Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Is. 66,18-21; Dt. 12,5-7.11-13; Lc 13,22-30
Suy Niệm
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp. Cửa hẹp khi thi vào đại học. Cửa hẹp khi đi xin việc làm. Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều. Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa, thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp”(Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình, nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Để “người lớn”trở nên hồn hậu như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Đây thật là một cuộc chiến với chính mình. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa và đòi vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy. Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm… Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên: “Đây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”
Gợi Ý Chia Sẻ
– Bạn thấy để sống đời Kitô hữu xứng đáng, dễ hay khó? Có khi nào bạn thấy khó đến độ không thực hiện nổi không?
– Nước Thiên Chúa được ví như một bữa tiệc vui, trong đó có muôn người từ khắp nơi trên thế giới đến dự. Bạn có hình ảnh nào khác để gợi mở về Thiên Đàng không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng. Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa. Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trước thời Đức Giêsu độ 700 năm, vua Sennakêrit nước Assyrie (Iraq ngày nay) gửi sứ giả đem thư đến đe dọa vua Êzêkia nước Do Thái, nếu không đầu hàng, sẽ bị tiêu diệt như bao nhiêu nước khác. Sennakêrit nói với Êzêkia: “Ngươi đừng để Thiên Chúa của ngươi lừa dối ngươi rằng: Giêrusalem sẽ không bị phó nộp vào tay ta. Ngươi đã nghe tất cả thiên hạ đã bị tiêu diệt cùng với thần của chúng. Còn ngươi, ngươi thoát được khỏi tay ta ư?”
Vua Êzêkia đã đặt lá thư đe dọa đó trước mặt Thiên Chúa và cầu khẩn: Lạy Chúa, chỉ có mình Chúa là Thiên Chúa trên mọi nước trần gian, chính Người đã làm nên trời đất… Lạy Chúa, xin nghe những lời Sennakêrit mạ lị Chúa hằng sống … xin cứu chúng tôi khỏi tay nó, để mọi nước trên trần gian nhận biết chỉ mình Chúa là Thiên Chúa thật mà thôi” (2V. 19, 10-19. 35; xem thêm 18, 17-36)
Thế rồi Vua cùng toàn thể triều đình mặc áo nhặm, cầu nguyện, hãm mình và sai quan đến nhờ ngôn sứ Isaia cầu xin Chúa soi sáng. Isaia được Chúa cho biết: “Đừng sợ những lời lộng ngôn đó. Ta sẽ cho nó ngã gục, nó sẽ bị gươm đâm ở chính nhà nó” (2V. 19, 5-7). Khi Sennakêrit đem quân đến bao vây và xiết chặt Giêrusalem như “con chim bị nhốt trong lồng” và xẩy ra ban đêm, Thần sứ Chúa đến sát phạt 185.000 quân của Sennakêrit. Ông phải rút về Ninivê và đang thờ lạy tà thần trong nhà ông. Các con ông đã lấy gươm đâm ông chết (2V. 19, 35-36).
Thế là thành đô Giêrusalem và cả nước Giuda được cứu thoát. Hàng trăm câu chuyện lịch sử cứu thoát như thế đã được kể lại trong Kinh Thánh: Từ thời Noe đến thời Đức Giêsu. Noe được cứu thoát khỏi lụt đại hồng thủy. Abraham được cứu thoát khỏi thờ tà thần. Giuse tổ phụ được cứu thoát khỏi chết dưới giếng sâu, khỏi tù đầy, còn được làm tể tướng nước Ai Cập vĩ đại. Giacob và cả gia tộc được cứu thoát khỏi chết đói. Môsê và dân Israel được cứu thoát khỏi ách nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Đavid được Chúa cho chiến thắng quân Philitinh dũng mãnh và Đavid còn được cứu thoát khỏi cơn ghen tuông của Vua Saolê.
Trong mọi cơn nguy khốn, Israel đã được Thiên Chúa cứu thoát, và ngoài Thiên Chúa hằng sống ra, không còn Thiên Chúa nào khác có thể cứu thoát họ khỏi mọi tai họa, bệnh tật và nhất là sự chết. Những chuyện lịch sử về ơn cứu thoát của Thiên Chúa ban, giúp họ hiểu ơn cứu độ là gì?
Ơn cứu độ vừa là sự giải thoát khỏi mọi nguy khốn như chiến tranh, bệnh tật, thiên tai, nô lệ, đau khổ, sự chết, vừa là hồng ân hạnh phúc vinh quang muôn đời sau khi chết.
Vì thế, khi thấy Đức Giêsu rao giảng về ơn cứu độ, từ làng này qua thành khác, và thấy Người cứu chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, giải thoát kẻ bị quỷ ám, tha thứ cho kẻ có tội và cho kẻ chết sống lại. Người đã làm những việc cứu độ như Thiên Chúa đã làm xưa, nên “Có kẻ đến hỏi Người: Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy?”.
Đây là nỗi băn khoăn lo lắng, thắc mắc của bao nhiêu người, đặc biệt dân Do Thái thời đó. Chưa có ai giải đáp rõ ràng, chỉ có ba chủ trương hẹp hòi là:
Biệt phái cho rằng: Chỉ có người Do Thái mới được cứu độ. Phái khác Essêniên cho rằng: Chỉ có ai thuộc về phái họ mới được cứu độ. Một số khác tin chỉ có một số ít người còn sót lại mới được cứu độ, như kẻ hỏi Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này.
Để giải quyết những thắc mắc lo lắng về việc cứu độ con người, Đức Giêsu đã cho biết: “Tất cả các tổ phụ, các ngôn sứ được ở trong nước trời … và thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa”, như Bài đọc I, ngôn sứ Isaia đã loan báo biết: “Lời Chúa phán … Ta sẽ đến thâu họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, chúng sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta …”
Như vậy số người được cứu độ đông vô kể. Điều quan trọng đối với tôi và mỗi người chúng ta là phải làm gì để được ơn cứu độ. Đây chính là điều Đức Giêsu muốn nhấn mạnh cho mỗi người chúng ta. Muốn chắc chắn được vào nước trời, phải thực hiện hai điều này:
Một là “hãy phấn đấu qua cửa hẹp mà vào”. Thánh Phaolo giải thích trong Bài đọc II: cửa hẹp là những lời khuyên nhủ của Thiên Chúa. Ngài khuyên anh em như khuyên những người con: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy; chớ nản lòng, khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và nhận ai làm con, thì Người mới cho roi cho vọt”. Như vậy, cửa hẹp là những gian nan thử thách, dù gặp khổ cực đến đâu phải biết quyết tâm sống theo lời Chúa dạy. Phải chịu rèn luyện mới được gặt hái những hoa trái. Phải có công mài sắt mới có ngày nên kim. Phải chịu: “lửa thử vàng, gian nan thử đức”
Hai là hãy vào cho kịp thời: “Một khi chủ đã đứng dậy và khóa cửa lại mà anh còn đứng ngoài … thì chỉ còn ở đó, khóc lóc nghiến răng thôi”, mỗi người có một thời gian sống ở đời, không biết lúc nào chủ đến khóa cửa lại, Chúa đến chấm dứt đời sống mình. Cho nên luôn luôn phải cố gắng sống theo lời Chúa khuyên nhủ. Kẻ khô khan lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng, say sưa, ăn chơi, gian ác,nước đến chân nhảy không kịp nữa. Chúa sẽ bảo: “Hỡi quân gian ác, đi cho khuất mắt Ta”. Thật khủng khiếp! Lạy Chúa!
Có những người sau hết sẽ nên trước hết. Câu Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta biết giá trị của sự kiên trì như lời Chúa cũng đã bảo: Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát. Trong phạm vi xã hội người ta thường nói: Đầu xuôi đuôi lọt. Nhưng trên phạm vi cứu rỗi thì không như vậy, bởi vì kẻ gọi thì nhiều người chọn thì ít.
Lucifer trước kia là vị thiên thần mang ánh sáng, nhưng rồi đã hoá thành ma quỷ. Giuđa trước kia là một trong số 12 tông đồ Chúa, nhưng rồi đã trở thành kẻ phản bội. Chính vì thế thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta: Nhiều người chạy đua nhưng chỉ có một người lãnh được phần thưởng. Ai tưởng mình đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã. Và thánh Gregoriô đã nói: Dũng khí của việc thiện là sự bền tâm, vì thế hãy nắm giữ cho chắc kẻo nó bị tuột mất. Vậy tại sao chúng ta phải kiên trì và bền đỗ?
Lý do thứ nhất là vì bản tính con người vốn hay thay đổi, có mới nới cũ, đồng thời lại ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu bên ngoài ma quên mất mục đích tối hậu của mình.
Lý do thứ hai là vì thế gian cám dỗ. Kinh Thánh đã nói: Trần gian thì thuộc về ác thần, đầy dẫy những gương mu gương xấu và những dịp tội xô đẩy làm cho chúng ta vấp ngã. Trần gian thường đánh bóng và tô điểm lộng lẫy những thứ trái cấm, nào sách vở báo chí, nào phim ảnh tuồng kịch, nào truyền thanh truyền hình, nào thời trang và nghệ thuật. Càng là trái cấm thì lại càng quyến rũ mãnh liệt, cho nên nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ quay lưng chống lại Thiên Chúa lúc nào không hay biết.
Lý do thứ ba là vì ma quỷ ghen tương với hạnh phúc chúng ta, nó rình rập tìm mọi sơ hở để lôi kéo chúng ta vào vòng tội luỵ, để rồi cuối cùng cũng phải lãnh nhận hình phạt hoả ngục như nó. Có một câu danh ngôn nói rằng: Ma quỷ không bao giờ ngủ, nó không dại gì tấn công một kẻ đã thuộc về tay nó. Thánh Giêrôminô viết: Ma quỷ không tìm những người ngoài, nhưng hối hả xông vào những người thuộc về Giáo Hội. Những người con của Đức Kitô. Họ là như những miếng mồi ngon, những món ăn béo bở của nó.
Và sau cùng lý do thứ tư là vì bản tính của chúng ta thì yếu đuối có thể sai lỗi bất kỳ lúc nào. Để an ủi mình, chúng ta nghĩ đến trường hợp của Phaolô, của Madalena, của Phêrô, của người trộm lành. Nhưng ai dám bảo đảm rằng sau khi lầm đường lạc lối chúng ta chắc chắn sẽ quay trở lại. Ai dám chắc rằng mình sẽ đủ nghị lực, đủ ơn thánh để chỗi dậy và trở về cùng Chúa như đứa con hoang đàng. Hoả ngục chứa đầy những người trước tốt sau xấu.
Có một vị kia ở thành Sebaste, bị bắt và bị ngâm trong nước đông lạnh cùng với 39 đồng bạn khác. Nhưng rồi y đã chối bỏ đức tin để được ngâm trong nước ấm. Chính lúc đó thì y chết và mất hết mọi công nghiệp. Hơn nữa con người chúng ta thì dễ nản chí và chóng đầu hàng. Một lần thất bại sẽ làm cho chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa. Bao lâu còn sống trong thể xác, chúng ta còn có thể bị thua chước cám dỗ. Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi 7 lần huống là chúng ta. Cái khác biệt là sau mỗi lần sai lỗi họ đều biết chỗi dậy. Và những lần sai lỗi ấy là những dịp để họ tập khiêm nhường và gia tăng lòng mến Chúa. Tục ngữ đã bảo: nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ, hữu chí cánh thành, có công mài sắt… Trên phạm vi siêu nhiên Chúa cũng bảo: Ai bền đỗ đến cùng…
Phải chăng chỉ có một ít người được cứu thoát? Thắc mắc này hẳn đã xuất phát từ lời giảng dạy của Chúa Giêsu về những điều kiện và những thái độ phải có để được vào Nước Trời. Thế nhưng qua câu trả lời, chúng ta nhận thấy điều quan trọng đối với Chúa Giêsu và cũng là điều Ngài muốn nói với những kẻ đã nêu lên câu hỏi, đó là người ta phải cố gắng, phải chiến đấu mới mong được vào Nước Trời, bởi vì một mặt cửa vào Nước Trời thì nhỏ hẹp, mặt khác, thời gian dành để cho người ta vào Nước Trời thì vắn vỏi.
Trong cuộc chiến đấu để được vào Nước Trời sẽ không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay đúng hơn, có gốc gác tốt. Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắm đến những người Do Thái cứng lòng tin. Họ suy luận rằng: Tước hiệu dân riêng của Chúa, tước hiệu con cháu của Abraham, là một bảo đảm chắc chắn, là một tấm giấy ưu tiên để được vào Nước Trời. Thế nhưng tiên tri Isaia đã từng loan báo về cách xử sự của Thiên Chúa trong thời cứu chuộc, trong ngày phán xét: Ngài sẽ quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, Ngài sẽ dẫn đưa mọi người từ các dân nước mà đến. Sự phân biệt giữa người được vào bàn tiệc và kẻ ở ngoài, giữa người được ở trong bàn tiệc với Abraham, Isaac và Giacob, với kẻ bị đuổi ra chốn tối tăm, ở đó chỉ có khóc lóc và nghiến răng, giữa người được cứu chuộc và kẻ bị hư đi, lý do là ở chỗ họ có chiến đấu đủ và đúng thời đúng buổi để đi ngang qua khung cửa hẹp hay không?
Tất cả mọi người từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam đều được đặt trong một điều kiện bình đẳng để được vào Nước Trời. Chính trong điều kiện này mà người sau hết có thể trở nên trước hết và những kẻ trước hết có thể tụt xuống sau hết. Nhu chúng ta đã thấy, điều quan trọng Chúa muốn nói đến đó là phải qua cửa hẹp, thế nhưng qua cửa hẹp là gì?
Tôi xin thưa qua cử hẹp là thi hành ý Chúa, là từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa, là dám bán tất cả những gì mình có để làm phúc bố thí cho những kẻ nghèo túng, là liều mất mạng sống mình vì người khác. Nói tóm lại là đi con đường Chúa Giêsu đã đi.
Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước toà phán xét Ngài không hỏi chúng ta: Đã chịu phép Rửa tội chưa? Có phải là người công giáo hay không? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi đó là chúng ta có làm và sống như Chúa đã dạy hay chưa.
Ngày nay, nhiều người bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc cho những tư nhân để sử dụng vào việc khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc không còn đức tin trên cõi đời ô trọc này nữa.
Đừng quá bi quan như vậy, vì đó là việc của Chúa. Trái lại, hãy lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi trước đi.
Về vấn đề này, chúng ta ghi nhận hai thái cực. Thái cực thứ nhất của những người bi quan. Họ thường trình bày một Thiên Chúa nghiêm khắc, hay rình rập để bắt lỗi, rồi tống tất cả xuống hoả ngục. Tôi còn nhớ có một vị giảng thuyết đã bảo muốn biết tỷ lệ những người được lên thiên đàng là bao nhiêu, thì cứ thọc một ngón tay vào hũ gạo, hốt lên được bao nhiêu hột thì đó là số người được lên thiên đàng. Nếu làm theo kiểu này thì có lẽ kết quả sẽ là 100% bị xuống hoả ngục. Có vị còn bảo từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ, ngoài Đức Mẹ, thì chỉ có một người chắc chắn được lên thiên đàng, đó là ông thánh trộm lành, vì chỉ mình ông mới được nghe Chúa phán: Hôm nay ngươi sẽ được ở nơi vinh hiển cùng Ta. Hơn thế nữa, các bức tranh giáo lý thường vẽ đường lên thiên đàng thì nhỏ hẹp, chông gai, ít người dám lai vãng, nên vắng vẻ buồn tênh. Trong khi đó đường xuống hoả ngục thì thênh thang vui sướng, bao nhiêu người chen lấn, vừa đi vừa ăn uống, cười nói, ca hát, hôn hít. Nếu bây giờ nhìn vào bức tranh đó, dám có bạn trẻ sẽ bảo: Tới đâu hay tới đó, cứ vui đi đã, rồi hạ hồi phân giải.
Thái cực thứ hai của những người lạc quan. Họ bảo Thiên Chúa nhân từ và hay thương xót, chắc chắn Ngài sẽ không để cho bất kỳ một ai phải xuống hoả ngục, trái lại Ngài sẽ cứu chuộc tất cả. Là Đấng giàu tình thương, Ngài sẽ không để cho con cái Ngài phải hư mất. Là Đấng quyền năng, Ngài sẽ không để cho chương trình cứu độ của Ngài bị thất bại.
Thế nhưng cả hai lập trường thái quá trên đây đều sai, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nghĩa là có lý trí, có tự do, có tình yêu nên cũng có trách nhiệm về việc mình làm, chứ không phải như những hình nộm múa may quay cuồng theo sự giật dây được sắp đặt trước. Và khi con người vận dụng khả năng cộng tác vào ơn Chúa để thực hiện ơn cứu rỗi nơi mình, cũng chính là lúc con người sống theo lời chỉ dạy của Chúa, bước qua khung cửa hẹp để vào Nước Trời.
Trong chương trình cứu rỗi, Chúa để cho chúng ta được tự do. Khi chúng ta không chọn Chúa đó là lúc chúng ta tự kết án mình. Thiên đàng là đời sống trường cửu với Chúa, còn hoả ngục là đời sống mãi mãi xa lìa Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.
Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.
Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
- Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?
- Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
- Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?
7. Cửa nào Chúa đã đi qua – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
– Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:
– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.
– Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi
“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”(Lc 13,30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu”có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được cửa “hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp”thì phải hiểu là chỉ có những trẻ thơ mới được vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào”(Lc 18,17).
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến”(Lc 13,27).
Lạy Chúa, cửa hẹp thường rất khó vào, nên chẳng mấy người muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con mới tìm được Chúa.
Xin cho chúng con biết luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù phải bỏ lại những gì mình ưa thích, vì chỉ có Thiên Chúa mới là phần thưởng và là niềm hạnh phúc của chúng con. Amen.
8. Chiến đấu để vào cửa hẹp Nước Trời – Dã Quỳ
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mẹ Giáo Hội mở cho chúng ta những Cửa Thánh và luôn nhắc nhớ chúng ta hãy đến, bước qua Cửa Thánh, hành hương trong lòng thương xót vô tận của Thiên Chúa. Thế nhưng, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta về Cửa Hẹp. Vậy chúng ta cùng dừng lại để nghe Chúa dạy ta làm gì để có thể qua được Cửa Hẹp mà vào, và cánh cửa ấy như thế nào?
Cửa hẹp mà Chúa nói là Cửa vào trong Nước Thiên Chúa, là cửa của những người được cứu thoát từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Khung cửa ấy không để cho những ai cồng kềnh tham sân si vào. Cánh cửa ấy cũng không mở cho ai đó lo thỏa mãn dục vọng. Nhưng khung cửa hẹp chỉ dành cho những người biết chọn lựa cho mình một lối sống theo giới răn và tinh thần của Chúa Kitô. Và cánh cửa hẹp sẽ mở rộng cho người biết ép thân, hy sinh để sống công chính giữa cuộc đời đầy cạm bẫy, quyến rũ, mà không bị Chúa quở trách là “quân làm điều bất chính!” (Lc 13, 27)
“Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống.” (Mt 7,14). Thế nên, theo Chúa là chúng ta đi trên con đường dẫn đến hạnh phúc và sự sống. Dẫu rằng ta vẫn nghe Chúa nói “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”(Mc 8,34) Thập giá hằng ngày của cuộc sống, kẻ theo Chúa hay không theo Chúa đều phải vác. Nhưng những ai theo Chúa thì đón nhận thập giá mà vui và hạnh phúc vì có mục đích. Như người vận động viên, chịu khó, chịu đau khi tập luyện để mong đạt đến một phần thưởng, nên đau mà không khổ sở. Vậy ta vác thập giá theo Chúa thì nỗi đau ấy có một giá trị và sẽ giúp ta thoát cảnh khổ để được sống hạnh phúc, bình an và được hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
Muốn vào được cửa hẹp, ta phải chiến đấu. Chấp nhận đau đớn để giành lấy sự sống vĩnh cửu. Chiến đấu để được vào cửa hẹp chứ không phải miễn cưỡng hay bị ép buộc. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào.” Chúa muốn chúng ta hành động với sự cố gắng hết sức để được cứu độ chứ không nửa vời. “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” chỉ vì cái cách họ tìm vẫn là lười biếng, thích an nhàn, thoải mái…! Người Kitô hữu sống cùng và sống giữa một xã hội đầy gian tham, bất công, phân rẽ, sa đọa và hư nát…diễn ra hằng ngày trong mọi hoàn cảnh của đời thường, thì cuộc chiến đấu càng gay go và ta càng phải mạnh mẽ hơn, phải dấn thân và hiến thân hơn theo tinh thần và phong cách của Chúa Kitô.
Chiến đấu để qua được cửa hẹp nhưng cửa lòng ta cần phải rộng mở để yêu thương, phục vụ, chia sẻ và như thế, ta mới có tấm vé để vào cửa hẹp. Chúa Giêsu đã đến trần gian và mở cho chúng ta cánh cửa hẹp Nước Trời. Thời gian Chúa ban cho ta nơi trần gian là thời gian ân phúc, thuận tiện để ta nỗ lực bước vào Cửa Nước Trời. Chúa mong ta sống đức yêu thương cụ thể trong đời thường với những người ghen ghét, vu oan, làm hại… ta. Sống yêu như thế chẳng dễ chút nào nếu ta không chiến đấu với cái tôi ích kỷ và tự mãn! Thực thi việc lành phúc đức, bố thí trong kín đáo và khiêm nhường trái ngược với bản tính khoe khoang, thích biểu diễn cho người đời thấy! Ăn chay, cầu nguyện cách kín đáo và âm thầm cũng không đơn giản so với thói thường của ta hay giả hình, tỏ lộ ra bên ngoài cho mọi người khen ngợi. Không xét đoán, chẳng trả thù nhưng khoan dung, nhân từ như Cha chúng ta. Chẳng gian tham, lường gạt trong buôn bán làm ăn nhưng ngay thật, công bằng. Sống được những bài học mà Chúa Giêsu dạy, chắc chắn đòi chúng ta phải gồng mình chiến đấu với bản thân, với những cám dỗ. Phải cắt tỉa, kiêng kỵ, tập luyện như một tay đua để rồi ta sẽ giành được phần thưởng là sự sống đời đời.
Sẽ có một ngày thời hạn hết, cánh cửa đóng lại. Vậy ta cần phải quyết định nhanh chóng, không được chậm trễ. Ta hãy khôn ngoan để sống trọn vẹn ngày hôm nay như đó là ngày cuối cùng và cũng hãy chuẩn bị cho ngày hôm nay như là ngày ta đến trước Tòa Chúa. Vì khi hết kỳ hạn, đứng trước cửa, ta sẽ chẳng còn cơ hội, không làm gì cho bản thân được nữa. Chúng ta cũng đừng ỷ lại vào danh xưng hay vị trí ta có. Dù ta là Kitô hữu, nhưng nếu ta không sống công chính thì ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực. Hay dẫu ta có sống trong cộng đoàn giáo xứ, tham dự Thánh Lễ, Rước Lễ nhưng đời sống của ta chưa thực sự mến Chúa yêu người thì khi đến trước Chúa, ta sẽ bị xét xử về Tình Yêu. (x. Mt 25, 31-46) Thế nên, chúng ta cần thận trọng như lời thánh Phaolô nhắc: “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.”(1Cr 10,12)
Ơn cứu độ là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại. Qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã qui tụ muôn người thuộc mọi dân tộc để hưởng vinh quang với Chúa. Thế nhưng không phải tất cả mọi người muốn đều được cứu, mà chỉ những ai tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Chúa, chọn lựa đi trên con đường chật và cửa hẹp mới được cùng Người hưởng vinh quang. Chúa Giêsu đã chỉ cho ta phương cách và cũng là điều kiện để có thể vào Cửa Hẹp của Nước Trời là phải Chiến Đấu. Phải sống đạo chứ không chỉ giữ đạo. Yêu thương và Phục vụ là phẩm chất cần có của những ai đã hết mình chiến đấu trong chiến trường bản thân của chính mình và nơi chiến trận trần gian đầy cám dỗ hấp dẫn. Ước mong mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết bám chặt vào Chúa, cậy nhờ sức mạnh và ân sủng Chúa giúp, để có thể vững tâm chiến đấu, chiến thắng và nhẹ nhàng, khiêm nhu, thanh thoát bước vào dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ở cùng chúng con trong mọi trận chiến cuộc đời. Xin giúp sức để chúng con can trường đối diện với những thử thách và chiến đấu bước vào cửa hẹp mà Chúa đang mở chờ đón chúng con. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
ĐI QUA CỬA HẸP ĐẾN HẠNH PHÚC THÁNH THIỆN VÀ VÀO NƯỚC TRỜI MAI SAU
Tuần vừa qua tôi đọc trên trang mạng thấy một trường hợp rất đặc biệt là em Thùy Chi làm bài thi bằng miệng vì em dị tật bẩm sinh liệt tứ chi, phải đi lại bằng xe lăn, em ngồi đọc cho giám thị chép lại. Phòng thi của em chỉ có em với 3 giám thị: một giám thị đọc đề, một giám thị ngồi chép lại lời giải và một giám thị khác ngồi giám sát cả thí sinh và giám thị chép, cùng với 1 máy quay phim, 1 ghi âm để đảm bảo khách quan và công bằng cho thí sinh. Sau 10 tiếng làm bài, Thùy Chi được người ta đẩy ra khỏi phòng thi, em nở nụ cười thật tươi cho biết: “Em làm được bài, đề thi không khó, bài thi của em dài 8 trang. Hy vọng em sẽ đậu đại học vì em đã chiến đấu với bao nhiêu gian khổ em tin chắc sẽ chiến thắng”. Và thật sự sau đó em đã đổ vào đại học.
Vì cuộc sống mưu sinh, đòi hỏi chúng ta phải đi qua nhiều cửa hẹp: cửa hẹp hy sinh gian khổ học hành để thành nhân, thành thân; cửa hẹp buôn bán từng bát bún, từng ổ bánh mì, hay từng nắm sôi để có đồng tiền bát gạo nuôi thân và gia đình, cửa hẹp của mồ hôi lau công vất vả trên nương đồng để có mùa gặt bội thu; cửa hẹp của thức khuya dậy sớm để chăm sóc từng co gà, con heo, con cá mong có được của ăn của để… Vì vậy, nếu ta đi qua cửa hẹp trong đời sống vật chất, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng, hy sinh, vất vả, đồ mồ hôi sôi nước mắt và thậm chí đỗ máu nữa. Trong đời sống đức tin cũng vậy, phải qua cửa hẹp: cửa hẹp của việc thờ phượng Chúa ngày lễ Chúa nhật hay kinh sáng tối phải đúng giờ, đúng buổi không bê trễ hay của hẹp là sống trệt để cho Lời Chúa dù phải thiệt thân… Vì vậy, nếu trong đời sống đời thường và đời sống đức tin, chúng ta phấn đấu qua được những cửa hẹp ấy, chúng ta sẽ thành công, thành đạt, hạnh phúc bình an và thánh thiện, chính lúc ấy những hy sinh vất vả của chúng ta thật đáng quý, trân trọng, đáng khâm phục làm sao! Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), cửa hẹp ở đây là “cửa hẹp dẫn đến hạnh phúc và sự sống đích thực ở đời này và sự sống đời sau trong Nước Trời” (Mt 7,14).
Như thế, đường đưa đến hạnh phúc và vào Nước Trời hẳn không phải rộng thênh thang, tự do thỏa mái trong tội lỗi, mà là cửa hẹp phải chiến đấu tiêu diệt tội lỗi, tính ương lười bê trễ trong việc thờ phượng Chúa. Trên đường dương thế hôm có muôn ngàn khó khăn và cạm bẫy đang giăng lối, cho nên cả cuộc đời là Dân của Chúa ở dưới đất thấp này, chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: (thế gian, quỷ dữ, xác thịt). Vì vậy, chúng ta hãy cầm lấy vũ khí sự sáng là Lời Chúa để chiến đấu với chính mình mới là quan trọng. Vì chiến đấu với cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, tham danh lợi thú; của tự ái ích kỷ lo vun vén cá nhân mình mà không biết chia sẻ, phục vụ, yêu thương, cái tôi ương lười bê trễ trong việc tham dự thánh lễ Chúa nhật hay đọc kinh sáng tối. Chỉ vì những cái tôi cồng kềnh, nặng nề, phình to nên Cửa Trời trở nên hẹp, chúng ta không vào được là vậy.
Chúa Giêsu đã chiến đấu để được cái tôi khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nên Ngài là Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vì ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá để chiến thắng tử thần và mang lại sự sống vinh quang muôn đời cho chúng ta. Vì thế, LỜI Chúa trong bài đọc 2, thư gởi tín hữu Do thái dạy chúng ta rằng chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách, gặp những thương tích nhưng phải can trường vì Thiên Chúa vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài sửa dạy, bổ sức, nâng đỡ tất cả chúng ta chiến thắng như Chúa Giêsu, Con Một của Ngài. Vì vậy, Lời Chúa dạy: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
Chúng ta thường nghĩ rằng chiến đấu cho thể xác như kiêng ăn, uống để được lành bệnh hay hy sinh gian khổ như Em Thùy Chi dù thân xác bị tàn nhưng không phế nhờ em chiến đấu can trường với chính mình, em đã đi con đường hẹp là sự hy sinh khổ luyện để có được những vinh quang như lòng em mong muốn cũng dễ. Còn chiến đấu hy sinh, đi con đường hẹp cho Tin Mừng, Chúa thì khó lắm, nên chẳng mấy ai đi. Đồng ý đi qua cửa hẹp mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi khó thật, nhưng ông Nguyễn Bá Học nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, Còn Lời Chúa nói: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10,13). Vì vậy, chúng ta chỉ cần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được mọi sự lành, dù Ngài bảo chúng ta đi qua cửa hẹp, có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con của Ngài và được sống vĩnh hằng với Ngài. Chúng ta chỉ cần tin vào Lời Ngài và lấy Lời Ngài làm khí cụ để chiến đấu đi qua cửa hẹp và chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng vinh quang: đó là được bình an, hạnh phúc đích thực cho mình, gia đình và giáo xứ mình… ngay ở đời này và được vào Nước Trời mai sau.
Cuộc sống hôm nay có rất nhiều cám dỗ lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, nên dễ tránh đi con đường hẹp. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết nỗ lực đi con đường hẹp là là hy sinh, tham dự thánh lễ đúng giờ, siêng năng đọc kinh sáng tối, sống thánh thiện, yêu thương, phục vụ và sẻ chia với với ai đang đau khổ hầu ông Chủ là Thiên Chúa sẽ mở cửa Nước Trời đón chúng ta vào Nước Ngài mai sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thiên Chúa luôn mời gọi, nhưng con người vẫn từ chối. Ai chối từ sẽ mất mát, ai tiếp nhận tình yêu Chúa, người ấy sẽ hạnh phúc với Ngài. Điều này mọi tín hữu đều biết nhưng biết là một chuyện, mà làm là một chuyện khác.
Chúa Giêsu nhân cơ hội một người nêu lên thắc mắc, Ngài nhắc chúng ta phải làm thế nào để được cứu thoát. Câu hỏi này đậm nét truyền thống của các ông kinh sư cho rằng chỉ có một số ít người được cứu thoát mà thôi, những người giữ đúng luật.
Chúa Giêsu không nói rõ là ai sẽ được cứu mà gần như muốn ám chỉ mọi người đều có thể được cứu thoát với điều kiện là phải chiến đấu để qua được cửa hẹp.
Chúng ta thường hiểu những so sánh này theo nghĩa đen, vì thế chúng ta dễ hình dung một cánh cửa. Nhưng cửa ở đây phải hiểu theo một nghĩa rộng hơn, không là một nơi, không là một vật, có chiều kích dài rộng, nhưng là một người.
Cửa hẹp này chính là Chúa Giêsu: “Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu thoát. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Vào cửa hẹp tức là vào trong tình yêu của Ngài. Muốn thế, Ngài bảo chúng ta phải chiến đấu.
Tình yêu nào không phải chiến đấu?
Tình yêu của con người là một cuộc chiến cam go. Tình yêu là một chọn lựa và là một chọn lựa dứt khoát. Dấn thân mà không có tháo thân. Giữa nhiều người, tình yêu chỉ chọn một. Tình yêu cũng có rất nhiều kẻ thù. Phải loại trừ tất cả những gì không thích hợp với tình yêu: ích kỷ, vụ lợi, giận dữ, lười biếng… Cuộc chiến này cam go không khác gì những cuộc chiến trong những giải tranh tài. Nhiều người đã thất bại trong tình yêu vì không đủ can đảm chiến đấu. Vì thế “nhiều người muốn vào mà không vào được”.
Chúa cũng cho thấy rằng, sẽ có lúc “chủ nhà sẽ đứng dậy và khóa cửa lại” và chúng ta sẽ bị loại trừ. Chúng ta đến quá trễ.
Thời gian chúng ta đang sống là thời gian của lòng thương xót, Chúa mong chúng ta bước vào tình yêu của Ngài, Ngài vẫn đang chờ đợi. Nhiều người không biết, và nếu có biết cũng không màng để ý.
Giuđa đã theo Chúa mấy năm, đã từng được dạy dỗ, đã từng sống kề cận Chúa, nhưng anh vẫn chưa bước vào được cánh cửa tình yêu của Ngài. Chắc Giuđa cũng biết phải sống thế nào, nhưng anh đã yêu tiền hơn Chúa. Anh đã làm tôi mọi cho thế gian và đã gặt hái kết quả của sự tham lam.
Sẽ có một ngày, nhiều người sẽ kêu cửa một cách vô vọng, vì khi cửa mở họ không bước vào. Họ sẽ khẩn nài vô ích: “Chúng tôi đã ăn uống với Ngài, nhưng không yêu Ngài. Ngài đã từng giảng trên các đường phố của chúng tôi, mà chúng tôi không nghe”.
Chúa vẫn nhẫn nại đợi chờ. Chúa vẫn tha thiết mời gọi. Chúa đã làm bất cứ điều gì để cứu chúng ta. Phúc cho chúng ta khi chúng ta nghe tiếng Ngài. Chúa cũng cảnh báo chúng ta, những người đã được hồng ân đức tin: đừng tưởng rằng mình sẽ vào được hạnh phúc của Chúa mà không cần cố gắng. Phải chiến đấu, nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài. Con đường gian ác rộng thênh thang, và nhiều người đã ham thích con đường dễ dàng đó.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, đã từ vinh quang của Ngài đến mở cửa Nước Trời cho chúng ta. Ngài phải mướt mồ hôi máu, đau đớn quằn quại trên thập giá, chúng ta sẽ đi con đường nào khác?
Con đường của Ngài là “bỏ mình, vác thập giá”, chúng ta sẽ đi con đường hưởng thụ, gian ác để vào Nước Trời được sao?
Chúng ta có quyền chọn lựa. Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Chúa, chúng ta được tạo nên trong tự do. Ađam đã không biết sử dụng tự do của mình và đã sai lầm. Những người được Chúa mời gọi như Matthêu, Giakêu, Maria Mađalêna, Phaolô… họ vẫn có thể từ chối và họ đã không từ chối. Những người đó đã từ vực sâu vươn lên, là những người ở xa mà đã trở thành gần, trở thành công dân Nước Trời, người nhà của Thiên Chúa, đang lúc các kinh sư, luật sĩ lại chối từ.
Chúng ta thuộc hạng người đã chối từ chăng?
“Các ngươi chớ cứng lòng”. Chúa đã từng trách dân Do Thái qua các tiên tri: “Dân này thờ Ta ngoài môi ngoài miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng”. “Tình yêu của các ngươi như sương ban mai, mau tan mau biến…” Trong sách Khải Huyền, Chúa cũng nói: “Ngươi không nóng cũng không lạnh, hăm hẳm, Ta sẽ mửa ngươi ra…”
Đừng để quá trễ. Thời giờ thương xót vẫn còn, hãy mau mắn vào qua cửa hẹp. Cố gắng để không bị loại ra ngoài. Đừng quá tin vào tài khéo của mình, tưởng rằng thế gian này đủ cho chúng ta: “Thế gian này đang qua đi”, hãy bám vào Chúa là Đấng tồn tại và là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Người ta đổ máu để tranh nhau một chút phù hoa, nằm xuống vẫn tay không: “Dù lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì?”
Chúng ta nhìn thấy trước mắt chúng ta, bao nhiêu người giàu có mà không có một ngày yên vui. Những yến tiệc trần thế, những cuộc vui vật chất chỉ đem lại chán buồn, ngột ngạt. Nguồn vui ơi! Ngươi ở đâu?
Một thanh niên, con một đại gia Nhật. Cậu vừa tốt nghiệp đại học, là sự hãnh diện của cha mẹ, sẽ thay thế cha mình quản trị những xí nghiệp của ông. Cha cậu cho cậu đi du lịch khắp thế giới trong ba tháng. Chàng đi rất nhiều nơi trên thế giới, hưởng tất cả mọi thứ chàng thích. Lúc về nhà, cậu trở nên ít nói, trầm tư. Mẹ cậu tưởng rằng đi xa về mệt, cũng không hỏi han gì. Một ngày kia, không thấy cậu xuống dùng cơm. Chuông reo nhiều lần không thấy trả lời. Mọi người hoảng hốt chạy lên phòng. Bước vào phòng thấy cậu nằm trên giường, đầu cắm xuống đất, trong tay còn cầm một tờ giấy: “Xin giã từ cha mẹ và mọi người. Con chán sống, vì đời con chẳng có ý nghĩa gì cả. Vĩnh biệt!”
Một người khác. Ngôi sao sân khấu Ève Lavallìere. Vào thập niên 1930, cô đang ở đỉnh cao vinh quang. Đột nhiên cô khám phá ra Chúa Giêsu nhờ đọc “chuyện một tâm hồn của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Cô bỏ tất cả danh tiếng, tiền bạc, sống một đời sống khắc khổ ẩn dật cho đến chết, chỉ yêu một mình Chúa thôi. Nàng đã vào qua cửa hẹp và đã đạt tới hạnh phúc.
Đó là một trong biết bao nhiêu người ở xa đã đến dự tiệc với Abraham…
Hãy lắng nghe tiếng gọi khẩn thiết của Chúa chúng ta để “được vào sự yên nghỉ của Ngài”. Đừng trì hoãn, vì chúng ta mong manh.
Cửa đang mở chờ đón chúng ta. Cửa đó chính là “Mình Ta, để cho thế gian được sống”. Hãy nhanh chân đến với nguồn thương vô biên đang mời gọi.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI Thường Niên năm C, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Is 66: 18-21
Vị ngôn sứ hậu lưu đày, I-sai-a đệ tam, gợi lên ý định của Thiên Chúa là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất thành một dân duy nhất, dân của Ngài. Để thực hiện điều này, ơn gọi phổ quát của dân Ít-ra-en phải đóng một vai trò chính yếu.
Dt 12: 5-7, 11-13
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái an ủi cộng đoàn Ki-tô hữu, nhưng một cách rất đặc biệt khi chỉ cho thấy mối liên hệ giữa những gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa, như một người cha, sửa dạy những ai Ngài yêu thương. Vì thế, hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong gian nan thử thách.
Lc 13: 22-30
Thánh Lu-ca tường thuật những lời nghiêm khắc của Đức Giêsu lên án dân Ít-ra-en, dân đã được kêu gọi đầu tiên, nhưng vì cứng lòng tin nên từ chối nhận ra Ngài. Vì thế, Ngài công bố rằng Nước Thiên Chúa sẽ được mở rộng cho muôn dân muôn nước.
BÀI ĐỌC I (Is 66: 18-21)
Chương 66 là chương cuối cùng của toàn bộ sách I-sai-a. Vị ngôn sứ, biệt danh I-sai-a đệ tam, ngỏ lời với cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, cốt yếu là những người hồi hương trở về từ cuộc lưu đày tại Ba-by-lon, chán nãn trước những chướng ngại lớn lao mà họ phải đối mặt với.
Trong sấm ngôn này, chúng ta gặp lại giọng điệu lạc quan và những viễn cảnh vinh quang mà vị ngôn sứ này hé mở cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
- Sứ điệp phổ quát:
Sứ điệp mà vị ngôn sứ loan báo mang chiều kích phổ quát. Sứ điệp bao gồm hai chuyển động: chuyển động thứ nhất của Ít-ra-en là sai những sứ giả vào trong toàn thể thế giới, và chuyển động thứ hai của muôn dân muôn nước là trợ giúp con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi để đưa họ trở về Giê-ru-sa-lem.
Chuyển động thứ nhất dựa trên chủ đề “nhóm còn sót lại”, diễn ngữ này lần đầu tiên xuất hiện tại ngôn sứ A-mốt vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, được ngôn sứ I-sai-a đệ tam khai triển vài năm sau đó và là sứ điệp trọng tâm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị với dung mạo Người Tôi Trung. Những người lưu đày xưa kia, “những kẻ sống sót của chúng” sẽ là hạt nhân tái sinh của dân Chúa chọn. Một tôn giáo được thanh lọc và phổ quát, đó là thành quả rõ ràng nhất và phong phú nhất của thời gian đau khổ dài lâu ở đất khách quê người. Ít-ra-en trở thành một dấu hiệu ở giữa muôn dân. Việc dân Chúa chọn được phục hưng chứng thực vinh quang của Đức Chúa, tức là quyền năng của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi các biến cố. Những sứ giả của dân Chúa chọn sẽ ra đi loan báo vinh quang của Đức Chúa đích thật cho “các dân tộc ở góc biển chân trời, những đảo xa xôi, chưa từng được nghe nói đến Ngài, chưa hề thấy vinh quang của Ngài”.
Nét đặc thù của ngôn sứ I-sai-a đệ tam là biết liên kết chiều kích hoàn vũ và chủ nghĩa quốc gia. Ở nơi vị ngôn sứ hậu lưu đày này có vài điểm nhấn “phục thù”. Ít-ra-en đã chịu biết bao tủi nhục làm tôi cho muôn dân, rồi một ngày kia muôn dân sẽ phải kính trọng họ, chạy đến với họ và xin được phục vụ họ. Màu sắc này nổi bật trong bức tranh về chuyển động thứ hai: “Người ta sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ muôn dân về dâng cho Chúa… Họ sẽ đem chúng đến tận Núi Thánh của Ta”. Sứ điệp hoàn vũ vĩ đại này mà vị ngôn sứ loan báo được vài hoàn cảnh lịch sử chính xác gợi lên.
- Khoa thần bí mới về Đền Thờ:
Người ta có thể định vị niên biểu của lời sấm này, chắc hẳn vào năm 520 trước Công Nguyên. Công việc tái thiết Đền Thờ khởi sự vào năm 521 và hoàn tất vào năm 515. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, niềm tự hào hãnh diện của toàn thể dân Ít-ra-en, dù ở miền Bắc hay ở miền Nam hoặc ở Hải Ngoại, một lần nữa sắp chứng thực Thiên Chúa hiện diện và hành động ở giữa dân Ngài. Đó là dấu chỉ hữu hình của việc Thiên Chúa tuyển chọn.
Nhưng thời gian đã thay đổi. Khoa thần bí về Đền Thờ đã mất đi viễn cảnh hẹp hòi này. Ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố một lời chứng đáng chú ý nhất. Ông để cho Đức Chúa lên tiếng ngay từ câu đầu tiên của chương 66 này: “Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi?”.
Nhưng nếu Đức Chúa đã chấp nhận tái thiết Đền Thờ này, Ngài công bố bằng những ngôn từ mà Chúa Giêsu sẽ lấy lại: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7). Đó là tư tưởng mới của vị ngôn sứ. Đó là ý nghĩa của sấm ngôn mà chúng ta được mời gọi gẫm suy.
- Một nhãn quang mới về các dân tộc khác:
Vào lúc trở về từ cuộc lưu đày, những người hồi hương đã gặp thấy ở Giê-ru-sa-lem nhiều dân tộc khác cư ngụ. Điều này sẽ đặt ra nhiều vấn đề, nhất là hôn nhân của con cái Ít-ra-en với dân ngoại giáo. Một phần những người ngoại kiều này đã góp sức vào việc xây dựng lại tường thành và chắc chắn cũng vào việc tái thiết Đền Thờ. Đây là thời điểm mà phong trào thu nạp các tín đồ mới nảy sinh, nghĩa là chấp nhận ngoại kiều được tham dự vào tôn giáo của Đức Chúa, với điều kiện là tuân giữ những điều khoản cốt yếu của luật Mô-sê (ngày sa-bát, phép cắt bì) và những đòi hỏi luân lý mà luật đòi buộc. Người ta có thể phỏng đoán rằng đây là một sự mới mẽ lớn lao mà vị ngôn sứ đặt trên môi miệng của Đức Chúa, Ngài sẽ chọn cho mình giữa muôn dân “những tư tế và những thầy Lê-vi”. Đây là biểu thức táo bạo nếu chúng ta nghĩ đến những yêu sách về một dòng dõi tư tế đối với tầng lớp giáo sĩ của dân Ít-ra-en.
Ngoài sự phỏng đoán này, còn có một phỏng đoán khác: Đền Thờ được tái thiết nhờ sự trợ giúp tài chính của đế quốc Ba-tư. Tài chính ngoại quốc này là bày tỏ niềm tôn kính đối với Đức Chúa. Còn hơn thế nữa, khi Đền Thờ được hoàn thành, vua Ba-tư sẽ truyền dâng hy lễ mỗi ngày lên Thiên Chúa Ít-ra-en, do vua đài thọ.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 5-7, 11-13)
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái này mời gọi những người Ki-tô hữu gốc Do thái bị bách hại hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong những gian nan thử thách. Tác giả đưa ra trước một lý chứng được định vị vào trong hàng các sách minh triết, nhưng ông đem lại cho lý chứng này một chiều kích mới: có mối liên hệ giữa gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa.
- Thiên Chúa sửa dạy chúng ta như một người cha:
Chính vì Thiên Chúa là Cha và vì Ngài muốn con cái Ngài nên thập toàn: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nãn lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt”. Sở dĩ tác giả khuyên như vậy vì ông dựa vào một bản văn của sách Châm Ngôn: “Này con, chớ khinh thường khi Đức Chúa sửa dạy con, đừng chán ngán khi Người khiển trách. Vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3: 11-12).
Ở nơi lời khuyên này, phải đọc thấy mẫu gương của Chúa Ki-tô, như tác giả đã viết trong cùng bức thư này: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5: 8). Như vậy, “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy, Người đối xử với anh em như với những người con”. Đây là Ki-tô hóa đề tài truyền thống của Kinh Thánh.
- Sự ích lợi của việc Thiên Chúa sửa dạy:
Được Thiên Chúa sửa dạy như người cha đầy yêu thương như thế, cuối cùng chúng ta sẽ gặt hái được hoa trái là bình an và thánh thiện, những giá trị đem lại cho những người Ki-tô hữu một niềm tin tưởng vững chắc. Bởi vậy, “hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ”. Tác giả có chủ ý chọn những hình ảnh này trong bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 35: 3), bản văn gợi lên cho những người lưu đày Ba-by-lon ơn cứu độ sắp đến gần. Những nỗi gian truân như “Lửa thử vàng gian nan thử đức” rèn luyện chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên con đường cứu độ.
Tác giả trích thêm một bản văn khác của sách Châm Ngôn 4: 26: “Đường con đi, hãy san cho phẳng”, để chúng ta chạy mà không bị trật bước. Hình ảnh của viện động viên chạy đua trong thao trường mà tác giả bắt đầu khai triển và kết thúc trên cùng một viễn cảnh (12: 1 và 12: 13: phương pháp văn chương đóng khung). Tác giả muốn nói rằng gian nan thử thách, được hiểu như vậy, đem lại cho đức tin một sự kiên vững khôn sánh.
TIN MỪNG (Lc 13: 22-30)
Thánh Lu-ca ra công biên soạn một cuộc hành trình dài của Chúa Giêsu từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc hành trình này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên bắt đầu với câu: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (9: 51), còn hai giai đoạn còn lại thì được dánh dấu bởi mốc điểm: “Trên lên Giê-ru-sa-lem” (13: 22; 17: 11). Đây là công trình biên soạn độc đáo của thánh Lu-ca. Trong suốt cuộc hành trình dài lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giêsu vừa đi vừa giảng dạy cho các môn đệ và đám đông dân chúng về cách thức sống đời môn đệ.
Câu mở đầu của đoạn trích hôm nay: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy” (13: 22) đánh dấu giai đoạn thứ hai của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Lu-ca tập hợp lại thành nhóm nhiều lời nói của Đức Giêsu liên quan đến việc đi vào Nước Trời, mà chúng ta cũng gặp thấy tại thánh Mát-thêu, nhưng được thánh Mát-thêu trình bày riêng lẽ và trong những bối cảnh khác nhau. Việc thánh Lu-ca liên kết chúng lại với nhau gây nhiều cảm xúc nơi người đọc: cửa vào Nước Trời thì hẹp; cửa này sẽ đóng lại trước những người Ít-ra-en cứng lòng tin, nhưng sẽ rộng mở cho lương dân trên khắp thế giới.
- Chiều kích biểu tượng của cửa:
Một người trong đám đông nêu lên cho Đức Giêsu một câu hỏi trang trọng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Vấn đề về số người được tuyển chọn nhiều hay ít là một chủ đề gây tranh luận sôi nổi trong các trường phái kinh sư. Vào thời Chúa Giêsu đã hình thành nên hai quan niệm về ơn cứu độ trái ngược nhau. Những người Pha-ri-sêu có xu hướng lạc quan nghĩ rằng mọi con cái Ít-ra-en đều sẽ được cứu độ. Những người khác, như người hỏi Đức Giêsu này, thì lại bi quan vì cho rằng chỉ một ít người đạt được ơn cứu độ.
Đức Giêsu không trả lời cho anh cách trực tiếp nhưng gián tiếp: số người được cứu độ tùy thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người. Vì thế, không ai bị loại trừ, nhưng phải biết rằng cửa vào Nước Thiên Chúa thì hẹp, vì thế phải phấn đấu mà vào. Ý tưởng chuyển từ số lượng sang chất lượng: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm lấy được” (Mt 11: 12) và “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24: 13).
Chúa Giêsu ngầm gợi lên đề tài truyền thống về hai con đường. Thánh Mát-thêu khai triển đề tài này trong một đoạn văn đối xứng mà thánh ký đặt vào phần kết thúc Diễn Từ Trên Núi: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7: 13). Còn thánh Lu-ca thì trung thành với chiều kích biểu tượng của cửa. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Động từ Hy-lạp gợi lên ý tưởng về cuộc chiến đấu. Thánh Phao-lô dùng động từ này để diễn tả nỗ lực bền bỉ trong cuộc chiến mà thánh nhân đương đầu vì đức tin (Pl 1: 30; 1Tx 5: 8; 2Tm 4: 7).
