Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Is. 35,4-7a; Gc. 2,1-5; Mc 7,31-37
MỤC LỤC
- Nói được rõ ràng.
- Hãy mở ra.
- Hãy mở ra.
- Bệnh tật
- Hãy mở ra.
- Người làm mọi sự tốt đẹp.
- Ôi! đẹp thay bao việc Chúa làm..
- Hãy mở lòng ra!
- Người chữa họ khỏi câm điếc.
- Hãy mở ra.
- Câm và điếc.
- Câm và điếc.
- Để Thiên Chúa can thiệp vào đời mình.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Thiên Chúa vẫn ở bên tôi
- Bệnh câm điếc thời đại
- Hãy mở lòng ra.
- Chữa người câm điếc.
- Giải thoát
- Hãy mở ra.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Lắng nghe.
- Cho người điếc được nghe.
- Sự sống thiêng liêng.
- Vì không biết nghe.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Điếc và ngọng.
- Nghe và nói được rõ ràng.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Ephata! Hãy mở ra.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Hãy cao rao tình yêu Thiên Chúa.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Câm điếc tâm linh.
- Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Hãy mở ra!
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Ephata – Hãy mở ra.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Giêsu chữa người câm điếc.
- Cái chạm đến của Thiên Chúa.
- Ephata: Hãy mở ra.
- Lắng nghe.
- Hãy mở ra.
- Câm điếc.
- Câm và điếc.
- Phép lạ.
- Câm điếc.
- Câm điếc.
- Các phép lạ của Chúa Giêsu.
- Tặng vật
- Tin Mừng.
- Sự phân biệt
- Mê tín.
- Lưỡi và tai
- Thích điếc, muốn ngọng.
- Chúa Giêsu hành động hôm nay.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Niềm vui Nước Thiên Chúa.
- Câm điếc tâm linh.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Người đạo đức.
- Quyền năng Thiên Chúa.
- “Ép-pha-tha”: Hãy mở ra!
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Hãy mở ra!
- Hãy mở ra!
- Chữa thói câm điếc làm ngơ!
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Hãy để Chúa chạm đến ta.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Xin cho được nghe và nói
- Chúa Nhật 23 Thường Niên.
- Xin Chúa chữa lành.
- Lạy Chúa Trời xin mở miệng con.
*********************************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật, ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù, hơn các em bị câm điếc. Thật khó làm cho các em câm điếc, hiểu được chúng ta, và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả. Đôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc. Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày, khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu. Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc. Đức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh, và sợi dây đó được tháo cỡi. Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta. Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh… Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ… Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại. Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Ép-pha-tha, xin hãy mở miệng con để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình, hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ. Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi, thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai. Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình mà máy đột nhiên mất tiếng. Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai, nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này, nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hay lắm khi nghe điều người khác nói nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình. Như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói. Nghe bằng tai, không đủ. Cần lắng nghe bằng cả trái tim. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Ép-pha-tha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi, ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc, để nghe được cái tôi của anh em. Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại, vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình. Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em, đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Khi gặp một người bạn khép kín, cô độc, bạn làm gì để có thể đến gần và làm quen với người bạn đó?
– Lắng nghe Thiên Chúa, lắng nghe tha nhân, bạn thấy điều nào khó hơn? Bạn nghĩ gì về khả năng lắng nghe của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công. Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đày.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.
Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Hãy kể ra những thứ ngọng và nói lý do của những thứ ngọng đó.
2. Hãy kể ra những thứ điếc và nói lý do của những thứ điếc đó.
3. Khi gặp người khác bạn thích nói hay thích nghe. Hoặc bạn không muốn nói cũng chẳng muốn nghe?
4. Lắng nghe có dễ không? Bạn có để ý lắng nghe Chúa và nghe nhau không?
5. Nói những điều tốt đẹp rất có ích lợi. Bạn đã có kinh nghiệm gì về điều này chưa?
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)
“Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được”
Có nhiều khi tôi tự hỏi: Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao? Tôi lại nghĩ: Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Đến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Để tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Đồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn ngữ là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người phụ nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một phụ nữ khác nhập viện nằm gần chị. Người phụ nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người phụ nữ mới vào sau nói với chị “Này Chị ơi! Chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc chị”. Câu ấy làm cho chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:
“Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Đôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của chị sẽ phong phú hơn.”
Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra”.
Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Đức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Đồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Đây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa” và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói: Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Việt ngữ thật thú vị: Bệnh Tật. Bệnh thì có Tật, và có thể thành Tật – đôi khi cái tật “mệt” hơn cái bệnh. Đau đâu khốn đấy. Khổ lắm! Thế nên tiền nhân xác định: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Sống vui vẻ là lối sống lành mạnh, ít phải sử dụng thuốc men hoặc phải “hỏi thăm” thầy thuốc. Điều đó cũng có nghĩa là những người khó tính, nóng nảy, hay hờn giận, thường là những người dễ bị bệnh. Đúng vậy, “Ăn được, ngủ được là tiên – Không ăn, không ngủ, mất tiền, đâm lo”. Sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể lý luôn có liên quan lẫn nhau. Có thể nói đây là một chân lý bất biến: “To vòng bụng, ngắn vòng đời”. Người ta bảo rằng “phát tướng thì phát tài”, thật ra lại là “phát tướng thì… phát tang”.
Thiên Chúa đã tạo dựng các cơ phận rất hợp lý (2 mắt, 2 tai, 2 tay, 2 chân,… 1 đầu, 1 miệng, 1 tim), chắc chắn không phần nào thiếu hoặc thừa, ngay cả “ruột thừa” (appendix) cũng vẫn không thừa, bởi vì nó có một số tác dụng miễn dịch quan trọng và một số tác dụng khác – phát triển cả bào thai và người lớn.
Bất cứ cơ phận nào khác thường thì sẽ khổ lắm. Chỉ là nhức răng thôi mà nhiều người đã phải khóc như cha mẹ chết. “Cái răng, cái tóc là gốc con người”, đúng vậy! Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nó chỉ mờ thôi đã khổ rồi, huống chi nó cứ “khép chặt” thì… ôi thôi, khổ biết chừng nào! Thế nên phải tìm cách “mở” nó ra. Y học và khoa học tìm đủ cách mà nhiều người vẫn chưa thỏa ước nguyện là được nhìn đời. Mù lòa mắt thể lý là khổ, mù lòa mắt tâm linh còn khổ hơn. Thế nên cần phải cầu xin Thiên Chúa để Ngài phán một lời chữa lành: “Effatha! Ép-pha-tha! Εφφαθα! Hãy mở ra!”.
Thế nhưng “mở ra” cũng có nhiều mức độ, không chỉ đơn giản là “không đóng, không khép”. Mở thế nào: Mở toang hay mở hé? Động từ “mở ra” thường được nghĩ ngay tới mở một vật gì đó – theo nghĩa đen. Nhưng “mở ra” cũng có nghĩa bóng, tức là “mở lòng ra”, đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu, nghĩa là phải sống cởi mở và yêu thương. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều có những thứ “dễ mở” và “khó mở”, đôi khi có thể “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Vấn đề là chỗ đó!
Cũng cần can đảm và quyết tâm khi “mở ra”. Thế nên ngày xưa, ngôn sứ Isaia khuyên những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35:4). Đó là Giờ Cứu Độ, Ngày Công Lý, (cũng có thể) là ngày Đức Kitô giáng lâm, vì thời đại chúng ta đang sống là Thời Cánh Chung. Thời giờ cứu độ là lúc “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Lúc đó sẽ “có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu; miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra; trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên” (Is 35:6b-7). Mọi sự trở nên mới, hoàn toàn thay đổi, và thật là hạnh phúc cho những ai vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13; Lc 21:19).
Tận thế ư? Xa hay gần? Chắc chắn “ngày tận thế” ai cũng chứng kiến là lúc mình chết, lúc chúng ta trút hơi thở cuối cùng để giã biệt thế gian. Đó là “giờ cánh chung” của mỗi cuộc đời chúng ta. Còn ngày tận cùng của thế gian này chẳng ai biết lúc nào, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mt 24:36; Mc 13:32).
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, kể cả những điều chúng ta chưa nghĩ tới, Ngài chí minh và chí thiện: “Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Không chỉ vậy, Ngài còn “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà; cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên; và yêu chuộng những người công chính” (Tv 146:7b-8). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nhưng cũng nhất mực công bình, Ngài “phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:9). Và chỉ có Ngài mới là người duy nhất nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị đời đời. Ngài là Thiên Chúa của hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13:8).
Ngài toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người “bó tay”. Ngài “mở” được mọi thứ, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Thậm chí những tấm lòng chai đá nhất, những “cửa lòng” khó mở nhất hoặc hầu như “không thể mở ra”, thế mà Ngài vẫn khả dĩ thâm nhập và “mở” được: Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna (bị 7 quỷ kiềm chế), Augustinô,… Vì thế, chúng ta càng phải cần nhớ đến Ngài, kêu van Ngài xót thương và gìn giữ chúng ta từng giây phút, qua từng hơi thở, bởi vì không có Ngài thì chúng ta chẳng làm gì được (Ga 15:5).
Thật chí lý với lời khuyên của Thánh Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2:1). Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Không thiên tư, không thiên vị là thế nào? Đó là không phân biệt đối xử: Không coi trọng người giàu mà khinh chê người nghèo, không qụy lụy người chức quyền mà áp bức người cô thân yếu thế, không nịnh người tâng bốc mà ghét người trực tính,… Đó là cách sống công bình, là cách thể hiện công lý, và đó mới là cách sống mà Thiên Chúa mong muốn nơi mỗi chúng ta.
Và không hề úp mở hoặc bóng gió, Thánh Giacôbê nói thẳng luôn: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này’, còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc: ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc 2:2-4). Tình trạng này rất thường thấy, giống như một định dạng phân biệt hoặc kỳ thị mặc nhiên vậy.
Thật thế chứ chẳng oan ức chi, có thể chúng ta không hề nói ra bằng lời nhưng động thái, ánh mắt và cử chỉ của chúng ta lại “tố cáo” chúng ta “kỳ thị” và “xét đoán” người khác, thế mà chúng ta vẫn tự nhận là đang sống đức công bình. Cái loại “tưởng” như vậy rất nguy hiểm, nếu không chấn chỉnh thì không yên thân với Chúa đâu đấy!
Cuộc sống luôn có những vấn đề nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà khó xử lý. Có bao giờ chúng ta động lòng trắc ẩn với một người nghèo đứng bơ vơ ở một góc đường? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho những người bị tai nạn khi nghe người khác nói, khi thấy trên ti-vi hoặc trên internet? Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho một người qua đời khi chúng ta đi trên đường và thấy đám tang, dù người đó thuộc tôn giáo khác? Có bao giờ chúng ta nghĩ về món nợ mình phải trả cho những người nghèo khó và đau khổ hơn mình? Đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, chúng ta có cầu nguyện cho quê hương Việt Nam? Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa truyền lệnh: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Đức ái quá lớn lao. Và món nợ này chúng ta phải trả cho đến hơi thở cuối cùng. Ai thanh toán xong đồng-xu-yêu-thương-cuối-cùng đó thì mới được vào Nước Trời. Chúa Giêsu nói thật chứ chẳng đùa đâu, vì Thiên Chúa rất mực công bình và chính trực. Chắc chắn là phải “hai năm rõ mười”. Vấn đề thực sự đáng quan ngại!
Và rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5). Chắc chắn như vậy! Chàng trai Phanxicô ở thành Assisi đã sống đúng nghĩa đen của chữ nghèo theo Tin Mừng nên được mệnh danh là “Phanxicô nghèo khó”, thế nên mới được làm “công dân Nước Trời”.
Thế nhưng trong thực tế của cuộc sống đời thường, ai nghèo đều bị khinh và bị người khác “không thèm ngó”, thậm chí còn bị mỉa mai là “bộ mặt hãm tài”. Trong một nhóm người, một hội đoàn hoặc một giáo xứ, chúng ta thấy rõ ai có “máu mặt” đều được bề trên “lưu ý” người ta “chăm chút”, được đề cao, được “yêu quý”, được “lưu ý”, được “săn đón”, được mời chào, được “hỏi thăm”, được tiếp đón nồng hậu,… Xin lễ hoặc xin khấn cũng có loại “giá” riêng. Nếu theo kiểu cầu nguyện như thế thì người giàu được cầu nguyện nhiều, và dễ lên thiên đàng, còn người nghèo thì đừng hòng nhìn thấy cổng thiên đàng, vì không có tiền thì chẳng ai cầu nguyện cho, do đó mà “đi chỗ khác chơi”. Việc “yêu người như chính mình” hoặc “thương người nghèo” chỉ là… nói cho vui thôi! Người có quyền và có tiền thì trở thành người có “thế” (vị trí và giá trị). Vì vậy, người Việt thường nói: “Miệng nhà giàu có gang, có thép”, họ có nói sai hoặc làm sai cũng thành đúng “tất tần tật”, hoặc như kiểu nói khác: “Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”. Sự thật minh nhiên: Có tiền được gọi là “ông”, không có tiền bị gọi là “thằng”. Và người ta thường thở dài não nuột: “Đời là thế!”. Thế thì buồn thật!
Theo lời kể của Thánh sử Mác-cô, hôm đó Đức Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài và xin Ngài đặt tay trên anh. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Chúa Giêsu đúng là “siêu bác sĩ”, là “thần y”, bởi vì Ngài chữa bệnh mà không hề dùng thuốc men gì – không thuốc Tây, không thuốc Nam hoặc thuốc Bắc, mà chữa bệnh bằng… nước miếng. Không chỉ lạ mà hay quá là hay, đặc biệt là có hiệu quả hơn bất cứ loại thuốc nào khác trên đời. Ôi chao, đúng là trên cả tuyệt vời!
Thật vậy, sau khi “nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi bệnh nhân”, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha, hãy mở ra!” (Mc 7:34). Thánh sử Mác-cô cho chúng ta biết một “chi tiết lạ” là Chúa Giêsu RÊN một tiếng. Và rồi lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Chỉ cần bôi nước miếng mà bệnh nhân hết điếc và hết ngọng, anh ta nói được rõ ràng. Sư phụ Giêsu tài quá, độc chiêu quá, tuyệt vời quá! Phàm ngôn không có từ ngữ để mô tả một cách trọn vẹn nhất.
Chắc chắn không ai có thể làm được như Ngài, thế nhưng Chúa Giêsu không khoe khoang, không khoác lác, không “nổ” chút nào, mà Ngài bắt người ta không được kể chuyện đó với ai. Ngài càng cấm thì họ càng đồn ra. Tiếng lành đồn xa là vậy, và đó là chuyện tất yếu thôi. Ôi, điều kỳ diệu thế làm sao im lặng được, làm sao mà cấm nổi? Không bàn tán xôn xao sao được vì ai cũng hết sức kinh ngạc và khâm phục: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7:37). Có ai thấy “siêu bác sĩ” mà không bàn tán chứ? Chắc chắn không thể im lặng được! Và thế là “siêu bác sĩ” Giêsu nổi như cồn, trở thành “siêu sao” ngay lập tức. Tuyệt vời quá chừng! Giả sử chúng ta là các tông đồ thấy Sư phụ như vậy thì chúng ta “lên nước” và “nổ banh trời” chứ chẳng chơi. Thế nhưng không thấy Kinh Thánh nói gì về các môn đệ, chắc là họ đã thấm thía bài học khiêm nhường mà Thầy Giêsu đã dạy.
Thông thường thì chứng câm đi đôi với chứng điếc, gọi là câm điếc – có lẽ liên quan dây âm thanh, việc phát âm và lắng nghe không thể tách rời chăng? Đó là chứng câm điếc thể lý, còn về tâm linh, chúng ta cũng có những lúc bị “bệnh câm điếc”. Triệu chứng thế nào? CÂM là không muốn nói về Chúa, không nói lời tốt, thấy sai mà không dám nói; còn ĐIẾC là không chịu nghe Lời Chúa, không nghe lời khuyên, cố chấp. Chứng câm điếc tinh thần thật là đáng sợ lắm. Càng đáng sợ hơn khi không nhận biết mình bị câm điếc hoặc không chịu “mở ra”. Cần lắm sự tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan, đặc biệt là ơn Chúa!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, mọi cửa đời của chúng con vẫn khép chặt và khóa bằng ổ khóa ích kỷ, xin thương mở cửa đời đầy “gỉ sét tội lỗi” của chúng con để chúng con mở đời và thoát khỏi chứng câm điếc, xin chữa lành bệnh đời và tật đời của chúng con, xin giúp chúng con tuyên xưng Thánh Danh Ngài và kiên tâm chờ đợi Con Chúa giáng lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Câm và điếc thường đi đôi. Không nói được cũng chẳng nghe được vì thế họ lệ thuộc vào mắt nhìn, quan sát, nhận xét, phỏng đoán việc đang xảy ra quanh họ.
Câm và điếc có tài nhận xét các biểu tượng. Biểu tượng, hình ảnh là cách họ dùng để thông tin, đối thoại, diễn tả tư tưởng, tình cảm của con người. Người mắt sáng cũng cần đến biểu tượng.
Biểu tượng
Biểu tượng và hình ảnh luôn chứa đựng những ý nghĩa thầm kín. Biểu tượng xuất hiện trong thiên nhiên cũng lắm và do bàn tay con người tạo ra cũng nhiều. Chúng chứa đựng những tin tức liên quan đến sinh hoạt đất trời và cuộc sống. Nhìn thấy cây đâm chồi, nảy lộc người ta biết ngay đông sắp tàn, xuân đang đến. Nhìn cánh nhạn bay người ta biết hè về bên cửa ngõ.
Tài xế lái xe dọc đường lệ thuộc rất nhiều vào các bảng chỉ dẫn nhận biết khi nào đi nhanh, khi nào chạy chậm. Nơi nào đậu xe an toàn, nơi nào không.
Rất nhiều trường hợp khuôn mặt tố cáo tấm lòng. Trẻ em làm điều sai đứng trước cha mẹ, thầy cô thường cảm thấy mất tự nhiên. Người lao nhọc quá sức, lo lắng quá độ, biếng ăn, khó ngủ, khó dấu được vẻ mệt mỏi xuất hiện trên khuôn mặt.
Một khi, vì lí do nào đó, không thể giải thích bằng ngôn từ thì biểu tượng là cách duy nhất con người dùng để diễn tả tư tưởng thầm kín bên trong. Tù nhân trong các trại tù hiểu rõ điều này hơn cả. Nơi mạng người bị coi rẻ, dư thừa xúc phạm cá nhân người ta nhìn nhau biểu tỏ nỗi lòng.
Bác sĩ chẩn bệnh cũng lệ thuộc nhiều vào triệu chứng xuất hiện nơi cơ thể con bệnh. Bác sĩ tâm lí lại chú trọng vào phong cách con người diễn tả qua cách nói, thế ngồi, điệu bộ, đi đứng, giọng nói, cách nhìn.
Biểu tượng trở thành một phần cuộc sống, con người dùng để diễn tả tình cảm, nội tâm. Biểu tượng cũng trở thành dấu chỉ cho người khác nhận xét nhau. Vì là chẩn đoán nên kết quả khi được, khi hỏng. Đúng sai ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống, quan niệm sống. Đức tin đóng vai trò quan trọng trong việc nhận xét sự việc, diễn dịch các dấu chỉ trong biểu tượng.
Cởi trói
Đức Kitô ra lệnh ‘hãy mở ra’ tức thì người câm điếc nói được và nghe được. Anh không còn câm và điếc nữa. Từ lúc đó anh trở thành người bình thường. Anh nhận được ơn lạ là do thân hữu giúp anh. Phúc âm thuật lại người ta đem đến cho Ngài một người câm điếc. Người ta đây chính là những người tốt bụng, những người giúp anh được cởi trói khỏi tình trạng câm và điếc. Họ không có khả năng chữa trị cho anh khỏi câm và điếc, nhưng họ đưa anh tới gặp Chúa và thay anh kêu cầu Chúa chữa. Nhờ họ giúp đưa anh tới gặp Đức Kitô mà anh hết câm và điếc. Như thế công việc tốt lành chúng ta có thể làm được là dẫn người khác đến gặp Chúa, cộng thêm lời cầu xin. Giải quyết vấn đề như thế nào là công việc của Chúa, Ngài có cách riêng của Ngài. Trường hợp của anh này hơi khác lạ. Chúa đưa anh ra riêng một nơi rồi dùng tay chạm vào tai anh và dùng nước miếng bôi trên lưỡi anh. Ngài ra lệnh không được kể chuyện đó cho ai biết. Nhưng Ngài càng cấm họ càng đồn xa.
Đức Kitô chữa lành bệnh tật thân xác, dẫn con người nhận biết Chúa chữa lành tâm linh, chữa vết thương lòng. Ngài là Đấng duy nhất chữa lành tâm linh, nội tâm.
Điếc giả, điếc thật
Chúa ban cho người câm điếc ơn nói được và nghe được. Anh nghe được điều hiện tại và nghe điều tương lai. Như thế ơn Chúa ban cho trong hiện tại nhưng lại xử dụng được về lâu, về dài trong tương lai.
Đức Kitô dùng hình ảnh chữa lành thân xác dẫn ta đến câm điếc tâm linh. Điếc tâm linh xảy ra khi nghe lời Chúa mà không hiểu, hoặc hiểu, mà thiếu thực hành. Lời Chúa âm thầm qua đi, như thế có khác chi người điếc không nghe thấy Lời Ngài. Bịt tai, ngoảnh mặt làm ngơ chính là điếc giả câm, điếc có chọn lựa.
Bất công lan tràn trong xã hội. Khi chính ta là nạn nhân; khi chứng kiến cảnh bất công xảy ra cho người khác. Thấy bất công mà chọn thái độ lặng im, không lên tiếng bênh vực lẽ công chính, ủng hộ chân lí. Bị oan ức, chịu câm nín có khác chi người câm không nói được. Thái độ câm giả, câm từng lúc, câm giai đoạn là căn bệnh mới của thời đại. Bệnh này rất phổ thông trong giới lãnh đạo, đạo cũng như đời.
Đời trớ trêu
Kẻ nói được thì không chịu nói, kẻ không được nói lại muốn nói.
Nhờ thân hữu dấn thân, dẫn đến với Đức Kitô, lên tiếng thay, kêu cứu giúp, người câm điếc được đổi đời. Anh không bị câm điếc suốt đời.
Bao tiếng nức nở, khóc than. Bao lời kinh vang vọng. Bao tiếng kêu gào công lí, lời kết án, vạch trần tội ác. Kêu gọi ngừng phá thai, tránh hiếp đáp nơi sân trường, đừng phá huỷ môi sinh, tránh lọc lừa và nhiều thứ tội ác khác. Cần có người lớn, đồng lên tiếng thay, cùng kêu cứu giúp. Có như thế mới mong có đổi đời cho người phận nhỏ. Bao lâu còn tình trạng giả câm, làm bộ điếc trường kì. Bao lâu còn tình trạng đua câm, thi điếc, bấy lâu thế giới còn tiếp tục nghe những tiếng than khóc đột xuất phát ra từ những tâm hồn đau thương.
Lời Chúa luôn có sức mạnh, rất hiệu nghiệm. Lời Ngài thể hiện khi có những Kitô hữu dấn thân vì anh em.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trình thuật Sáng Tạo kể về những việc Chúa làm khi tạo dựng vũ trụ, sau mỗi việc đề có câu: “Thiên Chúa thấy mọi việc Ngài làm: thật tốt đẹp” (St 1,31)… Tin Mừng cũng thuật lại công trình cứu chuộc và sáng tạo mới theo cùng một cách nói: “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37) … Tất nhiên, tự bản chất, lửa chỉ có thể tỏa nhiệt nóng, chứ không thể phát sinh tiết lạnh; mặt trời chỉ khuếch tán ánh sáng, chứ không thể là nguyên nhân của bóng tối được. Cũng vậy, Thiên Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, nên mọi việc người làm đều tốt đẹp. Chúa là ánh sáng, là mặt trời chiếu tỏa ánh sáng vô biên, sưởi ấm vũ trụ muôn loài: “Ngài làm mọi việc tốt đẹp” …
Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước mô tả: mọi việc Chúa làm đều tốt đẹp. Nhưng, làm những điều tốt đẹp không đơn giản là làm những điều đúng. Thực tế, có nhiều người làm những điều tốt đẹp nhưng lại không làm đúng, giống như những kẻ giả hình làm việc tốt, nhưng tinh thần xấu, nghĩa là làm với một ý định sai lầm và ác ý. Thiên Chúa làm mọi việc tốt lành, và Ngài làm tốt chúng. “Chúa chính trực trong mọi lời Chúa phán, và nhân nghĩa nơi mọi việc Chúa làm” (Tv 144,17).
Chữa một tấm lòng câm và điếc
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa một người câm điếc. Kết đoạn, những người chứng kiến lòng đầy thán phục và rằng “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37). Chúng ta đừng quên rằng Đấng Mêssia, Ngôi Lời nhập thể không chỉ đến để chữa bệnh và khuyết tật về thể lý cho con người nói chung và dân Israel nói riêng, dân theo các tiên tri, vì bị bệnh nặng tai không thể nghe rõ Lời Chúa nói nên không trả lời đúng.
Phép lạ Chúa Giêsu chữa kẻ câm điếc diễn ra trên địa Decapolis cho thấy Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa đến ngỏ lời với toàn thể nhân loại và muốn chữa lành nhưng ai không lắng nghe Thiên Chúa, nghĩa là đang ở trong tình trạng tội lỗi cần phải cứu.
Chúa Giêsu thi hành sứ mạng vượt ra khỏi dân Israel, mặc khải cho cả nhân loại. Vùng đất dân ngoại chứng tỏ Chúa đang hiện diện, cả lúc chúng ta không thấy Chúa, “vùng đất của dân ngoại” đang trong tình trạng nhơ bẩn tội lỗi cũng có Chúa vẫn hiện diện. Người đến cứu chuộc tất cả những ai cầu cứu. Trước khi làm phép lạ chữa người câm, Con Thiên Chúa ngước mắt lên trời cầu nguyện, một cử chỉ giống như Người làm trước khi hóa bánh và cá (x. Mc 6,41). Chúa Giêsu không đơn giản là một tiên tri, Người là chính Thiên Chúa. Có lúc Chúa Giêsu làm phép lạ do quyền năng Lời Chúa. Tuy nhiên, trong trường hợp người câm, Chúa Giêsu cầu cùng Thiên Chúa Cha, để dạy cho chúng ta biết rằng ơn cứu độ là ân sủng do Thiên Chúa tặng ban, một món quà cần phải cầu xin với lòng thành thực.
Việc Chúa Giêsu chữa một người về mặt thể lý ám chỉ điều Chúa muốn chữa mỗi người chúng ta về phương diện tinh thần. Chúa Kitô chạm vào thân xác để chữa lành tinh thần. Người câm điếc được Chúa Kitô chữa lành là người trước đây không thể giao tiếp hay nghe người khác, ngày cả thể hiện cảm xúc cũng như nhu cầu của mình cũng khó. Nếu bệnh câm điếc là nét đặc trưng của người không có khả năng giao tiếp với người bên cạnh, để có được quan hệ tối thiếu tốt đẹp rõ ràng, thì chúng ta phải thừa nhận ra rằng tất cả chúng ta ít nhiều bị câm điếc khi không nghe được Chúa nói, không biết cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu thở dài và nói với mọi người: “Effata, hãy mở ra!” Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đến với Chúa, cầu xin Chúa mở tai chúng ta để chúng ta có thể nghe Lời Con Chúa.
Trái tim chữa lành nói ngôn ngữ của tình yêu
Giọng nói đầu tiên người được chữa lành nghe thấy là Lời Chúa Giêsu: “Effata, hãy mở ra! ” Nhờ thế, người ấy có thể nghe Lời Chúa và đón nhận, tai mở ra ám chỉ niềm vui vì con tim được cởi trói, phẩm giá “người con” thuộc về Chúa thực sự được phục hồi.
Khi chịu phép Rửa, chúng ta cũng lặp lại từ “Effata – Hãy mở ra”, theo cách này, chúng ta trở thành con trong Con Thiên Chúa, nghe Lời Chúa, đối thoại với Chúa là Cha.
Để nghe Chúa Con, Lời Thiên Chúa, hầu nên giống Chúa Con. Nếu chúng ta kiên trì lắng nghe, chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa trong tình yêu. Nếu chúng ta lắng nghe lời Đấng Kitô, chúng ta có thể nói như Đức Kitô. Nếu chúng ta mở lòng mình ra đối thoại và lắng nghe Chúa Cha, hay Lời tức là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, chúng ta có thể đáp lời Chúa bằng lời cầu nguyện của đời ta.
Trái tim được chữa lành để lắng nghe tiếng Chúa, cầu nguyện với Chúa và thông truyền tình yêu của Chúa cho nhân loại; qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng đời sống Kitô hữu phụ thuộc vào lời cầu nguyện và lòng bác ái.
Lạy Chúa, xin mở tai con để con biết nghe lời Con Chúa và đem ra thực hành trong đời sống đượm tình bác ai yêu thương. Amen.
7. Ôi! đẹp thay bao việc Chúa làm
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh, thánh Augustinô đã không tiếc lời nói: “Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người” (Augustino, Enarr in Ps 90).
Đúng như thế, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia (35, 4-7a), hôm nay thật đẹp biết bao, vì nó chứa đầy những dòng chữ yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi. Họ đã bị quân Babylon đánh bại nặng nề. Họ bị cướp bóc và lôi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù địch. Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và nếu họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước. Và nếu họ có thể chạy thoát về đất nước của họ thì ở đó không còn gì nữa.
Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia, lời của Thiên Chúa tình thương đầy an ủi, như tiếp thêm nghị lực cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày: “Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người” (Is 35, 4).
Tại sao ngôn sứ Isaia phải khuyến khích họ Can đảm lên, đừng sợ? Có lẽ họ đang sợ hãi khủng khiếp. Tại sao ngôn sứ lại nói đến nước chảy lên trong sa mạc, suối chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước? Có lẽ dân chúng đang bị hạn hán chăng? Tại sao ngôn sứ lại dùng hình ảnh người mù sáng mắt, tai người điếc sẽ mở ra, và người què quặt nhảy nhót như nai? Nếu không phải vì dân chúng đang gặp lúc khó khăn không nhìn, không nghe, không lê bước được (x. Is 35, 4-7).
Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.
Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu “làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được” (Mc 7, 37), giúp chúng ta suy ngẫm về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thể hiện qua việc chữa lành của một “câm điếc” (Mc 7,32).
“Effatà”, có nghĩa là “hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đang đi qua vùng “Thập tỉnh”, giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, vùng đất của dân ngoại. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh, hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. “Effatà – Hãy mở ra” (Mc 7,34). Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu, anh câm điếc ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7, 35). Thật tốt đẹp biết bao việc Chúa làm.
Khởi đầu công trình sáng tạo, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo vũ trụ: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người làm: đều tốt đẹp” (St 1, 31). Nay thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế đến thực hiện công trình cứu chuộc và sự sáng tạo mới, Tin Mừng cũng nói cùng một cách: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” (Mc 7, 37) Chúa đã làm cho anh “mở ra”.
“Effatà – Hãy mở ra” (Mc 7,34). Từ việc chữa lành đối với anh câm điếc là một sự “mở ra” cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe Lời Chúa và ca tụng những kỳ công công Thiên Chúa cũng như lòng thương xót của Ngài. Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác về công trình tốt đẹp Chúa đã làm.
Chắc chắn, tự bản chất của nó, ngọn lửa không thể tỏa hơi âm, và không thể phát sinh khí lạnh; mặt trời chiếu tỏa ánh sáng, và đương nhiên không thể là nguyên nhận của bóng tối được. Tương tự như thế, Thiên Chúa chỉ có thể làm ra những điều tốt lành bởi vì Ngài là Đấng vô biên tốt lành, là ánh sáng. Ngài là Mặt Trời công chính chiếu tỏa ánh sáng rạng ngời, là lửa hồng tỏa hơi ấm vô biên: “Người làm mọi sự tốt đẹp” (Mc 7,37).
Theo sách Sáng Thế, thì Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Tin Mừng cũng thuật lại: Chúa Giêsu làm mọi sự tốt đẹp (x. Mc 7, 37). Nhưng làm những điều tốt lành không chỉ đơn giản là để làm cho chúng tốt. Nhiều người, thực sự, làm những điều tốt đẹp mà không làm chúng tốt, bọn giả hình chẳng hạn, họ là những người làm những điều tốt đẹp, nhưng trong một tinh thần xấu với một ý định gian tà. Thiên Chúa, Ngài đã tạo dựng tất cả đều tốt lành và làm cho chúng trở nên tốt. “Chúa chỉ là trong tất cả các cách của mình, tín hữu trong tất cả mọi thứ anh ấy làm” (Tv 144, 17)… Và nếu Thiên Chúa biết rằng chúng ta tìm thấy niềm vui của mình nơi những điều tốt đẹp Chúa đã làm, thì Thiên Chúa vui biết mấy.
Xin với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Mẹ đã luôn luôn “mở ra” cho tình yêu của Chúa, và trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa, với lòng từ mẫu giúp chúng ta là con cái Mẹ hàng biết “effatà” mỗi ngày để ca tụng những điều tốt đẹp kỳ diệu Chúa đã làm và nhất là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ép-pha-tha! Hãy mở ra! Động từ “mở ra” theo nghĩa đen là mở một vật gì đó ra. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1 kể Thiên Chúa mở mắt người khiếm thị, mở tai người khiếm thính và trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Nhưng, Tin Mừng còn kể mọi người chứng kiến việc Chúa Giêsu mở miệng và mở tai anh chàng khuyết tật kia hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”. Như vậy, động từ Ép-pha-ta – mở ra còn mang một nghĩa bóng là “mở lòng ra”. Có mở lòng ra mới tin và biết những việc Chúa làm là đẹp chứ! Qủa vậy, Thánh Giacôbê trong bài đọc hai nói có mở lòng ra, chúng ta mới ứng xử hay đón tiếp người giàu cũng như người nghèo. Ngược lại nếu không mở lòng ra thì chúng ta sẽ kỳ thị và trở nên những người đầy tà tâm. Vâng, mở lòng ra đó mới là ý nghĩa quan trọng của đời sống con người, nhất là đời sống Kitô hữu. Vấn đề ở chỗ là lòng của chúng ta có “dễ mở” hay “khó mở”, hay “không mở được” hoặc “không chịu mở”. Và khi đã mở thì mở như thế nào?
Tiên tri Isaia bài đọc 1 khuyên: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu độ anh em” (Is 35:4). Cứu Độ anh em, tức là lúc “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35:5-6a). Qủa vậy, Thiên Chúa vừa là Đấng giàu lòng thương xót vừa toàn năng nên Ngài làm được tất cả những gì mà loài người bó tay. Ngài mở miệng lưỡi và mở lòng dạ con người, dù điều đó phàm nhân không thể làm gì được. Cụ thể, Chúa Giêsu hôm nay tai cho kẻ điếc nghe được, mở miệng anh nói được và mở lòng những người chứng kiến.
Chúng ta có thể nói Chúa Giêsu chưa quyền năng mấy vì với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Đồng ý như thế, như thử hỏi máy móc, kỷ thuật ở đâu ra? Con người. Con người và trí khôn như thế chẳng phải bởi Thiên Chúa sao? Con người toàn năng nhưng hữu hạn, chỉ mở cái bên ngoài không bao giờ mở lòng của người ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô hạn mở được những tấm lòng đóng chặt nhất hoặc không chịu mở được như lòng của Phêrô, Phaolô, Maria Mađalêna, Augustinô…
Người ta nói rằng để biết nhau, hiểu nhau, yêu nhau và hiệp thông với nhau thì phải nhờ: nói, nghe, thấy… Như vậy, nếu người khiếm thị, khiếm thính hay người câm là những người bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người sao?! Không! Họ còn cảm nhận, yêu thương và hiểu nhau bằng các giác quan khác nữa chứ thậm chứ là bằng chính tấm lòng. Vì thế trong các trường khuyết tật người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, tập nhìn bằng cảm giác để các em có thể là người tốt giỏi và thành đạt hơn người bình thường nữa là khác. Chẳng hạn, Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, là nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả người Mỹ. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Chúng ta có miệng, mắt và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị mù câm điếc lòng dạ mình? Chúa Giêsu đã có lần quở trách: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy” (Mt 13,14). Thực sự vậy, chúng ta cũng đã và đang có những lúc bị mù câm điếc. Câm là không mở rộng lòng ra để đón nhận Lời Chúa, không sống Lời Chúa, và không đón nhận và phục vụ tha nhân. Mù tấm hồn là lòng chai dạ đá, biết sai mà vẫn cứ phạm, không xót thương người và giúp đỡ tha nhân khi họ nghèo khổ hay bệnh tật; còn điếc nghe Lời Chúa nhưng nghe tai này lọt qua tai kia, Lời Chúa nói gì, Hội Thánh dạy gì cũng không nhớ để sống và giữ trong cuộc sống nhân tình thế thái này.
Cho nên, trước khi nghe Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta vừa đọc câu: “Lạy Chúa vinh danh Chúa” vừa làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực để xin Chúa hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con hiểu ý Chúa, cảm nhận Lời Hằng sống, để rồi sẵn sàng sống lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc nhưng vì làòng mình không mở ra nên khi về với cuộc, sống Lời Chúa chẳng si nhê gì với mình là vậy!
Thánh Giacôbê trong bài đọc hai dạy: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư” (Gc 2,1). Rất rõ ràng, đối xử không thiên tư, tức là không phân biệt đối xử. Đối với gia đình, là chồng vợ hãy mở lòng ra mà tha thứ, chịu đựng, phục vụ và yêu thương khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, bệnh tật cũng như mạnh khỏe. Là con hãy mở lòng ra để yêu thương, vâng lời và chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ về già ốm đau. Là những người làm lớn có chức quyền, hãy mở lòng ra để đón nhận, lắng nghe và hướng dẫn mọi người trong tình yêu thương chân thành. Và là người Công giáo, hãy mở lòng ra để biết cho đi những gì mình có để nâng đỡ, ủi an và giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình vì “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Chính những hành động đó phương thế tột nhất giúp ta đạt được Nước Trời mai sau vì Chúa Giêsu đã nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết yêu thương mọi người. Xin dạy chúng con yêu người như Chúa, sống cho tình yêu, chết vì tha nhân. Xin dạy chúng con biết đón nhận mọi người, Chúa ơi dạy con biết mở lòng ra, trở nên bài ca chan hòa yêu thương. Amen.
9. Người chữa họ khỏi câm điếc
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Người bị câm điếc thiêng liêng là những nngười không biết mở tai ra mà đón nhận Lời Chúa mà cũng không biết mở miệng ra mà tôn vinh danh Chúa. Những người bị câm điếc thể lý thì ai cũng biết kể cả đương sự, còn những người bị câm điếc thiêng liêng thì không ai biết và ngay chính đương sự nhiều khi cũng không biết. Đó là những người thiếu đức tin, họ sống trong mù tối không biết gì đến Lời Chúa.
Chúng ta cầu xin Chúa mở tai và mở miệng lưỡi linh hồn chúng ta để biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Đồng thời cũng biết đón nhận và chia sẻ cho người khác trong sự quảng đại, hy sinh và tình thương mến chân thành. Chúng ta hãy kêu lên:”Lạy Chúa, xin làm cho con nghe được, và xin làm cho con nói được”.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 35,4-7a
Dân Do thái đang phải sống kiếp lưu đầy khổ sở tại Babylon, nhiều lúc nản lòng vì tương lai còn mù mịt. Nhưng thời gian thử thách sắp kết thúc. Isaia loan báo tin vui cho họ bằng những hình ảnh của miền Đông phương nhằm khơi dậy niềm hy vọng của họ.
Những hình hình cụ thể như người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được nhắc nhở cho họ biết: những khả năng tự nhiên ấy của họ đã bị tước đoạt, nay Thiên Chúa phục hồi cho họ để cho họ có thể nghe và nói được trong tình trạng tự do.
Những hình ảnh tiên báo của tiên tri Isaia cho người Do thái sẽ được thực hiện đầy đủ do Đức Giêsu Kitô trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Gc 2,1-5
Một số cộng đoàn Kitô hữu thời đó có thói quen dành chỗ ưu tiên cho người giầu mà lại bỏ quên người nghèo. Thánh Giacôbê phản ứng mạnh mẽ vì thói quen ấy đi ngược với tinh thần của Đức Kitô. Phẩm giá của người nghèo bị chà đạp, trong khi chính họ là những người được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn.
Tính thiên vị luôn gây phẫn uất và chia rẽ. Đây là một quan niệm sai lầm vì dưới cái nhìn của đức tin sự giầu có đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa bằng kho tàng ân sủng tràn đầy nơi các tín hữu.
+ Bài Tin mừng: Mc 7,31-37
Bài Tin mừng thuật lại chuyện Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa câm (ngọng) tại vùng đất dân ngoại. Khi kể lại câu chuyện này, thánh Marcô lấy lại đề tài cổ điển móc nối sự câm điếc với sự thiếu đức tin và việc chữa lành bệnh với thời Thiên sai.
Phép lạ này có giá trị biểu trưng. Thay vì chỉ cần ý muốn để chữa bệnh một cách đơn giản, Đức Giêsu lại dùng những hành động có vẻ lạ kỳ như lấy ngón tay thấm nước miếng và chạm đến lưỡi của người bệnh. Những hành động ấy có ý thêm đức tin cho người bệnh và sau này trong bí tích Rửa tội theo lễ nghi cũ, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy mà đọc “Epphata”: hãy mở ra.
Người điếc và ngọng trong Tin mừng hôm nay tiêu biểu cho tất cả mọi người điếc câm thiêng liêng mà Đức Giêsu sẽ chữa cho khỏi những nết xấu và tội lỗi. Giáo hội cũng muốn dùng bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở cho các tín hữu phải biết lắng nghe tiếng Chúa và phổ biến Lời Chúa cho người khác.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Những ai bị câm điếc?
- BỆNH CÂM ĐIẾC THỂ LÝ
- Một ân ban của Thiên Chúa
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Ngài ban cho họ có linh hồn và thân xác. Thân xác con người là một sinh vật hoàn hảo nhất, có đầy đủ ngũ quan. Trong ngũ quan ấy, ta thấy tai và miệng là hai cơ quan rất quan trọng dùng để nghe và nói.
Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý của người nói, cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Người ta gọi những người ấy thuộc hạng “Ông nói gà bà nói vịt”(Tục ngữ). Bởi vậy, người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nó là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp hằng ngày. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Vì vậy nghe được và nói được là hồng ân rất lớn Chúa ban cho con người. Chúng ta phải sử dụng hai khả năng ấy cho phù hợp với thánh ý Chúa.
- Nguyên nhân bệnh câm điếc thể lý
Thường thường những người mới sinh ra đã bị câm thì cũng bị điếc. Người bị câm và điếc thiệt thòi rất nhiều và mất nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó.
Theo một vài trường hợp thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Vì thế mới có lời kinh của người điếc:
“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín”(William Barclay).
- Tâm lý người bị câm điếc
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khunh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
- Đức Giêsu chữa người câm điếc
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: ”Epphata”: Hãy mở ra!
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh mong đợi.
Phép lạ không chú trọng chữa lành thể chất của anh chàng vừa câm vừa điếc. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Chúa, và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
- BỆNH CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Khi chữa bệnh cho người câm điếc, Đức Giêsu nhằm đem lại cho người ấy khả năng nghe và nói được, nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn, nghĩa là chữa bệnh câm điếc tinh thần hay thiêng liêng của con người. Câm và điếc thể chất thì ai cũng biết, còn bệnh câm điếc thiêng liêng thì chỉ có Chúa biết, và đôi khi đương sự cũng biết. Chúng ta cần bàn tới bệnh câm điếc thiêng liêng mà ai trong chúng ta cũng mắc phải không nhiều thì ít.
Nhiều người rất thính tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần hay tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan tới danh vọng, tiền tài, sắc dục… nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hoạt bát về đủ mọi đề tài… nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên lời hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
III. ĐỂ KHỎI BỊ CÂM ĐIẾC
- Bài học cho chúng ta
Đức Giêsu làm phép lạ này như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: ”Epphata” nghĩa là hãy mở ra tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được, cũng là bài học cho các môn đệ và chúng ta. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận, vừa thông truyền Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như lời tiên tri Isaia từng nói: ”Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh”(Is 50,4).
- Biết lắng nghe và chia sẻ
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Đức Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ vơi nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 175).
Chúa ban cho người câm điếc có thể nghe được và nói được để anh có thể dùng hai khả năng ấy để chia sẻ với mọi người. Đây là hai ân ban của Chúa. Chúng ta cũng phải dùng ân ban ấy cho đúng, bởi vì trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có cái lưỡi tốt nhưng không biết nói những lời đáng nói. Cho nên chúng ta cần phải được Chúa chữa trị để biết chia sẻ cho nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra sự câm điếc khi chúng ta không bao giờ biết đến anh em, chỉ biết sống ích kỷ, co cụm lại nơi bản thân mình, không để ý đến ai. Do đó, chúng ta trở nên cố chấp trước những lời khuyên bảo của người khác để làm những điều xằng bậy mà không biết hổ thẹn. Những người như thế Được người đời tặng cho cái danh hiệu là: ”Điếc không sợ súng”. Câu tục ngữ ấy có nghĩa là vì ngu dốt, thiếu kinh nghiệm không hiểu biết nên chủ quan làm liều làm bừa bãi, không sợ sai lầm nguy hiểm.
Chúa cũng ban cho chúng ta cái lưỡi tốt để nói năng, chúng ta cũng phải biết dùng nó để chia sẻ với nhau vì lời nói là phương tiện chia sẻ với nhau hữu hiệu, có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Dùng lưỡi mà chia sẻ với nhau là một điều tốt, nhưng phải chia sẻ với nhau một cách thành thực chứ không dối trá, bởi vì người ta nói: ”Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, (Tục ngữ) có nghĩa là lưỡi không có xương nên uốn lắt léo thế nào cũng được. Nghĩa bóng của câu này thường được dùng để chỉ người ăn nói trước sau bất nhất, lúc thế này, lúc thế khác.
