở nên mù mờ.
Các Kitô hữu không nên ngạc nhiên nếu Tin Mừng chia rẽ người ta. Ý thức về công lý đã đưa Người đến chỗ xung đột với những người bất lương. Lòng khoan dung của Người khiến Người phải xung đột với người có đầu óc hẹp hòi và tin tưởng mù quáng. Ánh sáng càng sáng tỏ thì bóng tối mà nó đẩy lùi càng thêm tăm tối.
“Khi tôi cho người nghèo lương thực, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi hỏi tại sao người nghèo không có lương thực, họ gọi tôi là một người cộng sản”. Cố Tổng giám mục Helder Camara, người chiến sĩ đấu tranh cho người nghèo ở Braxin đã nói như thế.
Đức Giêsu nói rằng Người đến để thắp lửa trên mặt đất. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Đó là một biểu tượng của sự phán xét và thanh luyện. Lửa đốt cháy những gì vô ích, và thanh lọc những gì còn ô uế.
Sứ điệp Tin Mừng là một ngọn lửa thanh luyện, nó là men cho xã hội và thế gian. Ngọn lửa ấy không chỉ được đốt lên mà còn được giữ gìn. Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu là những người chăm sóc giữ gìn ngọn lửa ấy.
50. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
THÁNH DANH GIÊSU LÀ CỚ MÂU THUẪN
Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay có lẽ là một trong những đoạn Thánh kinh phức tạp và mâu thuẫn nhất trong toàn bộ Thánh kinh. Khi Chúa cứu thế sinh ra tại Bêlem, các sứ thần ca hát vang dội: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Khi Chúa sai các môn đệ đi từng hai người một, Chúa bảo các ông chào dân chúng với lời chúc bình an. Khi Chúa sống lại từ cõi chết, lời đầu tiên Chúa nói với các môn đệ là lời chào bình an. Và khi về trời, Chúa hứa ban bình an cho các tông đồ.
Tuy nhiên trong Phúc âm hôm nay, Chúa xác quyết là Người đến không phải đem bình an, nhưng là chia rẽ: Anh em tưởng rằng Thày đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ (Lc 12:51). Điều đó có vẻ mâu thuẫn với sứ mệnh và đường lối của Chúa cứu thế. Vậy làm sao ta giải quyết được mâu thuẫn này? Nếu hiểu bình an theo quan niệm người đời, người ta sẽ thấy lời Chúa mâu thuẫn… Bình an theo nghĩa thánh kinh không hiểu theo nghĩa vắng bóng chiến tranh. Bình an theo nghĩa thánh kinh là không thoả hiệp với sự dữ và tội lỗi. Tiên tri Giêrêmia trong bài thánh kinh cưụ ước hôm nay được Chúa sai đến báo cho dân là thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ vì tội lỗi dân thành. Giêrêmia bị tố cáo là phản bội vì làm nhụt khí của dân thành với thái độ chủ bại. Kết quả là tiên tri Giêrêmia bị bắt và tống ngục. Sau đó Tiên tri được cứu thoát. Chính cuộc đời Chúa cứu thế là những mâu thuẫn với những chế độ hiện hành. Vua Hêrôđê khi nghe tin Chúa cứu thế giáng sinh, vì sợ mất ngai vàng nên đã ra lệnh giết các trẻ em từ hai tuổi trở xuống. Khi Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, tiên tri Simêon tiên báo là con trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người chống đối. Cuộc đời Chúa cứu thế trong ba năm giảng dạy là những chuỗi ngày bị người ta chống đối, bách hại và cuối cùng bị lên án tử hình. Như vậy phải chăng Chúa đến gây ra ngọn lửa bất hoà và chia rẽ trong thế gian?
Ngay cả trong một gia đình, cũng có sự chia rẽ vì danh Chúa. Đọc lịch sử các thánh giúp ta hiểu tại sao những phần tử trong một gia đình lại phân rẽ, chống đối nhau. Nhiều vị thánh khi tận hiến đời mình cho Chúa đã bị gia đình phản đối và tẩy chay. Trong cùng một gia đình khi có những người tin theo Chúa, nghe lời Chúa giảng dạy, còn những người khác không tin, cũng có thể gây bất hoà, chia rẽ. Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy đạo Chúa thường bị chống đối. Những cuộc bách hại đạo là bằng chứng của những chống đối. Những người Kitô hữu muốn cải cách Giáo hội, muốn đem lửa Kitô giáo làm bừng cháy trong lòng thế giới (Lc 12:49) cũng bị tẩy chay và chống đối. Thánh Têrêsa thàng Avila, Thánh Jean dArc, thánh I-nhã đã bị lên án và chống đối chỉ vì muốn cải cách Giáo hội. Như vậy ta thấy càng theo sát gót chân Chúa bao nhiêu, người ta càng bị chĩa mũi giùi bấy nhiêu. Tại sao người ta bị chống đối khi mang lửa đức tin vào thế gian? Bởi vì người ta không muốn chấp nhận hi sinh cố gắng, không muốn thay đổi cách sống, không muốn trả cái giá để làm môn đệ Chúa, nếu muốn sống theo đường lối phúc âm. Khi người ta muốn sống theo đường lối phúc âm, khi cái lối sống của ta khác người đời, ta sẽ bị nghi ngờ, tẩy chay và kì thị. Giáo lý của Chúa giảng dạy, đường lối của Chúa đi đã đem lại tẩy chay và chống đối, nghĩa là đem lại chia rẽ ngay cả giữa các phần tử trong gia đình. Sứ mệnh của Chúa là đem bình an đến cho nhân loại. Tuy nhiên để có được bình an, người ta phải chấp nhận giáo lý của Chúa và đường lối Chúa trước đã.
51. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi
CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG
Mạng sống của con người thật là cao quí. Chính vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để bảo tồn sự sống. Người ta đổ xô đi tìm thuốc trường sinh bất tử để kéo dài cuộc sống. Bao nhà bác học, bao nhà khoa học, bao nhà y học đã dầy công nghiên cứu, thí nghiệm nhưng kết quả vẫn là không, con người vẫn phải chết. Do đó, điều gì đe doạ tới tính mạng con người, đến sự sống của con người, con người hết sức bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại tuyên bố một cách hùng hồn trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 12, 49-53 mà Phụng Vụ trích đọc hôm nay: ”Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?. Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa đến trần gian để gây thù hằn, chia rẽ, Thiên Chúa đến thế giới như một kẻ gây xáo trộn?
Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh:
Con người sinh ra trên trần gian luôn mang trong người khuynh hướng tốt và khuynh hướng xấu. Tội lỗi gieo rắc cái chết vào thế giới: theo như những trang đầu sách Khởi Nguyên, tổ tiên nhân loại là Adam và Evà đã phản nghịch lại cùng Thiên Chúa. Do đó, tội lỗi bủa vây con người và tiếp đó kéo theo sự chết. Vì tội sự chết đe dọa con người và rồi, không một người nào ở trần gian này thoát khỏi sự chết, ngoại trừ một mình Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Quả thật, Thiên Chúa đã ban sự an bình cho ông bà Ađam và Evà, sự an bình ấy là sự sống hạnh phúc, không phải chết. Ông bà nguyên tổ đã làm mất sự an bình ấy. Do đó, tội và sự chết đã ập vào thế giới. Sự hận thù, ghen tương, tranh dành, giết chóc đã xẩy ra như câu chuyện Cain và Abêlê Cựu Ước đã thuật lại. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô phải chăng đã muốn thế giới, nhân loại, mỗi người, trăn trở, suy nghĩ và thực hiện điều cốt thiết của Tin mừng là xua đuổi tội lỗi ra khỏi cõi lòng của con người, ra khỏi cái thế giới âm u, tối tăm bởi hận thù, tranh dành miếng cơm manh áo để xây dựng một trật tự, một thế giới mới không có tội lỗi ngự trị?. Thiên Chúa đòi hỏi con người sự chọn lựa dứt khóat, nghĩa là con người phải ra khỏi cái vỏ ích kỷ, hẹp hòi, tự mãn của mình để đối đầu và đấu tranh cho lẽ công bình, sự công chính và chân thật của xã hội. Sự bình an mà Chúa muốn trao ban cho con người là thách đố của Ngài đối với con người về tiếng nói dứt khoát của họ đối với người nghèo, đối với những con người lầm than, đau khổ, đối với những bất công đang lan tràn trên thế giới. Sự bình an của Chúa muốn là việc con người không thỏa hiệp để làm ngơ với những đòi hỏi của Tin Mừng. Chúa đòi hỏi con người phải sống với những đòi hỏi của Tin Mừng: sự trung thành, lòng nhân nghĩa và bác ái, chia sẻ.
Con đường vinh quang của Chúa:
Thật sự, Chúa Giêsu luôn đặt con người trước những đòi hỏi của Tin Mừng. Ngài muốn con người phải sống hơn là nói suông. Lời nói phải đi đôi với hành động. Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại cho thế giới về Tin Mừng của Ngài. Võ khí và sự chiến đấu của Chúa là cái chết trên thập giá. Chính cái chết trên thập giá mới nói lên tất cả sự thật về tình thương tự hiến của Ngài. Khi bị người ta đóng đinh và treo Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã đánh bại tội lỗi, Satan: Ngài là vua, nhưng vua của kẻ chiến thắng ma quỉ, tội lỗi. Con đường của Ngài là con đường thập giá. Nhân loại, con người muốn có sự an bình không thể đi con đường nào khác ngoài con đường thập giá. Chúa Giêsu đã chiến thắng hận thù. Sự chiến thắng của Ngài là sự chiến thắng của tình yêu trên sự dữ, trên sự độc ác, của ân sủng trên tội lỗi, của cậy trông trên sự thất vọng. Đã có nhiều người, nhiều vị thánh đã hy sinh, đã hiên ngang sống cho sự thật và họ đã noi gương Chúa để chiến thắng sự dữ. Nhân loại và mỗi người chúng ta luôn tin tưởng rằng sau sự đau khổ có hạnh phúc, sau thập giá có vinh quang, sau sự nhục nhã có hân hoan vui sướng. Các thánh tử đạo là bằng chứng hùng hồn cho đức tin thắng vượt thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận thấp giá vì chúng con tin rằng thập giá sẽ dẫn chúng con tới vinh quang.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Bạn hiểu sao về câu nói của Chúa: ”Ta đến để gây chia rẽ”?
- Thách đố lớn nhất của con người là gì?
- Tại sao Chúa Giêsu lại chấp nhận thập giá?
52. Suy niệm của Nguyễn Văn Nội
* Câu hỏi gợi ý:
- Thao thức sâu kín và mãnh liệt nhất của Đức Giêsu là gì?
- Tại sao Chúa Giêsu lại là đầu mối gây chia rẽ?
- Chúng ta đã thật sự chọn Đức Giêsu và đạo của Người chưa?
- Chúng ta có chia sẻ thao thức với Người không?
* Suy tư gợi ý:
- Thao thức sâu kín và mãnh liệt nhất của Đức Giêsu:
Người giáo dân Việt Nam mỗi khi nói về Đức Giêsu thì thường chỉ chú trọng đến Thiên tính mà lãng quên nhân tính của Người. Vì thế mà không thấy tính gẫn gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Người. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người vô cùng đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhậy cảm như thế nào khi Người chạnh lòng thương trước đám đông, khi Người xúc động khóc trước mồ Lagiarô. Bài Tin Mừng Giáo hội đọc trong Phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu: cùng với một tâm hồn tinh tế và nhậy cảm ít ai có, Người còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng luôn ấp ủ những hoài bão lớn lao:
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”
Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời Mới Đất Mới? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện Kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều Đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc!
Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa Người còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ Nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt với nhất của đời mình!
- Đức Giêsu là đầu mối gây chia rẽ:
Câu chuyện ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 là hình bóng thân phận Đức Giêsu. Trước những lời tiên tri chân thật của Giêrêmia, nhiều người thù ghét ngài và tìm cách giết hại ngài. Nhưng cuối cùng thì ngôn sứ đã được cứu. Đức Giêsu cũng thế: ngay từ những trang đầu của Phúc Am chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đạo đời thời bấy giờ đối xứ như thế nào. Người đến với những Lời chân thật, hằng sống; nhưng người nhà không tiếp rước Người, vì cho rằng Người là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Người chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa: theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
- Chúng ta đã thật sự chọn Đức Giêsu và đạo của Người chưa?