- Dân Ít-ra-en cứng lòng tin bị loại ra bên ngoài:
Thời gian cứu độ có kỳ hạn, cơ hội ngàn năm một thuở đã qua đi: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại…”. Vài người sẽ gõ cửa… Thiên Chúa sẽ không mở: “Ta không biết các ngươi từ đâu tới”.
Thánh Mát-thêu gợi lên cửa sẽ đóng lại theo cùng một cách tương tự trong dụ ngôn “năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại”: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!”. Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 24: 11-12). Năm cô trinh nữ khờ dạy này đã không biết sống trong tư thế sẵn sàng. Cũng vậy, dân Ít-ra-en cứng lòng tin, có thể biện bác: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng đã quá trể rồi. Chúa Giêsu tiếp tục trích dẫn Tv 6: 9: “Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Dân Ít-ra-en đã không biết nhận ra giờ Thiên Chúa viếng thăm. Vì thế, Đức Giêsu sẽ khóc thương thành thánh Giê-ru-sa-lem (Lc 19: 41-44).
- Cánh cửa mở rộng cho lương dân:
Đối với những người đã được gọi ngay từ đầu nhưng vì cứng lòng tin mà từ chối vào Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu loan báo ơn cứu độ cho muôn dân muôn nước: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Ngài lên Giê-ru-sa-lem hướng về hy lễ cao vời của Ngài, được dâng hiến cho muôn người.
Bài diễn từ đặc biệt được gởi đến những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ mình là con cái của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp nên chắc chắn được cứu độ. Không, lối vào Nước Thiên Chúa tất yếu là “cửa hẹp”. Ấy vậy, chính Chúa Giêsu đã công bố Ngài là Cửa: Chính ở nơi Ngài mà người ta phải đi qua để được cứu độ: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9). Nhưng dân Ít-ra-en đã từ chối. Qua cánh cửa đức tin này, đông đảo lương dân sẽ đến dự bàn tiệc Thiên Quốc.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc:”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”?
Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không” nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà!
Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời:”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24). Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng:”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng:”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói:”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 66.18-21.
Cộâng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.
Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước.
Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.
+ Bài đọc 2: Dt 12,5-7.11-13.
Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách để giáo dục và chữa trị họ.
Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
+ Bài Tin mừng: Lc 13,22-30.
Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính:
a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực.
b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải.
c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đi qua cửa hẹp mà vào.
I. NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI?
- Trên đường đi Giêrusalem.
Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là: sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.
- Một câu hỏi.
Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng:”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy? Chúng ta cần phải biết người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.
Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết:”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.
Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc:”Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ”? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.
- Một câu trả lời.
- a) Không trả lời thẳng.
Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.
Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ: “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà!
Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết:”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói:”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.
Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất: ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.
b) Phải hành động để được cứu độ.
Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.
Truyện: Đừng ảo tưởng.
Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay:”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo:”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu:”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết”? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được”?
Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.
Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…
c) Đừng dựa vào gì khác.
Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu:”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn:”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI.
- Phải qua cửa hẹp mà vào.
Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi:”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói:”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).
a) Cửa hẹp là gì?
Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao? Có ai mở cổng cho họ vào? Không! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
Trong Luca chương 18, câu 25:”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quì gối xuống may ra mới lọt.
(Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).
b) Cửa rộng là gì?
Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.
Truyện: Khoái lạc trong một đêm.
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ:”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,)Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
c) Bước qua cửa hẹp là gì?
Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.
d) Phải vào đúng lúc là gì?
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.
Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế, mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.
- Qua cửa hẹp là phải chiến đấu.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói:”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.
Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16).
(Quesson).
Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng:”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.
Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý:”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.
Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô:”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
Nhiều khi huấn luyện để ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.
Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau: Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ:”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên:”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
- Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.
Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.
Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.
Chúng ta phải khẳng định hai điều:
* Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.
* Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.
- Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.
Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).
Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).
Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
Truyện: Có sự đảo ngược.
Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo:”Đây là nhà của bà”. Bà nói:”Cái gì vậy? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp:”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…
Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như:
– Nước chảy đá mòn.
– Kiến tha lâu đầy tổ,
– Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán:”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc:”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.
Cung thế, nếu ở đời: ”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta!
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người
“Hãy cố gắng qua cửa hẹp để vào Nước Trời”
(Lc 13, 24)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Dân Do Thái là dân riêng của Chúa. Còn chúng ta chỉ là dân ngoại. Vậy mà chúng ta đã được Chúa thương, cho chúng ta biết Ngài và quy tụ chúng ta lại trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta hãy cám ơn tình thương của Chúa, và hãy cầu nguyện để ngày càng có thêm nhiều người được biết Chúa và đến với Ngài.
II. Gợi ý sám hối
– Rất ít khi chúng ta biết cám ơn Chúa vì ơn được biết Ngài.
– Cũng rất ít khi chúng ta quan tâm làm cho nhiều người khác cũng được biết Chúa như chúng ta.
– Chúng ta ngại đi qua “cửa hẹp”, nghĩa là ngại khó khăn, ngại cố gắng.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 66, 18-21)
Đây là đoạn kết của sách Isaia, qua đó Thiên Chúa tỏ cho biết giai đoạn cuối của chương trình cứu độ của Ngài là tất cả mọi dân tộc (chứ không riêng gì dân do thái) sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài.
- Đáp ca (Tv 116)
Thánh vịnh này nhấn mạnh lại ý tưởng của bài đọc I: kêu mời mọi nước mọi dân hãy ca ngợi và chúc tụng Chúa.
- Tin Mừng (Lc 13, 22-30)
Hai câu trong đoạn Tin Mừng này đáng chú ý nhất:
c. 23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.
c. 24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh “đi qua cửa hẹp”.
– “Đi qua”: Động từ “qua” diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết “đi qua” (thay đổi cách sống) thì mới vào nhà được.
– “Cửa hẹp” diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19, 24, Mc 10, 25, Lc 18, 25).
Như thế, số lượng những kẻ vào Nước Trời (nhiều hay ít), và lý lịch của những người ấy (Do Thái hay dân ngoại) đều không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
- Bài đọc II (Dt 12, 5-7. 11-13) (Chủ đề phụ)
Đoạn thư Do Thái này bàn đến những gian truân khốn khó.
Như chúng ta đã biết, các kitô hữu gốc Do Thái phải chịu nhiều khốn khó từ phía đế quốc rôma lẫn phía Do thái giáo.
Tác giả cho họ biết rằng những gian nan khốn khó đó là những việc Chúa cho phép xảy ra để thử thách và sửa dạy họ. Mà Chúa thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế, họ đừng ngả lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
IV. Gợi ý giảng
* 1. “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?”
Hôm đó có người hỏi Chúa Giêsu: “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?” Người hỏi câu này là một người Do Thái. Khi hỏi thế, người Do Thái này mong nhận được câu trả lời là “đúng thế”. Sở dĩ người này mong như vậy là vì dân Do Thái nghĩ rằng ơn cứu rỗi được dành riêng cho dân tộc họ mà thôi.
Một câu hỏi sai phát xuất từ một quan niệm sai. Cho nên Chúa Giêsu không trả lời. Những điều Ngài nói sau đó cho ta thấy Ngài muốn đặt lại câu hỏi cho đúng: “Ai sẽ được cứu rỗi?” và “Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?”
“Ai sẽ được cứu rỗi?” Thưa: tất cả mọi người: “Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc sẽ đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Vì thế, đừng ai nghĩ rằng bởi vì mình thuộc thành phần ưu tiên nên chắc chắn sẽ được cứu rỗi, bởi vì rất có thể khi đó họ phải ngỡ ngàng nghe Chúa nói “Ta không biết các ngươi từ đâu tới. Hãy cút đi cho khỏi mắt Ta”.
“Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?” Thưa “hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mười vào”. “Qua cửa hẹp” nghĩa là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”
* 2. Ai sẽ được cứu rỗi?
Thời Chúa Giêsu nhiều người Do Thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?” thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “Phải” để xác nhận quan điểm của họ.
Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp “Phải” chỉ có một ít người sẽ được cứu rỗi” thì sẽ sinh hậu quả là những người Do Thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do Thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rồi mà.
Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:
– Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do Thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo Lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo Lời Chúa.
– Chúa còn nói:”Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do Thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo Lời Chúa.
Trên đây là ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin mừng, áp dụng cho dân Do Thái và các dân khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng, v.v. thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo Lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo Lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy.
Giáo thuyết này đưa đến 2 quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin mừng nên vẫn được cái là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đao”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.
Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc he hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vả xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói “Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con”. Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy”. Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.
Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo Lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.
Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo.
Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa,. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực.
Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hể mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi; không phải hể có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin mừng trong mọi tình huống cuộc đời.
Xin Chúa giúp chúng ta không chỉ là những người Kitô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Kitô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình.
* 3. Cửa nào Chúa đã đi qua?
Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào!” Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
– Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc:
– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được?
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:
– Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi!
***
“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu” có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu” tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được “cửa hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp” thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào” (Lc 18, 17).
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7, 14), cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khoá cửa lại” (Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13, 27) (Thiên Phúc)
* 4. Thử thách giúp nên người
Ở một số bộ lạc da đỏ, có tục lệ sau đây: khi một trẻ trai đến tuổi thành niên, người cha của nó sẽ dẫn nó vào rừng, giao cho nó một cây giáo, sau đó người cha rút lui để lại nó một mình trong rừng suốt đêm hôm ấy. Trong đêm đó, nó sẽ phải một mình ở trong rừng, đối diện với nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thú dữ… Nếu nó hèn nhát đòi theo cha về nhà thì nó vẫn bị coi là trẻ con. Nhưng nếu nó chịu đựng được tất cả và sáng hôm sau rời khỏi khu rừng trở về với gia đình thì nó được chính thức công nhận là người một trưởng thành.
Nếu nói theo bài Tin Mừng hôm nay thì cái đêm khó khăn trong rừng ấy là cái “cửa hẹp”; còn nếu nói theo bài đọc II thì đó là “thử thách”. Có qua thử thách hay cửa hẹp đó thì chàng thiếu niên mới trở thành người.
Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người?
– Vì nó thanh luyện tâm hồn
– Vì nó rèn luyện đức tính
– Và vì nó sinh nhiều hoa trái tốt
Chẳng những giúp ra nên người, gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt:
– Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại, nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta.
– Nó khiến ta tìm đến Chúa
– Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền phép Chúa
– Nó giúp ta cảm nhận được tình thương của Chúa
– Và nó khiến ta biết thương xót những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.
- Chuyện minh họa
a/ Cửa hẹp
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (… ) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài
b/ Tiếng Chúa
Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C. S. Lewis).
c/ Vào thiên đàng
Một Rabbi Do Thái kia có đứa con theo Kitô giáo. Khi ông chết, Chúa Cha cho ông vào thiên đàng. Nhưng ông nói:
– Lạy Chúa, con chẳng đáng vào thiên đàng đâu, vì đứa con của con đã bỏ đạo Giavê để theo đạo Kitô.
– Có sao đâu! Đức Chúa Cha an ủi, Ta thông cảm, Ta thông cảm. Ngày xưa Con của Ta cũng thế!\
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu rỗi hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn mời gọi con cái mình hiên ngang sống đức tin Chúa đã thương ban / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết thể hiện niềm tin của mình qua những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày.
2. Ở bất cứ thời đại nào cũng đều có người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ những ai đang trên con đường tìm gặp gỡ Người.
3. Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / chỉ khi đi vào con đường hẹp của Tin mừng / con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ / họ mới có thể đi tới sự sống đời đời.
4. Chúa Giêsu nói: / Chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa Cha / mới xứng đáng vào Nước Trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật bác ái yêu thương.
Chủ tế: Lạy Chúa, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu chưa đủ bảo đảm cho chúng con vào Nước Trời, vì chúng con còn phải sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận nữa. Vậy xin Chúa củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chút nữa khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho “Nước Cha trị đến” để ngày càng có thêm nhiều người nhận biết Chúa và đến với Chúa.
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại với cuộc sống hằng ngày với biết bao cực nhọc và đau khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta biết đó chính là những thử thách mà vì yêu thương chúng ta nên Chúa mới gởi đến cho chúng ta. Đó chính là cái cửa hẹp mà chúng ta cần phải qua đó mới vào được Nước Trời. Vậy chúng ta hãy vui lòng đón nhận tất cả những cực nhọc và đau khổ ấy với lòng yếu mến.
Chắc không ít người ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết là con đường dẫn tới sự sống đích thực và vĩnh cửu là con đường: “Vào qua cửa hẹp”. Và ai biết tìm kiếm và chiến đấu để vào qua cửa hẹp thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đó là điều Chúa Giêsu quả quyết cho tất cả chúng ta. Vấn đề không phải là có bao nhiêu người được cứu độ vì “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”; cũng không phải là chuyện ai được tiền định để hưởng sự sống đòi đời “Không phải gọi Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu”! Nhưng vấn đề là làm sao tìm thấy “con đường hẹp” và “vào qua cửa hẹp” cách anh hùng và trung tín.
Vấn đề đặt ra: “cửa hẹp là cửa nào?” Làm sao để có thể tiến bước trong con đường mà cửa hẹp dẫn đưa qua?
Khi nói “Hãy phấn đấu vào qua cửa hẹp”, chắc chắn Chúa Giêsu không nói đến vấn đề rộng hẹp theo nghĩa vật chất, nhưng mang nghĩa tinh thần và thiêng liêng. Nhìn vào chính cuộc sống và chọn lựa của Chúa Giêsu, ta có thể thấy được một vài đặc tính của con đường hẹp:
Con đường hẹp là con đường của sự từ bỏ: từ bỏ những gì đi ngược lại với phẩm giá và lương tâm của con người dù nó có lợi lộc nhiều đến mấy đi nữa! Từ bỏ những quyến luyến hay việc tôn thờ lệch lạc như thần tài, bói toán, sắc dục…
Con đường hẹp là con đường của hy sinh: sẵn sàng chịu mất giờ, mất công sức, mất tiền của vì hạnh phúc của anh chị em mình; vui lòng nhường nhịn với những tranh chấp nhỏ nhen vì muốn gây tinh thần hoà thuận với mọi người…
Con đường hẹp là con đường của yêu thương và tha thứ: Con đường của tình yêu và tha thứ là con đường đẹp nhất, nhưng cũng là con đường nhiều chông gai nhất. Bởi lẽ, yêu thương vô vị lợi là cúi mình xuống tận cùng để nâng người khác lên, là sẵn sàng nhận lãnh lấy những chỉ trích, những hiểu lầm của người khác. Cái chết nhục nhằn của Chúa Giêsu trên Thập giá đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Con đường hẹp là con đường vâng phục Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa trong cuộc đời ta thường rất khác với ý ta muốn. Chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời ta cũng có nghĩa là chấp nhận bỏ mình, trở nên không không để Chúa tự do hành động trong đời ta và ta sẵn sàng bước theo Chúa trên những con đường mới lạ, gập ghềnh và chẳng mấy ai đi! Nhưng Chúa sẽ đưa ta vào con đường huyền nhiệm của yêu thương và sự sống.
Nói tóm, Con đường hẹp là con đường Thập giá mà Đức Giêsu đã đi. Nhưng xem chừng, con đường hẹp như thế này không mấy hấp dẫn đối với nhiều người hôm nay, nhất là khi cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và giàu sang! Theo lẽ thường, ai cũng thích bước đi trên con đường rộng rãi, phẳng phiu và dễ dãi. Đó là con đường tự do để hưởng thụ, tự do làm những gì mình thích bất chấp hậu quả.
Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh với mọi người rằng: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người lại đi qua đó.” (Mt 7,13). Chúa để cho chúng ta tự do để chọn lấy cho mình một con đường. Trước mắt chúng ta luôn có hai con đường mở ra: con đường hẹp với những hy sinh, chịu đựng, nhịn nhục nhau vì yêu và một con đường rộng thênh thang với đầy dẫy sự hưởng thụ và hấp lực trần gian.
Có một câu chuyện rất hay sau đây tôi xin được kể như một kết thúc: “Một thanh niên giàu có than phiền với bạn: “Người ta không thích tôi. Họ cho rằng tôi ích kỷ và keo kiệt. Nhưng tôi đã hứa là sau khi tôi qua đời, tôi tặng tất cả những gì tôi có cho một tổ chức từ thiện”.
Bạn anh nói: “Ồ, câu chuyện của bạn làm tôi liên tưởng đến cuộc trò chuyện giữa Bò và Heo. Heo đến phàn nàn với bò: ‘Người ta luôn nói tốt về bạn. Vâng, điều đó là sự thật, vì bạn cho họ sữa. Nhưng họ nhận nơi tôi nhiều hơn: dăm bông, thịt muối, mỡ và có khi họ nấu cả chân tôi. Chẳng ai giống tôi. Nhưng đối với họ, tôi chỉ là một con lợn, một con lợn để làm thịt. Tại sao thế?’
Bò suy nghĩ một lát và nói: ‘Có lẽ điều đó đúng. Nhưng bạn chỉ cho thịt khi bạn chết rồi; còn tôi, tôi cho sữa ngay lúc tôi còn sống.”
15. Cửa Hẹp, Lối Đi Hẹp – An Phong
Tin Mừng Chúa Nhật 21 Thường Niên C là những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu: “Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Như người chủ đóng cửa ngôi nhà lại, thì Đức Giêsu cũng sẽ “đóng” bữa tiệc cánh chung, ngăn không cho những người làm điều ác, những người không nhận biết Người đi vào tham dự. Bàn tiệc Nước Trời dành cho những ai thành tâm thiện ý, “mến Chúa và yêu người”.
“Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Đó là lời nhắn nhủ của Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Vào thời Đức Giêsu, những lời này là một thách đố đối với người Do Thái. Vì họ luôn tin rằng, họ sẽ có phần trong thời đại sắp đến, trong bàn tiệc Nước Trời, bởi vì họ là dân đặc tuyển, được ưu tiên. Đức Giêsu đã loại trừ quan niệm đặc tuyển này. Điều quan trọng là họ có thực hiện những lời Người dạy dỗ hay không.
Đời sống kitô hữu là một hành trình thiêng liêng đi qua cửa hẹp. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến nỗ lực, nhiều nỗ lực để có thể vượt qua cánh cửa hẹp. Để có được một đời sống hạnh phúc, một gia đình tốt đẹp… chúng ta cần đi qua “cửa hẹp”, cần nhiều nỗ lực, cần hy sinh, cần chiến đấu, “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Tôi”.
Nhưng cánh cửa hẹp này chỉ được mở từ bên trong, vào một lúc nào đó. Chỉ một mình Thiên Chúa mới quyết định mở và mở lúc nào, tức là Người quyết định tất cả. Thiên Chúa mở cánh cửa hẹp, bởi vì cánh cửa tâm hồn chúng ta còn hẹp. Để đi vào vương quốc Tình yêu, chúng ta cần loại bỏ sự hẹp hòi, kiêu ngạo, những gì chống đối lại tình yêu. Nói khác, cánh cửa tâm hồn chúng ta có rộng mở thì cánh cửa vương quốc Tình Yêu mới rộng mở. Đó là lý do tại sao lối vào vương quốc của Thiên Chúa đòi cố gắng và hy sinh.
“Người đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Những người từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc dường như là những người đứng chót, nhưng lại là người đầu đi vào Nước Thiên Chúa. Còn những người bị ở ngoài dường như là những người đã từng “ăn, uống” với chủ nhà, đã từng nghe những lời giảng, dạy… Nói chung, họ là những người ở gần chủ. Họ đồng bàn với chủ, nhưng lòng họ thì lại xa chủ. Thế nên ông chủ tuyên bố: tôi không biết các anh là người ở đâu cả.
Là người kitô hữu, chúng ta thuộc về Giáo hội qua bí tích Rửa tội, chúng ta “gần” Đức Kitô hơn những người chưa lãnh bí tích Rửa tội, nhưng có thể chỉ là “sự gần gũi bên ngoài”. Trong khi đó, những người không phải là kitô hữu, họ dường như “xa” Đức Kitô, nhưng họ lại rất gần Người qua việc đáp trả lời mời gọi của Chúa Thánh Thần trong lương tâm họ. Họ là những “kitô hữu vô danh”.
Nếu các người đĩ điếm và những người thu thuế đi vào Nước Thiên Chúa trước cả những người Pharisêu, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng có nhiều người không phải là kitô hữu cũng sẽ đi vào Nước Thiên Chúa trước nhiều người kitô hữu.
Phải chăng chúng ta là những kitô hữu “theo lý lịch?”
Phải chăng chúng ta “ở trong nhà” nhưng lại “không gần” Đức Giêsu?
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết đi qua cánh cửa hẹp
để chúng con có thể bước vào vương quốc của Chúa,
vương quốc của Tình Yêu.
Chìa khóa mở cửa vương quốc này là các mối phúc thật.
Nhờ các mối phúc,
chúng con sẽ nhận ra
cái gì là chính yếu, quan trọng, trường cửu
và
cái gì là phụ tùy, phù phiếm, chóng qua.
Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự tự mãn,
là người kitô hữu, nhưng lại là “kitô hữu theo lý lịch”.
Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sợ hãi,
sợ thiếu thốn, sợ hy sinh, phấn đấu.
Amen.
16. Cửa hẹp là gì? và Cửa hẹp không là gì?
(Suy niệm của Lm Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Có một cảnh tương phản ngồ ngộ xảy ra cách đây hơn 30 năm, trong thời kỳ còn bao cấp, là thời kỳ hạn chế du nhập văn hoá từ các nước “tư bản”. Lúc đó người ta cho chiếu bộ phim tình cảm Liên Xô với tựa đề “Cánh cửa mở rộng”. Mua được một chiếc vé đã là gây cấn rồi: nào là chờ chực, xếp hàng, nào là chen lấn, đẩy xô… Nhưng khi có vé rồi mà vào cửa thì cũng không dễ gì! Tựa phim là “Cánh cửa mở rộng”, nhưng cánh cửa sắt của rạp không chịu mở rộng, mà chỉ hé mở một chút vừa đủ cho một người đi nghiêng qua để kiểm soát vé cho dễ. Quả là một cảnh tượng tương phản thú vị: chen nhau đi vào cửa hẹp để xem “Cánh cửa mở rộng!”
Cách đây nhiều năm lại có cảnh tương phản khác: cả ngàn học sinh chen chúc nhau để mua cho được một bộ đơn xin dự thi vào Đại Học Mở ở đường Võ Văn Tần, Saigon mà không được. Bộ hồ sơ dự thi đã hết. Báo chí đặt tựa đề cho cảnh này là: “Cánh cửa Đại Học Mở đã đóng”.
Vậy thì khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nhà Cha có nhiều chỗ lắm, (chứa bao nhiêu cũng không chật), mà sao hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại nói: Hãy đi qua cửa hẹp mà vào. Phải chăng vì Nước Trời ít chỗ, cần hạn chế: Có một cái tương phản nào đó trong tư tưởng của Chúa chăng? Chắc chắn ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì qua hình ảnh “Cửa hẹp”. Cửa hẹp là gì? Và Cửa hẹp không là cửa gì?
-
Cửa hẹp không phải là:
– Nơi bán vé: Trước khi đi vào rạp xem chiếu phim, trước khi vào sân vận động xem đá bóng, trước khi lên xe, người ta thường xếp hàng, thò tay vào một ô cửa hẹp để mua vé. Tùy sức chứa của rạp, của sân, của xe, mà người ta bán một số vé tương đương với sức chứa.
Sức chứa của Nước Trời thì vô tận, nên không cần phải có ô cửa hẹp để bán vé. Ta cũng không cần phải hỏi xem Nước Trời có bao nhiêu chỗ để liệu mà tìm cách mua vé vào, như đi xe ta thường hỏi xem xe bao nhiêu chỗ 4-12-15-20 chỗ…
Sở dĩ Chúa nhắc đến cửa hẹp là nhằm trả lời cho câu hỏi của một số người: “Thưa Thầy, phải chăng những người được cứu thì ít lắm phải không? (những người vào Nước Trời thì ít?)
Chúa không trả lời “phải, ít lắm” để rồi ta thất vọng khi nghĩ rằng chắc mình lọt sổ thôi. Chúa cũng không trả lời “nhiều lắm,” để rồi ta buông thả vì nghĩ rằng thế nào mình cũng thuộc số người được cứu.
Những người hỏi con số: số ghế số chỗ trong Nước Trời là những người không biết ất giáp gì về Nước Chúa, bởi lẽ Nước Trời đâu phải là quota, là hạn ngạch, định mức, là sức chứa, số ghế. Cứ đi vào cửa hẹp là đến Nước Trời. Nhưng cửa hẹp không phải là nơi bán vé vào Nước Trời, thì cửa hẹp cũng không phải là nơi soát vé.
– Nơi soát vé: Cũng có rất nhiều người trong chúng ta, hiện nay, vẫn nghĩ rằng mình đã nắm trong tay được vé vào Cửa Trời. Xin thưa ngay: Cửa trời không có lối đi hẹp để soát vé đâu. Những chiếc vé mà ta nghĩ rằng thánh Phêrô, kẻ giữ cửa sẽ hỏi, ta có trong tay, như: chứng chỉ Rửa tội, Thêm sức, có dấu đỏ, dấu nổi đàng hoàng…; tờ Phép Lành Toà Thánh mà nhiều gia đình có với lời ghi chú xưa “là bảo đảm cho phần rỗi đời đời”; Rước lễ 5 ngày thứ bảy đầu tháng với lời hứa của Đức Mẹ, 9 ngày thứ sáu đầu tháng với lời hứa của Thánh Tâm; lại còn chuỗi Thương Xót hằng ngày… Đã ba lần bảy lượt lãnh được ơn toàn xá khi làm việc này việc nọ, khi hành hương chỗ này chỗ kia; những chiếc vé đó tốt, nhưng nên nhớ không có cửa hẹp để soát vé đó đâu, để rồi mình ỷ y như khi mua được vé xe lửa, vé xem phim, vé tàu bay là an tâm, đến giờ ta chìa vé ra để vào.
Cửa hẹp cũng chẳng phải là nơi ta chìa ra tờ lý lịch trong sạch ba đời, dòng dõi các thánh tử đạo vẻ vang…; hay lá thư tay của những ô dù ông cha này, giám mục nọ ở trong dòng họ để rồi được cho qua. Vậy cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là gì?
- Cửa hẹp là gì?
Xin được lấy lại cảnh tương phản về bộ phim “Cánh cửa mở rộng” nói trong mở đề để gọi Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là “Cửa mở rộng.” Mở rộng tức là mở luôn luôn, mở cho mọi người. Cửa hẹp không phải là nơi để hạn chế: hạn chế thời gian (mở buổi sáng, đóng buổi chiều; hạn chế con số (1 tỉ rưỡi thôi nhé!); hạn chế tầng lớp (người nghèo mới được vào)… Không phải! Cửa hẹp là cửa mở rộng. Ai muốn vào cũng được. Vào giờ nào cũng được. Điều kiện duy nhất của nó là vì nó hẹp, nên muốn vào phải bỏ lại những hành trang cồng kềnh.
– Những hành trang cồng kềnh đó, là tội lỗi của chúng ta. Ta không bỏ lại ta không vào được cửa hẹp.
– Những hành trang cồng kềnh đó, là những thú vui trần gian. Ta không biết từ bỏ, ta không lách qua được cửa hẹp.
– Những hành trang cồng kềnh đó, là lòng tham danh lợi lộc. Ta không từ bỏ, ta không chui lọt qua khung cửa hẹp.
– Những hành trang cồng kềnh đó, là những mối thù nặng nhẹ với anh chị em trong nhà hay ngoài mái ấm gia đình. Ta không từ bỏ, khi đi qua cửa hẹp, sẽ bị vướng mắc, như chiếc áo rộng dính vào ốc này vít kia của cánh cửa hẹp, khiến ta không thể dễ dàng đi qua được trơn tru.
Có hai người lính trẻ đang nói chuyện với nhau về việc tin theo Chúa Kitô. Một người nói: “Tôi không thể nói hết cho anh biết, tin theo Chúa Kitô thì quí giá biết ngần nào.” Người kia đáp: “Tôi cũng nghĩ đến đó, nhưng tôi thấy tin theo Ngài thì phải từ bỏ nhiều quá. Quả thật tôi đang tính toán đây.” Một sĩ quan đi ngang, nghe vậy, đặt tay trên vai người lính trẻ vừa nói câu trên, mà rằng: “Anh ơi, anh tính giá của sự tin theo Chúa Kitô sao? Thế anh có bao giờ tính giá phải trả khi không tin Chúa Giêsu không?…
Thánh Phaolô đã tính giúp chúng ta trong Pl 3, 8-9: “Tôi coi tất cả mọi sự là thua lỗ, bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu, Chúa tôi, vì Người tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.”
Theo Chúa vào Nước Trời là phải đi qua cửa hẹp. Cửa hẹp không phải là nơi bán vé, nơi soát vé, nhưng cửa hẹp là cửa luôn mở mọi lúc, mở với mọi người, miễn là ta biết từ bỏ hành trang cồng kềnh.
Trong lời hứa Rửa tội, Giáo Hội bắt chúng ta tuyên hứa từ bỏ trước khi tuyên xưng tin, thì chúng ta hãy từ bỏ những hành trang cồng kềnh… để ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Chúa chúng ta qua Kinh Tin Kính. Amen.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Lc 13: 22-30: Việc Thiên Chúa uốn nắn, khiển trách chung qui vì Ngài luôn muốn điều tốt cho con người. Và để con người mỗi ngày nên hoàn thiện mình, con người cần phải bước đi vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp.
Suy niệm
Có lẽ chúng ta từng nghe câu “Quốc có quốc pháp, gia có gia qui”, sống trong một đất nước, một cộng đồng một gia đình đều có những qui tắc giúp ổn định cộng đoàn ấy. Chúa cũng có những qui luật đặt ra cho con người, để con người được hoàn thiện dần dần. Vì ai mà chẳng muốn thoải mái và đi trên con đường rộng rãi, nhưng sống có qui tắc sẽ giúp uốn nắn và hoàn thiện mình mỗi ngày.
Vâng, như ông bà ta thường bảo: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Lời này tương tự với lời bài đọc II trích thư Do Thái: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nãn lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt”. Đoạn trích thư mời gọi những người sống đời Kitô hữu hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong những gian nan thử thách để đạt được ơn cứu độ. Thiên Chúa là Cha, mà cha nào lại không thương con cái. Việc Thiên Chúa uốn nắn, khiển trách chung qui vì Ngài luôn muốn điều tốt cho con người. Và để con người mỗi ngày nên hoàn thiện mình, con người cần phải bước đi vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp.
Trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem chịu khổ nạn, Chúa Giêsu vừa đi vừa giảng dạy cho các môn đệ và đám đông dân chúng về cách thức sống đời môn đệ. Và rồi, trước câu hỏi của một người trong đám đông nêu lên rằng “phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Với người Pharisêu, họ có xu hướng lạc quan nghĩ rằng mọi con cái Israel đều sẽ được cứu độ, thế thì không cần phải cố gắng chi nữa vì con người ai cũng có số có phần. Những người khác, như người hỏi Chúa Giêsu này, thì lại bi quan vì cho rằng chỉ một ít người đạt được ơn cứu độ mà thôi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại trả lời một câu khác hơn. Đó là mỗi người hãy tự trả lời cho mình về số phận mình được vào nước Thiên Chúa hay không tùy thuộc vào sự cố gắng của mỗi chúng ta.
Có những người đã được gọi ngay từ đầu nhưng vì cứng lòng tin mà từ chối vào Nước Thiên Chúa. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc Thiên quốc, bởi lẽ đã nhiều lần nghe Chúa giảng dạy, chứng kiến phép lạ Người làm, đi theo Chúa nơi này nơi kia. Nhưng tiếc một điều, nhiều khi mang danh con cái Chúa nên ỷ lại, sống mối tương quan đó cách hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Nhìn lại chặng đường Kitô hữu của chúng ta, một Kitô hữu đạo gốc, một người được rửa tội ngay từ khi được lọt lòng mẹ hẳn hoi, nhưng chúng ta kiểm điểm lại xem mình có giữ các Điều Răn mà Chúa ban cho cách cố gắng hết sức, có giữ luật Chúa cách có tâm chưa, có tập vào nước Thiên Chúa qua cửa hẹp không hay sống theo những đam mê vô bổ, chọn theo cửa rộng ý riêng, còn chuyện Đạo khi nào gần đất xa trời hẵn hay. Cụ thể chúng ta có bỏ lễ Chúa nhật như là một cuộc hẹn mà tôi không sắp xếp được thì bỏ, hay với lý do không có giờ rảnh để đi lễ, hoặc với suy nghĩ giữ đạo trong lòng được rồi, chỉ đi một vài lễ lớn trong năm là đủ. Hoặc có suy nghĩ đến nhà thờ ngày Chúa nhật như một thói quen, để ngày sau hết ra trước tòa Chúa chịu phán xét thì tự tin rằng tôi không bỏ lễ Chúa nhật nào cả, tôi giữ luật xưng tội rước lễ một năm một lần. Đó là cách chúng ta sống giữ Đạo với mức tối thiểu, lắm khi lại đến nhà thờ với thái độ lo ra chia trí những chuyện bên ngoài, đi lễ cho có, đến nhà thờ theo kiểu đã “check-in” tôi đã đặt chân đến nơi đây, chỉ muốn ngồi xa xa với đủ lý do, đi xem lễ mà lòng không có Chúa, vì nếu có thì không ngồi chat điện thoại, chơi game, tán gẫu trong giờ lễ. Nếu ý thức đến với Thiên Chúa là Cha và trong tương quan là con, chúng ta sẽ chăm chú nghe lời Chúa dạy, siêng năng xưng tội và rước lễ, dành giờ đọc kinh cầu nguyện để lòng mình luôn có Chúa.
Chúng ta còn được mời gọi đến với Chúa với một của lễ con dâng, dâng lên Chúa cuộc sống thường ngày của mình, nỗi vất vả mưu sinh, sự mệt mỏi trong công việc, hoàn cảnh gia đình với những khó khăn, trăn trở, dự tính, sự buồn phiền hay niềm vui, từng lời kinh, tiếng đáp, cũng như phần đóng góp công sức… cộng tác với anh chị em làm lễ dâng lên Chúa. Chúng ta hãy để cho Chúa có một chỗ đi vào đời mình, và khuôn mặt mình đừng để nên xa lạ trước mắt Chúa. Vì hết muôn dân muôn nước,“thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đều được mời gọi đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu”.
Lạy Chúa, Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng việc đón nhận được ơn cứu độ ấy hay không là còn ở phần mỗi chúng con có cộng tác với ơn Chúa để trở nên sinh ích hay không. Vậy xin Chúa cho con ý thức hơn trong đời sống đạo đức của mình luôn có Chúa đồng hành với con. Amen.
18. Phấn đấu qua cửa hẹp mà vào
(Minh hoạ Lời Chúa – Hiếu Nguyễn)
MINH HỌA LỜI CHÚA
- Qua cửa hẹp
Một phụ nữ giàu có rất siêng năng đến nhà thờ. Những tấm biển ghi những đóng góp của bà được gắn ở nhiều chỗ trong nhà thờ cùng với các vật khác. Ngày nọ bà chết. Thiên thần đón bà ở cửa thiên đàng, đưa bà xuống con đường rộng rãi, hai bên có những ngôi nhà rộng lớn xinh đẹp. Những ngôi nhà nầy ngày càng nhỏ hơn. Cuối cùng họ đến một căn lều. Thiên thần nói với bà, “Đây là phòng của bà.”
Bà ta giận dữ thốt lên, “Cái gì? Có sự lầm lẫn nào chăng?” Thiên thần đáp, “Rất tiếc! Đây là những gì tốt nhất tôi có thể làm xứng với những gì bà đã gởi đi suốt đời bà.” Đâu là động lực chính yếu của tôi trong việc đóng góp, để xây dựng một công trình nào đó?
- Hạng Kitô hữu nào?
Một thanh niên viết thư cho linh mục tâm sự về cuộc sống của mình: Con là tay bơi lội đứng đầu trong bảng xếp hạng tại Gia-nã-đại. Con bị bạn bè dụ dỗ sử dụng ma túy. Từ đó con bị cắn câu, sức khỏe tinh thần thể xác ngày càng lụn bại. Và tệ hại hơn con thiếu nợ các tay buôn ma túy hơn $3000. Con thấy chỉ còn một lối toát duy nhất là tự tử.
Con cố gắng uống rượu cho nhiều để khỏi sợ hãi khi chuẩn bị lìa đời. Nhưng rồi điều gì đó đã ngăn cản con. Con nhắc điện thoại lên và gọi đến trung tâm cấp cứu. Sau này con mới biết chính điều ngăn cản con tự tử là nhờ lời cầu nguyện của mẹ con. Con được đưa vào trung tâm cai nghiện, và rồi sức khỏe thể lý lẫn tinh thần dần dần bình phục. Trong thời gian cai nghiện, con bắt đầu đọc Kinh Thánh. Càng đọc con càng cảm thấy bình an vui sống. Kinh Thánh giúp con tín thác trọn vẹn vào Chúa, sống tuân phục Chúa và phục vụ mọi người.
Tất cả sự việc đó đã xảy ra cách đây 5 năm. Từ đó đến nay, Chúa ban ơn cho con rất nhiều. Hiện con đang dạy trong một trường Công giáo và hoạt động tông đồ trong giáo xứ con. Ký tên Christopher.
- Cửa rộng và cửa hẹp
Samurai là một hiệp sĩ hung bạo. Ông đến hỏi một thiền sư, “Yêu cầu ông cho tôi biết thiên đàng hỏa ngục là gì?” Vị thiền sư nhìn thấy con người thô bạo của anh thì nói, “Ta không thể dạy cho ngươi biết thiên đàng hỏa ngục là gì, vì ngươi hung bạo quá. Ngươi làm nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ của ngươi.”
Nghe vị thiền sư nói thế, chàng hiệp sĩ bừng bừng sát khí, rút gươm định chém đầu ông ta. Nhưng vị thiền sư đưa tay cản lại và nói, “Hỏa ngục là thế đó!”
Nhận được bài học thực tế của nhà sư, chàng hiệp sĩ dừng tay lại. Sự hối hận và thương cảm trào dâng trong tâm hồn y. Y hiểu rằng vị thiền sư hy sinh cả mạng sống để dạy cho y bài học về hỏa ngục. Y từ từ xỏ gươm vào vỏ, rồi quỳ gối trước mặt thiền sư với tất cả tấm lòng thành tâm sám hối. Vị thiền sư đưa tay đỡ y dậy, nhìn vào con người y và bảo, “Thiên đàng là thế đó.”
- Tìm chìa khóa Thiên đàng
Có ông vua giàu có quyền thế. Sau khi đã chinh phục các quốc gia láng giềng và những gì vua ưa thích, vua cũng chưa lấy làm mãn nguyện. Vua ước mong tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng. Vua sai các quan tướng đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng chỉ tốn của uổng công vô ích. Sau cùng nhà vua quyết định đích thân đi tìm. Ngày nào vua cũng lặn lội, dầm mưa dãi nắng tìm kiếm. Đến một hôm, vua cỡi ngựa đến trước một bức tường cao, cổng sắt kiên cố. Trước cổng có thiên thần canh gác cẩn mật. Vua liền xuống ngựa, đến với thiên thần trình thật, “Tôi không thể an tâm nhắm mắt, nếu không tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng. Xin thiên thần thương giúp tôi.”
Thiên thần cười nói, “Thực ra trên đời này, có rất nhiều thứ chìa khóa mở được cửa thiên đàng. Có thể nó ở ngay dưới chân vua. Muốn tìm được, nhà vua phải bền tâm chịu khó tìm kiếm.”
Nghe nói thế, nhà vua cố gắng chịu khó tìm kiếm, nhưng tìm mãi không được. Bỗng ngày kia đang lúc đi trong rừng, nhà vua vấp phải một cây nhỏ bé sắp tàn héo bên vệ đường. Vua liền nhổ cây sắp chết đó đem về hoàng cung, tự tay trồng lấy và chăm sóc hằng ngày. Các quan thấy thế thì ngạc nhiên nói với vua, “Sao hoàng thượng bận tâm đến một cây nhỏ bé héo tàn đến thế? Chắc gì nó sống được? Và dù nó có sống đi nữa, thì với tuổi của hoàng thượng, hy vọng gì được nghỉ dưới bóng nó, hoặc hưởng được bông trái của nó?”
Nhà vua thản nhiên trả lời, “Tuy trẩm không còn sống để hưởng, nhưng một ngày nào đó, sẽ có người được nhờ bóng mát của nó, được thưởng thức hoa trái thơm ngon của nó là đủ cho trẩm cảm nhận được hạnh phúc rồi.” Vừa nói xong, nhà vua liền thấy ngay trước mặt chiếc chìa khóa mở cửa thiên đàng.
———–
Tin Cậy Mến là chìa khóa mở cửa thiên đàng được trao ban cho người Kitô hữ ngày họ lãnh nhận bí tích rửa tội. Nhà vua trong câu truyện trên đây tưởng có thể tìm được chìa khóa mở cửa thiên đàng bằng tiền bạc của cải hoặc bằng uy quyền chức tước nên đã chịu khổ chịu cực chiếm cho được nhiều nước nhiều của, nhưng ông ta hoàn toàn thất bại. Lòng ông ta còn khao khát cái gì
- Xây dựng thiên đàng
Một bà quý tộc tên là Elizabeth đang quỳ cầu nguyện trong nhà thờ, bỗng nghe như có tiếng Chúa nói, “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ.” Tin chắc đây là lời Chúa bảo mình, bà mướn thợ xây ngay một nhà nguyện. Nhưng xây xong, bà cũng còn nghe như tiếng Chúa bảo như thế mỗi lần bà cầu nguyện. Bà nghĩ chắc Chúa cho là nhà nguyện này nhỏ quá, không xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Có thể Người muốn bà xây một nhà nguyện lớn hơn, đẹp hơn, xứng đáng cho Người hơn, vì Chúa biết sự giàu có Người ban cho bà dư thừa để xây dựng nhà nguyện lớn hơn.
Thế là bà Elizabeth đi tìm mua một miếng đất rộng lớn, thuê thợ xây một nhà nguyện lớn hơn, trang hoàng lộng lẫy nguy nga. Bà nghĩ lần này chắc Chúa phải hài lòng lắm, vì trong vùng không có ngôi đền thờ nào rộng lớn, đồ sộ, đẹp đẽ hơn nữa. Nhưng lạ thay, khi cầu nguyện, bà vẫn còn nghe như có tiếng Chúa nói với bà, và lần này Chúa nói một cách khẩn thiết nài nỉ hơn, “Con hãy xây nhà cho Ta cư ngụ.”
Bà ngạc nhiên quá nên hỏi Chúa, “Con đã xây cho Chúa một ngôi nhà lộng lẫy nhất vùng này. Sao Chúa còn bảo con xây nhà cho Chúa ngự nữa? Hay là Chúa muốn con xây dựng một Vương Cung Thánh Đướng lớn nhất và đẹp nhất nước này?”
Tiếng Chúa thì thầm trả lời, “Con hãy nhìn qua bên kia cửa sổ. Con thấy gì ở bên đó?” “Con thấy một gia đình nghèo khổ đang trú ngụ dưới một bóng cây cổ thụ, nhưng việc đó có can hệ gì đến Chúa?”
“Có chứ! Cha không nhờ con xây nhà cho Cha, mà xây nhà cho gia đình nghèo khổ đó. Và đó chính là con xây nhà cho Cha và cũng là xây nhà cho con trên thiên đàng.”
19. Cửa hẹp đưa con người đến đâu?
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Khi có người hỏi: “Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không?” Chúa Giêsu không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự chọn lựa của con người. Nhưng nhân cơ hội nầy, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết phải đi vào cửa hẹp mới được cứu độ. Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”.
Vậy, vào cửa hẹp nghĩa là gì?
Là sống theo lề luật Chúa.
Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả như bao nhiêu người khác… Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn, có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.
Vậy thì cửa hẹp đưa con người đến đâu?
Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một lộ trình nhất định, đó là quỹ đạo trái đất. Phải mất 365 ngày và 6 giờ, trái đất mới quay hết một vòng quanh mặt trời, và cứ thế suốt niên đại nầy sang niên đại khác. Quả là gò bó, trói buộc, là đường hẹp triền miên.
Thế nhưng bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định điều hoà. Nếu một ngày nào đó, trái đất ‘cảm thấy’ đi theo quỹ đạo là gò bó, là đường hẹp, để rồi đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái… chỉ một chút xíu thôi mà!… thì đó là ngày cùng tận của vũ trụ và thế giới!
Chiếc tàu nghĩ rằng tại sao tôi cứ phải bị gò bó bởi hai đường sắt? Tại sao tôi không chạy nhảy như hươu nai, băng qua đồi núi, băng qua cánh đồng như bao nhiêu muông thú. Thế rồi nó thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do tung hoành… Hậu quả của sự chọn lựa ‘khôn ngoan’ nầy sẽ vô cùng bi thảm. Nhưng nếu nó chấp nhận đi theo hai đường rây chật hẹp, nó về đến ga chót thật an toàn.
Trong gia đình, người vợ nghĩ rằng: thật uổng phí cuộc đời nếu ngày nào cũng nấu ăn, rửa chén, dọn nhà, quét sân… để sống cho chồng và cho con. Tại sao tôi không tự giải thoát mình khỏi vòng cương toả của gia đình? Tại sao lại phải chọn cửa hẹp, lại phải đi đường hẹp? Tại sao tôi không thể bay nhảy như những cô gái trong các hộp đêm?
Thế rồi cô đã chắp cánh bay, và kết cục là gia đình đổ vỡ, cuộc đời của cô lụi tàn trong đau thương và tủi nhục.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì Chúa sẽ bảo: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ và “Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.”
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ đạo… chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.
Vậy thì bước qua cửa hẹp là giá phải trả (có gì mà không phải trả giá!) cho hạnh phúc đời nầy và hoan lạc vĩnh cửu mai sau.
20. Cửa hẹp đưa con người đến đâu?
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Khi có người hỏi: “Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không?” Chúa Giê-su không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào quyền tự do định đoạt của mỗi người. Và nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su chỉ dạy một lối đi giúp cho con người đạt được ơn cứu độ: đó là đi vào cửa hẹp. Người nói: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”
Thế là, muốn vào Nước Trời, muốn nhận được ơn cứu độ, phải theo cửa hẹp, đường hẹp mà vào.
Nhưng tại sao phải đi vào cửa hẹp?
Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Người quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một lộ trình nhất định và không bao giờ được đi trệch ra ngoài, đó là quỹ đạo trái đất. Phải mất 365 ngày và 6 giờ, trái đất mới quay hết một vòng quanh mặt trời, và cứ thế suốt thế kỷ nầy sang thế kỷ khác. Quả là gò bó, trói buộc, là đường hẹp triền miên.
Bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định điều hoà. Nhưng nếu một ngày nào đó, trái đất cho rằng đi theo quỹ đạo là gò bó, là chật hẹp, để rồi đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái, thì đó là ngày cùng tận của thế giới!
Nhà thiết kế đã tạo ra hai đường ray chật hẹp cho con tàu chạy êm trên đó. Nếu con tàu cứ nương theo hai đường sắt chập hẹp ấy mà bon bon, thì sẽ về ga cuối an toàn. Thế nhưng, một ngày nào đó, đầu tàu nghĩ rằng: tại sao tôi cứ phải bị gò bó bởi hai đường ray quá ư chật hẹp nầy? Tại sao tôi không được tự do tung hoành trên những xa lộ rộng lớn? Thế rồi nó tìm cách thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do trên những con đường thênh thang, để băng mình qua những cánh đồng bát ngát. Hậu quả của sự chọn lựa “tự do” nầy sẽ đưa đến một thảm họa kinh hoàng!
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa cũng vạch ra cho họ một “quỹ đạo”, đó là quy luật yêu thương. Đây cũng là con đường hẹp vì muốn sống yêu thương thì phải từ bỏ tính ích kỷ của mình, phải biết quên mình phục vụ. Nhưng nếu con người đi trật ra ngoài “quỹ đạo yêu thương”, họ phải nhận lấy hậu quả vô cùng tai hại.
Đường hẹp đưa đến vinh quang
Con đường hẹp của học sinh, sinh viên, của nhà nghiên cứu là gác bỏ những thú vui và cám dỗ của những trò tiêu khiển, những phút thư nhàn… để miệt mài nghiên cứu học tập, nhờ thế mà đạt được những thành quả lớn lao.
Nói chung, bất kỳ một kỳ tích hay một thành quả lớn lao trong bất cứ lĩnh vực nào cũng chỉ được gặt hái bằng những hy sinh phấn đấu, bằng những nỗ lực kiên trì, tức là phải thông qua đường hẹp mới đạt được chúng. Thế nên người ta thường nói thiên tài là thành quả của một sự cố gắng lâu dài.
Ngay cả Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người cũng đã chọn con đường hẹp, là tự xóa bỏ mình đi, trở thành tôi tớ trung thành của Thiên Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và thế rồi Thiên Chúa Cha đã cho Người phục sinh vinh hiển và được muôn loài chúc tụng tôn vinh. (Philip 2: 6-11)
Nếu mỗi người chúng ta không theo đường hẹp Chúa Giê-su đề nghị, tức là tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa mà cứ sống buông thả theo đam mê dục vọng hư hèn của mình, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường ray, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có nài van với Chúa rằng: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì Chúa sẽ bảo: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ và “bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.”
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường ray, như trái đất đi đúng theo quỹ đạo…chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.
Vậy thì bước qua cửa hẹp là giá phải trả (có gì mà không phải trả giá) cho hạnh phúc đời nầy và hoan lạc vĩnh cửu mai sau.
21. Hãy vào cửa hẹp – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng: Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được hội nghị tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: “Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết, rồi hãy ăn năn trở lại, hãy vui sống đã”.
Biết bao người đã không nghĩ đến hậu quả mà chỉ nhất thời thỏa mãn những cơn mê say của danh lợi thú trần gian. Họ lao đầu vào cuộc chơi mà không nghĩ đến hậu quả. Họ tìm cách thỏa mãn đam mê của mình mà bất chấp những hành động bạo ngược với gia đình và xã hội.