Ngoài ra, những người ác độc có những lời lẽ rất ngon lành, tốt đẹp nhưng lại hàm ý nghĩa xấu trong đó.Vì thế người ta nói: ”Lưỡi mềm độc quá đuôi ong”(Tục ngữ), có nghĩa là lưỡi mềm là lưỡi không cứng rắn như đá, không sắc nhọn như dao, lý ưhg không có gì đáng sợ vì không làm đau đớn thương tổn được người ta. Ay vậy mà lưỡi độc quá đuôi ong, châm vào thịt đau buốt và sưng vù lên. Lưỡi nói xấu ai thì người ấy mất bạn bè, mất danh giá; lưỡi vu khống ai thì người ấy bị tù tội, mất cơ nghiệp, có thể mất cả tính mạng (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 152).
Trái lại, khi chia sẻ với nhau hãy cố gắng dùng những lời lẽ tốt đẹp mà cư xử với nhau, đem lại cho nhau một niềm vui như người đời thường khuyên:
Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Xin Chúa ban thêm đức tin
Khi Đức Giêsu chữa anh điếc nói ngọng này, Ngài khêu gợi đức tin nơi anh. Chắc chắn là anh ta kém đức tin vì Đức Giêsu phải đem anh riêng ra làm những cử chỉ khêu gợi lên trong lòng anh đức tin rất cần thiết để ban ơn khỏi bệnh cho anh. Khi đức tin đã nhóm lên trong lòng, Ngài mới làm phép lạ cho anh khỏi bệnh. Điểm chúng ta muốn nói là sở dĩ anh kém đức tin vì anh điếc, không nghe được Lời Chúa. Ngày nay nhiều thanh thiếu niên kém đức tin hoặc đã mất đức tin vì anh điếc hay giả điếc, không nghe Lời Chúa.
Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng cô Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều. Nếu chúng ta bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở rađiô thì chả hiểu gì, xem truyền hình thì cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Bài Tin mừng hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nói cụ thể hơn, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là Tin mừng mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Truyện: Thánh Giêrônimô
Hồi ấy, Giêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, ngài nghe tiếng Chúa hỏi:
– Giêrônimô, con là môn đệ của ai?
– Thưa, con là môn đệ của Chúa.
– Không phải, con là môn đệ của Cicéron.
Từ đó, Giêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Belem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: ”Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của Ngài đã được công đồng Triđentinô (thế kỷ 16) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Hội thánh.
Michel Angelo là một trong những nhà danh hoạ đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời vì giá trị vượt thời gian đã đành, mà còn vì sự sống động mà ông đã mặc cho những tác phẩm ấy, điển hình là bức tượng Maisen.
Người ta kể lại rằng: Sau khi hoàn thành bức tượng này, ông đã đứng chiêm ngắm một cách say sưa. Và sự sống động của pho tượng đã làm cho ông ngây ngất, đến độ ông đã cầm chiếc búa gõ vào pho tượng và thốt lên: Hãy nói lên đi.
Thực vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Chúa trao ban đẻ chúng ta truyền đạt tư tưởng và ước muốn cho người khác, để tạo lấy một sự hiểu biết và cảm thông. Khi chúng ta nói là chúng ta đang sống cùng, và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong xã hội cần phải được biểu lộ bằng tiếng nói. Vì thế những người câm điếc một phần nào đã bị hạn chế trong mối liên hệ với thế giới chung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Họ luôn sống trong thảm trạng cô đơn và lẻ loi.
Tuy nhiên, đáng thương hơn nữa có lẽ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền được được sống. Để sóng xứng với phẩm giá con người, thì cần phải có tiếng nói. Cũng trong chiều hướng ấy, phép lạ chữa người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, không phải chỉ là một sự chữa lành bệnh tật phần xác, mà còn là một dấu chỉ cho một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi cho người câm điếc khả năng nghe và nói, có lẽ Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời Chúa. Con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá của mình khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận lời hằng sống của Chúa.
Cử chỉ của Chúa Giêsu khi chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành bí tích Rửa tội. Thực vậy, bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ, trong đó chúng ta được chữa lành với tái sinh trong đời sống mới. Với phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Épphatha, hãy mở ra. Hãy mở rộng đôi tai để lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, trong từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng lưỡi để cảm tạ, chúc tụngchúc tụng và loan báo tình thương của Chúa, để nói những lời yêu thương và hoà bình, của cảm thông và tha thứ, nhờ đó chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân sống động co Tin Mừng của Chúa giữa lòng cuộc đời.
Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng đôi tai và miệng lưỡi của mình.
Trước hết là đôi tai.
Chúa đã ban cho chúng ta đôi tai để nghe, nhất là nghe những lời cha mẹ thầy cô và những người có trách nhiệm giáo dục chúng ta, để rồi chúng ta sẽ đem ra thực hành những lời khuyên nhủ đó, hầu trở thành những người hữu ích. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải lắng nghe lời Chúa qua việc học hỏi Phúc Âm, qua việc tìm hiểu giáo lý, để sống xứng đáng người con ngoan của Chúa. Thế nhưng tội lỗi cũng thường hay đột nhập vào tâm hồn chúng ta qua đôi tai của mình. Bởi vì có những đôi tai đóng lại không muốn nghe những lời khuyên bảo và khiển trách, thế nhưng lại mở ra để lắng nghe những câu chuyện nhảm nhí do những người bạn xấu thổi vào. Vậy chúng ta thử xét xem mình có như thế hay không?
Tiếp đến là miệng lưỡi.
Chúa đã ban cho chúng ta miệng lưỡi để chúng ta thân thưa với Chúa, để cùng với gia đình, chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh ban tối và ban sáng, để chúng ta hát những bài thánh ca chúc tụng Chúa, để chúng ta xưng thú tội lỗi nơi toà cáo giải, để chúng ta luôn có những lời nói ôn tồn và thành thực đối với người khác. Trên môi miệng chúng ta phải luôn có những lời lẽ lịch sự, chẳng hạn như hai chữ: Cám ơn. Miệng lưỡi của chúng ta không phải chỉ mở ra đón nhận của ăn phần xác mà còn mở ra để đón nhận của ăn phần hồn, đó là rước lấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ước chi chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế.
Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria, kinh Kính Mừng. Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữa Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.
Thế nhưng miệng lưỡi cũng chính là con đường dẫn tới tội lỗi. Thực vậy, có những miệng lưỡi tham ăn tục uống, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn được, lúc nào cũng đòi phần to hơn, tốt hơn và ngon hơn, nếu không được thì vùng vằng và phụng phịu. Chính vì thế chúng ta phải biết làm chủ miệng lưỡi của mình như một câu danh ngôn đã bảo: Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, hay như thánh Phaolô đã cảnh cao: Đừng lấy cái bụng của mình làm chúa. Ngoài ra còn có những miệng lưỡi điêu ngoa, xảo trá và gian dối, không tôn trọng sự thật, luôn tìm cách lừa đảo người khác, nói những lời đầy ác ý, hạ nhục uy tín của người khác và tạo nên sự chia rẽ, hay nói những lời tục tĩu làm hoen ố tâm hồn trong trắng của mình. Đồng thời có những cái miệng cái lưỡi bị câm, không biết cầu nguyện và thân thưa cùng Chúa, Không biết nói lời bênh vực đức tin, không biết can ngăn người khác trước những ý đồ đen tối của họ.
Hãy cầu xin Chúa mở tai chúng ta để biết lắng nghe lời Chúa, cũng như mở miệng chúng ta để biết nói về Chúa cho những người chung quanh.
Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được nhảy như nai.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.
Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.
Ngày xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa, khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.
Thế nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng trần thế.
Chúng ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa.
Tuy nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo, giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một đời sống bác ái và yêu thương.
Bởi vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.
13. Để Thiên Chúa can thiệp vào đời mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
- Hãy để Thiên Chúa có thể can thiệp vào đời mình
Đức Yêsu đã nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi người vừa điếc vừa ngọng. Ở vào trường hợp của chúng ta, chúng ta có để cho Đức Yêsu làm như vậy không? Hay chúng ta cho rằng như vậy quá dơ, mất vệ sinh? Nếu người điếc ngọng này từ chối không để cho Đức Yêsu làm, chắc phép lạ không thể xảy ra được. Để phép lạ có thể xảy ra, con người phải sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời của mình lúc nào Ngài muốn và cách nào Ngài muốn. Con người không thể xác định cách thức và thời điểm buộc Thiên Chúa phải thực hiện được. Thái độ không phê bình, không lấy mình làm chuẩn, không lấy những tiêu chuẩn của mình để ép Thiên Chúa làm điều này điều kia, phải là thái độ của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Tương tự vậy, cách thái con người đối xử với Thiên Chúa, cũng phải là cách thái con người đối xử với nhau: không ép buộc xúc phạm người khác.
- Mầu nhiệm nhập thể giúp hiểu cung cách hành xử của Đức Yêsu
Phải chăng Đức Yêsu không đủ quyền năng nên không thể chỉ dùng lời mà chữa người vừa điếc vừa ngọng được, nên Ngài phải đặt tay vào lỗ tai của anh ta, và phải bôi nước miếng vào lưỡi anh ta? Hay Ngài làm như vậy vì một lý do nào khác?
Mầu nhiệm nhập thể chỉ được hiểu và phát biểu, khi con người biết Đức Yêsu là Thiên Chúa, nghĩa là sau khi Đức Yêsu đã chết và phục sinh. Khi Đức Yêsu còn đang sống đời tại thế, con người không thể hiểu mầu nhiệm nhập thể, vì lúc đó con người chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Người ta kết án tử và giết chết Đức Yêsu, vì cho rằng Ngài phạm thượng, cho rằng Ngài chỉ là một người mà lại dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64).
Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội (Dt.2, 17;4, 15), thế nên cái biết của Ngài cũng tăng trưởng. Vì là người, nên có nhiều điều Ngài không biết. Rồi với thời gian khi Ngài ý thức sứ mạng của Ngài, Ngài đã đi rao giảng; và khi ý thức về chính mình “Ngài là Thiên Chúa” thì Ngài mặc khải điều này cho con người, dù rằng mặc khải đó con người chưa thể chấp nhận được. Cần phân biệt: Ngài vẫn là Thiên Chúa khi Ngài còn là bào thai nơi dạ Đức Mẹ, nhưng việc Ngài ý thức Ngài là Thiên Chúa lại là một điều khác.
Cách hành xử cũng tương tự vậy khi Ngài chữa bệnh cho người ngọng và điếc này: Ngài thấy sao thì Ngài làm vậy. Ngài thấy cần phải đặt tay vào lỗ tai người điếc thì Ngài làm, cần bôi nước miếng vào lưỡi của anh ta thì Ngài làm. Nhưng với hành vi đó của Ngài, con người ngày nay hiểu hơn về bí tích. Bí tích là những dấu chỉ do Đức Yêsu thiết lập để ban ân sủng cho con người. Khi Hội Thánh thực hiện dấu chỉ hữu hình Đức Yêsu thiết lập, thì qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cho con người. Ngày nay Hội Thánh vẫn cử hành các bí tích- những dấu chỉ hữu hình Đức Yêsu thiết lập để ban ân sủng cho con người. Những dấu chỉ “bí tích” là những dấu chỉ có lời kèm theo; chẳng hạn bí tích rửa tội là đổ nước và lời “tôi rửa con nhân danh Cha Con và Thánh Thần”; bí tích “Thánh Thể” là bánh rượu và lời truyền phép “này là mình ta… này là máu ta…”.
Đức Yêsu là bí tích nguyên thủy, là bí tích nguồn, vì Đức Yêsu là dấu chỉ qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cho con người. Hội Thánh cũng là bí tích theo một nghĩa nào đó, vì Thiên Chúa vẫn ban ân sủng cho con người qua Hội Thánh. Tuy vậy theo cách nói bình thường, Hội Thánh tuyên xưng có bảy bí tích Đức Yêsu đã thiết lập để ban ân sủng cho con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ dựa vào Lời Chúa ngày Chủ Nhật:
- Cách thế bạn đối xử với người giầu và người nghèo có khác nhau không? Nếu khác, thì tại sao vậy? (Gc.2, 1-5).
- Theo bạn, Đức Yêsu khi còn nhỏ có biết tất cả chưa? Nếu bạn cho là Ngài đã biết tất cả, thì bạn giải thích hai câu trong thư của thánh Phaolô thế nào (Dt.2, 17; 4, 15)?
- Bạn có biết rằng theo tin mừng Maccô, có nhiều điều Đức Yêsu không biết không? Xin bạn kể một vài trường hợp để chứng minh.
- Xin bạn kể bảy bí tích, và nói ân sủng đặc biệt của từng bí tích? Bí tích nào ban cho chúng ta chính Thiên Chúa? Xin giải thích.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
ĐỨC GIÊSU- DẤU CHỈ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN
Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người “thiện tâm” ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.
- Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời
Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật “vất vả”. Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.
Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Yoan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.
Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa “hữu hình” hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.
- Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người
Con người của mọi thời đại vẫn “trọng phú khinh bần”. Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người “đời”. Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người “đời”, thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người “đời”. Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.
Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.
Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có “vấn đề”. Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.
III. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.
Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.
Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Thiên Chúa là ai, với bạn?
- Đức Giêsu mang gì lại cho bạn?
- Làm gì để môi trường bạn sống tin tưởng nhau hơn và hạnh phúc hơn?
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh. Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
– Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa trả lời:
– Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.
Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.
Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.
Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Con người một khi đã bị bệnh câm điếc thì mất khả năng giao tiếp với tha nhân. Vì “câm” sẽ làm cho chẳng ai hiểu ý mình, và “điếc” làm cho mình chẳng hiểu ai. Cũng đôi lúc người câm điếc tưởng vẫn có thể nghe nói được, nhưng thực ra họ chỉ nói và hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
Có câu chuyện dân gian kể rằng: Cụ bà trải chiếu giữa sân. Cụ ông ngồi xuống đập đập hai chân vào nhau phủi bụi rồi nói:
– Chán ghê hết thuốc lào rồi.
– Bà lão: Trưa vừa rào lại đấy thôi, quên à?
– Ông lão: Tôi bảo hết thuốc lào mà
– Bà lão: Vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
– Ông lão: Điếc rồi, thế có chán không
– Bà lão: Giờ này còn định ra sông tắm, trời! Ông đúng là đồ dở hơi
– Ông lão: Dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
– Bào lão: Ông bảo gì mà cháy nhà, cẩn thận cái miệng không là chết oan.
Câm điếc làm cho người sống bên nhau không thể hiểu nhau. Có cái câm điếc thể lý và cũng có cái câm điếc tâm lý. Điếc thể lý người ta có thể hiểu nhau bằng ký hiệu, bằng ngôn ngữ tay. Điếc tâm lý thì họ cố tình không hiểu không nghe nhau. Và trong đời sống hôn nhân hôm nay rất nhiều trường hợp vợ chồng hiện đang rơi vào tình trạng câm điếc vì họ thiếu cảm thông và đối thoại với nhau. Những ông chồng, bà vợ đáng tiếc là không hề “câm điếc” với người ngoài, mà chỉ “câm điếc” với nhau. “Bệnh” này làm đời sống hôn nhân ngày càng khô cứng và hạnh phúc chết dần mòn…
Có một người vợ tâm sự với tôi rằng: “Chồng con nghi con đem tiền bạc về cho mẹ ruột, con nói gì ông ấy cũng không nghe. Con có cảm giác như mình đang ở với người điếc”. Nhưng cũng từ đó, hai vợ chồng chẳng khác gì hai người khách cùng trọ một nhà. Không đối thoại và cũng không muốn hiểu nhau.
Và cũng có người chồng nói rằng: vợ con nói nhiều quá khiến con chẳng thể chen vô được. Lúc nào cũng quát mắng con cái, khủng bố chồng bằng những lời dung tục, bà nói nhiều quá nên bây giờ con trở thành kẻ câm điếc cho xong.
Và đôi khi chính chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tâm và trách nhiệm.
Xem ra xã hội nào cũng có người câm điếc cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được khai thông tâm hồn để lắng nghe và cảm thông với nhau. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc thể lý và tâm lý. Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho mình. Dường như họ đã quên đồng loại hay cố tình bỏ rơi đồng loại để chỉ lo cho mình. Con người đi vào vòng xoáy danh lợi thú tựa như nhiều vòng tròn mà chẳng bao giờ gặp nhau.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay khiến tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau. Căn bệnh có tên là “Macke no” đã khiến con người kinh tởm và xa rời nhau. Họ giả điếc làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em.
Xem ra con người ngày nay cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.
Phải, cần phải mở tấm lòng để sống không phải vì mình mà phải vì tha nhân. Vì mình chúng ta sẽ ích kỷ và bỏ rơi đồng loại. Vì tha nhân chúng ta sẽ sống có ích cho đời. Xã hội sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người nhưng không bao giờ đòi mọi người vì mình.
Tiếc thay, con người lại thích sống trong vỏ ốc ích kỷ hơn là ra khỏi chính mình. Bằng chứng cho lối sống ích kỷ và mackeno là việc phá thai. Người ta ước tình rằng: mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ca nạo phá thai. Thật không gì nhẫn tâm khi phải chứng kiến những em bé bị cắt thành nhiều mảnh rồi lôi ra khỏi lòng mẹ. Còn đâu nữa ‘lòng mẹ bao la như biển Thái Bình’, còn đâu nữa ‘Lương y như từ mẫu”, vì bây giờ thai nhi được xem là cục nợ – là kẻ thù mình phải nhanh tay trừ khử, để trốn được trách nhiệm về sự buông thả của mình và bác sỹ thì có thêm thu nhập. Người ta nhận định ‘tệ nạn phá thai là sự phá sản của lương tâm’, vì tình mẫu tử rất thiêng liêng mà nay cũng không còn – mạng sống con người không được tôn trọng thì sự vô cảm với tha nhân quanh ta là điều tất yếu.
Đây là vấn đề thuộc về giáo dục phải khởi từ gia đình là trường học đầu tiên phải dạy cho con ý thức sống chung với đồng loại. Gia đình đừng dậy cho con trẻ sống chỉ biết mình, mà phải biết sống có ích với xã hội loài người. Gia đình phải giúp con trẻ sống có ích cho đồng loại. Rất mong mỗi gia đình biết giáo dục các thành viên biết nhường nhịn và tôn trọng nhau, có vậy ‘nó’ mới biết tôn trọng người khác khi ra xã hội và mới hạnh phúc khi lập gia đình hay tu trì. Thật đáng sợ khi xã hội nào đó đào tạo ra một lớp người chỉ biết sống theo chủ nghĩa ‘mackeno’. Lòng hào hiệp và sự vô cảm là hai mặt của ‘một đồng tiền’ lương tâm, hãy cảnh giác sự biến thái đạo đức xảy ra ngay trong lòng mình và môi trường sống quanh ta. Đừng để cho chuỗi tình thương ta nhận được từ Đấng Tạo Hóa và từ cuộc đời nầy kết thúc nơi bản thân mình.
Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Nhiều người thính tai về thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh.
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!”
Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers.
Và vào ngày 1/6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình như sau:
“Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là nhiều người xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.
Kết quả là người điếc thường phải xa lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín”.
Chính Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc cũng nói rằng bị điếc không nghe được, thì những cánh cửa cuộc đời hầu như bị khép lại như khi mở radio thì chẳng hiểu gì, xem truyền hình cũng thế, và hầu như không thể trò chuyện được với ai cả, vì thế, sau một thời gian họ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.
Câm điếc về phần xác đã khổ, câm điếc về phần hồn còn khổ hơn nữa như một người đã chia sẻ: Nhiều người thính tai về thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh.
Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ mọi thứ trên đời, nhưng lại hành xử như người câm, hoặc ấp úng, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ phải, những lời chân thành yêu thương, những lời đem lại bình an, hòa thuận cho những người đang cần tới.
- Chúng ta có thể bị điếc khi lặn ngụp trong tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống.
- Chúng ta có thể bị câm khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã dành cho chúng ta.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi không còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người khác.
- Chúng ta có thể bị câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng mình và tệ hơn nữa, coi người khác như hỏa ngục, hoặc như là một sự quấy rầy phiền nhiễu.
Bởi đó, xin Chúa hãy mở môi miệng chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh.
Dù là bị câm điếc như thế nào đi nữa, Đức Giêsu cũng có thể chữa lành, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Chúa và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: «Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh câm điếc của chúng ta sẽ được chữa lành.
Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra mình đang thật sự bị câm điếc thì Chúa mới chữa lành chúng ta được! Nếu bị bệnh mà lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa cũng đành bó tay.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy mở môi miệng chúng con, để chúng con biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.
Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.
Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.
Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.
Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.
Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.
Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
- Bức tường Bá Linh (Berlin). Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau. Nó chia đôi thế giới ra hai phe: tư bản và cộng sản thù nghịch nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
- Bức tường câm điếc. Tật câm điếc cũng ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Điếc không nghe, không hiểu, không thông cảm với ai được ; câm không nói, không làm cho người ta hiểu tâm tư nguyện vọng của mình. Sống giữa người khác như bị nhốt tù trong bức tường câm lặng. Kẻ câm điếc dễ bị khùng khùng mát mát là thế. Không hiểu người khác, dễ hiểu lầm ra thù ghét người khác. Đức Giêsu đã đến phá đổ bức tường câm điếc cho anh. Khiến anh có thể nghe được, nói được, thông cảm, hiểu biết được mọi người và mọi người cũng nghe và hiểu anh được. Tình liên đới, thương mến sống lại trong anh. Anh được đoàn tụ, hợp tác xây dựng cuộc đời tươi đẹp biết bao với mọi người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã chữa anh câm điếc một cách đặc biệt. Bao nhiêu bệnh nhân khác, Người chỉ nói mấy lời. Còn đối với anh, Người đã đặt tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời và thở dài kêu lên: “Hãy mở ra”.
- Bức tường giữa Do thái và chư dân. Cách chữa ân cần và đặc biệt của Đức Giêsu, không phải chỉ cứu anh câm điếc dân ngoại này khỏi bị ngăn cách với gia đình và xã hội, mà còn chữa một bệnh quan trọng hơn, đó là bệnh ngăn cách Do thái với dân ngoại, ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa tới muôn dân. Một bức tường ngăn cách vô hình thật đáng sợ! Nó đã biến Do thái và dân ngoại thành thù hận, Do thái cấm dân không được liên đới, đi lại với dân ngoại. Ai cố tình vi phạm là mắc tội ô uế. Về nhà phải tắm rửa nhiều lần mới được khỏi. Đức Giêsu phải trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số. Người bỏ miền Ty và Sidon là hai tỉnh nước Lyban bây giờ, tới phía đông biển hồ Galilê, vượt qua cao nguyên Gô lăng của nước Syrie và miền Thập tỉnh của sông Gióc đăng, qua Irăng, Irắc tới vịnh Ba tư, miền mỏ dầu bây giờ thuộc các nước chư dân ngoài Do thái. Cuộc hành trình đó đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại, phá đổ bức tường ngăn cách tôn giáo, để nước Thiên Chúa đến với muôn dân.
- Bức tường giữa loài người và Thiên Chúa. Một bức tường ghê gớm khủng khiếp đã ngăn cách con người với Thiên Chúa. Không có một sức mạnh nào của loài người phá đổ được, chỉ có Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, mới phá đổ được thôi: Đó là bức tường tội lỗi mà kẻ gieo rắc là satan. Chúa Giêsu đã lấy thánh giá phá đổ bức tường tội lỗi này. Người còn phá đổ bức tường cuối cùng mà thánh Phaolô nói là kẻ thù cuối cùng là sự chết. Người đã phá tung nấm mồ đè bẹp loài người để cho loài người sống lại với Người. Ai tin Chúa Giêsu sẽ chiến thắng sự chết, sẽ được thập giá như chìa khóa mở cửa nước Trời cho họ vào nhà Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin “hãy mở ra”, mở mọi trói buộc thân xác chúng con, mở mọi trói buộc tâm hồn chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi mọi xiềng xích bất công, bất hòa, hận thù, tội lỗi. Xin hãy mở cho chúng con được thấy ơn cứu độ muôn dân, thấy nước hằng sống vinh phúc của Cha chúng con trên trời.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
KẺ ĐIẾC NGHE ĐƯỢC. KẺ CÂM NÓI ĐƯỢC
Trình thuật về phép lạ chữa người điếc và ngọng này duy nhất chỉ có thánh Maccô trình bày. Chúng ta thấy có những chi tiết hơi lạ: Chúa Giêsu không chữa anh như đã chữa bao nhiêu bệnh nhân khác, chỉ bằng một lời nói… mà Ngài làm như một nghi thức:
– Ngài đem bệnh nhân ra khỏi đám đông,
– Ngài đặt tay, thấm nước miếng,
– Ngước mắt lên trời, thở dài và nói một lời: “Hãy mở ra”.
Ngài muốn gì thế?
Chúng ta muốn hiểu thế nào tùy ý. Thánh Maccô không giải thích, Chúa Giêsu cũng chẳng nói gì thêm. Mỗi nhà chú giải có ý kiến khác nhau. Chúng ta cũng tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay.
Người điếc và ngọng này do người ta đem đến với Chúa, những người đó có lẽ là những người Do Thái ở vùng dân ngoại, đã nghe biết những phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác. Và đúng thế, Ngài đang ở vùng Thập tỉnh là vùng đất xôi đậu, người Do Thái chỉ là thiểu số.
Trước đó, Chúa Giêsu đã chữa cho con gái bà Xyrô-Phênixi ở gần đó và danh tiếng Ngài đã lan rộng đến miền Thập Tỉnh này. Điều này chứng tỏ, sứ mệnh của Ngài không hạn hẹp trong dân Do Thái mà thôi, mà cả dân ngoại cũng được hưởng nhờ, mặc dù “ơn cứu độ đến từ người Do Thái”.
Chúa Giêsu chấp nhận chữa cho người tật nguyền này, nhưng Ngài không làm giữa đám đông, mà đem anh ra khỏi đám đông. Có thể Ngài chỉ muốn làm âm thầm, sợ dân chúng tưởng Ngài làm một thứ ma thuật, bùa phép gì đó.
Ngài muốn tiếp xúc với bệnh nhân trong riêng tư để cho họ thấy rằng chính Ngài ban cho họ hồng ân của Ngài. Phải gặp gỡ Ngài trong một gặp gỡ thân tình mới cảm nhận được hồng ân.
Ngài làm những cử chỉ rõ rệt như chạm đến nơi bị bệnh tật. Chính Ngài làm cho cơ thể họ lành mạnh, không do một nguyên nhân ngoại lai nào khác.
Ngài lấy nước miếng chấm vào lưỡi, không phải như nhiều người tưởng đó là cách chữa bệnh của dân địa phương, vì họ cho nước miếng là một dược tá. Nhưng chỉ chấm một chút mà thôi thì làm sao chữa bệnh? Các bà mẹ thường nhai cơm cho con khi con còn nhỏ là một cách rất tốt để giúp cho con tiêu hóa dễ dàng. Nước miếng của người mẹ rất công hiệu. Đây chỉ là một cử chỉ tượng trưng chứng tỏ một liên đới thật sâu xa giữa Ngài với bệnh nhân và giúp cho bệnh nhân được khỏi bệnh.
Để chữa bệnh điếc, Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và sau đó mới truyền: “Hãy mở ra”.
Tại sao Ngài làm như thế? Thánh Máccô chỉ tường thuật và không giải thích. Bệnh này không trầm trọng như bệnh cùi, sao Ngài lại làm những cử chỉ khác thường như thế? Người điếc này là hình ảnh của biết bao nhiêu người điếc, không nghe, không nói, những người hững hờ với lời mời gọi của Chúa. Ngài thở dài như phải cố gắng lắm để chữa lành bệnh nhân, và sau đó mới truyền lệnh: “Hãy mở ra”. Có điều gì đó đang đè nặng con tim Ngài. Sự dửng dưng của chúng ta trước lời mời gọi của Ngài là chướng ngại để Lời Chúa có thể đi vào tâm trí chúng ta. Phải dùng cả quyền năng của Ngài mới mở cửa tâm hồn chúng ta.
Quyền năng của Ngài đã giải thoát bệnh nhân. Chúng ta chỉ có thể nghe Lời Ngài và công bố rõ ràng những gì Chúa nói với chúng ta, khi chúng ta tiếp cận với Ngài, riêng lẻ, phải được Ngài chạm đến, phải được thấm nước miếng của Ngài.
Đức tin được phát sinh nhờ lắng nghe như thánh Phaolô đã xác quyết (Rm 10, 17). Thảm kịch của con người là không muốn lắng nghe Lời Chúa. Nhưng khi Chúa mở tai chúng ta, chúng ta sẽ nghe được tiếng Ngài và lòng chúng ta đón nhận Ngài, chúng ta mới hiểu được quyền năng và tình thương của Ngài.
Câu chuyện người điếc ngọng này nhắc chúng ta nhớ đến tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rủ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình”. (Hs 3,16).
Thiên Chúa đối xử với chúng ta như thế, yêu thương chúng ta như thế, sao chúng ta không muốn nghe Lời Ngài? Sao chúng ta cứ tìm hạnh phúc nơi trần thế mà lãng quên tình yêu luôn săn đón của Ngài? Ngài luôn nhẫn nại đợi chờ. Ngài vẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta trở về, không mỏi mệt. Ngài mở tai chúng ta, đồng thời cũng thoa nước miếng vào lưỡi chúng ta để chúng ta nói được rõ ràng, để chúng ta mở miệng ngợi khen Ngài, công bố những kỳ công và tình thương của Ngài.
Ngài phải đợi chờ đến bao lâu?
Đến bao giờ chúng ta mới mở miệng loan truyền tình yêu của Ngài? Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu, để yêu, để công bố cho mọi người. Chúng ta có cảm thấy rằng nghe được tiếng Chúa là một hồng ân không: “Phúc cho tai chúng con vì được nghe!”
Chúng ta đã từng nghe Lời Chúa, chúng ta có chú tâm không? Chúng ta đánh mất không biết bao nhiêu hồng ân! Sau khi chữa lành người điếc và ngọng này, dân chúng kinh ngạc và ngợi khen: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”!
Người tàn tật này là hình ảnh của nhiều người trong chúng ta. Anh là bằng chứng cụ thể của quyền năng Thiên Chúa. Chính nhờ anh mà nhiều người nhận ra bàn tay Chúa thi ân cho con người. Khi chúng ta lắng nghe và công bố những việc làm của Chúa, chúng ta thành môi miệng của Ngài. Khi chữa lành người bị quỷ ám ở Ghêrasa, anh ấy xin Ngài cho anh theo Ngài, nhưng Chúa bảo: “Con hãy về tường thuật lại cho mọi người biết những gì Chúa đã làm cho con”.
Chúng ta hãy đến với Chúa, xin Ngài mở tai chúng ta và đem những người anh em điếc, ngọng đến với Chúa, như dân địa phương đã đem người tàn tật này đến để được chữa lành; và hơn nữa, chính chúng ta hãy làm cho mọi người xung quanh hiểu được Chúa thương họ như thế nào qua những hành vi bác ái của chúng ta.
Chúng ta hãy đi theo vết chân của Ngài, làm mọi sự cho tốt đẹp để mọi người thấy những việc chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Tuy chúng ta không làm phép lạ, nhưng cũng có thể làm được nhiều việc nếu chúng ta dám để cho Ngài sử dụng con người chúng ta, cuộc sống chúng ta.
Nhiều lúc chúng ta đầy thiện chí, sẵn sàng làm mọi việc cho Chúa, nhưng khi chạm vào thực tế, bị người khác tấn công, xuyên tạc, chúng ta nản chí, rụt rè…Những người dấn thân làm việc Chúa đều kinh nghiệm những giai đoạn khó khăn như thế.
Chúa Giêsu luôn gặp trở ngại và chống đối, nhưng Ngài luôn đi tới cùng, không chạy trốn. Chúng ta tưởng rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có thể làm mọi việc mà không cần phải cố gắng, vì Ngài quyền năng. Nghĩ như thế là lầm to. Ngài đã mặc lấy thân phận con người, Ngài phải luôn phấn đấu để vượt qua mọi trở lực, vì Ngài luôn vâng lời Cha Ngài và trung thành với sứ mệnh Cha đã giao. Cảnh sầu muộn trong vườn Ghếtsêmani vẫn rõ nét trước mắt chúng ta.
Theo Ngài, chúng ta không thể “ngồi mát, ăn bát vàng”. Nhưng cần phải phấn đấu! Phải nói rõ ràng Lời Chúa cho một thế giới “dị ứng” với tất cả những gì là “thiện”, là một điều không dễ. Chính vì thế mà nhiều người đã “bỏ Thầy và rút lui”.
Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta có “một quả tim biết lắng nghe” như Salômôn, vì nghe bằng tai vẫn chưa đủ, phải nghe bằng con tim, lời nói của chúng ta mới có sức thuyết phục.
Chúa Giêsu đến với chúng ta và “ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến hôm nay qua tấm bánh để thấm nhập vào xương thịt chúng ta, giúp chúng ta trở thành “lắng nghe” và thành “lời” sống động, vì “không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì”. Có Ngài là sinh lực, là Tình Yêu. Ăn lấy Ngài để có sức dấn thân trọn vẹn hơn.
Trong một cuộc hội thảo, anh bạn ngồi bên tôi, không hiểu vì ngủ gật hay vì chia trí lo ra những chuyện đâu đâu, nên khi được mời lên phát biểu, anh đã đưa ra một ý kiến và để trình bày ý kiến này, anh đã đi vòng vo tam quốc, từ chuyện trên trời đến chuyện dưới đất, từ chuyện bên tây đến chuyện bên tàu, trong khi đó mọi người thì cứ tủm tỉm cười thầm. Cuối cùng, người điều khiển phải tạm ngắt ý kiến của anh ta và nói: Tất cả những điều anh diễn tả, cũng như đề nghị, chúng tôi đã trao đổi và bác bỏ ngay từ lúc mới bắt đầu cuộc hội thảo này rồi. Lúc bấy giờ, mọi người mới dám cười ồ lên.
Lâu ngày có người bạn tới chơi vào ban tối, chúng tôi đã nằm tâm sự với nhau về những ngày tháng xa xưa. Tôi nói và anh bạn gợi lại. Cứ thế cho tới một lúc tôi cảm thấy hình như chỉ còn mình tôi nói, ngó sang bên cạnh thì anh bạn tôi đã ngủ thiếp từ lúc nào không biết.
Từ hai mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy hai anh bạn yêu quí của tôi đã không biết lắng nghe hay không chịu lắng nghe nữa, cho nên một anh thì tưởng rằng ý kiến của mình là ý kiến đầu tiên được đề nghị. Còn anh bạn kia thì lại để tôi nói chuyện một mình với đêm tối.
Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu người cũng đã không biết lắng nghe như thế. Phải chăng không biết lắng nghe đã trở nên như một lầm lỗi, một cơn bệnh thông thường.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người không thể lắng nghe vì anh ta điếc. Cái điếc này không đáng trách. Điều đáng trách, đó là biết bao nhiêu người có đôi tai thính, nhưng họ lại không nghe thấy bởi vì họ không lắng nghe.
Kinh nghiệm cho thấy lắng nghe là một điều kiện rất quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Thực vậy, đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người đều biết lắng nghe, để cố gắng hiểu được điều người khác muốn nói.
Sự cảm thông không phải là con đường một chiều. Nói và nghe đúng cách sẽ giúp chúng ta hiểu nhau hơn và sẽ bắc được nhịp cầu cảm thông giữa chúng ta với những người chung quanh.
Dĩ nhiên dưới mái ấm gia đình, con cái phải lắng nghe cha mẹ nhưng đồng thời cha mẹ cũng phải lắng nghe con cái. Hãy bình tĩnh lắng nghe con cái mình nghĩ gì, cảm gì, muốn gì để rồi từ đó có những hướng dẫn, vừa không mang tính cách độc đoán, nhưng lại vừa hợp tình lại và hợp lý.
Ở trường, học trò phải lắng nghe thày cô, bởi vì nếu không lắng nghe thì chẳng hiểu được chi về bài vở của mình. Nhưng đồng thời thày cô cũng phải lắng nghe học trò trả lời hay đặt câu hỏi, nhờ đó mà trắc nghiệm được sự hiểu biết của học trò mà đổi mới cách thức giảng dạy.
Và nhất là ở đây, trong nhà thờ này, lắng nghe lời Chúa là một việc hết sức quan trọng. Lời Chúa muốn nói gì với tôi và Ngài mong muốn nơi tôi điều chi. Điểm chính của bài giảng hôm nay là gì? Phải chăng là hai chữ lắng nghe. Chúng ta cần nói với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng ta hãy thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe…
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Trong thiên hạ có anh giả điếc
Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,
Chẳng ai ngờ: sáng tai họ điếc tai cày…”
(trích bài “Anh giả điếc” của Nguyễn Khuyến)
Sáng tai họ điếc tai cày
Theo nghĩa đen, khi người cày ruộng ra lệnh cho trâu đi cày thì tai trâu như điếc chẳng nghe gì, nên cứ đứng ỳ một chỗ. Tật đó gọi là điếc tai cày. Trái lại khi đang cày ngon trớn mà chợt nghe người cày hô nhỏ: “họ!” (tức là dừng lại) thì tai trâu trở nên sáng tỏ, trâu bèn đứng lại liền. Tật nầy gọi là sáng tai họ.
Thành ngữ nầy ám chỉ có những đôi tai luôn mở ra (sáng tai) đối với những lời có lợi và thường xuyên đóng lại (điếc tai) trước những lời mà lòng chẳng muốn nghe.
Tai của vị hôn quân chỉ sáng trước những lời đường mật của lũ nịnh thần nhưng điếc đặc trước những lời chân thật của các bậc trung thần, vì thế mà triều đình băng hoại và sụp đổ.
Tai của những nhà lãnh đạo tham lam và mù quáng chỉ biết nghe những lời có lợi cho bản thân và điếc hẳn trước những oán than của dân nghèo, vì thế mà nhân dân khốn cùng, Nước nhà mạt vận.
Cách đây 150 năm, giá như triều đình của Vua Tự Đức (trị vì: 1847-1883) sáng tai trước những lời điều trần kêu gọi cải cách về nhiều mặt của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) thì Việt Nam ngày nay lớn mạnh biết chừng nào.
Và giá như nhân loại sáng tai trước những lời giáo huấn của Chúa Giêsu thì mọi người đã được sống trong yêu thương hạnh phúc, đâu còn cảnh chiến tranh, khủng bố, áp bức, bất công… Tuy nhiên, nhận ra sự điếc lác của mình trước một số lãnh vực nào đó và tìm cách chữa trị nó là điều không dễ.
Điếc tâm linh
Trong tác phẩm “tự thú”, thánh Âu-tinh nhìn nhận đôi tai của người đã điếc lác trước Lời phán dạy của Chúa trong thời gian lâu dài:
“Con yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và đã xua tan sự mù loà của con…”
Cho đến năm 33 tuổi, đôi tai điếc của thánh Âu-tinh đã được Chúa Giêsu khai mở để đón nghe Lời Người.
Chúa Giêsu cho người điếc được nghe: Qua bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Isaia đã báo trước một thời đại hồng phúc, thời Chúa Giêsu đến mở mắt cho người mù, mở tai cho người điếc: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai và miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 5-6).
Lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu qua trình thuật của thánh sử Máccô: “Hôm ấy, Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng” (Mc 7, 31-35)
Hôm nay, nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người mở tai, chúng ta cũng chỉ là những người điếc trước những lời ban sự sống. Nếu không được Chúa Giêsu và Thánh Thần Người mở mắt, chúng ta mãi mãi vẫn chỉ là những người mù không thể nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã mở tai cho người điếc ở miền Thập tỉnh được nghe. Chúa cũng đã thương cho đôi tai điếc lác của thánh Âu-tinh được mở ra để đón nhận những lời thần thiêng của Chúa.
Nay xin Chúa cũng cúi xuống trên chúng con, đoái thương tình cảnh “điếc lác” của chúng con, cho tai tâm hồn chúng con được sáng trước những lời dạy khôn ngoan của Chúa, là những lời có sức mang lại cho chúng con sự sống muôn đời.
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Trong Thánh Thư gửi giáo đoàn hôm nay, Thánh Giacôbê mời gọi tín hữu kiểm xét lại cách đối xử với anh em. Ngài viết: “Anh em là những người tin vào Đức Kitô vinh hiển thì anh em đừng thiên vị ai”. Người ta có cảm tưởng rằng Thánh Tông đồ đã dự một cuộc họp cộng đoàn, đã mục kích những sự kiện xảy ra và buộc lòng phải lên tiếng. Người ta hay đặt vấn đề giai cấp, trọng người giàu, coi thường kẻ nghèo, miệng hô hào tình huynh đệ bình đẳng, nhưng cách cư xử lại phân chia giai cấp.
“Anh em xét xử thiên vị và trở nên những quan xét đầy tà tâm”. Không phải tiền của, sự giàu sang hay nghèo hèn làm nên giá trị của con người, nhưng là đức tin, nghĩa là sự chấp nhận và đặt để Thiên Chúa vào trong đời mình. Người giàu hay trở nên bần tiện và người nghèo thường hay cởi mở, biết chia sẻ với người khác và “trở nên giàu có và được hưởng Nước Trời”.
Thánh Marcô là vị ngôn sứ duy nhất đã thuật lại việc Chúa chữa lành một người câm và điếc. Những chi tiết rõ rệt và thú vị làm liên tưởng đến Phêrô người đã chứng kiến phép lạ tại chỗ, và đã kể cho đồ đệ chép lại. Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđan, đến gần biển Galilê giữa miền thập tỉnh. Người ta dẫn đến một người câm và điếc. Chúa đã chữa lành.
Câm và điếc là một tật bệnh gây đau khổ nhiều, vì nạn nhân bị cắt đứt mọi đối thoại với kẻ khác và sống một mình lẻ loi. Chúa tỏ ra thông cảm và yêu mến anh, nêu gương cho Giáo hội lập nên những tổ chức bác ái để trợ giúp hạng người xấu số đó, như các nhà gọi là “Nhà Effata” (Hãy mở ra), danh xưng trích từ đoạn Phúc Âm này.
Chúa đã làm gì? Phúc Âm nói: Ngài đem anh ra khỏi đám đông. Vì Ngài không muốn dân chúng coi việc người làm có tính cách phù thủy. Phép lạ là do quyền năng của Chúa thực hiện, thật ra không cần đến sự việc bên ngoài, mà do tình thương của Chúa, như trong phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết. Ở đây, Chúa dùng nhiều tác động bên ngoài, để làm nên phép lạ, như đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi và phán: “Ephpheta”, nghĩa là “hãy mở ra”, tức thì tai anh mở ra, lưỡi anh được tháo gỡ và nói được.
Phải chăng những tác động và lời nói ấy tiên báo các phép bí tích mà một ngày xưa kia Chúa sẽ thiết lập trong Giáo hội, để thông chuyển sự sống ơn thánh. Chúa sẽ dùng chất liệu bên ngoài như nước, dầu, bánh, rượu, hiệp với lời thánh hóa để ban sự sống thiêng liêng cho chúng ta.
Phép lạ Chúa làm cũng là một bài học cho môn đệ. Người môn đệ Chúa phải là người cởi mở, vừa đón nhận vừa thông chuyển Lời Chúa. Phải mở tai để nghe Lời Chúa và mở miệng để tuyên xưng đức tin, như nhà Tiên tri Isaia từng nói: “Đức Giavê đã cho tôi lưỡi của môn sinh, để tôi biết nâng đỡ người cùng khổ. Và sáng sáng, Người lay tỉnh tai tôi cho tôi biết nghe như những môn sinh” (Isaia 50, 4).
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với một người bạn chí thiết. Xin Chúa hãy đặt lên câu “Epphata –Hãy mở ra”, trên con để con được nghe, được suy niệm, được biết công bố Lời Chúa. Giáo hội tiên khởi đã đặt nghi thức vào lễ rửa tội.
Hồi ấy, Hiêrônimô (342-420) là một văn hào lỗi lạc về văn chương cổ điển và không biết gì mấy về Thiên Chúa. Người say mê đọc các tác phẩm của Cicéron. Một hôm, người nghe tiếng Chúa hỏi:
– Hiêrônimô, con là môn đệ của ai?
– Thưa con là môn đệ của Chúa.
– Không phải, con là môn đệ của Cicéron!
Từ đó, Hiêrônimô giác ngộ và quyết chí học hỏi Lời Chúa. Ngài được ơn Epphata. Ngài qua thánh địa vào ẩn tu trong hang đá Bêlem để phiên dịch Thánh Kinh, để suy niệm Lời Chúa, sống trong khung cảnh Chúa đã sống. Ngài đã nói: “Ai không hiểu biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu”. Bản dịch Vulgate (phổ thông) của ngài đã được Công đồng Triđentinô (thế kỷ XVI) nhìn nhận là phù hợp với đức tin và được coi là bản dịch chính thức của Giáo hội.
“Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 1, 14 – Đáp ca).
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.
Bài Tin mừng Chúa Nhật 23 TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe ( không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.
Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp “chó câm” như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật…( x.Mt 26,64; Ga 18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi “mọi sự đã hoàn tất”. Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu “nói ngọng, nói vẹt”, tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn… Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.
Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận… mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.
Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết “vi hành” trong lớp vỏ một dân thường để “nghe-nhìn” cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp “làm dâu trăm họ”, nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không “biết” chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức “tiếp xúc cử tri” như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.
Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: ” Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt…” ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc 3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là “chống lại Thánh Thần” ( x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).
Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời “tuyên họa” của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống ( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.
“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con …” Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata! Hãy mở ra! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe!
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta.