Đã là người công giáo, thì dĩ nhiên là chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Người rồi. Nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong đâu! Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đoạn cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thật sự chọn Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma quỉ mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng sự chọn lựa của chúng ta thì chẳng khó khăn gì: chúng ta cứ tự hỏi: “Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?” Trong suốt Tin Mừng Máccô câu hỏi vang vọng là: ”Còn đối với anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Trả lời bằng miệng: “Đức Giêsu là thế này là thế nọ….” thì rất dễ, nhưng thể hiện chứng minh những lời ấy bằng hành động cụ thể thì không dễ chút nào, nhưng đó mới là việc chính yếu.
- Chúng ta có chia sẻ thao thức với Người không?
Tuần trước tôi có dịp đến thăm một linh mục bạn là chánh xứ của một họ đạo lớn và nổi tiếng của Miền Nam. Linh mục chia sẻ với tôi: “Anh biết đấy, đây là một họ đạo kỳ cựu, truyền thống, lâu đời, quê hương của các thánh Tử đạo…. Nhưng nhìn vào cách sống đạo của giáo dân hiện nay tôi hết sức chán nản: bỏ đạo thì giáo dân ở đây nhất định không bỏ đạo, vì đạo đã ăn sâu vào tâm hồn họ. Nhưng hoa trái công bình bác ái thì không có. Chỉ cần vì một chút quyền lợi vật chất, giáo dân có thể xung đột với nhau. Chỉ vì một chuyện rất nhỏ, giáo dân có thể chia rẽ, hận thù nhau.” Lời phát biểu trên khiến chúng ta thấy nhức nhối phải không? Một họ đạo truyền thống từ hơn một trăm năm trên quê hương của các thánh tử đạo, siêng năng đọc kinh, xem lễ … mà lại không có hoa trái công bình và bác ái. Tại sao vậy?
Tôi nhớ lại bài viết mới đây của Đức Giám mục Bùi Tuần về những thao thức của Đức Giêsu. Tôi rất tâm đắc với bài viết ấy. Đọc bài ấy và đối chiếu với thực trạng của họ đạo mà tôi vừa thăm, tôi càng xác tín điều này: Giáo hội Việt Nam đang thiếu -một cách trầm trọng- những linh mục, tu sĩ và giáo dân có lửa trong cách sống đạo và truyền đạo. Người công giáo Việt Nam, nhất là giáo dân, ít hoặc không quan tâm đến việc tìm hiểu và chia sẻ những thao thức, hoài bảo, ước mơ của Đức Giêsu. Vì thế mà đời sống đạo không sâu sắc, không xác tín, không quyết liệt, không nhiệt thành, không sinh hoa trái công bình và bác ái cho môi trường và những người chung quanh. Vì thế mà công việc truyền giáo không tiến triển bao nhiêu. Ai cũng biết tại Việt Nam tỷ lệ người công giáo so với dân số chẳng những không tăng mà còn suy giảm nữa. Cánh đồng truyền giáo của chúng ta thì bao la và có rất nhiều thuận lợi. Nhưng chúng ta thiếu những thợ gặt chuyên nghiệp vừa “hồng” lại vừa “chuyên”. Hồng là lòng nhiệt thành, là cháy lửa đối với các linh hồn. Chuyên là khả năng, là hiểu biết, là được đào tạo về giáo lý, thánh kinh, công đồng, thần học.
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, chúng con ngưỡng mộ và bái phục Chúa! Chúa mang trong tâm hồn những thao thức nóng bỏng, Chúa có những hoài bão lớn lao, Chúa can đảm cách phi thường. Xin Chúa san sẻ cho chúng con một chút lửa bừng cháy đang thiêu đốt tâm can Chúa! Để chúng con trở thành những con người nhiệt thành với Nước Chúa, để chúng con cháy lửa yêu thương tha nhân, để chúng con có sức mạnh biến đổi xã hội Việt Nam thân yêu của chúng con, một xã hội đang bị tha hoá trầm trọng, đang mất dần những giá trị truyền thống tốt đẹp, đang bị phá hoại bởi nền văn hóa đem lại sự chết. Xin Chúa giúp chúng con!
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Cô Mai Hương thôn nữ người Pháp 21 tuổi đã khám phá ra Chúa Giêsu sức mạnh siêu việt của tình yêu như sau. Cô nói:
Ngoài Người chỉ thấy bấn loạn, cuồng điên
“Không thể nào giải thích được lý do tại sao tôi rơi vào vực thẳm của tội lỗi. Càng không thể giải thích được làm thế nào tôi đã có thể thoát ra khỏi đó. Điều duy nhất có thể nói là: Chính Đức Giêsu với sức mạnh thần linh khôn ví đã thay đổi tận gốc rễ đời tôi. Giờ đây tôi thâm tín rằng không có Chúa, tôi không thể làm bất cứ điều gì. Ngoài Chúa ra, tôi chỉ thấy bấn loạn và cuồng điên.”
“Tôi may mắn sinh ra trong một gia đình công giáo thật đạo đức. Ngay từ khi tôi còn bé xíu mẹ tôi đã dạy tôi biết cầu nguyện cùng Chúa Giêsu Đấng mà mẹ tôi hết lòng kính mến. Mẹ tôi thường dẫn tôi đi nhà thờ với người. Ở nhà thờ tôi rất thích cầu nguyện cùng Đức Trinh Nữ Mari quan thầy tôi. Ngoài ra tôi còn yêu quí cách riêng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Trong tuổi thơ vàng ngọc, tôi đã từng mơ ước hào quang thánh thiện của thánh nữ Têrêsa.”
Năm lên 8 tuổi mẹ tôi cho tôi gia nhập hội Hướng Đạo Công Giáo. Nhưng tất cả tan biến thành mây khói sau khi tôi xưng tội và rước lễ lần đầu. Vào tuổi 12, tôi bắt đầu bỏ rơi những ý niệm tốt đẹp về tôn giáo. Đôi lúc tôi tự hỏi: “Chúa Giêsu mà bao người yêu thích, cha mẹ tôi cũng như cha sở và các chị Dòng, Chúa Giêsu đó có hiện hữu thật không, hay chỉ là những gì do trí óc của người lớn tưởng tượng ra?” Tôi thật sự rơi vào hoàn cảnh hoang mang và nghi ngờ. Cứ thế, tôi lớn lên trong tuổi dậy thì.
“Đời sống gia đình tôi cũng đổi thay. Những ngày sống êm đềm hạnh phúc không còn nữa. Ba tôi bị mất việc làm. Mẹ tôi ngày đêm lo âu sầu khổ. Chúng tôi sống trong thiếu thốn và bất ổn triền miên. Trong hoàn cảnh đó, tôi tìm an ủi ngoài gia đình. Tôi đi vào các hộp đêm và cặp tay với bất cứ chàng trai nào tôi gặp, không lựa chọn, không đắn đo suy nghĩ. Cuộc sống thác đọa gieo vào lòng tôi nỗi chán ngán ê chề khiến tôi suy nghĩ tới cái chết. Tôi chỉ muốn kết thúc cuộc đời cho xong. Rồi tôi bước vào tuổi 18.”
“Sau khi đậu bằng tú tài, tôi may mắn gặp được một linh mục trẻ nhưng đứng đắn và thánh thiện. Linh mục này giới thiệu tôi vào một nhóm cầu nguyện gồm toàn những người trẻ. Vào một ngày cuối tuần, tôi tham dự cuộc gặp gỡ về đề tài “ơn tha thứ”. Tôi cảm thấy mình thật tội lỗi, bất xứng, bé nhỏ và nghèo nàn.”
“Vị linh mục hướng dẫn buổi gặp gỡ nói với chúng tôi về Chúa Giêsu, về tình yêu Người dành cho loài người. Tình yêu ấy dạt dào đến độ Người tha thứ tất cả, với điều kiện là người ta phải hoàn toàn phó thác trong vòng tay của Người. Vị linh mục ấy cũng nói với chúng tôi về gương trở lại của thánh Maria Mađalêna, người phụ nữ đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi 7 quỉ ám ảnh. Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội lỗi cho bà.”
Bài giảng gây tác động mạnh
“Bài giảng của vị linh mục đã gây tác động mạnh trong tâm hồn tôi. Tôi xúc động và khóc ròng. Sau bài giảng là thời gian dành cho việc xưng thú tội riêng. Tôi dọn mình lãnh bí tích hòa giải. Tôi có cảm tưởng Chúa Giêsu đến và cầm tay dẫn đưa tôi đến với vị linh mục đại diện Người. Xưng tội xong, tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an và lòng tràn đầy hạnh phúc. Tôi lại cảm động khóc ròng nhưng đó là những giọt nước mắt cảm tạ và tri ân.”
“Giờ đây, như một người con thơ bé nhỏ, tôi đặt mình vào vòng tay Chúa, xin Chúa dẫn dắt. Tôi luôn muốn nói với những người không tin hoặc còn hoang mang nghi ngờ và nói với hết mọi người rằng: Chúa đặc biệt yêu thương những kẻ bé nhỏ, yếu đuối. Người yêu bạn với tất cả những nổi khổ và bất toàn của bạn. Điều quan trọng là bạn phải chạy đến với Người và thưa với Người rằng bạn yêu mến Người. Vì Chúa Giêsu là tình yêu và chúng ta có bổn phận yêu mến Người.”
Tất cả những điều cô Mai Hương vừa chia sẻ cùng với toàn bộ những tương quan sống động đã duy trì con người ấy trong hiện hữu cũng như đã giải thoát con người ấy khỏi vực thẳm tội lỗi, quả là một kỳ công tuyệt diệu.
Ngọn lửa ném vào hành tinh của chúng ta
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói đến ngọn lửa mà Người ném vào hành tinh chúng ta và muốn cho nó cháy bùng lên, thì một phần nào Người đã đạt được mong ước của Người nơi một con người. Phần còn lại của bài Tin Mừng cho thấy phương tiện mà Đức Giêsu sử dụng cũng như quá trình mà Người trải qua để đạt tới đích chính Người nhắm.
Tại sao Thiên Chúa lại dựng nên con người trong cộng đồng, rồi cứu họ cũng trong cộng đồng và đưa họ đạt tới đích cũng trong cộng đồng? Suy nghĩ kỹ sẽ thấy lý do cơ bản vẫn là Lời Thiên Chúa phán “Chúng ta sẽ làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 2,26). Tạo dựng cũng như phục hồi lại tạo dựng là cứu chuộc, đều theo cùng một hướng là “làm ra con người theo hình ảnh của cộng đồng Ba Ngôi Thiên Chúa.” Đưa tạo dựng và cứu chuộc ấy tới thành tựu không thể theo một con đường nào khác ngoài con đường đưa người ta qui tụ lại nơi cộng đồng Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tất cả những điều vừa nói chưa được nói hết trong bài Tin Mừng hôm nay. Ơn mạc khải chỉ được ban từ từ theo mức độ các môn đệ của Đức Giêsu có thể hiểu được (Ga 16,12). Chính Đức Giêsu hứa với các môn đệ rằng “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Đó chủ yếu là lý do tại sao những lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay chưa rõ nghĩa ngay.
- 49: Khi Đức Giêsu nói “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên.” Ta dễ dàng theo một số giáo phụ nghĩ tới ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đã bùng lên trong ngày lễ Hiện Xuống. Chính ngọn lửa ấy đã làm phát sinh ra Giáo Hội là dụng cụ mà Chúa Thánh Linh dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân loại. Nhưng bình giải như vậy là dựa vào những biến cố sau này mới xảy ra, thay vì dựa vào văn cảnh trực tiếp của bài Tin Mừng. Tốt hơn nên hiểu lửa nói đây là ngọn lửa như biểu tượng chỉ về ngọn lửa nơi lòng người, là ngọn lửa mà Đức Giêsu muốn khơi dậy để nó cháy bùng lên. Ngọn lửa ấy chính Đức Giêsu phục sinh đã làm cháy lên trong cõi lòng hai môn đệ đi Emmau (Lc 24,32) nay Người cũng khơi dậy cho nó bùng cháy lên nơi thôn nữ Mai Hương trong câu chuyện nói trên.