Theo báo Kiến Thức: Ngồi co ro trong một góc nhỏ của Trung tâm giáo dục xã hội Thanh Hà, Hải Dương, nhìn cảnh đoàn tụ, vui vẻ của các trại viên khác với gia đình, Tùng bỗng thấy hụt hẫng, tim nhói đau xen lẫn nỗi ân hận vô cùng. Chỉ vì đua đòi, ham mê rượu chè đã khiến Tùng mất đi tất cả, từ hạnh phúc gia đình đến tương lai, tình cảm và nhân cách. Để rồi bây giờ, khi rượu không còn, cơn say đã tỉnh, mất quyền tự do, tình thân nhạt nhòa, Tùng mới ân hận vì những gì mình đã làm…
Sinh ra trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là công chức nhà nước, nên cuộc sống của Tùng luôn là niềm mơ ước của bao đứa bạn cùng trang lứa. Sống trong cảnh được cưng nựng, nên từ nhỏ Tùng đã có tính ỷ lại, muốn hưởng thụ, lười lao động. Không nằm ngoài quy luật, Tùng trượt sâu vào hố đen tội lỗi, gây bao muộn phiền, đau đớn cho gia đình và xã hội. Để hôm nay, ngồi trong nhà lao, mới nghĩ lại thì quá muộn…
Cuộc đời nếu biết trước ngày mai sẽ ra sao có lẽ sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Cuộc đời nếu biết rằng thời gian chẳng còn nhiều, có lẽ con người sẽ sống có trách nhiệm hơn, sẽ sống tốt hơn. Nhưng đáng tiếc nhiều người đã không nghĩ đến ngày mai, nhiều người lại cho rằng còn quá nhiều thời giờ nên vẫn đàng điếm xa hoa, vẫn lao vào biết bao cuộc vui thác loạn…
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa hẹp mới đưa ta tới sự sống đời đời. Cửa hẹp đòi phải hy sinh. Cửa hẹp đòi phải phấn đấu, phải nỗ lực không ngừng. Cửa hẹp đòi ta không được chiều chuộng thân xác, không tìm thỏa mãn thú vui xác thịt. Còn đường thênh thang cho ta thỏa mãn cơn khát nhất thời nhưng lại là thuốc độc khiến ta mất mạng đời đời, có khi niềm vui chóng vánh còn để lại những hệ lụy đắng cay trong cuộc đời.
Có một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một ngôi nhà theo ước mơ. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một ngôi nhà, hai vợ chồng đã tan vỡ (…)
Quả thực, con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài. Không có thành công nào lại không là kết quả của một nỗ lực hy sinh. Không có một vinh quang nào lại không kèm theo khổ luyện và phấn đấu. Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát nhất thời mà phải hướng tới mục đích lâu dài. Đừng vì niềm vui nhỏ, mau qua mà đánh mất niềm vui to lớn viên mãn trong Nước Trời.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đi vào con đường hẹp để từ bỏ những niềm vui bất chính mau qua, những danh vọng hão huyền. Ước gì chúng ta luôn can đảm chiến đấu can trường để chống lại những cám dỗ của danh lợi thú trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và thêm ơn cho chúng ta. Amen.
22. Hãy đi vào cửa hẹp – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy một tình trạng đáng lo ngại cho nền đạo đức Việt Nam. Nền đạo đức bốn ngàn năm văn hiến đang trong tình trạng suy đồi, băng hoại thật trầm trọng. Điển hình như các vụ việc gần đây nhất như sau:
“Hiệu trưởng mua dâm học sinh và Chủ tịch tỉnh bị cáo buộc mua dâm ở Hà Giang. Hai vợ chồng bị kết án 20 năm tù mỗi người vì hành hạ một bé trai tại Cà Mau. Một nữ sinh cứa cổ người tình. Một thanh niên chặt đầu người yêu cũ. Bên cạnh đó là tệ trạng hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị buôn lậu với giá nhiều khi chỉ một triệu đồng Việt Nam (tương đương khoảng 50 MK) một người…”
Đó là hậu quả của một lối sống dễ dãi, ẩu thả của xã hội Việt Nam hôm nay. Họ thích tìm sự dễ dãi cho mình đến mức độ bất tuân luật pháp. Họ đề cao tự do, tự lập đến nỗi không cần tôn giáo, và tệ hơn nữa là loại trừ tôn giáo. Họ hành xử theo cách nghĩ của mình, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý truyền thống của cha ông. Chúng ta biết rằng không có tôn giáo thì con người sẽ tự do hành động theo ý mình nên chẳng sợ “trời có mắt” để mà “làm điều lành tránh điều dữ” hay lời khuyên của tiền nhân “ở hiền gặp lành”. Không có tôn giáo con người không có sự sống thần linh hướng dẫn dễ lầm đường lạc lối và điều chắc chắn là chẳng ai nghe ai. Nhìn chung, ai cũng biết rằng cuộc sống dễ dãi sẽ đi tới chỗ diệt vong. Ai cũng biết rằng sự suy đồi của họ sẽ làm nghèo đất nước, làm khổ gia đình, và giết chết bản thân. Nhưng tính hưởng thụ đã đẩy họ vào con đường truỵ lạc để tranh thủ hưởng thụ theo kiểu mà Nguyễn Công Trứ bảo rằng:
Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Con đường với lối đi thanh thoát, nhẹ nhàng khỏi những tham lam bất chính, những quyến luyến phù phiếm mau qua. Chúa mời gọi chúng ta cần phải sống tỉnh thức kẻo sẽ ân hận ngày mai, khi mà mọi người từ đông sang tây đều đến dự tiệc cưới còn mình bị tống ra ngoài. Chúa nhắc nhở chúng ta còn có một sự sống hạnh phúc viên mãn là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn bên Chúa. Đó chính là mùa xuân vĩnh viễn, là hạnh phúc ngàn đời. Đó chính là hạnh phúc mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm và chiếm hữu cho dù phải hy sinh những danh lợi thú trần gian, có khi bằng cả mạng sống ở đời này. Sự sống và hạnh phúc vĩnh viễn đó chỉ đạt được khi chúng ta biết sống hy sinh, biết tự chủ bản thân theo đường lối Chúa, biết sống cao thượng, biết tránh xa những thói đời xấu xa.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay luôn ham sướng sợ khổ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp…; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.
Người ta vẫn nói: “Hãy dừng lại trước khi qua muộn”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.
Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen.
23. Chiến đấu vào cửa hẹp – AM. Trần Bình An
Vào Chúa Nhật ngày 14/4/1985, Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, Ấn Độ, để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị tử nạn. Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep. Ngài được chở vội tới nhà thương, cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường. Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết. Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương. Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha. Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh, nói với cha: “Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời. Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục.” Thiên Thần cũng nói rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục nữa.”Trước tiên,Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục. Đó là một quang cảnh thật ghê sợ. Tôi thấy Satan và các quỷ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2.000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau,thấy những người khác đang bị bày quỷ dữ tra tấn hành hạ.” Tôi được nói cho biết trong Địa Ngục có bảy”cấp bậc,” hoặc bảy tầng đau khổ. Những người “phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác,” khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất. Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn như những con quái vật đáng sợ. Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải. Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh. Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh. Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục, mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi. Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi, có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu. Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ. Vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khác, bởi những lời dạy sai lầm và bởi gương xấu của họ.
Sau đó, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi tới thăm Luyện Ngục. Đau khổ chính của những Linh Hồn này là sự bị chia cắt với Thiên Chúa. Có một số người trong Luyện Ngục đã phạm vô số tội trọng khi còn sống, nhưng họ đã làm hoà với Thiên Chúa trước khi họ chết. Mặc dù những Linh Hồn này bị đau khổ ghê gớm, nhưng họ vẫn cảm nhận được sự bình an và nhận biết rằng, một ngày kia họ sẽ được phúc nhìn thấy Thiên Chúa. Họ xin tôi cầu nguyện cho họ, và nhờ tôi nói lại với người khác cầu nguyện cho họ nữa. Khi chúng ta cầu nguyện cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta sẽ nhận được sự biết ơn của họ và do đó, họ cũng sẽ cầu nguyện cho chúng ta khi được lên Thiên Đàng.
Tiếp theo, Thiên Thần Bản Mệnh dẫn tôi lên Thiên Đàng, ngang qua một đường hầm với ánh sáng chói lọi. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và niềm vui này trong đời. Và rồi đột nhiên, cửa Trời mở ra, và tôi nghe thấy tiếng nhạc du dương nhất mà tôi chưa từng được nghe. Các Thiên Thần đang ca hát, chúc tụng Thiên Chúa. Tôi được nhìn thấy tất cả các thánh, nhất là Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse, và nhiều Giám Mục, Linh Mục thánh thiện, sáng chói như những vì sao. Khi tôi thấy mình ở trước mặt Chúa, Ngài phán với tôi:”Cha muốn con trở lại thế gian. Trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ là dụng cụ bình an và chữa lành cho dân Cha. Con sẽ làm việc ở nước ngoài và sẽ nói ngôn ngữ nước ngoài. Với ơn Cha, mọi sự đều có thể cho con”. Sau những lời này, Đức Mẹ phán với tôi: “Hãy làm những gì Ngài bảo con (Ga. 2, 5). Mẹ sẽ giúp con trong sứ vụ của con.” Không lời lẽ nào có thể diễn tả được vẻ đẹp đẽ, nét huy hoàng của Thiên Đàng! Nơi đó, chúng ta sẽ được sống đời đời trong bình an và hạnh phúc, vượt xa hàng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa bội phần tốt đẹp hơn bất cứ tưởng tượng nào chúng ta có thể nghĩ tới. Nhan Thánh Người ngời sáng và đẹp đẽ, hơn hàng ngàn mặt trời đang mọc. Các tấm hình đẹp đẽ chúng ta thấy trên dương thế chỉ là bóng mờ của sự lộng lẫy của Người mà thôi. Mẹ Maria ở bên cạnh Chúa Giêsu. Người rất đẹp đẽ, sáng láng. Thiên Đàng là Nhà Thật của tất cả chúng ta: Tất cả chúng ta được tạo dựng để vào Thiên Đàng và đời đời vui hưởng Thiên Chúa.
Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích do các xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên. Các người chung quanh tôi hết sức sợ hãi, hốt hoảng vừa chạy vừa la. Một người trong số họ đến gặp bác sĩ:”Thi thể cha đang rên rỉ!” Bác sĩ vội chạy tới khám nghiệm, liền quả quyết:”Cha vẫn còn sống. Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…” (Nguồn: FOSS/web Phinomenon)
Trong Tin Mừng Chúa nhật 21 Thường niên hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo ngày chung cuộc của mỗi người. Nếu ai chiến đấu quyết liệt vào cửa hẹp, thì sẽ được cứu rỗi. Bằng không, khi cửa đóng sẽ vô phương nài nỉ xin vào trong. Những hình ảnh tuyệt diệu trên Nước Chúa, mà Linh mục Tom Maniyangat thị kiến, càng khẳng định thêm niềm hy vọng của những ai đi theo Chúa đến cùng.
Chiến đấu vào Cửa Hẹp
“Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta.” (Is 66, 18) Ơn cứu độ mang tính phổ quát rộng rãi dành cho mọi người, mọi nơi, mọi dân tộc, không loại trừ bất cứ ai, dù theo tôn giáo nào, khuynh hướng nào, như Lời Chúa phán qua ngôn sứ Isaia. Lòng Thương Xót Thiên Chúa không muốn hư mất bất cứ ai. Đức Giêsu đã công khai khẳng định trước toàn thể công chúng: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14)
Tuy nhiên, ơn cứu độ lại còn mang tính đặc thù, riêng rẽ cá nhân, dành hẳn cho mỗi người. Chính vì thế, Đức Giêsu làm lơ, không trả lời cụ thể câu hỏi huyênh hoang, trâng tráo, ngạo mạn, tự đắc, tự mãn, tự phụ: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Cứ y như bản thân, nhóm mình, phe ta, đã được ghi thẳng vào sổ được cứu rỗi. Thay vì tỏ bất bình, Người thản nhiên, chân tình, vui vẻ, thân thương hướng dẫn, khuyên nhủ, nhắc người hỏi: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”
Chiến đấu với chính mình, với kẻ nội thù đang ẩn sâu, nấp kín, đang nằm vùng, cài cắm ngay trong thân xác và tâm hồn vị kỷ, là ưu tiên nhất. Vì thế, điều kiện khởi sự theo Chúa chính là từ “bỏ mình.” Thoát ra khỏi ách nô lệ bản năng, tham sân si, lợi lộc, nô lệ tiền tài, vật chất, tiện nghi, nô lệ hào quang danh vọng.”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mc 8, 34)
Chiến đấu với cái tôi, vốn được ảo tưởng là trung tâm vũ trụ, là một cuộc chiến dai dẳng, khốc liệt và trường kỳ. Thường người ta hay lấy quan điểm, cái nhìn chủ quan, cá nhân, hạn hẹp, phiến diện, lệch lạc, méo mó của mình làm tiêu chuẩn, áp đặt cho tha nhân, có khi cho cả Đấng Tạo Hoá. Vậy không chiến thắng nổi chính bản thân, làm chủ bản thân, thì đừng mơ bước vào cánh cửa chật chội, nhỏ hẹp, vì Nước Trời dành cho những ai mạnh mẽ đấu tranh, như Đức Giêsu đã quả quyết:“Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11, 12; Lc 16, 16)
Dĩ nhiên, không thể nào chiến thắng cái tôi xác thịt ích kỷ, thế gian mưu ma chước quỷ, với thiên hình vạn trạng, nếu không có hồng ân Chúa trợ lực, qua cầu nguyện và hãm mình chay tịnh. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao.” (Ep 6, 12).
Thánh Phaolô đã hoàn toàn phó thác và trông cậy quyền năng Thiên Chúa: “Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi” (Cl 1, 29). Thánh nhân còn ân cần khuyến khích mọi người, qua thư gửi anh Timôthê: “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.” (1Tm 6, 12)
Vơ vét, gom góp, chất đầy lòng tham, ham muốn ngồn ngột, lỉnh kỉnh tiện nghi hưởng thụ, cồng kềnh đam mê, háo danh, háo lợi, thì làm sao có thể vào “cửa hẹp”? Trong khi, Đức Giêsu lại là cửa định mệnh: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 9).
Người đã làm gương, đã thân chinh qua cánh cửa hẹp đó, bằng cuộc tử nạn đau đớn. Rồi sau đó, Người được phục sinh vinh hiển. Vì thế, Người luôn kêu gọi mọi người cố gắng phấn đấu vào được cửa hẹp: “Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 14)
Chiến đấu trước khi cửa đóng
Con đường dẫn đến cửa hẹp cũng được Đức Giêsu tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, vì: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6) Con đường từ bỏ mình, vác khổ giá. Con đường hy sinh, hãm mình. Con đường đơn sơ, khiêm nhường, trong sạch, nghèo khó, vâng phục. Con đường tái sanh, hồn nhiên, ngây thơ như em bé, phó thác như con với cha mẹ. Con đường ăn năn, sám hối kiếp đi hoang trở về với Người Cha Nhân Từ.
Nhưng phận người thì mong manh, mỏng dòn, yếu đuối, sớm nở tối tàn lúc nào chẳng hay. Chẳng biết khi nào cánh cửa cuộc đời khép chặt lại. Vậy cố gắng phấn đấu sống giây phút hiện tại tròn đầy bổn phận và trách nhiệm, chính là vâng phục Thánh Ý Chúa, chính là xả kỷ vị tha, sống cho, sống vì, sống với tha nhân, cùng với tình yêu nồng nàn bác ái, dấn thân phục vụ. Đừng như các cô trinh nữ dại khờ gõ cửa, năn nỉ vô vọng: “Thưa ngài, thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với.” Rồi chỉ nghe câu trả lời hết sức phũ phàng: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25, 11-12)
Đừng tự mãn con nhà đạo gốc, tự mãn chăm lễ chầu, kinh nguyện, tự mãn giữ đạo máy móc theo luật định, vì chắc chắn sẽ nghe lời khước từ lạnh lùng: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính.”
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đổi “của thiệt” lấy toàn “đồ giả”. (Đường Hy Vọng, số 676)
Lạy Chúa Giêsu, xin luôn thức tỉnh chúng con trong từng phút giây, đừng mê hoặc theo bản năng, thế gian và ma quỷ, mà luôn quyết liệt chiến đấu chống lại mọi cám dỗ của sự dữ, của văn minh sự chết, để có thể vào được cửa hẹp bất cứ khi nào Chúa gọi.
Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, che chở, giúp đỡ cho chúng khi nay và khi lâm tử, luôn sẵn sàng dọn mình bước vào cửa hẹp, hầu được cứu rỗi. Amen.
24. Chiến đấu trường kỳ – AM Trần Bình An
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24)
Lo ngại tình trạng béo phì ngày càng gia tăng tại Dubai, chính quyền thành phố vùng Vịnh giàu có này, quyết định thực hiện sáng kiến đặc biệt, là “đổi trọng lượng lấy vàng”.
Theo đó, mỗi kg mà một người dân “quá khổ” giảm được sẽ tương ứng với giải thưởng 1 gram vàng, theo mức giá ở Dubai là 30 bảng (tương đương 963.000 VNĐ). Tuy nhiên để được nhận giải thưởng, trong vòng 30 ngày, mỗi người đó phải giảm được ít nhất 2 kg.
Chương trình sẽ bắt đầu vào ngày 19-7- 2013. Đây là kế hoạch mới nhất để khuyến khích lối sống lành mạnh tại UAE. Gần đây, chính quyền các địa phương tại UAE liên tục cảnh báo người dân về chứng béo phì gia tăng, do chế độ ăn thức ăn nhanh và ít tập thể dục của người dân nước này.
Chương trình còn có 3 giải thưởng thông qua rút thăm may mắn, dành cho những người giảm cân hiệu quả nhất, với mỗi giải thưởng là 1 đồng xu vàng trị giá 3.600 bảng (116 triệu VNĐ) (Linh San, NLĐ, theo Guardian)
Trong khi chính quyền thành phố Dubai đang tích cực kêu gọi tiết giảm ăn uống, giảm cân, tránh béo phì, được thưởng vàng, thì Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu khẩn thiết kêu gọi mọi người chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào tham dự bàn Tiệc Thiên Quốc.
Chiến đấu xác thịt
Cuộc chiến vô hình này vô cùng dai dẳng trường kỳ và khốc liệt, từ khi có trí khôn đến khi xuôi tay nhắm mắt. Từ nhu cầu bản năng sinh tồn, ăn uống, ngủ, nghỉ, tiệm tiến trở nên những nhu cầu giả tạo, hay xa hoa, phù phiếm, ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi. Từ nhu cầu sinh sống biến hóa thành nhu cầu hưởng lạc.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24)
Biết từ bỏ đi tất cả những gì ưu ái dành cho bản thân. Tiết chế, thanh đạm, đơn sơ, tri túc, tiện túc, hà thời túc, bỏ đi những nhu cầu hưởng thụ, chính là chiến đấu với chính bản thân. Để qua được cửa hẹp, thân xác phải tránh béo phì, gọt bỏ hết tham sân si, trở nên nhỏ nhắn, gọn ghẽ, mảnh mai. Muốn vậy, luôn khiêm tốn, cúi đầu xuống, thành tâm đấm ngực ăn năn, sám hối, bỏ đi tính mê nết xấu, tội lỗi nặng nề, mới có thể thanh thoát nhẹ nhàng bước qua cửa hẹp.
Chiến đấu đam mê
Ngày hôm nay, ma quỷ không còn dáng dấp dễ sợ như xưa. Chúng đội lốt những hình dáng mỹ miều đáng yêu. Những cám dỗ tà dâm, xác thịt hiện diện thường trực và gần gũi suốt ngày qua net, báo chí, TV. Những cám dỗ tham lam của cải, chức tước, danh vọng còn được khích lệ tăng trưởng không ngơi qua media, truyền thông, truyền hình.
“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vỉ dư giả mà mạng sống con ngưởi được bào đảm nhờ của cải đâu.”(Lc 12, 15)
Những đam mê cao quý như văn chương, nghệ thuật, thể thao, đang bị lạm dụng, biến dạng thành những thú vui bịnh hoạn, phục vụ cho những kè tà tâm, tà ý. Vậy Kitô hữu chúng ta cần cảnh giác tinh tế nhận ra, khước từ và tẩy chay. Cuộc chiến đam mê thầm lặng không kém khốc liệt.
Chiến đấu thế gian
Cờ bạc, rượu chè, trai gái, ma túy đang là hiểm họa của mọi người, mọi nơi. Chúng là hệ quả tất yếu của nền văn hóa hưởng thụ, nền văn minh sự chết. Tuy nhiên chúng quá lộ liễu, khiến dễ tránh xa.
Nhưng chiến đấu chống lại xu thế xã hội mới lắm gian nan thách thức. Một xã hội chạy theo những giá trị phù hoa, hào nhoáng, những thần tượng sớm nở tối tàn, những luân lý phản tự nhiên, những lý thuyết vô thần, vô đạo, vô nhân, phi luân, phi nghĩa. Một xã hội vô cảm, kiêu ngạo và vị kỷ. Dám chống lại, lội ngược dòng đời, mặc lời chê bai, miệt thị là dám chiến đấu chống lại cái ác, sự dữ, thế gian và những của phù vân.
“Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7: 13).
Thánh Phanxicô Assisiô như điên cuồng theo Chúa, dám từ bỏ cuộc sống nhung lụa, tương lai sáng lạn vinh hoa phú quý, để khoác tấm áo thô rách rưới, cũ rich, dám ôm hôn người phung hôi hám, bần thỉu, vì cảm nghiệm Chúa đang hiện hữu nơi người bệnh hoạn ấy.
Thánh Phaolô đã minh định trải qua cuộc chiến đấu dũng cảm can trường:”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. (Đường Hy Vọng, số 106)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cúi đầu, khiêm nhường và từ bỏ bản thân, sám hối ăn năn tội lỗi, cùng biết quan tâm, yêu thương tha nhân, trở nên bé nhỏ, để vào được cửa hẹp.
Lạy Mẹ, vốn khiêm nhu, vững tin và vâng phục, xin dạy chúng con luôn biết chiến đấu kiên cường với chính bản thân, ma quỷ và thế gian, để chúng con được ơn cứu rổi. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 13: 22-30: Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta…
Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:
Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:
– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”
Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:
– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa. Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.
Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:
– “Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà Thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”. Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng như lời ông khai báo. Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả. Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:
– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”. Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được. Còn con thì thật là khác thường. Con suốt đời không phạm tội gì cả. Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng. Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.
Thưa anh chị em,
Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay. Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa. Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em chung quanh. Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời. Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là Dân riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời. Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống và Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!
Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời. Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù … Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên. Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn. Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.
Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn. Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến. Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại. Họ sẽ được vào đồng bàn và các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng. Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không? Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, dđ dạy hay không? Vì thế, đừng lầm tưởng rằng: hễ có tên là kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta. Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi người thành tâm thiện chí. Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống kitô hữu đích thực.
Thưa anh chị em,
Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em. Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).
Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống. Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ bánh thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để vào dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.
26. Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp
Anh chị em thân mến.
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể lại câu chuyện chạy đua của thỏ và rùa. Con thỏ rất nhanh chân, còn rùa thì bước đi không thể so bì được với ai. Thế mà kết cuộc rùa đã thắng thỏ. Rùa biết thân phận mình, nên cố hết sức, tận dụng hết khả năng của mình để vượt chặng đường qui định. Rùa vẫn biết khả năng thắng cuộc rất mong manh.
Nhưng chính sự cần cù vượt khó: vượt qua sự mệt nhọc, vượt qua khả năng giới hạn của bản thân, vượt qua sự chê cười của đối phương. Chính những cố gắng đó đã đưa rùa đến chiến thắng.
Còn thỏ, quá ỷ lại vào tài năng bản thân, nên cứ lo rong chơi thoải mái, tìm của ăn để thưởng thức. No nê rồi mà thỏ vẫn còn nhìn thấy rùa đang lê từng bước chân nặng nề chưa đi đến đâu. Thỏ mỉm cười ung dung đánh một giấc ngon lành. Khi chợt tỉnh dậy, thỏ không còn nhìn thấy rùa đâu nữa. Thỏ bèn tăng tốc, vận dụng hết khả năng mình có, khi nhìn thấy bóng dáng rùa từ xa, thì không còn kịp nữa, rùa đã đến nơi. Thỏ đành ôm hận mà quay trở về với thất bại.
Có tài năng, nhưng quá ỷ lại, không biết vận dụng, không biết cố gắng, thì cũng trở nên vô dụng. Còn biết cố gắng vượt khó, sẽ thành công.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ và những người thời bấy giờ: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Ngài bảo thế và Ngài đã làm gương. Ngài đã đi qua cửa hẹp của con đường Thập Giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự vâng phục, vâng phục đến hy sinh mạng sống. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự nhục nhã, bị người đời khinh chê. Ngài đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng để đem sự sống đến cho con người. Vì yêu thương mà Ngài đã kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại để chiến thắng. Mặc dù là Con Thiên Chúa, Ngài không ỷ lại, không tự hào, nhưng với tất cả sự khiêm nhường và nhẫn nhục, mang lại chiến thắng, chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Chính vì thế Ngài kêu gọi mọi người đi trên con đường chiến thắng đó.
Trong mọi thời đại loài người luôn đi tìm con đường sự sống. Biết bao người đã nhìn thấy được con đường nhưng họ vẫn đi tìm, vì con đường mà họ hìn thấy không đúng như họ mong muốn, nên họ cứ mãi đi tìm, để rối đành ôm nỗi hận trong sự thất bại. Rất nhiều người không muốn đi trên con đường mà họ đã có được chiếc chìa khóa trên tay, họ không muốn mở cửa con đường, vì họ không muốn bước vào: nó chật hẹp quá, nó khó khăn quá và nhiều lúc không biết con đường đi đến đâu mới đạt được mục đích. Chiếc chìa khóa họ có trong tay trở nên vô dụng, vì không giúp gì được cho họ. Họ cũng đành ôm nỗi thất bại trong cuộc đua về đích.
Chúng ta, những người của thời đại mới, Chúa Giêsu cũng trao cho mỗi người chiếc chìa khóa của con đường sự sống: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúng ta đã nghe, đã biết rất nhiều. Chúng ta biết rất rõ con đường dẫn đến sự sống là con đường như thế nào. Nhưng chúng ta dể mang tâm trạng của con thỏ trong cuộc đua với rùa.
Trước tiên vì quá ỷ lại vào sức khỏe. Chúng ta ngỡ rằng thời gian còn dài, nên cứ mặc tình tìm sự hưởng thụ cho thân xác mà một ngày kia nó sẽ bị tiêu hao, vậy mà nó vẫn được phục vụ hết sức chu đáo, nhiều khi quá mức cần thiết, để rồi bất chấp tất cả, bất chấp cả tiếng nói của lương tâm ngay chính, bất chấp cả tiếng nói của con tim yêu thương, bất chấp cả tiếng kêu than của sự bất công mà chúng ta đã gây nên.
Chúng ta cũng ngỡ rằng, mình làm một số việc mà mình cho là đạo đức, những việc đó bảo đảm an toàn cho sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế chúng ta cứ cho con người mình thoải mái trong lời nói, trong suy tư, trong những toan tính, và trong cách đối xử với người khác. Coi chừng chính những gì chúng ta ngỡ là đạo đức theo như mình muốn. Những gì chúng ta cho là bảo đảm, nó sẽ phản bội chúng ta. Giống như tài năng chạy nhanh của con thỏ đã phản bội nó vì sự ỷ lại và khinh dể kẻ khác. Không lẽ cuối cùng chúng ta sẽ lãnh nhận một câu nói phủ phàn:” Ta không biết các ngươi từ đâu tới”.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết tìm đúng con đường đi đến sự sống và can đảm bước đi cho đến cùng.
27. Cửa hẹp – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng hôm nay nói đến hình ảnh cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó đi qua, chỉ dành cho ít người. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Nước Trời.
Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi hay kém giá trị. Tính từ hẹp chỉ sự thách đố, chông gai, đòi hỏi nổ lực để kiên vững bước đi. Hẹp chỉ sự khó khăn, vất vả, từ bỏ, cần phải “chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.
Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay nói về cửa vào Nước Trời tuy hẹp nhưng không chật mà vẫn rộng thênh thang.
- Cửa hẹp mà không chật
Trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia trình bày ý định của Thiên Chúa là muốn qui tụ mọi dân tộc, mọi quốc gia thành một dân duy nhất tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Điều kiện phải có là lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.
Tác giả thư Do thái trong bài đọc 2 viết rằng: vì những ai được Chúa thương thì Ngài sẽ nhận làm con. Chúa thương ai thì mới sữa dạy người ấy và có nhận ai làm con mới cho roi cho vọt. Điều kiện là vâng nghe Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách.
Bài Tin Mừng nói đến sự nổ lực suốt hành trình đức tin. Vì tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Không phải ai muốn vào cũng được. Cửa hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nổ lực sống thực thi ý Chúa, nổ lực trung thành với niềm tin của mình, nổ lực sống tình bác ái yêu thương.
Bất luận là ai cũng có thể được vào Nước Trời, miễn là phải cố gắng. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Tất cả là do nổ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân; không do định mệnh, không do đặc quyền đặc lợi, cũng không có chế độ ưu tiên nào, chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.
- Nước Trời rộng, muốn vào phải có điều kiện
Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, vấn đề chủ yếu là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Nước Trời rộng bao la, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi buộc phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
– Phấn đấu hạ mình xuống.
Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên, nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để hạ mình xuống. Sống tinh thần yêu thương phục vụ anh em. Chúa dạy rằng: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14, 11); “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14, 10); “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26); “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10, 15). Cần phải biến đổi và tự hạ để có thể vào được Nước Thiên Chúa (Mt 18,3-4).
– Phấn đấu để bé nhỏ lại.
Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra, trái lại người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ đi: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21); “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3). Phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ thì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
- Cửa hẹp dẫn vào Nước Trời mênh mông
Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp.Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Đức Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Đức Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.
Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một.Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian.Cửa hẹp nên để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân? “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Khung cửa hẹp, con đường hẹp là con đường tu đức Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, nhưng đó không phải là mục tiêu. Mục tiêu là ơn cứu độ, là hạnh phúc, là niềm vui, là Nước Trời, là tình yêu và sự sống mà Chúa dành cho con người. Mục tiêu ấy chúng ta chưa đạt được cách trọn vẹn ở đời này, nhưng cũng đã đạt được một phần nào ngay trong hành trình của cuộc sống đời thường.
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những thử thách, những thập giá. Vì đó là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, đón nhận vinh quang phục sinh. Một cuộc “chiến đấu” để cuối cùng có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng: Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được hội nghị tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này:”Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết, rồi hãy ăn năn trở lại, hãy vui sống đã”.
Biết bao người đã không nghĩ đến hậu quả mà chỉ nhất thời thỏa mãn những cơn mê say của danh lợi thú trần gian. Họ lao đầu vào cuộc chơi mà không nghĩ đến hậu quả. Họ tìm cách thỏa mãn đam mê của mình mà bất chấp những hành động bạo ngược với gia đình và xã hội.
Theo báo Kiến Thức: Ngồi co ro trong một góc nhỏ của Trung tâm giáo dục xã hội Thanh Hà, Hải Dương, nhìn cảnh đoàn tụ, vui vẻ của các trại viên khác với gia đình, Tùng bỗng thấy hụt hẫng, tim nhói đau xen lẫn nỗi ân hận vô cùng. Chỉ vì đua đòi, ham mê rượu chè đã khiến Tùng mất đi tất cả, từ hạnh phúc gia đình đến tương lai, tình cảm và nhân cách. Để rồi bây giờ, khi rượu không còn, cơn say đã tỉnh, mất quyền tự do, tình thân nhạt nhòa, Tùng mới ân hận vì những gì mình đã làm…
Sinh ra trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là công chức nhà nước, nên cuộc sống của Tùng luôn là niềm mơ ước của bao đứa bạn cùng trang lứa. Sống trong cảnh được cưng nựng, nên từ nhỏ Tùng đã có tính ỷ lại, muốn hưởng thụ, lười lao động. Không nằm ngoài quy luật, Tùng trượt sâu vào hố đen tội lỗi, gây bao muộn phiền, đau đớn cho gia đình và xã hội. Để hôm nay, ngồi trong nhà lao, mới nghĩ lại thì quá muộn…
Cuộc đời nếu biết trước ngày mai sẽ ra sao có lẽ sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Cuộc đời nếu biết rằng thời gian chẳng còn nhiều, có lẽ con người sẽ sống có trách nhiệm hơn, sẽ sống tốt hơn. Nhưng đáng tiếc nhiều người đã không nghĩ đến ngày mai, nhiều người lại cho rằng còn quá nhiều thời giờ nên vẫn đàng điếm xa hoa, vẫn lao vào biết bao cuộc vui thác loạn…
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa hẹp mới đưa ta tới sự sống đời đời. Cửa hẹp đòi phải hy sinh. Cửa hẹp đòi phải phấn đấu, phải nỗ lực không ngừng. Cửa hẹp đòi ta không được chiều chuộng thân xác, không tìm thỏa mãn thú vui xác thịt. Còn đường thênh thang cho ta thỏa mãn cơn khát nhất thời nhưng lại là thuốc độc khiến ta mất mạng đời đời, có khi niềm vui chóng vánh còn để lại những hệ lụy đắng cay trong cuộc đời.
Có một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một ngôi nhà theo ước mơ. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một ngôi nhà, hai vợ chồng đã tan vỡ (…)
Quả thực, con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài. Không có thành công nào lại không là kết quả của một nỗ lực hy sinh. Không có một vinh quang nào lại không kèm theo khổ luyện và phấn đấu. Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát nhất thời mà phải hướng tới mục đích lâu dài. Đừng vì niềm vui nhỏ, mau qua mà đánh mất niềm vui to lớn viên mãn trong Nước Trời.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đi vào con đường hẹp để từ bỏ những niềm vui bất chính mau qua, những danh vọng hão huyền. Ước gì chúng ta luôn can đảm chiến đấu can trường để chống lại những cám dỗ của danh lợi thú trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và thêm ơn cho chúng ta. Amen.
29. Đường vào Nước Trời – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có nhiều hay ít người được cứu độ? Những ai được cứu độ? Phải làm gì để được cứu độ? Đây là những câu hỏi rất quan trọng. Sở dĩ người Do thái đặt câu hỏi nhiều hay ít người được cứu độ, vì họ tin là chỉ có người Do thái, chỉ có dân tộc Do thái là dân riêng mới được cứu, còn dân ngoại thì Thiên Chúa tiêu diệt hết. Nơi Cựu ước chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này nơi tiên tri Giona, ông không vâng lời Chúa, trốn đi để khỏi phải rao giảng lời Chúa cho Israel và dân ngoại, mà dân ngoại thì Chúa đâu có cứu cho nên giảng làm gì. Người biệt phái thì họ càng tin chắc hơn quan điểm này. Quan điểm này sau đó nhiễm luôn cả giám mục Jancénius, có muốn nên thánh mà Chúa không cho thì cũng hư đi thôi, hậu quả là người ta sống buông thả, hưởng thụ, không được đời sau thì phải bám lấy cái đời này thôi.
Thật sự tìm hiểu kỹ Thánh Kinh thì không phải như thế, mà Chúa cứu cả dân ngoại. Lịch sử cứu độ Cựu ước, sau thời kỳ Babylon Chúa đã làm cho dân ngoại qui về Thiên Chúa, đến nỗi cả đế quốc Ba Tư là dân ngoại cũng yểm trợ cho dân Israel trở về tái thiết quê hương.
Isaia nơi bài đọc I cho thấy Chúa tập họp các dân nước đến và cho thấy vinh quang Chúa. Isaia trình bày cho chúng ta rất rõ ý muốn và tình yêu của Giavê Thiên Chúa qui tụ mọi dân tộc, biến họ thành một dân duy nhất. Dân Israel trở về quê hương đầy phấn khởi và hy vọng sau một thời kỳ dài làm nô lệ bi đát, ghê tởm. Khi trở về rồi thì họ phải đương đầu với thực tế khó khăn ghê gớm. Vì tế, Isaia cố gắng đem lại cho họ nghị lực đã bị suy giảm và có thể rơi vào tuyệt vọng bằng cách là diễn tả một tương lai sáng chói cho một dân được tuyển chọn, dân đó chính Chúa chọn lựa làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất mọi dân nước, mà dân nước này cũng được tiếp nhận cùng với dân riêng thuộc về Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Đó chính là sự hướng dẫn tuyệt diệu trong Hội thánh do Đức Kitô thiết lập cho cả nhân loại, cho cả thế giới ở mọi thời và mọi nơi.
Với ý chí ham hiểu biết, với tính tò mò, chúng ta muốn hỏi nhiều hoặc ít người được cứu độ như người Do thái đã hỏi Chúa Giêsu. Nơi đoạn Tin Mừng chúng ta đọc lại hôm nay, Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được cứu độ thì người ta sẽ sống buông thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ thì người ta sẽ thất vọng buông xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái thôi.
Tuy nhiên, trong Phúc âm có lời Chúa châm biếm họ: “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Chúa. Trong ngày phán xét nhiều kẻ nói chính tôi nhân danh Chúa làm được cái này, làm cái kia, nhân danh Chúa trừ quỉ, nói tiên tri, làm phép lạ… Bấy giờ chủ tuyên bố: Ta không biết các ngươi là ai, hãy xéo đi khỏi mặt Ta hỡi những phường tác quái”.
Vì thế, lẽ ra người ta phải đặt câu hỏi: Làm sao để được cứu độ? Làm gì để được cứu độ? Cho nên Chúa trả lời các người hỏi là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời”, chứ Ngài không trả lời là nhiều hay ít người được cứu. Như thế, đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được.
Lucife đã phình to, Ađam Eva đã phình to, vì thế Chúa nói hãy chiến đấu, chiến đấu cho cái tôi nhỏ lại trước anh em, chiến đấu cho cái tôi khiêm hạ trước Thiên Chúa rất cần thiết. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, có những lúc trong mình cái tôi có khuynh hướng muốn bành trướng để thu tích. Thu tích trí thức, thu tích đạo đức, thu tích chức vụ, thu tích sự tín nhiệm và có khuynh hướng muốn vượt lên trên người khác. Do đó nó làm cho lòng chúng ta sơ cứng, khép lại trong mức độ khác nhau tùy mỗi người. Vì thế, Chúa muốn chúng ta chiến đấu vào của hẹp, một cuộc chiến đấu vào của hẹp là không phải tự mình đặt vào mà chính Chúa dẫn đem chúng ta vào.
Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho chúng ta thấy chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách. Tất nhiên chiến đấu là phải can trường; tất nhiên chiến đấu là gặp những thử thách, gặp những thương tích, gặp những đau khổ. Nhưng Thiên Chúa như một người Cha vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài quan tâm, Ngài sửa dạy, Ngài bổ sức, nâng đỡ, vì thế thánh Phaolô khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
Bước đường xem ra càng khó khăn, chúng ta càng cần phải hy vọng, tin tưởng để chiến đấu. Chúng ta cần tin Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được sự lành, dù Ngài có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con riêng của Ngài. Chúng ta cần tin vào Ngài để chiến đấu và chắc chắn chúng ta sẽ vào được cửa trời, cửa xem ra rất hẹp.
Qua kinh tin kính mà chúng ta sẽ tuyên xưng, cậy nhờ Mẹ Maria giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng xin Mẹ giúp chúng ta quảng đại, can đảm để chiến đấu thật lực.
30. Cửa Hẹp – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào. Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã trình bày: Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy bước vào qua cửa hẹp.
Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy” (Is 66, 22). Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện, cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13, 24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.
Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi. Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng nghe!
Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra. Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.
Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng (Lc 13, 28).
Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay nẻo chính. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 13: 22-30: Trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người được cứu độ? Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Nghĩa là phải cố gắng sống thực thi ý Chúa mới được vào.
Trả lời cho câu hỏi: Ai sẽ là người được cứu độ? Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Nghĩa là phải cố gắng sống thực thi ý Chúa mới được vào. Nếu không sống Lời Chúa thì việc làm môn đệ Chúa hay là người cùng dân tộc với Ngài và ngay cả việc đã từng nghe Ngài giảng, từng ăn uống với Ngài cũng chẳng ích lợi gì.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng: Lc 13,22-30
Cửa hẹp
Tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Nhưng không có nghĩa là muốn vào là được. Cánh cửa thì hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nỗ lực sống thực thi ý Chúa; nỗ lực trung thành với niềm tin của mình và nỗ lực sống tình bác ái.
- Trong số những thính giả của Chúa Giêsu, nhiều người nghĩ rằng họ thuộc về dân được chọn là một sự bảo đảm chắc chắn họ sẽ được vào Nước Trời. Vì thế họ giới hạn số người được vào nên đến chất vấn Chúa: Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ?
- Chúa Giêsu làm cho họ tỉnh ngộ qua câu trả lời xem ra không ăn nhập gì đến câu hỏi: Các ngươi phải cố gắng vào qua cửa hẹp. Nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Như thế, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời thẳng vào vấn đề nhưng lại đưa ra một lời mời gọi. Ngài biến vấn nạn thành hiện thực cuộc sống. Vấn đề không phải là bao nhiêu người được cứu và ai được cứu, mà là con người có nỗ lực để được Thiên Chúa cứu hay không.
- Vào cửa hẹp đòi hỏi phải nỗ lực: Nỗ lực tìm kiếm, nỗ lực sống theo ý Chúa. Ai nỗ lực đi theo Chúa thì chắc chắn được cứu độ, được vào Nước Trời dự tiệc mà bất luận họ là ai. Từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam người ta đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.
- GỢI Ý SUY NIỆM
- Cửa hẹp không của riêng ai:
Hình như thiên hạ luôn bị cám dỗ bởi những toan tính thiệt hơn, thua kém, nhiều ít trong mọi vấn đề cuộc sống. Ngay cả trong đời sống đức tin cũng vậy, người ta tính xem ai được cứu độ và Thiên Chúa cứu bao nhiêu người… Có người đã hỏi Chúa như trong Tin mừng hôm nay: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu?” Và trong tâm trí của nhiều người Do Thái ngày xưa cũng yên chí rằng, là người Do Thái sẽ được cứu hoặc như nhiều nhóm đạo đức thời Chúa Giêsu cũng nghĩ ai thuộc nhóm mình thì sẽ được cứu. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã cho thấy, không có chế độ ưu tiên khi vào qua cửa hẹp. Bất luận là ai cũng có thể được vào miễn là phải cố gắng. Không có một quốc gia, một dân tộc, hay một tôn giáo nào có quyền miễn trừ khi vào Nước Trời cả. Chỉ có tiêu chuẩn cho đời sống cá nhân là lòng trung thành thực hiện Lời Chúa mới là điều kiện để xét được vào hay không. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Quả thật, tất cả là do nỗ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân. Không có thuyết định mệnh ở đây, không có đặc quyền đặc lợi chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.
Đối với Kitô hữu, một khi đã được thanh tẩy, trở nên con cái Chúa thì cũng chưa hẳn đương nhiên vào được cửa hẹp. Đón nhận đức tin chưa đủ mà điều quan trọng hơn là phải sống đức tin, đấy là con đường qua cửa hẹp. Nếu không, thì chính Kitô hữu sẽ bị loại ra đầu tiên trước khi cửa đã đóng lại. Lúc đó không thể nói với Chúa: Lạy Chúa con vẫn hằng đi lễ, rước lễ, đọc kinh cầu nguyện sao con không được vào? Những chuyện đó chưa đủ mà phải nỗ lực sống Tin mừng nữa kìa.
- Cửa hẹp dễ mấy ai qua:
Cánh cửa vào Nước Trời dầu có hẹp nhưng vẫn đủ rộng để đón mọi người và từng người đi vào. Tuy nhiên, dù có thể đón hết, nó vẫn là cánh cửa hẹp chứ không phải là một lối đi thênh thang. Để qua được, đòi hỏi phải nỗ lực phấn đấu không ngừng trong cuộc sống đức tin. Việc quan trọng chính là sống thực hành giới răn yêu thương. Phải làm sao để mình trở nên men, muối Tin mừng cho thế gian, đây là việc không dễ dàng chút nào đòi hỏi phải cố gắng, kiên trì và nhiều nghị lực. Theo đúng nguyên nghĩa của từ Chúa Giêsu dùng “hãy cố gắng”, Luca dùng từ Hy Lạp ‘agoonidzesthé’ nghĩa là đấu tranh vật lộn, cuộc đấu tranh sinh tử sau cùng. Tất cả sẽ quyết định ở chính hiện tại này, vào hay không vào.
Cửa hẹp ai cũng có quyền mơ ước và có khả năng vào nhưng muốn được vào cần phải cố gắng bằng nỗ lực sống Tin mừng. Vậy mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay đã và đang nỗ lực như thế nào? Cửa tuy có hẹp nhưng chúng ta đừng lo sợ, ơn Chúa đủ cho thiẹn chí của mỗi người chúng ta. Vấn đề là mỗi người hãy quyết tâm vào cho bằng được.
- Cửa hẹp, cửa vào Nước Trời:
Cửa hẹp hay con đường hẹp và cửa rộng hay con đường thênh thang thường là những ẩn dụ Chúa Giêsu dùng để khuyên bảo mọi người cố gắng phấn đấu trong đời sống đức tin. Cửa hẹp là con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu đòi hỏi sẽ phải đi qua nhiều khó khăn thử thách. Trong Tin mừng Chúa Giêsu đã nói nhiều và rất rõ ràng về con đường thập giá, con đường mà ai muốn theo Người luôn phải đi vào. Qua cửa hẹp cũng là một cách nói về con đường thập giá của Chúa Giêsu. Cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến sự hư mất. Theo Chúa mà không gặp thử thách khó khăn, theo Chúa mà không cần nỗ lực để chỉ biết sống theo đam mê dục vọng xác thịt của mình như Thánh Phaolô đã khẳng định thì không xứng đáng là con cái của Thần Khí, không xứng đáng là con người mới trong Đức Kitô, nghĩa là không thể vào Nước Trời. Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Do Thái ở bài đọc II, tác giả cũng cho thấy con đường khó khăn là đường lối sư phạm mà Thiên Chúa là người Cha nhân ái dùng để huấn luyện chúng ta là những người con của Ngài.
Nhận thức được cửa hẹp là cửa đưa dẫn vào Nước Trời, mỗi Kitô hữu phải có gắng nỗ lực và tin tưởng dấn bước. Vì qua thập giá sẽ đến vinh quang, qua cửa hẹp sẽ vào Thiên Đàng vinh phúc.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, tất cả mọi người đều được Chúa yêu thương mời gọi tiến vào dự tiệc trong Nước Chúa. Trong niềm tin tưởng và hân hoan, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện của chúng ta.
- Người ta sẽ từ Đông sang Tây; từ Nam chí Bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội thánh chính là nơi qui tụ mọi dân nước về với Chúa. Xin cho Hội thánh Chúa luôn kiên trung, vững mạnh và phát triển giữa bao nhiêu khó khăn thử thách trong xã hội hôm nay.
- Mọi người đều có quyền bình đẳng trước các ân huệ và ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn có được sự khôn ngoan sáng suốt và một tình yêu dân nước chân thành để xây dựng và đưa dân nước có được một đời sống hòa bình, công bằng và bác ái.
- Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn tin tưởng nỗ lực sống Tin mừng để ai nấy đều xứng đáng vào qua cửa hẹp hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải nỗ lực cố gắng mới mong đạt được ơn cứu độ. Xin Chúa ban tràn đầy ơn Thánh Thần soi sáng trí lòng và nâng đỡ cho chúng con, để chúng con vững bước trên hành trình đức tin. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
32. Đi vào cửa hẹp – Lm. John Nguyễn Tươi
Một người đến gặp Chúa Giêsu và hỏi,” Thưa Ngài, chỉ có vài người được cứu?” Để hiểu được ý nghĩa câu hỏi trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm thiên đàng của người Do-thái lúc bấy giờ.
Trước hết, người đàn ông này là một người Do thái. Ông ta nghĩ rằng, chỉ có những người Do-thái mới được cứu độ. Cho nên, ông ta hỏi Chúa, chỉ có vài người được cứu độ và lên thiên đàng, còn những người dân ngoại thì không được vào. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu cảnh tỉnh họ, và muốn cho họ hiểu đúng về quan niệm Nước Trời. Ngài trả lời rằng, ” Hãy phấn đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” Chúa Giêsu nói với nguời Do Thái, họ có thể là những người bị loại ra khỏi NướcTrời nếu như họ không chịu ăn năn sám hối.
Kế đến, Chúa Giêsu bảo họ, hãy vào “cửa hẹp”. Ngài dùng nhìn ảnh cửa hẹp để minh họa, vì cách suy nghĩ, hành xử và lối sống của họ đi ngược lại với đường lối của Thiên Chúa. Họ tự cho mình người là người thánh thiện, công chính hơn người dân ngoại, tất nhiên, họ sẽ được vào thiên đàng. Điều này nhắc tôi nhớ câu chuyện một người đàn ông chết và được lên thiên đàng. Anh ta đến gặp ông thánh Phêrô tại cổng, và sau đó anh ta được đưa đi xem nhiều nơi. Rồi họ đến một nơi đặc biệt để giam giữ các tội nhân đang đền tội trong đó với bức tường bao bọc kính đáo chung quanh. Khi đi ngang qua, thánh Phêrô bảo anh ta phải giữ thật im lặng. Anh ta hỏi, tại sao? Thánh Phê-rô trả lời, vì ta không muốn làm phiền và cho họ biết con. Với sự nghi ngờ này, anh ta hỏi lại thánh Phê-rô, vậy ai ở trong đó vậy? Ngài trả lời: ở trong đó có nhiều giáo dân và cha xứ của con. Câu chuyện này nói lên điều gì cho chúng ta. Điều đáng thương nhất đối với con người trong thời đại này, đó là sống ảo tưởng về mình, đưa mình lên trở thành “thánh”. Cho nên, Chúa bảo người Do-thái và cả chính chúng ta hãy đi vào cửa hẹp là thế. Nhờ đó, nó giúp chúng ta ý thức về mình bởi con người luôn có tính tự cao và kiêu căng.
Cửa hẹp là thế nào? Nó không phải là không gian nhỏ hay cửa hẹp mà là thái độ và đức tính khiêm tốn cần có của con người, để chúng ta bước vào Nước Trời. Cửa hẹp không phải là không gian hẹp mà là cánh cửa của trái tim biết mở ra với với Thiên Chúa và đến với tha nhân. Con đường hẹp là con đường của hy sinh và từ bỏ. Vì cánh cửa rộng thênh thang dễ dẫn chúng ta vào con đường sai lạc. Chúng nghĩ nghĩ rằng, chúng ta là người có đủ tự cách và cao trọng để bước vào, giống như một ông chủ lớn hiên ngang phải đi vào cửa chính. Đó là lối sống ảo của các nhà tư tế và kinh sư, và đó cũng là lý do tại sao, Chúa đưa em nhỏ đến và bảo dân chúng rằng, ” Ai muốn vào Nước Trời thì trở nên trẻ nhỏ này.” Vì trẻ nhỏ hiền lành, đơn sơ, khiêm tốn, phó thác và vâng nghe theo cha mẹ chúng.