Suy niệm:
Dân gian bảo rằng: “điếc hay ngóng, ngọng hay nói”, đó là vì người đó muốn tiếp nhận thông tin, lắng nghe tiếng nói của người khác, cũng như muốn truyền đạt thông tin, muốn nói để cho người khác hiểu mình. Vì vậy mà người mắc bệnh câm điếc sẽ dễ trở nên bực bội, uất ức khi họ bị mất đi tương quan với thế giới bên ngoài. Cho nên, hôm nay, trong đoạn Tin Mừng, người câm điếc được những người thân, bạn bè của mình đưa đến xin Chúa Giêsu chữa lành. Khi thuật lại việc Chúa Giêsu đến với những người những người ngoại quốc vùng Tyrô, Siđon, cũng như miền Thập Tỉnh Decapolis, thánh sử Marcô muốn nhắm đến những người ngoại thuộc Hy Lạp và La Mã trở lại Kitô giáo. Qua đó, ngài làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu không đóng khung sứ vụ của mình trong nền văn hóa của Israel nhưng mở rộng sứ vụ loan báo Tin mừng ra cho lương dân.
Chúa Giêsu có cách chữa xem ra hơi khác lạ với việc đặt ngón tay vào tai người bệnh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời và hô lớn: “Ephata – mở ra”, để tai họ được mở ra và nghe được, miệng lưỡi mở ra và nói được. Điều này bởi vì con người chúng ta là xác đất vật hèn, người trần mắt thịt, nên Chúa chữa với những gì cụ thể, để con người cảm nhận tỏ tường bằng xúc giác.
Việc chữa bệnh thể lý cho người đàn ông này nói lên rằng Chúa cũng muốn chữa bệnh tinh thần cho mỗi chúng ta. Ngày nay, với những thiết bị công nghệ điện tử, mạng internet phủ sóng khắp nơi, và người ta dễ dàng biết chuyện Tây chuyện Tàu, bàn luận chuyện Âu, chuyện Mỹ. Thậm chí tin tức người ta truyền nhau còn nhanh hơn nhà báo chuyên nghiệp săn tin. Thế nhưng rồi con người ta cũng dễ sống khép kín. Người ta bịt kín bởi cặp kín đen, chiếc tai phone, với cái đầu lắc lư, bước chân nhịp nhịp theo điệu nhạc sập sình, đôi môi lẩm nhẩm theo các ca từ đã dần dần làm cho con người ta trở nên bị bệnh “câm điếc” về tinh thần, sống vô cảm trước nhu cầu cần giúp đỡ từ người xung quanh, sống không đoái hoài tới công bằng chân lý khi nhan nhản bên tai những bất công sai trái trong xã hội, sống mặc kệ tiếng nói lương tâm miễn sao có lợi cho mình là được. Và không khỏi kéo theo bệnh điếc lác trong việc lắng nghe và sống theo lời Chúa mời gọi trở nên thánh, bệnh ngọng ngịu ngại ngùng trong việc loan báo Tin Mừng tình thương Chúa cứu chuộc con người.
Vậy chúng ta rất cần để cho mình được Chúa chữa lành, cũng như giúp đưa nhau đến cho Chúa phục hồi khả năng “nghe – nói” nơi chúng ta. Bài đọc I trích sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết đối với bất cứ con người nào. Trái lại, với lời “Ephata”, Người luôn thứ tha, mở ra con đường cho chúng ta bước đi. Vì đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở cửa phụ; khi Ngài đóng một cánh cửa nào đó lại thì đồng thời Ngài lại mở ra nhiều cánh cửa khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó. Vì thế, trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời mà mỗi chúng ta đang đối diện, chúng ta được mời gọi không trở nên bi quan, tuyệt vọng đối với chính mình cũng như người khác. Thiên Chúa luôn luôn là niềm hy vọng và ơn cứu độ mỗi chúng ta.
Chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ: “Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này”.
Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
– Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế! Ông thưa với thiên thần: -Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu. Thiên thần đáp lại: -Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi. Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, nghe bằng tai, không đủ, nói bằng miệng không diễn tả được hết. Xin cho con cũng biết dùng cả trái tim mình để lắng nghe, dùng đôi tay đôi chân mình để diễn tả sự quan tâm anh chị em mình. Lạy Chúa, xin hãy chạm vào chính con nữa và ra lệnh “Epphatha – hãy mở ra” để con cũng được chữa lành, hầu có thể “lắng nghe” tiếng Chúa mời gọi để nói về Chúa cho anh chị em bằng những hành động bác ái cụ th,ể giúp đỡ cho những người đang cần đón nhận Tin Mừng. Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào, SDB)
“Con người là một sinh vật xã hội”. Đây là tiền đề của triết gia Bergson khởi xướng một hệ phái triết học. Ông ta cũng phần nào có lý khi cho rằng con người không thể sống cô lẻ một mình, nhưng phải sống với những tương quan xã hội. Sống trong một cộng đồng và tiếp cận với những người khác, chúng ta cần phải có hai kỹ năng: nghe và nói. Không nói được và không nghe được, không đơn thuần chỉ là khuyết tật về thể lý, nhưng là nỗi bất hạnh lớn nhất vì chúng ta bị cắt đứt khỏi những tương giao với cận nhân. Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Chúa chữa lành một người bị điếc và ngọng, mang chở nhiều chiều kích: chiều kích nhân học cũng như chiều kích thần học. Nhưng trên hết, thánh sử Marcô muốn chúng ta chiêm ngắm dung mạo cứu thế nơi Đức Giêsu. Ngài đến trần gian để mở tai, giúp chúng ta nghe được những gì Chúa nói. Ngài cũng dùng quyền uy để mở miệng, giúp chúng ta biết nói về Chúa, và rao giảng Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Giêsu, “vị lang băm” kỳ diệu
Văn phong của Marcô khá dung dị và mộc mạc. Người bình dân thời bấy giờ rất dễ hiểu. Marcô mô tả Đức Giêsu chẳng khác gì một lang băm miền quê. Vị lang băm này “ đặt ngón tay vào lỗ tai, và nhổ nước miếng xuống đất, bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,23). Có lẽ khi vừa nghe thoáng qua, không ít người khó chịu trước kiểu chữa bệnh xem ra mất vệ sinh và phản khoa học như thế. Ngài lại còn lẩm bẩm đọc một “câu thần chú”: Ep-pha-ta tựa như trong câu truyện thần thoại Aladin và cây đèn thần. Chúng ta đừng quá ngây thơ một cách thô thiển nhìn vào câu chuyện với nhãn quan quá hẹp hòi như thế. Đây chỉ là những biểu tượng nơi phép lạ của Đức Giêsu nhưng mang chở ý nghĩa rất sâu xa.
Chắc chắn Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, càng không phải là một thầy bùa chuyên chữa bệnh bằng cách niệm thần chú. Ngài là một Thiên Chúa đầy quyền lực. Khi đến trần gian, Ngài sống kiếp con người rất con người, nhưng Đức Giêsu vẫn là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa. Ngài chữa lành các bệnh nhân để bày tỏ tình yêu vô bờ bến dành cho trao cho con người, đặc biệt những người cùng khổ và bất hạnh. Điều con người không thể làm được, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể làm được (Mt 19,26). Đức Giêsu là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự, và chúng ta đừng bao giờ đơn sơ nghĩ tưởng Ngài chỉ là một lang băm quê kệch và dốt nát.
Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện, xuất phát từ một trái tim yêu thương. Ngài đồng cảm trước nỗi đau của con người. Câm không nói được và điếc không nghe được, vẫn là nỗi bất hạnh lớn nhất. Những dạng thức bất hạnh đó có liên đới với tội lội. Đức Giêsu đến “giải phóng” con người khỏi những cột trói của Satan và hỏa ngục. Theo não trạng của dân Do Thái thời xưa, bệnh tật là sự khống chế của ma quỷ nhưng là hậu quả của tội lỗi do con người gây ra, đặc biệt tội của chính bệnh nhân. Đức Giêsu phá bỏ quan niệm hẹp hòi này, rõ nhất khi Ngài chữa một người mù bên hồ Silôác mà Tin mừng Gioan thuật lại. Ngài đến trần gian để giải cứu con người một cách toàn diện. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô đã viết: “ Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người sẽ được công chính hóa (Rm 5, 12-21). Đức Giêsu không phải là một lang băm nhà quê, nhưng Ngài là Đấng Cứu thế, Đấng Công chính hóa. Ngài chính là vị “Anh hùng Giải phóng” toàn diện và đúng nghĩa nhất.
Điếc và ngọng trong tâm hồn.
Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành mà Tin mừng hôm nay nói tới, có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, anh ta không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần anh ta bị ngọng. Lưỡi anh ta vẫn có thể nhúc nhích, anh vẫn nói được, nhưng chỉ lờ lợ và chẳng ai hiểu anh ta muốn nói gì. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng. Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật này, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin trong tâm hồn. Cậu bé Samuel ngủ trong đền thờ với thầy Hêli giữa đêm khuya đã nghe tiếng Chúa gọi, nhưng cậu không nhận ra tiếng gọi của Chúa, bởi vì cậu chưa từng gặp Chúa. Cũng vậy, có thể chúng ta không phải là người điếc, nhưng chúng ta sẽ không nghe được tiếng Chúa nói nếu không tiếp cận Ngài, không đi sâu vào tương quan thân tình với Ngài. Chúa nói với chúng ta qua nhiều dạng thức. Ngài ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố trong cuộc sống đời thường. Ngài nói qua sự nhắc nhở của lương tâm, qua các cử hành phụng vụ, khi chúng ta đọc hay nghe Kinh thánh. Ngài nói với chúng ta qua từng người chúng ta gặp gỡ, qua một cụ già ốm yếu đang quặn đau nằm trên giường bệnh, qua một đứa bé mặt mũi lem luốc đang bới rác tìm cái gì để ăn, qua một bạn trẻ ngồi trên xe lăn với tay chân không còn lành lặn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nghe được rất rõ tiếng Chúa Giêsu đang rên la thảm thiết trên Thánh giá trước khi Ngài tắt thở: “ Ta khát”. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn mời gọi chúng ta ra tận “vùng ven” để gặp Đức Giêsu ở đó. Ngài hiện diện nơi những con người sống dở chết dở trong một nền “văn hóa loại trừ”, một thứ văn hóa vô thần mà những con người ích kỷ hôm nay đang tạo ra. Ngài vẫn đang nói, đang thét gào trong đau đớn, nhưng nhiều khi chúng ta “bưng tai bịt mắt, không thèm nhìn cũng chẳng nghe” giống dân Israel ngày xưa (Is 42,20). Đó là bệnh điếc kinh niên, một thứ bệnh nan y mãn tính và rất khó chữa. Muốn được chữa lành, chúng ta phải ý thức mình đang điếc để khiêm tốn đến với Chúa Giêsu giống như bệnh nhân trong Tin mừng hôm nay.
Bệnh câm hay ngọng cũng thế. Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Một con chó câm không biết sủa, thì chỉ đáng đưa lên mâm”. Cũng vậy, một Kitô hữu không biết mở miệng để nói có khác gì một kẻ câm. Nhưng điều quan trọng là chúng ta nói cái gì. “Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng cãi ngang phè phè”. Đây là hai câu thơ trào phúng mang tính dân gian, nhưng nó cũng gợi nhắc cho ta điều mà thánh Giacôbê nhấn mạnh: “Mỗi người hãy mau nghe đừng vội nói” (Gac 1,19). “Ai cho mình đạo đức mà không biết kiềm chế miệng lưỡi, đó chỉ là đạo đức hão. Ai không vấp ngã về miệng lưỡi, ấy là người hoàn hảo” (1,26).
Một câu ngạn ngữ phương tây đã viết: “Có một thanh gươm không bao giờ rỉ sét đó là cái lưỡi con người”. Có lẽ, rất ít người trong chúng ta bị câm về thể lý, nhưng xét về mặt thiêng liêng, chúng ta lại giống như một người không biết nói, hoặc nói ngọng nói ngịu. Có nghĩa là, chúng ta cứ thích nói những gì chúng ta không nên nói, nhưng lại không biết nói những gì chúng ta cần phải nói. Nhiều khi chúng ta lại còn dùng miệng lưỡi như một thanh gươm không han dỉ để sát hại lẫn nhau một cách ác tâm và phũ phàng. Vậy, chúng ta phải nói những gì? Chúng ta nhìn lại thái độ của chàng thanh niên trong Tin mừng hôm nay, dù Đức Giêsu cấm không được kể chuyện đó với ai, nhưng Người càng cấm họ càng đồn ra (c. 36b). Tin tức tốt lành được loan đi, chắc chắn do người thanh niên này trước tiên. Anh ta kể lại câu chuyện anh được chữa lành cho người khác, và cứ thế Tin mừng được nhân rộng, lây lan đến mọi người.
Điều chúng ta cần nói, chính là Tin Mừng. “Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc16,15). Rao giảng Tin mừng tức là kể lại những câu chuyện về Chúa cho người khác, nhất là những câu chuyện liên quan tới chúng ta. Chúng ta không thể thực hiện công việc này, nếu chúng ta không tiếp cận với Chúa Giêsu, không gặp gỡ Ngài, không cảm thấu được tình yêu của Ngài, không để Ngài cuốn hút, và không để Ngài viết nên câu chuyện lịch sử trong đời sống của chúng ta. Nếu không thực hiện được điều ấy, chúng ta chỉ là những người vừa câm vừa điếc, và giả như không bị câm, thì có nói, cũng chỉ biết nói ngọng nói ngịu chẳng ra thể thống gì.
Các anh em tu sĩ dòng Đaminh được gọi là các anh em giảng thuyết (Ordo predicatorum). Châm ngôn của thánh phụ Đaminh là: “Hãy chiêm niệm và chuyển giao những điều chiêm niệm cho người khác” (contemplari et comtemplata aliis tradere). Nguyên tắc này rất đơn giản: Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Không ai có thể dạy người khác điều mình không biết. Phải chiêm niệm Lời Chúa, phải để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, chúng ta mới có thể rao giảng Lời Chúa cho người khác. Nếu không cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha, chúng ta không thể nói về Ngài, và loan báo Tin mừng của Ngài cho mọi người.
Nói và nghe bằng cõi lòng
Năm 1974, Giám mục giáo phận Beauvais bên Pháp truyền chức phó tế vĩnh viễn cho Thầy Jacques Lebreton. Thầy bị mù hai mắt và cụt hai tay. Người ta thắc mắc, một con người khuyết tật như thế làm sao có thể thi hành sứ vụ phó tế, nhất là giảng Lời Chúa. Đức Cha trả lời: Thầy ấy không còn đôi mắt, không còn đôi tay, nhưng còn trái tim. Chúng ta nghe lại tâm sự của Thầy được kể lại trong buổi hành hương Lộ Đức năm 1982:
“Cách đây khá lâu, tôi là một quân nhân. Trong một trận đánh ở El Alamen, tôi và một vài người bạn khác làm nhiệm vụ gỡ mìn. Một anh bạn cầm trái mìn, vô tình mở chốt và trao cho tôi, không hiểu sao tôi lại cầm lấy. Trái đạn nổ tung. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, và dường như tôi đang chết. Tôi đã vĩnh viễn mất đi đôi tay và cặp mắt, mình mẩy đầy các mảnh đạn. Tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi toan tính tự tử. Một tu sỹ đến săn sóc cho tôi và giúp tôi cầu nguyện vì tôi đã bỏ đạo từ lâu. Tôi làm theo và cuộc đời tôi đã biến đổi. Tôi đã gặp lại Đức Giêsu và cùng với Ngài, tôi cầu xin tha thiết: “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, mà chỉ xin theo ý Cha mà thôi”. Tại Evreux, tôi gặp một người đàn bà toàn thân bất toại đến nỗi bà ta không thể nói được, cũng không cử động được. Duy nhất chỉ có ngón chân cái là còn có thể nhúc nhích. Bà đã dùng ngón chân ấy viết trên một tấm bảng nhỏ để nói chuyện với mọi người. Bà cũng dùng ngón chân ấy viết tặng tôi một bài thơ với tựa đề “Nụ cười”. Tôi cũng gặp một người đàn ông khác bị điếc từ năm 14 tuổi, và bị mù chỉ 2 năm sau đó. Trên giường bệnh, người đàn ông 87 tuổi này vẫn nở một nụ cười mãn nguyện và nói với mọi người: “Tôi đã trải qua một cuộc đời rất tốt đẹp. Tôi cám ơn Chúa và xin cám ơn mọi người”.
Thầy phó tế Jacques Lebreton kết luận: “Cuộc đời của tôi, dù không còn mắt cũng chẳng còn tay, vẫn là một cuộc đời tốt đẹp trong sự yêu thương của Chúa. Cuộc đời chỉ thực sự bất hạnh khi chúng ta cắt đứt tương giao với Chúa, khi chúng ta không còn thiết tha cầu nguyện để gặp gỡ Ngài và đi sâu vào sự thân tình với Ngài.”
Kết luận
Có gặp gỡ Chúa, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Có nghe tiếng của Ngài, tâm hồn chúng ta mới có thể mở ra. Khi tâm hồn được mở ra, đến lượt chúng ta, chúng ta mới có thể nói về Chúa cho người khác. Nếu không, chúng ta chỉ là những kẻ vừa điếc vừa ngọng. Điều này cần thiết cho mọi tín hữu, nhất là cho các anh em linh mục. Nếu không biết mở miệng nói về Chúa, chúng ta chỉ là những người câm. Nếu không để Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn, dù có đứng trên bục giảng để khua tay múa chân và thao thao bất tuyệt, cuối cùng chúng ta cũng chỉ là những tên ngọng mà thôi. Vừa điếc lại vừa ngọng, là nỗi bất hạnh lớn nhất nơi mỗi người.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thực ra, trong số các phép lạ Đức Giêsu thực hiện, thì phép lạ chữa cho người vừa điếc vừa ngọng để có thể nghe và nói được rõ ràng không mấy nói lên quyền phép của Đấng Thiên Sai, cho dầu dân chúng vẫn cứ cất lời ca ngợi: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả, ông ấy làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”. Hơn ai hết, Đức Giêsu có lẽ là người hiểu rất rõ, phép lạ này thực ra có một ý nghĩa vừa tế nhị vừa sâu sắc hơn, do đó ‘Người truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả’. Hơn nữa cử chỉ và thái độ khi Người thực hiện phép lạ này hình như cũng biểu lộ một tâm trạng gì đó khác thường; ‘Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… đặt ngón tay vào lỗ tai anh… nhỏ nước miếng và bôi vào lưỡi anh… Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-phê-tha”, nghĩa là ‘hãy mở ra!’
Tại sao việc nghe – nói, đối với Đức Giêsu lại có tầm quan trọng đến thế?
Nếu đối với Cựu Ước khả năng giữ trọn lề luật là tối quan trọng bao nhiêu, vì nó nói lên sự trung thành tuyệt đối với giao ước đã được ký kết sòng phẳng giữa Đức Chúa A-đo-nai và dân riêng Ngài, thì trong Tân Ước, khi Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) mặc lấy hình hài con người, thì việc nghe – nói càng có một tầm quan trọng hơn bấy nhiêu.
Lắng nghe Lời sẽ đồng nghĩa với việc ký kết giao ước mới, tức là đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô Giêsu – Lời. Khả năng nghe chính là khả năng (hay ân huệ) tin vào Đức Kitô Giêsu để đón nhận tình Thiên Chúa yêu thương nhân trần. Người môn đệ của Giêsu – Lời phải là những người có khả năng nghe, tức là nhận biết tình yêu Thiên Chúa. Ân huệ này mang tính riêng tư cá nhân, ‘Người kéo anh ta ra khỏi đám đông’; là tác động trực tiếp của Thần Khí Thiên Chúa trên từng người, ‘Người đặt ngón tay vào lỗ tai anh…’; là ân huệ không được ban cho hết mọi người, vì ‘nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính muốn… nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe’ (Mt 13:17). Thế đấy, ước vọng lớn nhất của Ngôi Lời Nhập Thể là làm sao cho Lời tình yêu này được nhiều người nghe thấu. Và người môn đệ đích thực phải là người có khả năng nghe – nhận biết: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (Mc 9:7).
Khả năng ‘nói’ cũng tương tự như thế. Thời Đức Giêsu, nếu các kinh sư và biệt phái là những người có bổn phận nói cho dân về các lề luật phải tuân giữ để trung thành với Đức Chúa, thì Người cũng đòi hỏi nơi các môn đệ Người khả năng công bố cho mọi người nghe biết về Lời Tình Yêu đã giáng trần và chịu chết. “…Điều anh em rỉ tai trong buồng kín, phải được công bố trên mái nhà” (Lc 12:3). Người sai các ông lên đường cũng là để làm điều này, và đó chính là mệnh lệnh tối hậu – hay đúng hơn – là di chúc Người trăn trối trước khi về trời; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo!” (Mc 16:25). Kitô hữu phải là người có khả năng nói rõ ràng chứ không ngọng nghịu về Lời Tình Yêu này. Đó là tất cả lý do hiện hữu cũng như sứ mệnh của họ trên trần gian, như Phao-lô quả quyết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9:16).
Thế đấy, đối với Kitô hữu, nghe và nói thật quan trọng biết bao, đó chính là lắng nghe Lời Tình Yêu và công bố Tin Mừng Tình yêu! Thật không may, số các Kitô hữu làm được điều này lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Quan trọng hơn, số người ý thức điều này để chuyên tâm trau dồi và cầu xin ơn trên trợ giúp thì lại càng hiếm hoi hơn. Nhiều khi chính tôi cũng nhìn vào Phao-lô và coi ông chỉ là một trường hợp cá biệt. Cùng với nhiều người tôi vẫn coi việc truyền giáo (= công bố Tin Mừng tình yêu) là ơn gọi đặc biệt chỉ được dành cho một số ít. Ngay trong Giáo Hội, người ta thích nghiên cứu sâu rộng sự công thẳng của Thiên Chúa hơn là thấu hiểu Lời tình yêu, nhiệt tình giảng dạy về án luận phạt Chúa giáng xuống trên kẻ tội lỗi hơn là ơn tha thứ vô biên Người rộng rãi trao ban cho hết mọi người. Chẳng trách được, trước khi cất tiếng ‘Ép-phê-tha!’ Đức Giêsu đã phải ‘ngước mắt lên trời, rên một tiếng’!
Tôi cần xem lại khả năng nghe và nói của chính mình, trong tư cách một linh mục của Đức Kitô.
Lạy Lời của tình yêu của Thiên Chúa hằng sống, cùng với thánh Âu-tinh, sau nhiều năm tháng từng xưng mình là Kitô hữu – hơn nữa là linh mục, có lẽ con cũng phải thốt lên: con đã nghe Lời quá trễ và đã ngọng quá lâu khi cất tiếng nói về Lời nhân ái. Xin hãy đặt ngón tay hiền dịu Chúa vào tai con và hãy dõng dạc thốt lên câu ‘Ep-phê-tha’. Xin hãy nhỏ nước miếng của Lời và bôi vào lưỡi con, để con dùng chuỗi ngày còn lại cao rao to tiếng và rõ ràng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa là vô bờ bến. Amen.
SỐNG HOÀN THIỆN MÌNH THEO ÂN SỦNG CHÚA BAN
Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Khi chữa lành người bị tật, Chúa Giêsu không chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi chứng tỏ mình là Đấng Thiên Sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: “mở ra,” “hết buộc lại,” cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng Ngài còn chứng tỏ Ngài có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại.
Phép lạ chữa lành này cho tôi nhận ra mình, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường nhưng tôi vẫn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực. Có những thứ câm và điếc đáng sợ. Càng tệ hại hơn khi chính tôi bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của khi tôi không biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Hay khi tôi câm điếc không biết yêu thương anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân, làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên man trong sự ham hố tiền của, và danh vọng.
Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối tôi hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của tôi, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho tôi. Nguy hiểm vì lòng tôi thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn tôi nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng… Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần chúng ta để lòng mình được mềm đi và đừng cứng cỏi nữa, ta sẽ dễ dàng nhận ra con người thật của mình, biết bao gai góc cần gọt giũa; thói xấu cần chữa trị; tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Như vậy, có nhiều bức tường ngăn chặn làm cho lỗ tai ta bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho miệng của ta trở nên câm nín.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa Thánh Thần mở mắt, lưỡi để chúng ta có thê sống hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố hằng ngày. Do kiêu căng, ích kỷ, tôi lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta không cho chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với mỗi người chúng ta: “Hãy mở ra!”. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời tha nhân để san sẻ, giúp đỡ họ. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và đón nhận tha nhân.
Hãy mở miệng ra để nói được những lời yêu thương với tha nhân và với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của mọi tha nhân, mạnh dạn nói những lời sự thật, nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa. Hãy đến với Chúa, thực tâm tôn thờ Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình… Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng chân thành, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Ngài sẽ biến đổi chúng ta và ta sẽ sớm lành mạnh. Chúng ta sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu của Chúa “Ngài làm những điều tốt đẹp”. Ngài chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để giải thoát và cứu chữa chúng nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh câm trong tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết sống yêu thương tha nhân bằng thái độ tích cực, biết rao giảng Lời Chúa, biết lắng nghe nỗi thống khổ của anh chị em đồng loại và chân thành đi đến với tha nhân bằng tình thương Chúa dành cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Đức Ông Nguyễn Quang Sách)
Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên năm B tuần này như sau: Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
“Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha”, (nghĩa là “Hãy mở ra!”), và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng” (Mc 7,32-35).
Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng. Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách. Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ “điếc” và chúng ta chuộng hơn cách nói “khuyết tật thính giác,” chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận “hai thứ nước men” sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
- Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
- Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội: “Con đã phá vỡ sự thinh lặng.” Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: “Con đã không phá vỡ sự thinh lặng.” Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi. Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: “Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn.” Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: “Đó là thịt bởi thịt tôi.” Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: “Tại ông ấy, tại bà ấy…” Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để “hoà giải chúng ta với Thiên Chúa” và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục “rờ” chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: “Ephphatha, Hãy mở ra!”
Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.
CHÚA GIÊSU- ĐẤNG CỨU CHỮA HỒN XÁC
Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại… và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.
Một số ý kiến cho rằng:
Lý do thứ nhất có lẽ là vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha: lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là: tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà Chúa.
Lý do thứ hai, có lẽ là tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm vui lớn lao đó.
Mỗi người chúng ta đều được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa. Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, người câm điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen.
32. Hãy cao rao tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Anmai)
Nhớ lại tâm tình của một số người Do Thái khi họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu về dấu lạ. Họ đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ thì họ mới tin.
Cũng hay đó chứ! Đó là quyền tự do của họ, quyền tự do của mỗi người khi đối diện với Thiên Chúa. Với bản thân tôi, đơn giản, mỗi ngày được thở, mở mắt ra sống với Chúa một ngày mới nữa đó là dấu lạ rồi. Nhiều và nhiều dấu lạ xung quanh Chúa đã làm cho con người, đã làm cho chúng ta là dấu lạ nhưng chuyện quan trọng là chúng ta không nhận ra.
Một lần kia, lang thang ở trong Viện Tim với một cha đang điều trị. Ngồi trước phòng thay băng, hai bà mẹ bế hai đứa con khoảng 5 tuổi ngồi chờ thông tin về con mình. Đang lúc đó, hỏi thăm thì tôi nghe hai bà nói là 2 đứa bị tim và phải tốn cả vài trăm triệu để phẫu thuật cho hai đứa này. Nghe xong giật thót cả người. Mình mà bị như hai đứa nhỏ này thôi thì cũng mệt.
Đâu cần nghĩ đâu xa, ngay người anh em vừa phải qua lần phẫu thuật vừa rồi đã là phát khiếp. Một vết mổ thật dài ngay trước ngực! Tạ ơn Chúa là ca mổ thành công và người anh em đang bình phục. Nếu tôi bị như thế không biết tôi sẽ ra sao vì sức khỏe không khá mấy và rất nhát những chuyện dao kéo.
Đó là tim, còn nhiều bộ phận khác trong cơ thể con người. Chi thể nào, bộ phận nào con người cũng cần cả. Chỉ cần khiếm khuyết một cái thôi thì ta sẽ thấy đời ta bao là rắc rối. Nhớ đến những em bị câm điếc khi có thời gian sống chung với các em. Thật khổ sở, muốn nói cái gì thì phải dùng cái ngôn ngữ riêng của những em khiếm thính. May chăng học được vài từ của chúng để hiểu những cái sinh hoạt thường ngày chứ đâu biết hơn. Với chính bản thân chúng thì quả là khổ sở, để diễn tả tình cảm, tâm tư cho người khác các em phải vận dụng ngôn ngữ của các em, chỉ có thế giới của những người khiếm thính mới hiểu được với nhau.
Và, thử đặt trong trường hợp chúng ta khiếm thính chúng ta sẽ cảm nhận gì? Dĩ nhiên, thoạt đầu thì cha mẹ và người thân phải tìm đến sự trợ giúp của y khoa cũng như bằng mọi cách hỗ trợ để cho người khiếm thính hội nhập với mọi người. Cuối cùng không làm được gì thì đành phải cho em học ở trường khiếm thính.
Ngày hôm nay, trong hành trình đi rao giảng Tin Mừng của mình, người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Chúa Giêsu và xin Chúa Giêsu đặt tay trên người câm điếc ấy. Chúa Giêsu đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng.
Sau đó, Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Chúa Giêsu càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”
Dĩ nhiên, sứ mạng của Chúa Giêsu đến trong cuộc đời này là Ngài băng bó những tâm hồn tan vỡ, Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền … và chuyện quan trọng nhất đó là cứu độ con người.
Tâm tình đó, lời loan báo đó chúng ta vừa được nghe ngôn sứ Isaia nói: Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Vâng! Thiên Chúa đến mang lại bình an, mang lại hạnh phúc, mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong cuộc sống thường ngày, Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn chở che mỗi người bằng tình yêu thương của Ngài. Thế nhưng, đáng tiếc thay con người đã không nhận ra tình yêu thương đó mà đôi khi cáu gắt, hận thù, hơn thua, ganh tỵ nhau.
Chúng ta vừa nghe tâm tình của Thánh Phaolô: Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”.
Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao? Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta về tâm tình khiêm hạ. Nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã coi thường những người nghèo, những người thấp bé hơn chúng ta.
Thật ra, Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn huệ nhưng chúng ta đã không nhận ra những ân huệ đó để rồi chúng ta cứ than vãn, chúng ta cứ ganh đua nhau.
Ngay cả bản thân chúng ta, như ông bà thường nói nhìn lên chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người.
Tại sao chúng ta không nhận ra diễm phúc, ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta cao rao tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta.
Chúng ta hãy bắt chước anh chàng câm điếc hôm nay để cao rao tình yêu Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
NGÀI CHO KẺ ĐIẾC NGHE ĐƯỢC, KẺ CÂM NÓI ĐƯỢC
Tại viện câm điếc Lái Thiêu có trên 200 em câm điếc. Các em nói chuyện với nhau bằng một thứ ký hiệu riêng. Trong trường có em Lâm văn Lý bị điếc ngay từ khi sinh ra, cha mẹ em đã gửi vào trường từ khi em lên bảy. Các thầy cô vẫn coi em là người chậm chạp và ngu đần. Nhưng khi em lên lớp ba, cô giáo Trần thị Mơ đã nhận ra em có khả năng nghe được. Cô giáo đã tìm cách chạy chữa cho em, cuối cùng em đã nghe được và nói được. Em đã theo đuổi hết lớp trung học và đã ra trường năm em lên 18 tuổi.
Em Lâm văn Lý bị nặng tai cũng giống như người thanh niên trẻ trong Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành cho anh. Chúa vẫn còn mở tai cho người điếc ngày nay như mở tai cho người thanh niên trong thời của Ngài. Có điều là Ngài không dùng tay một cách trực tiếp để chữa lành, nhưng Ngài dùng cách gián tiếp qua những bàn tay của người khác cũng giống như cô giáo Trần thị Mơ nhờ thầy lang, nhờ bác sĩ mà chữa lành cho em.
Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta để ban phát sự lành cho những tâm hồn đói khát sự công chính. Chúa muốn mượm trái tim bác ái, nhân từ của chúng ta để Ngài chạm tới các tâm hồn những người khác. Chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ngài không?
Lạy Chúa, xin cho chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem trái tim đổi mới thế giới như chúng con là những dụng cụ của Chúa dùng.
(Suy niệm của Br.Thiện Mỹ, CRM.)
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời:
– Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gởi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!…
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khoá chặt lại: mở Radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản….
Chúa đã tạo dựng nên ta có tai để nghe Lời Chúa, có mắt để đọc Lời Chúa, có miệng để ca tụng Chúa. Ngoài những mục đích cao cả đối với Chúa, chúng ta còn phải liên kết với tha nhân đủ mọi phương diện. Thế mà ở đây lại có người vừa câm lại vừa điếc, thật là tội nghiệp. Nên người ta thương hại đem kẻ khuyết tật đó đến cùng Chúa Giêsu để được chữa lành. Họ đã tìm cầu tình thương rất đúng chỗ, nguồn thương xót vô bờ bến của Chúa đã ra tay cứu vớt kẻ bất hạnh đó….
Hôm đó Chúa Giêsu đi từ địa hạt Tyrô qua Sidon đến gần biển Galilê giữa miền Thập Tỉnh, người Do Thái coi miền 10 thành phố này như vùng đất ngoại giáo. Theo thánh Marcô thuật lại: “Người ta đem đến một người vừa câm vừa điếc cho Chúa Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh ấy”. Trong lúc người ta chờ đợi Chúa chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và đầy quyền năng của Ngài, thì thánh sử Marcô làm mọi người ngạc nhiên khi ông thuật lại việc Chúa Giêsu đã chữa lành theo cách các thầy lang làm theo những dấu chỉ bề ngoài. Và để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc ra xa khỏi đám đông. Rồi Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ. Chúa cũng đã dùng cử chỉ bề ngoài đó để biểu lộ ý lực bên trong: Ngài ngước mắt lên trời khẩn nài để chỉ nguồn gốc quyền năng từ Thiên Chúa. Ngài thở dài và nói: “Ephata” nghĩa là hãy mở ra. Đây là lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ. Lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu có hiệu quả ngay lập tức: Đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh ta bắt đầu nói rõ ràng. Sự kiện siêu vời này làm phấn khởi nơi đám đông dân chúng, nhưng Chúa lại muốn họ giữ kín, đừng nói điều đó với ai. Như vậy chúng ta thấy cuộc đời công khai của Chúa Giêsu vẫn còn là cuộc đời ẩn dật giữa nhân loại, vì thế lai lịch của Đấng Kitô không được biểu lộ công khai ngay, mà chỉ được công bố cách rõ ràng cho mọi người sau khi Người chịu chết và sống lại. Nhưng dù Chúa cấm họ vẫn hứng khởi loan truyền ra rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Đây là phản ứng của dân chúng được chứng kiến hiệu quả của phép lạ mang tính cách thần linh; sự việc mà con người đã bó tay; đó là dấu chỉ quyền lực của Thiên Chúa được thực hiện do Chúa Giêsu. Cảm hứng của quần chúng Do Thái với lời tung hô ca ngợi làm cho chúng ta liên tưởng đến sách Sáng Thế Ký nói về công việc ngợi khen công trình sáng tạo vũ trụ: “Mọi sự Người làm, Thiên Chúa đều thấy tốt đẹp (St.1,31)”. Ngày xưa Chúa tạo dựng vũ trụ loài người, bây giờ Chúa lại tái tạo thế giới, đó là dấu chỉ Thiên sai mang nguồn ơn cứu độ cho trần thế.
Chúa đã dịu dàng mau mắn dủ lòng thương xót đối với người câm điếc về thể lý, chắc hẳn Chúa lại còn quan tâm đến người câm điếc về mặt tâm linh gấp bội: Chúng ta câm khi không biết mở miệng ra ca tụng Chúa, không biết nói những lời hữu ích xây dựng. Chúng ta điếc khi không biết đón nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, không biết lắng nghe và đối thoại với tha nhân. Chúa đã muốn phục hồi sự câm điếc tinh thần như bài đọc tiên tri Isaia hôm nay đã báo trước: “Này đây Thiên Chúa đến để cứu thoát các ngươi: Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Qua câu chuyện Chúa chữa lành cho người câm điếc, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta mau mắn chạy đến với Chúa qua Giáo Hội để nhận những ơn lành Chúa ban cho đời sống thường ngày. Qua Bí tích rửa tội chúng ta đã được Chúa chữa trị bệnh câm điếc Đức Tin: Được mở tai để đón nhận Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng danh Chúa.
Tiếp đến là như những người trong Tin Mừng hôm nay, họ đã đem kẻ câm điếc đến cùng Chúa, chúng ta cũng hãy mau mắn đem người câm điếc tinh thần để Giáo Hội chữa trị, để họ cũng được hiệp thông vào cộng đoàn Nước Trời.
Cuối cùng chúng ta hãy cố gắng trở nên chân tay cho người què cụt, làm đôi mắt cho ai đui mù, làm tai cho người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được v.v.
35. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Trong đời sống, hẳn đã hơn một lần chúng ta thấy người câm và điếc. Một người mà không sao xử dụng được hai tài năng của mình là cái lưỡi và đôi tai thì thực là khổ. Sống giữa đời mà như bị loại ra khỏi trần gian. Có miệng mà không sao nói được để có thể truyền thông tư tưởng của mình cho kẻ khác; có tai mà không sao nghe và thưởng thức được âm thanh như mọi người. Họ bực rọc và khổ sở, vì sống giữa đám đông mà như ở sa mạc, ngơ ngác như một viên đá cuội giữa chốn hoang vu.
- CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa đã chữa một người câm điếc, cho họ nói được và nghe được. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, Người ngước mắt lên trời tha thở và truyền lệnh: “Epheta! Hãy mở ra!” Lập tức, tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ, anh ta nói được thành thạo và nghe được rõ ràng. Dân chúng thấy việc Chúa làm, hết lòng thán phục, ca ngợi Chúa: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Chúa Kitô đã thực hiện đúng từng nét lời tiên tri Isaia đã tiên báo từ 700 năm trước: “Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Hãy can đảm lên, đừng sợ!. Này Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính người sẽ đến để cứu thoát các ngươi. Bấy giờ, Người mở mắt kẻ mù, mở tai kẻ điếc, cho người què nhảy nhót như nai, người câm nói được…”
- BỆNH TẬT THỜI ĐẠI HÔM NAY
Xin Chúa chữa cho chúng ta khỏi căn bệnh thời đại hôm nay, không phải là tật câm và điếc phần xác, nhưng là bệnh câm và điếc của tâm hồn.
- Có miệng mà sợ nói về Chúa, không biết ca ngợi tôn vinh Ngài.
- Có tai mà chán ghét không muốn nghe về Chúa và những sự thuộc về Ngài.
- Bệnh thích nghe và nói nhiều về những điều xằng bậy phản nghịch lại giáo huấn, tinh thần của Chúa và Giáo Hội.
Đi sâu vào đời sống người Việt Nam chúng ta tại các cộng đoàn, giáo xứ ở hải ngoại này, chúng ta sẽ thấy cái sự thật đau lòng này, là người ta hay đưa điều, nói hành, dèm pha, châm chọc, phá đổ hạnh phúc của tha nhân. Rất ít người biết xây dựng hạnh phúc cho kẻ khác… Cứ túm đông túm ba lại để đàm tiếu về truyện này truyện khác, có tin gì sốt dẻo là bốc điện thoại lên truyền thông cho nhau cách mau chóng, tin lành thì chẳng thấy đâu còn tin dữ thì nhanh như chớp… Có nhiều khi ngay trong gia đình, họ hàng thân quyến cũng phá vỡ hạnh phúc của nhau. Thấy gia đình người ta có nhà mới, có công ăn việc làm khá giả, có cửa tiệm này cửa tiệm kia phát tài, có tầu mới đánh tôm được mùa cũng ghen tương ganh tỵ, gây hận thù nói hành nói xấu. Thấy vợ chồng người ta đôi khi có những bất hòa, không khuyên nhủ cho họ yêu thương nhau, lại đổ dầu châm lửa thêm, khiến bất hòa lại càng thêm bất hòa, để rồi đi đến chỗ đổ vỡ… Có khi ngay chính cha mẹ đã vô lương tâm, phản trách nhiệm, đã xúi dục con cái ly dị nhau… Biết bao nhiêu tội lỗi gây ra do miệng lưỡi không kiềm chế, thả lỏng tự do, làm tay sai cho quỉ dữ mà không hay biết.
III. THÁI ĐỘ CẦN CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lưu tâm suy nghĩ, và thực hành giáo huấn Chúa răn dạy chúng ta: “Thầy bảo thật cho các con hay, đến ngày phán xét, người ta sẽ phải thưa lại tất cả những lời nói vô ích. Lại nữa, cũng bởi lời nói mà các con được trắng án, hoặc bị luận phạt” (Mt 12:36-37).
Chúng ta cũng cần nhắc lại lời căn dặn của Thánh Giacôbê Tông Đồ: “Anh chị em hãy mau nghe và chậm nói, và trì hoãn cơn tức giận” (Jac 1:19). Ngài còn cho chúng ta biết sự tai hại của cái lưỡi không biết kiềm chế: “Lưỡi là một chi thể nhỏ bé, mà khoe khoang được những việc lớn lao. Thử xem một khu rừng lớn, một ngọn lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy được. Lưỡi cũng là ngọn lửa nơi chứa chấp gian ác. Lưỡi thuộc chi thể của chúng ta, nó có thể làm dơ nhớp thân xác chúng ta, đốt cháy cả cuộc đời chúng ta, mà chính nó lại bị địa ngục hun cháy” (Jac 3:5-6).
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria, như mẫu gương tuyệt hảo Chúa đã ban cho loài người chúng ta, Mẹ luôn đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, suy niệm trong lòng và thực hành trong đời sống. Xin cho chúng ta biết dùng miệng lưỡi để ca ngợi tôn vinh Chúa, bởi các công trình kỳ diệu mà tình thương Chúa đã thực hiện, như chính Mẹ đã hằng ca ngợi Chúa: “Linh hồn Tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ Tôi” (Ca Vịnh Đức Mẹ).
Chớ gì trọn cuộc đời chúng ta là một lời ngợi khen, cảm tạ Chúa không ngừng, bằng chính đời sống thánh thiện, khiêm nhu, bác ái, dịu hiền và trong sạch như Mẹ chúng ta, để Chúa tôn vinh chúc tụng.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
CHÚA CỨU CHỮA
NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA CHÚNG TA
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ðức Giêsu cứu chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng điếc và ngọng, vì tai chúng ta chưa biết lắng nghe Lời Chúa cho đủ và miệng lưỡi chúng ta chưa biết ca tụng Chúa cho xứng. Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa cứu chữa chúng ta.
- Gợi ý sám hối
- Người công giáo Việt Nam chúng ta quen đọc kinh nhưng chưa quen đọc và suy gẫm Lời Chúa.
- Trong khi cầu nguyện, chúng ta thường xin Chúa ban ơn, nhưng ít khi biết ca tụng Chúa.
- Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Giacôbê chỉ trích những kitô hữu coi trọng người giàu và khinh rẽ người nghèo. Phải chăng lời công kích ấy cũng đúng cho chúng ta?
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 35,4-7a)
Chương 35 sách Isaia là những lời an ủi dân Do Thái đang sống kiếp lưu đày khổ sở. Bằng những hình ảnh rất cụ thể, Isaia mô tả ơn giải thoát Chúa sẽ ban cho họ: người điếc nghe được, người què đi được, người câm nói được. Dĩ nhiên đây chỉ là những hình ảnh được mượn để nói đến những ơn cao trọng hơn: điếc, què và câm là tình trạng khốn khổ của con người bị tước mất những khả năng tự nhiên; nghe, đi và nói là tình trạng được ơn Chúa phục hồi. Ðiều Isaia tiên báo sẽ được Ðức Giêsu thực hiện.
- Ðáp ca (Tv 145)
Thánh vịnh này mang cùng nội dung với bài đọc I, nghĩa là nói về ơn giải thoát của Thiên Chúa. Nhưng tác giả Thánh vịnh xử dụng những hình ảnh khác hơn: xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng người tù tội, mở mắt kẻ mù lòa v.v.
- Tin Mừng (Mc 7,31-37)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng: Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được. Lúc chữa bệnh, Ðức Giêsu nói Epphata (Hãy mở ra), tiếng này ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
- Bài đọc II (Gc 2,1-5) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu đừng đối xử thiên vị coi trọng người giàu và coi khinh người nghèo. Ngài còn lưu ý rằng Thiên Chúa ưu ái người nghèo.
- Gợi ý giảng
* 1. Ơn nghe được và nói được
Nghe và nói là khả năng rất quan trọng của con người. Ai không nghe được hoặc nghe không rõ thì thường trở thành trò cười cho người khác, bởi vì không hiểu đúng ý người nói cho nên trả lời hoặc phản ứng thường sai lệch. Bởi vậy những người khiếm thính thường rút lui vào sự im lặng và cô đơn.
Nói là khả năng giúp con người giao tiếp và là phương tiện chủ yếu được dùng trong giao tiếp. Người kém khả năng này cũng dễ thành trò cười cho thiên hạ. Cho nên nghe được và nói được là hai ơn rất lớn Chúa ban cho con người.
Ðức Giêsu chữa cho một người câm điếc hôm nay không chỉ có ý nghĩa với người đó, mà cũng có ý nghĩa đối với chúng ta. Có ý nghĩa không phải vì chúng ta câm điếc, mà vì chúng ta được Chúa ban cho hai khả năng quý báu đó. Tuy nhiên nhận được hai ơn ban ấy không hẳn là chúng ta biết xử dụng đúng hai ơn ban ấy. Trong chúng ta, nhiều người có đôi tai tốt nhưng không biết lắng nghe, nhiều người có miệng lưỡi tốt nhưng không biết nói những điều đáng nói. Cho nên cả chúng ta ta nữa cũng cần được Ðức Giêsu chữa trị.