- 50: Nói tới phép rửa mà “lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” Phép rửa nói đây xem ra tương đương với phép rửa được nêu lên với hai tông đồ Giacôbê và Gioan khi hai ông này xin được ngồi bên hữu và bên tả Thầy Giêsu khi Thầy được vinh quang: Đó là lúc Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10,38). Vậy phép rửa nói đây cũng như chén Thầy sắp uống là kiểu nói bóng để chỉ biến cố Đức Giêsu chìm ngập hoàn toàn trong đau khổ mà chính Người khắc khoải muốn hoàn tất ở cuối cuộc hành trình lên Giêrusalem.
- 51: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?” Tin Mừng của Luca từng nói tới hòa bình như hồng ân tối cao do vị thiên sai mang lại (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42). Ở đây Đức Giêsu có ý từ chối mang lại thứ hòa bình dễ dàng của trần gian như các ngôn sứ giả từng ước ao: “Chúng bô bô nói: “Bình an vô sự” để xoa dịu thương tích của dân ta trong khi chẳng có bình an chi cả” (Gr 6,14; x. Gr 8,11; Ed 13,10.16).
- 53: “Cha chống lại con trai… nàng dâu chống lại mẹ chồng.” Mối chia rẽ nói đây là quá trình đưa tới hiệp nhất. Đó là nét đặc sắc nơi các ngôn sứ khi nói về nỗi túng quẫn của ngày sau hết: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà hóa ra thù địch.” (Mk 7,6; x. Ag 2,22; Mal 3,24).
Thành tựu cuối cùng
Lời chia sẻ của cô Mai Hương cũng cho chúng ta thoáng thấy một mảnh đời đã từng trải qua nhiều giông tố trước khi đạt được bình an trong tình yêu của Chúa Giêsu. Đó là dấu chỉ của sự thành tựu khi loài người được qui tụ lại nơi cộng đồng Ba Ngôi Thiên Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
- Bạn nghĩ gì về lời chia sẻ của cô Mai Hương: “Ngay từ khi còn bé xiú mẹ tôi đã dạy tôi biết cầu nguyện cùng Chúa Giêsu Đấng mà mẹ tôi hết lòng yêu mến.” Các bà mẹ Công Giáo mà bạn biết có dạy con cái cầu nguyện theo cách thức như vậy chăng?
- Đã bao giờ bạn nghiệm thấy ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn khơi dậy cho nó bừng cháy nơi lòng bạn? Hay bạn nghĩ thứ lửa mà Chúa Giêsu phục sinh khơi dậy nơi cõi lòng hai môn đệ Emmau (Lc 24,32) là thứ lửa quá huyền bí đối với bạn?
54. Sứ mạng của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng đắn.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
– Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
– lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
– hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
– cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…
Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
- Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
- Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
- Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
- Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.
55. Lc. 18, 49 – 53 – Gp Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam có một câu chuyện mà có lẽ được rất nhiều người biết đến. Đó là chuyện Ăn Khế Trả Vàng. Câu chuyện kể lại một gia đình có hai anh em, cha mẹ mất sớm, chỉ còn hai anh em chung sống với nhau. Người cha có lời dạy bảo trước khi chết, bảo anh em thương yêu nhau. Người anh lớn thay thế cha lo cho em.
Nhưng khi thấy người em đã lớn khôn, người anh vì có tính tham lam, sợ em mình đòi chia gia tài nên anh mới lập mưu với vợ, chỉ chia cho em mình có mỗi cây khế sau vườn. Người em vì nhớ lời cha chỉ dạy nên bằng lòng với những gì mà anh mình chia cho. Hằng ngày chăm sóc cây khế và làm lụng thêm để sống qua ngày. Nhưng một hôm có con chim lớn đến ăn gần hết những quả khế, anh mới than thở buồn rầu. Con chim mới bảo ăn khế trả vàng, may túi ba gan. Thế là anh được chim chở đi, anh nhận được vàng. Từ đó anh giàu có ra, mua đất thêm và sống sung túc. Người anh biết được việc, mới xin em đỗi cây khế. Đến một hôm cũng thế, anh cũng được chim chở đi để nhận vàng. Nhưng anh quá tham lam, anh mang nhiều vàng quá, chim chở không nỗi, chim đánh rơi anh xuống biển cả, anh không thể trở về được nữa.
Người anh vì quá tham lam, nên những gì mà cha để lại, anh không biết dùng cho đúng. Anh không còn nhớ đến cha, cũng không còn biết đến tình yêu thương mà cha đã trối lại. Anh chỉ biết cậy dựa vào đồng tiền, vào của cải vật chất, nên những thứ đó đã giết chết anh. Còn người em luôn biết vâng nghe lời cha, nên anh đã có tất cả, ngay cả những cái mà dường như anh đã mất.
Thầy dã đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Chúa Giêsu còn nói thêm khiến mọi người bở ngở:… Thầy đến để đem chia rẽ. Chúa Giêsu không đem bình an theo như thế gian nghĩ tưởng. Ngài chỉ đem bình an cho những ai biết lắng nghe, biết vâng giữ những gì Ngài chỉ dạy, biết thực hiện điều Ngài mong ước.
Nếu con người chỉ tìm những lợi ích cho bản thân mình, chỉ biết tìm những gì là trần thế, chỉ biết cậy dựa vào những gì chóng qua của đời này mà quên đi lời chỉ dạy của Ngài, quên đi tình yêu thương mà Ngài đã trối lại, quên đi những người chung quanh. Những người như thế không bao giờ có được sự bình an. Họ luôn lo sợ, sợ mất đi những gì mình đang có, lo sợ người khác có thể hơn mình. Nên họ luôn chạy đôn chạy đáo, tìm đủ mọi mánh khóe, thủ đoạn để hại người. Mặc dù, dường như trong hiện tại, họ thành công. Nhưng những gì họ đang có trong tầm tay, lại là một gánh nặng đeo họ suốt cả cuộc đời, khiến họ không thể ngẩn đầu lên được, nhiều lúc còn giết chết cả cuộc đời của họ.
Mỗi người trong chúng ta để một ít phút suy tư về cuộc sống của mình. Ngọn lửa nào đang đốt cháy tâm hồn? Ngọn lửa của tình yêu thương tha thứ, ngọn lửa phát xuất tự con tim, ngọn lửa được Chúa Giêsu mang đến. Hay trong tâm hồn ta chỉ có ngọn lửa của sự căm hờn, của lòng ganh tỵ.
Ngọn lửa của sự tham lam đang đốt cháy con người chúng ta đến đâu? Coi chừng ngọn lửa của lòng ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nó sẽ nhận chìm và giết chết cuộc đời chúng ta. Vì khi đó chúng ta không còn nhìn thấy được những người chung quanh, không còn khả năng lắng nghe những lời nói ngay thẳng, cũng không còn nhìn thấy được trách nhiệm mình phải chu toàn. Khi đó con tim chúng ta không còn hoạt động nữa, nó đã chay lì khô cứng. Khi đó chúng ta chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, giống như người anh cả trong câu chuyện Ăn Khế Trả Vàng. Nếu như thế, coi chừng, chúng ta sẽ có một kết thúc không mấy tốt đẹp như người anh cả.
Nếu chúng ta biết sống bằng con tim thực sự, con tim biết yêu thương run động trước những bất công. Nếu chúng ta biết nhìn thấy được những người chung quanh và đáp ứng nhu cầu của họ theo khả năng mình có. Nếu chúng ta biết chu toàn trách nhiệm theo như lời Chúa chỉ dạy, cho dù bị một chút thiệt thòi. Khi đó chúng ta sẽ thấy được sự bình an hiện diện trong tâm hồn của mình, sự bình an thật sự của Thiên Chúa.
Xin đốt lửa yêu mến Chúa trong tâm hồn mỗi người chúng con, để luôn được an bình trong Tay Chúa.
56. Khủng hoảng niềm tin – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Lửa đang bùng lên khắp nơi. Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Đông tới những cuộc đặt bom phá hoại các nhà thờ tại Nam Dương, lửa đã thiêu sống bao sinh mạng và sản nghiệp. Lửa cũng được đề cập trong Tin Mừng hôm nay như mạc khải về sứ mạng Đức Giêsu nơi trần gian. Sứ mạng đem lại hòa bình hay phân hóa nhân loại?
BẬP BÙNG
Ngày Chúa sinh ra, thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”(Lc 2:14) Đức Giêsu chính là sự bình an Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Người từng nói: “Thầy để lại bình an cho các con.” (Ga 14:25) Người vẫn được tôn xưng là “Thái Tử hòa bình.” Vậy tại sao hôm nay Chúa quả quyết ngược lại (Lc 12: 51)? Lời quả quyết đó làm nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ về sứ mệnh của Chúa trên trần gian. Nếu Người đến “đem sự chia rẽ” đến mối tương quan sâu xa nhất giữa các phần tử trong gia đình, làm sao tránh khỏi chiến tranh ngoài xã hội, quốc gia và quốc tế?
Tự bản chất sứ mệnh Đức Giêsu là sứ mệnh hòa bình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Sứ mệnh đó đã được thực hiện nhờ cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và con người trên thập giá. Thực tế không thiếu người ngộ nhận hay khước từ công cuộc cứu độ của Chúa. Như thế, họ tự tách lìa khỏi đoàn người đón nhận ơn cứu độ. Không đón nhận ơn cứu độ tức là còn sống trong thế đối nghịch với Thiên Chúa. Chính vì thế mới thấy tự do như một định mệnh. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người. Lời Chúa như một tặng phẩm, chứ không như một gông cùm xiềng xích nhân loại.
Nhưng nếu chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Chúa, đương nhiên con người phải có một quyết định dứt khoát và cam kết sống chết với Đức Kitô. Chính ý chí cương quyết này sẽ làm cho môn đệ Chúa khác với mọi người. Sở dĩ có thể quyết định và cam kết như thế, vì lòng người môn đệ nung nấu ngọn lửa do Thầy đã ném vào mặt đất (Lc 12:49). “Lửa ấy đã cháy bùng lên!” (Lc 12:49) Lửa đã lan khắp mặt đất. Đó là “lửa thanh tẩy của Chúa Thánh Linh đã đến với các môn đệ trong Tông Đồ Công Vụ, chứ không phải lửa thiêu hủy trong ngày phán xét.” (NIB 1995:266) Trong sách Ngụy Phúc âm cũng nói đến lửa sứ mệnh Đức Giêsu: “Ai gần Tôi là gần lửa; ai xa Tôi là xa Nước Chúa.” (Tin Mừng Thomas 82) Khi Thánh Linh xuất hiện, một dân mới đã được tách ra khỏi thế gian.
Nhưng trước khi ngọn lửa Thánh Linh lan khắp thế gian, chính Đức Giêsu cũng đãbị ngọn lửa đó thiêu đốt, đến nỗi “lòng Thầy khắc khoải biết bao.” (Lc 12:50) Ngọn lửa đã thiêu Thầy tới chết mà Thầy gọi là “phép rửa Thầy phải chịu.” (Lc 12:50) Tâm hồn Thầy bị giằng co và chìm ngập trong buồn sầu ứa lệ. Toàn thân Thầy rúng động “cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Thầy đã trải qua một cơn xao động tột độ khi đến gần Giêrusalem. Sự dằng co đó đánh dấu một chuyển mình lớn lao đưa Đức Giêsu vào một khúc ngoặt quan trọng. Quả thực, chính Người cũng phải làm một quyết định rất lớn trước khi thực hiện sứ mệnh Chúa Cha trao cho Người. Sứ mệnh đó khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc nơi cái chết thê thảm trên thập giá. Đó là đường lối Người đã chọn. Vì quyết định và lựa chọn đó, Người đã trở thành nạn nhân đầu tiên của sự chia rẽ giữa những người tin và không tin (NIB 1995:266). Đúng như lời ông Simêon đã nói tiên tri từ thuở xa xưa (Lc 2:34-35). Người đã từng bị cả đối phương lẫn người thân chống đối (Ga 1:11; Lc 4:28-30) Kết quả Người đã bị dồn vào chân tường, bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn. Người đã chết để lộ ra những nét kinh hoàng trong cuộc đối đầu đó, đồng thời mạc khải trọn vẹn Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa đã tạo thành một lằn ranh giữa những người tin và không tin. Nghĩa là Đức Giêsu đến để “đem sự chia rẽ” (Lc 12:51) và chống đối. Ngay từ xa xưa tiên tri Giêrêmia cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Oâng đã tuyên sấm ngược với lòng mong đợi của mọi người. Bởi vậy ông đã bị kết án: “Con người ấy chẳng mưu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa.” (Gr 38:4) Biết làm sao được?! Ngôn sứ chỉ nói sự thật. Sự thật mất lòng. Căng thẳng. Căng thẳng đến độ ngôn sứ Giêrêmia suýt chết đói “trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn.” (Gr 38:7) Còn Đức Giêsu thì chết khát thực sự trên thập giá. Đúng là “sứ điệp bình an dưới thế bao giờ cũng phải kèm theo sự đối kháng man dại (2:14; 12:51; 19:42; 24:36). Thật là ngược đời, trong khi hòa giải là công tác của vị tiền hô thiên sai (Ml 4:5-6; Lc 1:17), thì đặc điểm của cuộc khủng hoảng cánh chung là sự chia rẽ bi thảm.” (NIB 1995:267)
Cái gì cũng có mặt trái, kể cả mạc khải của Thiên Chúa. Quả thế, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật, không bao giờ Đức Giêsu nói những lời chói tai hôm nay. Nói khác, Lời Chúa “phơi bày mặt trái của mạc khải, lời cam kết, và những giá trị Nước Trời.” (NIB 1995:267) Lời Chúa đã can thiệp sâu vào những tương quan rất thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Không phải chỉ phân rẽ những mối tương quan đó, nhưng Lời Chúa còn “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy.” (Dt 4:12) Nghĩa là một cuộc chiến xảy ra ngay trong bản thân mỗi người khi quyết định nghe theo Tin Mừng Bình an của Chúa.