Điều sau cùng cũng là điều quan trọng nhất, Chúa Giêsu làm cho mọi người phải ngạc nhiên và khó hiểu khi Ngài công bố: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” Nghe câu nói này, chúng ta có thể khó hiểu với những gì chúng ta đang sống trên đất nước Mỹ. Một ví dụ cụ thể, đó là khi mọi người vào tính tiền sau khi mua hàng, thì họ phải sắp hàng theo thứ tự, người đến trước sẽ đứng trước người đến sau. Họ không có được ưu tiên theo kiểu ông lớn thì được lên hàng đầu. Thế nhưng, Chúa Giêsu làm chúng ta từ ngạc nhiên này đến ngạc khác. Đó là việc Chúa ưu tiên cho người đến sau. Họ nghĩ rằng, Chúa ưu tiên cho kẻ đến sau được lên hàng đầu thì không có sự công bằng cho người đến trước. Từ thắc mắc này, Chúa lại mở ra cho dân chúng một cái nhìn mới về ơn cứu độ. Đó là Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng cho những người tội lỗi vào. Kẻ sau chót sẽ lên hàng đầu, và kẻ hàng đầu sẽ xuống hàng chót là thế, bởi vì kẻ chót là những người tội lỗi biết ăn năn hối cải để trở về với Chúa. Thiên đàng sẽ vui mừng khi một nguời tội lỗi biết ăn năn sám hối và quay trở về còn hơn cả 99 người không cần sám hối. Cũng như theo tín lý thần học, đó là ơn cứu độ phổ quát là dành cho tất cả mọi người và mọi dân tộc.
Tóm lại, chúng ta cần biết rằng, ơn cứu độ không phải là những gì chúng ta mua được mà là ân ban của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi người con dân của Ngài bước vào Nước Trời với điều kiện bằng con đường hẹp. Con đường của hy sinh và từ bỏ cái tôi ích kỷ chật hẹp để vươn tới với tha nhân và trở về cùng Thiên Chúa. Mỗi lần ta từ bỏ một thói xấu là lúc ta đi vào cánh cửa hẹp.
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa, Mẹ Maria và các thánh đồng hành cùng với chúng con để đi về Nước Trời. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Thánh Luca nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta đang tiến bước về Giêrusalem”. Chúa Giêsu “rao giảng và lên đường” tiến về sự thử thách, các bài học tỏ ra cấp bách. Thánh Luca đặt ra một câu hỏi thuần túy tò mò:
– Có nhiều người được cứu rỗi hay không?
– Ngươi hãy chiến đấu để được cứu rỗi! Hãy gắng sức mà vào cửa hẹp.
Hãy chiến đấu, hãy gắng sức! Luca thích ý tưởng chiến đấu được lấy lại từ người thầy Phaolô của ông. Chúng ta có thể làm cả một tuyên bố với những lời Phaolô kêu gọi chiến đấu:
“Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi” (Cl 1,29); “Êphaphô chăm lo cầu nguyện” (Cl 4,12); “Hãy chiến đấu lành mạnh cho đức tin, giật lấy sự sống vĩnh cửu” (1Tm 6,12)
Đây là cuộc chiến đấu thực hành các lời khuyên đã nhận lãnh. Đã thấy Chúa Giêsu, đã lắng nghe và thậm chí đã ngồi trước mặt ngài vẫn chưa đủ để mở cửa Thiên Chúa.
– Ta chẳng hiểu các ngươi nói gì và từ đâu đến!
Chúng ta không thể trở thành Kitô hữu bằng việc đọc sách thánh và mơ mộng. Cần phải thực hành. Một thứ lo âu đi ngang qua các trang Tin Mừng: điều mà các bạn đang khám phá, các bạn có thực hành hay không?
Ý tưởng “thực hành”đã bị quá hạn hẹp trong việc thực hành bí tích. Người ta nói: “Tôi là người lãnh đạo”. Hành đạo như thế nào? Chúng ta có thể đi lễ hằng ngày và vẫn bị đuổi ra khỏi cửa trời nếu chúng ta không thực sự sống theo Tin Mừng: “Ta không biết ngươi từ đâu đến!”
May thay lời kêu gọi say mê thực hành được soi sáng, cửa hẹp được nới ra thật rộng: “Người ta sẽ đến từ Đông, Tây, Nam, Bắc”. Đây cũng là bài ca chiến thắng của sách Khải Huyền, được lấy lại trong lễ Các Thánh: “Tôi thấy một đám đông không thể đếm được…” (Kh 7,9).
Nhưng lời cuối cùng của bài suy niệm này báo động cho chúng ta: “Có những người rốt hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ trở nên rốt hết”. Chúng ta sẽ thấy lại sự đạo ngược mà thánh Luca thường làm chúng ta hình dung, trong khi nhắc đến ở đây với mức độ vừa phải. Không phải tất cả những người đầu tiên sẽ trở nên rốt hết, người ta nói với chúng ta chỉ một số mà thôi, những người hạng nhất khi đó là những người học hiểu đạo và những người rốt hết khi phải thực hành đạo, cũng phải sắp hàng để đến Nước Trời.
34. Hy vọng và cầu nguyện – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Tách rời bài đọc hôm nay khỏi bối cảnh toàn bộ Phúc Âm, người đọc dễ sinh nản chí. Trong bài chỉ thấy nói đến cửa hẹp nhiều kẻ sẽ không qua được, đến sự khai trừ khỏi Nước Trời v.v… Chúa nhân lành trong bài giảng trên núi, từng nói đến Cha với niềm âu yếm, tại sao ở đây lại có thể nói những lời nghiêm khắc đến thế? Chúng ta cần nhớ rằng Phúc Âm là một pho sách nhất phiến, mạch lạc chặt chẽ, đoạn này soi sáng giải thích đoạn kia. Vì thế không nên hiểu tình âu yếm của Cha như một thái độ nhu nhược, không nên giải thích sự đòi hỏi gắt gao của Người như một chủ trương nghiêm khắc. Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta về sự cần thiết phải từ bỏ và bổn phận phải theo đúng chân truyền.
1) Phải từ bỏ.
Không lọt qua được cửa hẹp là những kẻ không muốn từ bỏ những hành trang bề bộn. Về mặt trí thức, họ khư khư bảo vệ những thành kiến, những hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa, những ý kiến của họ. Về mặt luân lý, họ không từ bỏ những thói quen ích kỷ, thái độ tự tại trong vật chất, những lợi nhuận bất công, những hưởng thụ xác thịt. Một số lớn không từ bỏ những thứ cồng kềnh đó nhưng vẫn muốn xưng mình là Kitô hữu, muốn vượt qua cánh cửa Phúc Âm, tuy nhiên trước con mắt Thiên Chúa họ không qua được. Chính ở điểm này chúng ta không được để cho niềm cậy trông của mình bị dập tắt. Đối với Thiên Chúa, không có điều gì Người không làm được. Vả lại Thiên Chúa luôn luôn giúp đỡ kẻ có thiện chí. Nếu ngay tức khắc chưa thể vượt qua cửa hẹp, chúng ta có thể với sự trợ giúp của Thiên Chúa, loại đi một vài thứ lỉnh kỉnh nói trên. Nếu ngay tức khắc chưa thể tuân giữ tất cả những điều giảng dạy của Phúc Âm, chúng ta có thể với sự trợ giúp do Đức Kitô bảo đảm, bắt đầu tuân giữ một vài điều. Chúa không bao giờ từ chối giúp đỡ kẻ thành tâm thiện chí. Mỗi ngày thêm cố gắng, phấn khởi vì chắc tâm được Chúa giúp đỡ, chúng ta hy vọng vượt qua được cửa hẹp, là điều mà bình thường với sức riêng không ai dám mơ tưởng.
2) Phải theo đúng chân truyền.
Một số nào đó có thể dám tự hào được Đức Kitô nhìn nhận là môn đệ nhưng thật ra Đức Kitô không nhận họ là người của Chúa. Đó là những kẻ uốn nắn Phúc Âm theo ý riêng mình. Ngày nay có những kẻ giả mạo Phúc Âm, những kẻ xuyên qua lời phán của Chúa, muốn đưa ra mớ triết lý, những quyền lợi, những chọn lựa lập trường thế tục của họ. Thay vì quy tư tưởng theo Phúc Âm, những kẻ ấy quy Phúc Âm theo tầm cỡ và tiêu chuẩn tư tưởng của họ. Ngỡ rằng Chúa bỏ đi, Chúa khoá cửa rồi, họ gõ cửa xin vào. Nhưng Chúa từ chối, Chúa bỏ mặc họ với thế gian của họ, vì họ không đón nhận Phúc Âm chân truyền bằng một tinh thần tôn trọng sự thật. Chúng ta lấy ví dụ trường hợp một số hành động chính trị nào đó. Hành động chính trị của các Kitô hữu trong quá khứ và nhất là trong hiện tại luôn luôn bị cám dỗ muốn đem Đức Kitô vào đời sống công cộng, muốn viện dẫn Đức Kitô làm hậu thuẫn cho một hoạt động đảng phái; thật ra ai cũng biết, hoạt động đảng phái làm cho Phúc Âm mất đi tính chất chân truyền. Đối với xu hướng ấy, đối với những kẻ có chủ trương ấy, Đức Kitô đóng cửa lại. Chúa mở cửa cho hầu hết mọi chủ trương, đường lối, ngoại trừ sự giả dối.
35. Qua cửa hẹp mà vào – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
Có khó để vào nước thiên đàng không? Chúa Giêsu nói như thế khi Ngài cảnh cáo: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Lời cảnh cáo của Ngài có một điều gì đó làm bối rối, từ Ngài nói rằng: “Mọi người sẽ đến từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam nhiều người sẽ đến chỗ của mình nơi bữa tiệc trong nước Thiên Chúa”. Lời tiên tri của Isaia hôm nay đã nói về cùng một điều này. Nói cách khác sẽ có nhiều dân tộc ở trong vương quốc. Vậy tất cả những người đó họ làm thế nào để đi qua cửa hẹp được?
Tôi nghĩ điều gì xảy ra trên xa lộ “siêu tốc” khi có một tai nạn tệ hại xảy ra. Cảnh sát liền đóng cửa ba ‘len’ chỉ cho một ‘len’ duy nhất còn lại để chạy giống như một cửa hẹp vậy, tất cả phương tiện giao thông đều phải giảm tốc độ và lần lượt đi qua một cái chốt hẹp. Khi đó tôi nghĩ về cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã ám chỉ tới, tôi thấy mọi người đều phải xếp hàng giống như những chiếc xe hơi trên xa lộ, di chuyển một cách chầm chậm xếp hàng qua một ‘len’ mở duy nhất. Những tài xế đều bực bội, họ ồn ào giận dữ và trao đổi với nhau những cử chỉ tục tĩu. Những chiếc xe hơi và khí hậu thì quá nóng. Nơi chốt đóng thì chật ních các xe. Tội lỗi cũng giống như tai nạn xảy ra trên xa lộ, là nguyên nhân của mọi sự phiền phức.
Đây không phải là một cảnh mời mọc, hình ảnh này có nghĩa là chúng ta phải vào thiên đàng. Nhưng khi tôi nghĩ rõ ràng hơn về hình ảnh cái cửa hẹp, tôi nhận thấy rằng thật sự chỉ có một người có thể đi qua cửa ấy. Con người đó là Chúa Giêsu. Khi Người đi qua cửa đó mà tới thiên đàng Ngài đã đi vào trong mầu nhiệm Vượt Qua là sự chết và sự sống lại của Người. Chúng ta cũng phải buộc chính chúng ta đi qua cửa hẹp. Tất cả chúng ta đều cần làm điều đó, để bảo đảm rằng chúng ta được hiệp nhất với Chúa Giêsu. Nhiều người đã không đi qua cánh cửa độc nhất đó là thân mình của Đức Kitô, Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội.
Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cảnh cáo một lần thứ hai, Chúa Giêsu nói với mọi người sẽ phải minh chứng với chủ nhà: “Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã dạy dỗ trên đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông chủ sẽ trả lời: “Tôi không biết các anh từ đâu đến, hãy xéo ra khỏi mặt Ta hỡi phường bị chúc dữ”.
Đây là sự phiền muộn bởi vì chúng ta đã ăn và uống trước sự hiện diện của Chúa tại Thánh Lễ chúng ta đã tham dự và thông dự vào Thân Mình và Máu Người. Dĩ nhiên là tham dự cách thụ động trong Thánh Lễ thì không đủ. Lãnh nhận Thánh Thể mà không có một sự sốt sắng thúc giúc thì làm sao Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành những giá trị thiêng liêng được. Những gì mà chúng ta đã thực hiện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là khi lãnh nhận Thánh Thể phải ảnh hưởng tới cung cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu không dạy chúng ta trong những đường phố, nhưng Ngài đã dạy dỗ trong nhà thờ của chúng ta trong phần phụng vụ lời Chúa. Đó là lý do vì sao chúng ta phải để tâm lắng nghe những bài học trong Thánh Kinh, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Do Thái ngày hôm nay: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy và có nhận ai làm con cái thì Người mới cho roi cho vọt”.
Với tất cả những điều như thế thì đòi hỏi không thể thiếu được là chúng ta phải trở nên một dân trung thành, chúng ta vẫn phải hợp nhất với Chúa Kitô trong thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Đó là phương cách để bảo đảm rằng chúng ta sẽ phải đi qua tất cả sự ồn ào chán nản của thế gian này mà vào vương quốc đời đời.
VÀO NƯỚC TRỜI KHÓ HAY DỄ? CĂN BỆNH HOANG TƯỞNG.
“Hãy phấn đấu vào qua cữa hẹp, vì có nhiều người tìm cách vào mà không được” (Lc 13, 24)
Anh chị em thân mến,
Bệnh lý lịch, gốc gác, Con Ông Cháu Cha, trước đây đã một thời làm hư hoại xã hội Việt Nam, bại hoại nhân phẫm con người. Hiện tại không phải không còn, nhưng hôm nay tự nơi xã hội ý thức được mầm bệnh để mà tránh, ý thức được tác hại của căn bệnh mà tự đề phòng. Tự nhận ra căn bệnh để chừa, tự nhận ra mầm bệnh để tránh, đó là cách phòng tránh bệnh hữu hiệu nhất của thứ bệnh hoang tưởng, bệnh lý lịch, gốc gác. Có người sẽ hỏi: Trong nhà đạo, có thứ bệnh này không? – Xin thưa: Có đấy. Gioan Tẩy giả đã chưởi thẳng vào nhóm biệt phái: đừng ỷ mình là con cháu Abraham…. Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói cùng chủ đề này. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Trước hết hãy thử đọc lại Phúc âm, xem Chúa muốn nói về chuyện này thế nào?
* Mt 7, 21: “Không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa thì được vào Nước Trời; chỉ có người tin và làm theo Ý Chúa Cha mà thôi”.
* Mt 7, 13-14: Hãy vào qua cữa hẹp, vì nó sẽ đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm…
* Mt 19, 24: Người giàu có vào Nước Thiên Chúa thì khó biết bao; con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nưóc Thiên Chúa….
* bài TM hôm nay: Chúa nói: hãy phấn đấu vào qua cữa hẹp….vì có nhiều người tìm cách vào mà không được vào…
* Tám mối Phúc cũng là lời chúc, lời mời gọi cho những ai vào Nước Trời bằng cách qua cữa hẹp như ý câu trên (Lc 13,
Qua tất cả những câu Phúc Âm trên và qua chính lời Chúa Giêsu nói cho ta hai ý này:
Phải tự mình phấn đấu qua cửa hẹp mà vào Nước Trời…
Nước Trời không thuộc về kẻ có gốc gác mạnh, con cháu Abraham, để mà ỷ lại.
b/. Lời Chúa Giêsu nói trong Bài Tin Mừng hôm nay xem ra như nhắm đến nhóm người biệt phái, kinh sư. Lời nói rõ ràng và cứng rắn, không một chút nễ nang: Muốn vào Nước Trời……hãy phấn đấu vào qua cửa hẹp….Khi cửa đã đóng: ông chủ bảo, ta không biết các ngươi… Bấy giờ các ngươi sẽ phải khóc lóc nghiến răng… kẻ đứng hàng chót sẽ lên đầu, kẻ đứng đầu sẽ xuống chót…
Từ chổ minh định con đường vào Nước Trời, phải là một cuộc phấn đấu tự mình, Chúa Giêsu đả kích quyết liệt một thứ bệnh: hoang tưởng lý lịch – gốc gác – COCC. Đây là một thứ bệnh trầm kha, đáng sợ, dù nó không đưa đến cái chết, nhưng quả thật nó làm cho tinh thần ta ra nghèo nàn dài dài, dẫn đến mất…..trắng luôn. Người mắc bệnh không nghỉ rằng mình là kẻ khốn khổ đáng thương ở trên đời này…Đó chính là thứ bệnh hoang tưởng: lúc nào cũng tưởng mình KHÔN – tưởng mình NGON. Cái mình dở nhiều thì tưởng mình dở ít, tưởng mọi việc không đến nổi nào. Điều mình bình thường ở bậc trung, thì lại cho là hay ho hơn hẳn mọi người. Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy người mắc bệnh này sẽ bẻ bàng cay đắng lắm, vì những lời Chúa Giêsu nói y như gáo nước lạnh tạt ngay vào mặt họ, chỉ mong cho họ hiểu chính mình mà thôi.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ngày xưa, người Do thái thường tự hào vì có tổ phụ Abraham, vì họ là con dòng cháu giống. ngày nay một số người công giáo vẫn còn nghỉ như vậy. Bệnh lý lịch đã ăn vào tận xương tủy của dân tộc VN, nên thực tế bỏ ngay không phải là chuyện dễ. Thời bao cấp đã nổi cộm vì chuyện này. Chúa Giêsu chỉ trích gay gắt và còn nói mạnh mẻ: hãy coi chừng…kẻo người chót lại lên hàng đầu, người đứng đầu lại xuống hàng chót. Ta nghỉ làm sao? Bao lâu nay ta thuộc vào hàng nào đây?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:
Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:
– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”
Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:
– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa. Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.
Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:
– “Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”. Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng như lời ông khai báo. Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả. Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị thêm, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:
– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”. Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được. Còn con thì thật là khác thường. Con suốt đời không phạm tội gì cả. Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng. Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.
Thưa anh chị em,
Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dướci ánh sáng của Lời Chúa hôm nay. Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa. Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung quanh. Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời. Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là Dâng riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời. Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!
Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời. Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù… Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên. Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn. Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.
Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn. Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến. Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại. Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng. Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không? Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không? Vì thế, đừng làm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta. Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí. Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.
Thưa anh chị em,
Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em. Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).
Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống. Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy.
“Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết, nhiều người sẽ tìm vào mà vào không được”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc 13, 22-30, có người đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” (Lc 13, 23). Chúa Giêsu đã nhìn ra sự kiêu hãnh, tự coi mình là công chính của những người này. Ngài không trả lời trực tiếp. Nhưng một cách gián tiếp Ngài đã ám chỉ rằng có nhiều người đánh mất sự cứu rỗi vì chỉ dựa vào tước vị như là thành phần của dân được tuyển chọn. Ngài lo lắng cho họ (Pl 2, 12). Hãy cố gắng vào bằng cửa hẹp! (Lc 13, 24).
Hình ảnh về cửa hẹp được Chúa Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bởi vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao? Có ai mở cổng cho họ vào? Không! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn nấp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
Những người trở về trễ phải khép mình chui qua mọt cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” – “the eyey of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý!
Trong Luca chương 18, 25: “Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là cửa hẹp. Người đi buôn với hàng hoá cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hoá và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quỳ gối xuống may ra mới lọt!
Khi Chúa Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bỏ hết mọi của cải trần gian. sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là con đường hy sinh và vất vả. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui và hạnh phúc đời đời.
Theo thánh Têrêsa Avila, cửa hẹp là nơi nhỏ bé trong trái tim, nơi một người sắn sàng thưa “vâng” hay “không’ đối với điều mà người đó biết là thật. đó là nơi mà không có quyền lực bên ngoài nào có thể xâm nhập hay làm áp lực đến sự chọn lựa của một người được. Đó là “trung tâm của linh hồn’ nơi Thiên Chúa ngự trị
Chúa Giêsu muốn chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Ngài dự tính chương trình cho mỗi người mà Ngài ban cho mỗi người ân sủng để chấp nhận ý định của Ngài. Chúng ta phải sửa dạy chính mình bằng cách sống theo những lời giảng dạy và hành động của Chúa Giêsu. Sự cứu rỗi của chúng ta không chỉ được bảo đảm hoàn toàn bởi chúng ta thuộc về một tỏ chức giáo hội của những người có lòng tin được gọi là Công Giáo; nhưng nó phải được bảo đảm vì chúng ta sống lời Chúa Giêsu mỗi ngày (Ga 12, 47-50)
“Các người hãy có gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13, 24). Lời của Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hôm nay cố gắng thực hành điều chúng ta đã tin trong ánh sáng của những lời dạy bảo của Chúa Giêsu, và không hành động theo những tiêu chuẩn của trần thế vật chất, vô luân và vô tín ngưỡng. Bước qua cửa hẹp có nghĩa là giữ và sống lời Chúa Giêsu và giảng huấn của Giáo Hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước qua cửa hẹp là nhìn vào chính chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới ánh mắt của Ngài, vì biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta. Bước qua cửa hẹp là thay đổi quan niệm sống vì không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh,… thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến hai quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin Mừng nên vẫn được coi là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đạo”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin Mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Ta thấy trong Cựu ước, ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa”. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực. Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin Mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, chưng diện, thú vui không lành mạnh… Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, thành kiến đối với người này người khác… Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?
Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.
Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy, nếu ở đời “Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm kiếm những giá trị thuộc về Nước Trời. Amen.
39. Hãy vào cửa của sự sống – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Lc 13: 22-30: Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng “đi qua cửa hẹp”, tức là phải từ bỏ những thứ không cần thiết và hãy cố gắng để thay đổi cách sống cho phù hợp với đạo lý Tin Mừng.
Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, vì thế, Người không loại trừ ai. Khi đến trong trần gian, Đức Giêsu đã thi hành sứ mạng ấy và không ngừng loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng, sứ mạng này đã không làm cho người Dothái hài lòng, bởi lẽ họ luôn nghĩ chỉ mình dân tộc Israel mới được Thiên Chúa thương và cứu chuộc, còn các dân tộc khác chỉ là dân ngoại.
Chính vì lý do này, mà hôm nay, một người đã đứng lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy”?
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không trả lời cho biết số lượng và thành phần được cứu, mà nhân cơ hội này, Ngài đã vạch ra cho họ một con đường để được cứu chuộc, đó là: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).
- Bối cảnh tạo nên lời giáo huấn
Thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta thấy câu chuyện được đặt vào giai đoạn Đức Giêsu tiến về thành Giêrusalem nhân dịp lễ Cung hiến Đền thờ.
Trên hành trình này, Đức Giêsu đã rảo qua các làng mạc, thị trấn để giảng dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ phải sám hối, cầu nguyện và từ bỏ những thứ trái ngược với đức tin và đạo lý Tin Mừng để được cứu chuộc.
Khi nghe Đức Giêsu giảng, có một người đã cất tiếng hỏi Ngài: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi?” (Lc 13, 23).
Câu hỏi này mang tính tập thể, bởi vì nó được khởi đi từ quan niệm độc tôn chủng tộc của người Dothái. Bởi vì người Dothái luôn nghĩ rằng: chỉ có những người thuộc dòng dõi con cháu Apraham, và phải ở trên phần đất mà cha ông truyền lại, hay ít ra là phải nói tiếng Dothái, vì đây là Tiếng Thánh, rồi phải sớm tối đọc kinh Shema thì mới được cứu độ.
Khi quan niệm như thế, họ đã loại bỏ hết những thành phần của các dân tộc khác và không chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu về ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc.
Thừa hiểu được tâm trạng tự kiêu, tự đại, độc tôn, đặc lợi mà những người Dothái tự nhận cho mình, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học.
Tuy nhiên, Ngài đã không trực tiếp trả lời câu hỏi được đưa ra. Bởi lẽ Đức Giêsu đến không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người. Vì thế, Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc.
Thật vậy, nếu trả lời là: “Chỉ có một số ít được vào”, thì phải chăng lại khơi lên tính tự mãn nơi dân tộc vốn có cái nhìn ích kỷ và hẹp hòi này, và lẽ đương nhiên, họ không cần cố gắng nữa vì nghĩ rằng: số ít ấy chính là dân tộc Dothái. Còn nếu Đức Giêus nói là: “Số người được cứu sẽ rất đông”, thì cũng sẽ làm cho mọi người thờ ơ, ỷ lại và cũng không cần cố gắng làm chi, vì đàng nào thì ơn cứu chuộc cũng sẽ đến với mình.
Chính vì lý do trên, mà Đức Giêsu đã không trả lời theo số lượng, nhưng Ngài nhắm tới phẩm chất. Bởi vì: ơn cứu chuộc là của Thiên Chúa, và Ngài ban cho hết mọi người, moi nơi và mọi thời, miễn sao những người muốn được cứu phải đi theo con đường của Thiên Chúa.
Chính thánh Phaolô cũng đã xác quyết rằng: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này” (Mt 18,14).
Nói như thế, không có nghĩa là cứ muốn vào là được, hay cứ ngồi lỳ và ỷ nại vào ơn Chúa, lại càng không phải cậy dựa vào uy thế của bản thân, hay dân tộc… Điều này cũng được Gioan Tẩy Giả nhắc nhở những người Pharisêu và Sađucêu: “Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…” (Mt 3,7t).
Vì thế, muốn được cứu, phải chiến đấu để mà vào. Không cố gắng sẽ chẳng được vào, vì con đường đưa tới ơn cứu chuộc là con đường hẹp.
- Muốn vào được Nước Trời, phải đi qua cửa hẹp
Khi nói đến vấn đề cửa hẹp, chúng ta cần hiểu biết thêm rằng:
Ở đất nước Dothái thời Đức Giêsu, dân chúng sống trong các thành phố và làng mạc được bao bọc bởi những bức tường thành. Thời đó không có đèn điện. Vì thế, khi trời tối, các cổng dẫn vào thành phải được đóng cẩn thận và các cửa vào nhà cũng được đóng kín để tránh nguy cơ trộm cướp ban đêm.
Chính vì thế, mà những người đi ra khỏi thành, nếu về trễ thì không thể vào được cổng chính, vì các cổng chính đã đóng chặt và không ai dám mở cửa cho vì sợ kẻ thù tấn công…
Họ chỉ có thể lách vào các cổng phụ, còn gọi là cửa hẹp. Người Dothái cũng gọi cửa này là: “Mắt của cái kim”. Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao thánh sử Luca có nhắc đến ở chương 18, câu 25: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Thời đó người đi buôn thường chất đầy hành lý trên lưng lạc đà, muốn qua cửa hẹp thì phải vứt bỏ hết tất cả, và con lạc đà phải khom mình, quỳ gối thì mới mong lọt qua cửa này.
Khi Đức Giêsu lên tiếng mời gọi bước qua cửa hẹp, ấy là Ngài muốn mời gọi người đương thời phải từ bỏ những thứ không cần thiết và sẵn lòng bước qua cửa hẹp. Lời mời gọi ấy chính là biết sống chừng mực, thực thi huấn lệnh của Thiên Chúa cách trung thành và biết hy sinh cũng như chấp nhận mọi khó khăn… phải sống tự chủ và sống có trách nhiệm.
Tuy nhiên, không phải dửng dưng và nghĩ rằng: muốn vào lúc nào thì vào, không! Phải bước vào đúng lúc, đúng nơi, đúng giờ, vì: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” (Lc 13,25).
Như vậy, lời mời gọi phấn đấu để vào qua cửa hẹp, ấy chính là sự hoãn cải thường xuyên.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng.
- Sứ điệp Lời Chúa
Con người thời nay thường chịu ảnh hưởng bởi nền văn minh hưởng thụ. Họ có khuynh hướng ăn sổi ở thì, chụp giật chớp nhoáng…
Lựa chọn này không chỉ dừng lại ở ngoài xã hội, nhưng nó còn ảnh hưởng và chi phối ngay cả đến đời sống đạo của nhiều người tín hữu. Vì thế, dù có đạo hay không có đạo, dù là Công Giáo hay tôn giáo khác, người ta thường chọn cho mình một sự thoải mái dễ chịu, không muốn gò bó.
Chẳng hạn như: theo đạo nhưng không muốn thực thi Lời Chúa, vì Lời Chúa làm ta phải dẹp bỏ nhiều thứ không phù hợp. Đi lễ phải lựa chọn cha. Cha nào giảng ngắn, giảng hay thì đi… Ít khi đi sớm, đến cận kề giờ lễ mới tới. Đến rồi thì viện đủ mọi lý do để ở ngoài theo kiểu đi lễ “ôm” và đi lễ “lòng vòng”. Lại có người thích giữ đạo theo kiểu “gốc cây”. Họ cũng chọn nhà thờ, nào là nhà thờ đẹp, rộng thoáng mát, và có ghế nệm êm, máy lạnh…
Khi tham dự thánh lễ, nếu cha giảng những giáo huấn của Giáo Hội mà đụng chạm đến cuộc sống của ta là khùng lên và tỏ vẻ khó chịu…
Lại có những người thường ưa nói hành, nói xấu người khác hơn là nhận ra và đón nhận điều tốt nơi anh chị em. Hay vẫn còn những người dùng tiền của công khó của cha mẹ, bản thân hay của người khác vào những chuyện bất chính… Rồi cũng không thiếu những bạn trẻ lao mình vào rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng “đi qua cửa hẹp”, tức là phải từ bỏ những thứ không cần thiết và hãy cố gắng để thay đổi cách sống cho phù hợp với đạo lý Tin Mừng. hãy biết cẩn trọng trong việc lựa chọn, bởi vì, cửa hẹp sẽ đẫn đến sự sống, còn cửa rộng và lối thênh thang như tiền của, sắc dục, và sự dễ dãi sẽ dẫn đến cái chết trầm luân muôn kiếp. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc cho chúng ta biết vào đúng lúc, đúng giờ, bởi vì: hãy sám hối khi ta còn có thể và có cơ hội, kẻo lỡ quá muộn, chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa, lúc đó không ai cho vào và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ bị quăng vào nơi khóc lóc và nghiến răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi trên con đường của Chúa đã đi, đó là con đường hẹp. Xin cho chúng con luôn biết khước từ những con đường thênh thang rộng rãi, vì con đường này sẽ dẫn đến diệt vong. Amen.
40. Ai sẽ được cứu? – G. Nguyễn Cao Luật.
Câu hỏi của mọi thời
Ngày xưa, các môn đệ Đức Giêsu đã từng băn khoăn thắc mắc: Ai sẽ là người được cứu? Và theo quan niệm thời ấy, số người được cứu thoát thì ít.
Câu hỏi này phát xuất từ một quan niệm về Thiên Chúa. Người ta cho rằng Thiên Chúa là Đấng nghiêm khắc, luôn đưa ra những đòi hỏi rất cao, và người nào không thực hiện những yêu cầu ấy, sẽ không được cứu thoát. Người ta cũng nghĩ rằng ơn cứu độ là do những cố gắng lập công của con người, ai thực hiện đầy đủ những tiêu chuẩn do lề luật quy định, người ấy sẽ được cứu thoát.
Trước câu hỏi này, chỉ có một giải đáp duy nhất: Giêsu – có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Nhờ Người, với Người và trong Người, mọi kẻ tin đều được cứu thoát. Đây chỉnh là điều mà Đức Giêsu đã nỗ lực bày tỏ trong suốt cuộc đời của Người. Rao giảng, chữa lành, làm phép lạ… tất cả đều cho thấy rằng người ta phải tin vào Người, phải nhờ vào Người mới được cứu thoát. Nhưng đó lại là điều mà người Do-thái không muốn chấp nhận. Họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để loan báo Tin Mừng cứu độ. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng họ không nghĩ rằng vị ấy chính là Đức Giêsu. Họ muốn được cứu thoát, nhưng lại không chấp nhận Đức Giêsu. Trong khi đó, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo: nếu không tin vào Người, họ chẳng được cứu; nếu không đi qua cửa là Đức Giêsu, họ sẽ chẳng vào được Nước Thiên Chúa.
Câu hỏi tưởng chừng rất xưa ấy, ngày nay vẫn còn được nhắc lại. Vẫn có nhiều người của thời đại này cứ băn khoăn thắc mắc về con số những người được cứu, những người được lên thiên đàng. Họ nghĩ ra nhiều điều, thoạt nghe, có vẻ đúng; nhưng xét kỹ, thì không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Nói cách khác, vẫn có nhiều người quan niệm về Thiên Chúa theo những suy nghĩ cũ kỹ, không dám sống thực với Thiên Chúa. Họ tính toán từng hành vi, từng suy nghĩ, không phải để yêu mến Thiên Chúa hơn, nhưng chỉ là để thực hiện những chỉ tiêu mà họ đề ra, và nghĩ rằng những điều đó đem lại cho họ ơn cứu độ.
Bởi đó, để trả lời cho câu hỏi này, hay hơn nữa, chẳng nên đặt vấn đề như thế này làm gì – điều quan trọng là phải gắn bó với Đức Giêsu, bước đi theo Người. Đức Giêsu đã đi trên con đường hẹp, đã chịu đau khỗ, người ta cũng phải làm như vậy, nếu muốn được cứu. Thiên Chúa không đưa ra những chỉ tiêu, để rổi lấy đó mà xét đoán con người. Chỉ tiêu duy nhất – nếu có thể gọi như thế, đó chính là lòng yêu mến, là bước đi theo Đức Giêsu với tất cả nỗ lực của mình.
Bước qua cửa hẹp
Như thế, vấn đề không phải là xem có bao nhiều người được cứu, nhưng là ai dám bước qua cửa hẹp? Ai dám đi theo Đức Giêsu, bỏ lại tất cả, chấp nhận làm môn đệ của Người cách vô điều kiện? Ở đây, cửa hẹp không phải là một cách thức thi tuyển nhằm loại bớt một số người, dựa theo một số tiêu chuẩn đạo đức. Người ta sẽ không phải chỉ đi qua cửa hẹp một lần trong đời, nhưng là suốt cả đời mình. Người ta không thi tuyển vào Nước Thiên Chúa để rổi sau đó không bao giờ thi lại.
Đó là cả một hành trình dài, hành trình của tình yêu. Người ta sẽ phải thường xuyên theo dõi xem mình có đi đúng đường hay không, có đi theo Đức Giêsu hay đã đi ra ngoài con đường do Người hướng dẫn. Cửa hẹp mở ra một con đường, và con đường đó dẫn tới Nước Trời. Người ta phải đem tất cả nỗ lực ra để sống, để đi. Cũng chẳng cần phải chen lấn, xô đẩy nhau, vì mỗi người có cánh cửa của mình, và cánh cửa ấy luôn mở rộng. Người ta cũng chẳng phải cứ đứng ngoài cửa mà gõ, nhưng là có can đảm bước qua hay không. Muốn như thế, người ta sẽ phải vất bỏ những thứ cổng kềnh, những thứ gì cản trở để có thể đi qua cửa ấy.
Đúng thế, đến với Đức Giêsu, đi với Người, có nghĩa là bước đi trên con đường thập giá, chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Đức Giêsu đã không đi con đường nào khác. Chính qua thập giá, Người đã đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại.
Một điều an ủi cho con người là, trên hành trình đó, họ có Đức Giêsu là người hướng dẫn, là bạn đổng hành, là người nâng đỡ. Người Ki-tô hữu không tự mình xoay xở, không cô đơn, nhưng có Đức Giêsu cùng đi với họ. Chính Người sẽ đưa ra những chỉ dẫn cần thiết trong những chặng đường khác nhau.
Tuy vậy, đó không phải là nẻo đường dễ dàng, không phải là con đường trơn tru bằng phẳng. Qua cửa hẹp, đã cần có cố gắng. Đi trên đường, lại cần có sức mạnh. Những người lười biếng sẽ chẳng được vào Nước Trời. Chỉ những ai đem hết sức mình để đi theo Đức Giêsu, mới được tham dự vinh quang của Người.
Niềm tự hào duy nhất
Phải chăng, một ngày nào đó, chúng ta sẽ đến trước mặt Chúa và thưa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.” Chúng ta lấy làm tự hào về những việc đạo đức của mình, và chúng ta tin chắc rằng mình sẽ ở chỗ nhất?
Thế nhưng, câu trả lời không phải như chúng ta mong đợi: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta.” Đang khi chúng ta nghĩ rằng mình sẽ chiếm được địa vị cao, thì lại có những người ở khắp mặt đất, từ đông sang tây, được mời vào dự tiệc, còn chúng ta lại bị gạt ra ngoài. Tại sao thế?
Như Đức Giêsu đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình, người Ki-tô hữu cũng lên đường tiến về quê trời. Trước khi phục sinh trong vinh quang, Đức Ki-tô đã trải qua con đường đau khổ. Cũng vậy, trước khi đạt tới vinh quang vĩnh cửu, người Ki-tô hữu phải sẵn lòng chấp nhận những vất vả, những khó khăn của cuộc hành trình. Và, như đã nói, cuộc hành trình đó là đi theo Đức Ki-tô, tiếp nối con đường Người đã đi. Bởi đó, niềm tự hào của người Ki-tô hữu là mình đã đi theo Đức Ki-tô, gắn bó với Người, bỏ lại tất cả mọi sự, cả những gì đáng yêu quý nhất, để yêu mến Người. Tất cả những việc làm, dù rất đạo đức, của con người, nếu không có lòng yêu mến, cũng trở thành vô giá trị, bởi vì họ chỉ làm những việc đó theo ý mình, chứ không phải vì Đức Ki-tô.
Thật là một điều ghê gớm! Ít khi chúng ta dám nghĩ như vậy. Chúng ta cứ tưởng rằng mình đã “chắc ăn” khi làm điều này, điều nọ; nhưng không, đó không phải là tiêu chuẩn để dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Tiêu chuẩn duy nhất là lòng yêu mến đối với Đức Ki-tô, tin vào Người, phó thác cho Người. Điều này hẳn phải làm chúng ta thay đổi cách sống, cách quan niệm. Theo Đức Ki-tô không còn phải là tin vào mình, nhưng là phó thác vào Người, để Người hướng dẫn, hiệp thông với Người trong tình yêu sâu xa…
Như vậy, đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ phải ra khỏi những an toàn của mình, phải phá đổ những giá trị sai lầm mà xưa nay chúng ta vẫn tin tưởng. Và một khi đã bước qua cửa hẹp, chúng ta bước vào đời sống mới với nhiều điều kỳ diệu và cũng đầy khó khăn. Nhưng, lúc ấy, không còn ai là kẻ đến trước hay đến sau, không còn có những ưu tiên, những đặc ân, nhưng là hiệp thông, là tiến bước, là tin tưởng.
Nước Trời được dành cho những người mạnh, những người can đảm. Những người “khơi khơi”, “tà tà” không thể vào được Nước Trời. Chỉ có những người dám liều, dám sống, dám vượt qua. Cửa hẹp, nhưng vẫn mở rộng, vẫn đủ chỗ cho mọi người đi qua. Người ta không phải băn khoăn mình có nằm trong số được cứu hay không, nhưng điều ưu tư là mình đã thực sự đi theo Đức Ki-tô hay không.
Bước qua cửa hẹp – tin tưởng – yêu mến – đi theo. Đó là lời mời gọi gửi đến mọi người. Không thể dựa trên bất cứ điều gì để từ chối lời mời gọi ấy. Tất cả mọi người, dù là ai chăng nữa, dù thế nào đi nữa, cũng phải đứng vào vạch xuất phát, vượt qua cửa hẹp và lên đường.
***
Lạy Chúa,
hạnh phúc thay kẻ đi trên đường mà không lo ngại,
luôn an tâm vì có Ngài trợ giúp.
Hạnh phúc thay kẻ sống không quanh co, không sợ hãi,
đi trên đường của Ngài
mà không có ý định quay trở lại.
Hạnh phúc thay kẻ lên đường
mà không hỏi tại sao,
và theo đuổi dự định của mình cho đến cùng.
Hạnh phúc thay kẻ biết ngổi bên chân Ngài,
yên lặng và lắng nghe,
nhưng tâm hổn luôn bừng cháy.
theo P. Aymard.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 13: 22-30: Đức Giêsu nói với chúng ta: “hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó”. Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”.
Đức Giêsu nói với chúng ta: “hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó” (Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,14).
Nhưng thế nào là con đường rộng? Và thế nào là con đường hẹp?
Cửa Hẹp là gì?
Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành và trở về trễ khi cổng đã đóng thì những người về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Cửa hẹp này còn được gọi là “lỗ kim” (the eye of the needle), cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
Khi nói đến “cửa hẹp”, nhiều người trong chúng ta cho rằng Thiên Chúa hẹp hòi với chúng ta. Khi đề cập đến “cửa hẹp’ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải vì Thiên Chúa hẹp hòi, khắt khe với chúng ta mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào.
Nói khác đi, cửa Nước Trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh, cồng kềnh với những hành lý mang trên vai như tiền bạc, của cải, danh vọng, thú vui khoái lạc… khiến chúng ta bị vướng ở ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi kiêu căng tự mãn, cái tôi cứng cỏi tham lam… chính vì vậy, cánh cửa Nước Trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta đi vào “cửa hẹp”, nhưng nhiều người trong chúng ta lại phá banh “cửa hẹp” cho thông thoáng để dễ qua lại. Và khốn nỗi nhiều người lại muốn đi vào lối ấy vì trên con đường đó, người ta có thể sử dụng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, đường nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm.
Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi trên con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh lợi, quyền chức, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ” này. Họ chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian!
Quả thật chúng ta luôn bị cám dỗ đi vào con đường rộng, ở đó chúng ta được hưởng ít nhiều những thứ mà người thế gian mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác.
Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực nào thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì Chúa, vì người khác hay vì chúng ta. Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều.
Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thênh thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không!
Coi chừng, chúng ta đang sống trong thế giới ảo, chính vì vậy Chúa cảnh báo chúng ta “sẽ có kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu và những kẻ đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót hết”, tức là sẽ có những bất ngờ trong Nước Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này có thể sẽ rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
Có câu chuyện về một người phụ nữ giàu sang được thế gian rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút.
Thiên sứ bảo: “đây là nhà của bà”.
Bà nói: “cái gì vậy? tôi không thể nào sống trong đó”.
Thiên sứ đáp: “tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!”
Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời.
Một câu chuyện để chúng ta suy nghĩ và lựa chọn. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. HOÁN CẢI ĐỂ VÀO VƯƠNG QUỐC
Vương Quốc không phải là một câu lạc bộ tư nhân.
Một người đã đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”.
Điều này nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện một người đã chết và lên thẳng thiên đàng. Thánh Phêrô gặp người ấy ở cổng đưa vào bên trong và dẫn ông ta đi dạo một vòng quảng trường. Được một lúc, họ đến một khu đất có tường cao bao bọc. Khi đi ngang qua đó, thánh Phêrô nói: “Ông hãy giữ im lặng khi đi qua chỗ này”.
“Tại sao?” người đàn ông hỏi.
“Sợ làm phiền những người ở trong đó”, Phêrô đáp.
“Ai ở trong đó?”. Ông ta hỏi.
“Những người Công giáo. Ông biết đấy, họ nghĩ chỉ có họ là những người được vào Thiên đàng. Nếu họ biết có những người khác được vào Thiên đàng, họ sẽ thất vọng. Thật vậy, một số người trong đó có lẽ sẽ đòi tiền lại”.
Người đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?” rõ ràng đã nghĩ rằng Thiên đàng là một câu lạc bộ có chọn lọc mà chỉ có những thành viên mới được thừa nhận. Người ấy là một người Do Thái. Vì thế ông ta đã tin rằng chỉ có những người Do Thái mới được vào Nước Thiên Đàng. Những dân ngoại không có hy vọng được vào. Về phần những kẻ tội lỗi, hãy quên điều đó! Ý tưởng về một dân tộc được chọn là một ý tưởng nguy hiểm. Nếu Thiên Chúa có chọn một dân tộc thì Người chọn họ không phải để loại trừ các dân tộc khác mà để phục vụ những dân tộc khác đó.
Nếu có lúc người đàn ông nghiền ngẫm câu đáp của Đức Giêsu, có lẽ ông phải hối tiếc vì đã hỏi câu hỏi ấy trước tiên. Bởi vì Đức Giêsu đã đập vỡ tính ngạo mạn của ông ta thành những mảnh vụn. Người đảo ngược mọi thứ. Người nói: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đó là một tuyên ngôn cách mạng làm những người Pharisêu bị tổn thương và xúc phạm. Người không dừng lại ở đó mà còn đối xử tốt với những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Người Pharisêu coi đó là sự phản bội lại dân tộc đức hạnh như họ. Nhưng Đức Giêsu tuyên bố rằng Người đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những người như thế.
Thế giới này có đầy dẫy những câu lạc bộ độc quyền với những kiểu cách màu mè, những đặc quyền và ưu đãi v.v… Chúng ta không mong Đức Giêsu đi theo điều đó. Người cũng không mong như thế. Người đã loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đang đến. Đối với những người Do Thái tưởng rằng họ đường nhiên có thể vào nước Thiên Chúa, Người nói: “Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
Đức Giêsu nói rằng sự hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương Quốc. Và Người tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Người và họ đã lên đường tiến đến Vương Quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Người và do đó tự loại mình ra khỏi Vương Quốc.
Chúng ta không có quyền quyết định ai sẽ được vào Thiên đàng. Tốt hơn hãy trả lại điều ấy cho sự khôn ngoan và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa làm công việc của Người. Đến lúc cuối đời, sự cứu chuộc không phải là một điều gì đó mà chúng ta có thể kiếm được. Nó là một ơn của Thiên Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên cố gắng làm cho mình xứng đáng với ơn ấy. Qua phép Thánh tẩy, chúng ta là những thành viên của dân được chọn mới. Chúng ta là những người “bên trong”. Nhưng chúng ta không nên chỉ dựa vào một sự kiện ấy. Chúng ta phải nỗ lực trổ sinh hoa trái cho Nước Thiên Chúa, tức là hoa trái của sự thiện hảo, đời sống ngay lành và chân lý.
Suy Niệm 2. ĐAU KHỔ GÓP PHẦN RÈN LUYỆN CHÚNG TA.
Trước đây, phương pháp dùng để giáo dục thanh niên dựa trên nền tảng là sức chịu đựng: một đứa trẻ càng vượt qua được những thử thách tàn bạo, thì nó càng được chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những mối nguy của tuổi trưởng thành. Chúng ta nhìn thấy một ví dụ tốt về điều ấy trong nghi thức khai tâm của các bộ lạc người da đó. Nghi thức đó được chỉ định để giúp thanh niên có được vị trí của chúng trong thế giới của người lớn.
Trong một nghi thức như thế, lúc trời tối người cha dẫn đứa con tuổi thanh niên vào một khu rừng thưa. Ông nói với nó phải qua đêm ở đó một mình và chỉ được trang bị bằng một cây giáo. Kế đó, người cha rút lui. Khi đứa con ra khỏi khu rừng về lại nhà thì nó không còn là một đứa trẻ nữa.
Người thanh niên đối diện với một thách đố đầy đe doạ. Có một bóng đêm không dò thấu và vô số âm thanh, phần lớn vô hại nhưng rất ghê rợn. Người ta có cảm tưởng một vài con thú đang ẩn náu gần đó, chờ đợi để vồ mồi, một cảm giác làm người ta lạnh toát mồ hôi và rã rời thân thể. Chỉ cần có một người bạn bên cạnh, sự việc sẽ khác biết bao. Nhưng anh ta chỉ dựa vào sức của riêng mình.
Thời gian trôi qua chậm biết bao, mỗi phút như bằng một giờ. Nhưng dù sao, đêm đã đi qua. Và sau cùng bình minh ló dạng ở bầu trời. Khi bóng tối rút lui, nỗi sợ hãi của người thanh niên mới chấm dứt và anh ta bắt đầu thở đều. Rồi từ rừng rậm một bóng người xuất hiện. Đó là cha anh ta.
Người thanh niên chạy đến cha anh, gieo mình vào đôi tay của người cha và kêu lên “Ôi cám ơn Thiên Chúa, cha đã đến!”. Rồi đến lượt người cha ôm lấy con mình. Vừa ôm con, ông vừa nói: “Con ơi, cha tự hào về con. Con đã xử sự như một người lớn thật sự”. Điều mà người thanh niên không biết là cha anh đã ngồi nơi kín đáo suốt đêm, đưa mắt dõi theo anh. Mỗi người muốn trưởng thành phải đối diện với “khu rừng đen tối” dưới một hình thức nào đó.
Tác giả của thư gởi tín hữu Do Thái nói về cách sửa dạy và rèn luyện mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta được rèn luyện trong trường học của đau khổ. Tuy nhiên, ở đây không đề cập đến khía cạnh tình cảm của đau khổ. Người ta có thể bị tổn thương đến nỗi trở nên cay cú và không chấp nhận sự cứu giúp.
Tuy nhiên đau khổ có thể là một cơ hội tốt. Giá trị của đau khổ không nằm trong chính nỗi đau mà trong thái độ người chịu đau khổ đối với nỗi đau. Đau khổ có thể thanh luyện linh hồn và biến đổi tính cách của một con người. Đau khổ có thể đem lại hoa quả. Nó là một phần cần thiết giúp chúng ta trở thành một con người chân chính tức là một con người có sự trưởng thành, chiều sâu và lòng trắc ẩn. Như Van Gogh đã nói: “Người ta phải chịu gian lao để nên chín chắn”.
Đau khổ là một thành phần cần thiết để xây dựng một con người Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta không nên coi đau khổ là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt một ai. Đau khổ là một phần của thân phận con người. Thiên Chúa để cho chúng ta đau khổ. Đúng, nhưng chỉ vì đau khổ có thể đem lại điều tốt lành. Đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Trong đau khổ, chúng ta cảm nghiệm quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Có những chân lý mà chỉ có sự đau buồn mới có thể chỉ dạy. Một trong những chân lý ấy là lòng thương xót đối với người đồng loại đau khổ. Không thể học được lòng thương xót mà không có đau khổ.
Trong một buổi chia sẻ lời Chúa,bác công nhân đã phát biểu như sau:
Đã ba mươi hai năm nay, tôi làm việc cho một công ty. Nhiều lần tôi được đề bạt thăng chức, nhưng tôi đều từ chối, bởi vì nếu chấp nhận, thì tôi sẽ không có đủ thời giờ để chăm sóc cho vợ và bốn đứa con trai của tôi. Tình yêu tôi dành cho vợ con thì quí giá hơn số tiền lương được tăng thêm.