Nghe được mọi chuyện nhưng lại không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc. Nói đủ thứ chuyện nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa thì cũng kể như câm.
- Mê tín trong đạo
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể chuyện Ðức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là: Khi chữa trị cho người này, Ðức Giêsu đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh. Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, Ðức Giêsu còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao Ðức Giêsu cư xử như vậy? Thưa vì Ðức Giêsu không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc.
Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Ðức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến. Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh…. Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Ðó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào?
Thường là:
- Khi có người thân bị bệnh nặng: chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
- Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
- Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cần cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các cha. Các cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các Cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v… Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bả ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tin dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào!
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm:
- Thứ nhất: hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân này đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỷ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao? Ðương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin chỉ cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Ðừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.
- Ðiểm thứ hai: chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở thế gian có những thứ ấy. Ðể làm chi? Ðể nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương… Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau: “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một thánh giá ta đang gánh vác. thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Ðức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ấy là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
Xin Chúa cho chúng con theo Chúa vì thực sự tin Chúa. Xin cho đức tin chúng con được vững mạnh, nhất là trong những lúc đau khổ, gian nan.
- Lưỡi và tai
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau: Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn thuyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau: “Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
– Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
***
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn toàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Ðức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc (x. Mc.6,34-35).
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng; không gây phương hại, vẫn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng có thể luôn tin vào những gì được thấy bằng con tim của mình”.
***
Lạy Chúa, xin phá đổ bức tường thành kiến trong tâm trí chúng con, để chúng con lắng nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em, và tiếng thúc giục của Lời Chúa.
Xin cho chúng con đừng câm điếc trước lời mời gọi của Chúa và tha nhân. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Ðừng đánh giá con người theo vẻ bề ngoài
Những chuyện dưới đây có thể dùng để minh họa lời khuyên của Thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay:
a/ Hôm đó, một đệ tử của một vị thiền sư đi dự một buổi lễ trở về, mặt mày hớn hở. Khi được hỏi tại sao hớn hở như vậy, người đệ tử ấy cho biết là mọi người đều khen anh mặc áo đẹp. Vị thiền sư ôn tồn chỉ dạy: “Con chẳng có gì để vui mừng hớn hở cả, vì người ta khen chiếc áo đẹp chứ đâu phải khen con đẹp”.
b/ Một ông nhà giàu mở tiệc khoản đãi tất cả những người láng giềng. Cạnh nhà ông có một người rất nghèo. Vì nễ tình hàng xóm nên người này cũng đến dự. Tuy nhiên người này nghèo nên chiếc áo anh mặc rất là tầm thường. Khi tới cổng, anh bị các đầy tớ của người nhà giàu không cho vào. Tức quá, anh mượn một chiếc áo rất đẹp của một người nhà giàu khác và lại đến. Lần này, anh được mời vào tử tế. Rủi thay, đang lúc lấy thức ăn thì một cánh tay áo rơi vào dĩa thức ăn. Lý do là chiếc áo đặc biệt này có hai cánh tay loại tháo ráp được. Người nhà nghèo chưa quen mặc nên đã không cẩn thận cài nút ở chỗ ráp nối. Những đầy tớ thấy vậy bảo anh nhà nghèo mau lượm cánh tay áo lại. Nhưng anh nhà nghèo thản nhiên nhìn cánh tay áo và nói: “Mày nằm trong dĩa thức ăn thì cứ tha hô mà ăn cho thoả thích đi nhé, vì người ta kính trọng mày chứ đâu phải kính trọng tao”.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, thời Ðức Giêsu người ta đem các thứ bệnh nhân đến để xin Chúa chữa lành, chúng ta cũng hãy đến với Chúa với tất cả mọi lo âu và bệnh tật hồn xác, và dâng lên Chúa lời nguyện sau đây:
- Hội thánh ngày nay đang sống giữa đa số những người nghèo khổ bệnh tật cả xác hồn / Xin cho mọi người trong Hội thánh trở nên bạn của những người nghèo khổ bệnh tật / và sẵn sàng chia vui sẻ buồn với họ.
- Ða số các nước trên thế giới còn sống trong tình trạng kém phát triển, chậm tiến, đói khổ và bệnh tật / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước kém phát triển biết thật tình quan tâm hơn đến đa số dân còn nghèo đói và chậm tiến.
- Chung quanh chúng ta còn nhiều người bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / mà không có ai đem họ đến với Chúa / Xin cho họ sớm gặp được người an ủi giúp đỡ và dẫn họ đến với Chúa.
- Trong họ đạo chúng ta còn nhiều người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng sợ hôn câm điếc thể xác / Xin cho họ được chữa lành để nghe tin Chúa và ca tụng cảm tạ.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa luôn quan tâm sẵn sàng giúp đỡ mọi người đang gặp cảnh khốn khó, xin Chúa chấp nhận những y nguyện chúng con vừa dâng lên, để mọi người nhận biết quyền năng Chúa, và dâng lời cảm tạ tôn vinh. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, chúng ta hãy xin Chúa thương đến những người nghèo nàn, bệnh hoạn, tật nguyền…
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là những chứng mù, què, câm, điếc về mặt thiêng liêng, khiến chúng con không nhìn thấy Chúa, không hăng hái đi theo Chúa, không ca tụng Chúa và không lắng nghe tiếng Chúa…”
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ một câu Tin Mừng hôm nay: khi Ðức Giêsu chữa cho người vừa điếc vừa ngọng, Ngài nói: “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Sống trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng mở lòng, mở tai và mở rộng bàn tay để vừa đón nhận tình yêu của Chúa vừa đón tiếp anh chị em chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm “như câm như điếc” khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”. Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
- Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
- Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.
- Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác…
- Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”.
Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
“Thiên Chúa, Đấng mở đường” là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như “gà mẹ ấp ủ con dưới cánh”, nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.
Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.
Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã “mở đường” cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là “Đấng mở đường” đích thực. Ngài đã “mở tai và mở miệng” cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân “vừa điếc vừa ngọng” từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!
Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
“Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này”. Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
– Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
– Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
– Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.
Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! “Epphatha- Hãy mở ra” là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
MỘT NGÀY KIA KHI VƯƠNG QUỐC ĐẾN.
Mở đầu.
Một biến cố có vẻ như ở bên lề sứ vụ của Chúa Giêsu –việc chữa lành một người câm điếc- làm sao lại có thể gặp gỡ chúng ta và đưa chúng ta đến một suy tư thiết yếu về niềm hy vọng và sự tham gia của chúng ta vào việc làm cho nước Chúa trị đến? Có nhiều lý do. Chúa không làm gì cách nhẹ dạ cả, như thể đối với Ngài có những điều quan trọng và những điều khác không quan trọng. Hơn nữa, mỗi cử chỉ, cũng như mỗi lời nói của Ngài đều diễn tả một cách mới mẻ và luôn luôn thúc bách cùng một sứ điệp đó: Nước Thiên Chúa đã đến, anh em hãy hoán cải và đón nhận nó!
Lời hứa.
Bài đọc một diễn tả lời Thiên Chúa hứa với dân Ngài: Ngày kia sẽ có một thế giới mới, một thế giới khác trong đó người ta sẽ không còn thấy bất cứ nỗi lầm than hoặc sự điên rồ nào của thế giới hiện tại nữa: Sẽ không còn tật nguyền nữa nhưng sẽ đầy sự sống, không còn đói khát, âu lo, chiến tranh nữa, nhưng là hòa bình. Đó là một thế giới tuyệt vời mà chính Thiên Chúa sẽ đến khai mạc.
Những kẻ lắng nghe những tiếng kêu hăng say này của các ngôn sứ phần lớn là những người nghèo nhất và những kẻ thiếu hy vọng nhất trong một xứ sở đã trở thành mồi cho sự xung đột giữa các cường quốc. Họ không có quyền hành gì trên những bức xúc liên lỉ của cuộc sống: Tật nguyền, bệnh tật, sự hiện diện gây ám ảnh của thần chết, đói kém, giặc giã và thiếu tự do.
Có phải đã đến lúc không?
Những người nghèo ấy đã nghe những lời hứa này, đã chờ đợi chúng được thực hiện, biết các dấu chỉ loan báo điều ấy sắp xảy ra. Chắc hẳn họ nhắc lại những dấu chỉ đó trong lòng và chờ đợi chúng. Lời cầu của họ có thể là gì khác hơn là một lời kêu xin lâu dài và kiên nhẫn không?
Vậy nên, khi họ biết được rằng một vị ngôn sứ thực hiện những dấu chỉ đầu tiên trong các dấu chỉ được hứa, rằng những người nghèo, những người đau ốm và tật nguyền, những nạn nhân của nỗi lầm than của con người tìm thấy được nơi Người sự an ủi đã chờ mong từ rất lâu, thì những đám đông lầm than khốn khổ nhưng tràn trề hy vọng tuốn đến với Chúa Giêsu.
Một vương quốc phải bắt đầu.
Quả thật đây là khởi điểm. Nhưng cũng còn là điều gì khác lớn hơn và hấp dẫn hơn nữa.
Tin rằng triều đại Thiên Chúa gồm những phép lạ, một phép mầu biến đổi cuộc sống mà chúng ta không cần làm gì cả ngoài việc ngồi dưới bóng mát và nhìn xem nó từ trời xuống, tức là có một ý niệm rất sai lầm về Chúa, một ý niệm nghèo nàn về con người và ơn gọi của họ, một ý niệm nghèo nàn về Nước Trời.
Như bài Tin Mừng nhắc nhở, Chúa Giêsu đã rất cẩn thận làm cho người ta hiểu ý nghĩa các phép lạ Ngài thực hiện: Đây là những cử chỉ giới thiệu một con đường phải đi và mời gọi người ta đi vào đó như Ngài đang đi.
Nước Chúa phải bắt đầu bằng việc an ủi những kẻ lầm than, chia sẻ với những ai khốn cùng khi làm cho người điếc nghe được, người câm nói được, người què đi được, người mù được sáng mắt. Vấn đề không phải là tìm cách làm cho mình có những quyền phép lạ lùng nhưng, theo lời căn dặn của Chúa Giêsu mà trong mỗi Thánh lễ đều được nhắc lại cho chúng ta, là phục vụ lẫn nhau, theo gương Ngài.
Nước Chúa là một hồng ân. Đây cũng là công việc biến đổi thế giới: thay thế bất công bằng sự công chính, đau khổ bằng sự an ủi, lo âu bằng hy vọng, tính ích kỷ bằng tình thương. Sau khi đã hoàn tất những công việc đó mà chính Thiên Chúa cũng tham gia vào, thì thế giới mới đã được hứa sẽ xuất hiện.
Kết luận.
Niềm hy vọng, vốn là sức mạnh của sự xác tín, phải sống động đủ nơi chúng ta để thúc đẩy chúng ta thi hành những công việc Chúa đề nghị cho chúng ta để thế giới mới mà Thiên Chúa hứa có thể trở thành hiện thực.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
KHÔNG PHẢI CHÚNG TA TỰ MÌNH NGHE ĐƯỢC LỜI CHÚA; MÀ LÀ CHÍNH LỜI CHÚA LÀM CHO CHÚNG TA NGHE ĐƯỢC LỜI NGƯỜI
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này trình thuật việc Chúa chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh thì phép lạ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những cần phải nhớ lại ý nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải còn để ý tới tiến trình và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ý nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo Lý dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, tình trạng bất toàn về sự sống thể lý và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ và là hiện thân của sự chết thể lý, mà còn là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật thế, những thứ tật nguyền như mù lòa, câm điếc, bất toại, kể cả chính tình trạng tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả tình trạng bị quỉ ám, cũng đều nói lên ý nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù lòa hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị mù lòa hay sao? Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với viên chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác thì ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng vì sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20). Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được thấy còn kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế thì ông cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đã được Người xác nhận: “Nếu quí vị mù thì quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của quí vị vẫn còn đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù lòa đầu tiên của con người, ở chỗ, con người đã bỏ Đấng Tạo Hóa của mình để đi nghe theo tên cám dỗ bùi tai, và sau khi đã phản bội Chúa là Thiên Chúa của mình rồi, con người đã đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy mình trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, vì ngay sau khi nghe tên cám dỗ xui dại, miệng con người còn nhắc lại những gì tai họ đã nghe thấy chính Chúa là Thiên Chúa của mình dặn bảo (x Gen 3:2-3), những gì đã được Ngài in ấn hay ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đã sa ngã phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn còn nghe thấy tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đã trả lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được tiếng Chúa mà còn phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đã muốn bịt tai trước tiếng nói của lương tâm để có thể âm thầm làm theo ý riêng của mình? Ngày nay con người đã đến bậc câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đã mất ý thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện điển hình qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đã tỏ ra bất lực trước những gì mình biết là tốt, là sự sống mà không làm theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những gì sai trái, những gì mang lại chết chóc cho mình. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đã không có đủ can đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo quyền năng tự do) những gì không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật. Bởi đó, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, mà là làm những gì hợp với sự thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những gì khiến con người nên hoàn thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của mình, bằng không, nó sẽ làm cho con người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ, làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rõ nhất nơi tình trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn lìa xác, hay xác trở thành vô hồn, thì một khi con người phạm tội là con người không còn được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên lý hiện hữu của con người và nơi con người không còn ở với họ nữa thì toàn thể hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, con người vẫn còn ở trong tội lỗi, vẫn mang trong mình những dấu vết của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn, và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là tình trạng phân ly giữa hồn và xác thì cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh, ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những gì tôi muốn thì tôi không làm, còn cái gì tôi ghét thì tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không còn nơi họ thế nào, thì con người còn sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong mình những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và dửng dưng trước tình trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của mình; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải là hiện tượng lạnh ngắt lòng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm, ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những gì làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch” trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rõ ràng nhất cho thấy con người không còn sự sống thần linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đã bị thần dữ chiếm đoạt và làm chủ, xui khiến họ làm những gì bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn. Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, bình thường con người còn bị các thứ thần ô uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đã được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường hợp con người còn bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm” (Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành, đều có hai phần, phần Chúa tỏ mình ra và phần con người nhận biết, chẳng khác gì như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người, nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết “Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), thì không phải là họ được Lời Nhập Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? Vì “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết Chúa là Thiên Chúa của mình (Jn 17:3), là trở về với nguyên lý hiện hữu tối cao của mình.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta còn thấy cách thức Chúa Giêsu chữa lành ngươiøi câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của mình, Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn phán một lời “Ephrata”, “hãy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết liệt đó, Người còn phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa thì những tác động Người chữa lành câm điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ý nghĩa nào đó? Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi vì, bình thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, vì một khi bộ phận tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng thì bộ phận phát thanh của họ là miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lý do Chúa Giêsu đã chữa thính giác của nạn nhân đã rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đã ghi lại rõ ràng thứ tự này như sau: “Tức thì tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng bình thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đã mới có thể loan truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy lời Chúa Giêsu phán “hãy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đã làm cho tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta còn thấy một điều quan trọng khác nữa, đó là không phải chúng ta tự mình nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hãy mở ra” mang ý nghĩa gì, nếu không phải đều là những gì cần thiết để nạn nhân có thể được chữa lành sau lời truyền phán “hãy mở ra” của Người. Tự Người không cần phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là vì để sửa soạn cho nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe thấy và nói được. Tu đức đã cho thấy rõ ba tác động cần thiết đối với một tâm hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng những nghe được tiếng Chúa mà còn đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống yên tĩnh, xa lánh tình trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe Chúa nói qua những gì Người đã dùng ngón tay của Người ghi khắc trong lòng họ (x Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những gì (như nước miếng chẳng hạn) “phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller).
ĐỨC TIN LÀ BỞI NGHE, SỰ THỜ LẠY LÀ BỞI NÓI.
Giác quan của chúng ta thì tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Thật khó mà quyết định giác quan nào là thế giá hơn, ánh nhìn của chúng ta hay là đôi tai, nhưng người đàn ông trong Phúc Âm đã không do dự. Ông ta bị điếc và ông biết chính xác điều gì là quan trọng nhất đối với ông ta.
Điếc làm cho anh ta không nghe được; anh ta cũng không thể nghe được những lời mà mình phát âm. Anh ta không thể hỏi Chúa Giêsu về những đặc ân mà mình cần. Khổ thay, một số người liên quan đã mang anh ta đến với Chúa Giêsu và giải thích về hiện trạng của anh. Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh, và cho anh một khả năng để lắng nghe và Người đã làm cho người đàn ông đã có thể nói một cách rõ ràng. Chúng ta không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đã động lòng thương xót. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên đó là tất cả chúng ta một lúc nào đó trong cuộc sống đã bị tình trạng giống như một người điếc, không bị cách thể lý nhưng là tinh thần, cách thiêng liêng. Trước kh chúng ta chịu phép rửa, chúng ta là những người điếc cách thiêng liêng. Chúng ta không có đặc ân đức tin. Kết quả là chúng ta không nghe được lời Chúa nói với chúng ta, và chúng ta cũng sẽ không nói với Thiên Chúa được.
Đức tin đến với chúng ta bằng việc nghe thấy, không phải xuyên qua bộ phận tai nghe của chúng ta nhưng là qua đặc ân đức tin mà chúng ta lãnh nhận nơi phép rửa. Đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ, chúng ta có cơ hội lắng nghe bằng đức tin. Chúng ta sẽ đặt chỗ ưu tiên để suy nghĩ về việc lắng nghe Lời Chúa như là một nguồn mạch đức tin của chúng ta, còn có những cơ hội khác trong Thánh Lễ. Kinh Tin kính sau bài giảng đã diễn tả đức tin của chúng ta, như chúng ta hát những ca vịnh, hoặc khi chúng ta đọc những lời linh đặc biệt là kinh nguyện Thánh Thể. Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng cách mà chúng ta đọc kinh là diễn tả những gì chúng ta tin (Lexorandi, lexcredendi).
Tuy nhiên đức tin thì bất toàn cho đến khi chúng ta nói với Thiên Chúa về cung cách mà chúng ta sẽ cử hành, hay khi chúng ta đáp trả trong việc thờ phượng. Lời kinh trong phụng vụ sẽ phục vụ cho một mục đích kép đôi: Nó vừa dạy chúng ta đức tin, vừa trao ban cho chúng ta những từ ngữ thích hợp để diễn tả sự thờ phượng của chúng ta. Những điều này được ban xuống là để chúng ta thờ lạy Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa bằng việc nói với Ngài những gì mà Ngài đã làm và còn đang tiếp tục làm. Trong thời kỳ Phúc Âm, dân chúng đã tôn kính Chúa Giêsu bằng việc kể lại cách đơn giản những gì Ngài đã làm. Họ nói: “Ngài đã làm cho người điếc nghe được, người câm nói được”.
Thí dụ trong kinh nguyện Thánh Thể thứ ba, chúng ta đọc: “Lạy Cha, Cha là sự thánh thiện và mọi tạo vật của Cha đều phải dâng lời ngợi khen Cha. Tất cả đời sống, tất cả sự thánh thiện đều phát xuất từ Cha”. Thiên Chúa đã mạc khải rằng Ngài là nguồn mạch của mọi sự sống, của mọi sự thánh thiện, chúng ta ngợi khen Ngài bằng việc tuyên xưng Ngài là chân lý thật. Các Thánh Vịnh cũng là hoa quả giúp chúng ta cầu nguyện bằng cách mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Trong Thánh Vịnh đối đáp ngày hôm nay, Thánh Vịnh 146: “Thiên Chúa của Giacóp đã giữ lời hứa đến muôn đời, bảo đảm sự công chính cho người bị áp bức, cấp thực phẩm cho người đói, Chúa giải thoát kẻ ngục tù”. Những lời này vừa là lời mạc khải vừa là lời cầu nguyện.
Thiên Chúa không cần chúng ta nhắc nhở Ngài về sự lớn lao mà Ngài có và sự kỳ diệu nơi các việc Ngài đã làm. Ngay trong mối quan hệ của con người, chúng ta ngợi khen người khác bằng việc nói với họ về những gì họ đã làm. Đối với người bạn mà anh ta đã mời bạn đến nhà dùng cơm thì bạn phải nói: “Món mì nóng tuyệt vời mà trước đây tôi chưa hề nếm qua bao giờ”. Thiên Chúa cũng làm cách tốt nhất trong mọi cách cho chúng ta. Đó là những gì chúng ta đã học được khi chúng ta lắng nghe tất cả mọi hình thức của sự mạc khải. Chúng ta là những người khôn ngoan, khi sự thờ lạy mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa là theo những gì mà Ngài đã nói về Ngài cho chúng ta, kh chúng ta nói với Người trong cầu nguyện theo cách mà chúng ta có thể.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
CHÚNG TA LÀ NHỮNG KẺ CÂM ĐIẾC
ĐƯỢC CHỮA LÀNH.
Từ xứ Galilêa, Chúa Giêsu lên miền Bắc, vòng qua xứ Phênêkia, rồi lại xuống phía nam, về hướng hồ Tibêria (tức biển Galilêa). Khu vực Chúa đi qua mang tên là Đêcapôli. Ở đây sinh sống khá nhiều người Do thái, lẫn trong đám dân phần lớn là người ngoại. Danh tiếng Chúa làm phép lạ lan đến cả đây, cho nên Chúa di chuyển đến đâu là có người chạy đến xin Người chữa những kẻ bệnh tật. Người ta đem đến trước mặt Chúa một kẻ bẩm sinh câm điếc. Chúa chữa lành kẻ ấy. Tuy nhiên ở đây ta chứng kiến một sự biểu dương đặc biệt sự thể Chúa can thiệp vào sinh hoạt con người. Thay vì chữa khỏi kẻ tật nguyền bằng một hành vi ý chí thuần tuý và đơn giản, Chúa chạm tay vào người y. chúa tra ngón tay vào trong lỗ tai kẻ điếc như thể mở tai y. chúa nhổ nước miếng vào tay rồi chạm vào lưỡi kẻ khốn khổ. Từ phép lạ này ta rút ra hai chủ đề suy niệm:
1) Chúa muốn biểu lộ công hiệu của sự tiếp xúc giữa nhân tính Chúa và nhân tính chúng ta.
Người muốn cho thấy rằng mầu nhiệm nhập thể không những là Con Thiên Chúa đến giữa loài người, mà còn là một sự hiệp thông thân mật giữa Người-Thiên Chúa với người phàm. Người ta có thể lầm tưởng rằng có lẽ Đức Kitô mặc lấy dáng vẻ con người, đi qua thế gian giữa nhân loại phàm trần mà vẫn đứng ngoài nhân loại. Cũng đúng là Đức Kitô có thể truyền thông cho chúng ta tất cả mọi hồng ân cứu rỗi, chỉ nhờ vào ý chí Người, từ ngoài xa truyền ơn đến cho chúng ta. Chúa không muốn thế. Chúa đem nhân tính hiển-vinh của Người tiếp xúc với chúng ta, để hiệp thông với chúng ta. Ngày nay thánh lễ tạ ơn là sự làm chứng cao độ nhất cho ý muốn Người. Thánh lễ chính là nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu đến trong chúng ta, và đem chúng ta vào trong nhân tính Chúa để trở nên nơi chốn chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa.
2) Về phương diện thiêng liêng, chúng ta là những kẻ câm điếc bẩm sinh được chữa khỏi do phép thanh tẩy.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể tiếp xúc với loài người, cho chúng ta nghe được Lời của Thiên Chúa và cùng một lúc nói được với Thiên Chúa và với anh em chúng ta. Chịu phép Rửa tội nhờ bí tích thanh tẩy Chúa lập ra, chúng ta được Chúa mở tai mở Lưỡi chúng ta, cho chúng ta khả năng nghe Lời Người và nói theo Thần trí Người. Khả năng nghe và nói đó là gì? Trước hết là đức tin. Nhờ ơn huệ của đức tin, một Lời của Chúa đến với chúng ta, chúng ta ý thức được Lời đó-cũng như một lời nói thường lọt qua tai vào tới não, nhờ não chúng ta ý thức được lời nói ấy. Điều ta nghe thấy nhờ Đức Kitô, cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là ‘Cha’ và trong Đức Kitô, Thiên Chúa kêu gọi ta đến với Người. Tiếp đến, khả năng nói, được ban cho ta là sự cầu nguyện. Vì tiếp nhận ơn nói được, ta thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Lời nói được Thiên Chúa linh ứng, nó biểu lộ tâm khảm sâu kín nhất của bản thể ta, chính là tiếng: ‘Cha’ mà chúng ta thưa với Thiên Chúa. Sự đông người họp nhau lại cầu xin Thiên Chúa như thể cầu xin Cha, đưa đến hệ quả: lời chúng ta nói với nhau phải là lời nói của anh em trao đổi với nhau. Mọi người đều có Thiên Chúa là Cha chung, cho nên tất cả là anh em, ngôn ngữ chúng ta dùng để nói với mọi người-tức là cách biểu lộ những tình cảm sâu sắc nhất-phải cho thấy giữa chúng ta và mọi người khác có mối tình huynh đệ. Chúa Giêsu trong chúng ta là Đấng ban ơn cho chúng ta có được phong cách cư xử như vậy.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 9 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù loà và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù loà? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên hệ với cô gái mù loà và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, thế mà cô Helen keller đã có thể học xong đại học, tốt nghiệp tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Thưa anh chị em,
Với kỹ thuật khoa học hiện đại, ngày nay người ta dường như có thể mở mắt, mở tai, mở miệng cho người mù, người câm, người điếc. Ngày xưa Chúa Giêsu đã làm phép lạ cứu chứa những người bất hạnh này. Phép lạ Chúa Giêsu đã làm để chứa người câm và điếc được Thánh Marcô ghi lại xem ra thật là đơn giản dễ dàng: Ngài kéo riêng người câm điếc ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào lỗ tai anh, bôi nước miếng vào lưỡi anh, ngước mắt lên trời lâm râm cầu khẩn rồi lớn tiếng truyền lệnh: “Ephata!” nghĩa là “Hãy mở ra!” Tức thì lỗ tai điếc của anh mở ra, nghe được rõ ràng, lưỡi bị cột cứng của anh uốn được và nói được sành sõi. Cuối cùng là sự kinh ngạc thán phục của đám đông. Họ nói: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục của dân chúng chính là lời Ngôn Sứ Isaia đã loan báo cho dân Israel về Đấng Cứu Thế. Ông nói: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Như thế chứng tỏ là dân chúng đã nhận ra Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã đến rồi. Ngài chính là Đức Giêsu đang thực hiện lời Ngôn Sứ Isaia trước mắt họ.
Nhưng giữa đám đông dân chúng chứng kiến phép lạ của những người có tai nghe được, có miệng lưỡi nói được, những lại câm, lại điếc. Họ giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Biệt Phái Pharisêu: “Họ có mặt mà không thấy, có tai mà không nghe!” Quả thật, họ đang điếc trước công lý, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ chẳng những không chịu hiểu Lời Chúa mà còn loan truyền toàn những điều lệch lạc, sai trái. Họ thay thế Lời Chúa bằng các tập tục của cha ông họ. Họ cầm phải được chữa cho khỏi mù tội, khỏi câm điếc, mới có thể hiểu đúng và công bố Tim Mừng cho người khác. Họ phải mở tai, mở mắt để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài, thì mới được cứu độ.
Anh chị em thân mến,
Trong số những người câm điếc đó, ngày nay có thể có cả chúng ta nữa. Phải chăng chúng ta cũng nằm trong hạng người có tai thích nhưng không nghe; không nghe vì không biết lắng nghe. Có miệng lưỡi nói được sõi sàng, nhưng không mở lời ca tụng Chúa, không nói lên tiếng nói yêu thương anh em? Phải chăng chính chúng ta cũng là những người câm điếc cần được Chúa Giêsu cứu chữa? Ca dao tục ngữ nước ta có nhiều câu nói gợi hình để tránh cứ những người có tai mà không biết lắng nghe. Chẳng hạn, nghe mà không biết nghe, mà hiểu, tai nghe mà lòng không suy nghĩ, thì người ta lại bảo: “Nghe tai này lọt qua tai khác” hoặc “như nước đổ lá khoai môn”… Chính vì thế mà khả năng nghe là một tình trạng tinh thần tốt cần để đón nhận ơn cứu độ. Trong Kinh Thánh, biết bao lần Chúa nói rõ điều đó: Mỗi lần ban bố lề luật, Thiên Chúa kêu gọi: “Hỡi Israel, hãy nghe đây!” Hôm nay các ngươi hãy lắng nghe tiếng Chúa phán và đừng cứng lòng”. “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chính Chúa Cha cũng ra lệnh cho chúng ta hãy nghe lời Con Của Ngài: “Này là Con Ta rất yêu dấu, các con hãy nghe lời Ngài”. Vì thế, khi chữa lành người câm điếc, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng Ngài đến không chỉ để nói mà còn để chữa lành khả năng nghe của chúng ta nữa, nếu không, thì có nguy cơ là Ngài nói mà chẳng được ai lắng nghe cả.
Nghe và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống trong xa hội là phải biết tiếp nhận chân lý qua việc nghe và nói, trao đổi, đối thoại, trao đổi, mà chỉ biết sống trong ao tù suy tư của mình, nên khi phát biểu hay hành động, chỉ có thể là những tư tưởng chủ quan, cố chấp, những hành động sai trái, lỗi thời. Ta thử nghĩ xem: Trong gia đình mà vợ chồng không biết lắng nghe nhau hoặc mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, không ai chịu nghe ai nữa, thì làm sao gia đình có được hạnh phúc? Biết lắng nghe nhau và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp vợ chồng thông cảm chia sẻ, như thế sẽ tránh được biết bao bữa cơm không lành canh không ngọt! Tình cha mẹ và con cái cũng sẽ đậm đà mật thiết khi con cái biết lắng nghe cha mẹ và cha mẹ cũng biết lắng nghe con cái. Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa các bạn trẻ, cũng phải biết lắng nghe nhau. Và nhất là trong nhà thờ, người Kitô hữu phải biết lắng nghe Lời Chúa để hiểu ý Chúa muốn nói gì với chúng ta và mở miệng lưỡi ra để ca khen chúc tụng Ngài. Chúng ta không chỉ biết lắng nghe trong nhà thờ, trong gia đình, ở trường học mà còn phải biết lắng nghe ngoài cuộc sống xã hội nữa. Hãy tập lắng nghe tiếng nói của người cô đơn, người phiền muộn, kẻ âu lo, người nghèo đói. Đối vời nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quý giá nhất, đó là có được một ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như niềm vui sướng của họ và biết nói với họ những lời tình nghĩa yêu thương…
Anh chị em thân mến,
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được Thánh Thần mờ tai, mở lưỡi, mở mắt để ta có thể hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Tuy nhiên, chúng ta thường vẫn điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố thường ngày. Chúng ta vẫn câm, vẫn ngọng khi nói lời ngợi khen Chúa và lời cảm thông với anh chị em. Chính tính kiêu căng, lòng ích kỷ, tội lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta lại không cho chúng ta hiệp thông với Chúa và với anh chị em. Vì thế, chúng ta còn phải nhờ quyền năng cứu chữa của Chúa Giêsu để ngày càng nghe rõ hơn, nói sành sõi hơn những lời ngợi khen Chúa, những lời cảm thông với anh chị em, ngày càng thấy rõ hơn đường lối kỳ diệu của Chúa và đường lối phục vụ anh chị em. Vì “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Ngài chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, nơi Ngài ơn cứu độ, sự giả thoát đã đến với chúng ta.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
EPHATA, HIỆP THÔNG VỚI CHÚA VÀ THA NHÂN
Qua trang blog và video của mình, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 73 tuổi, bị mù và điếc đã biến khuyết tật của mình thành “món quà” của Chúa. Linh mục Cyril Axelrod bị điếc khi lên ba và hoàn toàn bị mù khi ở tuổi trưởng thành. Sứ vụ của cha, các chuyến du hành, các dấn thân của cha để ở gần người khiếm thính bao gồm cả năm châu lục. Ngài biết 15 thứ tiếng, nhiều ngôn ngữ bằng dấu hiệu và bây giờ ngài dùng Internet để rao giảng Phúc Âm và cũng để chống sự loại trừ ra khỏi xã hội của những bị điếc và bị mù. Ngài tin chắc những người có khuyết tật là “thiên thần của Chúa,” họ có nhiệm vụ dạy cho những người gọi là “bình thường” quyền lực của một “tình yêu không điều kiện” và những giá trị nền tảng như lòng “tự tin, hy vọng, đức tin và bình an nội tâm” để vượt lên những khó khăn của cuộc đời, cha cho biết như trên trang blog của mình: cyrilaxelrod.wordpress.com.
“Chỉ những người hiểu được sự mong manh, giới hạn của mình mới có thể xây dựng được mối tương giao trong tình huynh đệ, tình tương trợ, trong Giáo hội, trong xã hội và làm chứng điều này”, Đức Phanxicô đã tuyên bố như trên trong lần gặp cảm động với 6 000 người mù và câm điếc vào tháng 3-2015 vừa qua. Trong số họ ở hàng đầu là linh mục Cyril, cha quá hạnh phúc được gặp Giáo hoàng thứ ba trong đời mình, Đức Phaolô VI năm 1971 và Đức Bênêđictô XVI năm 2009. “Quan trọng là những người này phải là chứng nhân cho một thái độ mới, mà chúng ta gọi là “văn hóa của gặp gỡ”, Đức Phanxicô nhấn mạnh trong ngày đó, để chống lại với nền “văn hóa loại bỏ”, một nền văn hóa làm băng hoại xã hội đương thời.
Linh mục Cyril Axelrod còn nhớ những giọt nước mắt cảm động của Đức Chân Phước Phaolô VI. Lúc đó cha vừa chịu chức xong và trước khi bị bệnh – hội chứng Usher, bị nốt chấm trong cườm mắt liên quan đến bệnh điếc – đã làm cho cha bị mù luôn. Cha đã dịch câu ban phép lành của Đức Giáo hoàng ra ngôn ngữ dấu hiệu: “Đi và rao giảng tình yêu của Chúa cho người điếc”. Các giọt nước mắt của Đức Giáo hoàng đối với cha là “dấu hiệu điều kỳ lạ của Chúa dành cho tôi, cho sứ mạng cứu chuộc của tôi,” cha thổ lộ trong quyển tiểu sử của mình như trên.
Năm nay linh mục Cyril được 73 tuổi và sống tại Luân Đôn. Cha sinh năm 1942, cha mẹ là người Do Thái-chính thống, cha trở lại đạo công giáo năm 23 tuổi và năm 28 tuổi cha vào cộng đoàn các Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, thực hiện giấc mơ được làm linh mục. Công việc của cha là giúp người điếc, mở cánh cửa giáo dục và hiểu biết cho họ. Cha không bao giờ quay lưng với sứ vụ này! ( Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch Linh mục Cyril Axelrod, người rao giảng Phúc Âm điếc và mù trên Web )
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu thể hiện rất rõ ràng “Văn Hóa của Gặp Gỡ”, khi Người chữa lành người câm điếc giữa dân ngoại. Ngày nay, Linh mục Cyril Axerod đang trung thành tuân theo lời dạy của Đức Giêsu, hội ngộ thường nhật với tha nhân qua phương tiện điện máy tân kỳ, mặc dù vừa bị điếc và mù lòa. “Văn hóa của Gặp Gỡ” đòi hỏi những quy tắc vàng do chính Đức Giêsu ân cần hướng dẫn: vị tha, tiếp cận và hiệp thông.
Vị tha
“Người đem anh ta ra khỏi đám đông.” Gặp gỡ đối thoại luôn cần tách ra khỏi đám đông bầy đàn, hỗn độn, nhiễu nhương, ồn ào, xô bồ và phức tạp, để có thể lắng nghe trung thực và nói ra điều công chính hữu ích. Gặp gỡ giúp đỡ với tình thương mến, thì càng cần tìm đến chốn riêng tư, khiêm tốn, kín đáo và thân mật. Không những quan tâm giúp đỡ anh câm điếc này, Đức Giêsu còn tỏ ra tôn trọng anh, không muốn anh bị đám đông chế giễu xúc phạm, không muốn tạo cơ hội nổi danh, cũng chẳng muốn thiên hạ ngộ nhận Người là thầy thuốc, thầy lang, hay phù thủy. Tất cả chỉ vì vị tha, yêu thương cứu giúp người tật nguyền, vì Người muốn tái tạo con người trở nên tốt lành, sửa chữa những hư hỏng, bệnh hoạn, lệch lạc, khiếm khuyết do tội lỗi, thói hư tật xấu, hoặc do áp lực thói đời dung tục gây nên.
Thoát khỏi đám đông, Đức Giêsu muốn gặp gỡ riêng từng người, từng con chiên hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, cô đơn, lạc lõng, bị áp bức hay bị bỏ rơi, tẩy chay. Người chính là Mục Tử nhân lành, dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trong đàn, để đi tìm một con chiên lạc. Hoàn toàn xả kỷ, quên mình, chẳng nề quản mệt nhọc, vất vả, chông gai, nguy hiểm, thách đố, Người tìm cho bằng được con chiên lạc, hớn hở vác lên vai đem về.
Bất cứ cuộc gặp gỡ nào không noi gương Đức Giêsu hành động, ứng xử kiểu mẫu, xả kỷ, vị tha thì chỉ dẫn đến thất bại, ngộ nhận và tan vỡ mà thôi. Vì nếu ai cũng khư khư giữ thái độ vị kỷ, vị lợi, kiêu căng, tham lam, thì luôn xảy ra mâu thuẫn, bất đồng, bất khoan dung, không thể nào gần gũi, hòa hợp và hiệp thông.
“Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh nhọc mệt, tránh hy sinh; họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một thiên đàng dành riêng cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn.”( Đường Hy Vọng, số 196 )
Tiếp cận
“Người đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta.” Với quyền năng vô biên, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, thì anh câm điếc được lành bệnh ngay. Nhưng Người không chọn việc làm dễ dàng, đơn giản ấy, mà chịu khó ân cần, gần gũi, tỉ mỉ và tiếp cận, chữa lành cho anh ta. Gặp gỡ, tiếp xúc cụ thể mới có thể hoán cải, biến hóa, tái tạo, tái sinh. Những lời rao giảng dù hoa mỹ, hùng hồn, cao quý, sâu sắc cách mấy, mà thiếu những hành động cụ thể, tiếp cận con chiên đang trầm luân khốn khó, thì vẫn chỉ là mớ lý thuyết suông thiếu sức thuyết phục. “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chóp lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm cụ thể.” ( 1Ga 3, 18 ) Thánh Gioan đã chân thành khuyên nhủ các tín hữu Kitô tiên khởi về lời nói phải luôn đi đôi với hành động.
“Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” ( Ep 2, 13 ) Đức Giêsu đã và đang tiếp cận từng người, từng ngày giờ qua Tin Mừng và Thánh Thể, qua tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, qua những Bí tích mầu nhiệm và những lễ nghi, kinh nguyện hằng ngày. Vấn đề là người Kitô hữu có muốn được Người tiếp cận, để được cám hóa, canh tân, tái sinh, tái tạo cả thân xác lẫn tinh thần, hay cứ cố chấp bịt tai, câm lặng, đồng lõa với thế gian bất chính, bất công, tội lỗi và thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân?
Hiệp thông
“Ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Ephêta!” Đức Giêsu luôn luôn cầu nguyện trước khi hành động. Người luôn thực hiện theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chứ không bao giờ theo ý riêng Người. Cầu nguyện là quy hướng mọi sự về Thiên Chúa, tin tưởng, trông cậy, yêu mến, hoàn toàn phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Trong niềm tri ân, cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu làm phép lạ cởi trói cho người câm điếc thoát khỏi ngục tù thân xác bệnh tật, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân, để có thể nghe Lời Chúa và rao giảng Tin Mừng cho tha nhân.
Nhờ Đức Giêsu nhập thể, cứu chuộc con người khỏi câm điếc với Thiên Chúa và với nhau. Khỏi dửng dưng với Lời Chúa, khỏi vô cảm với tha nhân, khỏi xiềng xích, tường lũy giam cầm của tội lỗi, ma quỷ, thế gian và xác thịt. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” ( Cv 2, 42 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi câm điếc tinh thần, để chúng con nghe được Lời Chúa mời gọi hằng ngày, nghe được Thánh ý Chúa, nghe được tiếng nói lương tâm. Cũng như nghe thấy những nhu cầu của những người khó khăn, đau khổ, mất tiếng nói trong xã hội, mà yêu thương, dấn thân hy sinh giúp đỡ. Xin mở miệng chúng con biết tri ân cảm tạ, ngợi khen Chúa, cũng như an ủi, hướng dẫn, hỗ trợ người yếu đuối, cơ quả, nói lên những gì hữu ích cho tha nhân mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết lắng nghe cách trung thực và biết nói lời chân thành, xây dựng, để có thể hiểu biết, yêu thương và chia sẻ mọi sự với người khác trong cuộc sống lưu đầy này. Amen.
45. Chúa Giêsu chữa người câm điếc
Anh chị em thân mến.
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghỉ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ: dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.
Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: “Hãy mở ra” Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuếch, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.
Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gỏng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.
Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: “Hãy mở ra”.
Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.
46. Cái chạm đến của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Tai để nghe và miệng lưỡi để ca tụng
Ngày nay, người ta vẫn gặp những đứa trẻ bị giam hãm trong nỗi cô đơn bởi vì chúng bị mù, bị câm, bị điếc ngay từ lúc mới chào đời. Nhiệt tâm và kỹ thuật chuyên môn của các chuyên viên đôi khi cũng đem lại thành công đôi chút là giúp cho những đứa trẻ tật nguyền này biểu lộ một vài cử chỉ, bập bẹ được vài tiếng. Tuy vậy, có những đôi mắt, những đôi tai và miệng lưỡi bị đóng kín: có rất nhiều người, nhiều đôi vợ chồng “không hiểu được nhau”, “không nói với nhau”! Có biết bao “cuộc đối thoại giữa những người điếc” đang diễn ra tại các quốc gia, nơi những nhóm người, những cộng đoàn: người ta không tin nhau, không đón nhận người khác trong nỗi yếu đuối của họ …
Những tình trạng này có thể giúp người tín hữu hiểu được ý nghĩa biểu tượng trong câu chuyện Đức Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng. Đức Giêsu nhận thấy rằng đám dân được tuyển chọn nay đã trở nên điếc, không nghe được lời giảng của Người, và không lắng nghe lời Người mời gọi thay đổi nếp sống, nên Người du hành sang miền đất thuộc dân ngoại: Tia, rồi Xi-đon và Thập Tỉnh. Đức Giêsu có mặt ở giữa đám dân không có tai để nghe lời Thiên Chúa và không có miệng để ca tụng Người. Họ giống như các ngẫu tượng có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe.
Và đây, một minh hoạ cụ thể về đám dân ngoại này: người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu làm việc. Hình như việc đặt tay không không đủ. Sự dữ lớn quá. Đức Giêsu kéo riêng người bệnh ra một nơi, đặt ngón tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Người còn ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên một tiếng… Cái ác thật mạnh! Đức Giêsu chiến đấu chống lại nó, không phải là không khó nhọc; nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng: tai anh đã mở ra, lưỡi anh hết bị buộc lại. Phép lạ này vừa là việc chữa lành người bệnh, vừa là một Tin Mừng cho dân ngoại, và cũng là một dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh.
- Chữa lành người bệnh: Đức Giêsu tái tạo miệng lưỡi và đôi tai của anh, cho chúng hoạt động được. Như thế, Người bày tỏ quyền năng sáng tạo của Người.
- Tin Mừng cho dân ngoại: Đức Giêsu ban cho họ, như đã ban cho dân Ít-ra-en, đôi tai để nghe lời Thiên Chúa, và miệng lưỡi để ca tụng Người cách đúng đắn. Tất cả đều được mời gọi hưởng ơn cứu độ.
- Dấu chỉ quý giá cho Hội Thánh: cử chỉ lấy nước miếng bôi vào tai, và nhất là lời đọc Ép-pha-ta – Hãy mở ra được nhắc lại mỗi khi cử hành bí tích Thánh Tẩy. Nhân loại vẫn khép kín nơi chính mình, giờ đây được mở ra và tái lập cuộc đối thoại với Thiên Chúa của mình.
Như vậy, Đức Giêsu muốn mọi người trở thành “những người có trách nhiệm”, những người có khả năng nghe và đi vào cuộc đối thoại đem lại ơn cứu độ do Giao Ước thiết lập. Trước những thái độ khép kín nơi chính mình – thái độ của những người giàu có, những người quyền thế, những người kiêu căng, trước những thái độ vô tâm, tự mãn, ích kỷ, Đức Giêsu vẫn luôn nói: “Hãy mở ra”. Hãy mở ra để đón nhận ơn cứu độ đích thực, hãy mở ra để cùng dấn thân với Thiên Chúa …
Hãy mở ra
Người ta biết nhiều đến bản văn này qua từ ngữ “Ép-pha-ta – Hãy mở ra”. Dĩ nhiên chủ đề chính của bản văn này là mở ra, nhưng cần phải hiểu là có nhiều mức độ.
* Đức Giêsu, người chữa lành
Đối với những người cùng thời với Đức Giêsu, tất cả những cử chỉ do thánh Mác-cô thuật lại là những cử chỉ thông thường vẫn gặp thấy nơi những người chữa bệnh: tách riêng bệnh nhân, tiếp xúc thể lý (đặt tay vào tai), thấm nước miếng và bôi lên người bệnh.
Trong một xứ sở thuộc dân ngoại, tức là miền Thập Tỉnh, Đức Giêsu xuất hiện như một người chữa bệnh. Tuy nhiên, dân ngoại nhận ra Đức Giêsu không giống như những người khác: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Phép lạ tạo nên hai cuộc cắt đứt:
- Đức Giêsu có những cử chỉ giống như người khác, nhưng tự căn bản, những cử chỉ này mang ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Người thực hiện điều ngôn sứ I-sai-a báo trước (35,5) theo một ý nghĩa mới.