Bình an nào cũng phải trả giá. “Bất cứ nơi đâu Lời Chúa được đón nghe, sự chia rẽ cũng xảy ra giữa những người lắng nghe Lời Chúa (xc Ga:43; 9:16; 10:19).” (NIB 1995:267) Không thể không có mâu thuẫn và xung đột trong chính cá nhân và cộng đoàn. Có thế mới thấy Nước Chúa không dựa trên sức mạnh con người. Chúa có thể lợi dụng cả những đối kháng đó để mưu ích cho Nước Chúa. Vấn đề còn lại là con người có dám quyết định bước theo tiếng Chúa mời gọi hay không. Thực tế, “lời mời gọi con người đi tới quyết định là lời mời gọi phân rẽ.” (E.Earle Ellis 1966:182) Đó là một bi kịch. Nhưng đó cũng là sự thật cho những ai sống theo tiếng mời gọi liên tục của Thiên Chúa.
Lời mời gọi đó nhắm tới việc tạo lập “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14) Nhưng không thể chiếm sự bình an đó một cách dễ dãi. Phải có một cuộc phấn đấu cam go mới có thể cam kết sống với Chúa và khước từ những tiêu chuẩn trần thế. Từ đó, “thái độ chúng ta đối với của cải vật chất cũng phải thay đổi và những trách nhiệm tinh thần phải được quan niệm một cách nghiêm chỉnh hơn.” (NIB 1995:267) Chính vì thế, theo Đức Giêsu có nghĩa là thay đổi não trạng và nếp sống cho phù hợp với những tiêu chuẩn Nước Trời. Nghĩa là, mọi sự phải được đánh giá theo thánh ý Chúa. Từ nay, “những ai cam kết sống theo Đức Giêsu đều thấy mối tương quan với tha nhân, kể cả với những người thân thương nhất, đều bị sự cam kết đó chi phối.” (NIB 1995:267) Đức Giêsu đã cống hiến cho các môn đệ một tiêu chuẩn sống: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Nói khác, không còn con đường hạnh phúc nào ngoài việc theo sát lời Chúa. Chính Đức Giêsu đã tìm được sức mạnh nơi thánh ý Chúa Cha để đem lại hạnh phúc cho chính mình và toàn thể nhân loại.
Nếu Đức Giêsu đã không sống theo Lời Thiên Chúa, chắc chắn Người đã không thể thành công khi ném lửa xuống trái đất. Ngày nay, muốn tiếp tay với Chúa thiêu đốt cả trần gian, chúng ta phải để lời Chúa xâm chiếm trọn con tim và cuộc đời mình. Từ đó, “chúng ta sẽ thay đổi nếp sống cũ, dựa trên những giá trị, thứ bậc ưu tiên, mục đích và hành vi thành hình từ sự cam kết sống với Chúa Kitô. Những thay đổi này sẽ nhanh chóng tạo nên những khủng hoảng trong những mối tương liên quan trọng.” (NIB 1995:267) Mọi suy nghĩ sẽ đảo ngược. Mọi vấn đề sẽ phải đặt lại. Cuộc đời thánh Phaolô là một điển hình. Sau khi trở lại, thánh nhân đã chứng kiến một thay đổi ngoạn mục trong tâm hồn và nếp sống: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô.” (Pl 3:8)
HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG.
Kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của tất cả những ai đang nung nấu ngọn lửa Thánh Linh trong tâm hồn. Ngọn lửa lan tới đâu, tất cả đều biến đổi tới đó. Tất cả đều bứt tung trong lửa. Trong ngọn lửa đó, “chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình.” (Dt 12:1) Ngọn lửa đó cũng soi sáng để “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Từ đó, chúng ta mới thấy tất cả đổi mới. Chính niềm tin là ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa Thánh Linh sẽ cho ta thấy hết mọi sự, từ những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi chúng ta đến hồng ân Thiên Chúa tuyệt vời trong vũ trụ và con người.
Chính vì thiếu vắng niềm tin đó, nhân loại hôm nay vẫn chưa tìm được lối thoát. Cơn khủng hoảng hôm nay bắt nguồn từ việc chối từ Thiên Chúa trong cuộc sống. Bởi vậy, muốn có hòa bình, phải tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Muốn đạt tới niềm tin đó, con người sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này khác hẳn cuộc khủng hoảng vô thần. Một bên báo hiệu sự trưởng thành. Một bên dẫn tới tiêu vong. Những khủng hoảng đó dẫn tới những đối kháng khác nhau về mức độ và bản chất.
Hôm nay, Kitô hữu đang trải qua những khủng hoảng và gặp những đối kháng khắp nơi trên thế giới. Từ những cuộc bắt bớ, chém giết tại những nước không tôn trọng nhân quyền đến những giới hạn về nhiều mặt đối với những tín hữu đang tranh đấu cho sự sống. Ngay trên đất nước tôn trọng tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Kitô hữu cũng có thể bị bách hại. Chẳng hạn, hiện nay “Hội Đồng Thành Phố New York đang cứu xét một đề nghị cấm phổ biến truyền đơn, lên tiếng phản đối, cố vấn, hay đến gần các phụ nữ nằm trong bệnh viện phá thai. Biểu tình phản đối phá thai có thể là một hành vi phi pháp và những người phạm pháp có thể lãnh sáu tháng tù.” (CWNews 16/8/2001) Phong trào ủng hộ phá thai phải mạnh tới mức nào mới ảnh hưởng tới cơ quan lập pháp như thế! Nhưng ĐGM Thomas Daily đã công khai phê bình: dự luật đó “trực tiếp tấn công những quyền tự do của người dân New York và đặc biệt nó giới hạn việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tôn giáo không thể chấp nhận được.” (CWNews 16/8/2001)
Cuộc đối kháng giữa những người phò và chống sự sống con người đang tạo nên khủng hoảng khắp nơi. Những người ủng hộ phá thai hay những kẻ sát nhân đang bách hại con người một cách có hệ thống và tổ chức trên cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Chẳng hạn, Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Châu chỉ chi viện nếu các nước Châu Mỹ La tinh tham dự vào những chương trình kế hoạch hóa gia đình của Liên hiệp quốc. Bằng chứng, sau cơn động đất tàn hại vừa qua, El Salvador đã được Quĩ Tài trợ Dân số của Liên Hiệp Quốc viện trợ cả những viên thuốc và dụng cụ phá thai (CWNews 16/8/2001)
Rõ ràng niềm tin đang mất dần ảnh hưởng trên lương tâm con người. Cuộc khủng hoảng vào tận gia đình và lan tới phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng đó bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa. Đức tin cũng là ngọn lửa Đức Giêsu ném vào mặt đất. Ngọn lửa ấy đang bùng lên từ trong tâm hồn đến cộng đoàn, mặc dù đang gặp trở ngại từ nhiều phía. Nhưng cuối cùng ngọn lửa sẽ lan ra khắp vũ trụ, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16:33)
57. Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật
Ngọn lửa của Đức Giêsu…
Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia – Hy-lạp – quê hương của Olympic. Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.
Cũng trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic. Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh thần yêu thương và thông cảm.
Xin mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: “Mọi sự đã hoàn tất.”
Đức Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu độ.
Và rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi. Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.
… đến các Kitô hữu
Ngọn lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.
Nhưng ngọn lửa ấy là gì?
Mọi người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.
Mỗi người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.
Cũng phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức Kitô đã làm.
Trở lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.
Liệu chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Bình an từ cuộc chiến đấu
Trong suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?
Để trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá “tầm thường” về Đức Giêsu. Bình an, tình yêu… Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua cửa hẹp.
Bình an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.
Do đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.
Cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Ôi Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.
Khi nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.
Thiên Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.
Thiên Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Họ đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác thịt với thần trí.
(theo P. Claudel.)
58. Đời sống của người môn đệ Chúa Kitô
Các bản văn Lời Chúa hôm nay giới thiệu cho chúng ta một lối sống dường như có thể gọi là không biết mềm dẻo, không biết trước biết sau!
Trước hết, ta gặp ngôn sứ Giêrêmia: ngài phản đối đường lối chính trị muốn đi theo Ai-cập; ngài khuyên vua Xítkigiahu (Sêđêcia) theo Nabucôđonôxo để được yên ổn. Bởi vì quần thần không nghe nên Giêrêmia bị tống ngục. Nhưng ngài cứ nhất định loan báo những tai họa sẽ đổ xuống trên Dân Chúa nếu họ không rời xa con đường gian ác họ đang theo. Thế là người ta kết án ngài là người chủ bại, người ta sỉ vả ngài là đã làm nao núng tinh thần của dân chúng… Kết quả là ngài bị bỏ xuống một cái hầm nước chỉ có bùn, để cho ngài chết đói và chết ngộp.
Ta tự hỏi:Vị ngôn sứ có cần phải lao khổ như thế không?
Rồi Chúa Giêsu chính là vị Mêsia mà Israel vẫn mong đợi. Nhưng trong khi người ta trông chờ Người đến trong vinh quang khải hoàn, để giải phóng quê hương, Người lại cứ khư khư tự giới thiệu là một người nghèo, khăng khăng rao giảng một cuộc hoán cải nội tâm, nhất định coi thường những thành công ngoạn mục. Người sẽ là dấu hiệu của sự chia rẽ và mâu thuẫn. Bởi vì đứng trước Chúa Giêsu, mỗi người phải đáp lại tiếng Người mời gọi, mỗi người phải có một thái độ đối với Người; do đó nhiều khi thái độ đối với Chúa Giêsu sẽ gây nên sự chia rẽ giữa những người thân thích. Kết quả: Người chết trên một cây thập giá.
Chẳng lẽ không còn một giải pháp nào khác sao?
Tác giả thư Do thái thì khuyến khích các tín hữu kiên trì trong cuộc chạy đua, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin, trong khi người Do thái thì bảo rằng Người là kẻ sống trên mây trên gió. Và tác giả còn chuẩn bị cho các tín hữu chấp nhận bị chống đối.
Thế thì được ích gì?
Không biết có những lý do, những nguyên tắc, hay những triết lý nào đúng với những hy sinh đó không. Nhưng khó mà tin được rằng những lý luận, dù là những lý luận chặt chẽ nhất, có thể đưa con người tới chỗ sống quảng đại như thế. Chỉ có niềm tin, chỉ có tình yêu mới giải thích được. Chính niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa và tình yêu đối với Ngài đã khiến các ngài cương quyết thi hành sứ mạng, chứ không nao núng để rồi phải uốn lưỡi nói cho người ta vui ta và chuyển sang một lộ trình dấn thân khác.
Giêrêmia, Phaolô hay tác giả thư Do thái, Đức Giêsu Mêsia, chính vì tình yêu mà các ngài đã hiến mạng sống, một tình yêu chân thật đối với một Đấng.
Cả ba đã công bố động lực đã thúc đẩy các ngài hành động:
* “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và ngài đã thắng con”, đó là lời của ngôn sứ Giêrêmia.