Cách đây hai năm, tôi lại được đề bạt một lần nữa. Và lần này thì tôi chấp nhận, bởi vì các con tôi đều đã khôn lớn và vợ tôi thì lại không thể đi làm được.
Và thế là tôi phải theo một khóa bồi dưỡng. Rất tiếc là trong thời gian này, bà chị ruột của tôi qua đời, nên tôi không thể chú tâm vào học hành. Vì thế, tôi bị rớt trong kỳ thi cuối khóa.
Trở về công ty, tôi đã bị ông giám đốc mạt sát một cách thậm tệ. Tôi cảm thấy ê chề và nhục nhã. Mọi sự bỗng trở nên vô nghĩa, ngay cả quyết tâm phụng sự Chúa cũng tiêu tan như mây khói. Tại sao lại xảy ra như thế? Hay là Chúa đã bỏ rơi tôi? Tất cả dường như đã sụp đổ.
Ngày kia, tôi đã phải thú thực với vợ tôi:
– Anh không thể sống nhục nhã như thế này.
Vợ tôi khuyên tôi cầu nguyện và rồi sự cầu nguyện đã gíup tôi nhận biết phải chọn lựa bước theo Đức Kitô bị đóng đinh và bị bỏ rơi. Từ đó, tôi tìm lại sự bình an. Tôi xin lỗi ông giám đốc. Và cũng từ đó, công việc làm ăn của tôi mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Câu chuyện vừa nghe, quả thật đã gợi lên trong chúng ta hình ảnh về khung cửa hẹp mà đoạn Tin mừng hôm nay đề cập đến. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta:
– Hãy chiến đấu để vào qua khung cửa hẹp.
Vậy khung cửa hẹp ấy là gì?
Tôi xin thưa:
– Khung cửa hẹp ấy không gì khác hơn là chính bản thân của Ngài.
Có nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào con người của Ngài để nhận biết Ngài. Không gì có thể thay thế được cái biết nội tâm ấy. Cho nên, ngay cả những người sống gắn bó với Ngài, ăn uống trước mặt Ngài, được nhe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài, cũng như được chứng kiến những việc làm đầy kỳ diệu của Ngài, nếu thực sự họ không nhận biết Ngài, thì rồi họ cũng sẽ bị khai trừ, bị loại bỏ ra ngoài.
Và như vậy, Ngài chính là cửa, như lời Ngài đã nói với dân Do Thái:
– Ta là cửa. Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi.
Khung cửa được thánh Luca đề cập tới chỉ có thể là chính bản thân Ngài, chứ không thể là bất kỳ một ai khác. Đây cũng là điều Ngài đã từng xác quyết trong Tin mừng của thánh Gioan:
– Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
Hay như thánh Phêrô đã công bố trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ Hiện Xuống:
– Chúa Giêsu bị anh em treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Chúa và làm Đức Kitô. Dưới bầu trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những khổ đau, những thập giá. Vì đó chính là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, để chiếm lấy vinh quang phục sinh.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng đề cập tới nhiều điều: ai được cứu độ ai không? Cần gắng công vào cửa hẹp, những người cuối hết sẽ lên hàng đầu và những người đứng đầu lại lùi xuống chót. Tuy đề cập tới nhiều điều nhưng đều nhắm làm sáng tỏ một vấn đề cốt thiết nhất của con người, đó là ơn cứu độ: ai được cứu độ và làm thế nào để được cứu độ?
Trước hết, có người đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, phải chăng chỉ có ít người được cứu độ?”. Chắc chắn người hỏi là một người Do Thái, vì đây là điều thắc mắc thường xuyên của những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu. Trước câu hỏi ấy, đã có nhiều câu trả lời, nhưng người nào thuộc nhóm nào cũng cho rằng: chỉ có những người thuộc phe nhóm của họ mới được cứu độ. Theo chiều hướng đó, câu hỏi đặt ra ở đây có thể hiểu theo hai cách: Thứ nhất, hoặc người hỏi muốn Chúa Giêsu trả lời đúng hay sai sự kiện cho rằng chỉ ít người được cứu độ, có nghĩa là qui việc cứu độ về phía Thiên Chúa: Ngài chỉ cứu một số ít thôi. Mà nếu như thế, những người không được cứu có quyền đổ thừa cho Thiên Chúa, vì Ngài không cứu họ chứ không phải tại họ, giống như một học sinh lười, đi thi bị rớt, thì thản nhiên cho rằng chỉ vì giám khảo khó quá chứ không phải tại mình lười hay kém. Thứ hai, hoặc người hỏi mang tâm trạng tự tôn của người Do Thái, dân riêng của Chúa, tự cho mình là số ít được cứu độ, và chẳng cần xét đến cách sống của mình ra sao, vì thế nào mình cũng sẽ được cứu.
Chúa Giêsu trả lời thế nào? Ngài nói: mọi người đều được cứu độ. Nhưng được cứu độ hay không là hoàn toàn do mỗi người. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ? hoặc tôi có được cứu độ không? Trái lại, bất cứ ai, thuộc bất cứ dân tộc hay ngôn ngữ nào, thuộc thành phần xã hội ra sao, đều phải biết tự hỏi: Tôi có muốn được cứu độ không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các phương pháp và dùng những phương thế tương xứng. Phương pháp và phương thế Chúa Giêsu chỉ dạy ở đây là gắng vào cửa hẹp. Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào, tức là cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh, đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Đàng khác, nước trời là phần thưởng chỉ dành cho những ai đã gắng công, phấn đấu, tỏ ra xứng đáng, biết tự kềm chế, hãm mình, từ bỏ. Nói khác đi, nước trời không dành cho những ai chỉ muốn dễ dãi, ăn sẵn, chiều theo bản năng, chạy theo những quyến rũ trần thế, thích hưởng thụ.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nêu lên cho chúng ta một sứ điệp, một lời mời gọi: “Hãy phấn đấu để được cứu độ”. Phải phấn đấu, vì đường dẫn đến nước trời không thể và không phải là con đường dễ dãi mà đa số con người thích chọn, nhưng là lối hẹp. Chính Chúa Giêsu đã chọn lối hẹp, và tất cả những ai muốn theo Ngài, muốn được cứu độ cũng phải chọn lối hẹp.
Vua Sác-lơ thứ năm, một lần kia gọi hoàng tử đến và cho hoàng tử được lựa chọn. Trên bàn, vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên, vua nói: “Con chọn cái nào?”. Suy nghĩ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiềm?”. Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào triều thiên đáp: “Thưa cha, nhờ thanh kiếm này con sẽ được triều thiên kia”. Chúng ta cũng thế, nhờ thanh kiếm đi vào lối hẹp, tức là cố gắng vượt qua gian khổ, khó khăn, thử thách, chúng ta sẽ chiếm được triều thiên nước trời.
Đến một ngày nào đó, khi cánh cửa sự sống khép lại, chúng ta phải từ giã cuộc đời, chúng ta sẽ bước sang một cuộc sống mới mà ở đó sẽ hết tranh đấu và không còn đổi thay nữa, khi đó số phận đời chúng ta được quyết định một lần dứt khoát hoặc suớng hay khổ. Nhưng căn cứ vào đâu để quyết định sự sướng hay khổ, tức là chúng ta được thưởng hay bị phạt? Thưa căn cứ vào cuộc đời chúng ta đã sống ở trần gian, nghĩa là số phận đó hoàn toàn tùy thuộc vào cách chúng ta đã sống ở đời này. Vì thế, đời sống ở trần gian, tuy ngắn ngủi, một trăm năm là cùng, nhưng lại rất quan trọng, vì quyết định số phận đời đời của chúng ta. Đó là lý do Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy đi vào con đường hẹp, hãy vào cửa hẹp.
Có người đã nói: cuôc đời này chẳng khác gì một bãi mìn, bãi mìn được ngụy trang bằng đủ mọi mầu sắc quyến rũ, ham mầu sắc mà quên hiểm nguy chúng ta sẽ bị ngộ nạn đau thương. Hương nồng của tửu điếm đã hủy hoại no ấm của bao gia đình; mùi thơm của hồng lâu đã lót đường cho bao đời người đi vào trụy lạc; thế lực của đồng tiền đã đưa vào lò sát sinh từ tình nghĩa phu thê đến ơn sâu phụ tử, mẫu tử; vị ngọt của danh vọng đã là cái hố chôn sống bao đời người.
Muốn thoát khỏi bãi mìn này, chúng ta phải biết đi vào con đường hẹp là xa tránh, chứ đừng ham thích dễ dãi, đừng hảo ngọt để khỏi ngộ nạn thảm thương. Chúa nói: “Nước trời chỉ thua sức mạnh”. Muốn có sức mạnh phải gian lao tập luyện, kẻ buông thả chẳng khi nào có được. Và đường vào nước trời là đường hẹp, muốn đi tới đó phải chấp nhận chông gai, kẻ sợ trách nhiệm, sợ phấn đấu, chẳng khi nào tới được. Xin Chúa cho chúng ta luôn có được ý chí mạnh mẽ để dám vươn lên khỏi nếp sống tầm thường của mình để sống tốt đẹp, cao thượng trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta vừa đọc lại bài Phúc âm của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C; không những chỉ trong bài Phúc âm mà cả ba bài đọc đều như muốn nhắc chúng ta nhớ lại hai chiều kích của ơn cứu rỗi.
Chiều kích thứ nhất là chiều kích phổ quát, đó là ơn cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, mọi dân tộc. Chiều kích phổ quát này được loan báo nơi sách tiên tri Isaia mà chúng ta đọc trong bài đọc I, và được nhắc lại nơi đoạn Phúc âm hôm nay là thiên hạ sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát này dường như nhấn mạnh đến số lượng nhiều hơn, và có thể làm chúng ta hiểu lầm là mọi người tự động được vào Nước Thiên Chúa, nhưng không phải như vậy.
Chiều kích thứ hai của ơn cứu rỗi là chiều kích cá nhân, nhấn mạnh đến phẩm chất, đến mối tương quan giữa mỗi tín hữu với Chúa Kitô, với Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Chiều kích thứ hai này nhắm đến phẩm chất của mối tương quan giữa mỗi người với Thiên Chúa và được thể hiện nơi bài đọc II trong thơ Do thái: “Thiên Chúa yêu thương ai thì Ngài càng thanh luyện, càng uốn nắn người đó nhiều hơn nữa qua những thử thách để người đó mang lại nhiều hoa trái”.
Thiên Chúa thanh luyện để làm cho con người được lớn lên trong tình yêu của Ngài. Chúng ta nhớ lại dụ ngôn về cây nho, ngành nho được nhắc lại nơi Phúc âm thánh Gioan: “Thầy là cây nho thật, Cha Thầy là người trồng nho. Hễ ngành nào thuộc về Thầy mà không sinh quả thì Cha Thầy sẽ chặt đi. Còn nếu ngành nào sinh quả thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa quả hơn”.
Việc Thiên Chúa cắt tỉa con người được hiểu như là việc Thiên Chúa thanh luyện con người. Nơi bài đọc II của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C nói là: “Thiên Chúa sửa dạy con người như người cha sửa dạy con cái trong nhà. Thiên Chúa yêu thương ai thì Người muốn thanh luyện người đó nhiều hơn nữa để mang lại nhiều hoa trái”. Đây là điều mà bài Phúc âm hôm nay thường gọi là bước vào qua cửa hẹp.
Hai chiều kích phổ quát nhắc về số lượng và cá nhân, nhắm về phẩm chất của mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa luôn luôn đi đôi với nhau được nhắc lại trong bài Phúc âm chúng ta vừa đọc lại ở phần đầu, khi Chúa Giêsu phán: “Bất cứ ai muốn vào Nước Chúa thì phải đi qua con đường hẹp, phải cố gắng và từ bỏ những gì cản trở con người bước vào Nước Trời”. Thiên Chúa cảnh tỉnh các đồ đệ của Ngài đừng ỷ lại vào những công việc giả tạo của mình.
Trong hai chiều kích này của ơn cứu rỗi, dĩ nhiên chiều kích phẩm chất nhắc đến mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa là điều quan trọng. Càng yêu mến Chúa thì ta càng làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Trường hợp các vị thánh là một thí dụ điển hình, các ngài càng yêu mến Chúa thì càng được thanh luyện chính mình, hay đúng hơn càng được Thiên Chúa thanh luyện để có sức ảnh hưởng mạnh và dẫn đưa nhiều người đến với Chúa. Các thánh càng đào sâu chiều kích cá nhân thì càng đến gần Chúa, do đó tâm hồn của các ngài càng mở rộng đến mức độ đại đồng để đón nhận tất cả mọi anh chị em và đưa anh chị em đến với Chúa. Ap dụng cho đời sống mình, càng kết hiệp với Chúa thì ta càng quảng đại với anh chị em; nếu xa lìa Chúa thì ta càng hẹp hòi với anh chị em.
46. Cố gắng mà vào qua cửa hẹp
Nửa đêm có người đến kêu cửa giựt ngược: Xin cha làm phước mẹ con chết hụt mất!
Không trả lời nhiều ít được. Vì nếu nói nhiều thì chắc có tội, khỏi lo. Nếu nói ít thí chắc không có tội rồi, khỏi lo! Cũng không vì một số điều kiện nhất định nào đó được. Không thể ra giá ơn cứu độ hay Nước Thiên Chúa bằng một giá nào nhất định được vì không phải là một món hàng vật chất có giá cả nhất định mà là một giá trị thiêng liêng vô giá, phải đổi bằng tất cả những gì mình có. Người ta muốn biết chắc một số điều kiện rồi cố chịu khó lo cho đủ, có tấm giấy bảo như “miễn tử bài” rồi tha hồ, giờ chót Chúa ban ơn trở lại, bảo đảm không sợ mất linh hồn Giữ 7 thứ sáu đầu tháng Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu bảo đảm giờ chót được ơn ăn năn trở lại hoặc 9 thứ 7 đầu tháng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria cũng hứa như vậy… Rất nhiều người tin như vậy.
Hãy cố gắng. Chịu khó. Làm một hai chút trong một thời gian nào đó chưa gọi là cố gắng. Cố mà gắng là phải đeo bám luôn. Đá banh ngày nay là áp sát và đeo bám, hở chút là thua. Đội nào sức trẻ đeo bám tốt thì hạn chế được thất bại. Cố gắng thì phải liên lỉ, không sơ hở như Chúa Giêsu nói “như người đợi chủ đi ăn cưới về”. Có nhiều người tìm cách vào mà không vào được. Không phải tại cửa không vào được vì cửa là để cho mọi người vào, mà là tại có người không tìm thấy cửa, tìm chỗ không có cửa.
Vào qua cửa hẹp! Cửa hẹp khó vào. Nhưng hỏng chật đâu vì ít người thích vào. Cố gắng thì vào được.
Dể thì không đáng mấy xu. Càng khó càng đắc gía. Độ khó làm thành giá trị của phần thưởng cao vì có số điểm cao.
ĐG minh họa bằng dụ ngôn: khi chủ nhà đứng dậy khóa cửa lại các người còn đứng ở ngoài gõ cửa gọi xin mở thì ông sẽ trả lời “ta không biết các ngươi là ai”. Giờ chót là vậy. Đợi giờ chót thì sẽ gặp như vậy đó! Dù có nhắc tới “chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt ngài, ngài đã từng giảng dạy trên các đường phố chúng tôi. Năm cô trinh nữ không có dầu phải ra hàng mà mua, trở lai kêu cửa. Cũng nghe đáp “Ta không biết” một cách khô khốc! Nặng hơn, khốc liệt hơn: Cút! Đi khỏi mặt ta, đồ làm điều gian ác! Làm điều gian ác mà muốn vào được sao? Không làm điều Chúa dạy là làm điều gian ác.Thế gian không vào Nước Trời được vì là thế gian. Nước Trời là công chính, thánh thiện. Không làm điều Chúa dạy thì là làm điều gian ác, là thế gian. Ở ngoài mà khóc lóc nghiến răng nhìn thấy từ Nam chí Bắc từ Đông sang Tây thiên hạ tựu đến ăn tiệc sung sướng vô cùng còn con cái trong nhà thì bị bỏ ở ngoài.
Trước hết sẽ nên sau hết. Sau hết sẽ nên trước hết. Trước hết: Do thái rồi những kẻ chức cao quyền trọng, được nhiều đặc ân đặc lợi trong Giáo Hội. Hoặc tự ỷ là đạo dòng, con ông trùm ông câu gì đó!
Là câu trả lời cho những người giữđạo chót, sợ chết hụt.
Là cả một con người, cả một đời sống với rất nhiều việc làm tốt xấu. Giờ chót giải quyết cách nào đây. Xin CG lấy máu châu báu của Nguời rửa con cho sạch bóng cho con lên thiên đàng luôn. Có lẽ nên dạy dễ như vậy cho người ta ham mà giữ đạo nhiều. Nhưng là lừa gạt.
Bỏ Phục sinh cả chục năm, giờ chót rước cha giùm cho trở lại để được rỗi linh hồn, chết hụt mất linh hồn tội nghiệp.
Đạo Chúa nhật, đi lễ bậy bạ một chút Ở ngoài hay đi lễ “ôm”. Trung thành là từng giây từng phút. Chủ về muộn canh hai hoặc canh ba, còn như kẻ trộm, lúc bất ngờ.
Thưởng thiện phạt ác là sao nếu cả đời “làm điều gian ác” Chúa Giêsu bảo “cút” thì ai dám bảo là lên thiên đàng bằng giờ chót. Thiên đàng là phần thưởng lớn lao chỉ dành cho những đầy tớ trung thành bất cứ lúc nào chủ đến cũng sẳn sàng.
Chúa Giêsu chẳng bảo trước hết sẽ nên sau hết cơ mà.
Vậy hãy cố gắng mà vào qua cửa hẹp bằng sự trung thành sẳn sàng luôn, chịu khó hy sinh, dám bán hết của cải bố thí cho người nghèo khó rồi theo “Ta”.
Nếu một người nào đó hỏi chúng ta: “Phải chăng chỉ có những người theo đạo Chúa mới được cứu độ?”hay “Có phải chỉ có một số ít người được vào nước trời?”. Chúng ta sẽ trả lời thế nào? Câu hỏi này xưa kia có người đã hỏi Chúa Giêsu. Sở dĩ ông ta hỏi như vậy vì hồi đó có nhiều quan niệm và chủ trương khác nhau. Giáo lý của nhóm Pharisêu thịnh hành lúc ấy cho rằng: thế giới hạnh phúc mai hậu chỉ dành cho một số ít thôi, còn đa số sẽ phải khốn khổ. Còn những người phái khắc khổ Ét-sê-niên thì khẳng định ngon lành rằng: chỉ những thành viên của họ mới được cứu độ. Có lẽ vì có những chủ trương khác nhau như vậy, nên người này đến hỏi Chúa Giêsu cho biết rõ sự thực như thế nào.
Chúa Giêsu đã trả lời. Câu trả lời của Chúa vừa là bài học cho chúng ta vừa là giải đáp để chúng ta có thể trả lời cho những người khác. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: tất cả mọi người đều được cứu độ. Đó là giáo lý trước sau như một của Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa là Cha, Đấng mong muốn mọi người được cứu thoát”, “Đấng không muốn bất cứ ai phải hư đi”, “Đấng không muốn một trong những kẻ bé mọn phải hư mất”. Bàn tiệc của Thiên Chúa là bàn tiệc mở ra cho muôn dân, nghĩa là nước trời được mở ra đón nhận mọi người. Chúa đến trần gian, chịu nạn chịu chết cho mọi người, cứu chuộc mọi người, chứ không phải chỉ một số người nào thôi.
Như vậy, Chúa cứu chuộc mọi người là một điều rõ ràng và dứt khoát rồi. Nhưng được cứu độ hay không là hoàn toàn do mỗi người. Vì thế, Chúa Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực rằng: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ? Hay tôi có được cứu độ không? Trái lại, phải nói rằng: tôi có muốn được cứu độ không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, ơn cứu độ luôn chờ sẵn ngoài cửa mỗi tâm hồn. Và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các phương pháp và phương thế đó chính Chúa Giêsu cũng đã đề nghị và chỉ dạy cho chúng ta, đó là cố gắng vào cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng nề của đam mê, xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì sợ hãi không dám dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác, vì cái tôi, vì hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được nước trời hay không là do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề không phải là đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ chính mình, tức là phải từ bỏ những gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng không đẹp lòng Chúa.
Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, bia ôm, cà phê đèn mờ, đua đòi, chưng diện, thú vui không lành mạnh… Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, định kiến, thành kiến đối với người này người khác… Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?
Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.
Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy, nếu ở đời “Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Xin Chúa cho chúng ta nhớ bài học hôm nay và thực hiện mỗi ngày suốt đời chúng ta.
Ngày 15.9.2000, thế vận hội Ôlympic lần thứ 27 lại diễn ra tại nước Úc. Một lá cờ có nền trắng làm nổi bật năm vòng tròn ngũ sắc: xanh dương, vàng, đen, xanh lá cây và đỏ lại được tung bay phất phới. Năm vòng tròn khác nhau nhưng lại được nối kết chặt chẽ với nhau biểu tượng cho sự kết hợp mật thiết của năm châu xây dựng trên tinh thần thể thao bằng hữu và huynh đệ. Ban tổ chức đã ráo riết vận động và thành công trong việc tạo điều kiện cho 199 quốc gia và lãnh thổ về tranh tài thể thao quốc tế. 12.500 vận động viên thay mặt quốc gia đến để tranh nhau từng tấm huy chương mà không có một sự chống đối nào.
Tứ hải giai huynh đệ, có thể nói được là giấc mơ của con người. Vì thế, con người đã chứng kiến bầu khí hân hoan tưng bừng của một ngày khai mạc đại hội khi các đoàn vận động viên đại diện cho các quốc gia diễn hành vào vận động trường, cũng như khung cảnh vui tươi nhộn nhịp khi các vận động viên chung vui nhảy múa trong những giờ phút cuối cùng của nghi thức bế mạc.
Thật ra từ ngàn xưa, giấc mơ tứ hải giai huynh đệ đã được các tiên tri loan báo trong thời Cựu ước, như tiên tri Isaia đã diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Thiên Chúa phán: “Ta đến để qui tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta, chúng sẽ rao giảng và dẫn dắt anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến”. Rồi Đức Giêsu đã đến trong lịch sử nhân loại để biến giấc mơ muôn thuở của con người thành hiện thực. Ngài đã loan báo Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và vì thế bàn tiệc Chúa dọn ra đã mời gọi con cái của Người không phân biệt dòng máu, dân tộc, màu da, tiếng nói, nam nữ già trẻ. Vì mọi dân nước đều được mời gọi tham dự bàn tiệc của Chúa như Chúa Giêsu đã xác tín trong bài Phúc âm hôm nay: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Tuy nhiên cũng giống như các vận động viên đã đến tranh tài thể thao tại cuộc thi Olympic Sydney, chỉ có một số người đạt được huy chương. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lưu ý chúng ta: phòng tiệc Nước Thiên Chúa tuy rộng rãi thênh thang có đủ chỗ cho mọi dân nước, nhưng cửa vào phòng tiệc lại vừa hẹp, lại vừa được mở ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì thế, cần phải tỉnh thức và phấn đấu mới lê chân tiến vào được. Một khi cửa phòng tiệc đã đóng không ai còn có thể tranh luận hay van nài để chủ nhà ra mở cửa một lần nữa.
Vậy phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?
Đâu phải cứ ai thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng phải biết đón nhận lời loan báo Nước Trời và mau mắn hoán cải, ngoài ra còn phải biết phấn đấu để bước chân vào phòng tiệc. Cũng như các vận động viên trong các cuộc tranh tài thể thao phải tranh đấu cam go, phải phấn đấu cao độ để tranh nhau từng ly tại mức đến. Nhưng những thành tích mà họ đã đạt được trong những ngày tranh tài là kết quả của những năm tháng tập luyện gian khổ, của những cuộc đấu sức cam go để được chọn đại diện cho quốc gia mình.
Bàn tiệc cánh chung trong Nước Chúa cũng thế, đây là bàn tiệc của những người thắng trận. Những người đã từng chịu thử thách để chia sẻ cuộc chiến và những khổ đau của Đức Giêsu ở trên bàn thờ thập giá và được tái diễn trên bàn tiệc Thánh Thể.
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh khung cửa hẹp để chỉ những ai muốn vào tham dự phải biết lách mình qua. Nhiều lúc phải biết hy sinh, đổ máu để đi vào. Nhưng hình ảnh khung cửa hẹp này không làm mất đi vẻ hùng tráng huy hoàng, vui tươi qua lời tiên tri Isaia ở bài đọc một, vì đó là điều kiện cần thiết để được vui tươi. Ai không qua khung cửa hẹp để tiến lên thì không thể tham dự vào cuộc hân hoan trở về được. Muốn vui tươi thật sự tận trong lòng phải thanh tẩy, phải lách mình qua khung cửa hẹp. Nếu không sẽ bị loại ra ngoài, chỗ khóc lóc nghiến răng, nơi đó không còn là hân hoan, vui tươi, hạnh phúc nữa.
Thiên Chúa luôn là Chúa của Tình yêu. Người luôn mở rộng cửa, luôn rộng tay để đón mời nhưng chúng ta phải tự hỏi mình có dám, có xứng đáng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào vòng tay của Thiên Chúa hay không? Thiên Chúa không xua đuổi ai nhưng chính chúng ta phải biết dùng tự do và những khả năng Chúa ban cũng như những ơn thánh của Chúa trong đời sống hằng ngày mà về cùng Chúa. Sống như thế, bàn tiệc cánh chung không phải tìm đâu xa mà chính tại nơi mình đang sống trong hiện tại, lúc bấy giờ. Hãy sống niềm vui thiên đàng và hãy bắt đầu ngay từ trần gian này. Nhưng niềm vui đó tùy thuộc ở cách sống của chúng ta, của gia đình chúng ta và xã hội chúng ta đang sống. Khi mỗi người biết sống thật với lòng trời và hợp với lòng người, đó là hạnh phúc. Hạnh phúc đó là chúng ta được tham dự vào bàn tiệc của Thiên Chúa và bàn tiệc đó sẽ kéo dài mãi mãi trong cả đời này lẫn đời sau.
Vừa lọt vào bảng xếp hạng tóp ten của làn sóng xanh, bài hát “bạn tôi”của nhạc sĩ Võ Thiện Thanh đã mau chóng chiếm được tình cảm của khán thính giả. Bài hát đi vào lòng người đặc biệt nơi người trẻ, qua những hình ảnh thật xúc động về người sinh viên trước ngưỡng cửa vào đời với muôn vàn khó khăn: “Bạn tôi sáng nhịn ăn lên giảng đường, bạn tôi sáng đạp xe 20 cây số, thằng đi dạy thêm, đứa làm tiếp thị, thằng làm quán cơm, tối về một gói mì tôm”.
Đúng vậy, cửa vào đại học đã khó, để sống hoài bão của mình, lại càng khó hơn. Vâng! Để được bước chân vào ngưỡng cửa đại học các bạn sinh viên nghèo đã tốn biết bao công lao thức khuya dậy sớm “dùi mài kinh sử”, bỏ hết những cuộc vui chơi, tất bật trên mọi nẻo đường mưu sinh với không thiếu những giọt mồ hôi, nước mắt để thực hiện hoài bão. Và đích điểm sự thành đạt là kết quả của những cố gắng lâu dài mà con đường dẫn đến không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh và phấn đấu.
Con đường vào quê trời cũng vậy, đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa đi qua cửa hẹp. Đó chính là điều Chúa Giêsu mời gọi hôm nay, như chính Ngài đã lựa chọn con đường của thập giá.
Vậy thì mỗi người trong chúng ta hãy chọn cho mình một con đường. Đường cao, đường lưng chừng, hay đường thấp? Tôi xin mượn lời thơ của thi sĩ người Anh, John Oxenham tạm kết cho chủ đề chia sẻ hôm nay:
“Trước mặt mỗi người đều chỉ mở ra một con đường
Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp,
Linh hồn cao thượng chọn lấy nẻo cao
Linh hồn thấp kém bước vào ngõ thấp
Và ở giữa hai nẻo đường mù sương ấy,
Số còn lại cứ ngập ngừng qua lại,
Nhưng mỗi người chỉ có
Một con đường mở ra trước mặt:
Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp,
Mỗi người đều phải quyết định xem:
Linh hồn mình sẽ tiến theo lối nào”.
49. Thu mình để qua Cửa hẹp Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương quan về niềm tin, sự vâng nghe và thực hành lời Chúa.
Khi dân Do thái bị lưu đầy, Đền thờ bị phá hủy, ngôi vua bị truất phế, đất đai người ngoài chiếm đóng, số người còn lại phải sống trà trộn với dân ngoại, nên họ hỏi nhau: Thiên Chúa mà cha ông chúng ta tin thờ có còn không? Trong bối cảnh ấy, Isaia khuyến khích người lưu đầy phải trở về không trễ nải, hồi hương là điều cần thiết. Dân ở nhà thì Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc”; “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem” (Is 66, 18-21). Bởi Thiên Chúa là Đấng trung thành, giữ trọn điều Ngài đã hứa. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời” (Tv 116,2).
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng trung thành và rất mực khoan dung, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Thư gửi tín hữu Do thái chứng minh: “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt” (Dt 12, 5-7.11-13). Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp.
Có người đặt câu hỏi: Cửa hẹp là cửa nào, cửa ấy có mấy cánh và ai là cửa? Cứ dựa vào lời Chúa Giêsu mà xác định: Chúa Giêsu chính là cửa, vì Người tuyên bố: ‘Ta là cửa.’ (Ga 10, 9). Nhưng có người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng rộng lượng vô biên, tại sao lại ví mình chẳng những là cửa, mà còn là cửa hẹp?
Xin thưa, cửa hẹp không phải vì cửa ấy nặng nề, khó khăn nhưng là vì Thiên Chúa muốn chúng ta hãy ở khiêm nhường, tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa; nhìn nhận mình là người tội lỗi, cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên khi Chúa Giêsu nói: “Vào qua cửa hẹp”, là Người muốn chúng ta phải thu hẹp mình lại, loại bỏ tính kiêu căng và ngạo mạn là thứ khiến chúng ta phình to ra, lấp cả Thiên Chúa. Chúa Giêsu là “Cửa” cửa ấy có tên là ‘tình thương’, Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, ai sống khiêm nhường thì vào trường Giêsu, cửa tuy hẹp nhưng luôn rộng mở cho hết mọi người. Cửa hẹp nhưng lại có hai cánh, một cánh cửa hẹp, dành cho những loại bỏ sự kiêu căng để đi qua vừa; một cánh cửa rộng mở để Thiên Chúa chào đón tất cả mọi người.
Lời Chúa qua miệng tiên tri Isai: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta” (Is 66,18). Những lời trên vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ đời đời, như Tin Mừng Luca loan báo: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30). Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một dòng chảy của tình yêu chan chứa. Dòng chảy ấy phá tan mọi ngăn cách, mở ra những viễn tượng ánh sáng và bình an.
Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đổi mới cách nghĩ của chúng ta, khước từ những thứ không cần thiết nơi tạm thế này, ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chúa là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ trong Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ.
Lạy Mẹ Maria, Cánh Cửa Thiên Quốc, chúng con nài xin Mẹ dẫn chúng con bước qua cánh cửa của đức tin mà tiến vào một con đường rộng rãi thênh thang, con đường của ơn cứu rỗi. Amen.
Loài người trên thế giới này tự hào vì mình biết nhiều và cao trọng hơn các loài khác. Nhưng có nhiều người không biết một điều quan trọng là: tôi sẽ đi đâu về đâu? Nhiều người không biết hoặc không muốn biết sự thật đằng sau cái chết dù họ có cảm nhận ít nhiều về vấn đề tâm linh con người.
Người Do Thái nhờ có Mạc khải nên có lòng mong chờ ơn Cứu chuộc. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng ơn cứu chuộc, họ chú ý lắng nghe và hỏi Chúa Giêsu về số lượng người được cứu. Nhưng Chúa Giêsu muốn giúp họ hiểu thêm về tiêu chuẩn được ơn cứu độ. Đó là hãy vào qua cửa hẹp. Con đường về nhà Cha là con đường hẹp, con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi. Thế gian luôn muốn mở nhiều con đường thênh thang không qua thập giá: con đường của danh, lợi, thú. Đó là những ngõ cụt không đưa đến Thiên Đàng, có khi đó là những cái rọ do ma quỷ bày ra cho loài người tự chui vào và nô lệ cho thế gian. Loài người nếu không biết trông cậy vào Chúa thì sớm muộn cũng bị quỉ ma lừa gạt cách này cách khác. Ma quỉ có thể dựa vào xu hướng chung của con người là tìm sự dễ dãi, thích giàu sang, hưởng thụ, sống theo sở thích, sống vô kỷ luật, ích kỷ, kiêu căng để dẫn con người đi sai con đường lương tâm chỉ bảo. Vì vậy, Chuá Giêsu đã xuống thế làm người, dạy chúng ta phải tìm những điều cao quý, biết bỏ mình phục vụ trong tình bác ái, sống vượt trên mọi tham vọng, và vâng phục thánh ý Chúa. Theo Chúa thì phải lội ngược dòng đời, sống yêu thương, vị tha theo gương Chúa Giêsu. Môn đệ Chúa hãy nghĩ đến phần rỗi linh hồn hơn là phần xác, nghĩ đến ích lợi chung trước khi lo cho tư lợi riêng. Đó không phải là điều Chúa Giêsu đã dạy bảo chúng ta và được ghi lại trong Tin Mừng, được nhắc đi nhắc lại thường xuyên trong các giờ cầu nguyện sao?
Đau khổ và sự dữ trên trần gian là do tội lỗi gây ra. Con cái Chúa cũng không tránh được đau khổ khi sống trên trần gian này. Chính Chúa Giêsu cũng không tìm cách tránh đau khổ. Ngài mang lấy đau khổ của nhân loại mà đưa lên cây thập giá. Vì muốn cứu giúp chúng ta, Ngài không ngại hy sinh. Tuy hôm nay chúng ta còn gặp nhiều gian khó nhưng chỉ là những khổ ải tạm thời. Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng ta một nơi hạnh phúc đời đời, nâng đỡ chúng ta bằng hành động yêu thương, cho chúng ta niềm hy vọng về tương lai xán lạn Chúa dành sẵn cho con cái mình trên quê trời. Những khó khăn chúng ta đang chịu nhắc bảo cho chúng ta biết rằng: Chúng ta đang ở quê tạm, nơi rèn luyện bản thân để trưởng thành trong tình yêu chứ chưa phải là quê thật. Thư gởi tín hữu Do Thái đã nhắc bảo chúng ta: Chúa sửa dạy ai là kẻ người yêu mến và đánh đòn…(Dt.12, 5-7) có người con nào mà cha không sửa phạt vài lần. Những lúc Chúa gởi đòn roi thì ai cũng buồn, nhưng sau này, sẽ mang lại quả bình an và công chính (Dt.12,11-18) Chúa biết cách nào hay nhất để sửa dạy chúng ta, giúp chúng ta đi đúng đường chân lý. Dĩ nhiên, khi Chúa gởi thử thách đến thì chúng ta khổ, nhưng chúng ta hãy nhớ lời Chúa nói với thánh Phaolô: ơn ta đủ cho con. Chúa không cất mọi khó khăn cho chúng ta, nhưng chúa muốn rèn luyện chúng ta nên tinh ròng. Cuộc sống ở trần gian mau qua, không phải khổ sở lâu. Rồi Chúa sẽ sớm đưa chúng ta về hưởng thiên đàng, một phần thưởng cao quí hơn những gì lòng người dám ước mong. Phần thưởng này dành cho những ai biết sống tốt, biết yêu mến đồng loại, trở nên giống Đức Giêsu là Con Một Chúa Cha cũng là Chúa chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi con đường hẹp, con đường sống theo giới răn Chúa, con đường vì tha nhân, phục vụ cho hạnh phúc đời đời của nhân loại, để mai sau được thừa hưởng Nước Trời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có thời người ta tưởng rằng Thiên Chúa chỉ cứu độ những người Do Thái và những ki-tô hữu. Với thời gian và mặc khải, người ta hiểu hơn về Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương và cứu độ tất cả mọi người.
Thiên Chúa đâu của riêng ai
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ được thấy vinh quang của Thiên Chúa. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn sai một số người thuộc những dân tộc này tới những dân tộc xa hơn để rao giảng loan truyền về Thiên Chúa. Ngài còn chọn những người thuộc những dân tộc này làm tư tế cho Ngài.
Dân Do Thái không là dân tộc duy nhất được Thiên Chúa thương yêu. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ ở mọi thời đại. Tư tưởng trong sách tiên tri Isaya tuy dù có từ thời xa xưa, nhưng rất tiến bộ và vượt xa nhiều tư tưởng của thời gần đây. Ngay ngày nay, vẫn còn nhiều người tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương và cứu độ những người Công Giáo hoặc ki-tô hữu. Đúng là nếu ai cố tình từ chối Thiên Chúa và Đức Yêsu khi họ biết rõ, thì người đó bị loại khỏi Nước Thiên Chúa; còn những ai vì không biết hay lầm lẫn mà không trở thành người Công giáo hoặc ki-tô hữu, thì vẫn được cứu độ cho dù họ không theo một tôn giáo nào (Hiến chế Giáo Hội, số 16). Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, cho dù người đó chưa nhận biết Ngài.
Hãy đọc ý nghĩa những gì xảy ra cho mình
Thiên Chúa yêu thương con người. Tuy nhiên không vì thế mà Thiên Chúa làm tất cả những gì con người ao ước. Những gì không tốt cho con người, Thiên Chúa sẽ không làm cho họ. Tuy nhiên, nếu có gì tốt mà thậm chí trái ý con người, Thiên Chúa vẫn làm cho con người.
Những trái ý và thập giá xảy tới cho con người, có thể được coi như những thử thách và bài học Thiên Chúa dạy dỗ con người. Hãy cố gắng để nhận ra điều Ngài muốn nói với mỗi người qua những gì xảy tới cho mình trong cuộc đời. Thử thách và trái ý, có giá trị riêng của nó. Hãy cố gắng tận dụng, để triển nở và hạnh phúc hơn.
Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ mọi người (1Tm.2, 4). Tuy vậy, được cứu độ hay không, cũng tuỳ thuộc con người. Hãy vào qua cửa hẹp. Nếu một người chọn thế gian và những xa hoa, không thể vào Nước Trời được.
Nếu không sống theo đường lối của Thiên Chúa hôm nay, lấy gì bảo đảm sẽ sống theo Chúa vào những giây phút cuối đời mình? Hiện tại là quan trọng. Thời gian của đời dương thế này rất quan trọng và không gì có thể thay thế được. Qua hành vi của con người trên dương thế này, người ta có thể giúp những người khác khi họ không còn làm gì được cho họ, như trường hợp những người bị thiểu năng, hoặc các linh hồn nơi luyện tội. Qua hành vi tại dương thế này, con người làm mình trở thành vĩnh cửu, làm mình trở thành thần, trở thành thánh.
Hãy vào qua cửa hẹp, là cách nói khuyến khích con người hãy sống theo lý trí, lương tâm, luật Chúa cũng như những gì là tốt lành. Đừng sống chỉ theo bản năng hoặc xúc cảm của mình. Hãy vào qua cửa hẹp, đòi người ta phải hy sinh và sống cho tha nhân, yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Nếu không theo Công giáo cũng được cứu độ, vậy tại sao còn cần phải là người Công giáo?
- Trở thành ki-tô hữu, có gì hơn người không theo một tôn giáo nào?
- Đâu là lý chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
“Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc.13, 29). Người Do Thái không thể chỉ nại rằng họ là người dân tộc Do Thái để được cứu độ; vì nếu họ không sống ngay lành, không cố gắng chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, thì họ vẫn không được cứu độ (Lc.13, 23-28). Mỗi người được mời gọi để sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa, nên mỗi người phải chiến đấu vượt thắng chính mình, vượt thắng những cám dỗ làm mình sa đọa khiến mình không được hạnh phúc thật.
Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho con người. Đức Yêsu là người mẫu để con người bắt chước, để con người sống theo và được hạnh phúc đích thực. Không phải giầu sang, địa vị chức quyền làm con người hạnh phúc, nhưng chính thái độ sống với những chọn lựa đúng đắn làm con người sống triển nở và hạnh phúc. Đức Yêsu đã sống thân phận con người cho đến cùng, chấp nhận cả cái chết, mà thậm chí cả cái chết ô nhục trên thập giá, để trở thành mẫu mực cho tất cả mọi người, kể cả những người đáng thương nhất, bị nguyền rủa nhất, bị coi thường nhất. Ngài nghèo đến độ phải sinh trong chuồng chiên cừu, để những ai không nhà cửa và bị bỏ rơi, vẫn có thể thấy được an ủi thông cảm, vì Thiên Chúa nhập thể đã chia sẻ thân phận cùng khổ như mình.
Những trái ý trong cuộc đời ai mà chẳng gặp. Chính Đức Yêsu trong vườn dầu cũng cảm thấy lo sợ thập giá đang xảy tới với mình, và Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cho con khỏi uống chén này; nhưng đừng theo ý con, mà nguyện ý Cha được nên trọn.” Và Ngài đã chấp nhận cái chết như một biến cố không thể tránh khỏi, Ngài cũng bị cám dỗ như thể Thiên Chúa không thương Ngài, như thể Thiên Chúa bỏ rơi Ngài, nhưng Ngài vẫn chống trả cám dỗ: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Yêsu, cho dầu người đời có đối xử với Đức Yêsu như thế nào chăng nữa, thì Thiên Chúa vẫn trung thành và vẫn yêu thương Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do, và con người có thể dùng tự do Thiên Chúa ban làm trái ý Ngài, để hãm hại những người Thiên Chúa yêu thương, thì Thiên Chúa vẫn phải chấp nhận; nhưng Thiên Chúa sẽ làm điều khác để yêu thương con người, chẳng hạn như Ngài đã phục sinh Đức Yêsu từ trong cõi chết, Ngài vẫn liên tục làm mọi sự thành tốt cho những kẻ yêu mến Ngài (Rm.8, 28-39).
Những thất bại trên đời, có thể là những phương tiện Thiên Chúa dùng để giáo huấn con người. Thái độ của người ta đối với đứa con hoang đàng sau khi anh ta phung phí hết tài sản của cha, có thể là dịp rất tốt để người con này trở về cùng cha; cũng tương tự vậy, những thập giá trong cuộc đời có thể được Thiên Chúa dùng để đưa những người Thiên Chúa yêu trở về cùng Ngài. Chuyện ông Giuse bị các anh ghét bỏ và bị bán sang Aicập, cũng như việc ông bị ở tù vì bị vu cáo cưỡng hiếp vợ viên quan mà ông phục vụ, vẫn được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể làm mọi sự thành tốt cho kẻ yêu mến Ngài, kể cả những điều ác hại người ta vô tình hoặc cố tình làm hại họ.
Đức Yêsu một niềm phó thác cho Thiên Chúa bất chấp tất cả những gì người ta làm cho Ngài. Ngài tin rằng Thiên Chúa yêu thương Ngài, và sẽ làm điều tốt nhất cho Ngài; tuy vậy, Ngài cũng không được miễn trừ khỏi cám dỗ: Ngài đã từng bị cám dỗ trước khi bắt đầu rao giảng, Ngài đã từng bị người ta thách thức làm dấu lạ bởi trời, bị người ta thách thức xuống khỏi thập giá để họ tin. Ngài bị khủng hoảng cả về đức tin (Mc.15, 34). Đức Yêsu bị thử thách cám dỗ nhưng Ngài không quỵ ngã. Ngài trở nên niềm hy vọng cho tất cả những ai đang bị cám dỗ. Thiên Chúa không miễn trừ cho ai khỏi bị cám dỗ, kể cả Đức Yêsu và Đức Mẹ, nhưng Ngài bảo đảm ơn Ngài đủ cho tất cả mọi người: “ơn Ta đủ cho con” (2Cr.12, 8). Kết hiệp với Thiên Chúa trong Đức Yêsu, con người vượt thắng cám dỗ. “Anh em hãy tin tưởng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga.16, 33).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Đức Yêsu có một chỗ đứng nào đó trong đời bạn không? Ngài là ai đối với bạn?
- Đức Yêsu có giúp bạn giải quyết một vài vấn đề nan giải trong đời bạn không? Xin bạn chia sẻ, nếu có.
- Đức Yêsu có giúp bạn giải quyết mọi vấn đề của đời bạn không? Tại sao bạn tin như vậy?
Đứng ở trước một căn biệt thự là hai người ăn xin. Họ đang tìm cách để đi vào xin ăn. Lý do mà họ còn do dự là bởi vì ở đằng trước cửa là một con chó to và dữ tợn đang gầm gừ. Một người nói với người kia, “Anh vô đi. Anh thấy không cái con chó đó nó đang sủa nhưng nó cũng đang vẫy đuôi.”Người kia trả lời, “Đó là vấn đề. Tôi không biết nên tin cái nào!”
Trong cuộc sống, chúng ta phải đương đầu với nhiều khuynh hướng mẫu thuẫn nhau: loại bỏ hay chấp nhận, phá hủy hay xây dựng, chiến tranh hay hòa bình. Chúng ta đang suy nghĩ không biết nên tin vào điều gì. Chúng ta lưỡng lự! Chúng ta hỏi mình, “Làm sao tôi có thể thăng tiến cuộc sống của tôi trong cái thế giới đầy dẫy tội lỗi như thế này?” Chúng ta than phiền tại sao không có người nào làm cho thế giới nên tốt hơn. Thế nhưng các bạn có thấy không, ‘người nào’ đó chính là các bạn đấy. Các bạn chính là người hòa giải và người củng cố. Các bạn được gọi để làm công việc của Đấng Cứu Độ. Anh hùng được sai đi để làm công việc anh hùng. Con voi được sai đi để làm công việc của con voi. Con người được sai đi để làm công việc siêu nhiên.
C.B. Eavery, trong bài “Cấp Bậc của Sự Sống,”viết, “Con người có ba cấp bậc sống: bậc con vật, bậc con người, và bậc siêu nhiên.”Nếu bạn chọn sống bậc con vật thì bạn sẽ chỉ tìm thỏa mãn của thân xác và bạn sẽ không bao giờ được thỏa mãn với cuộc sống của bạn. Có lẽ một lúc nào đó thì bạn thích, thế nhưng bạn là một con người có lương tâm và linh hồn, và như thế các bạn không thể nào được thỏa mãn trong xác thể.
Nếu bạn chọn sống bậc con người, dựa trên những vật liệu để làm cho bạn được thỏa mãn, nhiều người sẽ giúp đỡ bạn. Bạn sẽ dùng sức mạnh của mình để giúp chính mình. Các hãng và công xưởng sẽ giúp bạn, thế nhưng khả năng của con người rất hạn hữu.
Nếu bạn chọn sống bậc siêu nhiên, dựa trên nền tảng thánh thiện để làm cho mình được no thỏa, thì bạn sẽ được Thiên Chúa giúp bạn… Thiên Chúa luôn luôn lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ bạn, không phải chỉ có từng lúc, nhưng mọi lúc.
Bản tính của con người thường được người Mỹ ví như chiếc ghế ba chân. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được khi một trong ba chân bị gẫy hoặc là ngắn hơn thì chiếc ghế sẽ ra sao rồi. Cũng giống như thế, nếu chúng ta chỉ lo chăm chuốt về thể xác mà quên đi tinh thần, hoặc quá lo về mặt tinh thần mà quên đi thể xác thì con người của chúng ta sẽ bị mất thăng bằng.
Bác sĩ Paul Tournier đã chia sẻ một câu truyện về một người đàn ông bị bệnh rất nặng sau cái chết của người con của ông: Khi tôi đến thăm người đàn ông đó, ông đang nằm ở trên giường. “Chào bạn, tôi đến đây để nói cho bạn biết bạn đang mắc phải cái chứng gì. Nguyên nhân làm cho bạn ra nông nỗi này là bởi vì cái chết của người con bạn. Bạn cảm thấy rằng chính mình là nguyên nhân. Vì thế, bạn đã tự trách mình và chạy trốn cuộc sống hiện tại. Bạn chạy trốn khỏi cuộc sống mà bạn không can đảm để đối diện. Bây giờ bạn đang đứng ở trước một con đường mà nó chia ra làm hai ngả. Một ngả là con đường buông xuôi mà các bác sĩ chúng tôi chẳng làm được gì để giúp đỡ bạn. Con đuờng thứ hai thì khó hơn bởi vì đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Nếu bạn chọn con đường này thì bạn phải biết vác thánh giá mình mà đi theo Ngài. Con đường này đòi hỏi bạn phải biến đổi. Thế nhưng bạn sẽ không đi một mình, Chúa Giêsu sẽ luôn ở bên cạnh bạn.”Sau khi bác sĩ ngừng lại thì người đàn ông liền đáp lại lời của bác sĩ, “Tôi chọn con đường Chúa Giêsu Kitô. Nhưng tôi cần giúp đỡ bởi vì tôi không biết phải làm gì”(Paul Tournier, “The Healing of Persons”).
Nếu xét về bậc con vật và con người thì người đàn ông đó không thể nào có thể lấy lại tinh thần để sống bởi vì cả thể xác và tâm thần của ông đều bị kiệt quệ. Vấn đề của ông thuộc về mặt thiêng liêng. Ông đang cố gắng để đối diện với cái tai kiếp xảy ra cho người con yêu quí của ông.
“Lạy Chúa, có phải chỉ có một số người mới được cứu độ?”Ai có thể trả lời cho chúng ta câu hỏi này nếu không phải là Thiên Chúa. Thế nhưng điều mà chúng ta biết là Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và lúc nào cũng sẵn lòng để nâng đỡ để chúng ta sống một cuộc sống mới.
- Mỗi năm, cứ đến mùa thi đại học, các thí sinh xem ra lắm kẻ buồn và ít người vui, bởi vì năm nào cũng vậy, số dự thi thì nhiều, nhưng số được tuyển thì ít. Cánh cửa vào đại học, nhất là hệ chính quy xem ra rất hẹp, chỉ dành cho những thí sinh cố gắng, có phương pháp học tốt mới được vào. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, cửa vào Nước Trời là cửa hẹp, nhưng là cửa hạnh phúc, chúng ta làm gì để có thể qua cửa đó được?