- Phép lạ xảy ra tại một miền đất ngoài lãnh thổ Ít-ra-en. Điều này cho thấy Đức Giêsu muốn mở rộng mặc khải cho toàn thể nhân loại.
Thái độ mở ra của con người
Kẻ vừa điếc vừa ngọng chính là biểu tượng của tình trạng không có thông tin, không có hiệp thông. Anh ta không đón nhận được tiếng nói, và cũng không phát ra được lời nào. Anh ta tựa như một người đã chết, đã bị vùi lấp và giờ đây anh ta gặp Đức Kitô, Đấng là Lời và là Sự Sống.
Đối với người bệnh, phép lạ này là một cuộc sinh ra mới, là một cuộc phục sinh. Anh ta mở ra với sự sống, với thế giới bên ngoài, với những con người đang sống bên cạnh. Nhận định này cũng tương tự như trường hợp người mắc bệnh cùi. Do sự can thiệp, do lời cầu nguyện của Đức Giêsu, sự sống không thể tắt lịm, và nếu sự sống có sự ác bị ngăn lại, thì cũng được khai thông.
Sự tái sinh này xảy ra do cuộc tiếp xúc với con người Đức Giêsu (đụng chạm, nước miếng). Điều này nhấn mạnh đến một kinh nghiệm thiêng liêng. Sinh ra trong sự sống do Thiên Chúa ban không phải là kết quả của cây đũa thần điều khiển từ xa. Phải có một sự hiện diện, một cuộc tiếp xúc. Chính vì vậy, sự nhập thể của Con Thiên Chúa là một yếu tố không thể tách rời của mặc khải. Chính nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu mà nhân loại yếu đuối có thể chạm đến và cảm được điều thiêng thánh (Thánh Ép-rem).
Đến với dân ngoại hôm nay
Ngày nay cũng như hôm qua, các Hội Thánh của chúng ta, thân thể của Đức Kitô cũng đang du hành sang các miền đất của dân ngoại. Thay vì Tia, Xi-đon, Thập Tỉnh là những tên gọi mới.
Khắp nơi, những người đang vây quanh chúng ta chẳng có tai để nghe lời Thiên Chúa, chẳng có miệng lưỡi để nói lên lời ca tụng Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào đám đông này với niềm hy vọng chắc chắn rằng họ không ở xa ơn cứu độ. Họ chờ đợi Đức Kitô đến trong chúng ta để chạm vào tai họ, và cởi dây đang buộc lưỡi họ. Khi ấy, sẽ có nhiều tiếng nói vang lên để cùng chúng ta ca tụng Thiên Chúa, miễn là chúng ta để cho Thiên Chúa chạm đến, miễn là tai chúng ta mở ra để nghe lời Thiên Chúa, miễn là lưỡi chúng ta đưa ra để đón nhận bánh từ trời xuống.
Vì vậy, hãy mở ra để lắng nghe và đón nhận những giáo huấn Tin Mừng! Hãy mở ra để nói lên lòng tin cùng với tất cả cuộc sống! Hãy mở ra để môi miệng thốt lên lời kinh “Lạy Cha chúng con”. Được như thế, đời sống của chúng ta sẽ trở nên một lời nói sống động, và sẽ hoàn toàn quy hướng về Đức Giêsu Kitô.
Và khi ấy, người khác cũng kinh ngạc mà thốt lên: “Ông ấy làm gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Lạy Chúa,
chúng con cảm tạ Chúa cho chúng con được sống
hôm nay và ngày mai
cũng như hôm qua và mỗi ngày
trong ân sủng của Chúa,
trên mặt đất, với bánh ăn và ánh sáng,
với những con người vây quanh.
Chúng con cảm tạ Chúa
vì chúng con đang sống ở đây và lúc này,
và được cảm nhận cả nỗi buồn lẫn niềm vui.
Chúng con cầu xin Chúa
để dù tương lai hay sự chết
cũng không tách rời chúng con khỏi Đức Giêsu Kitô,
khỏi tình yêu của Chúa
đối với con người
cũng như đối với mặt đất.
H.Oosterhuisn
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng Aramäisch, tiếng mẹ đẻ của Ðức Giêsu, như trong bài Phúc Âm hôm nay: “Effata: Hãy mở ra!” Tại sao người ta lại lấy tiếng đó làm quan trọng và lưu truyền lại cho tới ngày nay? Phải chăng người ta còn lưu truyền tiếng đó lại, vì cho rằng nó có một sức mạnh có thể chữa lành các tật bệnh, như thể một tiếng thần chú vậy? Dĩ nhiên là không phải thế!
Cũng như chính Ðức Giêsu đã không đến trong thế gian để chữa lành tất cả mọi bệnh tật một cách cách có hệ thống, Giáo Hội cũng không cho mình có sứ mệnh như một cơ sở nghiên cứu các phương pháp chữa bệnh một cách kỳ lạ. Vì thế, xưa kia khi Ðức Giêsu chữa lành một bệnh nhân tìm đến với Người, là chỉ muốn qua đó nhắc cho con người đến một sự chữa lành khác quan trọng và cần thiết hơn bội phần, một sự chữa lành có liên hệ với sự tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. Cũng vì thế Người đã chữa lành người câm và điếc mà Người đã gặp trên đường đi.
Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, nhiều người đã từ từ trở nên tư lự ít nói và cuối cùng thành câm luôn, dĩ nhiên không vì bộ phận phát âm của họ bị bệnh, nhưng vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bất thuận lợi: họ nói mà không một ai thèm để ý lắng nghe. Ðó là một thứ bệnh câm phát xuất từ thái độ bịt tai giả điếc của những kẻ khác. Bởi vì những người sống bên cạnh tôi chỉ biết có mình họ và họ tự đóng khung trong chính con người của họ, nên mọi cố gắng tìm thông tin đối thoại của tôi trở thành vô ích. Tôi có nói cũng chỉ nói để mình tôi nghe. Tiếng nói của tôi chỉ là tiếng nói trong sa mạc của tình cảm chết, không có tiếng vọng, không có tiếng trả lời! Từ từ tôi trở thành câm, quên mất tiếng nói của loài người. Quả thực đây là một căn bệnh mà các vi khuẩn của nó ít nhiều đang đồn trú trong mỗi người chúng ta.
Quả vậy, thường chỉ do một sự hiểu lầm nho nhỏ, một sự khác biệt ý kiến hay một sự bị làm tổn thương nho nhỏ, bỗng nhiên cả toàn bộ những tương quan và tình nghĩa thân thiết trong cuộc sống chồng vợ, cuộc sống gia đình hay cuộc sống xứ đạo hoàn toàn bị đóng băng, bị tê liệt hay bị sụp đổ. Lý do là vì những người trong cuộc muốn giữ thái độ câm nín và giả điếc, chứ không muốn mở miệng để nói với nhau và mở tai để nghe tiếng nói của nhau nữa, hầu cùng nhau tìm ra nguyên nhân đã gây ra cớ sự và giải tỏa đi những vướng mắc. Hoặc mỗi người đều chỉ muốn bày tỏ quan điểm của mình và khư khư bảo thủ quan điểm đó, chứ không còn muốn kiên nhẫn lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tìm ra một dung hòa nào đó!
Nếu thành thật với lương tâm, lắm lúc chúng ta phải tự cảm thấy hổ thẹn với chính mình, bởi vì chúng ta đã không rộng lượng với nhau; bởi vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, đến lợi ích tư riêng của mình mà thôi!
Nhưng ai sẽ có thể chữa lành chứng bệnh câm và điếc này của chúng ta? – Xin thưa, không có ai cả! Ðức Giêsu cũng không! Ðức Giêsu chỉ có thể chỉ cho ta con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh! Người chỉ cho chúng ta cách thức có thể giúp chúng ta tự giải thoát mình khỏi chứng câm và điếc kia: “Effata! Hãy mở ra!” Ðức Giêsu chỉ có thể giúp ta phương pháp: “Effata! Hãy mở ra!” còn chính hành động “mở ra” thì chúng ta phải tự làm lấy. Chúng ta phải tự mở rộng lòng mình ra. Chúng ta phải tự mở rộng sự quảng đại của mình ra. Chúng ta cần phải tự bắc nhịp cầu nối lại với người khác. Chúng ta cần phải tự giải thoát mình khỏi sự ích kỷ hẹp hòi, khỏi sự tự tôn tự đại, và biết can đảm lắng nghe kẻ khác.
Những ai không muốn cố gắng tập cho mình có thói quen biết quan tâm đến ý kiến người khác, thì làm sao họ có thể nghe được tiếng Chúa? Bởi vì tiếng Chúa luôn luôn âm thầm nhỏ nhẹ, đến nỗi rất dễ bị các tiếng nói ồn ào khác xuất phát từ môi trường sống chung quanh hay bởi chính nội tâm bất ổn của chúng ta lấn át đi và không thể nghe được nữa
Nếu chúng ta tìm cách giả điếc làm ngơ trước tiếng Chúa, trước tiếng lương tâm mình, hoặc chúng ta không còn muốn lắng nghe người đồng loại, không muốn giao tiếp với họ nữa, chúng ta sẽ trở thành câm và điếc, chúng ta sẽ trở nên bệnh hoạn và cần phải được chữa lành.
“Effata! Hãy mở ra!” Tất cả chúng ta cần phải mở rộng cửa lòng mình ra cho Thiên Chúa và cho người đồng loại. Chúng ta cần phải giải thoát mình khỏi sự cô lập của chính bản thân và nối lại mọi quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Ðó là con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh bất trị câm điếc của chúng ta.
“Lạy Chúa, xin hãy mở lòng và môi con, đề miệng con cao rao lời ngợi khen Chúa! Xin Chúa hãy mở miệng con ra để con ca ngợi Chúa, và xin hãy ban cho con một Thần Khí mới”. Amen.
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)
Một công ty xây cất lớn đang vẽ sơ đồ để xây một toà nhà mới. Năm kỹ sư trẻ và một kiến trúc sư làm việc trên bản thiết kế, họ đang bàn luận về những phương cách sắp xếp một phần nào đó của toà nhà. Khi một người trong nhóm đột nhiên đề nghị một điều anh nghĩ là một phương cách mới để thi hành. Những người khác nhìn anh đầy vẻ ngạc nhiên. Người trưởng nhóm phải trả lời anh rằng ý kiến của anh đã có người đề nghị rồi, đã cứu xét và đã bị bác bỏ. Điều gì xảy ra vậy. Người kỹ sư trẻ này đã không lắng nghe ý tưởng đó lần đầu tiên được đề nghị. Anh không nắm được vấn đề. Kết quả là anh không được thăng cấp, anh không được tăng lương. Anh đã phải trả cái giá không lắng tai nghe.
Rất khó nhận ra được biết bao người không lắng tai nghe. Đó là một lỗi rất thông thường đến nỗi nhiều trường cao đẳng có mở những lớp gọi là: “Viện lắng nghe” để tìm ra và chữa trị những nguyên do lắng nghe kém.
Chúng ta vừa nghe Chúa Giêsu chữa người không thể lắng nghe, vì họ điếc. Anh là một trong hàng triệu người điếc hay lãng tai. Có hàng triệu người khác có tai thính, nhưng họ không nghe, vì không lắng tai nghe. Vả lại, trong mọi lãnh vực đời sống, lắng tai nghe rất quan trọng.
Đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu mọi người biết lắng tai nghe, không phải với cái ý là để người khác nói nhưng là cố gắng nghe được điều người khác muốn nói. Sự thông cảm không phải là đường một chiều. Nói và lắng nghe đúng cách sẽ giúp hai người hôn phối chia sẻ không chỉ với ý tưởng và sự việc, mà còn với cảm nghĩ nữa. Cố gắng nghe những gì người khác cảm xúc cũng như những gì họ nói.
Dĩ nhiên con cái cần lắng nghe cha mẹ, nhưng cha mẹ cũng cần lắng nghe con cái mình. Hãy bình tĩnh nghe con trai, con gái bạn nghĩ gì, cảm gì.
Rất thường gặp một học sinh bỏ mất lời giảng nghĩa, vì em không chăm chú nghe ông thầy. Cùng lúc ấy ông thầy cũng phải lắng nghe khi học sinh trả lời hoặc đặt câu hỏi.
Lắng nghe một cách khôn ngoan rất quan trọng ở đây, trong nhà thờ. Lời Chúa nói những gì? Ý nghĩa của nó ra sao. Điểm chính yếu của bài giảng là gì? Hôm nay bạn có thể gồm tóm sứ điệp của chúng ta trong hai chữ “lắng nghe”.
Chúng ta cần nói với Chúa trong kinh nguyện. Nhưng chúng ta cũng phải lắng nghe Chúa. Ít phút thing lặng sau khi rước lễ là lý tưởng để lắng nghe điều Chúa nói.
Hãy tập lắng nghe người cô đơn, người phiền muộn, người lo lắng. Với nhiều người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất, món quà quí giá nhất là có ai đó thực sự lắng nghe nỗi phiền muộn cũng như nỗi vui mừng của họ.
Trong và qua Thánh Lễ, cũng chính Đức Giêsu, Đấng làm cho người điếc được nghe, sẽ giúp bạn và tôi học nghệ thuật như Chúa Kitô, để chân thành lắng nghe.
Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một ông già nổi tiếng là hiểu rộng. Ông học hành rất ít nhưng lại có kiến thức uyên bác. Nhiều người tới thăm ông và bàn luận với ông về nhiều vấn đề cao xa. Trong số đó, có một giáo sư nổi tiếng, cũng ngạc nhiên về ông và đặt câu hỏi:
– Ông lấy những hiểu biết đó ở đâu ra vậy? Tôi không thấy cuốn sách nào viết như thế.
Ông già đáp:
– Hàng ngày tôi đọc ba cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc. Cuốn thứ nhất là những việc Chúa làm quanh tôi. Cuốn thứ hai là lương tâm của tôi. Và cuốn thứ ba là Kinh Thánh.
Đúng như ông già nói, những điều kỳ diệu có sẵn quanh ta, ai cũng có thể nhìn, ai cũng có thể nghe và nói về những điều kỳ lạ này. Nếu chúng ta không hiểu, là vì chúng ta không vận dụng ngũ quan và không muốn suy nghĩ tìm tòi. Chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần phàn nàn về các môn đệ; Sao các con tối dạ thế? Có mắt mà không xem, có tai mà không nghe. Và chúng ta cần được Chúa chữa trị như Chúa đã chữa người câm điếc mà Tin Mừng mới kể.
Đây là một bệnh nhân thuộc vùng Siđon, dân ngoại bang. Sau một thời gian dài Chúa hoạt động ở Galilê, có một vài thành công nhưng cũng gặp nhiều thất bại. Một trong những thất bại đó, là bài diễn văn về bánh hằng sống, đa số dân chúng và các môn đệ không tiếp thu, họ đã bỏ Chúa mà đi. Chúa quay sang các dân ngoại bang, những người chưa biết Chúa nhưng có thiện chí, chỉ cần Chúa khai quang, họ sẽ nghe được Lời Chúa và biết lên tiếng ca ngợi Chúa.
Chúa chữa người câm điếc như thực hiện một bí tích. Cũng có một cử chỉ và một lời nói. Chúa đưa anh ra xa đám đông, chạm vào tai và lưỡi anh ta. Chúa ngước nhìn trời, cầu nguyện rồi nói: Hãy mở ra. Và anh khỏi câm khỏi điếc. Phép lạ nào cũng do niềm tin của người xin. Nhưng phép lạ cũng do sức mạnh từ thân mình Chúa Giêsu phát ra. Như các bí tích chúng ta chịu bây giờ, cũng là sự tiếp xúc giữa người lãnh nhận với vị chủ sự, đại diện Hội Thánh. Và có khi tiếp cận chính Chúa Giêsu, như bí tích Thánh Thể. Đó cũng là Đức Giêsu đã xuôi ngược trên các nẻo đường Do Thái xưa. Nhưng ít khi ta thấy phép lạ, vì niềm tin của ta còn yếu kém.
Chuyện người câm điếc được lành hôm nay cũng là một ẩn dụ. Vì vậy Chúa chữa bệnh với một lệnh truyền. Hãy mở ra. Lệnh này không phải nói tới cái tai và cái lưỡi, nhưng nói với người bệnh. Bệnh câm điếc thể xác là một khuyết tật ngoài ý muốn. Nhưng bệnh câm điếc tinh thần thì có thể là một lựa chọn của người bệnh. Có những lúc chúng ta không muốn nghe Lời Chúa nói trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng, có lúc chúng ta chẳng khác gì người câm điếc. Chúng ta mất khả năng giao tiếp với Chúa và với anh em. Chúng ta cần cầu xin Chúa, để Chúa chạm tới ta và nói với ta: Hãy mở ra, và chúng ta khỏi câm điếc, lại tiếp nối sự hiệp thông với Chúa, và anh chị em trong ân sủng và trong cuộc sống bác ái.
Lạy Chúa, xin chữa con khỏi câm khỏi điếc, xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa, biết chia sẻ cuộc sống với anh chị em, biết nhiệt thành lên tiếng ca ngợi Chúa và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người.
Trên một tờ báo, người ta đọc được một lời kinh cầu cho những người câm và điếc như sau:
– Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà những người câm điếc phải gánh chịu, đó là thiên hạ coi họ như những kẻ chuyên môn gây phiền hà. Kết quả là họ thường phải xa lánh bạn bè và ngày càng trở nên khép kín. Vì thế, xin Chúa hay xót thương nhìn đến họ.
Lời kinh trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay, cũng như hiểu được niềm vui của người câm điếc được Chúa chữa lành, bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời anh ta nghe được và nói được. Vậy tại sao Chúa lại chữa lành cho anh ta?
- Lý do thứ nhất là vì qua việc chữa lành này, Ngài hoàn tất những dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói đến để giúp dân chúng nhận ra Đấng Thiên sai, đó là kẻ điếc được nghe và người câm nói được.
- Lý do thứ hai là qua việc chữa lành này, chúng ta thấy được lòng thương xót của Ngài. Thực vậy, người câm điếc thường mặc cảm khi tiếp xúc. Họ không hiểu gì cả nên cảm thấy như mình đứng bên lề những sinh hoạt của cuộc sống. Vì thế, khi dẫn anh ta ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót thực sự của Ngài đối với anh.
- Sau cùng, lý do thứ ba đó là qua việc chữa lành này, chúng ta tìm thấy được niềm hy vọng. Thực vậy nhiều người trong chúng ta mặc dầu không câm và điếc về thể xác, nhưng lại câm và điếc về mắt tinh thần.
Chẳng hạn như họ không bao giờ nghe thấy tiếng Chúa nói với họ qua lương tâm, qua mười điều răn, qua Kinh Thánh, nhất là Phúc âm, qua Giáo hội cũng như qua những dấu chỉ của thời đại. Họ là những kẻ điếc về phương diện thiêng liêng.
Tiếp đến họ là những kẻ khô khan nguội lạnh, chẳng bao giờ biết thân thưa với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, cũng như không bao giờ mở miệng lên tiếng bênh vực Chúa và Giáo hội. Họ là những kẻ câm về phương diện thiêng liêng.
Còn chúng ta thì sao? Nếu như chẳng may chúng ta rơi vào tình trạng trên, nghĩa là chúng ta cũng đã là những người câm và nhưng kẻ điếc về phương diện thiêng liêng, thì chúng ta hãy tìm kiếm Chúa và cùng Ngài bước ra khỏi đám đông để được tận hưởng đôi chút thời gian gắn bó với Ngài, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài mở tai và mở miệng chúng ta.
Nói cụ thể hơn, đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Chúa trong việc chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng nơi chúng ta.
Tóm lại, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận biết Ngài chính là Đấng Thiên sai mà tiên tri Isaia đã loan báo từ hàng trăm năm về trước. Hơn nữa chúng ta còn nhận biết được lòng thương xót của Ngài. Ngài đưa người câm điếc ra khỏi đám đông để chữa lành, bởi vì Ngài không muốn biến người ấy trở thành trò cười cho thiên hạ, nhưng Ngài muốn tiếp xúc thân mật với anh ta.
Cuối cùng chúng ta xin Chúa chữa lành câm điếc thiêng liêng mà chúng ta đang mắc phải để nhờ đó, chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa cũng như biết thân thưa cùng Chúa qua những tâm tình cầu nguyện.
Tôi đã đọc một câu sau đây trong một cuốn sách: “Yếu tố đầu tiên trong một cuộc đối thoại là sự thật, thứ hai là có lương tri, thứ ba là tính hài hước vui vẻ, và cuối cùng là sự hóm hỉnh thông minh”. Nhưng làm sao mà một người có thể đối thoại với người khác bằng miệng, nếu như anh ta vừa câm lại vừa điếc.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc.
Những người câm điếc thì không thể giao tiếp bằng miệng với chúng ta, bởi vì họ không nghe được và không nói được. Họ chỉ có thể giao tiếp qua các cử chỉ và dấu hiệu. Nhiều người có mặc cảm tự ti vì khuyết tật của họ. Nhiều người tàn tật cảm thấy xấu hổ và tránh né mọi người, vì sợ người khác cười nhạo khuyết tật của họ. Tôi tin là Chúa Giêsu hiểu rõ điều này, và vì thế Chúa đã đưa người câm điếc ra khỏi đám đông trước khi Chúa chữa cho anh ta.
Tuy nhiên, những người câm điếc không chỉ là những người thiếu khả năng nói và nghe. Chúng ta cũng có thể gặp thấy những người câm điếc về mặt xã hội. Họ là những người mà chúng ta không muốn nói chuyện, họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, không có tiếng nói, không có thế lực và ảnh hưởng trong xã hội ngày nay. Họ có nói cũng chẳng có ai thèm lắng nghe họ. Giúp đỡ những con người phận nhỏ như thế là một cách chúng ta cám ơn Thiên Chúa, vì những ơn huệ lớn lao chúng ta đã nhận được. Hơn nữa, chúng ta cũng nên xét mình xem chúng ta thường sử dụng khả năng nghe và nói của mình như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân hay đã lạm dụng nó?
Dù chúng ta có thể nghe và nói được, nhưng có thể chúng ta lại câm và điếc đối với những lời của Thiên Chúa phán dạy. Chúng ta câm điếc khi không giúp đỡ, không đáp ứng lại trước những nhu cầu cấp thiết của những người lâm cảnh túng quẫn, khi chúng ta có khả năng, nhưng đã giả tảng làm ngơ, không nghe thấy những tiếng cầu cứu của tha nhân. Chúng ta cũng lạm dụng miệng lưỡi khi vu khống hay nói xấu người khác, khi chúng ta phá hủy tiếng tốt của người khác qua những lời nói dối trá, gièm pha. Bạn có nhận ra những dấu hiệu câm điếc như thế nơi chính bạn hay không?
Lạy Chúa Giêsu, xin chữa lành tật câm điếc của con đối với lời của Chúa. Xin mở miệng con để con loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người con gặp gỡ hàng ngày.
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giêsu. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng. Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giêsu làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn ngươi ăn no. Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người… Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?
Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giêsu trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưỡi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa tan để giải phóng con người.
Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giêsu đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? Và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai… Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rôma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giêsu có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma: “Hỡi Tôma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Kitô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Kitô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Kitô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Kitô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.
Chúng ta thường bảo: Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và để cuộc sống chung này được tốt đẹp, chúng ta cần phải tạo lấy những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông. Tuy nhiên, muốn tạo được những mối liên hệ đầy yêu thương và cảm thông, chúng ta cần phải nói cho nhau nghe, cũng như cần phải nghe nhau nói.
Trước hết là hãy nói cho nhau nghe. Ngôn ngữ và tiếng nói chính là phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta truyền đạt những ý nghĩ, những tư tưởng, những ước muốn cho người khác, nhờ đó họ sẽ hiểu chúng ta và cảm thông với chúng ta hơn. Thế nhưng, chúng ta không phải chỉ biết nói, mà còn phải biết nghe. Có biết nghe người khác nói, chúng ta mới ghi nhận được những ý kiến và đóng góp của họ. Bằng không, chúng ta chỉ là những kẻ độc thoại, nói một mình mà chẳng biết có ai lưu tâm đến hay không. Chính vì thế, việc biết nghe nhau nói cũng quan trọng không kém việc biết nói cho nhau nghe. Nói và nghe là những phương tiện, những khả năng giúp chúng ta liên hệ với người khác, nhờ đó tạo được một sự cảm thông chân thành. Nếu không có những phương tiện này, nếu không có những khả năng này, chúng ta sẽ phải mãi mãi sống trong sự cô độc lẻ loi và bị loại trừ. Người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã lâm vào một tình cảnh bi đát. Anh ta đau khổ biết bao vì không được nói với ai, cũng như chẳng được nghe ai nói với mình. Anh ta không thể hiểu người khác và người khác cũng khó mà hiểu được anh ta. Cảm thông tình cảnh bi đát ấy, Chúa Giêsu đã chữa anh ta khỏi câm và điếc, để anh được trở lại với cuộc sống xã hội, cuộc sống với người khác. Kể từ nay, anh ta có thể liên hệ với mọi người mà không còn tự ti mặc cảm nữa.
Trong phạm vi thiêng liêng cũng vậy, chúng ta không thể sống cô độc lẻ loi, trái lại, chúng ta còn sống với Chúa và với anh em. Vì thế, rất có thể lúc này, mặc dù chúng ta không câm điếc về phần xác nhưng biết đâu chúng ta lại câm điếc về phần hồn, một sự câm điếc thiêng liêng. Chúng ta câm điếc khi lặn ngụp trong tội lỗi, không còn lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua lương tâm, qua thiên nhiên, cũng như qua những biến cố xảy đến trong cuộc sống. Chúng ta câm điếc khi không còn dâng lên Chúa lời chúc tụng và cảm tạ tình thương Ngài đã dành cho chúng ta. Chúng ta câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá, không còn biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Chúng ta câm điếc khi không còn lắng nghe, cũng như không còn nói được những lời an ủi và khích lệ người khác. Chúng ta câm điếc khi tự coi mình là một ốc đảo, chỉ biết sống cho riêng mình và tệ hơn nữa, coi người khác là như hỏa ngục, là như một sự quấy rầy và phiền nhiễu.
Bởi đó, xin Chúa hãy mở miệng và mở tai chúng ta, để chúng ta biết lắng nghe và loan truyền lời Chúa, cũng như biết chia sẻ nỗi khổ đau với những người chung quanh.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cử lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết… thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.
Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.
Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.
Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.
Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói “Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng: “Phi-át: xin vâng” đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng “Ep-pha-tha” này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.
Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói, không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động: hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cũng cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.
Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm: tai trâu, tai cối, lơ đễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.
Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng v.v… Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình… Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi… như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.
55. Các phép lạ của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Các tác giả sách Tin Mừng đã ghi lại cho chúng ta những phép lạ của Chúa Giê-su. Nói đến các phép lạ tức là nói đến những điều lạ lùng, khác thường mà Thiên Chúa đã làm để bày tỏ hay minh chứng một điều gì. Thực vậy, mỗi phép lạ đều bày tỏ cho thấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể vạn vật trời đất, Ngài quyền phép vô cùng, Ngài có thể làm được mọi sự. Ngài là chủ tể của sự sống, Ngài là Đấng ban sự sống, Ngài mạnh hơn sự chết và tất cả những gì loan báo sự chết. Đàng khác, mỗi phép lạ còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng thiện hảo, Ngài yêu thương con người và muốn cứu giúp con người. Các phép lạ Chúa Giê-su làm cũng trong ý hướng đó, Ngài làm những phép lạ thường là vì lòng thương, như thương người bệnh tật, thương người đói khát, thương người đau khổ, thương gia đình có người chết… Do đó, chúng ta có thể nói: Chúa Giê-su đã đến cho người ta thấy tình thương Thiên Chúa yêu thương loài người, và Ngài chứng tỏ tình thương ấy bằng cách giúp đỡ loài người.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ giúp đỡ đời sống thể xác của con người mà còn muốn cứu giúp cả con người toàn diện. Vì thế, những phép lạ của Chúa Giê-su còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó là những dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại. Chẳng hạn, khi chữa cho những người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Đấng Cứu độ”. Khi hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Ngài cho thấy Ngài là bánh hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho con người … Còn phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn cho mọi người thấy và biết điều gì?
Trước hết, chúng ta thấy cách hành động của Chúa Giê-su trong trường hợp này hơi khác thường, kỳ lạ: Chúa đưa người ấy ra xa đám đông, đặt ngón tay vào tai người ấy, lấy nước bọt thoa vào lưỡi người ấy, rồi Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người ấy: “Ép-pha-tha” nghĩa là “hãy mở ra”, kết quả: tai người ấy mở ra, nút buộc lưỡi người ấy được cởi ra, và người ấy nói được rõ ràng. Trong Tin Mừng chúng ta rất ít khi gặp trường hợp Chúa chữa bệnh một cách “vất vả” và khác thường như vậy. Những cử chỉ bên ngoài Chúa làm ở đây chỉ là để thúc đẩy lòng tin bên trong nơi người câm điếc mà thôi. Bởi vì đối với người câm điếc, không nghe được, không nói được, nên không còn cách nào khác hơn là chạm vào tai vào lưỡi người ấy. Theo quan niệm thời đó, người ta gán nguyên nhân bệnh tật cho ma quỷ: người câm là người bị quỷ câm cột lưỡi lại, Chúa thoa nước bọt vào lưởi rồi phán một lời, tức thì nút cột lưỡi được tháo ra, cho thấy Ngài thắng được quyền lực của Sa-tan để giải phóng con người.
Một điều đặc biệt nữa: Chúa Giê-su đã đưa người bệnh ra xa đám đông để chữa, bây giờ Ngài lại truyền cho người ta (người câm điếc và cả những người đã đưa người câm điếc tới) không được nói ra với ai. Chúng ta thấy chỉ thị này có vẻ kỳ cục, vì Ngài đã chữa cho người câm điếc này nói và nghe được, rồi lại cấm không được nói ra với ai thì làm sao cấm được? Làm sao nén được niềm vui của người đã được ơn lạ? và làm sao nén được niềm vui của đám đông đã chứng kiến chuyện lạ? Bằng chứng là Ngài bảo người ta đừng nói thì người ta lại càng rao truyền mạnh hơn.
Đây là vấn đề về “bí mật Đấng Thiên Sai”. Tin Mừng nhiều lần kể lại lời căn dặn giữ kín này sau các phép lạ chứ không phải chỉ có phép lạ hôm nay mà thôi, chẳng hạn Chúa cấm ma quỷ không được nói ra Ngài là ai, cấm những người đã được hưởng phép lạ hoặc chứng kiến không được nói ra, cấm các môn đệ không được nói ra Ngài là ai … Chúng ta có thể trả lời như sau: trong khung cảnh tâm lý của dân Do Thái lúc ấy, lòng háo hức mong chờ một Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi đế quốc Rô-ma rất mãnh liệt, nên thấy Chúa Giê-su có uy quyền như thế, họ rất dễ ngộ nhận. Bởi vậy, Chúa căn dặn không được nói ra, vì chưa đến lúc có thể nói thẳng ra được, phải chờ cho đến lúc Ngài chết trên thập giá rồi mới có thể rao giảng, công bố cho mọi người biết Ngài là Đấng Thiên Sai mà không còn ngộ nhận nữa. Nói ngắn gọn: Chúa yêu cầu người câm điếc và những người chứng kiến không được nói ra cho ai biết để người ta khỏi hiểu lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu vớt người ta về mặt chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở những khía cạnh đó.
Phép lạ là những sự lạ lùng để minh chứng quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, đồng thời khơi dậy niềm tin hoặc củng cố niềm tin cho con người. Nhưng chúng ta hãy nhớ: một lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin còn non nớt, yếu đuối và bồng bột, dễ thay đổi. Một lòng tin vững chắc không lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, như Chúa Giê-su đã nói với tông đồ Tô-ma: “Hỡi Tô-ma. Anh thấy Thầy nên anh tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Ngày xưa cũng như ngày nay, phép lạ không phải là cách thế thường xuyên và rõ ràng nhất để làm chứng về Chúa Ki-tô và về đạo của Ngài. Có những cách chắc chắn hơn để làm chứng, đó là niềm tin chân thành, can đảm và vui tươi của người Ki-tô, là đời sống bác ái và lòng yêu thương của người Ki-tô, là sự quên mình xả thân vì người khác theo gương Chúa Ki-tô. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng và sống được như thế để làm chứng cho Chúa.
Khả năng nghe và nói là hai tặng vật lớn. Giống như mọi tặng vật, người ta có thể coi là việc đương nhiên hoặc sử dụng sai lầm. Chúng có quan hệ với nhau. Chúng ta thấy điều đó đặc biệt nơi những người lớn tuổi. Khi họ lãng tai, họ trở nên câm lặng. Người đàn ông đến với Đức Giêsu vừa bị điếc, vừa nói ngọng. Đức Giêsu chắc hẳn đã biết anh.
Những người có thính giác kém thường lúng túng và vụng về và buồn cười. Thính giác kém dẫn người ta đến sự im lặng bối rối, khiến người khác phải hiểu lầm. Ngày nay những phương tiện trợ giúp cho thính giác đã làm giảm nhẹ nỗi đau khổ của họ nhưng không làm biến mất hoàn toàn.
Tặng vật nói được là phương tiện chính để chúng ta truyền thông với người khác. Người nói ngọng thường làm trò cười cho người khác.
Chúng ta thấy nỗi đau khổ mà Đức Giêsu chịu thay cho người khốn khổ ấy, và sự săn sóc mà Người dành cho người ấy. Người dẫn anh ta ra khỏi đám đông để Người có thể chăm sóc cho anh trong sự riêng tư và dành cho anh sự quan tâm trọn vẹn. Thay vì nói với anh, Người sờ vào tai và lưỡi anh. Như thế, Người làm cho anh ta cảm thấy điều anh không thể nghe được.
Phép lạ có ảnh hưởng lớn đến chúng ta, không phải vì chúng ta điếc hoặc câm (may mắn thay, đa số chúng ta không bị), nhưng chính xác vì chúng ta có được tặng vật là nghe được và nói được. Việc chúng ta có được những tặng vật ấy không có nghĩa là chúng ta sử dụng chúng tốt. Nhiều người là những thính giả rất nghèo nàn. Và nhiều người gặp sự khó khăn khi diễn tả biểu lộ.
Nghe được mà không chịu nghe (điều phải) thì số phận còn tệ hơn bị điếc từ lúc sinh ra. Có tai mà không chịu nghe hoặc có lưỡi mà không chịu nói hẳn là tệ hơn rồi. Vì thế, chúng ta cần Chúa sờ vào để chữa lành nếu chúng ta muốn sử dụng tốt hai tặng vật quí giá ấy.
Các giác quan của chúng ta quí giá và sống động. Chúng ta cũng phải cảm nghiệm Thiên Chúa với các giác quan của chúng ta: với mắt, tai, lưỡi, và đặc biệt với tâm hồn chúng ta.
Phép lạ không chú trọng sự chữa lành thể chất của người đàn ông vừa điếc vừa câm. Đúng hơn phép lạ chú trọng đến việc mở tai cho người ấy để anh ta có thể nghe Lời Thiên Chúa và cởi trói cái lưỡi của anh để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu. Một người có thể nghe tốt, nhưng lại không nghe Lời Chúa. Một người có thể nói sõi nhưng không thể tuyên xưng đức tin.
Vì thế, không gì ngạc nhiên khi linh mục sờ tai và lưỡi trong nghi thức Thanh Tẩy từ những thời kỳ sơ khai và ngày nay vẫn thế. Linh mục chủ tế sờ vào tai và miệng của người nhận phép Rửa tội và nói: “Chúa Giêsu đã làm cho người điếc nghe được và người câm nói được. Xin Người cũng sờ vào tai anh/ chị để anh/ chị đón nhận lời Người và sờ vào miệng anh/ chị để anh/ chị tuyên xưng đức tin vào Người, để ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta”.
Chúng ta cần khả năng nghe Lời Thiên Chúa. Rồi cần khả năng tuyên xưng Lời ấy vào thực tiễn của cuộc sống. Lời của Thiên Chúa, một khi được nghe và thực hành, sẽ giống như hạt giống rơi xuống đất tốt; nó làm cho đời sống của chúng ta sinh hoa kết quả.
Tên tôi là James. Vì hoàn cảnh bị điếc, tôi bị thiệt thòi rất nhiều đến nỗi những người khác coi là việc đương nhiên. Tôi không thể nghe tiếng la hét của các em bé đang chơi, tiếng chim hót, tiếng gió thổi trên cây. Tôi không thể nghe những lời an ủi, động viên hoặc cảnh báo. Ít người chịu cố gắng thông tin cho người điếc. Họ thấy điều đó rất tẻ nhạt. Tôi cảm thấy cô đơn kinh khủng.
Thực tế tôi cũng bị câm, nó càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ và cô độc. Tôi không thể giãi bày. Tôi không thể diễn tả cảm giác của tôi. Những người vô tình đã cười nhạo sự nói lắp của tôi.
Tôi không có cơ hội để đóng góp gì cho cộng đoàn. Hậu quả là, tôi cảm thấy vô dụng và trở thành vô dụng. Người ta ngại chạm vào tôi. Bị tàn tật là gặp khó khăn. và khi bạn khó khăn, người ta sợ bạn. Hơn thế nữa, tôi còn đi đến chỗ tin rằng sự tàn tật của tôi là do Thiên Chúa trừng phạt.
Tôi đầy lòng thương cảm chính mình. Tôi ao ước được người ta thương xót. Tôi tin chắc không một ai hiểu và thương xót tôi. Cho đến một ngày kia, tôi biết được Đức Giêsu. Dù Người là dân Do thái, còn tôi là dân ngoại, tôi cũng không ngã lòng thối chí đi tìm sự giúp đỡ của Người.
Quả là một kinh nghiệm tuyệt vời! Việc đầu tiên Người làm là kéo tôi ra khỏi đám đông, và dành cho tôi sự quan tâm trọn vẹn của Người. Điều này làm cho tôi cảm thấy rằng Người coi tôi quan trọng. Đồng thời Người cứu tôi khỏi sự tò mò của những người lắm chuyện.
Người không nói với tôi như thể Người tiết kiệm lời nói. Trái lại, Người đã sờ vào tôi. Người đã làm cho tôi cảm nhận điều mà tôi không thể nghe được. Không có gì thô lỗ và vội vàng khi Người sờ tôi. Đó là một cử chỉ dịu dàng, nhẫn nại và yêu thương.
Người đặt ngón tay Người vào lỗ tai tôi. Rồi Người đặt ngón tay Người vào miệng Người, lấy ra một ít nước bọt trị bệnh và đặt nó vào lưỡi tôi. Kế đó, Người ngước mắt lên trời để cho tôi thấy rằng đây là sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Rồi với một tiếng thở dài lớn, Người nói: “Hãy mở ra!”. Và thình lình tai tôi được mở ra và lưỡi tôi trở lại bình thường. Tôi đã được chữa khỏi!
Người nói với tôi chớ nên loan truyền điều Người đã làm cho tôi. Nhưng tôi không thể giữ im lặng. Có quá nhiều điều bị dồn nén bên trong tôi đến nỗi trước hết tôi nói liên tục, không ngừng. Tôi không thể đi qua một người nào trong phố mà không nói: “Xin chào”. Tôi không thể giữ im lặng khi gặp một người đang đau khổ nếu tôi cảm thấy một lời của tôi có thể nâng đỡ người ấy. Tôi cũng không thể đứng nhìn hành động bất công mà không tố giác nó.
Nhưng không bao lâu, tôi đã nhận ra rằng tôi đã nói quá nhiều. Tôi đã không lắng nghe. Điều này khiến tôi làm tổn thương người khác. Vì thế tôi quyết định cố gắng lắng nghe người khác. Điều này có nghĩa là tôi phải ngừng nói. Tôi cũng nghe những âm thanh của thiên nhiên, của âm nhạc, tiếng cười và tiếng khóc.
Tôi đã khám phá một số điều lý thú trong suốt những tháng đầu tiên sau khi tôi khỏi bệnh. Tôi thấy mỗi người đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ sử dụng trọn vẹn tặng vật nói được như e thẹn, vô tình, vô cảm … Và họ đều có những trở ngại nào đó ngăn cản họ nghe tốt như thiên kiến, phân tâm, khước từ việc lắng nghe…
Tại sao tôi nói với bạn điều đó? Chính là để tránh cho số phận của những người có tai nhưng không thể nghe và có lưỡi nhưng không thể nói. Từ kinh nghiệm của tôi, tôi đã khám phá ra điều này: bi kịch lớn nhất không phải là sinh ra điếc và câm, nhưng là có tai mà không chịu nghe và có lưỡi mà không chịu nói điều phải.
Nghe và nói là hai tặng vật lớn. Nhưng nếu không có một tâm hồn có khả năng cảm nhận lòng thương xót, chúng ta sẽ không bao giờ có thể sử dụng tốt việc nghe và nói. Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nghe đúng, và chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói đúng.
Đấng đã sờ vào tai tôi và lưỡi tôi, cũng sờ vào tâm hồn tôi. Có như thế thì mọi việc mới làm tôi đổi mới. Đó là một phép lạ buổi sáng trước ánh mặt trời.
Có một lần nọ, một người giàu có mời tất cả những người bạn ông là những người dân thành phố đến dự tiệc. Có một người đến bữa tiệc trong một bộ quần áo rách rưới, đó là bộ y phục duy nhất mà người ấy có. Vừa đến cửa, người ấy bị đuổi về. Không bị khuất phục, người ấy trở về nhà và mượn một bộ đồ đắt tiền của một ông láng giềng giàu có. Rồi người ấy trở lại nhà tiệc, trông có vẻ như một người có của. Lần này người gác cổng tiếp đón với vẻ cung kính và chỉ cho ông ngồi chỗ cao nhất trên bàn. Trong bữa ăn, lúc ông với tay để lấy miếng thịt chiên, bất ngờ cái tay áo nhúng vào đĩa thức ăn.
- “Kéo tay áo của ông lên”, người khách kế bên nói nhỏ.
- “Không, cứ để vậy” ông nói. Rồi ông nói với cái tay áo: “An đi, hỡi tay áo của tôi, ăn đi cho no nê. Mày có quyền dự bữa tiệc này hơn tao, vì người ta tôn trọng mày hơn tao trong nhà này”.
Thánh tông đồ Giacôbê: “Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư (giữa các giai tầng xã hội)”. Nếu đoạn văn này của thánh Giacôbê làm chúng ta khó chịu vì sự thật là thế. Xã hội chúng ta có đầy sự phân biệt giai cấp. Chúng ta thấy điều đó qua loại xe người ta lái, loại phi cơ người ta đi, khu đất người ta ở, câu lạc bộ người ta năng lui tới v.v… Có một chỗ cho người giàu và một chỗ cho người nghèo. Người ta gán giá trị xã hội cho số lượng tiền bạc mà người ta có. Nếu bạn giàu có, bạn là một nhân vật nào đó. Nếu bạn nghèo, bạn không là một con người.
Việc phân chia giai cấp sẽ không đến nỗi nào nếu kết quả của nó không ảnh hưởng đến chúng ta. Phân chia giai cấp dẫn đến sự thiên vị, đến sự trọng phú, khinh bần. Người ta thường giữ chặt mỗi người ở vị trí của họ, làm cho có những người bị tự ti mặc cảm. Nó giữ cho người ta sống riêng rẽ. Đôi khi, người nghèo không được phép vào sống trong khu nhà của người giàu. Nhưng người giàu cũng đau khổ, bởi vì nó cho họ một cảm giác giả tạo về sự quan trọng của họ.
Sự phân chia giai cấp dẫn đến những tiêu chuẩn kép và không nên có giữa các Kitô hữu với nhau. Các Kitô hữu cần phải thách thức những tiêu chuẩn giả tạo ấy, và không cho phép mình bị lôi kéo thích ứng với các tiêu chuẩn ấy.
Có những rào cản giữa các giai cấp đổ xuống. Khi có những nguy hiểm và đau buồn tập thể hoặc niềm vui tập thể thì những sự phân biệt ấy bị gạt sang một bên và họ thấy chúng chỉ là những điều ngớ ngẩn. Trong những dịp như thế, người ta đến với nhau và làm phong phú cho nhau. Trong những dịp như thế, người ta nhận ra rằng biết bao điều đã bị bỏ mất qua những phân chia giả tạo đó.
Nếu Thiên Chúa có tỏ ra thiên vị thì đó là sự thiên vị dành cho người nghèo và người bị áp bức. Việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo không có nghĩa là Thiên Chúa yêu họ chỉ vì họ nghèo, như thể nghèo khó là một nhân đức. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo và người bị áp bức bởi vì họ bị đối xử bất công. Kinh Thánh nhìn người giàu đang áp bức người nghèo. Và Thiên Chúa quyết định chứng minh chính nghĩa của người bị áp bức. Các Kitô hữu phải làm cho các tiêu chuẩn của mình phù hợp với các tiêu chuẩn của Thiên Chúa.
Sự cao thượng cùng lòng nhân hậu không thể được giai cấp xác định: điều xấu cũng thế. Không có giai cấp nào được độc quyền tốt hoặc xấu, đau khổ hay vui mừng. Nhưng khi đến với đức tin, thánh Giacôbê nói rằng chính những người nghèo đối với thế gian này, mới giàu có trong đức tin. Người giàu có khuynh hướng dựa vào của cải của mình, trong khi mà người nghèo theo bản năng quay về Thiên Chúa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Ở đây, trong ngôi nhà của Thiên Chúa mọi rào cản phân chia giai cấp đều sụp đổ. Chúng có vẻ ngớ ngẩn. Bởi vì ở đây, phẩm giá thật sự của chúng ta xuất hiện. Nó không dựa trên những điều thường vẫn phân chia con người và vẫn được xã hội đánh giá cao. Nó dựa trên một điều rất sâu xa là bản chất của con người. Nói cách khác chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em với Đức kitô. Bất cứ sự phân biệt nào khác đều tầm thường và vô nghĩa. Khi chúng ta đến đây, những sự phân biệt khác đều tiêu tan như sương mù buổi sáng trước ánh mặt trời.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cứu chữa cho một người khỏi tật câm và điếc. Có một vài chi tiết trong câu chuyện này đáng chúng ta lưu ý, đó là:
- Khi chữa trị cho người này, Chúa Giêsu đã đưa anh ta ra khỏi đám đông và kín đáo làm phép lạ chữa trị cho anh.