* Tác giả thư Do thái viết: “Tôi hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”.
* Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tôi luôn làm điều đẹp lòng Thiên Chúa”.
Còn chúng ta, có lẽ chúng ta quá thường mất thì giờ để phân tích, để giải thích, để xây những lý thuyết, để biện minh, để thiết lập những luật lệ.
Là Kitô hữu, trước hết không phải là theo một triết lý nào, cũng không chỉ là tuân giữ một nền luân lý nào, mà là trao hiến con tim cho một Thiên Chúa là Chúa Tể quyền năng và Tình Yêu sâu thẳm, cho Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Là Kitô hữu là tin tưởng trọn vẹn vào Lời của Người và đi theo Người tới cùng, dù phải trả giá nào. Có nhiều khi phải hy sinh những dây liên hệ tình cảm thắm thiết như tình gia đình. Chúa Giêsu không hề phá hoại sự hòa hợp trong gia đình hay muốn khuấy rối các gia đình. Bởi vì Người có lúc đã nói: “Hãy làm tròn bổn phận đối với cha mẹ” (Mc 7,10). Nhưng Người khẳng định rằng, nếu chúng ta là môn đệ Người, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì cản trở để thong dong bước theo Người. Người dạy như thế không phải để biến chúng ta thành nô lệ của Người, nhưng là để chúng ta cùng chia sẻ sứ mạng của chính Người.
Chúng ta hãy dâng tâm hồn cho Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu lòng chúng ta thiếu sức nóng của tình Chúa, không tha thiết hiệp thông huynh đệ, Chúa Kitô sẽ mang lửa tình yêu đến sưởi ấm trái tim, làm tan rã thái độ nghịch thù. Và Người cũng ban cho chúng ta sự bình an: Người giao hòa chúng ta với Chúa Cha, với chính mình ta, và với anh chị em chúng ta (x. Ep 2,14-17) bằng cách đưa chúng ta về với đời sống thật, là đời sống yêu mến.
Sống như thế thì ít bảo đảm hơn việc giữ đạo, giữ luật cách khôn ngoan. Mong manh quá! Và có lẽ lại đòi hỏi nhiều hơn! Nhưng sống như thế chắc chắn là “hào hùng hấp dẫn” hơn nhiều!
Ngày 28.3.1986 tuần báo Công giáo Hoa Kỳ có tên gọi là: “Người Phóng Viên Công Giáo Toàn Quốc” đã đăng tải một bài tự thuật của một bình luận gia nổi tiếng lúc đó, anh Actu John, bài tự thuật kể lại một biến cố không thể quên được thời tuổi trẻ của anh Actu John, đó là lúc anh phải thi hành nghĩa vụ quân sự và trải qua thời gian huấn luyện tại trung tâm. Tối đến, trong phòng ngủ rộng cho ba mươi tân binh thụ huấn, anh John phải đương đầu với một vấn đề hết sức thực tế. Anh tự hỏi mình: “Tôi phải quì gối bên giường đọc kinh tối, cảm tạ Thiên Chúa trước khi đi ngủ hay không?”
Trong thời gian còn sống trong gia đình với cha mẹ, John đã học được từ cha mẹ thói quen tốt lành, mỗi tối trước khi lên giường ngủ, anh quì gối đọc kinh cảm tạ Thiên Chúa rồi mới ngủ. Giờ đây trong trại lính, anh bỗng do dự ngại ngùng và câu hỏi: “Mình có phải quì gối đọc kinh giữa những người xa lạ này hay không?”. Anh đang lúng túng không biết phải có thái độ như thế nào thì bỗng dưng một tư tưởng sau đây lóe lên trong đầu óc anh: “Tại sao tôi phải thay đổi thái độ sống chỉ vì có nhiều người xa lạ bên cạnh thấy mình đang làm gì?”. Tôi bắt đầu cuộc sống ngoài gia đình bằng cách để cho những kẻ xa lạ bên ngoài ảnh hưởng bắt buộc tôi phải hành động như họ hay sao? Không, tôi phải kiên vững làm điều tốt tôi phải làm. Nghĩ như vậy, anh John quì xuống bên cạnh giường đọc kinh rồi mới ngủ. Mọi người xung quanh nhìn anh, và anh là người Công giáo duy nhất trong nhóm tân binh cùng khóa. Mỗi đêm anh đều trung thành với thói quen quì gối đọc kinh này. Ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, trước khi từ giã nhau đến nhiệm vụ mới, một người trong nhóm đến bắt tay chào anh và nói: “Xin cám ơn và chào anh. Anh là người Kitô tốt mà tôi gặp từ trước đến giờ, anh đã can đảm thực hành đức tin của anh, mặc cho những lời gièm pha, chọc tức, khinh dể của chúng tôi”.
Kinh nghiệm của anh John giúp ta hiểu thêm một khía cạnh của bài Phúc âm Chúa nhật XX Mùa thường năm C. Việc dấn bước theo Chúa trọn vẹn đòi hỏi đôi khi và rất thường khi nhiều sự can đảm, sống khác với nếp sống của môi trường, như thể ta bị tách rời ra xa lạ với môi trường, nhất là khi môi trường đó thù nghịch với đức tin Kitô.
Anh John đã thành công vượt qua được nỗi ngại ngùng hèn nhát, có lẽ vì ngọn lửa đức tin và tình yêu Chúa đã được thực sự cháy lên trong tâm hồn anh. Lửa đức tin và tình yêu đó đến từ Chúa Giêsu, là hồng ân của Ngài, Ngài đã gieo lửa đó vào trong tâm hồn chúng ta, lửa đó là Chúa Thánh Thần đã được ban xuống cho các Tông đồ ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa, và hằng luôn được tiếp tục ban xuống cho mọi kẻ tin Chúa sau khi Chúa Giêsu hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết của Ngài trên thập giá. Đó là phép rửa Ngài phải chịu, đó là phương thế duy nhất để Chúa Giêsu có thể ban lửa Thánh Thần xuống cho những kẻ tin Ngài. Những ai đã lãnh nhận lửa ấy phải cộng tác để cho lửa ấy được cháy luôn đừng bị dập tắt đi.
60. Sự quấy rối cần thiết – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
“Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ai ai cũng thích được sống yên ổn trong những thói quen của mình. Tuy nhiên cứ mãi ở yên trong những thói quen xấu thì rất là tai hại. Bởi vậy cần phải có ai đó đánh thức lương tâm, kết án sự xấu và lôi kéo con người trở về đường tốt. Đó là những sự quấy rối cần thiết.
Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta can đảm đón nhận những sự quấy rối đó, và cũng can đảm dám quấy rối trước những tình trạng xấu của kẻ khác.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta chỉ thích nghe những lời êm tai vừa ý và không đón nhận những lời thật sửa lỗi chúng ta.
Nhiều khi chúng ta còn thù ghét những người thành tâm sửa lỗi chúng ta.
Chúng ta không can đảm đấu tranh cho công bình và sự thật.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Gr 38, 4-6. 8-10)
Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục làm tội và cậy vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia vạch rõ những sai lầm ấy và đe dọa rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày.
Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu. Nhưng Chúa đã cho người cứu ông lên.
- Đáp ca (Tv 39)
Tâm tình Tv này rất hợp với Giêrêmia: Tôi đã trông cậy Chúa và Người đã nghiêng mình về bên tôi. Người đã kéo tôi lên khỏi lỗ mồ, khỏi chỗ bùn nhơ…
- Bài đọc II (Dt 12, 1-4) (Chủ đề phụ)
Hoàn cảnh: Các kitô hữu gốc Do Thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do Thái cũ thù ghét vì coi họ là những người phản đạo. mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Tác giả thư Do Thái đã nêu gương Chúa Giêsu để an ủi và khuyến khích họ: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu. Ngài cũng gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
- Tin Mừng (Lc 12, 49-53)
Đoạn này có hai ý:
a/ Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
“Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
“Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
b/ Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).
- Gợi ý giảng
* 1. “Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian”. Còn nhớ có lần Phêrô tuốt gươm ra để bênh vực Ngài khi quân dữ đến bắt Ngài. Khi ấy Ngài đã bảo Phêrô xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài nói “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy đến để đem sự chia rẽ!”.
Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.
Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v. v.
Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.
* 2. Sứ mạng ngôn sứ
Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa. Mà lời Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thuận tai loài người. Cho nên ngôn sứ thường bị coi là những người quấy rối, và bị ghét bỏ.
Nhưng kitô hữu chúng ta có sứ mạng ngôn sứ. Chúng ta có sứ mạng nói lên sự thật để vạch trần sự gian dối; chúng ta có sứ mạng đòi hỏi công bình mỗi khi gặp bất công.
Kinh nghiệm cho thấy không có gì khiến người ta khó chịu cho bằng đòi hỏi sự thật và công bình.
Vì thế sứ mạng của kitô hữu càng khó khăn hơn.
Trước chúng ta, đã có nhiều kitô hữu can đảm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: Martin Luther King rao giảng cho hòa bình và cho quyền tự do của người da đen. Ông đã bị ám sát chết. Đức Giám mục Helder Camara tranh đấu cho người nghèo và cũng bị bắn gục.
Xã hội ngày nay có nhiều điều xấu, và những điều xấu ấy vẫn tồn tại lâu dài. Phải chăng vì Kitô hữu đã bỏ quên hay đã hèn nhát không thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình?
* 3. Ngọn lửa tình yêu
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.
Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12, 49). Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vắn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế. Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ. Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”. (TP)
* 4. Chấp nhận bị ghét
Lòng ganh ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà v. v. Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyến cáo các kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị ghét bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…”Đó là những sự ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin Mừng của mình.
* 5. Hoà bình thật và hòa bình dỏm
Một đầm lầy xem ra rất phẳng và đẹp ở bề mặt của nó
Nhưng sâu bên dưới toàn là bùn sình rác rưởi hôi thúi. Một thứ hoà bình dựa trên những giả dối và bất công được thoả thuận với nhau chỉ là thứ hòa bình dỏm. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để mang lại thứ hoà bình dỏm này. Thứ hoà bình thật Chúa Giêsu mang đến là thứ hòa bình mà trong đó sự thật được tôn trọng, mọi quyền lợi của con người được tôn trọng.
Những người cố gắng xây dựng nền hòa bình của Thiên Chúa có thể bị người đời cho là những kẻ quấy rối, nhưng họ được Thiên Chúa gọi là “Con” của Ngài.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu của Người xuống trần gian để sưởi ấm con tim băng giá của nhân loại. Với ước mong ngọn lửa ấy bừng lên trên toàn thế giới, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh đã và đang làm hết mọi cách / để giúp các Kitô hữu hiệp nhất với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho nỗ lực cao quý / nhưng đầy khó khăn này.
- Ngày nay / sự ganh tỵ / lòng ghen ghét / vẫn đang ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
- Hiện giờ / bất hòa / chia rẽ vì bè phái / vẫn đang hoành hành trong các cộng đoàn giáo xứ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết dẹp bỏ bất hòa và chia rẽ / để luôn sống hiệp nhất với nhau.
- Đời sống gia đình chỉ thật sự hạnh phúc / khi các thành viên trong gia đình biết sống trên thuận dưới hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn nêu gương cho các gia đình khác về đời sống bác ái yêu thương.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, ghen ghét, hận thù, vừa trái với tinh thần bác ái của Chúa vừa dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại trong mối quan hệ thường ngày. Vì thế, xin Chúa cho chúng con biết sống theo Lời Chúa dạy, và đừng bao giờ để cho lòng ghen ghét và sự hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói:”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì?
Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói:“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.
Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn: tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi: phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 38,4-10.
Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.
Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.
+ Bài đọc 2: Dt 12,1-4.
Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
+ Bài Tin mừng: Lc 12,49-53.
Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính:
- a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
- b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn: một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.
Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ngọn lửa tình yêu bùng cháy.
- ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.
- Điều Đức Giêsu muốn nói.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc: Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình:”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”? Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới?
Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: ”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên”? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?
- Lửa trong Thánh Kinh.
Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).
Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).
Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).
Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.
(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).
Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài:”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng:”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.
- Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ.
Đức Giêsu nói:”Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa: hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).
Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.
- ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.
- Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu.
Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu: cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao:”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.
Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.
- Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu.
Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.
Đức Giêsu cũng thế: ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa: theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
- Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.
Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.
Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.
Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình:”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.