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày để giảng dạy, giúp cho người nghe dễ hiểu. Qua hình ảnh “cửa hẹp” này làm chúng ta có thể có những suy nghĩ sau:
- Nếu cửa Nước Trời hẹp, hẳn là do chủ nhà Giêsu và những người được mời vào phải “nhỏ bé”. Dĩ nhiên ở đây không nên hiểu theo nghĩa thể lý mà là luân lý. Đức Giêsu là Đấng cao cả nhưng chọn con đường hèn mọn mà như thánh Phaolô đã tóm gọn trong thư gởi tín hữu Philipphê. Người là Thiên Chúa mà sẵn sàng trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa để làm con người, mà lại là con người hèn mọn và chấp nhận chết ô nhục trên thánh giá để chuộc tội chúng ta (x.Plp 2,6-7). Vậy ai muốn vào Nước Trời thì hãy trở nên nhỏ bé, mọn hèn như Đức Giêsu.
- Nếu cửa Nước Trời là hẹp, mà ta muốn vào dễ dàng thì hành trang của ta phải gọn nhẹ. Gọn nhẹ đó là bớt đi, cắt xén đi những việc không tốt nơi con người mình. Bớt đi lòng vị kỷ, hẹp hòi; bớt đi những đam mê, dục vọng xấu; bớt đi sự hận thù, ghen ghét; bớt đi sự xảo trá, gian tham; bớt đi lòng tự cao, tự đại… nói gọn là bớt đi, cắt tỉa đi những gì làm cản trở ta không thể đến với Chúa và tha nhân được. Có như vậy thì mới có thể vào Nước Trời.
- Nếu cửa Nước Trời là hẹp, để qua cách dễ dàng thì phải có sức mạnh. Sức mạnh nỗ lực của bản thân chưa đủ, mà cần nhất là sức mạnh của ơn Chúa giúp. Đức Giêsu đã thấy trước nên Người đã đưa ra phương cách, để ta có thể qua cửa đó được, là mến Chúa và yêu người. Người cũng đã lập các bí tích để nâng đỡ, chữa lành hoặc ban những ơn cần thiết cho người Kitô hữu. Vậy mà ta thờ ơ với các bí tích, nhất là bí tích giải tội và Mình Thánh Chúa thì làm sao có thể vào Nước Trời được!
- Nếu ta hình dung vào Nước Trời là có cửa, thì hãy nhớ rằng đã có cửa thì có lúc cửa mở và có lúc cửa đóng. Vì thế như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Đức Giêsu cho biết khi cửa đóng rồi, thì chủ nhà sẽ từ chối người đến gõ cửa, dù bất cứ lý do gì (x Lc 13,25-27). Cửa đóng lại là biểu tượng của giờ cánh chung hay giờ chết của mỗi người. Cửa đóng lúc nào, ai mà biết được? Cho nên hãy cố gắng sống thật tốt ngay những phút giây nầy, không chần chờ gì nữa.
- Nếu ta hình dung vào Nước Trời thì phải qua cửa, tuy hẹp, nhưng Thiên Chúa mời gọi mọi người vào cửa ấy, từ Đông chí Tây, từ Nam đến Bắc, tất cả đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời không trừ ai với điều kiện đơn giản là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa và thực hành những điều Người dạy:”Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”(Lc 11,28). Như vậy không được chễnh mãn, ỷ lại mình là Kitô hữu, thì đương nhiên được hạnh phúc Nước Trời, như người Do thái xưa quan niệm là dân riêng của Thiên Chúa, thì Ngài phải lo cho. Hãy nhớ Thiên Chúa là Đấng nhân từ nhưng cũng công bằng vô cùng, là Kitô hữu mà thôi chưa đủ mà còn phải sống đời sống của Kitô hữu nữa thì mới đáng được hạnh phúc Nước Trời.
- Nếu ta hình dung vào Nước Trời phải qua cửa hẹp, chính mình phải qua đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn người thân của mình qua cửa đó nữa. Thì những bậc phụ huynh, những người có trách nhiệm hãy lo cho con em mình về cả ba phương diện: thể dục, trí dục và đức dục. Phương cách giáo dục hiệu quả nhất đó chính là bằng đời sống gương mẫu. Khi bảo con đừng chưởi thề nói tục mà ta mở miệng ra là văng tục thì làm sao dạy được nó. Bảo con đi Lễ thờ phượng Chúa mà ta không bao giờ đi, thì thật là khó thuyết phục nó…!
- Qua cửa hẹp mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời, tuy biết vậy mà nhiều khi chúng ta không cố gắng. Thí sinh ra sức học để thi vào trường này trường nọ, nhưng rồi bằng cấp, chức vị không thể trường tồn, bởi cái chết sẽ kết thúc tất cả. Lực sĩ ra sức luyện tập, kiêng cử đủ điều nhưng rồi kỷ lục cũ sẽ nhường chỗ cho kỷ lục mới! Còn hạnh phúc Nước Trời thì không bao giờ mất, vậy ta càng có lý do cố gắng hết sức để bước theo Đức Giêsu vào cửa hẹp bởi chính Người là đường là sự thật và là sự sống. Amen.
55. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh
“HÃY GẮNG MÀ VÀO QUA CỬA HẸP”
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên hôm nay vẫn theo Phúc Âm Thánh Luca, đúng như chu kỳ Năm C của mình, chứ không như chu kỳ Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô đã được Giáo Hội thay bằng Phúc Âm Thánh Gioan, từ Chúa Nhật 17 đến Chúa Nhật 21 tuần này, với chủ đề về Bánh Hằng Sống bởi trời xuống, trích nguyên đoạn thứ sáu của Phúc Âm thứ bốn này. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng bỏ phần cuối của đoạn 12 về những dấu chỉ thời đại, và nhẩy sang đoạn 13, và chỉ lấy ở đoạn 13 này có tám câu, từ cầu 22 đến 30, sau đó lại bỏ 4 câu cuối của đoạn này để nhẩy sang đầu đoạn 14 vào Chúa Nhật XXII tuần tới. Đó là dấu chứng tỏ cho chúng ta thấy bài Phúc Âm bao giờ cũng phải phản ảnh ý hướng của Mùa Phụng Vụ. Vậy để tiếp theo ý nghĩa về “Lửa” Thánh Linh của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này muốn nói gì, phải chăng đến việc “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp”?
Thật ra, nếu đối chiếu với hai bài đọc một và hai trong phần Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm và bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm. Trước hết, bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm ở chỗ, cả hai đều nói đến ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Theo Sách Tiên Tri Isaia trong bài đọc một thì ý định cứu độ phổ quát này được bộc lộ qua lời Chúa phán: “Ta đến để qui tụ các dân tộc của đủ mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta… Ta sẽ sai những kẻ đào thoát … đến với các dân nước… đến các bờ cõi xa xăm chưa hề nghe nói về Ta hay chưa thấy vinh quang của Ta…”, và ý định cứu độ phổ quát này cũng được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Nếu bài đọc một hợp với phần cuối của bài Phúc Âm thì bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm, liên quan đến nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô khuyên dạy người Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay là “hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, thì Thánh Phaolô cũng kêu gọi Giáo Đoàn Do Thái thế này: “Anh em hãy chịu đựng những gian nan thử thách như người môn đệ của Thiên Chúa, Đấng đối xử với anh em như con cái… Vậy anh em hãy kiên cường lên bàn tay rụng rời của mình và đầu gối bại nhược của anh em”.
Như thế, căn cứ vào cả ba bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy có hai vấn đề chính yếu, đó là vấn đề ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa và vấn đề nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát này của Ngài. Tuy nhiên, theo Lời Chúa Giêsu mạc khải trong bài Phúc Âm hôm nay thì hình như vấn đề cứu độ không phải chỉ vỏn vẹn và đơn giản có thế, nghĩa là chỉ cần Thiên Chúa muốn cứu độ con người và chỉ cần con người nỗ lực đáp ứng là xong, là đủ. Đó là lý do, để trả lời cho vấn nạn của một người đặt ra trên đường Người lên Giêrusalem, về vấn đề: “Phải chăng có ít người được cứu độ?”, Chúa Giêsu chẳng những đã nhấn mạnh đến việc con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, khi Người phán: “Quí vị hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, mà còn nhấn mạnh đến cả yếu tố đặc biệt khác nữa, qua lời khẳng định: “Tôi bảo cho quí vị biết: nhiều người sẽ cố vào mà không được”. Ở đây, Chúa Giêsu không nói “ít người” mà là “nhiều người”, và Người cũng không nói “nhiều người” ấy “muốn vào” mà là “cố vào”, tức là không phải “nhiều người”ấy chỉ muốn xuông mà còn hết sức thực hiện ý muốn được cứu độ của mình nữa. Vậy “nhiều người” ấy đã tỏ ra “cố vào” bằng cách nào, nếu không phải, như Chúa Giêsu cho biết tiếp trong bài Phúc Âm qua lời họ tự biện hộ cho mình trước tòa phán xét chí công khi thấy mình hoàn toàn bị xua đuổi loại trừ: “Chúng tôi đã ăn uống chung với Ngài. Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”. Vậy, yếu tố vô cùng thiết yếu để được cứu độ đây không phải chỉ là “ăn uống với Ngài”, như kiểu Kitô hữu Công Giáo chúng ta năng xưng tội rước lễ, cũng không phải như anh em Kitô hữu Tin Lành chỉ nghe “Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”, những lời đã được ghi chép lại trong Thánh Kinh, mà còn là và chính là ở tại việc nhận biết Đấng mà họ “đã ăn uống chung với Ngài” và đã nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”. Thật thế, còn ai hơn các vị tông đồ là những người được diễm phúc “ăn uống chung với Ngài” và nghe “Ngài dạy dỗ”, chẳng những nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”, nghĩa là chung với dân chúng, mà còn “dạy dỗ” riêng tư nữa, và chẳng những một năm mà là ba năm liền. Ấy thế mà cuối cùng, các Phúc Âm cho chúng ta biết, một vị quay ra phản nộp Thày, tất cả mọi người đào tẩu khi thấy Thày bị bắt, nhất là vị đầu đàn công khai trắng trợn chối bỏ Thày.
Bởi thế, dù có “ăn uống chung với Ngài” và có được nghe “Ngài dạy dỗ”, nếu tận thâm tâm không thực sự nhận biết Ngài như Ngài mạc khải cho biết, thì cuối cùng chúng ta vẫn bị Ngài tuyên bố vĩnh viễn ruồng bỏ: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”. Chưa hết, để thành phần hư đi này thấy được lý do chính đáng tại sao Ngài ruồng bỏ họ, dù họ đã “ăn uống chung với Ngài” và đã nghe “Ngài dạy dỗ”, ngay sau khi tuyên phạt họ, Ngài liền cho họ biết thành phần được cứu độ như sau: “Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả mọi tiên tri an lành trong vương quốc của Thiên Chúa…”. Qua việc điểm mặt chỉ tên thành phần được cứu độ như thế, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho riêng dân Do Thái và chung Kitô hữu chúng ta biết yếu tố cứu độ quyết liệt, đó là con người cần phải có Đức Tin Thần Linh, vì thành phần được Chúa Giêsu điểm mặt chỉ tên quả đã sống đức tin, như Thánh Phaolô nhắc lại để làm gương trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 12 từ câu 8 đến 19 về Abraham, câu 20 về Isaac, câu 21 về Giacóp, và từ câu 35 đến 37 về các tiên tri. Vậy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp” đây có thể được chuyển dịch là “hãy gắng sống đức tin”.
Nếu thành phần được cứu độ chỉ có thế, chỉ đếm được trên đầu ngón tay như thế, thì quả thực những kẻ được cứu rỗi thật là hiếm hoi ít ỏi. Tuy nhiên, ngoài những thành phần tiêu biểu được cứu rỗi trong Dân Chúa thuộc về Cựu Ước này, Chúa Giêsu, ngay sau đó, còn thêm trong bài Phúc Âm hôm nay là: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Như thế thì thành phần được cứu độ cũng nhiều chứ không ít. Thế nhưng, thành phần Dân Ngoại thuộc Tân Ước này sẽ được cứu độ như thế nào, nếu không phải, trước hết, chẳng những bởi ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa mà còn bởi ý muốn tự do chọn lựa của Thiên Chúa nữa. Đó là lý do hiện hữu và là tất cả ý nghĩa của lời Chúa Giêsu kết thúc bài Phúc Âm hôm nay: “Có những người sau hết sẽ lên trước hết và có những người trước hết sẽ thành sau hết”. Thành phần “sau hết sẽ nên trước hết” này không phải là thành phần Dân Ngoại hay sao? Điển hình nhất là trường hợp của ba chiêm gia Đông phương, những người chưa hề “ăn uống chung với Ngài”hay nghe “Ngài dạy dỗ”như dân Do Thái trong Mạc Khải Cựu Ước, thế mà họ cũng từ xa đến để triều bái “vua Do Thái mới sinh”, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 từ câu 1 đến 12; trong khi đó, cũng Phúc Âm này cho biết, chính dân Do Thái, nhờ Mạc Khải Cựu Ước của mình, biết được nơi “vua Do Thái mới sinh”là “ở Bêlem xứ Giuđa”, song họ chỉ thông báo cho dân ngoại biết thôi, chứ họ không tin, nên không đến, thậm chí có đến không phải để triều bái Ngài như ba nhà chiêm gia Đông phương, mà là để tiêu diệt vị hài vương này. Phải chăng chính vì thế Chúa Giêsu đã ám chỉ họ là thành phần “trước hết sẽ thành sau hết”?
Vậy nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay chính yếu nói về thành phần được cứu độ và lý do hay yếu tố khiến họ được cứu độ, thì ý ngghĩa của bài Phúc Âm hôm nay liên hệ với ý nghĩa của bài Phúc Âm về “Lửa” Thánh Linh tuần trước ra sao? Theo tôi, ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI tuần này tiếp tục ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước trong việc phản ảnh chủ đề phụng vụ trong Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Ở chỗ, nếu “không ai có thể tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa nếu không có Thánh Thần”, như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô, được Giáo Hội lập lại trong bài đọc hai của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mà yếu tố tối khẩn để được cứu độ là Đức Tin Thần Linh, bởi thế, dù là dân Do Thái hay Dân Ngoại, muốn được cứu độ, ai cũng phải có “Lửa”Thánh Linh do Chúa Kitô mang xuống từ trời, và là một thứ “Lửa”đã được Người chính thực thắp lên bằng Cuộc Vượt Qua của Người, trước hết, nơi các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, rồi sau đó, qua các Vị Tông Đồ Chứng Nhân Tiên Khởi này, cũng như các Vị Chứng Nhân Đức Tin Tông Truyền, Người vẫn tiếp tục thắp lên trong lòng người trên khắp thế gian, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang.
Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay có thể được chuyển dịch là “hãy gắng sống đức tin”, bằng không tất cả mọi việc chúng ta làm, như “ăn uống chung với Người”qua việc xưng tội rước lễ, hay như tác động nghe “Người giảng dạy”, qua việc đọc Thánh Kinh chẳng hạn, tự chúng cũng không thể cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu không có đức tin, chúng ta đã không xưng tội rước lễ hay đọc Thánh Kinh là những gì siêu nhiên và thiêng liêng giúp chúng ta có thể giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24). Vậy làm thế nào để biết mình lúc nào đang thực sự sống đức tin, bằng những việc tỏ ra bề ngoài, và lúc nào thực hiện những việc làm đức tin bề ngoài ấy mà lại phi đức tin, để có thể tránh khỏi số phận: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”.
56. Cửa hẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn
Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết: “Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này xuất phát từ quan niệm “tự tôn chủng tộc”của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Chúa Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.
Riêng những thành phần bị ảnh hưởng của cuốn mạo thư Esdra thì tin tưởng rằng số người được cứu thoát sẽ không nhiều lắm.
Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Thế nên, trên con đường tiến lên Giêrusalem, đang khi Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng và môn đệ về Tin mừng Nước Trời, một người Do thái, không rõ thuộc thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc: “Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”
Theo nhận xét của nhà chú giải Kinh thánh Noel Quesson, thì đây là một câu hỏi nóng bỏng và luôn hiện thực. Ông viết: “Một câu hỏi rất nhân bản, căng phồng giòng máu của những quan hệ tình cảm con người. Bởi vì làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những người thân yêu không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên! Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, hãy cao rao Tin mừng, vì Lời Chúa hứa là bánh được ban để ta chia sẻ với mọi người. Bất kỳ ai không ước ao “tất cả”đều được cứu, chính người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phổ quát”.
Thế nhưng thay vì trả lời trực tiếp cho câu hỏi rất tự nhiên và chân thành đó, Đức Giêsu lại đưa con người vào một sự chọn lựa đầy tính chiến đấu: “Hãy cố gắng đi qua cửa hẹp”. Đức Giêsu không bảo số người được cứu sẽ ít hay nhiều như một sự sắp sẵn hoặc tiền định của Thiên Chúa, nhưng Ngài mời gọi nơi con người một cuộc phấn đấu quyết liệt để đạt đến sự sống muôn đời.
Không phải vì Đấng Cứu Thế không thể xác định con số những ai được cứu thoát, nhưng vì Ngài không muốn đặt người ta vào tình trạng dửng dưng hoặc kinh hoàng. Bởi vì nếu câu trả lời là “mọi người đều lên trời” thì coi chừng một sự buông thả, không còn gì phải lo lắng bị mất phúc đời đời. Còn nếu câu trả lời là “rất ít người được cứu độ”thì liệu mình nhọc công tổn sức mà có chắc được gì hay không?
Tuy nhiên, như Thánh Phaolô xác quyết, “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu rỗi”(1 Tim 2:4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các ngươi Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18:14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, chủng tộc, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị”cứu độ. Trái lại họ luôn có tự do để đón nhận hay từ khước. Một chiếc ly không thể chứa được những giọt nước tươi mát của trời cao nếu như chẳng bao giờ ngữa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để hưởng được thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.
Mặc dầu Máu Đức Kitô có khả năng đem lại sự tha thứ cho mọi người, nhưng nếu tôi không tiếp nhận thì ơn giải thoát cũng không thể thấm đượm tâm hồn. Thế nên, khả năng cứu độ thì bao trùm tất cả, nhưng hiệu năng thì tuỳ thuộc vào nhiệt tâm đáp trả của mỗi người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đã chuyển cái nhìn từ số lượng qua chất lượng. Không phải là chuyện ít hay nhiều, nhưng là có năng nổ chiến đấu để giành cho được hạnh phúc Nước Trời hay không.
Không thể mang ảo tưởng: có đạo là tự động vào thẳng thiên đàng. Cũng không phải cứ “lạy Chúa, lạy Chúa”mà đã trở thành người Kitô hữu chính danh, song tôi phải anh dũng như các chiến binh chống lại kẻ thù ma quỉ, thế gian, và xác thịt.
Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thoả hiệp hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2 Tim 4:6-8).
Lắm khi để huấn luyện tôi nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy…và đánh đòn”(Dt 12:5-6). Âu cũng “vì thương con nên cho roi cho vọt”và “có gian nan mới tạo chí anh hùng”.
Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ Châu hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng như sau: khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ: “Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút đi. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên: “Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi tôi cũng phải chấp nhận bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe doạ của sự dữ, gầm rú của khổ đau, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng tôi thêm can trường dũng mạnh. Và trong suốt chiều dài của những bóng đêm đó, dù tôi có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn bên cạnh dõi mắt trông nhìn.
Có lẽ những khi “bóng đêm”buông xuống lại chính là những lúc tôi được gần Thiên Chúa hơn hết. Nhưng liệu tôi có biết lợi dụng nó như một dịp đi qua cửa hẹp để bước vào cung lòng yêu thương của Thiên Chúa hay không?
57. Hạnh phúc nước trời – Lm. Trần Minh Đức
Tôi không thể nào quên những ấn tượng đầu tiên trong những ngày mới tới nước Đức. Khi đi lễ tôi chỉ thấy những ông bà cụ già trong nhà thờ. Trẻ con và thanh niên không biết đi đâu? Ít lâu sau tôi được biết: Đại đa số không còn thường xuyên đi lễ ngày chúa nhật. Nhưng mỗi lần đi lễ họ lên rước lễ. Đời sống đạo ở tây phương không thể nào so sánh với những nơi khác! Tuy vậy, tôi vẫn tự hỏi trong thâm tâm giống như xưa có kẻ đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? “
Nếu như chúng ta đọc đi đọc lại, quan sát một cách tỉ mỉ bài Phúc âm hôm nay, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên trước những giải đáp của Đức Giêsu. Ngài không trực tiếp trả lời, cũng không thỏa mãn những hiếu kỳ của chúng ta về số phận của những người sống chung quanh chúng ta sau khi chết, cũng không đưa ra những tiên đoán vu vơ về ngày tận thế. Điều quan trọng đối với
Đức Giêsu chính là giây phút hiện tại, số phận của mỗi người trong chúng ta.
Câu trả lời của Đức Giêsu đòi hỏi các tông đồ năm xưa cũng như chúng ta ngày nay phải ra công gắng sức nhiều hơn. Ngài nói rằng: Nếu như chúng ta nghĩ rằng, chúng ta thuộc về phần thiểu số được cứu vớt, thì chúng ta phải dùng toàn bộ khả năng và sức lực của mình để có thể đi qua cửa hẹp. Đừng tốn phí thời giờ để ngồi đoán xét dông dài người này người kia, chuyện này chuyện nọ. Ích lợi gì khi chính mình bị luận phạt, bị khổ ải trầm luân!…
Đức Giêsu biết rằng, Thiên Chúa nhân hậu từ bi khôn lường. Ai hoàn toàn phó thác mình trong bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, kẻ đó sẽ biết rõ hơn ai hết. Đức Giêsu nhìn thấy cửa trời mở ra, Thiên Chúa sẵn sàng đón tiếp chúng ta vào chung hưởng phúc thiên đàng, nhưng cửa rất hẹp. Ai đi đường rộng thênh thang, sống tự do phóng túng sẽ không thể nào đạt đến đích.
Rabbi Baruka, một người thông thạo Kinh thánh, đã kể một ngụ ngôn do thái như sau: Ông thường ra ngoài công trường. Một hôm tiên tri Êlia hiện ra trước mặt ông. Ông hỏi ngài: Trong đám đông này có người nào được chung hưởng hạnh phúc nước trời không? Êlia trả lời: Không có ai cả! Một lúc sau xuất hiện hai người tại công trường. Êlia nói với ông: Hai người này sẽ được vào thiên đàng. Rabbi Baruka liền hỏi hai người mới tới: Các anh làm nghề gì? Họ trả lời: Chúng tôi là vua hề. Khi chúng tôi thấy ai đó có vẻ buồn bã, chán đời thì chúng tôi tìm cách làm cho kẻ ấy vui vẻ trở lại. Khi chúng tôi thấy hai người tranh chấp cãi cọ, thì chúng tôi giúp họ làm hoà với nhau.
Tôi thiết tưởng câu chuyện này có phần giống như lời của Đức Giêsu. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tận sức để có thể đi qua cửa hẹp. Có lẽ đến một lúc nào đó thì cánh cửa chật hẹp này sẽ bị khoá lại. Không phải chỉ có dân gian ác, trộm cướp không được vào, mà cả những kẻ tự cho rằng mình thuộc thành phần gia giáo, chẳng cần cố gắng cũng được vào. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một viễn tượng mới: Có nhiều người từ bắc chí nam, từ đông sang tây sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc nước trời. Khổ một điều là: liệu chúng ta có ở trong số đó không? Tuy cánh cửa chật hẹp, nhưng Thiên Chúa không chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngài luôn luôn rộng tay chúc phúc và đón chờ chúng ta. Một khi chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, sẵn sàng yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình thì chúng ta tin rằng, hạnh phúc lớn lao đang chờ đợi chúng ta ở cuối chân trời bên kia.
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng muốn cái gì đó rộng rãi và thoải mái. Ở một ngôi nhà rộng rãi và đầy đủ tiện nghi thì thích hơn một ngôi nhà tù túng, chật hẹp. Đi trên một con đường lớn rộng thì cảm thấy dễ chịu hơn một con đường gồ ghề, nhỏ bé. Đối với người tín hữu, dường như chúng ta cũng muốn Chúa và Giáo hội rộng rãi và cho chúng ta được thoải mái trong việc giữ và sống đạo. Tuy nhiên, đằng sau những sự rộng rãi ấy quan trọng là có thật sự mang lại lợi ích cho chúng ta không.
Có lẽ, chúng ta sẽ thất vọng khi thấy Chúa và Giáo hội có vẻ như không đáp ứng được mong muốn của mình. Hơn nữa, với câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng Chúa nhật hôm nay lại càng làm cho chúng ta thất vọng hơn. Khi ấy, có người hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Chúa Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi ấy mà lại nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Vậy “cửa hẹp” ở đây là gì và tại sao cần phải vào qua cửa ấy lại còn phải chiến đấu?
Trước hết, chúng ta hãy tin chắc là Thiên Chúa luôn muốn cứu độ con người và luôn mong muốn cho mọi người được hạnh phúc thật. Cho nên với câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta cũng hãy tin chắc là vì Người muốn chúng ta được cứu độ và hạnh phúc thật. Vì thế, cửa hẹp ở đây chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rộng hơn, có tính cách thiêng liêng hơn.
Vì yêu thương và vì muốn cứu chuộc chúng ta nên chính Chúa Giêsu đã chọn qua cửa hẹp. Chúa Giêsu lên Giêrusalem nghĩa là Người chấp nhận đi vào con đường thập giá, con đường tử nạn. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu ở trần gian cũng là đi vào cửa hẹp. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6 – 8)
Như thế, nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta thấy cửa hẹp là những gì không theo như ý muốn của riêng mình mà theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Khi chúng ta biết làm theo ý muốn Chúa Cha chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta và người khác lợi ích thiêng liêng, quý giá. Cho nên vì lợi ích của ta và của người khác và nhất là vì yêu, chúng ta sẵn sàng chọn vào qua cửa hẹp.
Chúng ta thấy, hai người nam nữ yêu nhau thật lòng sẽ vì nhau và hạnh phúc của nhau mà sẵn sàng từ bỏ những ý muốn và sở thích riêng tư. Cũng thế, một đứa con vì yêu cha mẹ nên sẽ bằng lòng vui vẻ từ bỏ những điều cha mẹ không muốn mình làm vì lợi ích của mình. Đó là những cửa hẹp.
Chúa Giêsu đã hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14, 25). Vậy nếu cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình chúng ta cũng sẽ biết đáp lại bằng tình yêu. Một trong những cách đáp đền tình yêu Chúa là chúng ta chọn vào qua cửa hẹp. Vào qua cửa hẹp là chúng ta sống theo những gì Chúa và Giáo hội truyền dạy. Chắc chắn khi quyết tâm sống theo những gì Chúa và Giáo hội dạy thì đòi hỏi chúng ta cần phải chiến đấu nhiều với bản thân mình. Cho dù trước mắt chúng ta sẽ thấy hơi gò bó, chật hẹp nhưng chúng ta hãy tin chắc đằng sau cửa hẹp ấy là một cuộc sống hạnh phúc bền vững.
Tất cả mọi người trên trần gian này đều được mời gọi gia nhập Nước Chúa. Cửa luôn mở ra cho tất cả mọi người vào như là “cửa hẹp”, và phải qua kịp thời. Một khi đã được vào thì phải sống xứng đáng, do đó để được phải mỗi người cần phải cho Chúa sửa chữa uốn nắn.
- Cửa vào Nhà Chúa
Nhà Chúa luôn niềm nở, đón tiếp nhưng người ta chỉ có thể vào qua một cửa, cửa đó mở ra cho những người đến đúng lúc và có sự chuẩn bị xứng đáng. Tuy nhiên cửa đó lại là cửa hẹp, và người ta phải cố gắng mới được vào Quả thực, bài Tin Mừng hôm nay giáo huấn cho chúng ta biết về cái gọi là “cửa hẹp” được gia bội lên bằng một dụ ngôn về cửa đóng với những lời cảnh cáo thật đáng lo ngại.
- Cửa hẹp
Theo bối cảnh lịch sử tôn giáo Israel chúng ta hiểu khá rõ về cửa hẹp mà Đức Giêsu nói đến ở đây là cái cửa mà người Do Thái giáo thời đó từ chối không muốn bước qua. Cửa hẹp đó chính là lòng tin vào Đức Kitô. Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa.
Ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu nói có người đặt ra liên quan đến con số những người được chọn: “thưa Thầy, ít người được cứu rỗi phải không” Ngài đã đáp lại rằng trong số những người Do Thái thời bấy giờ, thì có nhiều đã từ chối không nhận Ngài, là cứu Chúa đã hứa, họ muốn tìm lối khác nhưng không được vào (c24).
- Cửa đóng
Như đã nói trên, dụ ngôn cửa đóng đã được vận dụng để làm tăng thêm tầm quan trọng của cửa hẹp, buộc người ta phải đi qua lúc còn đang mở. Cửa tuy hẹp nhưng là cửa mở. Song mở thì cũng có thời có lúc mà thôi chứ đâu mở mãi bao giờ. Tất nhiên lúc mở là lúc muốn cho người ta ra vào, còn lúc đóng là lúc không còn muốn cho người ngoài vào cũng chẳng muốn cho người trong ra nữa. cho nên lúc mở cho vào mà không chịu vào, đến lúc đóng có muốn vào thì không được vào nữa, cho dù có đứng ngoài kêu gào, van xin cũng trở nên vô ích thôi, còn bị mắng đuổi đi nữa là đàng khác “Ta không biết các ngươi” và “Hãy xéo đi xa Ta”
Cái khổ nhất cho người không được vào là có kẻ khác đang sung sướng dự tiệc bên trong, nhất khi những người được vào đó lại là những người ở xa mà đến. Còn mình, ở gần, được mời, nhưng vì không khôn ngoan, nên phải đứng ở ngoài. Có khóc lóc, buồn sầu, nóng giận, hay nghiến răng cũng chỉ thế thôi, và càng thêm khổ tâm. Vì “có mà không biết đón nhận”
Hiểu như trên chúng ta thấy Chúa dùng những dụ ngôn “cửa hẹp” và “cửa đóng” là để cảnh tỉnh những người Israel cứng lòng. Họ là những người được xem là “dân riêng”, những người được hứ là sẽ được Đấng Thiên Sai cứu thế trước các dân tộc khác. Nhưng tới lúc Ngài đến, Ngài giảng dạy, Ngài làm những phép lạ cả thể để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa thì người ta lại không tin không nhận. tin Chúa Giêsu chính là điều kiện tối cần để được ơn cứu rỗi, cho nên được ví như là “cửa hẹp” độc nhất, người ta phải qua không còn lối nào khác nữa. bất cứ ai tin Ngài đều được cứu rỗi và ngược lại ai không tin thì bị luận phạt. không gì có thể thay thế được lòng tin đó. Chính Chúa Giêsu đã trả lời “Ta không biết các ngươi, phương gian ác hãy xéo đi”. Do đó, người Do Thái tuy được gọi trước, nhưng lại là kẻ đến sau vì chậm tin, và một số khác bị loại ra ngoài vì họ cứng lòng tin. Còn những người ngoại, tuy được gọi sau nhưng vì sự mau mắn nên họ là những người vào trước cả những người được mời trước.
Hạnh phúc cho ta là được biết Chúa, tin Chúa, sống trong gia đình của Chúa như một người con, được Chúa sửa chữa cho nên thành toàn. Đây có phải là một sự đổi mới do ta không? Và do ai? Tin Chúa là được vào gia đình của Chúa, nhưng sống trong nhà Chúa ta còn phải trung thành, và cố gắng sống theo giáo huấn của Chúa nữa. chắc chắn ai cũng biết mình chưa thành toàn, còn nhiều lỗi lầm, nhưng sẵn sàng để Chúa sửa chữa bằng cách này hay cách khác. Tôi có nhận ra những góp ý, xây dựng từ những người xung quanh mà Chúa gởi đến trong cuộc sống không. Ngoài ra chúng ta cũng được mời gọi góp phần xây dựng nước Chúa bằng cánh hướng dẫn anh em xung quanh để nhằm đưa họ vào Nước trời cùng với chúng ta. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
- Câu Kinh Thánh “Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể áp dụng cho “những con đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?
- Nên thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?
Suy tư gợi ý:
- “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”
Thông thường, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.
Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ”này. Người chủ trương nên thánh kiểu này chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng mấy ai muốn nên thánh bằng con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ bé, tầm thường, âm thầm, vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại chẳng được chút ưu đãi gì của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!
Nhưng Đức Giêsu dạy chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp, khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết quả cho việc nên thánh đích thực hơn là con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn nên thánh mà lại muốn đi vào đường lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng biết tiếng, để có được những thứ mà người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi đầy “mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng này.
- Một sự đảo ngược không ngờ
Những người muốn nên thánh kiểu “khôn ngoan”kia thường nghĩ rằng: đời này mình được thần thánh hóa, được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vào “ngày ấy”, có một sự đảo lộn không ngờ được: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng còn cho thấy một viễn ảnh đen tối hơn: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài”. Đương nhiên sẽ có biết bao người lấy làm lạ, vì thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở trần gian. Họ hỏi Chúa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Hoặc “Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”(Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật như tát vào mặt họ một cách bất ngờ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” Thật ít ai hiểu được tại sao những người mà trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại bị Chúa trả lời phũ phàng và “vô ơn” đến như vậy!
- Muốn nên thánh, hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi
Bài Tin Mừng trên quả thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản thân ta không? Điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên con đường loại nào để nên thánh? Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ? Nếu chúng ta thật sự muốn thành công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng ham con đường rộng rãi, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó”(Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”(Mt 7,14). Nhưng thế nào là nên thánh bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh bằng con đường hẹp?
Ta đang đi trên đường rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy để hưởng được ít nhiều những thứ mà mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác. Những người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc được coi là đạo đức, tốt đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường có vẻ bên ngoài rất thánh thiện, đạo mạo. Đức Giêsu nói về họ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (…) những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây giờ đang được vui cười (…) được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus videtur sed non est”(có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải như thế thì mới được mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những người này là để lộ ra “cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai xúc phạm đến họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự sống còn, đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng “vì Chúa vì tha nhân”và tư cách “thánh thiện” của họ đòi hỏi!
Ta đang đi trên đường hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham được ai biết đến, cũng không tìm cách dùng cái “vẻ thánh thiện” của mình để hưởng được những thứ “hấp dẫn” trần tục ấy. Đặc tính dễ nhận ra của những người này là họ coi “cái tôi” của họ rất nhỏ! Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus non videtur sed est”(không có vẻ thánh nhưng lại là thánh).
- Hãy tự xét mình để đừng ảo tưởng về mình
Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực gì thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa thương người khác được bao nhiêu phần trăm? Hoặc làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để được kính nể, để nhờ đó ta được bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên chức, được nắm nhiều quyền hơn, vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế… bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thêng thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ của mình!
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn con đi. Amen.
61. Chọn cách sống phù hợp với Nước Trời
Cuộc sống chúng ta đang sống không trọn vẹn cho bất cứ ai. Điều này thích hợp cho người này lại bất lợi cho người kia. Do đó, cuộc sống là một chuỗi những sự lựa chọn. Người sống bậc tu trì hay gia đình được mời gọi sống sao cho phù hợp với bậc sống của mình. Người sống nơi thành thị hay thôn quê cũng có cách sống phù hợp với nơi họ sống. Cũng vậy người kitô hữu chúng ta cũng được Chúa Giêsu kêu mời sống sao cho phù hợp với tư cách là một công dân nước trời.
Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh những người Do thái quá ỷ lại vào mình. Họ có cái nhìn hơi cục bộ. Họ nghĩ rằng số người được cứu thoát rất ít. Dường như số đó chỉ dành riêng cho họ. Cho nên, ngày nọ trên đường Chúa Giêsu lên Giêrusalem thì có một người đến hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13, 23). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà Người nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 24.) Nghĩa là Nước Trời mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người chứ không dành riêng cho nhóm người nào. Những ai có cách sống phù hợp sẽ được gia nhập Nước Trời.
Cách sống phù hợp với Nước Trời mời gọi chúng ta chiến đấu. Chiến đấu không phải với ai mà chiến đấu với chính bản thân của mình. Bản thân chúng ta thường hay ích kỷ, ham mê những sự đời này hơn là những thực tại thiêng liêng.
Lối sống ích kỷ sẽ đưa con người chúng ta đến một con người nghèo nàn, khô khan và ngày càng đánh mất bản chất nguyên thủy của một con người. Vì bản chất nguyên thủy của chúng ta được dựng nên để sống chung, sống với, sống cho và sống vì người khác. Nói cách ngắn gọn con người nguyên thủy là con người biết mở ra.
Cách đây 3 tuần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15 – 16). Chúng ta hãy biết tích lũy cho mình kho tàng trên trời ngay trong cuộc sống hôm nay.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được trở thành công dân Nước Trời. Muốn vậy, chúng ta hãy tự chiến đấu với sự ích kỷ của mình, chiến đấu với sự ham thích những thực tại đời này. Chúng ta hãy chọn cách sống mở ra vì người khác và ham thích những thực tại thiêng liêng cao quý. Đó là cách sống phù hợp với Nước Trời.
62. Hành trình đi tới niềm vui.
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ khi ý thức và mỗi ngày, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
– cửa hẹp (c. 24),
– cửa khóa (cc. 25-27),
– số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),
– câu tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
– Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.
– Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
– Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.
– Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài.
– đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)
Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.
Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.
+ Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
- Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
- Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
- “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
- Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Anh Hướng đã chia sẻ kinh nghiệm anh sống liên quan tới “cửa hẹp”(c.24) trong bài Tin Mừng hôm nay như sau.
Hy sinh mười ngàn đô
Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức. Nếu nhận, anh sẽ không có đủ thời giờ cho vợ và 4 con trai của anh vì anh sẽ phải làm các ngày cuối tuần nữa. Bù vào đó lương anh sẽ được tăng thêm mười ngàn đô. Nhưng anh Hướng đã khước từ vì tin rằng “tình yêu”mà anh dành cho vợ con quí giá hơn nhiều.
Cách đây hai năm ban điều hành của công ty một lần nữa, đề cử để anh được thăng chức. Lần này anh nhận, lý do vì các con anh đã khôn lớn mà vợ anh lại không thể đi làm được. Không may cho anh là vào đúng thời gian ấy, người chị ruột của anh qua đời khiến anh không chú tâm học hành được nên về cuối khóa anh đã thi rớt. Trở về công ty anh bị ông giám đốc quăng hồ sơ lên bàn rồi giận dữ nói: “Đáng lý tôi không cho anh đi học. Đáng lý ra tôi không nghe lời ai hết. Anh đánh mất cơ hội cuối cùng này của anh rồi, biết chưa!” Thật là ê chề nhục nhã cho anh Hướng. Anh chia sẻ nguyên văn như sau: “Lòng tôi tan nát. Điều đáng buồn là tôi đã để cho lời lẽ ông giám đốc hủy diệt tôi. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Ý chí quyết tâm phụng sự Chúa bấy lâu nay bỗng trở nên vô dụng. Tôi thấy tôi không thể nào bước theo Chúa trong tình trạng này. Tôi tự hỏi “Tại sao lại xảy ra việc này?”Có vẻ như tôi không còn có thể yêu thương được nữa. Tệ hơn nữa là tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Cái chết của người chị làm tôi đau khổ nay lại đưa đến việc ông chủ hạ nhục tôi.” “Mọi sự như sụp đổ quanh tôi. Tôi thấy tôi không còn đối diện được với việc làm ở sở cũng như với gia đình và cuộc sống. Tôi ngại ra khỏi giường mỗi sáng và chỉ muốn thu mình để tránh né thế giới bên ngoài. Mỗi khi gặp mặt ông giám đốc, tôi càng thấy thêm phẫn uất tức giận. Tôi trở nên cay đắng thù hằn. Suốt đời tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với ai cả. Tôi thấy tôi có bổn phận yêu thương nhưng vẫn bướng bỉnh cãi lại.”
Chọn theo một con người bị bỏ rơi
“Ngày kia tôi phải thú thực với vợ tôi: Anh không thể sống nổi mãi thế này. Vợ tôi chú ý lắng nghe và đề nghị cùng nhau cầu nguyện để xin Chúa giúp sức. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và khi ấy tôi biết mình phải chọn theo Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Tôi cảm thấy được bình an và mạnh mẽ hơn.”
“Ngày kia khi rời khỏi văn phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy có sức thôi thúc tôi quay lại nói với ông: “Tôi xin thưa là không phải tôi muốn lên án ai hoặc xin xỏ điều gì. Sau khóa huấn luyện khi ông nói chuyện với tôi, tôi bị mất tinh thần đối với công ty. Tôi trở nên oán hờn và nhiều lần tôi đã có những thái độ không tốt đối với ông.”
“Ông giám đốc ngắt lời anh Hướng khi nói: “Tôi chẳng bao giờ cố y làm cho anh buồn. Anh biết tôi giận thì la lối rồi sau lại quên ngay.” Khi anh Hướng xin ông giám đốc tha cho anh về cách anh đối xử với ông ta thì người đàn ông thường có vẻ lạnh nhạt ấy đã ứa đầy nước mắt. Ông thinh lặng một lúc rồi cất tiếng: “Tôi xin lỗi ông, tôi thật không ngờ việc tôi làm khiến ông phải buồn phiền.” Rồi ông bắt đầu thăm hỏi về tôi và gia đình tôi một cách thân mật. Tôi thấy chúng tôi đã nối lại được nhịp cầu đã đứt đoạn.”
Điều bất ngờ xảy ra là khi ông giám đốc về hưu, một người đàn ông trẻ hơn nhiều, đứng đầu công ty. Anh chỉ mới có 32 tuồi. Vì thiếu kinh nghiệm, anh gặp khó khăn. Anh đã xin gặp riêng tất cả các nhân viên trong công ty, mỗi lần bốn người. Chỉ có anh Hướng một mình được ông giám đốc mới mời riêng tới văn phòng để gặp. Kết quả là anh đã được gởi đi học một khóa huấn luyện rồi được thăng chức một cách ngon lành.
Câu chuyện kể trên gợi ý để ta suy nghĩ về cửa hẹp trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu khuyến cáo ta “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” (c.24). Nhưng lời dạy đó được nêu trong bối cảnh nào? Làm thế nào hiểu và áp dụng lời khuyên đó một cách chính xác? Nhất là ta được Chúa Giêsu khuyến cáo phải chiến đấu để qua cửa hẹp nhằm đạt tới điều gì đáng kể?
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy đây là lần thứ hai tác giả Luca nhắc nhớ ta về cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm tới đích điểm là Giêrusalem (c.27).
Luca cho thấy khó khăn và thử thách
Lần thứ nhất Luca gắn liền Giêrusalem dưới đất với Giêrusalem trên trời, dĩ nhiên ngang qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đó là lúc Luca trịnh trọng loan báo: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Ngay ở lần loan báo đầu tiên về cuộc hành trình đi Giêrusalem, Luca đã cho thấy khó khăn và thử thách. Thoạt tiên Đức Giêsu và các môn đệ bị một làng Samari từ khước (cc. 53-54). Kế đến chính Đức Giêsu muốn thách đố những ai muốn bước theo Người. Người thứ nhất xin theo liền được cho biết rằng “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Người thứ hai xin về chôn táng cha già trước đã, thì đã không được phép vì “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa.” Người thứ ba cũng được yêu cầu phải có thái độ dứt khoát vì “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (cc. 57-62).
Bây giờ là lần thứ hai, Luca cho biết Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem (c. 22). Vấn đề được nêu trầm trọng hơn lần thứ nhất nhiều với câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (c.23). Bởi lẽ ơn cứu thoát nói đây là chính sự sống còn của con người, tức là ơn cứu độ, chứ không phải chỉ là vấn đề từ bỏ mọi sự hoặc phải từ bỏ ngay như nói ở trên (Lc 9,56-62).
Chính Đức Giêsu là cửa hẹp
Và để trả lời, Đức Giêsu đòi hỏi một sự chính xác. Người muốn người ta nhắm thẳng bản thân Người theo bề sâu, tức là biết Người. Không có gì có thể thay thế được cái biết nội tâm đó. Cho nên cả những kẻ sống sát bên Người, “ăn uống trước mặt Người, và Người cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố” của họ (c.26), họ cũng vẫn bị loại ra ngoài nếu họ thực sự không biết Người.
Như vậy, chính Đức Giêsu là cửa như Người tuyên bố trong Tin Mừng của Gioan: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.”(Ga 10,9). Cửa hẹp trong Luca còn có ý nói về chính bản thân Đức Giêsu chứ không thể là ai khác. Điều này Tin Mừng của Gioan cũng nói rõ với lời tuyên bố của Đức Giêsu là “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Đức Giêsu còn là cửa hẹp theo nghĩa Tân Ước như lời tông đồ Phêrô lớn tiếng công bố trong ngày lễ Ngũ Tuần rằng: “Toàn thể nhà Israen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36) và “Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.”(4,16).
Biết Đức Giêsu nơi con tim
Nhưng như vậy thì phải cắt nghĩa thế nào về Tin Mừng của Matthêu về cuộc phán xét chung? Nếu biết Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để vào hưởng Nước Thiên Chúa, theo bài Tin Mừng hôm nay, thì phải hiểu như thế nào về tình trạng hết sức sửng sốt của những người công chính chưa hề nhận biết Chúa khi họ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, v.v… (Mt 25,37tt)? Thưa, những người công chính ấy đã được biết Đức Giêsu tận gốc do họ được đánh động bởi chính Thần Trí của Đức Giêsu phục sinh là Thần Trí luôn được ban cho họ để giúp họ làm việc lành. Họ không chỉ biết Đức Giêsu theo cái biết hời hợt nông cạn theo ý nghĩ mà thôi, nhưng còn biết Người thâm sâu nơi con tim mình. Quả thật, cũng chính cái biết nội tâm ấy đã giúp anh Hướng sống tinh thần chiến đấu để vào cửa hẹp. Anh và vợ anh đã cùng nhau cầu nguyện xin Chúa giúp sức để lướt thắng cơn khủng hoảng. Nhờ vậy anh nhận ra mình phải chọn theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Đó là lúc anh được bình an và có sức mạnh để giải quyết trực diện vấn đề khó khăn với ông giám đốc nơi sở làm việc của anh.
Một số câu hỏi gợi ý
- Trong câu chuyện anh Hướng chia sẻ, anh đã chọn dành thì giờ mỗi cuối tuần cho vợ con thay vì nhận làm việc thêm cuối tuần để lương được thêm 10 ngàn đô. Bạn nghĩ chọn lựa như anh Hướng, theo cái nhìn của bạn, có lợi hay có hại? Theo cái nhìn của những người cùng xóm ngõ của bạn thì chọn lựa ấy đúng hay sai?
- Dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay, bạn thấy anh Hướng đã phấn đấu để sống tinh thần “cửa hẹp”như thế nào?
64. Chật hẹp – Lm. Vũ Đình Tường
Có người hỏi Đức Kitô phải chăng chỉ có một số người được nhận ơn cứu độ? Đức Kitô trả lời người đó là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” Luca 13,24
Câu trả lời của Đức Kitô gây ngạc nhiên không nhỏ. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu í nghĩa cánh cửa hẹp. Thứ nhất, cửa thì luôn nhỏ hơn cổng. Cửa mà lớn hơn cổng sẽ trở thành dị hình, cấm địa, ngăn cản người ra vào. Thứ hai, vì là cửa hẹp nên việc ra vào không dễ dàng. Muốn ra vào cửa hẹp phải khắc chế, loại bỏ ‘mỡ béo’ không cần thiết ngăn cản ta lọt qua cửa. Loại bỏ bất cứ gì ngăn cản ta vào nước trời, những gì không mang lợi ích cho người và cho mình. Thứ ba, vì là cửa hẹp mỗi lần chỉ một người đi lọt và phải cố gắng mới có thể đi lọt vì thế không thể kết đảng, lập bè, tạo phái để cùng tiến vào. Thứ tư, cửa đó không phải mở vĩnh viễn mà đến một ngày giờ nhất định không ai biết trước cửa đó sẽ đóng. Một khi cửa đóng không ai có quyền mở trừ người giữ cổng. Ở đây chúng ta cũng dành vài hàng cho chữ đóng. Chữ đóng đây có lẽ ít nhắc đến cửa đóng, then gài nhưng nhấn mạnh đến tâm hồn đóng kín của người muốn qua cửa. Đóng kín tâm hồn không đón nhận lời mời qua cửa hẹp. Đóng kín tâm hồn để người đó phán đoán sai sự thật cho rằng cửa đó mở thường trực vĩnh viễn và người đó bất cứ khi nào muốn có thể ra vào tuỳ í. Thứ năm, cửa hẹp không phải nói đến vật chất tạo cửa mà nói đến con người giữ cửa. Người vừa là cửa vừa là người giữ cửa là chính Đức Kitô khi Ngài tuyên bố rõ:
Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Gioan 10,9
Qua cuộc tử nạn và thập giá của Đức Kitô, Người mở cửa thiên đàng cho nhân loại. Chúng ta bước theo thập tự Đức Kitô để được vào nước Ngài. Để bước qua cửa đó chúng ta cần kiên trì, cố gắng hết khả năng chống lại chước ma quỉ cám dỗ, chống lại bất cứ điều gì ngăn cản ta mến Chúa, yêu người. Những ai cố gắng làm điều đó đều được vào, bất kể người đó là dân Chúa chọn hay người đó là dân ngoại. Tất cả đều được mời. Bất cứ ai chân thành đáp lại lời mời sẽ được vào.
Một vài tư tưởng diễn giải sai trái giáo huấn của Đức Kitô. Hướng dẫn gây hiểu lầm cho đức tin nông cạn. Thứ nhất nói Thiên Chúa không loại ai ra khỏi nước của Ngài vì thế không cần phải làm gì cũng được vào nước Thiên Chúa. Thứ hai cho rằng làm thế nào một Thiên Chúa yêu thương lại có thể ngăn cản con người vào nước của Ngài. Nếu Ngài làm như thế thì đâu còn là một Thiên Chúa yêu thương nữa. Hai tư tưởng lí luận hợp lí này có được một số tín đồ. Hãy cẩn thận với lí luận lầm lạc đó vì nó không ăn khớp với giáo lí của Đức Kitô. Ngài dậy chúng ta phải cố gắng phấn đấu để vào nước Ngài. Một người không đón nhận lời Chúa, không quan tâm đến giáo huấn của Ngài, thờ ơ với nỗi thống khổ của anh em họ có thực sự cần đến Thiên Chúa và cần đến tha nhân chăng. Đức Kitô nói rõ cho chúng ta hay ngoài Ngài ra không ai có khả năng hay cách nào khác dẫn chúng ta đến nước của Ngài.
Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy Gioan 14,6
Điều này cho thấy không còn cửa hẹp thứ hai, không còn con đường nào khác ngoài Đức Kitô. Ngài là cánh cửa duy nhất, con đường duy nhất dẫn dến nước trời. Kitô hữu từ chối cửa hẹp đi theo con đường rộng mở là trái với giáo huấn của Đức Kitô. Từ chối nhận biết Đức Kitô nhưng mong được Ngài biết đến là điều nghịch lí. Không cố gắng phấn đấu vào nước trời đòi được đối xử như kẻ cố gắng phấn đấu vào nước trời là đòi hỏi ngang ngược, nghịch lí.
65. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG NGƯỜI DO THÁI BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU MỜI
Điệp khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm địa lý của cuộc hành trình này; nó còn loan báo một thông tri quan trọng sẽ được cung cấp trong cảnh tiếp theo (13,31-35).
Trình thuật này được dẫn nhập bằng câu 23. Một người lạ mặt hỏi: Phải tin ai? Phải tin các Kinh sư, là những người khẳng định rằng: Mọi người Israel đều tham dự vào thế giới tương lai (Misnha, Sanhedrin X, 1) hay tin những kẻ khác, đối với những người này những kẻ bị hư đi thì nhiều hơn những kẻ sẽ được cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX, 15)? Cách thế mà Chúa Giêsu dùng để nói về tính cách cấp bách của việc hoán cải (13,3-5) phải chăng không xếp Ngài vào nhóm thứ hai?
Nhưng Chúa Giêsu lại không quan tâm đến vấn nạn kiểu kinh viện này. Trước khi trả lời, Ngài đóng khung nó bằng cách nói với tất cả các người xung quanh (cùng một cảnh như ở 12,13-14) và nhấn mạnh đến sự cố gắng:”Hãy chiến đấu để vào phòng tiệc qua được cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan trọng là mỗi người phải thay đổi cách sống. Chính vì thế, lời đáp của Chúa Giêsu không xác định về số ít người được cứu thoát nhưng về tính cách nghiêm trọng của cuộc sống hiện tại của con người. Nhiều người sẽ chen chúc vào cửa hẹp mà không vào được. Ngoài việc cửa hẹp dẫn đến niềm vui của bàn tiệc, thực ra còn phải nói đến một yếu tố thứ hai: thời gian gấp rút vì cửa sắp đóng. Tìm cách vào, giữa đám đông hỗn độn, ở phút chót là chuốc lấy thất bại.
Khi nói đến thời điểm mà cửa sẽ đóng, lời cảnh cáo trở thành đe doạ: Việc đóng cửa lại do lệnh của một nhân vật chủ chốt, ông chủ nhà, mà không ai khác hơn là những kẻ đối thoại với Ngài mới xin mở cửa cho họ và do đó, họ phải nhắc đến việc trước đây họ cùng ăn uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời đáp nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh từ đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ Kinh Thánh (x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta không chọn các ngươi, các ngươi không thuộc về những kẻ được chọn”. Ở đây không hề có việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng cách gián tiếp trích Thánh vịnh 6,9. Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ bởi vì họ làm điều xấu. Có những liên hệ – hời hợt với vị Sứ Giả cũng chẳng ích lợi gì khi mà người ta không chịu hoán cải. Chẳng ai tự động mà được cứu rỗi. Việc thuộc về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Sinai, và là dân đầu tiên được nghe giảng Tin Mừng nơi công cộng và trong các hội đường, cũng chẳng cho người ta được tấm vé vào Nước Thiên Chúa đâu. Điều cần thiết phải làm là hoán cải và đón nhận lời rao giảng ấy.
Từ đó, Chúa Giêsu đi đến hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết, việc loại ra khỏi Vương Quốc đến liền sao phổ quát ở câu 27 sẽ gây ra khóc lóc và nghiến răng, giận dữ và hối hận cay đắng nơi kẻ đối thoại với Ngài. Bực bội, họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích thực, đại diện bởi các tổ phụ và tất cả các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình an, đặc điểm của Vương Quốc trong khi chính họ phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của họ – xác quyết thứ hai: – thiên hạ sẽ đến từ bốn phương trời: đó là những dân tộc ngoại giáo sẽ vào tham dự ơn cứu độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về các dân tộc hành hương về Giêrusalem để dâng lễ vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is 60,3tt), Chúa Giêsu để ý không nói đến tên của thành; vì vậy, thành này không còn là địa điểm nơi mà Thiên Chúa muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc là một thực tại siêu việt. Với hình ảnh được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc gia chủ nghĩa đó, Chúa Giêsu thêm một hình ảnh ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế giới mới diễn tả một hiệp thông trọn vẹn giữa con người với Đấng cứu thoát họ:”Thiên Chúa sẽ dẫn đưa những kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật với Ngài và biến họ thành những người nhà của Ngài” (J.Schlosser).
Phần kết luận (c.30) làm ta nhớ đến sấm ngôn của ông Simêon khi ông nói về sứ vụ của Chúa Giêsu như duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại rằng Vương Quốc sẽ kéo theo sự đảo ngược các tình trạng của con người (x. những mối phúc và hoạ ở 6,20-26). Giữa những kẻ đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù những người này đã được các ngôn sứ loan báo từ lâu về việc Vương Quốc ngự đến. Tuy nhiên đây cũng không phải là luật tổng quát: câu kết luận hiểu ngầm rằng những kẻ kỳ cựu đến trước nhất sẽ chia sẻ chỗ nhất với những kẻ mới đến từ khắp thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ ràng thuận lợi cho Israel hơn là ở những đoạn song song của Marcô và Matthêu.
Lời cảnh cáo có tính cách ngăn đe trước hết được nói với các thính giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào những năm 28-30; dưới cái nhìn của Luca, chỉ một số ít trong họ đã hoán cải, như nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, và có thể vào được Nước Trời. Trong các thính giả này đặc biệt được nhắc tới, cũng là số ít thôi, những kẻ dám làm điều bất chính tột độ cộng tác vào việc hành quyết Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng đừng quên rằng những lời Tin Mừng này vẫn còn tính thời sự và là tiếng mời gọi hoán cải. Sẽ càng không có việc cứu rỗi tự động cho các Kitô hữu cứ khất lần đến ngày mai. Việc canh tân đời sống luôn luôn cần được lặp lại không ngừng. Đối với mọi người, cửa đều hẹp cả: những ai trong họ làm điều bất chính không có thể nại vào sự thân thiết hời hợt với Chúa Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã đóng rồi.
Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản văn:
Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong bài giảng trên núi.
Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với” (Mt 25,11) là kết luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.
Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22) là một giáo huấn về sự cầu nguyện.
Câu 28, “từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của ông đại đội trưởng dân ngoại (Mt 8,11).
Câu 30, “những người sau rốt trở thành những người đầu tiên” (Mt 19,30 và 20,16).
Vậy Luca liên kết những lời mà Đức Giêsu đã nói trong những trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có một bản văn mang tính nhất quán cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được chọn. Đức Giêsu khẳng định hai chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên đàng thì hẹp, nhưng những dân ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng Mêsia, còn những người đầu tiên được mời ở lại bên ngoài.
Trang sách này của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong một chừng mực, chúng ta thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn những câu của Đức Giêsu, mặc dù không trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu đã không “biết” gì cả, cũng không làm “xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một điều có chú ý. Người đã thật sự trao Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những lúc khác nhau… đồng thời cũng là công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người… “Ai nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn… tự do trong Thần Khí… để việc giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có thể soi sáng những vấn đề của chúng ta hôm nay.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.
Luca trở lại việc Đức Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng. Người bước đi! Luca, bạn thông hành của Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời sống Kitô hữu cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có xơ cứng, dừng lại bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần của kế hoạch Thiên Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hội nhập trong thời gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các con mỗi ngày cho đến tận thế”.
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”
Một câu hỏi nóng bỏng, luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân bản, căng phồng máu của những quan hệ tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều được cứu, chính người ấy không thể được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Một lần nữa, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói những người được cứu sẽ nhiều hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy không làm Người quan tâm và ngay sau đó, Người đưa các thính giả trở về với tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ thể để “bước vào” sự sống đời đời… vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần gì phải lo lắng? Nếu rất ít người được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công sức mà chắc gì đã được? Vì thế, Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi Người về với quyết định mà mỗi người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni và đồi Gôn-gô-tha.
Người không cho chúng ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người đã không sống nó. Trong một đoạn văn khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Để chiếm được Nước Trời, cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng tôi, khi vượt qua những điều kiện giới hạn là những bó buộc đang đè nặng trên cuộc đời tôi?
Thánh Phaolô cũng dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê 1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1 Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường, đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7). Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng “vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời sống Kitô hữu không phải là một cái ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất tiền, ban cho cả những người tội lỗi. Còn phải chấp nhận ơn đó… mà không hoàn toàn khép kín lại trên ơn đó.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’
Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín. Lời mời gọi bước vào trở nên cấp bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải “bước vào trong Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể đó là ngày sau rốt.
Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’
Dân Israel, ý thức về giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận những người dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết: “Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc kinh Shema Israel”. Trái lại, đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng được ăn uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe Người “giảng dạy” giờ đây áp dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn tiệc thánh thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể bù đắp tất cả những giờ khác trong tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách Người.
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi quyết định độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Quả thật, ngay cả dân ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy, thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở thành một cánh cửa mở rộng cho mọi người không phân biệt.
Số phận bi thảm của Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể vào Nước Trời như thế, nghĩa là không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng tộc, một gia đình, hoặc thực hành một vài nghi thức không thể đem lại cho chúng ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ là ảo tưởng… Điều chủ yếu là sự dấn thân bằng tất cả con người chúng ta trong mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng ta chớ phán xét những người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người… 2% về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu… ở trần gian này, chúng ta không bao giờ biết được có phải tự do ấy no anh em chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con người, xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài.
67. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN CỬA HẸP
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Vào qua cửa hẹp
Một lần nữa Luca xác định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có tính thần học hơn là địa lý: Người đang tiến gần đến Thành Thánh, nơi chính Người phải đi trước qua “cửa hẹp” của cuộc khổ nạn để dẫn đưa anh em mình vào dự tiệc Nước Trời. Sau đó, Người còn tuyên bố trong câu 33: “Tôi phải tiếp tục đi, vì một Ngôn sứ mà chết ngoại thành Giêrusalem thì không được”.
Chính lúc đó một người đối thoại vô danh – Luca viết: “Có kẻ hỏi Đức Giêsu: ‘Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?’. Một vấn nạn thường được đưa ra tranh luận giữa các kinh sư và luật sĩ thời đó: kẻ thì bảo “mọi người Israel sẽ được dự phần vào thế giới đang đến”, người khác lại quả quyết “chắc chắn số kẻ bị hư mất sẽ nhiều hơn số người được cứu”.
Theo thói quen thường làm trong tình thế tương tự, Đức Giêsu tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi có tính lý thuyết của người đối thoại, nhưng mượn một dụ ngôn, trong trường hợp này là dụ ngôn Cửa Hẹp, Người đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ cho thính giả mọi thời, xưa cũng như nam Thay vì đoán xa đoán gần về số lượng ít hay nhiều kẻ sẽ được chọn, tốt hơn họ nên lo cho phần rỗi của chính mình một cách sao cho thật thiết thực. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào người nói rõ như thế. Động từ Hy Lạp được Luca dùng ở đây và được dịch là “Hãy chiến đấu”, chính là “agoomdesthé”: một động từ gợi lên ý tưởng đấu tranh vật lộn, từ đó có chữ “agonie” (có nghĩa là ‘lâm chung’ ‘cuộc vật lộn sau cùng’). Như thế đủ thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu dành cho kiếp sống hiện tại của con người.
- Trước khi cánh cửa được khoá lại
Bởi cánh cửa, cái cửa chật hẹp ấy, sẽ được “khoá” lại, nên người ta cần phải khẩn trương đón nhận lời dạy của Đức Giêsu và đem ra thực hành. Thời giờ không còn nhiều. Không hề có chế độ ưu tiên trong việc tham dự bàn tiệc Nước Trời. Đâu phải cứ thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng là phải biết đón nhận lời loan báo nước Trời và mau mắn hoán cải, nếu không sẽ phải nghe tiếng trả lời từ trong nhà: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”.
Thật đau đớn vỡ mộng cho những kẻ tưởng rằng cứ thuộc về dân của Chúa là đương nhiên nắm chắc trong tay tấm vé vào dự bàn tiệc Nước Trời. Họ sẽ phải đứng ngoài cánh cửa đã khép kín, trong lúc cả một đám đông dân ngoại “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Và để hoạ lại lời tiên tri của ông già Ximêon: “Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng những kẻ đứng chót (dân ngoại) sẽ lên hàng đầu, và cả những kẻ đứng đầu (dân Đo Thái) sẽ xuống hàng chót”. Hugues Cóusin lưu ý, “Lời cảnh báo được gởi đến trước hết cho những thính giả Do thái cư ngụ ở Giuđê là Galilê trong những năm 28-30. Tuy nhiên chúng ta đừng quên: những lời của Phúc Âm luôn luôn mang tính hiện tại và nhằm mời gọi một sự hoán cải. Không thể có một thứ ơn cứu độ dọn sẵn cho những Kitô hữu không lo thực hành ngay việc canh tân liên lỉ đời sống mình” (“L’evangilc de Luc”, Centurion, trg 198-199).
BÀI ĐỌC THÊM:
- Quyền công dân Nước Trời
“Nước Thiên Chúa là một thực tại mầu nhiệm. Nước ấy hiện diện như một hạt giống bé nhỏ đang vươn lên thành cây cao bóng cả. Nó được vùi vào trong bột như chút men làm dậy cả khối bột. Để được đự phần vào nước ấy, con người phải để cho Nước ấy biến đổi, phải để cho men của Nước ấy làm dậy bột. Nếu chỉ đóng vai kẻ ngoài cuộc hay kính nhi viễn chi thôi thì không đủ phải bước vào, mà cánh cửa lại chật hẹp, nó chỉ mở ra cho những ai nỗ lực bước qua. Đức Giêsu đã đến giữa nhân thế, và loài người có thể lui tới gặp gỡ Người: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng như thế không đủ. Nhưng sau đó phải bước theo Chúa, phải vào trong Nước Trời qua chính cửa hẹp đó, nếu không sẽ mãi là kẻ xa lạ: “Ta không biết các anh từ đầu đến”. Để gặp gỡ Đức Kitô không nhất thiết ưu tiên cho những ai đã từng gần gũi với Người. Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân tộc đã sinh ra người trên đời, nhưng đồng thời cũng liên can đến tất cả chúng ta. Thuộc thành phần “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc, chính chúng ta cũng dễ dàng tháo lui không dám bước qua cửa hẹp. Hành trình của sự hoán cải không có lối đi vòng nào khác: “Cút di cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chỉ có một thứ giấy thông hành thôi, đó là phải đổi đời. Chính nó sẽ cấp cho chúng ta quyền công dân của Nước Trời. Khi điều đó được sáng tỏ, chúng ta mới thấy mọi thứ giả tạo sẽ lộ nguyên hình: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
- Trở lại với nguồn mạch Tin Mừng
Dựa vào lời dạy của Đức Giêsu, Thánh Luca muốn đưa ra câu trả lời chính xác cho một tình huống khá cụ thể, trong đó kẻ thuận người chống về vấn đề dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh. Người thuận thì cho rằng Nước Thiên Chúa luôn mở rộng cho tất cả những ai tìm kiếm và muốn bước vào. Người chống thì chủ trương phải thuộc thành phần ưu đãi, nghĩa là phải được cắt bì theo luật Do Thái mới được gia nhập. Giáo huấn của Đức Giêsu đã qua rõ. Rõ đến nỗi đụng chạm và gây vấp phạm đến tất cả những ai từng bám vào những đặc ân và ngoại lệ, những bảo hiểm an toàn dành cho những tín hữu “ngoan đạo”. Nhưng Đức Giêsu lại chẳng để ý gì đến chuyện thuộc thành phần nào, chuyện đặc quyền đặc lợi hay việc giữ đúng phép đạo.
Nếu cánh cửa có hẹp, nó vẫn đủ rộng để đón mời mọi người và mỗi người. Nhưng lối vào không thênh thang. Để lọt được vào trong, đòi phải có sự mềm mại của tình yêu đáp trả tình yêu đang thao thức, đang xét xử và đón mời. Ở đây, chúng ta được nghe nhắc lại tầm quan trọng của đức tin và việc sống đạo, mà chủ yếu là thực hành hai giới răn chính mà thực tế chỉ là một giới răn tình yêu. Cần phải lên án cả lối nhìn nghiêm khắc của Jansénisme lẫn chủ trương dễ dãi buông thả, cả sự bối rối sợ hãi lẫn thái độ thoải mái vô tư.
Hãy dẹp sang một bên những bảng thống kê và con số, những suy đoán vô ích, những nỗi lo lắng và tin tưởng vu vơ. Tốt hơn, chúng ta hãy trở về với nguồn suối Tin Mừng. Chính nơi đó người ta tìm được tất cả những gì mình phải là và phải làm, để trở nên và mãi là “công dân Nước Trời”.
68. Đường vào Nước Trời – William Barclay
Đây là biến cố đầu tiên trong một loạt các biến cố mới trong chặng hành trình cuối cùng của Chúa hướng về Giêrusalem. Ngài biết tình hình đã đến lúc nghiêm trọng. Ngài biết đây là lần cuối cùng Ngài đi rao giảng sự cứu rỗi cho dân tộc, nên Ngài cố gắng để có thể đạt sứ điệp của Ngài đến cho mỗi thành mỗi làng.
Trong đám thính giả có người hỏi: “Thưa Ngài, phải chăng những người được cứu thoát thì ít?” Chúa không trả lời trực tiếp, nhưng câu Ngài trả lời ngụ ý nhiều người Do thái nghĩ mình được cứu thì lại bị hư mất, có nhiều người ngoại bang mà người Do thái cho là hư mất thì lại được cứu. Chúa Giêsu ví sánh những người phước hạnh của Nước Ngài như một tiệc cưới dọn trong tòa lâu đài. Cửa vào lâu đài này hẹp nên nhiều người được mời từ chối không chịu đi qua. Sau một thời gian cửa này đóng lại, rồi những người không chịu vào kia lại năn nỉ chủ nhà mở lại, nhưng vô hiệu, họ đã bị loại trừ vĩnh viễn, lòng tràn ngập hối hận buồn khổ. Cửa hẹp là cánh cửa của lòng ăn năn sám hối và đặt niềm tin cậy nơi Chúa Giêsu, cơ hội vào rất sẵn sàng, nhưng không phải là vô thời hạn, những kẻ chối bỏ Đức Kitô sẽ bị lọai ra khỏi Nước của Ngài, rồi bấy giờ những người này mới thấy mình dại dột.
Trong câu chuyện, họ khẩn khoản nài xin được vào, chính điều này là lý do buộc tội họ. Đây là hạng người đã biết Chúa rồi, họ đã từng ăn với Ngài, từng được Ngài dạy dỗ. Thế thì tại sao họ lại không nhận Ngài? Những đặc ân ấy chỉ làm tăng thêm tội trạng của họ. Chúa đã từ chối không nhận họ thuộc về Ngài. Như vậy Chúa mô tả nhiều người Do thái bị loại bỏ, rồi thêm một câu không kém kích động về việc tiếp nhận dân ngoại: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Như vậy Chúa Giêsu đã ứng dụng cách thực tế câu hỏi mà người ta chỉ đặt ra vì tò mò. Chúa dạy chúng ta nhiều điều:
- Chúa tuyên bố rằng sự gia nhập Nước Trời không bao giờ là việc đương nhiên, nhưng đó là kết quả và là phần thưởng của một cuộc tranh đấu. Chúa Giêsu phán: “Hãy chiến đấu mà vào” từ ngữ dịch chiến đấu hay gắng sức trong nguyên ngữ có nghĩa là sự “thống khổ”. Sự chiến đấu để vào Nước Trời phải gay go đến nỗi có thể diễn tả như một sự thống khổ của tâm hồn và tinh thần.
Chúng ta dễ sa vào cơ nguy: sinh ra trong gia đình có đạo, sống trong cộng đoàn tin Chúa, hay một khi đã chính thức tin nhận Chúa là đã đi đến cuối đường và bây giờ có thể ngồi chơi như thể đã đi tới nơi, đã hoàn thành mục đích. Đời sống Kitô hữu không bao giờ có cái gọi là chung cuộc. Kitô hữu luôn luôn tiến tới, còn không thì sẽ lùi lại.
Con đường đạo khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở thế gian này. Người ta nói về hai nhà leo núi nổi tiếng đã chết tên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiến lên đỉnh núi”. Người ta đã ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpe chết ở sườn núi rằng: “Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu luôn luôn là con đường đi lên, tiến mãi.
- Những người đó đã mượn lý do rằng: chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng từng dạy dỗ trên đường phố của chúng tôi”. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo Hội của Chúa Kitô chưa chắc chắn đã phải là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn?” Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
- Sẽ có những bất ngờ trong Nước Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này có thể sẽ rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau. Có câu chuyện về một người đàn bà giàu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo: “Đây là nhà của bà”. Bà nói: “Cái gì vậy? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp: “Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!” Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời.
69. Lý tưởng sống – Phêrô Trần Đình Phan Tiến
Vâng! Kính thưa quý vị, lý tưởng sống có nghĩa là sống có lý tưởng, sống có lý tưởng là sống như thế nào? Hay nói cách khác, thế nào là sống có lý tưởng.
Vâng! Xin thưa ngay đó là sống theo gương Chúa Giêsu, vâng chính Người là Thiên Chúa, nhưng Người đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, sống kiếp phàm nhân… (Pl 2,6-11).
Có lẽ không có từ ngữ nào của Kinh Thánh nói rất rõ ràng mà quy chiếu mạch lạc về Đức Giêsu Kitô cho bằng (Pl 2,6-11), nghĩa là tóm lược chân dung Đấng Cứu Thế Giêsu-Kitô.
Lời Chúa (Lc 13,22-30) hôm nay có hai ý chính:
– Vào Cửa Hẹp (Lc 13, 24a)
– Thiên Chúa khước từ sự bất trung của dân Do thái và kêu gọi dân ngoại. (Lc 13, 24b)
Sau khi được Chúa Giêsu giảng dạy, người ta hỏi Người rằng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (c23). Chúa Giêsu bảo: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào (c24a)”.
Như vậy “Cửa Hẹp” là gì? Cánh cửa tượng trưng cho sự đóng mở, cũng tượng trưng cho quyền lực. Theo nghĩa đen, ngày xưa người ta đã biết sử dụng “cái cửa”. Cửa là nơi để qua lại, để ra vào, để ngăn chặn, để đón chào. Vâng, cánh cửa thật là rắc rối! Tại sao? Thưa, chức năng của nó thật đa dạng. Thật ra nó chỉ là một tấm ván chặn đường mà thôi! Nhưng, được gọi là “cái cửa”.
Vâng, lý sự hơi rườm rà một chút, vì sự thật là như vậy. Tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cái cửa để dẫn chứng về sự sống đời đời. Trong Tin Mừng, Người thường dùng hình ảnh nầy. Vâng! Thưa quý vị, vì Chúa Giêsu không dùng từ ngữ triết học, ngoại thương, kinh tế, hay chính trị mà Người dùng từ ngữ bình dân, dễ hiểu, nhưng ý nghĩa triết lý thật cao siêu. Theo đó, Nước Trời được ví như cái cửa, và cái cửa ấy chính là Chúa Giêsu, Người chính là cánh “Cửa Hẹp”, mà những ai muốn vào Nước Trời phải bước qua. Nhưng muốn qua “Cửa Hẹp” phải chiến đấu. Ngày nay, chúng ta không sống ở thời đại đương thời của Chúa Giêsu, cũng như người Do thái. Nhưng Lời Chúa là Lời Hằng Sống, vì vậy lý tưởng sống là sống theo lý tưởng của Chúa Giêsu. Vì Người khẳng định: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. (Lc 13, 24).
Khởi đi từ bài đọc I (Is 66, 18-21) hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa sẽ kêu gọi mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ vào dự tiệc Nước Trời, là nơi có Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa sẽ không còn độc quyền cho dân Dothai nữa, mà là cho hết mọi dân tộc.
Bài đọc II (Dt 12, 5-7.11-13), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng: sự sửa dạy của Thiên Chúa thì cần thiết cho chúng ta. Có nghĩa là Thiên Chúa sẽ lấy tình phụ tử mà sửa dạy ta. (Dt 12, 5-7).
Như vậy “cửa hẹp” chính là con đường mà Chúa Giêsu đã đi, một con đường đầy thử thách, chông gai, đồng thời cũng là con đường tình yêu mà Chúa Cha đã chỉ định cho Người và cho chúng ta. Cửa hẹp, hay là con đường hẹp chính là cuộc đời Chúa cứu thế Giêsu đã đi, chính là con đường Thập giá. Vậy câu hỏi được đặt ra là: Tại sao tôi phải sống con đường hẹp. Thưa theo nghĩa đen, nơi nào rộng rãi, dễ dãi thì tụ tập đông người. Người đời thường chuộng sự dễ dãi, chứ không ai chuộng sự khó khăn. Nhưng nếu trên một chiếc cầu mà quá nhiều người chen chúc, chắc chắn sẽ có ngày chiếc cầu ấy không chịu đựng nỗi,tất cả sẽ rơi xuống dòng sông. Nhưng những ai khôn ngoan thì không chen chúc trên chiếc cầu ấy, thì họ sẽ được bình an.
Đời sống thiên liêng cũng vậy, nếu chúng ta sống dễ dãi buông xuôi, chúng ta chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Như vậy, cuộc sống phải có lý tưởng, nhưng không có lý tưởng nào cao đẹp bằng bước theo Chúa Kitô bằng con đường Thập giá của Người. Vì Người chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Một Sự Sống từ Thiên Chúa mà thế gian không có được.
Ngày nay, thiên hạ đua tranh làm giàu, kiếm tiền bất chấp luân lý, đạo lý. Người Công giáo sống cùng người vô thần, cũng lao theo kiếm tiền, như vậy há chẳng phải là họ đang chiến đấu để vào cửa rộng sao? Cửa rộng cũng phải chiến đấu, tranh giành và sát phạt nhau, phương chi là cửa hẹp.
Như vậy, muốn vào cửa hẹp cũng phải chiến đấu cam go, chiến đấu với bản thân với vô vàn nghịch cảnh. Có nghĩa là từng ý nghĩ, từng hành vi, từng lúc, từng thời luôn quy chiếu về Chúa Giêsu là “Cửa Hẹp” của đời mình, và Chúa chính là mục đích của đời ta, là kim chỉ nam cho cuộc sống của ta. Muốn được vậy, ta phải chấp nhận mọi hy sinh cho cuộc đời mình để bước theo Chúa. Vì cuộc đời Chúa Cứu Thế Giêsu không phải là một cuộc đời trải thảm hoa, mà là một cuộc đời hy sinh, hy sinh trọn vẹn cho Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá càng vinh quang, thì sự hy sinh càng lớn. Chúa Giêsu đã tự hiến tế để dâng mình lên làm hy lễ đền bù cho nhân loại lên đến Tôn nhan Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sửa dạy chúng ta qua chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu-Kitô, đến độ trên Thập giá Người đã kêu lên: “Êloi. Êloi, lamma sa bat tani”, nghĩa là “Lạy Chúa tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi, nhân sao Ngài lại bỏ tôi!”. (Mt 27,46), (Mc 15,34).
Như vậy, Chúa Giêsu không nói suông mà chính Người đã hợp tác với Thiên Chúa Cha để cứu độ thiên hạ, và trao ban cho thiên hạ một con đường sống qua cuộc tử nạn của Người. Do đó, Người không chỉ là Thiên Chúa ở trên cao, mà là một Vị Thiên Chúa hữu hình thật sự đã mang lấy tội lỗi của nhân thế, để trở nên như phàm nhân, sống một kiếp phàm nhân, nhưng không sống như phàm nhân, mà là sống như Thiên Chúa, vì Người đã mang lý tưởng sống đến cho nhân loại, là sống một lý tưởng vì Thiên Chúa và đồng loại là phàm nhân, bởi vì chính Người là Thiên Chúa thật. Amen
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một lý tưởng sống của Chúa, để chúng con sống có lý tưởng là chính Chúa, là cửa hẹp mà Chúa đã dạy chúng con phải chiến đấu mà vào. Amen
70. Suy niệm Chúa Nhật 21 Thường Niên
(Trích dẫn từ ‘Tin Vui’ – Giáo phận Xuân Lộc)
Chúng ta đứng trước một Vương Quốc mở ra cho tất cả mọi người, nhưng chỉ được một số ít người khám phá. Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta, và không có dân tộc nào được lựa chọn một cách độc quyền. Thiên Chúa giúp chúng ta đi thẳng đường và tin tưởng tiến tới bằng các cuộc can thiệp của Người trong cuộc sống của chúng ta. Dù nhiều lúc rất căng thẳng. Khẳng định rằng cánh cửa hẹp không phải là dấu chỉ của sự bi quan, nhưng là bằng chứng cho thấy rằng ơn gọi của con người được chú trọng một cách nghiêm chỉnh.
Is 66, 18-21
Trở về sau lưu đày, người Do thái vấp phải một thực tại đời thường đáng thất vọng. Nịềm phấn khởi lúc trở về đã tan biến đi và nhường chỗ cho thái độ dửng dưng, bỏ mặc muốn ra sao thì ra. Tiếp nối lời rao giảng của Isaia, một Tiên tri tìm cách mang lại can đảm khi mô tả tương lai vinh quang của Dân tộc ưu tuyển. Giê ru sa lem sẽ trở nên kinh thành vinh quang nơi mọi người sẽ đến để gặp gỡ Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 116
Tất cả các dân tộc trên hoàn vũ đều được mời gọi họp tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Hr 12,5-7.11-13
Gợi lại cuộc lữ hành dài của người tín hữu về Kinh thành của Thiên Chúa, tác giả khuyến khích độc giả mình hãy chứng tỏ lòng kiên trì. Con đường khó khăn có thể khiến người ta thất vọng, nhưng điều cốt yếu là cần phải hiểu các thử thách trong cuộc đời như là một lời Chúa mời gọi chúng ta chỉnh sửa lại các khiếm khuyết làm chậm đà tiến của chúng ta.
Tin mừng Lc 13,22-30
NGỮ CẢNH
Với câu chuyển đoạn (13,22), ở đây Lu ca tiếp tục cấu trúc dàn dựng các biến cố của Chúa Giê su trong viễn cảnh một chuyến đi về Giê ru sa lem (9,51).
Đây là chuyến đi của một người chinh phục sẽ đánh đuổi quân đế quốc La mã chăng? Các môn đệ của Chúa Giê su có thể đã nghĩ như cậy, đặc biệt sau khi đã nhận biết Ngài là Đáng Cứu thế, Đấng Messia (9,20). Nhưng chương trình của Chúa Giê su hoàn toàn khác hẵn.
TÌM HIỂU
Đoạn tin mừng nầy trả lời cho câu hỏi nền tảng: Ai sẽ được cứu độ? Chúa Giê su trả lời: đó là những người đi qua cửa hẹp (13,24). Hình ảnh cái cửa được lặp lại trong một dụ ngôn để cho thấy rằng những ai nại vào những ưu quyền mình đang có sẽ bị lọai trừ (13,25-28), còn những người khác, đến từ các khắp mọi nơi, sẽ được chấp nhận (13,29). Bài tin mừng khép lại bằng một câu nói khẳng định sự đảo lộn tình thế ấy (13,30).
Những người được cứu thoát: X. Mt 7,13-14. Động từ “cứu” trong tin mừng Lc chỉ sự cứu độ toàn bộ con người ở bên kia cái chết (1,77; 2,30; 3,6t; 7,50; 9.24; x. Cv 2,47; 4,12).
Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai? Theo những điều kiện nào? Đó cũng là câu hỏi được đặt ra khi ý thức về sự cần được một Đấng Khác cứu độ (x.18,26). Chúa Giê su từ chối đưa ra con số chính xác những người được chọn, nhưng nhắc nhở cho những người được chọn đầu tiên, người do thái và chúng ta, rằng ơn cứu độ không bao giờ là một điều đắc thủ có sẵn.
Hãy chiến đấu: từ hi lạp chỉ cuộc chiến đấu, trận đấu (x. Pl 1,30; 1Tm 6,12; 2Tm 4,7). Do đó cần phải có sức mạnh (16,16). (Trong 22,44 một từ tương đương được một vài tác giả dịch là “hấp hối”). Cả khi sự cứu độ là một ơn ban, cũng không lọai trừ sự nỗ lực về phía con người.
Vào qua: vào đâu? Trong c.25 tác giả nói là vào nhà và trong c.29 lại vào bàn ăn. Động từ mạnh nghĩa không có tân ngữ, ám chỉ đến việc đi vào Nước Thiên Chúa (x. 11,52;18,17.25), được trình bày như một bữa tiệc (14,15). Do đó, từ “vào” đồng nghĩa với “được cứu độ”: người được Thiên Chúa cứu độ là người đi vào nhà của Thiên Chúa.
Cửa hẹp: không dễ tìm ra ý nghĩa của hình ảnh nầy. Trong Mt 7,13-14 cửa hẹp đối nghịch với cửa rộng, con đường thênh thang, nghĩa là sự dễ dãi. Do đó, cần phải nép mình, uốn mình mà đi vào, trở nên nhỏ bé (9,48), liều mất mạng sống mình (9,23-24).
Có thể tìm theo hướng khác, Chúa Giê su nói Ngài là cửa (Ga 10,7-9). Tại cửa đền thờ, Phê rô và Gioan chữa lành một bệnh nhân “nhân danh Chúa Giê su”, và danh ấy cho phép người bệnh đi vào trong đền thờ (Cv 3,1-10). Do vậy, Chúa Giê su là đấng cho phép đi vào trong Nước Trời. Nhưng người đi theo phải chấp nhận vác thập giá như Ngài (9,23) và chấp nhận phép rửa (12,50). Cánh cửa đích thực của ơn cứu độ là thập giá Chúa Giê su: Chúa Giê su bị đóng đinh cho phép người trộm lành cùng với Ngài đi vào Thiên đàng (23,43).
Không thể được: câu tuyên bố gây ngạc nhiên: tại sao người muốn vào lại không thể vào đó được? câu trả lời ở phần sau.
Chủ nhà: trong đoạn 12,36-40 cũng nói về một ông chủ nhà hi vọng nhìn thấy đầy tớ của mình tỉnh thức khi ông đi ăn cưới trở về; chủ nhà đó được đồng hóa với Con Người, nghĩa là với Chúa Giê su. Ở đây, Chúa Giê su một lần nữa là chủ nhà, và người gõ cửa, dường như là cửa nhà Quan Án, không còn phải là Ngài nữa, mà là các đầy tớ; ở đây chủ nhà đang ở trong nhà, còn người đầy tớ đứng ở ngòai. Hai cách nhìn bổ túc cho nhau: nói về việc tính sổ trong lần gặp cuối cùng với Chúa. Câu truyện tương đương với dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt 25,1-13, nhưng chủ điểm của nó hơi khác một chút. Mt nhấn mạnh hơn về việc thấy trước, còn Lu ca thì lại chú ý đến sự kiện là người ta không biết lợi dụng thời cơ để đi vào khi thời cơ đến (Is 55,6).
Thưa Ngài: tước hiệu nầy chắc chắn là của Chúa (x.6,46), nhưng không đủ để nói rằng Ngài là Chúa, cần phải có các điều kiện tương xứng (6,47).
Chúng tôi đã từng được ăn uống: x. Mt 7,22-23. Bị từ chối ngay từ lần đầu tiên khiến những người gõ cửa phải nài nỉ. Ám chỉ đến những bữa ăn mà Chúa Giê su dùng với họ (7,36;11,26), đến giáo huấn mà ngài ban cho họ trên các công trường (7,30-34). Đối lại với đám người nầy, chúng ta có thể nhớ lại các môn đệ, với các bữa ăn với Chúa Giê su phục sinh (Lc 24,3-.41-43; Cv 10,41).
Khác với trường hợp trong dụ ngôn người bạn quấy rầy trong đêm (11,5-8), anh ta đạt được điều mình muốn, ở đây sự nài nỉ chẳng những không đưa đến kết quả nào, mà còn chống lại họ. Lời quở trách của Chúa Giê su nhắm đến những người đương thời cậy dựa vào các ưu quyền của mình để đòi được cứu độ. Nhưng “Thiên Chúa có thể biến những hòn đá nầy thành con cái ông Abraham” (3,8). Thánh Phao lô sau nầy sẽ khai triển luận chứng nầy trong Rm 2.
Ta không biết các anh: câu nói thật khủng khiếp! Chúa Giê su từ chối chấp nhận các tước hiệu mà người ta lạm dụng để phá cửa xông vào Vương quốc. Huyết tộc hoàn toàn vô hiệu trước sự thân thuộc đích thực từ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa (8,19-21).
Cút đi cho khuất mắt ta: trích dẫn Tv 6,9 ở đây chỉ một sự bất tương ứng tuyệt đối giữa sự sống với Thiên Chúa và đời sống gian ác. Nó không lọai trừ sự thương xót, nhưng cho thấy rằng trách nhiệm của sự chọn lựa hôm nay ở trong tay chúng ta.
Khóc lóc nghiến răng: kiểu nói chỉ có ở đây trong Lc, trong khi ở Mt xuất hiện đến 6 lần.
Các câu 28-29 là một vài lời nói mà Mt 8,11-12 gom lại sau khi người đầy tớ viên bách quan được chữa bệnh. Chúng nhấn mạnh sự mâu thuẩn giữa sự khước từ của những người nói rằng mình gần gủi với Chúa Giê su, và sự tiếp nhận của các người dân ngọai đến từ khắp các chân trời: họ sẽ gặp các tổ phụ và các tiên tri trong nước Thiên Chúa. Bên đây vang tiếng kêu đau đớn, còn bên kia rộn rã niềm hân hoan dự tiệc. Đây là lần đầu tiên Lu ca nói đến tiệc cưới, hình ảnh chỉ Nước Trời (x. Is 25,6), sẽ được lặp lại trong đoạn 14,7-24 và trong 22,30. Đặc tính phổ quát của ơn cứu dộ là một chủ đề Lu ca rất ưa thích.
Dự tiệc: x. 14,15
Đứng chót: trong một ngữ cảnh khác, Mt (19,30;20,16) nói: “nhiều người đứng chót”. Mc cũng nói như thế trong 10,31 (x. chú thích). Dường như chỉ có Luca áp dụng câu nói nầy cho những người được kêu gọi vào lúc chót, tức là các dân ngọai và những người được kêu gọi trước tiên, tức là người Híp pri. Nhưng bản văn không nói đến việc một dân khác thay thế dân nầy, mà chỉ khẳng định rằng trước mặt Thiên Chúa không có ưu tiên hay đặc quyền đặc lợi gì cả: mỗi người sẽ bị xét xử theo cách sống của mình (x. Êd 18).
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng hôm nay khá lạ lùng. Nó nói với chúng ta về khung cửa hẹp, về cửa đóng kín, về những người bị lọai trừ khỏi Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta chịu khó đào sâu các bản văn Thánh Kinh, chúng ta sẽ khám phá thấy rằng đây là một trang tin mừng đem lại nhiều hi vọng. Quả thật, nó nói với chúng ta về Thiên Chúa muốn qui tụ tất cả mọi người trong Vương Quốc của Ngài. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã loan báo trong bài đọc thứ nhất: “Ta đến qui tụ mọi người thuộc mọi dân nước và mọi ngôn ngữ. Chúa Giê su đến xác nhận sứ điệp đó: “Người ta sẽ từ Phương Đông, phương Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Vấn đề là nhiều người đã không hiểu đúng. Họ quên rằng để vào Nước Thiên Chúa, phải qua cửa hẹp. Và để vượt qua, phải giải thoát mình khỏi những ưu tiên. Giàu sang, vinh dự mà chúng ta ki cóp trong suốt cuộc sống của mình sẽ không có ích lợi gì cả. Đã cùng ăn cùng uống với Đức Ki tô không thôi chưa đủ. Điều quan trọng là đã cho Ngài ăn qua những người nghèo mà chúng ta gặp trên đường chúng ta; đó là đã chia sẻ cho người đói, cho người mất tất cả. Ngang qua họ, chính Đức Ki tô hiện diện và gõ cửa nhà chúng ta.
Việc có được vào Nước Thiên Chúa hay không tùy thuộc vào vị trí mà chúng ta dành cho Đức Ki tô trong đời sống chúng ta. Đi lễ, làm tuần cửu nhật, hòan thành những việc đạo đức là rất tốt; nhưng những điều đó phải nói lên một ý muốn thâm sâu của tâm hồn. Phải làm điều Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, là rủ bỏ tất cả những gì cản trở chúng ta. Đó chính là bước qua cửa hẹp. Sự chọn lựa ấy dẫn chúng ta đến việc từ bỏ những cái vô giá trị để thực sự chọn lựa kho tàng đích thực.
Đó là cánh cửa hẹp mà Chúa Giê su đã vượt qua. Ngài đã mở lối cho chúng ta đi theo Ngài. Một lần nữa, điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta vất bỏ gánh nặng mà chúng ta mang trong mình. Những hành lí cồng kềnh chỉ làm cho bước đi trở nên khó khăn hơn mà thôi.
Trong cuộc lữ hành về với Thiên Chúa cũng thế. Chúng ta chỉ có thể thực sự tiến tới trước nếu chúng ta bước đi một cách nhẹ nhàng. Đi một cách nhẹ nhàng là tạo khỏang trống trong chúng ta, đó là ra đi khỏi những chuyện cãi cọ trong giáo xứ, đó là giải phóng khỏi những ý tưởng của chúng ta, những thành kiến, những truyền thống của chúng ta. Điều quan trọng nhất không phải là trung thành với truyền thống mà là tiến lên trong sự trung thành hơn đối với Chúa Giêsu Kitô. Vào qua cửa hẹp là chấp nhận những sự thanh tẩy cần thiết. Những ai muốn được cứu độ bằng sự dễ dãi sẽ bị bỏ lại bên ngòai. Những ai cho rằng ơn cứu độ là của riêng mình có thể bị thất vọng. Người ta không chiếm hữu cho mình ơn cứu độ, nhưng phải tiếp nhận như một ơn ban nhưng không.
Đi theo Chúa Giê su qua cửa hẹp. Đó là điều đòi hỏi chúng ta. Nhưng khi suy nghĩ kĩ, chúng ta khám phá ra rằng vần đề đích thật ở chỗ khác: Cái gì hẹp? Có thật sự là cái cửa không? Hay là chính tâm hồn? Bài tin mừng mời gọi chúng ta mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa và người khác. Cánh cửa tâm hồn có được mở rộng ra không tùy thuộc mỗi người chúng ta. Chính đó là nơi mà Đức Ki tô chờ đợi và hẹn hò với chúng ta.
Vào qua cửa hẹp còn là đi ra khỏi sự tự mãn của mình và đặt trọn vẹn cuộc đời chúng ta trong tay của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi đi vào bằng cách đặt bước chân của chúng ta trong bước chân của Ngài và đi theo Ngài trong tình yêu, tha thứ và phục vụ anh em. Cánh cửa đó chính là cánh cửa mà Chúa Giê su đã đi qua từ hang đá đến thập giá. Chúng ta đang trên đường đi theo Ngài. Nhiều khi việc đi theo đòi hỏi chúng ta phải hi sinh, nhưng điều quan yếu là biến tất cả cuộc đời chúng ta thành một hành vi yêu thương như Chúa Giê su đã làm.
Nhiều người thất vọng vì họ đang sống trong bóng tối đằng sau một khung cửa hẹp và đóng kín. Họ không còn biết gán cho cuộc sống họ ý nghĩa gì. Nhưng qua kẽ hở cánh cửa, họ phải nhìn thấy một tia sáng mặt trời rọi vào. Đó là ánh sáng Đức Ki tô đấng chiến thắng sự chết và sự dữ. Như đã nói trong bài đọc thứ hai, ánh sáng ấy sẽ mang lại sức sống cho “những đôi tay rã rời và những đầu gối mệt mỏi”; nó sẽ giúp cho chúng ta can đảm trên đường. Ngày Chủ nhật, Đức Ki tô chịu đóng đinh và sống lại cho chúng ta nghe Tin mừng cứu độ và ban cho chúng ta Bánh sự sống để tất cả cuộc sống của chúng ta trở thành lời Tạ ơn. Ngài đến gặp chúng ta để dạy cho chúng ta trở thành những dấu chỉ của đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi dân tộc.
Thời Chúa Giêsu nhiều người Do thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?”thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “phải” để xác nhận quan điểm của họ.
Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp “phải”chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những người Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông”thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rỗi mà.
Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:
– Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo lời Chúa.
– Chúa còn nói: “Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo lời Chúa.
Trên đây ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin Mừng, áp dụng cho dân Do thái và các dân tộc khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng… thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến hai quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin Mừng nên vẫn được coi là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đạo”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin Mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.
Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc xe hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vã xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói “Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con”. Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy”. Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.
Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.
Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo.
Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực.
Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin Mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hễ mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi; không phải hễ có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời.
72. Thiên Chúa của mọi dân tộc
Con người vốn có tính ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, đến gia đình, làng xóm, dân tộc hay quốc gia mình, nên cũng hình dung ra những vị thần thánh ích kỷ không kém.
Mỗi làng có vị thần làng riêng, mỗi quốc gia cũng có thần riêng. Thần của làng nào, của quốc gia nào thì chỉ bênh vực che chở làng ấy, quốc gia ấy mà thôi. Mỗi khi tranh chấp đất đai hay quyền lợi nào khác, người ta kêu cầu vị thần của làng mình hay quốc gia mình ra tay đánh bại kẻ thù và thần linh của chúng. Loài người đánh nhau thì thần thánh cũng phải đánh nhau.
Dân Do Thái cũng không thoát khỏi quan niệm hẹp hòi và sai lầm ấy. Khởi đầu Giavê đối với họ cũng chỉ là thần riêng của họ, cũng như Baal là thần của người Canaan. Phải qua nhiều thời đại, nhiều kinh nghiệm họ mới học cho biết được rằng: Giavê Thiên Chúa không phải là một vị thần trong số các vị thần khác, không phải là một chúa giữa các chúa khác. Trái lại, Ngài là Thiên Chúa độc nhất, ngoài Ngài ra, không có một thần hay một chúa nào khác.
Tất cả các thần các chúa đó chỉ là ngẫu tượng, chỉ là những đồ vật do tay con người làm ra: có mắt có miệng mà không nhìn không nói, có mũi có tai mà không ngửi, không nghe, có tay mà không sờ không mó, có chân mà không bước không đi. Từ cổ họng không thốt lên được một tiếng.
Những ý thức về một Thiên Chúa độc nhất ấy lại khiến người Do Thái đi tới một sai lầm khác vô cùng tai hại: họ nghĩ rằng Thiên Chúa độc nhất ấy là Thiên Chúa của họ, hay nói cách khác, họ độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa, bắt Ngài phải về phe với họ, có bổn phận phải che chở và giáng phúc cho họ, và do đó luôn chống lại các dân ngoại.
Để chuẩn bị mạc khải cho dân Do Thái biết Ngài là Thiên Chúa của muôn nước, là Cha của mọi dân và nhất là chuẩn bị cho họ đón nhận Đức Kitô, Đấng cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã phải dùng đến những bài học đôi khi cay đắng, đó là họ đã phải mất nước, đã phải chịu cảnh lưu đày, sống thân phận tôi đòi giữa những kẻ mà họ nghĩ rằng không bao giờ là dân của Chúa. Nhưng cũng chính nhờ đó mà họ mới có được một quan niệm về một Thiên Chúa phổ quát, nghĩa là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước.
Tất cả những điều vừa trình bày đã được Đức Kitô thực hiện một cách trọn vẹn. Thực vậy, với cái chết trên thập giá, Ngài đã ký kết một giao ước mới và tụ tập mọi dân mọi nước về cùng Thiên Chúa. Ý tưởng này đã được Ngài diễn tả bằng hình ảnh một tiệc cưới, trong đó những người tham dự không phải chỉ là người Do Thái, mà còn là tất cả những người từ mọi ngả đường trần gian. Tuy nhiên, không phải cứ lãnh nhận bí tích Rửa tội, cứ có tên trong sổ sách của giáo xứ, là chúng ta nghiễm nhiên trở nên thành phần của dân Chúa, điều quan trọng là mỗi người chúng ta phải có một tấm áo cưới, tức là tâm hồn trong sạch, đã tẩy trừ khỏi những vết nhơ tội lỗi, đã ra sức uốn nắn lại những khuyết điểm của mình.
Với một con người mới như thế, chúng ta thực sự là người Kitô hữu thứ thiệt, chứ không phải chỉ là người Kitô hữu thứ dổm, hữu danh vô thực mà thôi.
Nước Trời mang tính phổ quát hay giới hạn? Chúa luôn mời gọi mọi người. Nhưng nhiều người đã từ chối vì Kitô giáo khắt khe. Nhưng những ai chấp nhận, sẽ nhận được nguồn an ủi lớn lao. Cả một bầu trời thênh thang trước mắt.
CON ÐƯỜNG HẸP
Nước Trời luôn rộng mở đón nhận muôn dân. Chính Ðức Giêsu quả quyết: “Trên nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.” (Ga 14:2) Ngôn sứ Isaia cũng nhắc tới tiếng gọi phổ quát của Giavê (Is 66:20). Nhưng hôm nay, tại sao Ðức Giêsu lại nói phải chui qua “cửa hẹp” mới vào được Nước Trời. Người không ngần ngại nói sự thật: “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24)? Tại sao không vào được? Phải chăng vì họ thiếu đức tin hay những việc lành? Hay phải chăng họ đã vô lầm cửa? Phải chăng vì định mệnh khắt khe? Hay tại họ thiếu ân sủng nên không được Thiên Chúa tuyển chọn? Nếu thế tự do con người ở đâu?
Quả thực, lời Chúa chưa vén màn bí mật về số phận con người. Nhưng Ðức Giêsu muốn cho thấy hai mặt của một thực tại. Một đàng Nước Trời phổ quát, vì “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Ðàng khác, Nước Trời thênh thang đó chỉ có một “cửa hẹp”. Chẳng mấy ai thích cửa hẹp. Nhưng thực tế, “cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong.” (Mt 7:13) Bởi vậy, cần chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24) Nước Trời. Sức chiến đấu đó vừa cho thấy con người tự do vừa mạc khải Thiên Chúa tình yêu. Chính vì tự do nên con người có thể chọn chiến đấu cho những giá trị Nước Trời. Chính vì bản chất là tình yêu, Thiên Chúa mới mời con người đáp trả tình yêu.