- Và sau khi anh ta đã khỏi bệnh rồi, Chúa Giêsu còn cấm anh không được nói lại điều đó với ai khác.
Tại sao Chúa Giêsu cư xử như vậy? Thưa vì Chúa Giêsu không muốn đám đông ồn ào biết đến phép lạ này. Nếu biết, họ sẽ ồn ào đổ xô theo Chúa, nhưng theo như vậy không phải vì tin cho bằng vì óc hiếu kỳ, vì muốn được lợi lộc. Con người ta rất dễ bị kích động vì những chuyện lạ thường. Khi nghe nói chỗ nào có Đức Mẹ hiện ra thì người ta ùn ùn kéo đến.
Nhưng thử hỏi, những người đổ xô đi tới những nơi nghe đồn có chuyện lạ thường ấy, họ đi đến đó vì động lực nào thúc đẩy? Chắc không phải vì lòng đạo đức chân thật, không phải vì đức tin chân chính, cho bằng vì óc hiếu kỳ muốn thấy chuyện lạ, và vì óc vụ lợi muốn được khỏi bệnh… Một hành động không vì niềm tin chân chính mà vì óc hiếu kỳ và tính vụ lợi rất dễ đưa tới mê tín dị đoan. Mà mê tín dị đoan thì làm lu mờ đức tin chân chính, làm méo mó sai lệch bộ mặt của đạo giáo.
Rất may là trong đạo Công giáo chúng ta tương đối ít có những chuyện mê tín dị đoan. Đó là nhờ chúng ta có giáo lý vững chắc, có luật cấm mê tín dị đoan và thường được Giáo hội thường xuyên chỉ dạy nhắc nhở. Tuy nhiên, tương đối ít hơn nơi các đạo khác thôi, chứ không phải là hoàn toàn không có. Thỉnh thoảng vẫn có những người Công giáo đi coi bói, đi xin bùa… Những người ấy đã làm những việc mê tín dị đoan đó trong những hoàn cảnh nào? Thường là:
- Khi có người thân bị bệnh nặng: chữa trị bằng thuốc men không thấy hết, người ta quay sang các thầy bùa thầy ngãi.
- Hay khi trong nhà bị mất tiền, mất vàng, mất đồ đạc. Người ta sốt ruột, đi coi thầy bói để mong biết được kẻ cắp mà lấy của lại.
- Hoặc khi gặp một cơn hoạn nạn, người ta lo sợ muốn qua khỏi nên chạy đến cầu cứu với thần thánh này nọ, người ta cúng, người ta khấn vái…
Một bà kia xưa nay vẫn giữ đạo rất tốt. Nhưng rồi bà mắc một chứng bệnh kỳ lạ, chữa chạy nhiều cách không khỏi. Có người nói rằng chắc là bà ta bị thư bị ếm gì đó, cần phải nhờ thầy bùa giải dùm. Gia đình rất băn khoăn, tới hỏi ý kiến của các cha. Các cha khuyên rằng đây chính là dịp để mình chứng tỏ đức tin của mình vào Chúa. Các cha nhắc nhở về ý nghĩa của đau khổ, về sự phó thác trong tay Chúa v.v…
Nhưng người thân của bà ấy chỉ im lặng, rồi buồn bã ra về, đưa bà ta đến thầy bùa. Rốt cuộc bà ta cũng chết thôi. Gia đình vừa buồn vì mất một người thân, mà lại thêm mặc cảm là mình đã phạm tội không tin tưởng trọn vẹn vào Chúa. Một người giữ đạo tốt bấy lâu nay, thế mà trong cơn hoạn nạn cũng không đứng vững trong đức tin, để còn chạy theo những giải pháp mê tín dị đoan như vậy, chứng tỏ cái cám dỗ mê tín dị đoan nó mạnh đến chừng nào!
Vậy, để chúng ta có thêm sức chống lại cái cám dỗ đó, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ một vài điểm:
Thứ nhất:
hãy tưởng tượng mình là Chúa đi. Rồi có một giáo dân nào đó đến cầu xin với ta một ơn gì đó. Ta chưa ban ơn thì người đó đã chạy đi cầu xin với một ông thần khác, cầu xin với ma quỉ, với thầy bói thầy bùa. Thì ta nghĩ làm sao? Đương nhiên là Chúa phải nghĩ rằng người này không tin Chúa, hay có tin thì cũng không tin bằng tin các thầy bói thầy bùa. Nếu tôi là Chúa thì chẳng bao giờ tôi ban ơn cho một kẻ đến cầu xin với tôi mà không tin tôi như vậy. Hãy bỏ mọi thứ mê tín dị đoan đó đi, hãy dứt khoát với các thầy bùa thầy ngãi đi rồi đến cầu xin với Chúa thì mới mong được Chúa ban ơn. Đừng bắt cá hai tay, rốt cuộc tay nào cũng không bắt được cá. Chúa đã từng nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà.
Điểm thứ hai:
chúng ta cũng phải nhận thức rằng tuy trong lúc bệnh tật, gian nan chúng ta lo âu thật, nhưng bệnh tật, gian nan, đau khổ là chuyện dĩ nhiên và đương nhiên phải có trong cuộc sống ở thế gian này. Chỉ khi nào ở thiên đàng thì mới hết những thứ đó, còn bao lâu còn ở thế gian thì phải gặp những thứ ấy. Có thể nói chính Chúa để cho cuộc sống ở trần gian có những thứ ấy. Để làm chi? Để nhắc chúng ta biết rằng thế gian chỉ là tạm bợ, là bất toàn; thiên đàng mới là quê hương vĩnh viễn, là nơi hạnh phúc hoàn toàn. Cho nên mặc dù chúng ta phải cố gắng hết sức để thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi bệnh tật, thoát khỏi tai ương…
Nhưng phải ý thức rằng sẽ không thoát khỏi hoàn toàn được đâu, vì mình vẫn còn sống ở thế gian. Phải có đức tin để ý thức được điều đó. Một linh mục kia đã khuyên một người đau khổ như sau: “Khi chúng ta đến than thở với Chúa về một thánh giá ta đang gánh vác, thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa không phải là cất thánh giá đó đi, nhưng là ban thêm sức cho ta có thể vác nổi thánh giá đó”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy rằng Đức Giêsu không dửng dưng trước những đau khổ của loài người, vì thế Chúa thường làm phép lạ để cứu chữa loài người khỏi những đau khổ. Nhưng trong lần này, Chúa đã làm phép lạ xa khỏi cặp mắt của đám đông, làm phép lạ xong còn cấm người ta không được kể lại phép lạ đó. Ay là vì Chúa không muốn những phép lạ làm cho người ta sai lạc về đức tin. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin thật chứ không phải vì được hưởng những chuyện lạ thường, Chúa không muốn người ta theo Chúa vì mê tín dị đoan hay vì hiếu kỳ hoặc vì lợi lộc vật chất.
Báo Tuổi Trẻ có đăng bài xã luận về “Cái lưỡi và cái tai” như sau: Một hôm trong lúc đang ngồi uống trà và hàn huyên tâm sự với nhau, tự nhiên tôi thấy ông Hai Hưu Trí có vẻ tư lự và phát biểu như sau:
– Người đời thường hay đổ thừa mọi điều xằng bậy là do tội của “cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”. Nhưng tôi nghĩ nếu chỉ có cái lưỡi thì cũng chẳng có vấn đề! Anh cứ ngẫm lại mà coi, nếu chỉ có mấy cái lưỡi lươn lẹo, xu nịnh thường hay múa may với nhau thì bất quá cũng chỉ làm điếc tai hàng xóm láng giềng mà thôi. Cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện tày trời nếu nó được hỗ trợ của những “cái tai” không biết phân biệt tốt xấu, thật giả của mấy ông: “Nhà báo nói láo ăn tiền”.
Nhưng họ lại quên không chê mấy ông cấp trên quan liêu chỉ khoái được nghe những bài báo cáo thành tích khi chưa kiểm tra thực hư! Nếu chỉ chuyên có cái lưỡi thì chắc sẽ không thể “vẽ vời” để biến một công ty đang từ tình trạng làm ăn thua lỗ, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước, bỗng dưng trở thành một công ty đang trên đà phát triển và làm ăn khấm khá. Nếu có những cái tai thực sự ngay chính thì những lời đường mật như vậy làm sao có khả năng gây ra biết bao thiệt hại được.
Nghe ông Hai Hưu Trí triết lý một hồi như vậy, tôi liền thêm vào:
– Hôm nay Bác Hai nói thật là chí lý thậm phải!
Ông Hai Hưu Trí bèn cười lên một tiếng lớn rồi ôn tồn nói:
– Nè nhá, cũng bởi cái tai của chú mày chỉ khoái nghe những chuyện xốc hông xiên xỏ, nên cái lưỡi của lão già rách việc này mới có cơ hội múa may như từ nãy đến giờ, phải không chú em?
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Kẻ “câm và điếc” hoàn hoàn bị tước đoạt hai phương tiện cần thiết này. Lưỡi họ như bị một sợi dây vô hình trói buộc, tai họ dường như có một cánh cửa khóa chặt. Họ không hiểu được ai và cũng chẳng ai hiểu được họ. Có thể nói, họ bị tách khỏi thế giới bên ngoài. Hôm nay, Đức Giêsu chữa cho một người câm điếc. Người phán: “Ép-pha-ta” nghĩa là “Hãy mở ra” lập tức tai anh mở ra, lưỡi anh như hết bị trói buộc.
Chẳng ai muốn mình bị điếc, nhưng trong thực tế không thiếu người mắc bệnh này. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác. Chúng ta bị điếc khi chúng ta nghe người khác nhưng lại cố hiểu theo ý mình. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Vì thế, chỉ nghe bằng tai thôi không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe. Cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng; không gây phương hại, vẩn đục cho tâm hồn.
Cha Mark Link có viết: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Các phương tiện truyền thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn lương thực, ô nhiễm âm thanh. Bên cạnh đó, các nhà giáo dục còn nói đến ô nhiễm những mặt trái của văn minh phương tây, ô nhiễm tinh thần tục hoá của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ. Hơn lúc nào hết, chúng ta có quá nhiều cái để nghe và cũng có quá nhiều điều để nói đang khi biết bao điều phải nghe mà chưa nghe được, bao nhiêu điều phải nói mà nói không được. Phải chăng, một cách nào đó, chúng ta cũng không hơn chi anh chàng vừa điếc vừa ngọng trong bài Tin Mừng hôm nay khi anh phải nhờ người khác dẫn mình đến với Chúa Giêsu.
“Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi…”. Bài hát của một tác giả như là một lời nhắc nhở chúng ta; hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa còn nói với chúng ta nhiều hơn.
Trình thuật Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chú trọng đến việc chữa lành thể chất nhưng đúng hơn, chú trọng đến việc chữa trị tâm hồn. Đức Giêsu mở tai anh, để anh có thể nghe Lời Chúa; mở miệng anh, để anh có thể tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chính Ngài là Đấng Thiên Sai đã được Isaia loan báo trước đó hơn tám thế kỷ, Ngài là Đấng mở mắt người mù, mở tai người điếc và mở miệng người câm như bài đọc thứ nhất và bài đáp ca hôm nay nhắc lại.
Vậy thì Lời Chúa hôm nay nói gì với chúng ta?
Hơn bao giờ hết, chủ đề điếc và ngọng thật hấp dẫn và cũng dễ đụng chạm. Nguyên chuyện khoái điếc, thích ngọng và kể cả muốn mù như căn bệnh mãn tính lâu ngày hoá quen và coi như chuyện nhỏ không thành vấn đề đã là một cái gì đụng chạm ghê gớm.
Anh Chị em, chúng ta sẽ đụng ai khi nói đến những căn bệnh mãn tính nầy? Và một loạt câu hỏi được đặt ra: Đụng ai trước nhất? Vì sao phải đụng? Tại sao chúng ta khoái điếc khi không còn muốn nghe? Tại sao chúng ta thích ngọng khi chẳng còn buồn nói? Ai tập cho chúng ta điếc? Ai dạy cho chúng ta câm?
Có lẽ nhiều người đang nín thở, nhưng dường như tất cả chúng ta đã hiểu lầm hết với câu trả lời của mình. Còn đây mới là câu trả lời đúng nhất, chính xác nhất. Đề cập đến việc khoái điếc, thích ngọng và giả mù của chúng ta sẽ đụng chạm đến chính linh hồn, đụng chạm đến bản thân chúng ta trước nhất.
Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp… vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận…
Làm sao một người làm cha làm mẹ, làm sao một mục tử, một thầy cô giáo hay một chứng tá của Chúa Kitô trong môi trường mình đang sống lại có thể yên thân? Làm sao chúng ta lại hoá như bao người khác? Mà tại sao lại phải yên thân? Đến đây, có người sẽ nói: Cuộc đời phức tạp lắm, các linh mục không biết đâu! Không, tôi biết. Vì nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ vô tình đánh mất sự hồn nhiên, đánh mất cả sự tự do và đánh mất chính mình. Phải, chúng ta mù loà điếc lác và ngọng miệng, một căn bệnh cần được Đức Giêsu chữa lành.
Đức Hồng Y Gracias nói: “Gương mù cho thế kỷ hôm nay là chúng ta y hệt mọi người khác”, dửng dưng như người khác, thờ ơ như người khác và lạnh lùng như người khác.
Không, mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều được mời gọi hướng thượng: nhanh hơn, cao hơn và xa hơn. Chúng ta là con cháu Hồng Bàng, là đại bàng sải cánh giữa lồng lộng trời cao; chúng ta không thuộc họ nhà gà lệt đệt. Bùn càng tanh, sen càng phải thơm tho. Bùn càng đặc, sen càng phải toả ngát. Cắm sâu giữa bùn nhưng sen vẫn mãi là sen vì chỉ có sen mới được quyền nói về bùn, cũng như chỉ có bùn mới được quyền nhắm mắt không thừa nhận sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là vậy.
Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?”. Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?”.
Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành. Mỗi chúng ta có thể cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai con điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm lưỡi con ngọng. Xin cũng nói với con:”Ephata, Hãy mở ra”, để con nghe được tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hoán cải tâm hồn, đổi mới con tim. Xin hãy phá đi bức tường định kiến, bức tường ích kỷ để con mở rộng cõi lòng đón nhận Lời Chúa, đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con, cắt đứt sợi dây ích kỷ, sợi dây sợ sệt, sợi dây ươn hèn để con mạnh dạn nói lời chân lý, lời thứ tha, những lời ca ngợi tình Chúa, những lời chúc khen tình người, Amen.
62. Chúa Giêsu hành động hôm nay
Cách đây khá lâu, Jerry Izenberg của tờ báo New York Post đã viết về Reggie Williams thuộc đội Cincinnati Bengals. Khi sinh ra, Reggie đã bị bệnh về thính giác, nhưng không có ai để ý. Các thầy cô giáo ở tiểu học tưởng rằng cậu là người chậm chạp và ngu đần. Tuy nhiên khi vào lớp ba, Cô Chapman khám phá ra chứng bệnh của cậu và đã tìm cách giúp đỡ. Thật rất cám ơn cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành và nghe được.
Rốt cuộc, Reggie đã ra trường trung học và được xếp vào hạng giỏi 5% trong số học sinh lớp mười hai ra trường. Người mà các cô giáo và học sinh chê bai là chậm chạp và ngu dốt nay đã xin được vào trường Đại Học Darthmouth. “Nếu không nhờ cô giáo Chapman, tôi không dám tưởng tượng ra ngày hôm nay tôi sẽ như thế nào.” Reggie đã nói với ký giả Izenberg như thế.
Reggie bị nặng tai giống như người thanh niên trẻ trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đã trực tiếp chữa lành người thanh niên khỏi điếc.
Chúa Giêsu vẫn còn mở lỗ tai cho những người điếc hôm nay như Ngài đã từng làm trong thời của Ngài. Chúa Giêsu vẫn còn mở lưỡi cho những người câm hôm nay như Ngài đã từng làm trong thời của Ngài.
Điều duy nhất khác biệt là cách thức Ngài làm những công việc này. Ngài không làm một cách trực tiếp, nhưng gián tiếp qua những bàn tay và giọng nói của những người khác. Chúng ta có thể nói rằng: Chúa Giêsu không có chân để có thể đi vào cuộc sống của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng đôi chân của chúng ta để làm điều đó.
Chúa Giêsu không có đôi tay để có thể chìa ra và chữa lành những lỗ tai và miệng lưỡi của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng đôi tay của chúng ta để làm điều đó.
Chúa Giêsu không có giọng nói để có thể nói vào trái tim của con người hôm nay. Ngài cần phải dùng giọng nói của chúng ta để làm điều đó cũng giống như nhờ cô giáo Chapman, hai lỗ tai của Reggie đã được chữa lành.
Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy dâng cho Ngài đôi tay của chúng ta để Ngài có thể dùng để mở tai kẻ điếc và mở miệng lưỡi kẻ câm như Ngài vẫn làm lúc Ngài ở dương thế.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cho Ngài mượn giọng nói của chúng ta để Ngài có thể ban phát của ăn “Lời Chúa” cho những tâm hồn đang đói khát sự công chính như lúc Ngài ở dương thế.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cho Ngài mượn trái tim của chúng ta để Ngài có thể chạm tới các linh hồn ngày nay như lúc Ngài ở dương thế.
Lạy Chúa, xin chạm đến trái tim chúng con hầu chúng con có thể cho Ngài mượn chúng để đổi mới thế giới, như chính Ngài đã từng là dụng cụ cho Thiên Chúa Cha.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy những dấu chỉ về cuộc biến đổi của những người được cứu độ.
Is 35: 4-7
Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của Ngài, đó là giải phóng con người khỏi những quyền lực sự dữ.
Gc 2: 1-5
Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Thánh Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su chữa lành một người vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh, việc chữa lành này là giáo huấn về dấu chỉ thời Mê-si-a, thời cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)
Bản văn này được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất (ch. 1-39), một trong những ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ VIII TCN. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (40-55), một trong những ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
- Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi
Vị ngôn sứ mời gọi những người lưu đày: “Hãy can đảm lên, đừng sợ!”, vì sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục cho dân Ngài, ngày Thiên Chúa cứu thoát họ khỏi những kẻ áp bức họ. Và ông trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu thoát này: những bệnh hoạn tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu: “kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” và “miền nóng bỏng biến thành hồ ao, đất khô khan có suối nước dâng trào”.
Chắc chắn những hình ảnh này là lối nói ngoa dụ để diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu xa hơn, những hình ảnh này diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với họ.
- Cứu thoát khỏi những quyền lực sự ác
Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy được ý nghĩa sâu xa của biến cố; những người điếc nghe được những tin vui và những người què sẽ vui mừng hớn hở. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát khỏi cảnh mù lòa tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng” (Is 29: 18-19). Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời này, cũng như vào thời Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy, nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây nên những đau khổ của họ đã biến mất: những tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Mê-si-a: “Chính Người sẽ đến cứu anh em”, nghĩa là, Ngài bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của thế giới. Việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền thể lý là tiên báo việc chữa lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng Đức Giê-su thật sự là Đấng Mê-si-a, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Mê-si-a mà các ngôn sứ đã báo trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo này.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Bản văn là kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một chỗ quan trọng.
- Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng
Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng này. Cách tiếp đón ân cần vồn vã và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
- Tình huynh đệ Ki-tô hữu
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị trong xã hội. Chúng ta phải nhắc những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca ngợi tấm lòng rộng mở và tràn đầy niềm tin của những người nghèo: người nghèo thì “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)
Đức Giê-su rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại (7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, người vừa câm vừa điếc. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho dân ngoại.
- Tác nhân chính của việc chữa lành
Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành này khá đặc biệt: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều này (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức Giê-su cũng sẽ dùng cách thức này trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa (Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những người đương thời với họ.
Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là “hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”, nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi bận lòng về tính xác thực: chính những lời này của Đức Giê-su chứ không gì khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.
Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành người câm điếc này có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy tác động của lời cầu nguyện. Sau này, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám bằng cầu nguyện, mà trước đó, các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc 9: 28-29).
- Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ này của Đức Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh của các chương 6, 7 và 8 của Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ bánh hóa nhiều, thánh ký nêu bật tâm trí quá ngu muội của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình: “Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách này được thốt lên vào thời điểm phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành người vừa câm vừa điếc ở đây và chữa lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa này được thuật lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường hợp, thánh ký đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.
Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ này là một dấu chỉ được diễn tả bằng hành động như hành động biểu tượng của các ngôn sứ kèm theo những lời cảnh báo của họ: như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ tan từng mãnh một bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay như ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực hiện dáng điệu của một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình số phận đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, Ngài muốn họ biết rằng Ngài đã đổ hết công sức như thế nào để họ hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Hãy mở ra” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa câm vừa điếc.
- Không được tiết lộ cho ai biết
Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Mê-si-a đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mê-si-a trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Mê-si-a” của Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39).
- Phản ứng của dân chúng
“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy, ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.
Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy, sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc tụng Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của Ngài cho thế giới.
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Xem lại bản đồ Palestina, thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ hành sẽ đi về phía Bắc, tức phía Siđôn. Còn nếu muốn tiến xuống phía biển Ghênêsaret (biển Galilêa) ở vùng Dêcapôli tức vùng đông nam biển hồ, thì người ta phải đi ngược lại từ Tyrô.
Ở đây, bản văn Marcô viết: ngang qua Siđôn, đến biển Galilêa băng giữa xứ Dêcapôlia. Như thế, lộ trình này không phù hợp với bản đồ địa lý. Qua sự kiện này, Thánh Sử Máccô gợi nhắc một lần nữa rằng Ngài chỉ muốn trình bày ý nghĩa của những cuộc hành trình của Chúa Giêsu. Người đến đất dân ngoại vì ơn cứu rỗi cũng được trao ban cho các dân ngoại.
Với hành trình như vậy, hôm nay chúng ta được nghe lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành anh chàng vừa điếc và vừa ngọng. Trình thuật này được biên soạn theo kiểu kết cấu tương đồng với câu chuyện chữa lành người mù ở Mc 8,22-26. Chúng ta thử phác họa sơ lược vài chi tiết song chiếu:
Mc 7,31-37
Câu 31: Người ta đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng.
Câu 33: Kéo người ấy ra xa dân chúng… Người tra ngón tay vào tai, nhổ nước miếng Người đụng vào lưỡi người ấy.
Câu 36: Rồi người căn dặn không được nói cho ai biết.
Mc 8,22-26
Câu 22: Người ta đem đến cho Người 1 người mù…
Câu 23: Dắt tay người mù, Người đưa nó ra ngoài làng; đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó đặt tay cho nó.
Câu 26: Ngài cho nó về nhà mà dặn rằng: đừng nói với ai trong làng.
Như vậy, trong nhãn quan thần học Máccô, những phép lạ luôn mang giá trị của dấu chỉ thời đại Thiên sai mà Chúa Giêsu đến khai mở. Ở Thời đại ấy, ở Nước ấy của Thiên Chúa thì sẽ không còn những người đui mù, câm điếc nữa mà ở Nước Thiên Chúa là những người hạnh phúc, bình an và vui mừng. Nước Thiên Chúa, Nước của bình an và hoan lạc ấy được Thánh Sử gợi nhắc ở câu 37. “Bấy giờ mắt mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm cũng sẽ reo hò”. Câu này có nét gì đó tương đồng với đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe:
“Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em.”
Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên. (Is 35, 4-7)
Nước Thiên Chúa còn hơn thế nữa. Nước Thiên Chúa là nơi mà:
Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa.
Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.
Người ta sẽ không xây nhà cho kẻ khác ở,
không trồng nho cho kẻ khác ăn;
vì cây được bao nhiêu tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ được hưởng kết quả do tay chúng làm.
Chúng sẽ không luống công vất vả,
không sinh con cho con chết bất ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Đức Chúa ban phúc lành,
bản thân chúng cũng như cả nòi giống.
Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói thì Ta đã nghe rồi.
Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta.” Đức Chúa phán như vậy. (Is 65, 17-25)
Qua đoạn sách ngôn sứ Isaia về hình ảnh của Nước Thiên Chúa, ta thấy nước ấy là một nước tràn đầy hoan lạc và bình an. Ở trong nước ấy “chiên con và sói con cùng ăn cỏ, sư tử cùng ăn rơm như bò” chứ không có chuyện thiệt hơn, tranh giành, cãi cọ và chà đạp người khác.
Sự hơn thua, tranh giành và chà đạp người khác thời nào cũng có. Cách riêng, thời của Chúa Giêsu, những người biệt phái, những người pharisêu tự cho mình là hơn người khác để rồi coi thường người khác. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những người như thế.
Chắc có lẽ bực mình và chướng mắt trước những con người chỉ nhìn cái bề ngoài, xét đoán cái bề ngoài mà không trân trọng cái bên trong, cái chất thật của con người nên thánh Phaolô hôm nay đã phải thốt lên: “Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! ” hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! “, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? (Gc 2, 3-4).
Ở Nước của Thiên Chúa thì không có chuyện phân biệt đối xử như vậy. Ở Nước Thiên Chúa là như thế này: Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao (Gc 2, 5).
Nước Thiên Chúa, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi, những người thấp cổ bé miệng như anh chàng câm điếc hôm nay Chúa Giêsu đã chữa lành. Niềm vui Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta nếu chúng ta sống trong tâm tình khiêm hạ, nhỏ bé, coi tất cả mọi người như anh em như lời thánh Giacôbê vừa mời gọi chúng ta và chúng ta cũng không miệt thị, không phân biệt đối xử với những người tật nguyền như Chúa trong tin mừng hôm nay.
Xin Chúa mở con mắt chúng ta thật to để chúng ta nhìn thấy những anh chị em thấp cổ bé miệng đang ở gần ta, ở xung quanh ta để ta xoa dịu, chia sẻ nỗi đau, sự thấp bé của họ để ta mang hạnh phúc đến cho anh chị em đồng loại ngay thế gian này và những hạnh phúc ấy chính là những hạnh phúc nho nhỏ mang chúng ta đến hạnh phúc, đến niềm vui ở trên trời mà Chúa đang dọn sẵn và chờ đợi chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Nhiều người trong chúng ta bị câm điếc về mặt tâm linh cần được Chúa Giêsu chữa lành”
Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc. Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật. Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc. Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!”. Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers. Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình. Một đoạn trong lời cầu đó như sau: “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác. Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc. Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay)
Lời kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà chúng ta thường ít người nhận ra được. Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc. Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả. Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.
Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.
Điều này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:
Tại sao Chúa Giêsu đã chữa lành người câm điếc ấy?
Tại sao Ngài đã khai thông lỗ tai người ấy?
Tại sao Ngài đã phục hồi miệng lưỡi người ấy?
Câu trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay. Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: “Kẻ điếc sẽ được nghe, ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên”… Qua việc chữa lành người câm điếc trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân chúng nhận ra Đấng Mêsia. Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Tuy nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi bản thân Đức Giêsu. Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương xót. Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông. Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng trước tình cảnh của mình. Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi, nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa. Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh. Như thế ngoài việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu.
Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang sống ở thời đại ngày nay. Trạng thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta. Nhiều người trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh. Chúng tôi muốn ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ.
Mới đây một bà mẹ và ông bố đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương. Ngay khi họ lái xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; “Anh Ron ơi, em chả biết rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất cả tấm lòng cho con gái chúng ta. Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em “Đừng lo”. Thế nhưng em không còn làm điều ấy được nữa. Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói chuyện với Chúa như em đã thường làm. Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở nên như câm như điếc”.
Câu chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa. Chúng ta cũng cảm thấy khó đối thại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa nói với chúng ta. Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì? Câu trả lời đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.
Bài Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta. Nó cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.
Như thế, câu chuyện người câm điếc trên nói với chúng ta 3 điều; Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu. Đức Giêsu đã thực hiện điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và người câm nói được.- Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông để chữa lành cho người ấy. Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy. – Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa, không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.
Để tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta. Cụ thể hơn, chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.
(Suy niệm Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“Xin cho con được nhìn thấy
ơn thánh Chúa trong cuộc đời”
Chúng ta thường nghe nói: “Tôi có mắt như mù, vì tôi đã không sáng suốt, không biết biện phân, không suy nghĩ để nhận ra điều mình cần phải biết, phải tin và thực hành”. Thưa ACE, hồi tâm nhìn lại, chúng ta có hài lòng với những gì mà mình đang có trong cuộc sống hiện tại hay không? Hay nói khác hơn, chúng ta có đang sống tâm tình cảm tạ-chúc tụng Chúa, tri ân mọi người đã cho chúng ta được cuộc sống như hiện nay không? Chắc nhiều người sẽ cười, vì câu hỏi đặt ra như vậy, trong hoàn cảnh đầy khó khăn của đại dịch, bệnh tật, đói khát và chết chóc như hiện nay. Tôi không có việc làm, tôi không có tiền, tôi không có gì để ăn, tôi không được đi đâu, tôi không được làm những gì tôi muốn…khi chúng ta nhìn cuộc sống với cái nhìn bi quan như vậy, thì cuộc sống, dường như toàn là màu đen, không có ánh sáng, không có hy vọng và không thể sống tạ ơn chúc tụng Chúa được. Thưa ACE, nếu có ai trong chúng ta không may mà rơi vào trong những hoàn cảnh đáng thương này, thì Lời Chúa hôm nay chính là ánh sáng soi đường, hầu giúp chúng ta sống tin tưởng, hy vọng để nhìn ra và tin nhận Chúa chính là Đấng đang hiện diện, đồng hành, ban ơn, cứu chữa và biến đổi chúng ta.
Bài đọc một trong sách Ngôn sứ Isaia, như đang soi sáng và mời gọi chúng ta như đã mời gọi con cái Israel năm xưa khi họ đang phải sống trong hoàn cảnh bi thương, đau khổ, đầy thử thách. Vì đang phải sống trong cảnh bị lưu đày tủi nhục, nên dân chúng đã không còn nhận ra ý định và tình thương của Giavê Thiên Chúa cho họ nữa. Tệ hại hơn, là họ chỉ biết sống theo phương cách của mình, họ đã quay ngược lại với Thiên Chúa, khước từ và không còn tin vào Chúa nữa. Chính vì lẽ đó, mà Ngôn sứ Isaia đã được sai đến để loan báo cho họ, khơi dậy trong lòng trí họ niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa. Sứ điệp của Isaia như đã mở con mắt đức tin cho họ để họ nhận ra rằng: Lưu đày, không phải là hình phạt, hay sự trừng trị của Thiên Chúa. Chỉ vì con người đã không nghe theo Lời Chúa, con người đã phạm tội, nên họ tự lãnh lấy hậu quả của tội lỗi mà thôi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và dấu chỉ để họ có thể nhận ra là: Chính Chúa sẽ đem họ trở về, Ngài sẽ phục hồi cho họ tất cả những quyền lợi là dân riêng của Thiên Chúa. “Hỡi những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi”. Thế nhưng, chỉ có những ai tin và chấp nhận sứ điệp này thì họ mới có niềm vui thực sự.
Tin để nhận ra, tin để có niềm vui chính là sứ điệp mà bài Tin mừng theo Thánh Marcô (Mc 7, 31-37) soi sáng, mời gọi chúng ta. Tình yêu thương và ơn cứu sống của Thiên Chúa đang được thực hiện cho nhân loại nơi chính con người và sứ vụ của Chúa Giêsu. “Effetha! nghĩa là: Hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ và anh nói được rõ ràng”. Qua việc Chúa chữa lành cho người bị câm điếc, lời tuyên sấm của Ngôn sứ Isaia nay đã được ứng nghiệm cho tất cả những ai tin và đến với Chúa Giêsu. “Mắt người mù sẽ sáng lên và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”.
Có một điều thú vị nơi việc chữa lành của Chúa Giêsu, đó là: Tại sao Chúa không chỉ phán một lời thôi, hay Chúa chữa liền cho anh ta, nhưng đàng này: “Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta”. Hành động này của Chúa có vẻ khác thường. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, cử chỉ và hành động của Chúa ở đây mang tính biểu tượng. Vì khi Chúa đặt ngón tay vào tai và chạm tay đến lưỡi người này. “Ngón Tay” chính là quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa đã chạm đến con người. Còn việc Chúa bôi nước miếng vào lưỡi, chính là sự tượng trưng cho “hương vị của sự khôn ngoan, là hơi thở, là sự sống của Thiên Chúa” dành cho nhân loại. Thật vậy, khi Chúa Giêsu hành động như vậy, Ngài muốn cho con người nhận biết rằng: Ngài chính là Thiên Chúa đích thực, Ngài là Đấng đến để đem ơn chữa lành và cứu sống, là Đấng đang ban ơn cứu rỗi cho nhân loại.
ACE hãy nhớ lại, trong Thánh Lễ, phần Phụng vụ Lời Chúa, trước khi chúng ta nghe công bố Tin Mừng, chúng ta thưa: “Lạy Chúa, Vinh Danh Chúa, và chúng ta làm dấu Thánh giá trên trán, trên môi miệng và ngực chúng ta”. Đây chính là ý nghĩa của việc chúng ta xin Chúa ban ơn, hướng dẫn, thánh hóa, để cả con người chúng ta từ lòng trí và môi miệng được Chúa chúc phúc. Thật vậy, chỉ những ai khiêm tốn để kêu xin Chúa đến để mở tai, mở mắt, mở miệng và mở lòng mình ra với ơn của Ngài, thì khi đó, con người chúng ta mới thực sự cảm nếm được, mới nhận ra được ơn thánh của Chúa trong cuộc đời của mình.
Thưa ACE, trở lại với cuộc sống hiện nay của chúng ta, đâu là dấu chỉ ơn thánh và tình thương của Chúa, cho dù chúng ta đang phải sống và đối diện với quá nhiều tang thương đau khổ. Hay nói khác hơn, làm sao chúng ta có thể sống trong tâm tình cảm tạ-tri ân được? Bài đọc hai trong thư Thánh Giacôbê khuyên dạy và mời gọi chúng ta. Hãy mở lòng, hãy quảng đại để cho Chúa dùng chúng ta như khí cụ ơn thánh của Ngài cho ACE mình, đặc biệt với những người nghèo, những người đau khổ…hãy tỏ lòng bác ái yêu thương, hãy lấy lòng khoan dung nhân hậu mà đối xử với tha nhân, hãy trở nên con cái của Thiên Chúa tình thương và hãy chiếu tỏa ơn đức tin mà chúng ta lãnh nhận được từ Chúa cho ACE mình.
Lạy Chúa, xin ban thêm sức mạnh và ơn thánh Chúa cho chúng con, xin “Ngón Tay Uy Quyền của Chúa” chạm vào tâm hồn-lòng trí chúng con, để chúng con luôn được nhìn thấy ơn thánh Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời, mà luôn sống tâm tình cảm tạ-tri ân cùng với sự phục vụ trong tin yêu-bác ái với ACE mình. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả)
Thế nào là một người đạo đức? Phần Lời Chúa hôm nay cho chúng ta hình ảnh của người đạo đức thật và người không đạo đức thật. Người đạo đức thật phản chiếu tâm tình và thái độ giống Chúa Kitô. Người không đạo đức thật là những người không phản ảnh trung thực tâm tình và thái độ của Chúa kitô, trái lại họ có những tâm tình sai lầm thiên vị, ganh ghét như những người được thánh Giacôbê tông đồ khuyến cáo trong bài đọc thứ hai. Họ đã chú trọng đón tiếp người giàu có sang trọng, “Mời ngài lên hàng ghế nhất.” và coi thường khinh rẻ người nghèo: “Chú đứng ở đàng kia”, “hoặc chú ngồi tạm dưới sàn nhà.” Đây là thái độ “trọng phú khinh bần” không được chấp nhận trong tinh thần Kitô Giáo. Chính chúng ta nhiều lần cũng mắc phải trong cách cư xử và lời ăn tiếng nói: “Ông tổng thống, ông kỷ sư, ông bác sỹ, bà thị trưởng… Nhưng cái thằng mỹ trắng, cái thằng mỹ đen, cái con mễ… Lời ăn tiếng nói và cung cách xử thế của chúng ta sẽ cho ta thấy mình là người như thế nào.
Một Bài Học
Người Thổ nhĩ Kỳ có câu truyện kể rằng, có một nhà giáo nổi tiếng cả về tài trí và lòng đạo đức. Một hôm ông ra ruộng làm tiếp với vợ và đã quên giờ phải về đi dự bữa tiệc của một người giầu có quý phái mời. Người nhà và các bạn hối thúc ông phải mau chân kẻo trễ. Ông biết rằng mình không còn đủ giờ để về nhà tắm rửa thay quần áo, nên đã quyết định mặc yên bộ đồ đi làm đó và đi thẳng tới nhà của người quý phái kẻo trễ giờ.
Khi tới nơi, các người đầy tớ và người giữ cổng nhất định không cho ông vào, lý do vì quần áo của ông mặc là quần áo quá bình thường của một nông dân, lại thêm lấm bùn. Ông cố gắng phân giải vì vội vã kẻo trễ, và ông nói cho họ biết ông là thày giáo dạy con của ông chủ nhà. Tuy thế họ vẫn không chịu để ông vào, lý do vì chủ nhà ra lệnh không tiếp người ăn vận bê bối. Sau cùng ông đành chịu chạy qua một nhà người quen gần bên để muợn đỡ một bộ đồ lịch sự, áo khoác và ca vát, cùng giày bóng đi vào. Ông trở lại. Và lần này người ta niềm nở tiếp đón ông và mời ông ngồi vào bàn tiệc. Khi thức ăn được đưa lên, ông liền lấy các thức ăn bỏ vào túi áo khoác. Ông bôi các món ăn vào quần áo; đổ rượu vô giầy… Và miệng ông luôn nói lớn: “Ăn đi, áo khoác, quần tây và giầy bóng các ngươi hãy ăn và uống cho no thỏa đi.” Tất cả mọi người đều hướng mắt nhìn đổ xô về ông thày giáo có thái độ khùng điên kỳ cục này. Sau cùng cha con của ông chủ nhà đến hỏi: “Thưa thày tại sao thầy lại làm kỳ cục như vậy? Tại sao thày không ăn uống mà lại bảo áo quần ăn uống cho thỏa thích đi?”
Ông trả lời: “Khi tôi đến vì vội vã từ ngoài ruộng về không kịp thay quần áo, các người giữ cổng và con ăn đầy tớ nhà ông đã từ chối không tiếp đón tôi. Họ nói rằng gia đình ông ra lệnh cho họ chỉ đón tiếp người ăn bận lịch sự, và không tiếp người hành khất. Và họ đã nhất định từ chối không cho tôi vào cửa. Tôi chỉ được tiếp đón sau khi chạy đi mượn bộ đồ này mặc vào. Như thế tôi trộm nghĩ, bộ quần áo, chứ không phải tôi được đón tiếp vào bàn tiệc.”
Đạo Đức Là Trở Nên Giống Chúa
Người đạo đức thật sẽ có tâm tình và cách cư xử giống Chúa Kitô. Lời Kinh nguyện phải có sức biến đổi tâm tình và tấm lòng làm cho chúng ta có tâm tình giốùng như tâm tình của thiên Chúa; và như thế mới là đạo đức thật. Tiên tri Isaiah loan báo rằng: “Thiên Chúa sẽ đến và cứu thoát con người. Khi Ngài đến thì mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Người què sẽ nhẩy nhót như nai, và người câm sẽ nói được. Đồng khô, hoang địa sẽ có suối nưóc chảy và có ao hồ tươi mát. Lần rở các trang phúc âm chúng ta thấy Chúa Kitô dạy chúng ta sống đạo cách rất cụ thể, chứ không chỉ có lý thuyết kinh kệ, hoặc thiêng liêng trừu tượng. Bài phúc âm hôm nay là một điển hình cụ thể. Chúa Giêsu đã không khuyên người câm và điếc đó là hãy nhẫn nại chịu khó chấp nhận Thánh Ý Chúa vì sự tàng tật của anh, và phần thưởng của anh sẽ lớn lao trên Thiên Đàng! Ngài cũng chẳng khuyên người câm và điếc đó hãy dâng cái thân phận hẩm hiu đau khổ và xấu số của anh lên Thiên Chúa. Chúng ta thường nghe những lời khuyên này trên môi miệng nhiều người khi đi thăm viếng bệnh nhân hoặc khi chứng kiến những người tật nguyền, nhưng chúng ta không nghe Chúa Giêâsu nói như thế. Chúa cũng chẳng khuyên anh đi đến đền thờ để đọc kinh xin khấn.Trái lại Ngài đã nhìn lên trời và thở dài một tiếng. Ngài đã cảm thông được sự đau khổ của con người. Và ngài đã cố gắng chữa lành và phục hồi lại vẻ đẹp của tạo vật mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Thực Hành Việc Chữa Lành
Chúa Giêsu đã truyền cho tai và miệng người câm điếc đó được mở ra. Tình trạng câm và điếc đó đã ngăn cách anh với những người chung quanh. Chúa Kitô đã muốn giải phóng cho anh ra khỏi tình trạng cô lập đó. Có lẽ chúng ta tự bào chữa vì mình không là bác sỹ, không có quyền năng chữa lành như Chúa Giêsu. Tuy vậy ta vẫn có thể làm, và thực hiện được nhiều cái cho anh chị em mình. Nhất là khi họ gặp sự khốn khó. Chúng ta có thể giải thoát anh chị em chúng ta bằng nhiều cách. Chúa Kitô muốn mỗi người chúng ta biết cảm thông với những người tàn tật, yếu đau, nghèo khổ. Ngài không chỉ muốn chúng ta cầu nguyện cho họ, nhưng Ngài còn muốn chúng ta đưa bàn tay lên để xoa dịu nỗi đau thương của họ. Mở miệng ra nói những lời an ủi dịu ngọt. Móc túi mình ra hoặc trích qũy gia đình để thực sự chia sẻ cho người nghèo khó những khi cần thiết. Có được như thế chúng ta mới thực sự là những con người đạo đức.
(Suy niệm của Tu sĩ Đa minh Đỗ Công Tâm)
Kính thưa cộng đoàn. “Không ai là một hòn đảo”. Đây là lời của một bài hát và có rất nhiều người tâm đắc, như vậy ý muốn nói đến tình liên đớigiữa con người với con người: liên đới bằng những việc làm giúp ích cho nhau, bằng những nâng đỡ, khích lệ, bằng việc chân thành lắng nghe nhau, bằng việc trao cho nhau ánh mắt ,nụ cười… tất cả những điều này đều diễn tả cùng một ý nghĩa: thể hiện tình thương, cho nên khi một người không còn thể hiện được những việc làm hay không biểu lộ được những tâm tình đó, thì họ cảm thấy như bị loại trừ và mặc cảm không còn được yêu thương nữa.
Các bài đọc hôm nay đã mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã mong đợi từ lâu, Đức Giêsu đã thực hiện điều mà tiên tri Isaia tiên báo Đấng Mesia sẽ làm, tức là cho người điếc nghe được và người câm nói được, và qua đó cũng mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Đức Giêsu.
Kính thưa cộng đoàn.Tình cảnh thật bi đát của người câm điếc trong bài Phúc Âm hôm nay chính là ở điểm đó. Anh ta đau khổ biết bao vì không nói được với ai, cũng chẳng nghe được ai nói với mình. Mối quan hệ với tha nhân và vũ trụ như bị cắt đứt có thể nhìn ở một khía cạnh nào đó anh ta bị loại trừ khỏi kiếp sống làm người, bị loại vào hàng những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài hiểu được tâm trạng, ước vọng và thông cảm với anh.Vì chính Ngài là Người đem đến cho nhân loại một Tin Mừng Tình Thương. Vì thế, Ngài đã chữa cho anh khỏi câm điếc. Qủa là vui mừng biết bao cho anh, vì từ nay anh lại có thể sống trên đời với cái nhìn đầy bình đẳng không còn tự ty mặc cảm nữa, bây giờ anh có thể nghe được những lời dậy dỗ ngọt ngào của Đức Giêsu và anh có thể nói được những lời yêu thương trừu mến cho những người khác.
Bị câm điếc thể lý quả là một nỗi đau và mất mát, phải nói rằng , đau hơn và mất mát hơn rất nhiều khi bị câm và điếc về phần hồn. Thế mà nhiều khi chúng ta lại tự biến mình thành kẻ câm điếc mà chẳng hề quan tâm lo lắng.
Câm điếc khi ta ngụp lặn trong tội lỗi,không còn chịu lắng nghe tiếng Chúa đang nói với ta qua các biến cố trong cuộc sống, qua lương tâm, qua các giáo huấn, qua tha nhân…
Câm điếc khi ta không còn sống đời cảm tạ chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa.
Câm điếc khi con tim đã trở nên chai đá không còn biết rung động trước những đau khổ của tha nhân.
Câm điếc khi mỗi người là một ốc đảo, chỉ biết sống cho mình, hoặc tệ hơn nữa khi coi tha nhân là hoả ngục như cái nhìn của J.P.Sartre. Coi tha nhân là hoả ngục chính là cái nhìn đầy bi quan yếm thế, tự cô lập mình để rồi chẳng còn thể nào nhận ra và thể hiện được tình thương. Hãy biết sống quên mình, vị tha như vậy sẽ tạo được sự bình an và hạnh phúc cho nhau, nhưng trước là chính mình được sự bình an và hạnh phúc đó, như lời của Thánh Phanxicô đã nói: vì chính lúc cho đi là khi được lãnh nhận.