Truyện: Chấp nhận bị chửi.
Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ”! Vì sao? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất.!
Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói:”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư? Thầy bảo thật các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.
III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.
- Kitô hữu phải lựa chọn.
Nếu đặt câu hỏi: là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.
Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi:”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai”? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.
- Chọn lựa phải dứt khóat và hiệu quả.
Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).
Truyện: Thánh nữ Perpetua.
Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha:”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết:”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời:”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ:”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
- Lựa chọn và Thập giá.
Đức Giêsu đã nói:”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu: tử đạo, cái chết! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.
Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).
Truyện: Họ đã chọn một phép rửa.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.
Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.
Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.
Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.
Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.
Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.
Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng:”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.
Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề:”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.
Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
62. Làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu – Lm Đan Vinh
Gr 38,4-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53
- HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Lc 12,49-53
(49) Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (50) Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”. (51) Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo anh em biết: Không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (52) Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: ba chống lại hai, hai chống lại ba. (53) Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng”.
- Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu dạy các môn đệ về sứ vụ của Người và những đòi hỏi đối với những ai muốn trở nên môn đệ của Người:
– SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU: là đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Sứ vụ của Đức Giêsu còn là phải chịu một phép Rửa tức là chấp nhận trải qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh để ban ơn cứu độ cho lòai người.
– NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI MÔN ĐỆ: Người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Người sắp phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ
- CHÚ THÍCH:
– C 49-50: + Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất: Trong Thánh kinh, Lửa biểu tượng sự phán xét của Thiên Chúa, nhất là trong ngày Tận thế, để thiêu hủy những kẻ gian ác và thanh luyện số ít người trung tín còn sót lại (x. Lv 10,2; Lc 3,9). Lửa cũng là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa, đã làm cho lòng hai môn đệ làng Em-mau phải nóng lên, khi cùng đi đường đàm đạo với Chúa Phục Sinh (x. Lc 24,32), Lửa Thần Khí cũng đậu xuống trên đầu các Tông đồ để thánh hóa các ông vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3-19). Lửa còn là những đau khổ mà Đức Giêsu phải chịu để thanh luyện con cái Ít-ra-en giống như vàng được thanh luyện trong lửa (x. Mc 13,1-4; Is 1,25). + Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên: Đức Giêsu mong ước ban Lửa Thần Khí cứu độ cho thế gian. Đó là nhiệm vụ duy nhất của Người. + Thầy còn một phép Rửa phải chịu: Phép Rửa có nghĩa là sự nhận chìm dưới mặt nước. Thời Giáo hội sơ khai người chịu phép Rửa phải được nhận chìm toàn thân trong một hồ nước và sau đó trồi lên. Phép Rửa này tượng trưng cho sự chết trong cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu: Người cũng đã chết và được an táng trong lòng đất, rồi ngày thứ ba Người đã trỗi dậy vinh quang. + Lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất: Đức Giêsu thao thức chu toàn sứ vụ Chúa Cha trao phó là trải qua cuộc tử nạn và phục sinh để cứu chuộc loài người.
– C 51-53: + Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?: Hòa bình hay bình an (Shalom) là mức sung mãn của sự sống, là quà tặng tuyệt vời của Đấng Mê-si-a (x. Is 9,5-6; Lc 1,79). + Không phải thế đâu: Thứ bình an Chúa ban không phải là thứ bình an dễ dãi, như Người đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Cũng không phải là thứ “bình an vô sự” mà các ngôn sứ giả đã mơ tưởng (x. Gr 6,16; Ed 13,10.16). + Nhưng là đem sự chia rẽ: Đứng trước Đức Giêsu, người ta phải lựa chọn dứt khoát: Tin theo hay chống lại Người. Sự lựa chọn này là nguyên nhân gây ra chia rẽ ngay trong nội bộ từng gia đình. + Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai…: Theo lời các Ngôn sứ thì sự chia rẽ là một đặc điểm của thời kỳ sau hết (x. Mk 7,6; Ml 3,24). Vào thời Giáo hội sơ khai, các tín hữu chỉ là một thiểu số ở giữa một thế giới ngoại giáo lớn lao. Họ luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian. Đức Giêsu đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên trên tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa và bước theo Người (x. Lc 14,26; 18,29-30).
- CÂU HỎI: 1)Theo Thánh kinh, Lửa là biều tượng cho những gì? 2) Phép Rửa mà Đức Giêsu sắp phải chịu ám chỉ điều gì? 3) Bình an Đức Giêsu ban khác với bình an của thế gian thế nào? 4) Tại sao Đức Giêsu lại đến đem sự chia rẽ cho các gia đình thay vì đem bình an?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49).
- CÂU CHUYỆN:
Tại một giáo xứ kia, sắp đến ngày mừng ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của cha sở. Giáo dân trong xứ đã âm thầm mở một cuộc lạc quyên để có tiền tổ chức liên hoan và biếu cha tiền vé máy bay và các chi phí khác cho một tháng nghỉ hè sắp tới của cha. Biết được ý định của giáo dân, cha sở đã phát biểu như sau: “Anh chị em thân mến. Tôi biết anh chị em lúc nào cũng quảng đại đối với tôi. Anh chị em đã dâng cúng tiền của để chi phí các khỏan sinh hoạt cho nhà thờ và cho tôi. Hiện nay tôi biết anh chị em đang quyên góp để cho tôi phương tiện đi nghỉ hè nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của tôi. Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị em. Nhân dịp này tôi xin chia sẻ với anh chị em nguyện ước tha thiết nhất trong cuộc đời linh mục của tôi là: làm thế nào để đưa được nhiều người về làm con Thiên Chúa; Làm thế nào để những anh chị em công giáo siêng năng đến nhà thờ tham dự các thánh lễ Chúa nhật. Vậy nguyện vọng của tôi nhân dịp mừng ngân khánh linh mục không phải là tiền bạc vật chất, nhưng là làm sao có được 25 người quay về với Chúa. Cộng đoàn giáo xứ hiểu ý cha sở, nên trong ngày mừng ngân khánh linh mục của cha, họ đã chọn 25 người có quá khứ tội lỗi để xếp vào đòan dâng lễ vật hôm ấy. Những người này mặc quần áo trắng khi lên dâng lễ trên bàn thờ. Trong phần Lời nguyện Cộng đoàn, họ cũng nêu lên quyết tâm sẽ đi theo Chúa tới cùng và xin Chúa giúp họ từ bỏ những thói hư tật xấu như rượu chè, bài bạc…
- SUY NIỆM:
Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ vụ ban ơn cứu độ cho loài người. Tin mừng hôm nay cho thấy: Để thi hành sứ vụ Thiên Sai ấy, Người luôn thao thức theo ơn soi dẫn của Thánh Thần và vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người cũng muốn các môn đệ là các tín hữu chúng ta hôm nay tích cực cộng tác trong sứ vụ cứu độ này.
1) SỨ VỤ CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC GIÊSU:
Đức Giêsu đem Lửa xuống trần gian và ước mong cho ngọn Lửa đó bùng cháy lên trong lòng mọi người. Thao thức của Đức Giêsu là mong sớm hoàn tất công cuộc tử nạn và phục sinh theo ý Chúa Cha để cứu độ lòai người được diễn ta bằng hình ảnh phép Rửa.
-Thầy đã đến ném Lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49):
Lửa do Đức Giêsu ném vào mặt đất là gì?
Là Lửa Thánh Linh được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai vào lễ Ngũ Tuần để gia tăng sức mạnh giúp Hội Thánh vượt qua nỗi sợ hãi và can đảm làm chứng cho Chúa, hăng say loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian (x Cv 2,1-13).
Là Lửa Tin Yêu được Đức Giêsu mang vào thế giới tội lỗi, hận thù, giết hại lẫn nhau…, để làm bùng cháy lên tình thương “tứ hải giai huynh đệ”- bốn bể đều là anh em một nhà, hầu cho mọi người biết yêu thương nhau và tạo hạnh phúc cho nhau.
Đức Giêsu ước mong cho ngọn Lửa cứu độ ấy bùng cháy lên để thế giới sớm biến thành “Trời Mới Đất Mới” như sách Khải Huyền đã diễn tả như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa…Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ: Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì nghĩa là ững điều cũ đã biến mất” (Cv 21,1.4). Khi ấy mọi dân nước đều nghĩa là ận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha và sống chan hòa hạnh phúc với nhau trong đại gia đình có “Thiên Chúa là Tinh Yêu” ngự trị (1 Ga 4,8).
– Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”:
Phép Rửa dìm mình trong nước thanh tẩy la hình ảnh diễn tả mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Người luôn vâng theo ý Chúa Cha là cứu chuộc nhân loại ba8fng con đường « qua đau khổ vào vinh quang » như ba lần Người đã tiên báo với các môn đệ (x Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19).
Về sau, thanh Phao-lô Tông đồ cũng diễn tả ý nghĩa mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu hàm chứa trong nghi thức phép Rửa dìm mình trong nước của các tín hữu như sau: « Anh em không biết rằng: Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại» (Rm 5,3-5).
Đức Giêsu được Chúa Cha trao sứ vụ cứu chuộc tội lỗi nhân loại băng con đường « Qua đau khổ vào trong vinh quang » như Người đã chia sẻ với hai môn đệ làng Em-mau để động viên họ: « Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? » (Lc 24,26). Trong suốt cuộc đời Đức Giêsu luôn thao thức và mong sớm hoàn tất công trình cứu độ tử nạn và phục sinh ấy theo thánh ý Chúa Cha.
2) NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỐI VỚI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY:
– Chúng ta phải làm gì để cộng tác với Đức Giêsu làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi bản thân, gia đình và môi trường sống?:
Ngoài việc năng cầu xin Thánh Linh đổ ơn xuống đầy lòng chúng ta khi cầu nguyện, mỗi tín hữu chúng ta còn phải năng học sông Lời Chúa trong các buổi sinh hoạt hằng tuần noi gương Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai. Nhờ đó chúng ta sẽ được gia tăng đức tin để dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu khi dự lễ và rước lễ, nghĩa là ất là sẽ nhiệt thành giới thiệu Chúa cho tha nhân, noi gương hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa Phục Sinh (x Lc 24,13-35). Các thánh Tông đồ và những môn đệ tiên khởi đã làm cho lửa tin yêu bùng lên tại những miền đất xa lạ mà các ngài đặt chân đến. Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tin yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa chưa đủ mạnh”.
– Đức Giêsu đã ném lửa vào mặt đất và Người hằng mong ước lửa ấy bùng lên: Nhưng làm sao lửa tin yêu ấy bùng lên nếu không được các tín hữu chúng ta khơi lên? Chính Đức Giêsu xưa đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và đã sai các môn đệ ra đi loan báo tin mừng khắp thế gian (Mt 28,19; Mc 16,15), thì nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng Tình Thương, tích cực góp phần với các người thiện chí để xua tan bóng tối văn hóa sự chết là nghĩa là ững bất công hận thù, nghèo đói, tội ác… bằng cách gieo vãi ánh sáng văn hóa sự sống là lối sống yêu thương khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
– Sứ vụ của các tín hữu chúng ta là phải cộng tác với Chúa Ki-tô, giúp cho nỗi khắc khoải cứu độ của Người được sớm thành hiện thực như mẹ Tê-rê-sa can-quýt-ta đã luôn cộng tác với Chúa và cầu xin Chúa giúp như sau: “Lạy Chúa Giêsu thương mến. Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy làm tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.”
- CÂU HỎI:
- Thế giới hiện còn nhiều bóng tối của ma quỷ. Vậy tâm hồn bạn hiện đang ở trong bóng tối ganh ghét hay ánh sáng tình thương?
- Bạn sẽ làm gì để đẩy lùi bóng tối của ma quỷ là văn hóa sự chết như: tội lỗi, bạo lực, đam mê… và các tệ nạn xã hội ra khỏi môi trường sống là gia đình, khu xóm và nơi làm việc?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giúp chúng con tỏa hương thơm tình thương đến mọi nơi mà Chúa sai chúng con tới. Xin hãy đổ đầy tâm hồn chúng con bằng ngọn Lửa của Thánh Linh. Xin Chúa hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trước mặt người đời, qua thái độ và hành động đầy tình người của chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được sự hiện diện của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa, không những bằng lời nói, nhưng còn bằng hành động chứng tá, bằng trái tim đầy tình yêu thương của Chúa.