Tình yêu sẽ hướng dẫn qua những nẻo đường chông gai. Nhiều khi có những vấp ngã đau điếng trên đường về nhà Cha. Thế nhưng Thiên Chúa đầy lòng yêu thương luôn vực dậy những ai sa ngã. Ðôi khi cần những biện pháp hơi mạnh. “Thuốc đắng giã tật”. Xin “đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chờ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy.” (Dt 12:5-6) Không phải lúc nào cũng dễ dàng chấp nhận những lời cảnh giác. Nhưng càng được sửa dạy, càng thấy mình thuộc về Thiên Chúa. Muốn làm con Thiên Chúa, “anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy.” (Dt 12:7) Thiên Chúa không bao giờ sửa phạt cho thỏa cơn giận hay có ý báo thù. Nhưng Người sửa dạy để như gọt đẽo chúng ta cho vừa khung cửa hẹp của Nước Trời. Người sửa dạy khác hẳn với người đời. Quả thế, “những người chịu (Thiên Chúa) rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” (Dt 12:11) Bình an và công chính là đặc tính của Nước Trời. Bởi thế, ngay từ đời này, ta đã cảm thấy tất cả kích thước chật hẹp của cửa trời và cả bầu trời thênh thang trong Nước Chúa.
Nhưng nếu không chịu đi qua cửa hẹp, người ta sẽ cảm thấy nhục nhã của kiếp lưu đầy khỏi Nước Chúa. Thái độ lạnh lùng của Chúa càng gây kinh ngạc cho những ai quan tâm tới những đòi hỏi của Tin Mừng: “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:27) Thật là kinh hoàng khi phải nghe những lời cứng cỏi đó! Thái độ lạnh lùng đó nhằm xua đuổi và loại trừ những người đã không sống công chính theo lượng ân sủng Chúa. Họ tự hào vì đã dành rất nhiều thời giờ đồng bàn với Chúa và lắng nghe lời Chúa (x. Lc 13:26). Còn ai có thể hiểu biết Chúa hơn họ? Vậy mà Chúa vẫn lạnh lùng đáp: “Ta không biết các anh từ đâu đến!” (Lc 13:25.27) Người ta đã phí phạm biết bao thời giờ hay cả cuộc đời vì đã quên mất một yếu tố chính tức là mở rộng cõi lòng đón nhận Nước Chúa. Người ta đã quá khép kín tâm hồn và không thi hành tất cả những đòi hỏi của Tin Mừng là sống “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” Không bao giờ Ðức Giêsu lại trình bày Nước Chúa như một bánh vẽ. Trái lại, Nước Chúa là một thực tại sống động và là một đòi hỏi gắt gao.
Ðòi hỏi gắt gao nhất là phải mở rộng cõi lòng theo chiều kích Nước Chúa. Nếu trong cuộc sống còn một chút gì kỳ thị đông tây nam bắc, chắc chắn không thể vào được Nước Trời. Vì “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Như vậy, những kẻ “còn đứng ở ngoài” sẽ không bao giờ có thể nếm đượchương vị ngọt ngào và thơm tho của bàn tiệc Nước Chúa. Tất cả những người công chính, bất kể phát xuất từ đâu, đều được nhập tiệc với “các ông Abraham, Isaac và Jacob cùng tất cả các ngôn sứ.” (Lc 13:28) Nói khác, họ là những người vất vả phấn đấu để được cứu thoát. Họ phải trả giá bằng chính con người và cuộc đời. Nếu còn lấn cấn với những giới hạn về văn hóa, chủng tộc, màu da, chính kiến, tôn giáo của mình, họ không bao giờ có thể hiểu nổi những chiều kích lớn lao của Nước Thiên Chúa. Vì ơn cứu thoát chỉ dành cho những người biết hòa nhập với sứ mệnh của Ðấng đã phán: “Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ.” (Is 66:18)
Nước Trời quả thực là một hồng ân dành cho hết mọi người. Nhưng hồng ân đó cũng là tặng phẩm dành riêng cho từng người. Bởi vậy, Nước Trời vừa có chiều kích phổ quát vừa thuộc về từng cá nhân. Phải nhận ra hai chiều kích đó mới thấy niềm hi vọng của mình tươi sáng chừng nào và nỗ lực theo đuổi hi vọng đó lớn lao tới đâu.
NƯỚC CHÚA GIỮA TRẦN GIAN
Nhưng Nước Chúa không ai có thể độc chiếm. Chỉ có Ðức Giêsu mới là cửa độc nhất dẫn vào Nước Chúa. Chính Người đã quả quyết: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” (Ga 10:9) Nhưng Người là cửa hẹp hay rộng? Quả thực, không một nền luân lý thông thường nào có đòi hỏi gắt gao như giáo lý của Ðức Giêsu. Thế nhưng, cũng không ai có một sức mạnh giải thoát bằng Người. Bởi vậy, thánh Phaolô đã xác định sứ mạng lớn lao của Ðức Giêsu: “Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1) Chính Người đã tìm được phương giải thoát cho thân phận làm người. Con người không thể thoát ra khỏi luật lệ. Nhưng có nhiều thứ luật trói buộc con người trong vòng nô lệ. Có những luật dẫn tới tự do hạnh phúc. Ðức Giêsu đã xác định rõ về bản chất lề luật: “Ngày sabbat được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabbat.” (Mc 2:27) Bởi vậy, luật lệ Nước Trời cũng nhằm phục vụ con người. Ðức Giêsu là cửa hẹp nhưng mở ra vô biên. Ðó là sự thật.
Sự thật ấy đã được chứng minh qua hai ngàn năm lịch sử. Giáo hội làm chứng Ðức Giêsu là “con đường, sự thật và sự sống.” (Ga 14:6) Thế nhưng, vẫn có những người xuyên tạc sự thật và không chịu nhìn nhận sứ mạng đó của Giáo hội. Chẳng hạn, thứ bảy 18/8/2001 vừa qua, Thủ tướng Ấn Ðộ Atal Behari Vajpayee tuyên bố “động cơ” đằng sau các hoạt động bác ái của người Kitô hữu là “chiêu dụ tín đồ” (CWNews 20/08/2001) Rõ ràng, Thủ tướng đã cố tình không muốn đọc thấy sứ điệp Kitô giáo ngang qua những hoạt động vô cùng cần thiết cho những người nghèo khổ và những thành phần bị gạt ra ngoài lề xã hội. Mặc nhiên ông biện minh cho những thái độ thù nghịch tôn giáo đang lan rộng khắp nước Ấn độ. Ông đã khoán trắng việc trợ giúp các nạn nhận lũ lụt đầu năm nay cho Rashtriya Swayamsevak Sangh, một tổ chức Ấn giáo cực đoan, thủ phạm đã giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo trong vòng hai năm nay. Tổ chức đã thúc giục các cộng đồng Ấn giáo từ chối các phẩm vật cứu trợ từ các tổ chức Kitô giáo (x. VietCatholic 22/8/2001) Trên đất nước đầy những thù nghịch đó, Kitô hữu đang phải chui qua cửa hẹp. Lời chứng càng mạnh mẽ hơn khi nào. Lực lượng thù nghịch càng cố gắng giới hạn sức mạnh Giáo hội, Thánh Linh càng có cơ hội làm cho nhiệm thể Chúa Kitô phát triển. Những nỗ lực thù nghịch chỉ để lộ ra sự sợ hãi trước những ảnh hưởng của Giáo hội. Chẳng hạn, nữ tu Têrêsa Calcutta đã nhá lên cho thế giới thấy tình yêu như ánh sáng đang soi chiếu vào tận những nơi tăm tối nhất trong thân phận làm người và sởi ấm những ẩm thấp nhất nơi những hang cùng ngõ hẻm trên thế giới.
74. Phấn đấu qua cửa hẹp vào Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- LỜI CHÚA: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).
- CÂU CHUYỆN: SỐNG DỄ DÃI SẼ DẪN ĐẾN BẤT HẠNH
Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp hạnh phúc trong một căn phòng chật hẹp. Họ bàn nhau phải kiếm nhiều tiền để mua một căn nhà khang trang đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng với đồng lương công nhân như hiện nay thì đủ sống được cũng còn là may. Rồi một hôm cô vợ được một người quen giới thiệu làm chiêu đãi viên trong một quán bia ôm. Công việc này được tiền “bo” của khách cao gấp chục lần so với đồng lương công nhân trước đó. Anh chồng vì muốn sớm đổi đời nên đã đồng ý cho vợ đi làm. Anh hy vọng sau một thời gian vài ba năm ăn nhịn để dành, hai vợ chồng sẽ mua được ngôi nhà ưng ý và sẽ cho vợ nghỉ làm. Nhưng sự việc xảy ra lại không đơn giản như họ nghĩ. Từ khi đi bán bia ôm, cô vợ làm ra nhiều tiền và được nhiều người vừa giàu có lại vừa có địa vị theo đuổi tán tỉnh, dần dần đã thay đổi tính nết, trở thành một con người khác hẳn. Cô không còn mặn nồng với người chồng mà cô đánh giá là bất tài, lười biếng và chỉ biết ăn bám vào vợ. Từ suy nghĩ trên, cô hay tỏ ra khinh chồng và ăn nói chua ngoa. Cô cũng thường gắt gỏng và la lối chồng với những lời thô tục khó nghe, khiến anh cảm thấy rất buồn bực. Anh ta chỉ còn biết bầu bạn với rượu bia để giải sầu. Cuộc sống chung của hai người không còn nồng ấm và vui vẻ như trước. Cuối cùng họ đã ra tòa xin ly hôn. Thật đúng như lời Chúa phán: “Con đường rộng rãi là đường dẫn tới hư mất” (Mt 7,13), và người đời cũng có câu “sự thành công không đến một cách ngẫu nhiên, nhưng chính là kết quả của những cố gắng liên tục kèm theo sự kiên nhẫn lâu dài” hoặc “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
- SUY NIỆM:
Tin mừng hôm nay trình bày về những điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giêsu thiết lập là: Phải vào qua cửa hẹp, phải vào kịp thời trước khi cửa đóng, và phải đủ các điều kiện để được vào trong Nước Thiên Chúa.
1) PHẢI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA NGANG QUA CỬA HẸP:
– Đức Giêsu đã tự ví Người là cửa: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Theo thánh Phao-lô: “Bước qua cửa hẹp” là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu đã dạy:”Không phải cứ kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào” (Mt 7,21).
– Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng: là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thập giá mà Đức Giêsu đã xin bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha (x Lc 22,41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9,23).
– Bước qua cửa hẹp là phải loại trừ “cái tôi”: Ở đây là chiến đấu với “cái tôi” ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, “cái tôi” phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì “cái tôi” quá to. Cần phải làm cho “cái tôi” ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). “Cái tôi” của chúng ta luôn có khuynh hướng phình to do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho “cái tôi” ấy bị xơ cứng và to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (x. Mt 18,3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gio-an Tiền Sứ khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giêsu: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
2) PHẢI NHANH CHÂN BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA CHO KỊP THỜI:
Thời gian rất cấp bách, đòi mỗi người phải mau chóng quyết định bước vào Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, vì để sang ngày mai sẽ là quá trễ. Phải bắt đầu ngay từ hiện tại, vì mỗi giây phút, mỗi biến cố trong cuộc đời chúng ta đều có giá trị đưa ta vào hay ngăn chặn ta trước cửa Nước Thiên Chúa bị đóng lại. Tránh đừng để “khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” ta mới đến gõ cửa nài van: “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!” thì đã quá muộn. Vì bấy giờ chủ sẽ bảo: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!” (Lc 13,25).
3) ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯƠC THIÊN CHÚA:
– Phải chiến đấu để vào Nước Trời: Đời sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua “cái tôi” ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta trong giờ phán xét khi nói với chúng ta: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21).
– “Ta không biết các ngươi”: Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, đã nhiều lần nghe Người giảng dạy và đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không muốn mở cửa tâm hồn cho Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.
– Sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay:
Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không? Lời chữa mình của người Do-thái cũng có thể là của nhiều ngừơi hôm nay. Vì chúng ta cũng đã từng tham dự thánh lễ và nghe rao giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay tham gia vào các hội đoàn công giáo tiến hành… Nhưng điều quan trọng Chúa đòi là chúng ta có sống lời Chúa không? Mỗi người cần thực hành lời Chúa hôm nay: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.
Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải bỏ lại bên ngoài những đồ đạc cồng kềnh làm nghẽn lối, là thói tham lam tiền bạc của cải, những sự tranh giành địa vị quyền hành, những đam mê lạc thú bất chính, những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm thừa mứa, những cuộc bài bạc cá độ có thể gây tán gia bại sản. Đó cũng còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người bên cạnh… Vất bỏ những thói hư nói trên thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc “chiến đấu” nội tâm trường kỳ và đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng Chúa luôn ban ơn Thánh Thần cho chúng ta và đang chờ để đón chúng ta vào hưởng hạnh phúc đời đời ở phía bên kia cánh cửa cuộc đời là giờ chết của chúng ta.
- CÂU HỎI:
1) Cửa hẹp đối với các tín hữu hôm nay là gì?
2) Tôi hiện đang mắc thói hư nào nghiêm trọng nhất?
3) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư ấy hầu xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau?
- NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu. Cửa hẹp ít người muốn bước vào, nhưng Chúa lại chọn đi qua cửa hẹp và đòi chúng con cũng phải qua cửa ấy để vào Nước Trời. Cửa hẹp chúng con phải qua chính là những đau khổ thập giá, là những hy sinh từ bỏ các đam mê lạc thú bất chính… Xin cho chúng con luôn chọn đi con đường hẹp, dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Ước gì khi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, kèm theo sự hãm mình cùng những đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, chúng con sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa và hy vọng chắc sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời đời sau.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
75. Cửa hẹp – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Thoạt nghe đến từ cửa hẹp người ta nghĩ ngay đến những gian truân, khó khăn, vất vả. Sự liên tưởng này không sai, nhưng nguời ta có thể lầm khi chỉ dán mắt vào độ hẹp của cánh cửa mà quên nhìn thực tại đằng sau nó. Đó là Nước Trời, là Vương quốc của tình yêu, là hạnh phúc vĩnh cửu. Các biến cố lịch sử thường được nhìn nhận cách khách quan và trung thực hơn sau một thời gian cần thiết nào đó. Tương tự như thế, có nhiều sự thật chỉ được biểu lộ hay được nhận biết cách khá chính xác hơn với cái nhìn từ phía sau. Chúng ta cần phải tự hỏi rằng Thiên Chúa ban hạnh phúc vĩnh cửu, vương quốc Nước trời cho những ai? Thật dễ dàng trả lời đó là cho tất cả những tạo vật mà Người dựng nên, các loài hữu hình và vô hình mà trong đó có loài người chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhẩt trong các loài hữu hình được tạo dựng.
“You get what you pay” (tiền nào của nấy). Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự gắng công nỗ lực. Và chắc chắn để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực gắng công càng nhiều hơn gấp bội. Có nhiều cách thế cũng như lãnh vực phải gắng công để đạt hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng trong tất cả những sự gắng công ấy thì việc nỗ lực trở nên “con người” là một nỗ lực nền tảng, không thể thiếu. Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời cho con người thì có thể nói cách không thể sai lầm rằng những ai đích thực là con người thì sẽ được hưởng nhận hạnh phúc ấy.
Theo nhãn quan này thì việc bước qua cửa hẹp chính là những cố gắng để trở nên con người như thuở ban đầu được tạo dựng. Trước khi Ngôi Lời nhập thể, dù được ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn qua vũ trụ thiên nhiên và đặc biệt qua tiếng lương tâm, nhưng con người khi tìm cách trở nên chính mình, trở nên con người, thì vẫn một cách nào đó còn mò mẩm như đi trong đêm tối. Các hiền triết cổ đại thường mời gọi đồng loại ưu tiên cho việc “biết mình”. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân. Đến thời viên mãn với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa thì chân dung và căn tính “con người” đã được mạc khải cách toàn hảo nơi chính Đức Giêsu Kitô. “Người chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” là “Trưởng tử giữa các loài thọ tạo”(x.Col 1,1). Lần giở các trang Tin Mừng, chúng ta cùng xem Chúa Kitô đã trình bày chân dung “Con Người” như thế nào.
Con người được tạo dựng có nam có nữ (x.Mc 10,6): Con người là loài được dựng nên chứ không phải tự mình mà có hay hiện hữu cách ngẫu nhiên. Dữ kiện phái tính cách nào đó khẳng định tính hữu hạn và tính hướng tha của con người. “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Nhiều thi nhân ví von cuộc đời như là quá trình tìm kiếm cái phần nửa của bản thân mình. Hội Thánh dạy rằng con người là hữu thể hướng đến tha nhân và hướng về Tuyệt đối. Như thế bước qua cửa hẹp là nỗ lực làm chủ khuynh hướng tìm mình cách vị kỷ cũng như làm chủ sự tự mãn, tự cao cho mình hoàn hảo hay toàn năng.
Con người là loài có thể xác nên có các nhu cầu ăn uống nghỉ ngơi…(x.Mt 11,19). Tuy nhiên con người còn có linh hồn thiêng liêng làm linh động thân xác. Mặc dù có sự góp phần không thể thiếu của thân xác, nhưng chính linh hồn qua các cơ năng luận suy, phán đoán, chọn lựa mới làm nên giá trị tốt, xấu, đúng sai của các hành vi. Vì không phải những gì bên ngoài vào trong con người làm cho con người ra ô uế mà chính những gì bên trong phát xuất ra… (x. Mt 15,11). Bước qua cửa hẹp là nỗ lực thanh luyện linh hồn đồng thời dùng linh hồn để hướng dẫn và làm chủ thân xác.
Lề luật hay ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người có ra vì ngày Sabbat hay vì lề luật (Mt 12,8; Mc 2,28). Khi sống thành bầy đoàn, loài vật giành giật và duy trì địa vị thống trị của chúng chủ yếu bằng sức mạnh của cơ bắp. Dĩ nhiên khi đã già yếu thì vị trí thống trị của chúng bị đe dọa và đến lúc nào đó bị tước đoạt bởi cá thể khác mạnh hơn. Con người thì nhờ có lý trí đã biết vận dụng lề luật để duy trì quyền uy và sự thống trị của mình. Là sản phẩm do tay con người lập nên, lề luật đã được khách quan hóa thành ý của thần minh, thành ý trời, để một cách có chủ ý phục vụ quyền lợi cho những người làm nên lề luật ấy. Như thế, một cách nào đó con người đã tự phong thần phong thánh cho bản thân. Khi bắt người khác tuyệt đối quy phục lề luật mình làm ra thì mình đã nô lệ hóa tha nhân bằng chính ý chí chủ quan của mình. Bước qua cửa hẹp chính là nỗ lực cởi bỏ những ràng buộc khiến ta và tha nhân trở thành nô lệ cho sản phẩm của con người, để đưa chính mình và tha nhân trở thành những chủ nhân thực sự đối với các thực tại trần thế theo thánh ý Thiên Chúa truyền ngay tự buổi đầu thưở tạo dựng (x.St 1,26; 2,20)
Con Người đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,45). Đến thế gian này, một trong những sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa đó là mạc khải cách đủ đầy và hoàn hảo căn tính của con người, vốn là loài được dựng nên, là hình ảnh của Thiên Chúa. Nét khác biệt và sự trỗi vượt của loài người trên các loài thọ tạo hữu hình không chỉ được thể hiện bằng trí khôn, một khả năng giúp con người ngày càng phát triển mọi mặt, mà còn được thể hiện qua ý chí tự do. Các loài vật bậc thấp khi yêu thích sự gì thì bị thôi thúc chiếm hữu nó bằng mọi giá. Trái lại tình yêu nơi con người lên đến đỉnh cao nơi động thái dâng hiến. Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu tự hiến thân vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Bước qua cửa hẹp là gột bỏ những rào cản khiến chúng ta không thể yêu thương tha nhân bằng sự tự hạ mà dâng hiến, bằng sự quên mình để phục vụ như Chúa Kitô đã yêu thương (x. Ga 13,34).
“Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc 12,32). Thiên Chúa yêu thương trao ban Hạnh Phúc Nước Trời cho con người. Như thế chúng ta có thể nói rằng để được vào Nước Trời, tức là để có được hạnh phúc đích thật thì chúng ta phải là con người. Vào qua cửa hẹp chính là sự nỗ lực gắng công từng ngày gột bỏ những gì khiến chúng ta không còn là con người hoặc làm chân dung con người nơi chúng ta bị biến dạng. Một vài điều cần gột bỏ đó là sự tự cao, tự đại cho mình toàn năng, toàn hảo hay toàn tri; đó là sự vụ lợi ích kỷ; đó cũng là những ý đồ thống trị tha nhân bằng sức mạnh của quyền lực, thế quyền và lẫn thần quyền, bằng các thể chế luật lệ phi nhân, bất hợp lý do chính mình dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của bản thân mình, tập thể của mình…
76. Cửa hẹp – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Chúa Nhật hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta con đường sống đạo là con đường khó khăn, phải leo dốc, phải qua “Cửa Hẹp.” Nhưng chúng ta cứ cố gắng và cầu nguyện rồi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả để tới đích điểm là quê hương thật Nước Trời.
Bài đọc I (Tiên tri Isaia 66:18-21): Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa sẽ hướng dẫn Dân Chúa đi theo đường lối Chúa và quy tụ thành một Dân của Chúa được sống trong một “Trời Mới và Đất Mới.” (Hình ảnh cuộc sống mới, cuộc sống hạnh phúc trên Nước Chúa). Bài Đọc II (Thơ Do Thái 12: 5-7,11-13): Chúa sửa dậy chúng ta qua những đau khổ chúng ta gặp trong suốt cuộc đời; chúng ta hãy vui vẽ chấp nhận mọi khổ đau hằng ngày để được đi theo Chúa; đồng thời cũng nâng đỡ lẫn nhau, cùng vác đỡ gánh nặng cho nhau để cùng bước đi trong cuộc Hành Trình Đức Tin hướng về quê hương thật Nước Trời. Bài Phúc Âm (Luca 13:22-30): Mọi người chúng ta “từ Đông sang Tây” đều được mời dự tiệc “Nước Chúa” nhưng chúng ta phải đi qua “Cửa Hẹp,” đó là sự cố gắng sống đức tin hằng ngày và chấp nhận những Thánh Giá trong cuộc sống.
Ai trong chúng ta cũng thích đi qua cửa rộng thênh thang; ai trong chúng ta cũng thích đi con đường bằng phẳng, chứ không ai thích đi con đường lên dốc. Nhưng Chúa bảo chúng ta muốn vào Nước Chúa ” Hãy qua Cửa Hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn Cửa Hẹp và đường chật thì đưa đến Sự Sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Matthêu 7:13-14).
“Cửa hẹp” để chỉ những khó khăn mà chúng ta phải trải qua, nếu chúng ta muốn theo Chúa đi về cuộc Sống Mới, cuộc sống vĩnh cữu. Có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải chấp nhận để theo Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống; vì thế Chúa bảo chúng ta “Nước Trời dành cho những ai biết nổ lực!” (Matthêu 11:12) và “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình đi, vác thánh giá hằng ngày mà theo tôi.” (Matthêu 16:24).
Thánh giá đầu tiên chúng ta phải vác là chính thân xác yếu hèn của chúng ta. Thân xác chúng ta luôn đòi hỏi những thỏa mãn nghịch với giới răn Chúa do tính ham danh, ham lợi, ham thú gây ra. Lòng ham hư danh đưa đến những tranh chấp địa vị và gây ra tị hiềm, thù hận. Tính ham mê tiền của sinh ra tham lam, gian lận. Ham mê thỏa mãn các dục vọng thể xác sinh ra những sa ngã đắm đuối. Muốn theo Chúa, chúng ta luôn phải vượt thắng những đòi hỏi đó của xác thịt để chu toàn các giới răn Chúa và sống xứng đáng các tín hữu, những người con tốt lành, thánh thiện của Chúa, như Chúa bảo “Hãy nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh.”
Ngày nay trong “thời buổi văn hóa sự chết,” người ta coi thường lề luật sống của Chúa; nhưng chúng ta, các tín hữu của Chúa, chúng ta phải can đảm đi ngược lại: nhất định không phá thai, không chủ trương tự do luyến ái, không chủ trương ly dị, không chấp nhận đồng tình luyến ái, không chấp nhận “nam lấy nam, nữ lấy nữ mà thành vợ chồng.”
Hơn nữa, nhiều khi vì quyết tâm sống theo lề luật Chúa qua sự giảng dạy của Giáo Hội mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh: phải mất việc, mất địa vị trong xã hội. Mới đây (Trong tháng 7/2010), Giáo Sư Kenneth Howell tại Đại Học Illinois đã bị đe dọa sa thải vì giảng dạy theo đúng đường lối của Giáo Hội. Đã có những bác sĩ, y tá mất việc vì nhất định không chịu cộng tác vào việc phá thai tại bệnh viện. Nhiều chính trị gia thất cử vì chủ trương bảo vệ giáo huấn của Giáo Hội. Đó là những hy sinh thật lớn lao, những “Cửa Hẹp” mà chúng ta phải đi qua, nếu chúng ta muốn là những tín hữu thật của Chúa.
Chấp nhận những hy sinh đó là chúng ta chấp nhận đi theo “Cửa Hẹp,” là chúng ta muốn sống như những tín hữu của Chúa, những con người luôn tôn trọng sự sống, tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng bản thân và giá trị thật của con người biết sống theo lý trí, chứ không chạy theo những trào lưu hỗn loạn của thời đại (2 Phêrô 3:3-10).
Cả cuộc đời, Mẹ Maria và các Thánh đều đã đi qua “Cửa Hẹp,” đã luôn sống theo thánh ý Chúa, chứ không sống theo thế gian, xác thịt, và ngày nay Mẹ và các Thánh đã được vinh hiễn trên Nước Trời.
Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn can đảm sống Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, dù vì thế mà phải hy sinh, nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống của mình, như các Thánh tử đạo xưa nay. Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau.
77. Phải chăng ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ?
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu rất hỏi nóng bỏng thường được đặt ra vào thời Chúa Giêsu và ngay cả ngày hôm nay.
Extra ecclesiam nulla salus?
Đối với những người Do thái, họ quan niệm rằng: Để được cứu độ, phải thuộc về đạo Do thái, nói tiếng Do thái và sống trên đất Do thái.
Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài giáo hội thì không có ơn cứu độ”(san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.
Trong hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.
Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (x 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ. Ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai.
Và tôi thấy đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về viễn tượng cánh chung trời mới đất mới của nhân loại, trong ngày đó Thiên Chúa quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ về với Người (x. Is 66,18-21). Và bài Tin mừng cũng xác nhận: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Vâng, ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, đó là niềm hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội.
Không phải “bao nhiêu”, nhưng “làm sao” để được cứu rỗi.
Nhưng nói như thế không có nghĩa là ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa thôi, nhưng để được cứu độ Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người. Thánh Augustino có một câu nói rất nỗi tiếng: “Để dựng nên con, thì Thiên Chúa không cần đến con, nhưng để cứu độ con, thì Thiên Chúa cần đến con”.
Đức Kitô hôm nay không trả lời bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua hẹp”. Người đang nói tới sự cộng tác của con người. Đó là nét dễ thương của Thiên Chúa chúng ta, Người không làm hết, không “bao sân” mà Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.
Muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ càng. Muốn chơi bóng rổ giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, gầy như sương mai thì phải “diet”. Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải “diet”, vì phải “qua của hẹp”! Mập thù lù làm sao mà vào được! (just kidding)
“Vào của hẹp” là nói NO với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng, nói NO với những cách kiếm tiền phi đạo đức và nhân bản. Nói NO với những thái độ tự cao tự đại, gây chia sẽ bè phái…
“Vào của hẹp” là nói YES với những giá trị của Tim mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân nhất những người nghèo khổ. Mẹ Terêxa Calcuta nói rằng: “Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng”.
“Vào cửa hẹp” là để cho Chúa “quở trách… sửa dạy…và đánh đòn” (Dt 12:5-6) mình khi chúng ta sai lỗi. Chúa thương mới cho “cho roi cho vọt” đó.
Và khi chúng ta nói Yes như thế với Chúa là chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó, thiên đàng đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen.
78. Cửa hẹp – Lm. Vũ Đình Tường
Rộng lớn có cửa biển. Nhỏ hơn nhắc đến cửa sông. Nhỏ hơn nữa là cửa giao thông hào. Cửa gắn liền với cuộc sống con người. Sống nhờ cửa miệng, thác kí cửa mồ. Đi lại, di chuyển có cửa xe. Mạnh khoẻ ra vào cửa nhà; đau ốm đến cửa bệnh viện. Việc đạo thăm cửa thánh đường, ăn chơi viếng cửa phòng trà. Các cửa lớn nhỏ trên chưa phải là cửa hẹp vì trừ cửa mồ ra thì các cửa đều dễ ra vào. Khi người mời ta. Khi ta mời người. Khi mình tự đến, khi được chở đến. Hôm nay Chúa nói đến cửa hẹp. Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu. Cửa hẹp không người canh giữ nhưng muốn vào phải chiến đấu. Chiến đấu có kẻ thắng, người thua. Không phải lúc nào cũng thắng nhưng nếu ngưng chiến đấu sẽ thua suốt đời. Vào qua cửa hẹp là có tất cả, bị loại ra là mất tất cả. Cửa hẹp ban sự sống vì thế ‘có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được’.
CANH CỬA
Cửa có lính canh ngày đêm như cửa nhà tù, cửa trại lính, cửa ngân hàng, cửa khách sạn sang trọng. Cửa có những giờ mời đón mọi người không phân biệt tuổi tác. Hoàn toàn tự do thích thì đến buồn thì đi như cửa nhà chùa, nhà thờ. Cửa có giờ giấc nhất định thông báo giờ mở, giờ đóng như cửa tiệm, văn phòng. Cửa lúc nào cũng then gài, khoá kĩ là cửa nhà, cửa di trú. Những cửa này chưa phải là cửa hẹp, đủ điều kiện là qua lọt. Vào cửa hẹp phải tranh đấu để vào.
LUẬT CỬA
Cửa nào cũng có những luật lệ phải giữ, hướng dẫn phải tuân theo và điều kiện phải hoàn hành. Luật trước khi vào cửa phải gọi điện thoại giữ chỗ như nhà hàng, khách sạn; luật phải theo sau khi vào cửa như đi coi văn nghệ, xem thể thao, đôi khi phải giữ luật ngay cả khi đã về nhà chẳng hạn như làm điều bác sĩ dặn phải thực hành khi xuất viện. Vào cửa tiệm có luật trong tiệm; vào xe có luật trong xe. Nhà hàng có luật nhà hàng; tư gia có luật gia đình. Nói đến cửa là nói đến những điều kiện dán trên cánh cửa hay luật lệ sau cánh cửa đó.
LUẬT CỬA HẸP
Cửa hẹp có những luật buộc phải theo. Tuy là cửa hẹp nhưng luật của cửa này lại không hẹp. Ảnh hưởng của nó lớn lao, bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống cá nhân và tha nhân.
Luật cửa hẹp đơn giản, ngắn gọn và thực tế. Vì luật đơn giản nên người ta coi thường. Vì coi thường nên dễ phạm luật. Vì dễ phạm nên luật đơn giản lại khó hoàn thành càng đơn giản càng khó giữ.
Luật ngắn gọn giữ cả đời cũng không xong. Luật ngắn gọn nên dễ nhớ. Nhờ dễ nhớ nên khi phạm luật là nhận ra ngay, biết sai lầm, phạm luật.
Luật cửa hẹp thực tế đến độ nó gắn liền với cuộc sống, khi thức làm việc cũng như khi nghỉ xả hơi và ngay cả khi ngủ. Ở đâu, nói gì làm gì cũng thấy luật thật gần, hữu dụng.
Cửa hẹp rất hẹp nhưng kiểm soát thế nào cũng có sơ sót, lầm lỗi vẫn nhiều, sơ sẩy vẫn lắm. Cửa rất gần nhưng rất khó kiểm soát, canh chừng. Cửa rất gần nhưng tiếng vang lại xa. Cửa hẹp nhưng ảnh hưởng của cửa rộng lớn.
CHIẾN ĐẤU
Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu mà vào, phải cố gắng vận dụng khả năng riêng để vào. Không thể vào cửa hẹp bằng tìm cách luồn lọt, hối lộ, nịnh bợ hay bằng mánh khoé giảo hoạt, tính toán. Phúc Âm nói rõ
‘hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào’.
Phúc Âm không nói rõ chiến đấu với ai, hay chiến đấu với thứ gì để vào được cửa hẹp.
CỬA MIỆNG
Cửa hẹp đây không gì khác hơn chính là cửa miệng con người. Muốn vào cửa hẹp việc đầu tiên cần phải làm là kiểm soát cửa miệng. Rõ ràng cửa miệng không có người canh giữ thì không thể chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính mình. Thất bại kiểm soát cửa này sẽ đóng các cửa ta muốn vào và bắt ta vào cửa ta không muốn đến.
Như đã phân tích ở trên cửa này hẹp, rất gần với ta nhưng lại cũng rất khó kiểm soát. Không kiểm soát, ăn bậy dẫn đến cửa bệnh viện; hút bậy dẫn đến tàn gia bại sản; uống bậy dẫn đến rượu vào lời ra; nói bậy dẫn đến gây gỗ, cãi vã: nhẹ thì tức giận, nặng thì bè phái, hằn thù. Người ta không thể mánh lới, gian dối, luồn cúi với chính mình. Điều có thể làm được, cần làm là phấn đấu với chính mình. Phúc Âm ghi rõ
‘hãy chiến đấu để qua cửa hẹp’.
Để điều khiển được cuộc sống trước hết phải phấn đấu với chính cửa miệng, kiểm soát cửa miệng, miếng ăn, lời nói. Động lực bên trong thúc đẩy không ai rõ nhưng lời nói ra từ cửa miệng ảnh hưởng đến cuộc sống. Lời nói khôn mang phước lộc, lời nói khờ nhận tiếng cười chê, lời nói dại giết tình bạn, gây tình thù, hiềm khích.
Phương thể duy nhất lọt qua cửa hẹp là phấn đấu, điều khiển cửa khẩu. Chiến đấu với cửa này chính là chiến đấu với chính mình, với cá nhân, bản thân, cá tính, phương cách sống, lề lối suy nghĩ và ngay cả đức tin. Thắng được cửa miệng là thắng được chính mình. Làm chủ được mình đáng hưởng sự sống đời đời.
79. Hãy qua cửa hẹp mà vào – Huệ Minh
Bình thường trong cuộc sống, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.
Câu hỏi mà một người vô danh đặt ra cho Chúa Giêsu đang khi Ngài trên đường lên Giêrusalem, đó cũng là câu hỏi thông thường nơi các trường phái của các vị thông luật thời Chúa Giêsu, và là câu hỏi như muốn giới hạn số lượng những người vào Nước Chúa: “Thưa Thầy, phải chăng ít người được cứu thoát?”
Để ý trong câu trả lời, Chúa Giêsu không nhằm đến số lượng nhưng là hướng tới một bình diện khác, tức là phẩm chất của những kẻ muốn vào Nước Chúa: họ phải qua cửa hẹp và cố gắng vào đúng lúc, khi còn thời giờ thuận tiện, đừng cậy dựa vào những liên hệ hời hợt bên ngoài với Chúa. Ơn cứu rỗi được Thiên Chúa trao ban cho mọi người: những kẻ trong dân Chúa chọn và cả những kẻ ở ngoài, bởi vì Chúa Giêsu đã đến để dẹp bỏ mọi hàng rào ngăn cách, thiên hạ sẽ từ đông, tây, nam, bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa.
Ðặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi không được hiểu theo phạm trù số lượng, nghĩa là không phải mọi người tự động đều được cứu rỗi. Sự cộng tác từ phía con người là điều cần thiết. “Hãy vào qua cửa hẹp”, hẹp, vì nó đòi con người phải từ bỏ nhiều.
Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả như bao nhiêu người khác… Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn, có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.
Nhiều người Kitô hữu chúng ta cũng có thể hành xử như vậy: vừa muốn vào Nước Chúa, vừa muốn giữ lấy mọi thứ không phù hợp với Nước Chúa; muốn vào Nước Chúa, nhưng lại không thực hành giáo huấn của Ngài, không canh tân đời sống của mình.
Ngày nay, nhiều người bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc cho những tư nhân để sử dụng vào việc khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc không còn đức tin trên cõi đời ô trọc này nữa.
Dù là thế, ta đừng quá bi quan bởi lẽ tất cả là việc của Chúa. Trái lại, hãy lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7, 14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưngchiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được.
Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng nề của đam mê, xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì sợ hãi không dám dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác, vì cái tôi, vì hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được nước trời hay không là do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề không phải là đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ chính mình, tức là phải từ bỏ những gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng không đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.
Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì Chúa sẽ bảo: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ và “Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.”
Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ đạo… chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.
Xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ những gì không cần thiết, nhất là những gì mất lòng Chúa, để chúng ta có thể bước qua cửa hẹp trở về Nhà Chúa.
80. Cứ cửa hẹp mà đi để vào – Huệ Minh
Ở đời, người ta vẫn thường nói với nhau: “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng nhiều tiền!”
Dù muốn dù không thì cái thực tế ê chề này nó vẫn đúng bởi đơn giản con người dù mạnh, dù lớn, dù khỏe cỡ nào đi chăng nữa cũng khó đứng vững trước sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền không chỉ mua được nhiều thứ mà nó có một sức mạnh có thể phá tất cả các cửa mà người ta muốn vào.
Là người dân, ta vẫn thường quen với các thủ tục hành chính mà người ta cũng hay đùa “hành là chính”. Đúng như vậy, để có một tờ giấy nào đó thì người dân phải đi qua các cửa. Là một bệnh nhân, khá kinh nghiệm về chuyện qua các cửa. Nếu vào các bệnh viện hay các cơ quan mà không quen biết hay không có tiền thì sẽ chậm chạp biết là dường nào. Khi đó, muốn qua các cửa dù hẹp cỡ nào đi chăng nữa thì chỉ cần xì tiền ra là có thể qua được hết.
Đời là như vậy, xã hội trần thế là như vậy nhưng Thiên Đàng, Nước Trời lại là khác. Cửa vào Thiên Đàng như Chúa Giêsu nói ngày hôm nay muốn vào thì phải qua cửa hẹp. Cửa ở trần gian có thể mua bằng quyền, bằng tiền hay người ta gọi là nhất thân nhì thế nhưng cửa Thiên Đàng thì đừng trông mong. Dù có tiền, dù có quyền đi chăng nữa cũng không thể nào qua được. Cửa này phải qua bằng nẻo đường duy nhất là tự lực cánh sinh của mỗi người và như Chúa nói cửa hẹp nên phải phấn đấu để mà vào. Phấn đấu này, chiến đấu này không phải chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính bản thân mình.
Và, người ta cũng thường hay nói chiến thắng ai cũng được, chiến thắng cái bên ngoài thì dễ nhưng chiến thắng chính bản thân của mình không phải là chuyện đơn giản. Tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Muốn tề gia thì phải tề chính cái bản thân của mình trước đã.
Với thao thức được cứu độ, ta thấy có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Phải nói rằng ta phải thán phục người này bởi lẽ người này vẫn có một nỗi lòng canh cánh về ơn cứu độ.
Nhìn lại xã hội, tôn giáo thời Chúa Giêsu, ta vẫn thấy man mác một cảm thức tôn giáo, một tâm thức được cứu độ. Chính vì lẽ đó nên người ta mới hỏi Chúa Giêsu.
Ngày hôm nay, thật tình mà nói, cảm thức về tôn giáo, cảm thức về ơn cứu độ dường như nó nhạt nhòa ngay trong chính những người có đạo và thậm chí lãnh đạo tôn giáo nữa. Nói ra xem có vẻ đụng chạm nhưng trong thực tế thì không thể nào phủ nhận được một sự thật phũ phàng như thế này.
Giữa một thế giới vật chất là hàng đầu, hưởng thụ là hàng thứ nhất thì xem ra ơn cứu độ bị nhạt nhòa, xem nhẹ và thậm chí chẳng cần quan tâm.
Có một thực tế nói ra có thể đụng chạm nhưng cũng phải nói rằng đó là khi nhìn vào những gia đình giàu có, gia đình có địa vị một chút thì các đấng các bậc thường xuyên lui tới hơn. Và, kèm theo đó là những bữa tiệc xem ra hoành tráng và chúc tụng nhau. Còn những người nghèo thì dường như gia đình của họ chẳng bao giờ thấy bóng dáng của một vị mục tử, của các đấng các bậc trong Giáo Hội.
Nhiều gia đình khá giả không ngần ngại khoe những tấm hình lẽ ra không cần khoe về những tấm hình chung với những bậc vị vọng, có khi những tấm hình đó được ghi lại nơi những bàn tiệc sang trọng.
Dù muốn dù không, dù lấp liếm, dù che đậy nhưng các đấng khó có thể trả lời được sự hiện diện của mình nơi những gia đìng giàu có.
Tôi đã từng chứng kiến một người phụ nữ tạm gọi là quyền lực, bà có số tất cả các đấng các bậc và có thể gọi bất cứ lúc nào ngay trong khi các linh mục muốn gặp hay phone cho các vị chủ chăn còn e ngại! Vì sao mà lại lộng như vậy? Không cần nói nhiều thì ai ai cũng biết nguyên nhân là vì sao?
Và, chính các vị chủ chăn làm luật đã đạp lên luật khi giỗ của mẹ một vị nhà giàu có đến 8 giám mục và ngoài 100 linh mục! Trong khi đó, đau đớn lòng mà nói những người nghèo thì đừng có mơ thấy hình dáng của các đấng.
Có người tự hào rằng quen gần hết các đấng trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Có người tự hào khoe rằng thích mời cha nào là cha đó phải đến nhà!!!??? Sự hiện diện như vậy dựa vào lý do nào ắt hẳn mọi người đã hiểu vì thật dễ hiểu. Nhà nghèo như nhà của tôi thì dù có nằm mơ 3 giấc cũng không thấy bóng dáng sự hiện diện của các đấng.
Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng nhà nào có các đấng hay đến, lễ nào các đấng đồng tế đông là người thân của mình sẽ được phần phước như người đời thường nghĩ. Nhưng không, trước mặt Chúa là phải vào cái cửa hẹp mới được vào chứ không phải chuyện là chết xong nhiều cha đồng tế là lên thiên đàng.
Nhiều người đã bé cái lầm khi nhìn và suy nghĩ rằng cửa thiên đàng sẽ rộng mở cho những người có quyền và có tiền. Người đời thì nghĩ vậy nhưng điều kiện vào Nước Trời của Chúa lại chính là sự hãm mình, là sự khổ chế bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá.
Ngày hôm nay, người ta tục hóa đời tu, tục hóa tôn giáo để rồi cảm thức vào Thiên Đàng, cảm thức ơn cứu độ không còn nữa. Chính vì xem thường giá trị cứu độ nên rồi người ta ầu ơ ví dầu với việc đạo nghĩa, với việc tham dự Thánh Lễ, các bí tích.
Còn nhớ thời bao cấp, thời khó khăn thì nhiều nơi như Kỳ Đồng, Bình Triệu, Đền Thánh Martino Ba Chuông … tấp nập người đến đó để học giáo lý, để tìm hiểu, bồi đắp thêm kiến thức và bồi bổ đức tin. Nhưng rồi, dường như thời buổi kinh tế khá ổn người ta không bận tâm đến Giáo Lý, đến đức tin nữa. Có chăng đến những nơi đó để xin xỏ mà thôi.
Ngày hôm nay, người ta không còn cảm thức đức tin để không còn phấn đấu để bước vào cửa hẹp nữa. Chính vì đi theo chủ nghĩa tương đối cũng như lý luận rằng sao cũng được để rồi người ta không còn thao thức, không còn bận tâm cửa hẹp nữa.
Đó là quan niệm chung chung, đó là quan niệm tự do của mỗi người nhưng chúng ta nên chăng nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với chúng ta: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì?”. Câu nói đó dường như vẫn còn đâu đó văng vẳng bên tai của ta để nhắc nhớ ta rằng khi ta nằm xuống cuộc đời ta chẳng còn gì cả, còn chăng là ơn cứu độ, còn chăng là Nước Trời mà ta phải phấn đấu để bước vào.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay nhắc nhớ phận người chúng ta và đặc biệt nhắc nhớ thái độ sống, tâm tình sống của chúng ta trước ngưỡng cửa Thiên Đàng. Thiên Chúa vẫn mở ngỏ, Thiên Chúa vẫn để cho ta tự do bước vào hay không và ta nên nhớ cửa vào vẫn là cửa hẹp.
Nhớ lại hình ảnh của các cửa trong Kinh Thành Cố Đô Huế, ta thấy các cửa đều hẹp để rồi ai muốn qua đó mà trước giờ đóng cửa hay sát giờ đóng cửa thì mọi người phải chạy và tranh thủ ép mình để được vào bởi cánh cửa rất hẹp. Muốn qua đó, con người phải bỏ lại những thứ cồng kềnh bên mình.
Cũng vậy, muốn vào Thiên Đàng, ta phải thao thức, phải có tâm thức hướng lòng về Thiên Đàng để rồi từ đó ta vất bỏ cái tôi nặng nề của ta, cái lòng hận thù, tham sân si của ta. Khi và chỉ khi tâm hồn ta thanh thoát, nhẹ nhõm thì ta mới có thể bước vào và qua cửa hẹp như Chúa mời gọi mà thôi.
Và rồi nhìn lại mình, ta vẫn thấy ta là con người mỏng dòn và yếu đuối, ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta nhất là ơn can đảm để ta từ bỏ những gì vướng víu ạnh ta như cái tôi, cái tính nóng nảy, cái tính ương ương dở dở của ta để ta thanh thoát bước vào cửa hẹp và vào Thiên Đàng như Chúa mời gọi.
81. Phấn đấu qua cửa hẹp – Huệ Minh
Tin mừng Lc 13: 22-30: Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Có những người sau hết sẽ nên trước hết. Câu Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta biết giá trị của sự kiên trì như lời Chúa cũng đã bảo: Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát. Trong phạm vi xã hội người ta thường nói: Đầu xuôi đuôi lọt. Nhưng trên phạm vi cứu rỗi thì không như vậy, bởi vì kẻ gọi thì nhiều người chọn thì ít.
Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết là con đường dẫn tới sự sống đích thực và vĩnh cửu là con đường: “Vào qua cửa hẹp”. Và ai biết tìm kiếm và chiến đấu để vào qua cửa hẹp thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đó là điều Chúa Giêsu quả quyết cho tất cả chúng ta. Vấn đề không phải là có bao nhiêu người được cứu độ vì “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”; cũng không phải là chuyện ai được tiền định để hưởng sự sống đòi đời “Không phải gọi Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu”! Nhưng vấn đề là làm sao tìm thấy “con đường hẹp” và “vào qua cửa hẹp” cách anh hùng và trung tín.
“Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Đó là lời nhắn nhủ của Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Vào thời Đức Giêsu, những lời này là một thách đố đối với người Do Thái. Vì họ luôn tin rằng, họ sẽ có phần trong thời đại sắp đến, trong bàn tiệc Nước Trời, bởi vì họ là dân đặc tuyển, được ưu tiên. Đức Giêsu đã loại trừ quan niệm đặc tuyển này. Điều quan trọng là họ có thực hiện những lời Người dạy dỗ hay không.
Đời sống kitô hữu là một hành trình thiêng liêng đi qua cửa hẹp. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến nỗ lực, nhiều nỗ lực để có thể vượt qua cánh cửa hẹp. Để có được một đời sống hạnh phúc, một gia đình tốt đẹp… chúng ta cần đi qua “cửa hẹp”, cần nhiều nỗ lực, cần hy sinh, cần chiến đấu, “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Tôi”.
Nhưng cánh cửa hẹp này chỉ được mở từ bên trong, vào một lúc nào đó. Chỉ một mình Thiên Chúa mới quyết định mở và mở lúc nào, tức là Người quyết định tất cả. Thiên Chúa mở cánh cửa hẹp, bởi vì cánh cửa tâm hồn chúng ta còn hẹp. Để đi vào vương quốc Tình yêu, chúng ta cần loại bỏ sự hẹp hòi, kiêu ngạo, những gì chống đối lại tình yêu. Nói khác, cánh cửa tâm hồn chúng ta có rộng mở thì cánh cửa vương quốc Tình Yêu mới rộng mở. Đó là lý do tại sao lối vào vương quốc của Thiên Chúa đòi cố gắng và hy sinh.
Khi Đức Giêsu lên tiếng mời gọi bước qua cửa hẹp, ấy là Ngài muốn mời gọi người đương thời phải từ bỏ những thứ không cần thiết và sẵn lòng bước qua cửa hẹp. Lời mời gọi ấy chính là biết sống chừng mực, thực thi huấn lệnh của Thiên Chúa cách trung thành và biết hy sinh cũng như chấp nhận mọi khó khăn… phải sống tự chủ và sống có trách nhiệm.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ và những người thời bấy giờ: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Ngài bảo thế và Ngài đã làm gương. Ngài đã đi qua cửa hẹp của con đường Thập Giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự vâng phục, vâng phục đến hy sinh mạng sống. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự nhục nhã, bị người đời khinh chê. Ngài đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng để đem sự sống đến cho con người. Vì yêu thương mà Ngài đã kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại để chiến thắng. Mặc dù là Con Thiên Chúa, Ngài không ỷ lại, không tự hào, nhưng với tất cả sự khiêm nhường và nhẫn nhục, mang lại chiến thắng, chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Chính vì thế Ngài kêu gọi mọi người đi trên con đường chiến thắng đó.
Trong mọi thời đại loài người luôn đi tìm con đường sự sống. Biết bao người đã nhìn thấy được con đường nhưng họ vẫn đi tìm, vì con đường mà họ hìn thấy không đúng như họ mong muốn, nên họ cứ mãi đi tìm, để rối đành ôm nỗi hận trong sự thất bại. Rất nhiều người không muốn đi trên con đường mà họ đã có được chiếc chìa khóa trên tay, họ không muốn mở cửa con đường, vì họ không muốn bước vào: nó chật hẹp quá, nó khó khăn quá và nhiều lúc không biết con đường đi đến đâu mới đạt được mục đích. Chiếc chìa khóa họ có trong tay trở nên vô dụng, vì không giúp gì được cho họ. Họ cũng đành ôm nỗi thất bại trong cuộc đua về đích.
Tuy nhiên, không phải dửng dưng và nghĩ rằng: muốn vào lúc nào thì vào, không! Phải bước vào đúng lúc, đúng nơi, đúng giờ, vì: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” (Lc 13,25).
Như vậy, lời mời gọi phấn đấu để vào qua cửa hẹp, ấy chính là sự hoán cải thường xuyên.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa và đòi vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy. Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm… Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì Chúa sẽ bảo: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ và “Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.”