– LẠY CHÚA GIÊSU. Lời Chúa hôm nay đòi chúng con phải chọn lựa dứt khoát. Xin cho chúng con biết chọn theo Chúa, sẵn sàng tuyên chiến với các đam mê tội lỗi. Như hạt lúa cần phải bị mục nát đi, mới có thể mọc lên thành cây lúa. Như bác nông dân cần phải chịu vất vả một nắng hai sương nơi đồng lúa, mới có thể có được một mùa gặt bội thu. Xin Chúa cho chúng con sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ có thể phát sinh nhiều hoa trái bác ái giữa gia đình và hoa trái đức tin nơi nhiều người chưa nghĩa là ận biết Chúa.
X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
63. Bình an chỉ có khi sự thật lên ngôi
(Suy niệm của Giuse Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 12:49-53: Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.
Nếu Tin Mừng Chúa Nhật 18, Đức Giêsu kêu gọi hãy dùng tiền của bất chính để mua lấy Nước Trời để được hạnh phúc thật, và Chúa Nhật 19, Ngài nhấn mạnh đến thái độ “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón chờ Chúa đến trong ngày Quang Lâm…, thì Chúa Nhật 20 này, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài, khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
Phần I, Đức Giêsu muốn nói đến sứ mạng Thiên Sai của Ngài;
Phần II, Ngài tiên báo về những hệ lụy do sứ mạng của Mình mang lại.
- Sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu
Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Ngài đến để cứu độ con người, nhưng Ngài cứu độ không bằng quyền bính, mà bằng chính cái chết của mình để cứu độ nhân loại. Thật thế, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về sứ mạng của Mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Phép rửa mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự thương khó và cái chết của Ngài. Đồng thời những ai muốn bước theo Ngài thì cũng phải đón nhận phép rửa như Ngài đã chịu, tức là từ bỏ ý riêng, để vâng theo ý Chúa, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận cả cái chết để sống và làm chứng về những giá trị Tin Mừng.
Phép rửa và sứ mạng ấy, Đức Giêsu mong muốn cho mau đến: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên” Ngọn “Lửa” ấy chính là Chúa Thánh Thần. Người đến để thanh luyện những tâm hồn sỏi đá, phân biệt sự thật và giả dối, Người đến còn là để xét xử trần gian.
Ngọn “Lửa” ấy cũng chính là ngọn “Lửa” của Tình yêu, Sự Thật, Công Bình.
Như vậy Đức Giêsu ao ước cho “Lửa” ấy bùng cháy lên để biến đổi trái đất này thành Trời mới Đất mới, những tâm hồn trai cứng thành mềm dẻo, biết yêu thương nhau, nâng đỡ và đồng hành với nhau để làm chứng cho Chúa trong sự thật, để yêu thương anh chị em như anh em một nhà.
Làm được điều đó là chúng ta đã đi vào trong quỹ đạo của Thiên Chúa, một quỹ đạo của sự thật, yêu thương, bình an và hoan lạc.
Nhưng để đạt được điều đó thật không dễ, bởi vì nó đòi hỏi ta phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh, thử thách, đau thương; phải chấp nhận hủy mình ra không để thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chấp nhận hủy diệt bản thân mình như hạt lúa gieo vào lòng đất, tức là chấp nhận cái chết: chết đi cho con người cũ là con người tội lỗi, để thay vào đó là một con người mới, tâm hồn mới và thái độ mới theo hình ảnh của Đức Kitô.
- Những hệ lụy của đời chứng nhân
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của người môn đệ, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Tức là mâu thuẫn với chính Đức Giêsu, bởi vì Ngài được mệnh danh là “Hoàng Tử Hòa Bình”, hơn nữa, Ngài đến để đem bình an cho nhân loại! Ấy vậy mà hôm nay, Ngài lại bảo: tôi đến để đem chia rẽ? Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: con đường bình an của Ngài là con đường hy sinh, của từ bỏ; con đường của sự chết vì chân lý. Và, muốn có được bình an thì phải đi trên con đường đó, để làm chứng cho sự thật, bảo vệ cho công lý, và xây dựng hòa bình. Chính Đức Giêsu cũng chỉ vì sự thật mà phải chết. Ngài không bị kết án vì đã dạy cho con người sống tốt; Ngài cũng không bị kết án vì đã làm ơn cho kẻ khác; nhưng Ngài bị kết án chỉ vì dám nói, sống và làm chứng về sự thật.
Như vậy, bình an của Chúa chỉ có thể đến được với những người có tâm hồn thật thà, ngay thẳng, biết lắng nghe, và thực hành Lời Chúa. Bình an của Đức Giêsu không phải là một thứ bình an theo kiểu người đời trao tặng cho nhau, cũng không phải là một thứ bình an làm cho con người ngủ mê… Nhưng bình an của Đức Giêsu đem đến cho nhân loại chính là thứ bình an chỉ có được qua hy sinh, được tôi luyện bằng những thử thách, và được lớn lên trong khuôn khổ thập giá.
Quả thật, hôm nay, lời của Đức Giêsu như là một lời tiên tri cho chính Ngài và sứ vụ của các môn đệ: sẽ có nhiều người chống đối vì họ không thể chấp nhận và thay đổi. Họ không muốn sống theo sự thật. Vì thế, ngay trong gia đình cũng luôn xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng vì có người theo và có người không theo; sẽ xảy ra những sự chia rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn dạy rằng: bình an chỉ có thể có khi sự thật, công lý được lên ngôi.
- Bình an chỉ có được khi sự thật được tôn trọng
Tuy nhiên, trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không dám nói lên sự thật chỉ vì chúng ta sợ mất lòng và bị người ta ghét bỏ. Hơn nữa, có khi chúng ta lại còn đứng về phía bất công để kết án những người lương thiện chỉ vì họ sống thật thà với một lương tâm ngay thẳng.
Trong buôn bán, có nhiều kẻ ghét những người buôn bán thật thà; người hay nói dối (nổ) thì lại ghét những người nói thật…trong gia đình, những đứa con hay nịnh bợ thì lại được cha mẹ yêu hơn, còn những đứa con thật thà thì lại không được yêu…
Nhưng là Kitô hữu, chúng ta muốn được bình an thực sự của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác, đó là con đường thập giá, con đường của chính Đức Giêsu đã đi. Khi đứng về phía sự thật, là chúng ta chấp nhận những hệ lụy như chính Đức Giêsu đã chịu. Hậu quả đó có thể do ghen tức, trục lợi, hoặc chỉ vì dám nói lên những điều ngay thẳng… Đọc chuyện các thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ điều này: có những đấng bị chính con cái tố cáo, bỏ tù chỉ vì ghen ghét; có những đấng bị bắt chỉ vì người nhà, bạn bè, học trò ham tiền, trục lợi… Khi bị bắt rồi, các ngài không chịu nói dối để được tha, thậm chí còn nhân cơ hội ấy để nói và làm chứng cho vua chúa quan quyền thời bấy giờ về sự thật, thế nên các ngài đã phải đón nhận cái chết như một sự trả lẽ cho sự thật.
Như vậy, muốn có hòa bình thực sự là khi và chỉ khi chúng ta đã quyết liệt chiến đấu để lựa chọn. Hòa bình chỉ có được khi nó thực sự tách biệt khỏi gian dối, hận thù và ghen tương; tách bóng tối ra khỏi ánh sáng nhờ ngọn “Lửa” của Chúa Thánh Thần mà Đức Giêsu đã ban xuống cho nhân loại.
Mong sao, tâm tư của Đức Giêsu sớm được thực hiện trên trần gian này: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con hiểu rằng: muốn có được bình an đích thực là chúng con phải từ bỏ con đường tội lỗi, hận thù và ghen ghét; đồng thời phải can đảm sống và làm chứng cho sự thật, một sự thật toàn vẹn. Ước gì ngọn lửa của tình yêu, sự thật và lòng mến thiêu đốt tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con được bình an và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu. Amen.
64. Khi vui muốn khóc – Đỗ Lực, OP
(Lc 12:49-53)
Trong ngôn ngữ Việt nam, đôi khi có những tiếng ghép gợi lên thực tại không ổn. Ví dụ: tức cười, buồn cười, nực cười v.v. Trong thực tế, cũng có “khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.” Hằng ngày, sau khi nghe tin tức, nhiều khi chúng ta không thấy tức … mình một tí nào. Dĩ nhiên, chữ tức ở đây không vô nghĩa, nhưng dễ gợi lên một thứ tình cảm không vui. Còn những chữ Tin Mừng, Tin Vui, Tin Lành chắc chắn đem lại phấn khởi cho con người. Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng, nhưng tại sao hôm nay Người mang lại một tin không vui? Có gì bất ổn trong lời Chúa không?
SỰ THẬT MẤT LÒNG
Thoạt nhìn, không ai thấy lời Chúa hôm nay là một tin mừng. Chúa tự cho mình có sứ mệnh đem đến nhân loại những hình ảnh và thực tại ghê sợ như lửa, chia rẽ, chống đối v.v. Những hình ảnh này có thể xóa tan tất cả những nét tươi đẹp, lý tưởng về Chúa. Đúng hơn, nghe những lời đó, nhiều người có thể không tin vào sứ mệnh hòa bình và hòa giải của Chúa nữa.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, dù có làm mất lòng nhiều người. Không gì khó hơn trực diện với sự thật. Đó là một thách đố lớn nhất. Nhiều khi chúng ta tự hỏi: Làm sao biết cái gì là thật? Đi đâu để tìm ra sự thật? Sự thật có tìm được ở nơi con người không hay phải tìm ở một nơi nào cao hơn con người? Rõ ràng phải vất vả phấn đấu mới tìm ra sự thật, chứ không dễ dàng như ta tưởng. Khuynh hướng chung ai cũng thích hào nhoáng. Thực tế có rất nhiều cản trở trên bước đường tìm kiếm sự thật. Có lẽ cản trở lớn nhất là sự sợ hãi. Chúng ta sợ sự thật vì sự thật đặt chúng ta trước giới hạn của mình, trước những thực tại dù chúng ta có ưa thích hay không.
Nhưng nhiều lần Chúa lên tiếng trong Kinh thánh: “Đừng sợ!” Tại sao Thiên Chúa lập lại nhiều lần câu nói ngắn ngủi đó, nếu không có một cái gì làm cho chúng ta run sợ? Thiết tưởng không gì run sợ hơn khi nhìn vào sự thật. Nhưng chúng ta cần dành một chút thời gian để chiêm nghiệm qua đoạn Tin Mừng hôm nay tất cả năng lực nơi Thiên Chúa, tỏ bày nơi con người Đức Giêsu. Có gì mạnh bằng lửa? Vậy mà chính Chúa đã vẽ ra một hình ảnh thật oai hùng: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49) Một con người nói lên một tiếng nói mạnh mẽ đó, chắc chắn phải có một đam mê và ước vọng lớn mạnh khủng khiếp. Đam mê mãnh liệt đến nỗi Người có thể vượt qua mọi đối kháng tự nhiên của con người.
Phải có một đam mê lớn mạnh như Chúa mới không sợ hãi sự thật. Khi nhập thể, Chúa đi vào thế giới đầy dẫy sự dối trá, tăm tối và ô uế. Bởi đấy, Chúa muốn ném lửa vào trần gian để thiêu đốt tất cả. Ở đây, lửa tượng trưng đường lối sự thật đang hoạt động trong cuộc sống con người. Tất cả những gì không phải là sự thật đều bị đốt cháy. Nếu dùng lửa như phương tiện thanh tẩy, Chúa Giêsu ước mong giải thoát con người khỏi mọi ảo tưởng, tất cả những sự thật nửa vời, mọi thực tại không thật. Chúa biết rất khó thực hiện được điều đó. Chính Người đã đi qua tiến trình đó một cách bí nhiệm.
Thiết tưởng hôm nay Lời Chúa cho chúng ta thấy một sự thật: rất khó làm cho người khác tiếp cận sự thật. Nhưng càng suy nghĩ, càng thấy đối diện với sự thật trong ta mới khó gấp bội! Chúa Giêsu và ngôn sứ Giêrêmia từng là nạn nhân thời cuộc khi bắt đồng loại phải đối diện với sự thật. Nhưng không có sự thật, làm sao con người có thể được giải thoát và sống hạnh phúc? Bởi đấy, thánh Phaolô khuyên chúng ta phải cố gắng sẵn sàng đón nhận sự thật và đem sự thật đến với tha nhân. Chúng ta có một gương mẫu tuyệt vời là Đức Giêsu Kitô. Người chịu đựng tất cả, đến nỗi chịu đóng đinh và đâm thấu trái tim, để đem sự thật đến cho quần chúng. Bởi đó, Chúa mới nói: “Thày còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thày khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Chúa Giêsu muốn trần gian trải qua một cuộc thanh tẩy. Thanh tẩy ví như lửa. Tuy nhiên, thanh tẩy là một cuộc tái sinh mới. Tất cả sẽ hoàn toàn lột xác.
LỘT XÁC HOÀN TOÀN
Cuộc lột xác sẽ gây đau đớn và ảnh hưởng sâu xa đến những tương quan sâu xa và thân mật nhất trong gia đình như cha mẹ và các người phối ngẫu. Khi đột nhập vào trong những hệ thống gia đình, chân lý làm cho mọi người bất ổn. Sẽ có cuộc phân rẽ lớn giữa những người tin và không tin. Thật là một cuộc chuyển mình đau đớn. Những người chấp nhận chân lý sẽ bị chính những người thân chống đối. Chính chân lý bị tấn công và phủ nhận. “Lời công bố Nước Trời của Đức Giêsu là một ngọn lửa tinh luyện và thanh tẩy. Khi được chấp nhận hay bị chối từ, sứ điệp của Chúa sẽ là nguồn phát sinh đối kháng và bất đồng, ngay cả trong gia đình.” (1) Lợi dụng những xung đột trong gia đình, Chúa vừa khéo léo đi sâu vào những tương quan sâu kín hơn trong nội tâm con người, vừa vươn rộng tới các sinh hoạt phức tạp ngoài xã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
Những ai đón nhận chân lý, sẽ trải qua một cơn biến đổi lớn lao. Đức Kitô đem lại sự hiệp nhất, duy nhất và toàn vẹn. Điểm quy tụ là chính Đức Kitô. Sống trong chân lý là Đức Kitô, mọi người sẽ cảm thấy bình an chan hòa trong tâm hồn và cuộc đời. Thực vậy, Đức Giêsu đem cả quyền lực Thiên Chúa vào trần gian để xua đuổi ma quỷ và giải thoát nhân loại khỏi gông cùm Satan. Cả cuộc sống Người cho thấy ý nghĩa việc giải thoát hoàn toàn khỏi những hệ thống giá trị man trá của vương quốc Satan mà quy phục vương quốc Thiên Chúa – không phải như quy phục một ông vua đầy quyền lực, nhưng như một người cha đầy lòng yêu thương.
Nếu lắng nghe Lời Chúa trong niềm tin, chúng ta sẽ thấy rõ hệ thống những giá trị chúng ta đang sống trong thực tế. Mặc dù là thành phần Giáo hội, tôi có còn sống trong vòng nô lệ những hệ thống giả tạo của một thế giới hư mất không? Làm sao xác định ý nghĩa đời tôi? Làm sao xác định ý nghĩa của thành công?
Đức Giêsu Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Người thúc đẩy chúng ta làm cho Triều Đại Thiên Chúa thành hiện thực trong ta. Dù thực tại đó có làm mất đi những gì quý báu nhất, chúng ta vẫn có thể dấn thân vào những hoàn cảnh áp bức với Đức Giêsu, Đấng đầy cảm thông và quyền lực chữa lành. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, đôi khi chúng ta cũng có thể là những phương tiện đem lại sự giải thoát và niềm hy vọng cho những người đang sống trong vòng nô lệ. Tất cả sức mạnh đều bắt nguồn niềm tin vào quyền năng Đấng Thiên Sai. Người là ngọn lửa hồng thiêu đốt và soi sáng khắp trần gian.
SỰ THẬT VÀ QUYỀN LỰC
Có thể có đầy đủ quyền bính trong tay, nhưng vẫn sợ đối diện với sự thật. Bởi đấy, trong chính trường, có mấy chính trị gia dám nói thật và nói hết cho người dân? Đó là chưa kể nhiều chế độ còn xây dựng trên sự dối trá mới có thể bền vững và bảo vệ quyền bính. Ngày nay, nhiều người còn nhìn sự thật như một đe dọa cho nền dân chủ, cho bản chất và ước vọng con người chúng ta.
Người ta có thể không sợ nhà tù, bom đạn, nhưng vẫn sợ sự thật. Sự thật có một quyền lực đáng sợ nhất đối với những chế độ sống dựa trên sự dối trá. Chẳng hạn, mỗi lần bị tố cáo vi phạm nhân quyền, các chính quyền cộng sản làm gì? Trước hết, bộ ngoại giao lên tiếng phủ nhận hoàn toàn và nhấn mạnh “không ai bị tù tội vì nhân quyền, chỉ có những tội phạm hình sự.” Người ta đã dùng một thứ trò chơi chữ nghĩa hay hình sự hóa để trù dập và sát hại con người. Có khi là giọng triết lý rẻ tiền như “mỗi dân tộc có một quan niệm về nhân quyền khác nhau.” hay sặc mùi tuyên truyền như “nước ta có tự do, nhân quyền gấp ngàn lần,” Bàn tay sắt máu, nhưng miệng vẫn hô hào nhân đạo và triết lý “cùn” về ý nghĩa cuộc đời là yêu thương. Ngôn ngữ đang đi vào trò chơi “đĩ thõa” để bao vây và khỏa lấp chân lý. Tiền thuế của dân đã được dùng vào việc ngăn chặn sự thật. Biết bao phương tiện và nhân sự đã bị vận dụng vào công cuộc bao che chế độ. Càng bao che, càng để lộ chân tướng. Đúng như Oscar Wilde nói: “Hãy cho hắn cái mặt nạ, rồi hắn sẽ nói cho bạn biết sự thật.”
Nếu chân lý không phải là một sức mạnh, tại sao cơ quan quyền lực phải run sợ? Sở dĩ chân lý là sức mạnh áp đảo cả quyền lực tối cao trong đất nước, vì “sự thật sẽ giải thoát các ông.” (Ga 8:32) Càng che dấu sự thật, càng chứng tỏ mình là gông cùm xiềng xích dân tộc trong vòng nô lệ. Xuyên tạc và che dấu sự thật là những hoạt động cần thiết cho sự sống còn của một chế độ độc tài. Điều này ai cũng hiểu.
Nhưng không hiểu tại sao có những người không thuộc cơ quan công quyền vẫn không dám nói sự thật và còn tìm cách “xếp lại vụ việc” để bao che cho nhà nước? Trước cảnh nhà nước vi phạm nhân quyền, nhất là tự do tôn giáo, trong khi TGM Hà Nội đòi “xếp lại hồ sơ,” thì ĐHY Phạm Minh Mẫn lại muốn “mở toang hồ sơ” vạch trần hiện trạng xã hội: “Một số hậu quả tiêu cực xuất hiện rõ nét trong gia đình và xã hội, như – làn sóng di dân nhiều triệu người từ nông thôn lên thành thị, – sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rộng lớn, – sự suy thoái đạo đức ngày càng trầm trọng, – cộng thêm sự phát sinh ra nhiều loại tệ nạn xã hội (ăn gian, lừa dối, tham nhũng, bạo lực trong gia đình, phá thai, ly dị, mại dâm, buôn người, ma túy, dịch HIV/AIDS). Dù có những biện pháp tích cực chữa trị, những tiêu cực đó cùng dịch HIV/AIDS tiếp tục lan rộng trên cả nước.” (2) “Tất cả những hiện tượng trên tạo ra những đường nét cong queo, méo mó, hụt hẫng, dị dạng tô điểm cho một bức tranh xã hội mà một nhà văn châm biếm mô tả cách cường điệu như sau:
Ngày nay nhân phẩm xuống giá rồi, Chỉ có thực phẩm lên giá thôi,
Lương tâm giá bèo hơn lương thực, Chân lý chân giò một giá thôi.” (3)
Một mình nhà nước có cứu nổi dân tộc thoát khỏi cơn đầy đọa đó không? Tại sao càng ngày càng bế tắc và bất lực trước những vấn đề quá lớn lao trong xã hội? Nguyên nhân vì “những lý do lịch sử cũng như do quan điểm và định kiến, Nhà Nước trong những thập niên qua, có thái độ khá tiêu cực đối với các tôn giáo. Do đó các tôn giáo đều gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong các sinh hoạt của mình. Từ khi VN mở ra với thế giới và chuyển sang kinh tế thị trường, tình hình dần dần được cải thiện. Trước kia, các tổ chức tôn giáo bị coi như một thế lực chống phá Nhà Nước, dần dần được nhìn nhận như một sức mạnh tinh thần góp phần xây dựng và phát triển đất nước, thăng tiến đời sống gia đình, xã hội và cộng đồng dân tộc. Dầu vậy, hiện nay các tổ chức tôn giáo vẫn còn phải chịu một số hạn chế và bất công.” (4)
Trên tầm mức quốc tế, ĐGH Bênêđictô XVI cũng mạnh mẽ tố cáo: “Trong thế kỷ 20 quyền lực của con rồng hiện thân nơi các chế độ toàn trị Quốc xã và Cộng sản đã đe dọa xóa bỏ đức tin Kitô giáo. Bất chấp những chiến dịch tàn bạo các chế độ đó tung ra chống phá tôn giáo, tình yêu chứng tỏ đã mạnh mẽ thắng vượt hận thù.” (5)
Dĩ nhiên tôn giáo không phải là tất cả. Một mình tôn giáo cũng không thể giải quyết mọi vấn đề. Nhưng hiện nay tại Việt nam, tôn giáo là lực lượng duy nhất có thể có tiếng nói mạnh. Nhưng ngay trong tôn giáo và ngoài xã hội, nếu không có tự do ngôn luận, sự thật không bao giờ có thể xuất hiện để giải thoát con người. Chính vì thấy rõ sức mạnh đó của sự thật, mọi cơ quan truyền thông và luật pháp trong nước đã tìm cách bịt miệng, bịt tai, bịt mắt cả dân tộc. Dù cố tình bưng tai bịt mắt, nhà nước cũng không thể bình chân như vại trước tiếng gào thét của lương tâm và dân tộc.
“Ngày nay đồng bào và đồng loại nhiều nơi trên thế giới đang nóng lòng thấy Nhà Nước sớm khắc phục những bất công đối với các tổ chức tôn giáo cũng như nhiều thành phần khác trong cộng đồng dân tộc” để nhận ra “những giá trị tinh thần và đạo đức, như sự thật và công bằng, tình huynh đệ đại đồng và tình liên đới, lòng yêu thương bác ái xây dựng hoà bình và phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người” như những “nền tảng cho việc phát huy nhân quyền, cũng như cho công cuộc xây dựng và phát triển vững bền đất nước và cộng đồng dân tộc.” (6)
Hiện trạng và những lời thức tỉnh cho chính quyền là như thế. Còn giáo quyền thì sao? Cũng có những cảnh bịt miệng không kém gì chính quyền. Nhiều sự thật bị che dấu. Chính vì thế, trong Giáo hội, cũng vẫn chưa tìm thấy sự giải thoát, bình an và hiệp nhất. Điển hình nhất là vụ “Nghi Thức Thánh Lễ” vừa qua …
Cần sớm can đảm nhìn nhận sự thật, mới có thể cứu nguy dân tộc trước họa diệt vong. Bấy giờ lời ca “thuở ấy trong tôi bừng nắng hạ, Mặt trời chân lý chói qua tim” (7) mới thực sự có ý nghĩa và vang vọng khắp lòng dân tộc. Đã đến lúc phải “gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ,” (8) mới có thể đón nhận chân lý giải thoát toàn thể con người và cuộc đời.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy thiêu đốt chúng con trong ngọn lửa sự thật là Đức Kitô để chúng con có thể yêu mến Chúa và phục vụ anh em. Amen.
đỗ lực 19.08.2007
————————————————————
- The New American Bible 1991:1116.
- http://www.conggiaovietnam.net/LoiChuChan/
- http://www.conggiaovietnam.net/LoiChuChan/
- ibid.
- http://www.vietcatholic.net/News/Html/46465.htm
- http://www.conggiaovietnam.net/LoiChuChan/
- Tố Hữu
- Vũ Hoàng Chương Lửa Từ Bi 1963,