Chỉ lắng nghe bằng tai thôi thì chưa đủ mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải những thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại làm vẩn đục cho tâm hồn. Cha Mark Link có nói: ” Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai mà còn tin vào những gì nghe bằng con tim của mình”. Vì khi biết lắng nghe là phá đổ được bức tường thành kiến trong tâm trí và tháo cởi được sợi dây trói buộc trong con tim cứng cỏi.Như thế mới nghe được tiếng gọi thổn thức của anh em và tiếng mời gọi của Lời Chúa.
Chuyện kể rằng: Có một vị ẩn sĩ sống trong rừng luôn bị một cô gái lố lăng đến cám dỗ. Có lần người con gái nói với vị ẩn sĩ:
– Thầy không biết yêu ư? (ý của cô gái này là vừa ngạc nhiên trước sự thanh thản của ẩn sĩ và đồng thời nghi ngờ chế nhạo sự bất bình thường của một người đàn ông!)
– Giờ chưa đến! vị ẩn sĩ trả lời.
Lần nọ, trong lúc đi khất thực, vị ẩn sĩ phát hiện người con gái hay đến quấy nhiễu mình đã bị cướp và bị đánh đập nằm dở sống dở chết bên dọc đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cho cô ta, cuối cùng vị ẩn sĩ bế cô ta về thành phố điều trị. Lúc đó vị ẩn sĩ mới nói với cô gái:
– Bây giờ đã đến giờ, giờ của lòng thương xót!
Vâng, vị ẩn sĩ này đã lắng nghe bằng cả con tim và nói với cả tấm lòng cao thượng qua việc làm đầy yêu thương và bác ái.
Qua bài Tin Mừng, Chúa muốn gởi đến chúng ta sứ điệp: Hãy luôn sống đời sống hiệp thông, vì tất cả là hồng ân, hiệp thông với Chúa,hiệp thông với tha nhân …. Tôi đã nhận lãnh bằng tình thương thì tôi cũng phải cho đi bằng tình thương. Mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là chứng tá của Tin Mừng Tình Thương theo gương mẫu của Đức Kitô. Tin Mừng Tình Thương ấy phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể đượm tình bác ái yêu thương.
Chúng ta cũng cầu xin Chúa chữa lành bệnh câm điếc nơi tâm hồn chúng ta, và nhất là biết lắng nghe bằng cả con tim, để rồi biết nói lên bằng những việc làm hữu ích. Lạy Chúa, xin cho tim chúng con cũng được hoà nhịp cùng trái tim Chúa và cả cuộc đời chúng con trong tay Chúa, để chúng ta trở thành những khí cụ và được sống trong tình hiệp nhất của tình thương Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Ép-pha-tha (hãy mở ra) là động từ ở thể truyền khiến, ra lệnh cho người thuộc quyền khai thông, mở lối, tạo dòng chảy, phá nơi bưng bít, để có thể qua lại, giao lưu, trao đổi với nhau. Mở ra là dấu chỉ của sự tôn trọng chân lý, cảm thông, hiểu biết lẫn nhau, đồng tâm, hiệp lực, xây dựng công lý và hòa bình giữa các dân tộc, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương. Mở ra còn là dấu hiệu của sự quảng đại, cởi mở, khát khao chân lý, sẵn sàng vét cạn chính mình vì lợi ích của tha nhân, của cộng đoàn.
Trái tim Chúa Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu, đã mở ra cho máu nước tuân trào, làm phát sinh các bí tích ban sự sống, làm chứng Chúa đã yêu hết mình.
Ép-pha-tha (hãy mở ra), dưới cái nhìn mạc khải, là hoạt động “ngoại tại” của Thiên Chúa, thể hiện qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian. Công trình này được thực hiện trong quyết định cội nguồn Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu duy nhất, tự mở ra, hướng về nhau, cùng trao ban/nhận lãnh tất cả, làm thành mối tương quan, hiệp thông hoàn hảo và từ cội nguồn viên mãn ấy, mọi phúc lộc đổ xuống thế gian, trong con yêu dấu của Cha, Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, mà bây giờ chúng ta lãnh nhận ơn giao hòa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày ý nghĩa lệnh truyền Ép-pha-tha (hãy mở ra) của Chúa Giê-su, dưới dạng ân sủng được trao ban, con người được cứu độ.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, loan báo ngày của Chúa, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chúa sẽ làm mới lại mặt địa cầu, sẽ ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi. Bấy giờ, những kẻ bé mọn, đau yếu đủ loại, những người dễ bị tổn thương nhất, sẽ được hưởng ân huệ thần thiêng, vì họ đã mau mắn mở lòng hướng về Thiên Chúa khi nghe lệnh truyền “Ép-pha-tha” (hãy mở ra). Chúa Giê-su, khi đề cập đến họ, đã vui sướng, hân hoan dâng lời cảm tạ Cha, vì biết rằng, Cha đã giấu mầu nhiệm Nước Trời đối với những kẻ hiền triết, không ngoan, nhưng lại mạc khải đầy đủ, trọn vẹn cho những kẻ bé mọn, nghèo hèn.
Nội dung lời ngôn sứ đong đầy an ủi, dẫy tràn hy vọng cho kẻ bị bóc lột, đọa đày trong bóng tối tử thần. Ngôn sứ quả quyết: chính Chúa sẽ cứu anh em khỏi cảnh mù lòa, câm điếc. Người sẽ cất tấm khăn tang phủ trên mọi nước, lau khô giọt lệ trên mọi khuôn mặt. Người dọn tiệc trên đỉnh núi cao, thiết đãi muôn dân bằng thịt béo, rượu nồng.
Ngày ấy, trời mới, đất mới được khai sinh, công lý, hòa bình ngự trị bền lâu sánh ngang cùng vầng ô, bóng nguyệt!
Thưa anh chị em,
Ngày ấy là ngày nào?
Ngày Ngôi Lời nhập thể, Giê-su là con đường đưa Thiên Chúa vào thế gian và đưa thế gian vào trong Thiên Chúa. Đây mới là lệnh truyền Ép-pha-ta (hãy mở ra) đúng nghĩa và hoàn hảo nhất!
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, thực hiện kế hoạch Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lệnh truyền Ép-pha-tha (hãy mở ra) đã làm nên một thế giới mới, con người mới. Giê-su, rảo khắp miền Thập Tỉnh, rao giảng Tin Mừng bằng việc chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ.
Nên biết, Thập Tỉnh là vùng đất dân ngoại, được ví như sỏi đá, sa mạc, khô chồi, chết chóc. Chúa Giê-su là mạch nước hằng sống phải đến để tưới mát, biến nó thành đồng cỏ xanh tươi thu hút sự sống. Ngón tay và nước miếng Giê-su là quyền lực yêu thương, là mạch nước vĩnh hằng, bất tận, vọt lên tràn lan, đem lại sự sống mới. Người điếc và ngọng câm, được chữa lành hôm nay, là công dân đầu tiên của vùng đất mới ấy.
Như vậy, Ép-pha-tha (hãy mở ra) của Chúa Giê-su là kết tinh của lòng thương xót Cha Trên Trời, được niêm ấn Thánh Thần, để mọi việc Người làm đều tốt đẹp. Được sở hữu Trời mới Đất mới, người công dân Nước Trời phải mặc lấy tâm tư của Chúa, phải thực hiện lệnh truyền Ép-pha-tha (hãy mở ra) theo phong cách Giê-su.
Thánh Gia-cô-bê, trong bài đọc II, khuyên nhủ những môn đệ Giê-su: hãy luôn tỏ ra xứng đáng với ân huệ Chúa ban, cụ thể, không thiên tư tây vị với bất cứ hạng người nào. Tất cả đều là “người”, chung một phẩm giá cao quý “con Thiên Chúa”.
Đối xử công bằng là con đường người môn đệ Giê-su mở ra, chọn đi: con đường từ “đầu đến trái tim”. Đường vừa dài, vừa hẹp, lại khúc khuỷu gian nan, từng làm nhụt chí bao tâm hồn. Con đường thiêng liêng ấy chỉ có thể bị khuất phục bởi những ai tức thì đáp trả lệnh truyền Ép-pha-tha (hãy mở ra) của Chúa.
Mở ra là gạt bỏ nhỏ nhoi, định kiến, hiềm khích, bất công, hiếu chiến, được thua với người anh em. Mở ra là vét cạn tính hư nết xấu, tham lam, ích kỷ, để rượu mới Tin Mừng là từ bi, nhân hậu, khiêm cung, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau thật lòng, đổ đầy cõi lòng chúng ta. Mở ra còn là chất đầy con tim bằng tình yêu, sự sống Giê-su, lấy yêu thương làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện và Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.
Thưa anh chị em,
Ngước mắt lên “Trời”, chúng ta dốc quyết thực hiện mau mắn lệnh truyền Giê-su: “Ép-pha-tha” (hãy mở ra) bằng một đời sống huynh đệ đượm tình mến thương. Hãy mạnh dạn phá đổ những bức tường ngăn cách, ra công kiến tạo những cây cầu, hiệp thông cư dân giữa hai đầu thương nhớ. Dứt khoát đoạn giao với “Văn hóa loại trừ”, gắn bó, cổ võ, thực hành “Văn hóa toàn thể”.
Thực hành những điều kể trên, anh chị em làm phải. Chúc anh chị em vạn an trong lòng thương xót của Cha trên trời! Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 mới tổ chức cuộc thi đấu dành cho những người khuyết tật. Lực sĩ cử tạ Việt Nam Lê văn Công xuất sắc đạt huy chương, thành tích của anh bằng với người doạt huy chương vàng nhưng vì anh cân nặng hơn chỉ 100 gam nên phải nhận huy chương bạc. Chúng ta thấy anh bị khuyết tật ở đôi chân nên khi cử tạ phải nằm. Anh là người Công giáo: khi ngồi xe lăn ra thi đấu, anh làm dấu Thánh giá và khi thi đấu xong anh cũng làm dấu Thánh Giá. Điều đáng nói là anh là vận động viên duy nhất của Việt Nam đoạt được huy chương Olympic trong số rất nhiều vận động viên khuyết tật lẫn cả đoàn vận động viên lành mạnh tranh tài ở kì Thế vận hội năm nay đều ra về trắng tay.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa lành cho một người khuyết tật câm điếc. Câm điếc thường đi đôi với nhau vì điếc không nghe được âm thanh nên từ đó cũng không nói được. Chúng ta hãy tìm hiểu một vài cử chỉ của Chúa Giêsu khi Chúa chữa lành cho người câm điếc này:
– Chúa đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đưa anh ra khỏi đám đông vì Chúa không muốn ồn ào, không muốn làm phép lạ như một cuộc trình diễn. Cũng vậy khi Chúa cho bé gái con ông Giarô, trưởng hội đường được sống lại, Chúa không cho đám đông vào nhà chỉ cho cha mẹ em bé và các môn đệ theo Chúa vào thôi.
Chúa đặt ngón tay vào tai anh. Chúa Giêsu thường có cử chỉ đặt tay để chúc lành hay để chữa bệnh. Chúa đặt ngón tai vào tai anh tay để có sự đồng cảm với anh và để truyền sức mạnh chữa lành của Thiên Chúa tới anh như khi người đàn bà bị loạn huyết đụng tới gấu áo Chúa thì Chúa Giêsu cảm thấy sức mạnh từ Chúa phát ra (Mc 5, 30).
Chúa bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Nước miếng của con người cũng là dược liệu thí dụ khi bị chà sước hay đứt tay chưa kịp bôi thuốc, chúng ta thường có thói quen xoa nước miếng vào chỗ bị trầy sước đó để sát trùng và giúp mau lành. Có lẽ Chúa Giêsu nhổ nước miếng ra tay rồi lấy bôi vào lưỡi anh.
“Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: “Eppheta” (nghĩa là hãy mở ra”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Ngước mắt lên trời, thở dài: chúng ta hiểu là Chúa hướng về Chúa Cha và cầu nguyện cũng như trước khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu cũng làm cử chỉ này. Đặc biệt là câu nói của Chúa Giêsu: “Eppheta: Hãy mở ra” lời nói uy quyền của Chúa Giêsu đã làm cho người câm điếc này nói được và nghe được rõ ràng tương tự như khi Chúa Giêsu cho bé gái 12 tuổi chết sống lại, Chúa nói: “Talitha, Koumi”: nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!” Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay (Mc 5, 36-37).
Phép lạ này của Chúa Giêsu khiến dân chúng thán phục thốt lên: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”. Lời khen ngợi này của dân chúng khiến chúng ta liên tưởng tới lời sách Sáng thế viết sau mỗi đợt tạo dựng: “Thiên Chúa thấy mọi sự người đã làm ra quả là tốt đẹp (St 1, 31)” việc người câm điếc nghe được và nói được là một trong số những dấu chỉ chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai Cứu thế theo tiên tri Isaia (Mt 11, 4).
Nhưng phép lạ Chúa Giêsu làm còn có ý nghĩa thiêng liêng đối với chúng ta hôm nay. Trong nghi lễ Rửa tội cho trẻ em, có nghi thức “Hãy mở ra”: Chủ lễ lấy ngón tay cái sờ vào tai và miệng mỗi trẻ và nói: “Nguyện xin Chúa Giêsu Đấng làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói ban cho con sớm có thể đón nghe Lời Người và tuyên xưng đức tin để con ca tụng vinh danh Chúa Cha”.
Miệng lưỡi và đôi tai là tặng phẩm Chúa ban, chúng ta hãy biết dùng cho nên: dùng tai để nghe Lời Chúa, để lắng nghe những người xung quanh, nghe nỗi đau của người khốn khổ, dùng miệng lưỡi để nói những lời yêu thương, xây dựng anh em, an ủi những người sầu khổ. Thánh Giacôbê dạy ‘mỗi người hãy mau nghe, chậm nói, khoan giận và phải biết kiềm chế miệng lưỡi mình'(Gc 1, 19 + 26). Sách Huấn ca cho biết: người phụ nữ ít nói là quà Chúa ban, không chi sánh bằng người có giáo dục (Hc 26, 14).
Chuyện minh họa: Ngày 6/7/2007, Đức Hồng y Giáo phận Seoul Hàn quốc truyền chức linh mục cho thầy Park Minseo, bị câm điếc từ năm mới lên 2 tuổi do uống lầm thuốc. Ngay từ khi còn trẻ đã ao ước được làm linh mục, lớn lên làm thợ sơn và sau được gởi sang Mỹ học Đại học ở phân khoa dành cho sinh viên câm điếc rồi vào Đại Chủng viện. Thầy đã cố gắng học tập suốt 22 năm. Ngày lễ mở tay của tân linh mục, ngoài cha mẹ bà con, còn có nhiều người câm điếc tham dự. Tân linh mục Park Min Seo dùng ngôn ngữ dấu hiệu bằng tay để phát biểu: “Tôi không phải là tài tử nhưng chỉ là một linh mục bình thường mới được Chúa chọn. Xin cầu nguyện cho tôi biết sống khiêm nhường, thánh thiện để chăm lo phục vụ cho anh chị em giáo dân câm điếc như tôi”. Cha là cha sở giáo xứ Eppheta ở Seoul. Cha cử hành thánh lễ bằng ngôn ngữ kí hiệu cho 200-250 người vào Chúa Nhật.
Mỗi người chúng ta hãy xin Chúa mở tai để biết lắng nghe Lời Chúa và mở miệng để ca tụng Chúa cụ thể trong Thánh lễ này và khi ra về biết dùng miệng lưỡi cách tốt đẹp để xây dựng Nước Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Cách đây mấy năm tôi có dâng lễ cưới cho một đôi câm điếc. Hôm ấy bà con giáo dân và lương dân đi dự lễ đông lắm, ai cũng muốn xem đôi tân hôn câm điếc cử hành bí tích hôn phối như thế nào. Mọi người cười ngất khi chủ tế luống cuống và cô dâu chú rễ tự nhiên làm cử điệu của nghi thức hôn phối. Mặc dù trước đó tôi đã nhờ cô giáo trường Khiếm thính giúp dạy giáo lý cho hai anh chị và hướng dẫn những cử điệu cho nghi thức. Một thánh lễ hôn phối nhiều dấu ấn khó phai.
Câm và điếc đi đôi với nhau như cặp song sinh. Câm là do hậu quả của chứng điếc sớm. Người ta hay nói ngược là câm điếc, nhưng thực ra khoa học giải thích là vì điếc nên mới câm.Trẻ con ngay từ khi sinh ra đã bị điếc, do đó không tiếp nhận được các tín hiệu âm thanh nên không biết nói và bị câm.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ. Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe và nói là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
- Hãy mở ra
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa chữa lành đôi tai và cái lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để người điếc có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để người câm có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày con người dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả suy nghĩ, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, không có gì để cho, chẳng có gì để nhận. Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Người bình thường luôn có đôi tai thính, đôi mắt sáng, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
- Người câm điếc được làm Linh mục
Chúa Giêsu đã chữa lành cho người khuyết tật. Giáo Hội đã trao ban tác vụ Linh mục cho những người câm điếc. Những mục tử ấy thực thi sứ vụ loan truyền Tin mừng tình thương cho những người bất hạnh. Giáo Hội thật tuyệt vời!
Vào ngày 6.7.2007, Đức Hồng y Cheong Jin-Suk cai quản Tổng Giáo Phận thủ đô Seoul của Nam Hàn đã truyền chức Linh Mục cho một người câm điếc sau 22 năm cố gắng học tập tu đức. Đó là cha Benedict Park Min-seo, vị LM câm điếc đầu tiên tại Á Châu. Cha Park, sinh năm 1965, bị điếc vào lúc 2 tuổi vì uống lầm thuốc. Tuy nhiên, lúc còn trẻ Ngài ao ước được đi tu làm linh mục, nhưng vì tàng tật, Ngài quyết định đi làm nghề thợ sơn.Học tại trường dành cho người câm điếc, cậu Park gặp được cha Michael Cheong-Soon-o. Cậu tỏ cho Ngài biết ý định của cậu là muốn làm Linh Mục. Nhưng tại Nam Hàn không có lớp cho người câm điếc tại chủng viện nên cậu Park được gửi sang học ở Hoa Kỳ. Năm 1994 câu Park được vào đại học Gallaudet để học triết và toán học. Tại đây cậu Park lại được gặp cha Thomas Coughlin, một linh mục câm điếc đầu tiên của Hoa Kỳ. Cha Thomas được cử làm linh hướng cho cậu Park. Sau khi học ở đại học Gallaudet, cậu Park được vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở New York và sau đó theo học tại viện đại học thánh Gioan. Tại đây vào năm 2004 thầy Park tốt nghiệp đại học.Thầy Park trở về Nam Hàn và tiếp tục theo học tại chủng viện và được phong phó tế vào năm 2006.
Khi cử hành thánh lễ mở tay, cha Park nói bằng ngôn ngữ dấu hiệu của người câm điếc: “Trước hết tôi tạ ơn Chúa đã nhận tôi làm Linh Mục. Là linh mục tàn tật đầu tiên, truyền thông đã chú ý tới tôi rất nhiều, ngay cả trước khi chịu chức, nhưng tôi không phải là tài tử màn bạc, tôi là một Linh Mục thường, xin mọi người cầu nguyện cho tôi để tôi sống khiêm tốn và là một linh mục đích thực ”Linh Mục Michael Cheong Soon-o tuyên bố, “Việc phong chức Linh Mục cho cha Park cho thấy lòng yêu thương của Chúa đối với người không thể nói và nghe được. Chúng ta hãy cầu xin cho Ngài để Ngài sẽ là ánh sáng và là muối đất cho các người tàn tật.” (Vietcatholic 22.7.2007).
Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bị câm điếc.Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp. Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ. Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey. Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy”. (Vietcatholic 25.5.2009).
- Cầu nguyện
Người đời thường hay đổ thừa mọi điều là do “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhưng cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện xấu xa nếu nó được hỗ trợ của cái tai không biết phân biệt tốt xấu, thật giả.Thánh Giacôbê viết: “Lưỡi là một chi thể nhỏ bé, mà khoe khoang được những việc lớn lao. Thử xem một khu rừng lớn, một ngọn lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy được. Lưỡi cũng là ngọn lửa nơi chứa chấp gian ác. Lưỡi thuộc chi thể của chúng ta, nó có thể làm dơ nhớp thân xác chúng ta, đốt cháy cả cuộc đời chúng ta, mà chính nó lại bị địa ngục hun cháy”.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang nhất tờ Tuổi Trẻ số ra ngày thứ hai, 13 tháng 8 năm 2012 có bài: “Cởi trói cho dân”. Tác giả dùng chữ “Cởi trói” để nói về quyết định trả lại hàng ngàn hecta đất cho nông dân. Đã có một vài tỉnh thi hành quyết định này. Hàng ngàn hộ dân vui mừng và biết chắc mình sẽ thoát nghèo, thoát đói, vì từ nay có ruộng đất để cày cấy. Chuyện chỉ đơn giản như vậy nhưng người dân đã phải chịu bị “trói” hàng mấy chục năm qua. Ông Lê Minh Hiệp (ấp Nhơn Trị, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An, Long An) là một trong hàng ngàn hộ vừa được tỉnh trả đất trồng lúa. Ông nói 10 năm bị “treo” đất, cuộc sống gia đình ông như bị trói chân trói tay. Sáng 12.8, gặp vợ chồng ông Hiệp đang tất bật làm đất chuẩn bị gieo sạ vụ ba, ông bảo đến bây giờ mới an tâm đầu tư sản xuất lúa để năng suất cao hơn, tích lũy mua thêm ruộng. (x. “Tôi như người được cởi trói, thoải mái lắm”, tuoitre.vn, ngày 13.8.2012). Hy vọng người dân Việt Nam còn được “cởi trói” nhiều thứ khác nữa.
Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện, Chúa Giêsu chữa lành một người câm điếc.
Chúa phán: “Epphata” nghĩa là “Hãy mở ra”. Lập tức lỗ tai điếc anh mở ra nghe được rõ ràng, lưỡi như bị một sợi dây trói buộc nay được tháo cỡi nên anh nói rành mạch. Chúa “cởi trói” cho tai và lưỡi của bệnh nhân nên anh ta nghe và nói được. Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”.
Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.
Phép lạ chú trọng đến sự kiện mở tai để anh ta có thể nghe Lời Chúa, cởi trói cái lưỡi để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Như vậy, theo Máccô, phép lạ Chúa chữa người câm điếc mang ý nghĩa sâu xa, đó là chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng.
Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với mọi người. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình.
Con người sống với nhau trong tương quan hiệp thông. Hàng ngày dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Nhờ lắng nghe chúng ta cảm thông tâm sự của người khác. Từ đó hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông với nhau, cuộc sống sẽ phong phú hơn.
Có dịp đến thăm các trường khuyết tật, cảm thông với những người câm điếc, chúng ta mới thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đó chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.
Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những ốc đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ.
Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau.
Hãy mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em. Đừng “Nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”.
Hãy mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa,lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc.
Hãy mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh.
Mỗi khi tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện một cử chỉ rất quen thuộc. Sau khi nghe bài Phúc Âm, chúng ta đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm Dấu Thánh Giá trên trán, trên môi, trên ngực. Đó như là lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng lưỡi con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa.
Mỗi lần làm Dấu Thánh Giá nhân Danh Ba Ngôi Thiên Chúa, xin Chúa cho chúng con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu.
Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con, xin cho chúng con giống Chúa trong lời nói và việc làm.
Xin cho cuộc sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa lòng đời hôm nay. Amen.
73. Chữa thói câm điếc làm ngơ!
(Suy niệm Lm. Xuân Hy Vọng)
Chuyện ‘nghe mà không hiểu, mở miệng mà chẳng thành câu’ không còn lạ gì khi chúng ta ở đất khách quê người. Có dịp gặp cô tôi sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến cô buồn khổ nhất”. Cô nhoẽn miệng cười đáp: “Khổ nhất là sống như người điếc và câm. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, chẳng nói được gì, thành ra không ai hiểu. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, y như người điếc vậy”.
Cảm tạ Chúa vì chúng ta được Ngài ban cho một cơ thể toàn vẹn, mọi chức năng hoạt động đúng vai trò của nó; nhưng đôi khi vì thói quen hay lí do nào đó, mà chúng ta đánh mất, hoặc xáo trộn nó, làm rối tung. Một lần nọ, cô bé Hoa hỏi bà rằng: “Bà ơi, sao con người có hai tay, hai chân, hai mắt, hai tai, mà chỉ có một miệng và một lỗ mũi hỡi bà?”
Và bà liền trả lời:
“Hai tay để con lao động cật lực, hai chân để con đi xa học rộng, hai mắt để con học hỏi tìm tòi. Còn hai tai mà chỉ một lỗ mũi, một miệng, là để con không xỏ mũi vào chuyện của người khác, nói ít đi và nghe thật nhiều”!
Thật vậy, chúng ta vẫn còn may mắn nhiều hơn anh chàng bị câm điếc được người ta mang đến cho Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta vẫn còn miệng lưỡi để diễn tả những gì muốn nói, muốn trình bày; chúng ta còn cả đôi tai nguyên vẹn, chưa phải bị điếc lác, hay lãng tai, hoặc dùng đến máy trợ thính. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta chẳng may mắn hơn anh ấy, nếu chúng ta ù lì, mê mải trong thói ‘câm điếc tâm linh’, thói ‘giả điếc làm ngơ’, hoặc ‘câm điếc làm thinh’, v.v…Vì thà rằng bị câm điếc thể lý, nhưng tâm hồn luôn rộng mở, cảm thông, lắng nghe, thấu hiểu, nói lên tiếng lòng của mình, can đảm đến với người, chia san với đời thì tốt lành thánh thiện biết bao! Vì thà rằng bị câm điếc thân xác, còn hơn bị ‘câm nín, điếc lác’ trước nỗi thống khổ của anh chị em, trước cảnh bất công, với bao cảnh tượng u sầu và khóc than, người người đang van xin sự giúp đỡ của chúng ta!
Từ thời Cựu ước, ngôn sứ I-sai-ah đã tuyên sấm về Con Thiên Chúa “sẽ đến và cứu thoát…Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra…” (x. Is 35, 4-5), và điều này đã thành sự nơi Đức Giê-su Ki-tô. Ngài chữa lành nhiều thứ bệnh tật, trừ quỷ, cho kẻ chết sống lại, cụ thể Ngài đã giải thoát cho anh chàng vừa câm vừa điếc trong bài Tin Mừng: “…đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta,…đoạn ngước mặt lên trời, thở dài và bảo: “Ê-phê-ta!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”)” (x. Mc 7, 33-34). Thế nhưng, chúng ta có tự nguyện đến xin Đức Giê-su chữa lành cho thói đời ‘câm nín, điếc lác’ tâm linh của mình chăng? Chúng ta sẵn sàng chấp nhận cách Ngài chữa lành như đã làm cho anh câm điếc kia không? Hay vẫn mong muốn Ngài giải thoát, nhưng theo cách thức của chúng ta?
Nếu chúng ta tín thác, cậy trông, vâng phục, giao phó hoàn toàn trong tay Chúa, để Ngài tự ý chữa lành và giải thoát chúng ta, thì chắc chắn lời thán phục của dân chúng không bao giờ sai: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!” (Mc 7, 37). Thật vậy, Chúa thực hiện mọi điều tốt lành nơi chúng ta, nơi gia đình, nơi cộng đoàn, nơi giáo xứ, ngoài xã hội và trong Giáo hội chúng ta theo phương cách của Ngài. Hơn nữa, nếu để Đức Giê-su chữa lành thói đời ‘giả điếc làm ngơ’, ‘giả câm làm thinh’, thì ắt hẳn chúng ta nên thực hành Lời Chúa phán dạy qua thư của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: “…là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh (chị) em đừng thiên vị” (Gc 2, 1). Nể trọng những ai giàu có, mà khinh khi hoặc xem thường người nghèo khó! Giao du, đối đãi quá mức với đại gia (VIP), dành nhiều thời gian cho họ; nhưng lại chẳng có thời giờ cho người nghèo khổ, người cùng khốn, đang cần đến sự giúp đỡ và nâng đỡ của chúng ta! Một khi sa vào thái độ này, hoặc hành vi này, chúng ta không những trở nên ‘câm điếc’ tâm linh, mà còn “trở thành quan toà xét xử đầy tà tâm” (x. Gc 2, 4).
Tóm lại, chúng ta có thể dừng lại nơi tác phẩm “Tự thuật” của Thánh Âu-gus-ti-nô, hòng nhìn nhận đôi tai đã điếc lác trước Lời của Chúa, đôi môi câm nín làm thinh trước bất công xã hội, trước nỗi thống khổ của tha nhân trong thời gian dài. Để rồi chúng ta cùng thánh nhân thốt lên: “Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi, con yêu Chúa quá muộn ! Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài…Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu toả và đã xua tan sự mù loà của con…”
“Ê-phê-ta” – xin mở ra
Cho con nhận biết Chúa là chân lý.
“Ê-phê-ta” – mở tâm trí
Hầu con yêu mến Thánh ý của Ngài.
“Ê-phê-ta” – mở đôi tai
Cõi lòng tha thiết, ai ai sầu buồn.
“Ê-phê-ta” – xin mở hồn
Bật tung, mắt mở, khơi nguồn tình yêu. Amen!
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI: QUYỀN NĂNG CHỮA LÀNH KHI CHẠM ĐẾN CON NGƯỜI
Hơn một năm qua, nhiều người không có cơ hội tiếp xúc thể lý và thường xuyên, đây là một biện pháp phiền toái nhưng cần thiết để giúp giảm thiểu sự lây lan của Covid-19. Khi tình trạng bình thường dần dần quay trở lại tại một số quốc gia phát triển, thì nhiều người trong chúng ta có thể gặp gỡ, kết nối trực tiếp, do đó đem lại nhiều lợi ích. Bài đọc một và bài Tin mừng nhắc nhớ lại tình thương và sự chăm sóc thân tình của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng như mọi loài thụ tạo. Bài đọc hai lưu ý đặc biệt về cách thức mà chúng ta đối xử với nhau, dù có những khác biệt thể lý.
Bài đọc một trích từ sách ngôn sứ Isaia mô tả thời kỳ đổi mới và phục hồi sau thời gian tàn phá của cuộc lưu đày ở Babylon. Vị ngôn sứ cho biết nhờ quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa mà ơn cứu độ sẽ đến trên mặt đất để khôi phục lại những gì đã bị hư hoại. Không chỉ con người mà toàn thể cộng đoàn trên địa cầu sẽ được đổi mới. Những vùng đất khô cằn sẽ có nước, cây cối sẽ mọc lên và muôn vật sẽ sống hòa hợp với nhau (Is 35,1-2.9). Nhân loại cũng được Thiên Chúa củng cố. Ngôn sứ Isaia mô tả những người đang gặp khó khăn về mặt thể lý có thể nhìn thấy, nghe, bước đi và nói năng được. Những khả năng mới hoặc được đổi mới này là dấu hiệu canh tân bộ mặt trái đất.
Sự đổi mới mà Isaia hình dung không chỉ mang tính thể lý. Vị ngôn sứ này còn liên kết sự canh tân đời sống với sự phát triển tinh thần và tìm kiếm công bình. Chẳng hạn, khi nói về những nhà lãnh đạo lý tưởng, Isaia nói rằng họ giúp dân chúng nhìn và nghe được, có khả năng phán đoán tốt và nói năng lưu loát, và như thế giúp cho sự công bình và chính nghĩa tràn ngập khắp mặt đất (Is 32,1-4). Sau thời kỳ lưu đày, vùng đất này được Thiên Chúa chạm đến, ban ơn, đổi mới và được mời gọi để thăng tiến công bình.
Việc Thiên Chúa chạm đến con người cũng là trọng tâm của bài Tin mừng hôm nay. Cộng đoàn đưa một người thanh niên đến để xin Đức Giêsu chữa lành. Anh bị điếc và phát âm rất khó khăn. Tại thời điểm này trong Tin mừng Máccô, Đức Giêsu đã làm một số phép lạ cũng như chữa lành nhiều người. Một số trường hợp công khai, như khi Đức Giêsu xua đuổi thần ô uế nơi hội đường và cho dân chúng ăn (Mc 1,21-28 ; 6,30-44). Có những trường hợp ít người chứng kiến, như trường hợp Đức Giêsu chữa lành cho bé gái với sự hiện diện của cha mẹ em và ba môn đệ (Mc 5,35-43). Mặc dù đám đông khởi xướng việc chữa lành trong bài Tin mừng, nhưng chính Đức Giêsu mới là người phục hồi người thanh niên nơi riêng tư theo cách thức rất cá vị.
Thánh Máccô nhấn mạnh rằng Đức Giêsu “đã đem anh ta ra khỏi đám đông”. Ngài chữa lành bệnh điếc bằng cách đặt ngón tay của mình vào tai anh và bệnh câm bằng cách bôi nước miếng vào lưỡi anh. Những cách chữa bệnh này cho thấy sự chăm sóc thân tình mà Đức Giêsu muốn trao ban, thậm chí là cho đi một phần bản thân mình để giúp chữa lành người bệnh. Trong Tin mừng, Đức Giêsu thể hiện quyền năng chữa lành của mình bằng nhiều cách thức khác nhau, và việc chữa lành này là một trong những phương cách riêng tư nhất.
Giữa hai bài đọc nói về sự phục hồi này, chúng ta nghe một phần thư thánh Giacôbê hướng dẫn cách đối xử với những người có dáng vẻ bề ngoài khác biệt. Thánh Giacôbê nhắc nhở cộng đoàn không được tỏ ra thiên vị dựa trên sự giàu có hoặc dáng vẻ bên ngoài của con người. Lời cảnh báo đó cho thấy một số thách đố cũng như những thiếu sót nơi cộng đoàn của ngài, trong đó có lẽ nhiều người đã tỏ ra coi thường những người đang thiếu thốn. Để chống lại điều này, thánh Giacôbê nhắc nhở cộng đoàn về việc Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo và dễ bị tổn thương nhất.
Mỗi bài đọc Chúa nhật hôm nay có thể thôi thúc chúng ta cầu nguyện và hành động. Bài đọc một và bài Tin mừng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa trong việc đổi mới chúng ta, ngay cả trong và nhất là sau những giai đoạn đau khổ. Các bài đọc này cũng nhắc nhở chúng ta quan tâm đến nhu cầu thể lý và tinh thần của cộng đoàn, lấy Đức Kitô làm mẫu gương cho chúng ta. Ngoài ra, bài đọc hai nhắc nhở chúng ta không nên phân biệt đối xử khi chăm sóc cho nhau, hãy đối xử với mọi người cách trân trọng và xứng với nhân phẩm.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Mới ngày nào người bạn trẻ ấy đã từng là một cậu giúp lễ, đến chào tôi và báo tin, em đã đậu đại học mỹ thuật… Thấm thoát em đã ra trường. Lần này đến thăm tôi, cùng với việc báo tin mình đã tốt nghiệp, em còn tặng tôi một bức tranh. “Thưa cha, con đã vẽ nhiều tranh. Nhưng đây là bức tranh con ưng ý nhất từ trước tới nay, con tặng cha”, em nói như thế trong khi chìa bức tranh cho tôi. Nhìn bức tranh của em, tôi chẳng hiểu gì hết. Thú thật, đối với em, bức tranh là kiệt tác của chính mình, là vẻ đẹp, là ngôn ngữ nội tâm của chính em, nhưng tôi chẳng thấy gì cả, chẳng mường tượng được chút nào. Tôi chỉ hiểu phần nào khi được em giải thích mà thôi. Dù cám ơn em vì em yêu quý tôi, vì tấm lòng em dành cho tôi, nhưng tôi thấy trước thế giới nghệ thuật mà em đang theo đuổi, tôi là một kẻ vừa câm, vừa điếc.
Nói đến câm và điếc, thói thường, người ta vẫn hiểu đó là tình trạng tật nguyền của lưỡi và tai: lưỡi không thể nói và tai không thể nghe. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm. Không nói được và cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu anh chị em bị tật ấy. Bởi thế, điều mà anh chị em cần nơi những người lành mạnh là thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương. Hôm nay, Tin Mừng thánh Marcô cho biết, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc. Dù hành động chữa lành này mang nhiều ý nghĩa, thì bên cạnh những ý nghĩa đó, người ta không thể không nói tới lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Dù vậy, bạn có bao giờ nghĩ rằng, sự điếc câm thể lý của một ai đó chưa phải là vấn đề cần nhất để ta phải ưu tiên đề cập đến? Đúng là bất hạnh nào cũng đáng thương, nhưng nếu chỉ dừng lại để nói đến sự điếc câm thể lý thì thật là thiếu sót. Chúa Giêsu, một khi chữa lành người bị tật, Người đâu chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi. Điều quan trọng ẩn trong những phép lạ, đó là Chúa Giêsu chứng tỏ mình là Đấng thiên sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: “mở ra”, “hết buộc lại”, cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng còn có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại….
Nhìn bức tranh tôi không hiểu gì hết trong câu chuyện bên trên, làm cho tôi chợt nhận ra, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường, thì câm điếc không dừng lại ở thể lý, mà còn là nỗi câm và điếc thuộc thế giới tinh thần. Chắc bạn đồng ý với tôi, sống giữa cuộc đời này, không chỉ là nghệ thuật hay mỹ thuật, bạn và tôi còn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực: là một linh mục, chưa bao giờ tham dự một lớp y khoa nào, làm sao tôi có thể chẩn đoán bệnh. Cũng thế, một bác sĩ dù giỏi đến đâu, vẫn không bao giờ làm được những việc hay sống những điều thuộc về thế giới của linh mục… Mỗi người có những chọn lựa cho riêng mình. Chọn lựa để phục vụ con người trong lãnh vực nào, người ta chỉ có thể từng trải trong lãnh vực của mình mà thôi. Chuyện câm và điếc ấy cũng bình thường đấy thôi.
Nhưng không phải mọi nỗi câm điếc thuộc thế giới tinh thần đều trở nên bình thường. Có những nỗi câm và điếc đáng tội. Càng tệ hại hơn khi chính ta bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của một người không bao giờ biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Đối với họ, giáo lý là chuyện xa vời, thực hành nhân đức là điều vô ích, đời sống đạo đức là không cần thiết, Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Đó là nỗi câm điếc của một người không bao giờ biết đến anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân. Đó là nỗi câm điếc của một người làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên mang trong sự ham hố tiền của, và danh vọng. Đó là những lời cay nghiệt phun ra để chửi bới, nguyền rủa anh chị em mình. Đó cũng là tình trạng của ai ham hố dục vọng thấp hèn và để mình chìm trong sự khát khao bất chính, nếu không muốn nói là tội lỗi. Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối ta hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của ta, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho ta. Nguy hiểm vì lòng ta thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn ta nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng…
Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần bạn và tôi mềm lòng chứ đừng cứng cỏi, ta sẽ dễ nhận ra con người thật của mình: biết bao nhiêu gai gốc cần gọt giũa; biết bao nhiêu thói xấu cần chữa trị; biết bao nhiêu đam mê hạ cấp, tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ đến với Chúa để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Người bị câm điếc trong bài Tin Mừng đã không làm gì khác hơn là để Chúa chạm đến mình, nhờ đó anh được thoát khỏi tình trạng câm điếc. Cũng vậy, ta hãy đến với Chúa, hãy thực tâm tôn thờ Chúa, hãy chăm lo cho đời sống cầu nguyện của mình, hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình… Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng thành của người con yêu mến Cha như thế, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Người sẽ biến đổi ta, và ta sẽ sớm lành mạnh. Lịch sử Giáo Hội đã chẳng để lại biết bao nhiêu tấm gương của nhiều vị thánh thoát khỏi tình trạng câm điếc, đui mù và trở thành thánh nhân nhờ để Chúa chạm vào cuộc đời, chạm vào linh hồn mình đó sao. Đó là tấm gương cao đẹp của thánh Augustinô; của thánh Phanxicô Asisi; của cha Charles de Foucauld…
Bạn và tôi hãy nhớ một điều rất chắn chắn: Chỉ sợ mình bất trung với Chúa, chứ không bao giờ sợ Chúa bỏ ta.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
ÉP-PHA-THA:
XIN MỞ TAI MỞ MIỆNG VÀ MỞ LÒNG TRÍ CON
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Người đã chữa bệnh câm điếc cho anh như sau: đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói “Ép-pha-tha!”-“Hãy mở ra!”
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: “Ep-pha-tha: hãy mở ra” (Mc 7,34).
Duy chỉ có Tin Mừng Máccô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người bị câm điếc. Người thực hiện phép lạ chữa bệnh này tại miền Thập Tỉnh, là nơi hầu hết cư dân là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc này bằng các cữ chỉ như sau: đặt ngón tay vào tay anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói: “Ep-pha-ta!: “Hãy mở ra!”. Lập tức bệnh nhân được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.
2) Chú thích:
- Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh (Mc 7,31-32):
- Bỏ vùng Tia: Tia là một thành thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do thái, đã có bang giao với nước Do thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x. 1 V 9,11-12). Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, một số người từ vùng Tia cũng đã tìm đến gặp Người (x. Mc 3,8).
- Qua ngả Xi-đon: Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân Ước, Đức Giêsu tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt 11,21-22).
- Đến biển hồ Galilê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có nhiều sóng to gió lớn, và có khá nhiều cá.
- Vào miền Thập Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Galilê, gồm mười thành chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Đó là các thành; Sy-thô-pô-li, Pen-la, Ga-da-ra, Đi-on, Híp-pô, Phi-la-đen-phi-a, Ghê-ra-sa, Ka-na-tha, Đa-mát và A-bi-la. Tin mừng Nhất Lãm thường hay nhắc tới miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25; Mc 1,28; 5,20).
- Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc thường đi đôi với nhau. Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không thể nói được, chỉ phát ra một thứ âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân.
- Xin Người đặt tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do thái (x. St 48,14-15). Đây cũng là cử chỉ Đức Giêsu thường làm như: đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5; 8,25).
- Người kéo riêng anh ta ra giữa đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “ Ep-pha-ta”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7, 33-35):
- Kéo riêng ra khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,37), hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây, Người tách riêng kẻ bị căm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị và cảm thông đối với sự ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng trước đám đông đang muốn nhìn xem Đức Giêsu chữa bệnh. Đàng khác, việc can thiệp của Thiên Chúa được thực hiện cách kín đáo như Samuen được Đức Chúa sai đến nhà ông Gie-sê ở Bêlem để bí mật xức dầu phong một người con ông này làm vua, thay thế vua Sa-un (x. 1 Sm 16,1-13); Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong vương cách kín đáo như vậy (x.2 v 9,2-6).
- Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh… Đức Giêsu làm hai động tác để chữa bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33); Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói; “Ep-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c.34). Hai động tác này lập tức phát sinh công hiệu là làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc, cũng như chữa người mù (x. Mc 8,22-26), Máccô muốn chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai. Vì Người đã thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được I-sai-a tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).
- Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (Mc 7,36-37):
- Không được kể chuyện đó với ai cả…: Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,43), chữa lành người mù thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)…Đức Giêsu đều truyền cho họ phải giữ im lặng. Sở dĩ thế là vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do thái khỏi hiểu lầm về sứ mệnh Thiên sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là lập một Nước Trời thiêng liêng và vĩnh cửu, đang khi dân chúng lại khao khát mong chờ một Đấng Thiên Sai theo kiểu trần tục, để lãnh đạo dân nổi loạn chống lại đế quốc La-mã, đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên sai về thiêng liêng đúng theo Thánh ý Thiên Chúa, Đức Giêsu cần phải có thời gian để rao giảng cho dân Do thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh của Người. Do đó, khi làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn có sự ồn ào dễ trở thành động cơ ảnh hưởng trên phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rôma kéo đến đàn áp giết hại, như đã từng xảy ra trước đó.
- Nhưng họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”: Những người được Đức Giêsu chữa lành đã không giữ kín về những ơn mà họ đã nhận được. Họ thật sự thán phục trước những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã làm. Việc chữa bệnh này giống như sự tái tạo một con người mới, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi … tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật như sau: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).
- HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại thành một. Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14):
Câu chuyện: Phá đổ bức tường Bá-linh
Ngày 13.8.1961, một bức tường cao 8 mét, dài 700 cây số đã được cấp tốc xây dựng để làm biên giới, phân chia nước Đức làm hai quốc gia đối nghịch với nhau là Đông Đức và Tây Đức. Bức tường này được gọi là bức tường Bá-linh (Berlin). Từ đây, nhiều gia đình bị phân ly, nhiều ngôi nhà bị chia cắt làm đôi, và tiếp theo đó là sự hình thành một bức tường tâm lý, mang tính thù hận và chia rẽ ngăn cách nhau. Mãi đến ngày 13.11.1989, sau thời gian tồn tại 28 năm, bức tường Bá-linh này mới bị phá huỷ. Từ đây các gia đình đang phân tán lại được đoàn tụ, dân tộc và đất nước lại tái thống nhất. Thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và hai nước Đông và Tây Đức đang thù nghịch nhau lại trở thành đồng minh với nhau, cùng nhau hợp tác xây dựng hoà bình, đưa đất nước này ngày một thăng tiến về mọi mặt
Suy niệm:
- Phá đổ bức tường câm điếc: Bệnh câm điếc cũng chính là bức tường vô hình ngăn cách kẻ câm điếc với gia đình và xã hội. Vì điếc nên không thể nghe, không thể hiểu và không thể cảm thông với tha nhân. Vì câm nên không thể nói, không thể diễn tả tâm tư nguyện vọng của mình cho người khác hiểu. Vì không hiểu người khác và không được người khác hiểu, thông cảm nên dễ sinh ra hiểu lầm và ngày càng xa cách người khác. Đức Giêsu đã tỏ ra cảm thông với hoàn cảnh của người câm điếc. Người ra tay phá bỏ bức tường ngăn cách là bệnh câm điếc này cho bệnh nhân, khiến anh ta lại có thể nghe được, nói được và cảm thông được với người khác, và ngược lại, người khác cũng dễ dàng nghe và hiểu biết thông cảm với anh.
- Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và chư dân: Các đầu mục Do Thái đã xây dựng một bức tường lề luật phức tạp về sự tinh sạch và nhơ uế. Bao nhiêu thứ lề luật nhỏ mọn về việc rửa tay, tắm rửa, những quy định bề ngoài về đồ ăn thức uống làm người ăn trở nên nhơ uế … làm cho người Do Thái không còn dễ dàng tiếp xúc với chư dân. Những tập tục, quy định này là bức tường ngăn cách ơn cứu độ của Thiên Chúa, làm cho ơn ấy không thể đến được với dân lâng bang. Đức Giêsu đã trải qua một cuộc hành trình dài hơn một trăm cây số, băng qua các thành phố làng mạc của chư dân, để rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, đế phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân Do Thái và dân ngoại, để Tin Mừng nước Thiên Chúa được đến với muôn dân
- Phá bỏ bức tường ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa: Trong vườn địa đàng xưa, ma quỷ đã cám dỗ nguyên tổ Ađam Eva phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, và loài người bị đuổi ra khỏi Địa Đàng, phải vào trần gian là nơi đầy đau khổ chia rẽ thù hận, và đầy gai chông nước mắt. Chính ma quỷ đã xây dựng bức tường tội lỗi chia lìa loài người với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để phá bỏ bức tường ngăn cách bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Người đã chiến thắng ma quỷ và thần chết nhờ quyền năng Thánh Thần. Người đã chịu chết vì loài người chúng ta và ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Danh Người. Ai tin thì sẽ được cứu độ, nghĩa là được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, và được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Quyết tâm: Hiện giờ tôi có bị ngăn cách với ai bằng bức tường thù hận, thiếu sự cảm thông hay không? Tôi quyết tâm sẽ làm gì để phá bỏ bức tường ngăn cách ấy, để có thể sống vui tươi, cảm thông và hoà hợp với mọi người?
2) Epphatha: “Hãy mở ra” (Mc 7,34):
Câu chuyện: Ông già uyên bác:
Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hoá của ông mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa triết lý và thần học … Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng này ngày càng đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để hỏi ý kiến của ông về các thắc mắc và các vấn đề liên quan đến cuộc sống. Họ đã được ông cụ tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học đã đến thăm ông. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư đã hỏi ông cụ nguyên nhân nào khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy. Đồng thời xin ông giới thiệu một cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ, ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi không có thời giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học…Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn thứ hai là những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban cho các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa trong Thánh kinh, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành trong đời sống hằng ngày. Mỗi lần dự lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế hôm ấy.”
Suy niệm:
- Đúng như ông cụ trong câu chuyện trên đã nói: Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những việc kỳ diệu ấy. Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do chúng ta đã không chịu mở mắt để nhìn xem, không chịu mở tai ra để lắng nghe, không chịu mở lòng để đón nhận, không chịu mở trí ra để suy nghĩ tìm hiểu Thánh Ý Thiên Chúa…
- Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa một người vừa ngọng (câm) vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Nhiều người đã mất đi sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay bị câm nín, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác châm chọc, khinh thường và từ chốu giúp đỡ…cũng có những sự đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói lên sự thật theo đúng suy nghĩ trung thực của mình. “Ep-pha-ta”, xin Chúa mở miệng chúng ta ra, để ta có thể làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ vì tai nạn rủi ro, bị ngược đãi cách bất công, và đang gặp những điều trái ý cực lòng…
- Người điếc hoặc bị lãng tai là người mất khả năng nghe được lời nói của kẻ khác. Lắng nghe lời người khác là một điều quan trọng trong quan hệ giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hoặc nghe người khác nói nhưng lại hiểu theo ý mình, thay vì phải hiểu theo ý của người nói. Chính vì thế mà có những sự hiểu lầm và tranh cãi mất đoàn kết. Nghe bằng tai chưa đủ, mà còn phải nghe bằng trái tim nữa. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng bên trong lớp vỏ ngôn từ. “Ep-pha-tha”, xin Chúa hãy mở đôi tai chúng ta, để có thể lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những đau khổ của tha nhân và kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ.
- Thế giới hôm nay đang thiếu sự cảm thông và đối thoại, vì có quá nhiều người bị câm và điếc tinh thần. Bệnh này biến người ta trở thành những hòn đảo cô độc giữa lòng đại dương bao la. Bệnh này cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, khép kín và sơ cứng…:Chẳng có gì để cho ai và cũng không nhận của ai cái gì. Cuối cùng người ta sẽ chết trong sự nghèo nàn tình thương của mình. “Ep-pha-tha”, xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng chúng ta, để ta có thể giao lưu với Thiên Chúa và với tha nhân; để chúng ta được ơn Chúa biến đổi trở nên con người mới đầy ấp tình người. Nhờ đó chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội ta đang sống, trở nên Thiên Đàng chan hòa tình thương, đúng như lòng Chúa mong muốn.
Quyết tâm: Trong những ngày này, tôi quyết tâm sẽ “đi bước trước” đến với tha nhân, nhất là đến với những người cô độc bất hạnh, bằng việc nở một nụ cười thân thiện với họ, bằng những cái bắt tay thân ái. Tôi sẽ năng cầu xin Chúa “Ep-pha-tha”, để xin Chúa mở rộng trái tim, mở rộng lòng trí để nghe những Lời Chúa phán dạy, để lắng nghe những tâm sự của tha nhân đang gặp khó khăn đau khổ, và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng của mình.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. “Ep-pha-tha!”, Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở nên tay chân của những kẻ tàn tật, trở thành đôi mắt cho những kẻ đui mù. Để con nên tai nghe cho những ai bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con trở nên tiếng kêu cho những người bị áp bức. Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái trong đời sống thường ngày: Sẳn sàng chia sẻ cơm bánh cho những kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho những người đau ốm, mang áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem sự che chở cho những kẻ không nhà. Nhất là để con đem tình thương khoan dung tha thứ của Chúa, để làm hòa với những kẻ đang thù ghét làm hại con.
Lạy Chúa Giêsu. Ep-pha-tha! Xin giúp con biết mở rộng trái tim, để thực thi giới răn yêu thương của Chúa: Để con chiếu sáng dẫn đường cho những kẻ đang lạc lối lầm đường, để đốt lửa tin yêu nơi những tâm hồn băng giá, để cảm thông với nỗi khổ đau của những người bất hạnh, để bảo vệ phẩm giá cho những ai đang bị khinh dể chà đạp; để đem lại niềm vui và hy vọng cho những người đang buồn bã thất vọng.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng: người bệnh câm điếc chắc chắn sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với tha nhân: Họ chỉ có thể nói và nghe được bằng các dấu hiệu của bàn tay. Đang khi chúng con, tuy vẫn có khả năng nghe và nói, nhưng lại mắc bệnh câm điếc tinh thần: Đối với Chúa, con chán ngại và không muốn nghe những Lời Chúa nói, và cũng chẳng biết thưa chuyện thế nào với Chúa. Con luôn bị tiền bạc, danh vọng, đam mê và các thú vui khác cám dỗ và chi phối, nên con chẳng dành riêng ra thì giờ để tiếp xúc, chẳng mấy khi con nghĩ đến Chúa. Con chẳng tỏ ra thiết tha với bổn phận phải cầu nguyện và dự lễ đọc kinh. Còn đối với tha nhân, nhiều khi con hóa thành người câm điếc khi con quá ích kỷ, bịt tai ngậm miệng và khép kín cửa lòng, trong khi biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười cảm thông chia sẻ, cần một lời động viên an ủi chân tình, cần một sự trợ giúp cấp thời để giúp họ vượt qua khó khăn trở ngại trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa giúp con được khỏi bệnh câm điếc tinh thần. Xin hãy mở tai con để nghe những Lời dạy của Chúa và lắng nghe những tiếng kêu cứu, những lời tâm sự của anh chị em con. Xin cho con biết noi gương Đức Giêsu người con yêu của Mẹ: Luôn chạnh lòng xót thương, biết quảng đại để chia sẻ cả về tinh thần cũng như vật chất cho những ai đang gặp đau khổ bất hạnh. Xin Mẹ giúp con biết “lặng thinh trước những điều không nên nói, và mạnh dạn lên tiếng trước những điều không được im lặng!”
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
DÙNG MIỆNG LƯỠI ĐỂ CA TỤNG
VÀ LÀM VINH DANH CHÚA
Thường người ta không đánh giá được sự vật mà họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Nếu ta đặt mình vào địa vị người câm và điếc trong phúc âm hôm nay, ta mới đánh giá được cơ quan tai và lưỡi. Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên cái lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe, và nghe người khác nói. Người điếc trong Phúc âm hôm nay phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Chúa chữa anh ta. Phúc âm ghi lại ‘Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người rên một tiếng và bảo: Ephrata, nghĩa là “hãy mở ra”. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 33-34).
Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt in tức, thông đạt sự thật và sự thiện hảo. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để khuyến khích người khác nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Có bao giờ khi xưng tội, ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt không?
Hơn nữa miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để thông đạt lời Chúa. Khi lãnh phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay:Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa, và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Phúc âm. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nhưng chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Ta biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn lắng nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.
Tóm lại mục đích của việc tạo dựng giác quan là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Chúa. Chúa cho ta cái tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngợi khen Chúa. Đó chính là việc người câm điếc đã làm sau khi được Chúa chữa khỏi: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được (Mc 7: 37).
Hôm nay ta hãy cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh, trong bài giảng. Nghe lời Chúa rồi ta cần đáp trả bằng cách tuyên xưng lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đạo hạnh. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Trong một buổi học hỏi Thánh kinh, ông cha hỏi:
* Sao Chúa nhật rồi bài Phúc âm nói về gì vậy?
Mọi người thinh lặng: người thì bóp trán, người thì gãi tai, người khác gãi đầu. Cuối cùng có một ông giơ tay phát biểu.
– Dạ thưa cha con nhớ rồi.
– Ông nhớ sao?
– Dạ thưa cha, con nhớ cha đọc: Đó là lời Chúa.
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
MỌI VIỆC CHÚA LÀM ĐỀU TỐT LÀNH
Câu chuyện này bắt đầu kể lại khởi điểm của một chuyến đi kỳ diệu. Chúa Giêsu đang từ Tia đến vùng đất chung quanh biển Galilê, nghĩa là Ngài đang từ Tia ở Phía Bắc đi xuống xứ Galilê ở phía Nam. Ngài bắt đầu hành trình bằng cách đi đến Siđôn. Điều này có nghĩa là Ngài bắt đầu đến Siđôn, và đã bắt đầu chuyển xuống phương Nam bằng cách vòng lên hướng Bắc. Chính vì chỗ khó hiểu này mà nhiều học giả cho rằng bản văn này đã chép sai, đáng lý ra Siđôn chẳng dính dáng gì đến chuyện ở đây, nhưng hầu như chúng ta có thể chắc chắn bản văn đúng như hiện có. Một học giả khác nghĩ rằng chuyến đi này kéo dài không dưới tám tháng, hoặc lâu hơn thế nữa. Có thể chuyến đi dài hạn này là giai đoạn yên tĩnh trước khi bão tố, một thời gian dài để Chúa Giêsu và các môn đệ thông hiệp với nhau trước khi cơn giông bão cuối cùng nổi lên. Ngay trong chương tiếp sau đây, Phêrô đã phát giác được Chúa Giêsu là Đức Kitô (Mc 8,27-29) và có thể chính nhờ chuyến đồng hành lâu dài này với nhiều cơ hội được sống riêng với nhau mà ý tưởng đó dần dần ăn sâu vào lòng trí Phêrô để trở thành chắc chắn. Chúa Giêsu cần có thời gian lâu dài này để sống chung với các môn đệ trước khi sự căng thẳng của ngày kết thúc cuộc bão táp đang tiến đến gần.
Khi Chúa Giêsu trở lại khu vực Galilê, Ngài vào địa phận Đêcapôli, tại đây người ta đem đến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng, chắc chắn hai khuyết tật đó đi đôi với nhau, chính bệnh điếc đã khiến người ấy không thể nói rõ. Không có phép lạ nào nêu rõ cách Chúa Giêsu đối xử đẹp với con người bằng phép lạ này.
1/ Chúa Giêsu đem người điếc riêng ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm hết sức dịu dàng. Người điếc luôn luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn. Chúa Giêsu đã tỏ ra sự quan tâm hết sức dịu dàng đối với người ấy, vì biết người ấy đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống.
2/ Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã hành động như sắp diễn một vở kịch câm, Ngài đặt tay lên lỗ tai người điếc, thấm nước miếng xức lưỡi anh ta, sau đó Chúa Giêsu ngước mặt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, rồi Ngài nói một tiếng và người điếc được chữa lành. Câu chuyện này cho thấy cách hết sức sống động Chúa Giêsu xem người này là một nhân vị có nhu cầu, một vấn đề đặc biệt, và bằng những cử chỉ dịu dàng, quan tâm, Chúa Giêsu giúp người ấy không cảm thấy khó chịu ngỡ ngàng và khiến anh có thể hiểu được.
Sau khi làm phép lạ này, dân chúng đã tuyên bố Ngài làm mọi việc đều tốt lành. Đây là câu kết luận chẳng khác câu kết luận của Đức Chúa Trời liên hệ đến công việc sáng tạo trời đất của Ngài lúc khởi thủy (St 1,31). Khi Chúa Giêsu đến, đem theo ơn chữa lành cho thân thể và cứu rỗi các linh hồn con người. Ngài đã bắt đầu công cuộc sáng tạo một lần nữa. Nguyên thủy, mọi sự đều tốt lành, tội lỗi của nhân loại đã phá hư tất cả, và bây giờ, Chúa Giêsu đem trở lại cho thế gian vẻ đẹp đẽ Thiên Chúa đã ban từ đầu, mà tội lỗi loài người đã làm xấu xa.
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
ĐỨC GIÊSU CHỮA NGƯỜI VỪA ĐIẾC VỪA NGỌNG
1.- Ngữ cảnh
Sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai đi rao giảng sự sám hối và trừ quỷ (6,7-13). Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông ăn (6,37), thì các môn đệ sửng sốt, cũng ý như khi họ thấy Người đi trên mặt biển (6,51). Những người nghe đọc Tin Mừng có nắm được tương quan giữa khả năng đi trên mặt nước và khả năng nuôi sống đám đông chăng? Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại (địa hạt Tia và Xiđôn), tại đó Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri (7,24-30) và chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh nhiều lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các độc giả gốc Dân ngoại nhiều.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (7,31);
2) Đức Giêsu chữa người tàn tật (7,32-35);
3) Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).
Tuy nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi chốn không thể xác định; người tàn tật có vẻ thụ động (không có đối thoại, có vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước miếng; một lệnh yêu cầu thinh lặng, nhưng không giữ được…
3.- Vài điểm chú giải
– bỏ vùng Tia, đi qua … đến… (31): Lộ trình của Đức Giêsu hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt xuống phía đông nam, tiếp tục đi xuống phía nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông của sông Giođan, và như thế đến gần hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất phần lớn thuộc Dân ngoại để báo trước sứ mạng của Giáo Hội là phải đến với muôn dân.
– vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x. 7,37; 9,25) có nghĩa là “điếc”. Còn mogilalos (không phải là alalous, “câm”, c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn toàn, chỉ có nghĩa là nói khó khăn (vì thế, đến c. 35: “anh ta nói được rõ ràng”).
– Người kéo riêng … (33): Tác giả Mc mô tả phép lạ này theo tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh những cặp mắt hiếu kỳ, sự đụng chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên trời, thở dài, những lời nói bằng tiếng ngoại quốc. Những chi tiết này phản ánh lối chữa bệnh thời đó, nhưng cũng rất có thể là những quy ước của một thể văn (x. K. Kertelge; K. Tagawa; A. Duprez).
– đặt ngón tay vào lỗ tai: Những hành vi biểu tượng của Đức Giêsu, mà những người chữa bệnh Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn tật biết rằng anh rất có thể được chữa lành.
– nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi: Sử gia Pliniô kể rằng hoàng đế Vespasianô đã chữa một người mù bằng nước miếng (Hist. nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này, cũng như những bài Mc 8,23 và Ga 9,6, là những dịp trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng nước miếng. Chúng ta không được biết chắc chắn nước miếng được sử dụng như thế nào. Có những thủ bản cho rằng nước miếng được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng như một cử chỉ tượng trưng; trong khi có những dị bản nói là cả ở trên tai nữa. Bản văn là “nhổ và chạm lưỡi anh”, và Zerwich & Grosvenor giải thích: “bằng nước miếng”. Mann cho rằng các hành vi này chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.
– Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng (34): Những cử chỉ này diễn tả Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương người tàn tật. Không nên coi các cử chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma thuật.
– Ép-pha-tha: Câu “Hãy mở ra” là lời dịch nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động từ phatah là “mở ra”.
– tai mở ra, lưỡi hết bị buộc (35): Đây là chi tiết văn chương nhằm nói rằng Đức Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh; chân tính Người là khác, và người ta chỉ biết được rõ ràng chân tính của Người khi theo Người đến chân thập giá và đến cuộc Phục Sinh.
– ông làm cho kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được (37): Nhận định này của đám đông nhắc tới Isaia 35,5-6, mà đoạn văn Isaia này là một phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang của Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu Ước này được sử dụng ở đây, điều này chứng tỏ rằng tương lai vinh quang của Israel đã hiện diện trong sứ vụ của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (31)
Có lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung cấp một cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết rằng Xiđôn đã được nói đến ở 3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối bản văn với phần đi trước. Các chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các miền đất ngoại giáo chung quanh Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin Mừng sang đất Dân ngoại.
* Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.
* Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng của dân chúng (36-37)
Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).
+ Kết luận
Đọc lướt qua, chúng ta thấy đây là một bài tường thuật về một phép lạ chữa bệnh về thể lý. Thật ra, bài này, cùng với các bài tường thuật về việc chữa người mù (8,22tt; 10,46tt) là một lời cam kết rằng Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở mắt cho các môn đệ, và là một lời mời gọi các ông tin tưởng vào Người, và để Người giúp các ông. Hãy nhìn nhận sự giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta. Cũng hãy cố gắng đón nhận sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho chúng ta, trên nẻo đường Người đang mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những ngờ vực và những nỗi sợ hãi, mà tiến về vinh quang của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
- Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải có tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu ngại ngùng vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể gặp về mọi phương diện, các ông sẽ không đi xa được, và sẽ phản bội bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng là ánh sáng cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi người qua trung gian của các ông.
- Các môn đệ đã không hiểu bản thân và sứ mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện Đức Giêsu đã mở tai của người điếc cho hiểu rằng Người có thể ban sự hiểu biết cần thiết để người ta sống đức tin. Và chính các môn đệ cũng cần được Người mở tai cho, hầu nghe được và hiểu được những giáo huấn của Đức Giêsu, và nghe ra tiếng kêu la của những con người khốn khổ hôm nay.
- Theo thánh Bêđa (PL 92,203t), người Kitô hữu nào không lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ nào không truyền đạt lời tuyên xưng đức tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan của Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh điếc, tượng trưng ân huệ Thánh Thần (x. Lc 11,20).
- Giai thoại Đức Giêsu chữa người vừa điếc vừa ngọng này có thể được coi như một dụ ngôn nói về biết bao hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh ngặt nghèo khiến chúng ta ở xa rất nhiều “điều”, nhưng đồng thời lại cho chúng ta gặp được Chúa tể sự sống. Khi đó, đã được tháo cởi tai và miệng, chúng ta có thể nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt cả”, với sự kinh ngạc thấm đẫm tâm tình biết ơn.
- Khi Đức Giêsu nói “hãy mở ra”, tai anh ta mở ra lập tức và “anh ta nói được rõ ràng”. Đức Giêsu nói ra và điều ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng nói Lời Người trên chúng ta, “Hãy mở ra!”. Với đôi tai đã được mở ra, chúng ta không những lãnh nhận lời Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra để đón lấy nữa. Nghe Lời Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
“Hãy mở ra!”. Những lời này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những lời đó cũng mở ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng ngày, trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo. Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một người trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong những biến cố nhỏ bé, thậm chí không đáng kể thuộc đời sống hằng ngày? (Siciliano)
(Chú giải của Noel Quesson)
Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Việc mô tả những cuộc hành trình (hơn 100 cây số) không phải là ngây ngô đâu? Chúng ta thử đặt mình vào địa vị Đức Giêsu một chút. Sau khi biến bánh ra nhiều (Mc 6,31-44). Sau bài giảng thất bại về “Bánh hằng sống” (Ga 6,66), Đức Giêsu bị đám dân chúng bỏ rơi hoàn toàn. Người rời xứ Galilê và đi ra “nước ngoài” nơi người ngoại đạo ở xứ Phênixi (Mc 7,24-26) bên kia biên giới phía Bắc xứ Palettin. Tia và Xi-đon ngày nay vẫn là hai thành phố lớn của xứ Libăng. Rời xứ này, Đức Giêsu không trở về Galilê, Người đi rẽ về phía Đông Biển Hồ, vượt qua các đồi cao Gôlăng xứ Xyria và đi về phía miền “Thập Tỉnh”, bên kia sông Giođan, trong phần đầu của sa mạc từ I-rắc tới I-ran, mà ngày nay có những ống dẫn dầu từ vịnh Ba Tư chạy ngang qua. Đức Giêsu, con người thông minh, đã thích nghi với hoàn cảnh. Người biết rằng, với những đám đông chỉ có mất thời giờ? Vậy từ bây giờ trở đi, Người sẽ lo đào tạo một nhóm môn đệ nhỏ. Và để thực hiện công cuộc đó, cần phải vượt qua ranh giới Do Thái, mới dễ cảm thấy thoải mái hơn.
Chúng ta cố hình dung ra Đức Giêsu, dừng lại ở mỗi đoạn đường, ở ngoài trời, luôn có khoảng hai mười người vây quanh mười hai người nam và vài người nữ để nấu ăn quanh bếp lửa, họ kể lại những biến cố trong ngày.
Ngày nay, những khối Người, trong mọi biên giới, đã trở nên ngoại đạo. Thái độ của Đức Giêsu thật có ý nghĩa. Người làm gì khi Người sống giữa dân ngoại?
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Danh tiếng Đức Giêsu, con người hay làm phép lạ, đã lan rộng ra ngoài biên giới nước Palettin. Có một người đàn bà gốc Phêmxi, xứ Xirya đã đến mấy ngày trước, để xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Bây giờ lại một người câm điếc. Người ta có thể nói rằng, người ngoại đạo có lòng mở rộng đối với Chúa hơn là người Do Thái. Vậy họ đã có tai để nghe, trong khi những đám đông ở Galilê lại “điếc đối với lời của Người? Người ngoại đạo sẽ được ngồi vào bàn tiệc của Thiên Chúa, để đón nhận Bánh Hằng Sống, trong khi đại đa số dân Israel đã từ chối?
Chúng ta chớ quên rằng, Maccô viết Tin Mừng cho những cộng đoàn Kitô hữu từ’ dân ngoại quốc thuộc HyLạp – La Mã trở lại. Ong là thư ký của Phêrô. Chúng ta hiểu tại sao ông lại muốn làm cho nổi bật sự kiện Chúa đã mở rộng sứ vụ của Người cho dân ngoại. Như trong Tin Mừng Chúa nhật trước về vấn đề “Sạch và Nhơ”, chúng ta gặp lại ý hướng phổ quát của Đức Giêsu: Người không tự đóng khung trong nền văn hóa riêng biệt của Israel. Người mở rộng cửa: Giáo Hội của Người phải là Công giáo nghĩa là “đa dạng” “mở rộng” “phổ quát”. Chúng ta có thực sống như vậy không? Chúng ta không thường giữ những đặc thù thích đề cao chủng tộc của mình sao? Chúng ta không xét đoán quá cứng rắn những người có sở thích văn hóa, những cách cầu nguyện khác chúng ta sao? Trong bàn tiệc chúng ta có những một ít chỗ cho người ngoại quốc không?
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên là có ý nghĩa, chứ không phải tình cờ. Thiên Chúa nói với chúng ta những cử chỉ đó. Chúng ta cũng điếc chăng? Những chi tiết này nói lên không gì?
Đức Giêsu dẫn người khuyết tật xa khỏi đám đông. Khi làm như vậy, Chúa đã tỏ ra khác hẳn những người làm phép lạ khác, những nhà ảo thuật Hy Lạp, luôn tìm sự phi thường. Còn Đức Giêsu, một “Thiên Chúa ẩn kín” lại trốn tránh những cái nhìn soi mói, bắt đầu sợ những đám đông ham muốn phép lạ. Người lánh ẩn như để nói với chúng ta rằng, Người sắp làm một biến cố siêu việt. Sự tránh hoạt động của Thiên Chúa là mầu nhiệm cuối cùng. Người sẽ cố gắng vô ích để xin “người ta giữ bí mật”.
Đức Giêsu làm những cử chỉ trên thân xác, hầu như gây khó chịu đối với những tâm trí chúng ta, được coi là duy linh. Ngày nay người ta có khuynh hướng xóa bỏ hình ảnh này của Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nghĩ gì nếu có một phim ghi lại cách tự nhiên và chiếu cho chúng ta xem lại cảnh này một cách thực tế? Người dịch một lần nữa đã nghĩ nên kể lại nhẹ nhàng hơn bản văn Hy Lạp của Maccô, mà nếu dịch từng chữ, sẽ kể như sau: “Đức Giêsu thọc ngón tay mình vào tai người điếc, và sau khi đã nhổ nước miếng, Người sờ vào lưỡi người câm, và sau khi nhìn lên trời, Người thở dài”.
Vâng, những bí tích, những dấu chỉ của Đức Giêsu đều là những cử chỉ “thuộc thân xác”. Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta “từ xa” một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định “tiếp xúc” với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người đã nhập thể. Nếu chúng ta cho là điều xỉ nhục để đưa tay ra “đụng chạm” đến Mình Thánh Đức Giêsu, thì chính là vì chúng ta đã mất ý thức về phẩm giá của “Thân xác”, là dụng cụ tuyệt vời để liên lạc và yêu thương. Trong Nhiệm Cục Nhập Thể (Economie de l’incarnation) ân sủng thiêng thánh nhất, vô hình nhất phải qua những cử chỉ tầm thường “cụ thể” là những bí tích của Đức Giêsu. Người câm điếc lúc bấy giờ chắc không bị phân tâm trước những thuyết coi thường thể xác của chúng ta, và anh ta cảm thấy những cử chỉ tiếp xúc đơn giản và tự nhiên của Đức Giêsu như mạc khải sự trìu mến của Người: Ngón tay của Chúa trong lỗ tai bị bịt kín của anh, nước miếng của Người trên lưỡi bị thắt buộc của anh.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thể của Chúa, xin chữa lành tâm hồn con người ngày nay. Các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, đối với giáo dân gần thiên nhiên hơn chúng ta, đã khuyên các Kitô hữu lúc bấy giờ rước lễ dưới hai hình thức, lấy rượu đã truyền phép mà môi miệng họ vừa hiệp thông nơi Chén Thánh, để bôi lên mắt và tai của mình, nhằm thánh hóa những cơ quan này? Bây giờ không cần phải trở lại những tục lệ của các thế kỷ đầu tiên, nhưng ít nhất chúng ta chớ làm nhẹ đi cử chỉ rước Mình Thánh Chúa. Chúng ta hãy nhận “lấy” và “ăn” theo như Chúa đã nói. Điều đó rất thích hợp với bản chất con người của chúng ta, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói.
Cử chỉ này cho ta thấy rằng, quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện không phải là một sự can thiệp y khoa bình thường. Còn về lời than thở của Đức Giêsu không những chỉ hiểu rang đó là xách biểu lộ lòng trắc ẩn đối với người bệnh, mà còn là một chuyển động nơi toàn thân Đức Giêsu đang xúc động mãnh liệt để kêu cầu Thiên Chúa, khi nhận thấy một “nỗ lực”, một “nhiệm vụ khó khăn”, một đối kháng rất ghê gớm cần phải vượt thắng. Đức Giêsu thực sự đang “làm lại” công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Con nói bị hư hỏng sắp tìm lại được vẻ huy hoàng nguyên thủy của mình.
Ép-pha-tha, nghĩa là: hãy mở ra!
Lời nói của Đức Giêsu được Maccô ghi lại bằng tiếng Hy Lạp, nhưng đúng ra được phát biểu bằng tiếng Aramên, là tiếng nói của Đức Giêsu. Chúng hãy nghĩ rằng, đối với những độc giả của mình không hiểu tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, Máccô phải dịch nghĩa chữ “Effata”!
Chúng ta cũng lưu ý thêm, Đức Giêsu không nói với những cơ quan bị tật nguyền mà nói với chính người bệnh: “Hãy mở ra” hay đúng hơn “hãy mở trở lại”.
Nghi thức Effata này, xưa kia được thực hiện trong khi rửa tội. Vị linh mục sờ vào tai và xức nước miếng mình lên một đứa bé hay người lớn.
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Khi dùng nghi thức này để rửa tội, Giáo Hội đã sớm hiểu phép lạ này trên bình diện tượng trưng? “Con người có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”. Đui, điếc và câm: Đó là thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, Thánh Maccô sẽ lặp lại nhiều lần trong cùng một bối cảnh rằng, chính những môn đệ của Đức Giêsu cũng là những người điếc và câm, những người không hiểu gì (Mc 8,18; 8,52; 7,18).
Qua phép Rửa, chính Đức Giêsu đích thân hành động. Người gặp một người tự nhốt kín mình, không thể thiên lạc được và chữa trị toàn diện: Chúa đã làm cho người này có thể nghe và hiểu Lời Chúa. Chúa cũng ban cho họ quyền thông truyền lời đó cho kẻ khác. Đó là vấn đề Đức tin. Tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, đó là sự tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt: Con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa. Con người phải được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm Nước Trời.
Biết bao Kitô hữu hiện nay vẫn còn “đóng kín”, mắc kẹt trong thế giới tập quán, trong sự hiểu biết hạn hẹp những truyền thống nhỏ nhoi của họ. Chúng ta có thuộc vào số những người đi nhà thờ mà không hề biết mở miệng để đáp lại chủ tế hay để hát xướng không? Chúng ta có phải là những người mà trong cuộc sống hàng ngày, không bao giờ dám nói về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, về Tin Mừng không?
Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”
Những lời ca tụng trên nhắc lại trình thuật đầu tiên về cuộc sáng tạo: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Người đã làm đều tốt đẹp” (St 1,30). Nhờ Đức Giêsu, một sáng tạo mới đang xuất hiện, một con người mới được tái tạo… một con người hiệp thông, một người biết lắng nghe và đáp lại. Lắng nghe Thiên Chúa. Nói với Thiên Chúa. Lắng nghe anh em. Nói với anh em.
Lạy Chúa, Chúa là Chủ sự sống, và mọi công trình của Chúa, thật đáng ca ngợi biết bao!
(Chú giải của Fiches Dominicales)
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Tại vùng đất dân ngoại
Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về “sạch, và “ô uế”, Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7, 24-30: Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli): nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này; ở phía Đông sông Giócđanô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của ngài mới có: “Người ta đem một ngài vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh”.
- Người câm điếc được chữa lành cách lạ lùng
Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chửa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc: “Xa khỏi đám đông”. Ngài: “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bétsaiđa trong Máccô 8,23 và chữa người mù từ mới sinh trong Ga 9, 6.
- Potin xác nhận: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Đức Giêsu Lịch sử đích thực), Centurion, tr.172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời cánh tân phụng vụ, trong lễ nghi rửa tội, có cử chỉ vùa lấy nước miếng xức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu?
- Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.
- Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền n lực sự dữ.
Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng Araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin mừng bằng tiếng Hy lạp, đó là ‘Eftata’, nghĩa là ‘hãy mở ra’.
Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng; và như trong như người câm trong chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
- Dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai
Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được.”
Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng thế: “Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp”, (Sáng thế 1,31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của Chúa nhật thứ 23 này: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra và miệng người câm sẽ reo hô mừng rỡ”. Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.
- Loan báo sự chữa lành thiêng liêng
Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bétsaiđa trong 8,22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm: “Hãy mở ra” nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: “Thầy là Đấng Thiên Sai” (3,29).
Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong “đoạn về bánh trường sinh” là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được”. Là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đúc tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (Xem J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107)
BÀI ĐỌC THÊM
- “ Hãy mở ra!” H. Vulliez, “Thiên Chúa rất gần. Năm B”
“Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê ly trong một thế giới hư ảo?
Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai: hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai.
Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, thì một người mù sẽ mở ra và tai người nghe được”. Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. “Mọi sự Ngài làm đều mới lạ… và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi”.
- Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi Người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ chủng tộc và văn hóa, mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ vì giải thích một chiều; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm “việc nhân đạo” bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người “thấp cổ bé miệng” trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn là những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác.
- Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của tính tình và chính trị; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau.
- Thời kỳ Đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mùng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.
- Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể! (N. Quesson, trong “Những cuộc đàm đạo ngày Chúa nhật. Năm B, Droguet ét Ardent, tr. 187-188)
“Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào? Các giáo phụ trả lời: “Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu”. Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ: “Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng” toàn bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng “rất người”. Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói: bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể!
Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể: một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu, là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống với Thiên Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên: con-người khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở!
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHỮA LÀNH MỘT NGUỜI NGỌNG ĐIẾC
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Điểm cần lưu ý trước tiên, đó là Chúa Giêsu đang ở trên đất lương dân, và đang chữa lành cho một người không phải là Do thái. Người không phân biệt đối xử. Điều quan trọng đối với Người là niềm tin. Và bước đầu của niềm tin là nhận biết mình bất lực, mình đang đau yếu, cần sự giúp đỡ của một đấng cao siêu hơn, quyền năng hơn.
- “Người làm mọi sự cách hoàn hảo” (Mc 7,37). Hình như dân chúng đã khám phá ra sự liên hệ giữa phép lạ và tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, bởi vì việc cho kẻ câm được nói, kẻ điếc được nghe đúng là những công việc của Đấng Messia mà Isaia đã tiên báo (bài đọc 1). Một điều đáng ngạc nhiên: dân chúng ít học thì trực giác bén nhạy, trái lại các thượng tế, các thầy thông luật lại không nhận ra, dù họ nghiền ngẫm Thánh Kinh mỗi ngày (x. Ga 5,39). Chỉ có những tâm hồn cởi mở, đơn sơ, khiêm tốn như Maria mới có thể thốt lên: “Chúa đã làm cho tôi những việc kỳ diệu” (Lc 1,49). Tham dự Thánh lễ là cất tiếng ca tụng và tri ân Thiên Chúa.
- “Epphata”: Ngay từ khi lãnh bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được mở tai để nghe Lời Chúa, được mở miệng để tuyên xưng đức tin và cất lời ca tụng ngợi khen Chúa. Tuy nhiên căn bệnh câm điếc thiêng liêng luôn rình rập, đe dọa mọi người, như Chúa Giêsu đã từng khiển trách các sứ đồ “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe” (Mc 8,18; x. Ed 12,2) Cũng như đã trách cứ Biệt phái. Bởi đó cần tránh mọi thái độ kiêu căng tự phụ, mọi thiên kiến lệch lạc, mọi tham lam dục vọng v.v.. là những nhân tố biến ta thành những kẻ “điếc lác, trước tiếng lương tâm và che mắt tâm hồn ta không nhìn thấy được Chúa.
- Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến mối liên lạc cá nhân mà Chúa Giêsu tạo ra giữa Người với các bệnh nhân Người chữa trị. Lối Người hành động không có tính cách xa xôi, vô danh, tổng quát. Đối với Người, con người là một nhân vị đặc biệt, độc nhất không thể thay thế. Một trong những yếu tố căn bản của mầu nhiệm Tin Mừng là sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho con người và mầu nhiệm ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Một đàng, Thiên Chúa làm việc để cả nhân loại trở nên một dân tộc, dân của Ngài, một đàng, Ngài biết tên của mọi người trong dân ấy. Trong Tin Mừng, người Mục tử biết tên mỗi con trong đoàn chiên mình. Chúa Giêsu, đối với mỗi một người, có một cái nhìn độc nhất, một lời nói riêng biệt. Một tình yêu cá nhân. Mọi người trên đời này đều đã, đang hoặc phải khám phá ra rằng Chúa Giêsu xem mình như một con người và cư xử với mình như một nhân vị Thiên Chúa nâng con người tầm thường lên một ngôi vị.
(Chú giải của William Barclay)
CHỮA LÀNH MỘT NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Để tiếp tục cuộc du hành rao giảng, Chúa Giêsu đã chuyển hướng đi. Ngài băng từ mạn tây hồ Tibêria (Tia, Siđon tức vùng Liban hiện nay) sang mạn đông tức vùng Thập Tỉnh (xứ Giođan) (c. 31). Ngài rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mệnh của mình. Vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại, giờ đây Ngài lại ban phát hồng ân cho một người dân ngoại khác (c. 32). Maccô là tác giả duy nhất trong bốn tác giả Phúc Âm tường thuật lại việc chữa lành người câm điếc này. Tuy nhiên trình thuật này chứa đựng một khía cạnh khá lạ cần phải làm sáng tỏ. Người ta xin Chúa Giêsu đặt tay lên người bệnh để chúc lành nhưng Chúa Giêsu lại không làm thế; Ngài kéo người bệnh riêng ra và bắt đầu chạm đến các cơ quan cần được chữa lành. Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai và bôi nước bọt vào lưỡi người bệnh (c. 33). Với quan niệm vệ sinh hiện nay thì cử chỉ này xem ra làm chúng ta khó chịu. Tuy nhiên chẳng qua là Chúa Giêsu vay mượn một số thói quen y học của thời Ngài: đó là chạm tay vào cơ quan hư hỏng đồng thời sử dụng nước bọt, thứ nước được xem như nguồn sống kề cận với lời nói của con người để bôi vào lưỡi. Thái độ cầu nguyện tiếng Ngài thở dài (biểu thị phải làm một việc khó khăn) và lời Ngài thốt ra bằng tiếng Aram: “Hãy mở ra”, là những chi tiết lịch sử quý báu của lần chữa bệnh này (c. 34). Đang ở giữa vùng lãnh thổ dân ngoại nên Chúa Giêsu đã thích ứng với lối chữa bệnh của môi trường và thời buổi lúc đó. Loại chữa bệnh này được tìm thấy đầy dẫy trong các trình thuật về phép lạ nơi vùng đất dân ngoại thời đó nên nó chẳng làm ngỡ ngàng các độc giả đầu tiên của Phúc Âm Maccô là những người hiểu biết các tập tục của những người đương thời với họ. Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu lập tức phát sinh hiệu quả (c. 35). Bệnh nhân câm điếc bắt đầu nghe và nói dễ dàng. Lẽ ra sau khi đạt được mục đích, trình thuật có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên lần nữa tác giả lại đề cập đến bí mật Đấng Mêsia (c. 36a). như trước kia Chúa Giêsu đã truyền cho người phung cùi (1,44) và gia đình cô bé bị bệnh chết (5,43) phải giữ kín thì lần này Ngài cũng truyền cho thân nhân người bệnh không được tiết lộ với ai. Trong tất cả các trường hợp này, Đấng Mêsia đã biểu lộ quyền năng Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh Mêsia trước hạn định, bởi vì người ta có thể lẫn lộn về tư cách “Mêsia” của Ngài, tước hiệu và Ngài chỉ nhận được một cách thoả đáng, đầy ý thức qua miệng lưỡi Phêrô tuyên xưng nhân danh các môn đệ (8,30). Và tước hiệu ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy vậy, ngay lúc này đây, Maccô lại cho thấy rõ là lệnh Chúa Giêsu truyền giữ im lặng đã bị người ta cố tình vi phạm (c. 36b). sở dĩ như thế là vì trong khi Maccô ghi laị trình thuật này, Tin Mừng Chúa Kitô Cứu Thế đã loan ra đến tận các vùng dân ngoại, đến tận cả Rôma! Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao vì Tin Mừng ấy đã được “công bố” ở giữa lòng thế giới. Cuối cùng, chúng ta thấy Maccô còn muốn trình bày ở đây đám quần chúng dân ngoại của Chúa Giêsu phải ứng bằng một lời tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt (c. 37). Người ta dùng những lời của tiên tri Isaia để chúc tụng Chúa Giêsu (Is 35,5- 6): “Ngài làm kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được”.
Đó là đích điểm của trình thuật được Maccô chủ ý dàn xếp. Trong “Chương nói về bánh” (từ 6,30) Maccô không bỏ qua chủ đề chính liên quan tới sự chậm hiểu của những kẻ theo Chúa Giêsu, tức các môn đệ Ngài. Các tông đồ vẫn không nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ Thầy họ thực hiện. Ở đây, họ chẳng được Maccô nêu tên: họ có vẻ như bị “vắng mặt” đang khi thực ra họ vẫn ở bên cạnh Chúa Giêsu trong sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại (x. 8,1 và tiếp theo). Như thế, người ta có quyền nghĩ rằng đoạn Phúc Âm trên đây trực tiếp nhằm vào họ. Họ là những kẻ vẫn khăng khăng câm điếc trước sứ điệp của Thầy mình mặc dù chính họ là những kẻ đầu tiên nhận được lời kêu gọi mạnh bạo của Ngài: “Hãy mở ra!” (c. 34b).
Chúa Giêsu thực sự mời gọi bạn hữu Ngài – kể cả Maccô cũng như các độc giả của ông- mở lòng đón nhận Tin Mừng và hành động của Đấng Cứu Thế đồng thời can đảm đem “công bố” lời giảng và hành động ấy cho thế gian.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Thường người ta coi sự vật mà họ có là ngẫu nhiên và không đánh giá được sự vật họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Chẳng thế mà cổ nhân mới nói: Có hay đau mắt mới thương người mù. Về khả năng nói và nghe, người ta cũng coi là ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu đặt mình vào địa vị người điếc và ngọng trong Phúc âm hôm nay, người ta mới đánh giá được cơ quan nói và nghe. Người ngọng và điếc phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Đức Giêsu đặt tay chữa anh ta. Phúc âm ghi lại Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở hơi và bảo: “Ephata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 34-35).
Việc Chúa Giêsu làm trong Phúc âm hôm nay là việc hoàn thành lời ngôn sứ Isaia tiên báo là Đấng Thiên sai sẽ đến làm cho người điếc được nghe (Is 35:5) và người câm được nói (Is 35:6). Hai việc này cũng được dân chúng trong Phúc âm hôm nay chứng kiến khi họ nói: Ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được (Mc 7:37).
Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe và nghe người khác nói. Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt tin tức, nói sự thật và sự thiện hảo, chứ không phải nói lừa dối và nói lời ghen ghét. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để nghe và khuyến khích người khác nghe nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Khi vào toà cáo giải, ta có thể xưng tội nói hành nói xấu người khác, nhưng có bao giờ ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu không?
Việc người ta xin Đức Giêsu chữa người điếc và ngọng bao hàm lòng tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa. Và việc Chúa chữa người ngọng và điếc xẩy ra trong lãnh thổ dân ngoại của miền Thập tỉnh. Điều đó chỉ cho thấy Chúa Giêsu cũng để ý đến dân ngoại và thương xót họ. Việc Chúa chữa người điếc và ngọng còn ám chỉ mục đích gì khác nữa chứ không phải chỉ để người đó có thể nghe và nói chuyện giữa loài người với nhau thôi. Miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để nghe và loan truyền lời Chúa nữa. Đó là việc mà người điếc và ngọng được chữa khỏi và bạn hữu anh ta đã làm. Họ loan truyền với nhau: Ông ấy làm việc gì cũng tốt cả (Mc 7:37).
Khi lãnh nhận phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay: Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Thánh kinh. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại. Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.
Tóm lại mục đích của việc tạo dựng miệng lưỡi và lỗ tai là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa cho ta lỗ tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngượi khen Chúa.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn: biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh và trong bài giảng, và cả trong thánh ca và thánh nhạc.. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Nghe lời Chúa rồi ta cầu xin cho được biết đáp trả bằng cách loan truyền lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đức tin.
Trong bài giảng lễ Chúa nhật, có linh mục kia hỏi cử toạ xem có ai nhớ tuần trước linh mục giảng về điều gì không? Cử toạ yên lặng một lúc. Cuối cùng một thanh niên có vẻ bụi đời, giơ tay phát biểu:
– Dạ thưa Cha, con nhớ rồi.
– Sao Anh nhớ thế nào? Linh mục hỏi.
– Thưa Cha, con nhớ Cha giảng thế này: Đó… đó… đó là lời Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết nghe và loan truyền lời Chúa:
Lạy Thiên Chúa toàn năng!
Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con
miệng lưỡi và lỗi tai để thông đạt với loài người
và thông đạt với Chúa.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,
biết tìm phương tiện và cách thế,
giúp người điếc và ngọng được thông đạt
với nhau và với Chúa theo cách thế của họ. Amen.
(Giải thích và suy niệm của Nguyễn Ngọc Thế SJ)
ĐỨC GIÊSU CHỮA NGƯỜI VỪA ĐIẾC VỪA NGỌNG
Vài hàng sơ lược
– Với câu mở đầu (31), Máccô nối kết câu chuyện này với câu chuyện trước, nghĩa là với chuyến đi rao giảng ở ngoài Israel của Giêsu. Sau khi rời Tia, giờ đây Giêsu lại đến một miền đất khác. Đó là miền đất Thập Tỉnh, một miền đất của dân ngoại. Với Mác-cô quan trọng là Giêsu đi khắp miền dân ngoại để rao giảng Tin Mừng. Miền thập tỉnh – Deka,polij (dekapolis), là một liên hiệp của các thành phố trong miền đông Gio-đan. Trong miền thập tỉnh này, chiếm phần lớn là dân Hy-lạp và Sy-ri. Miền này không thuộc về sự cai quản của Hê-rô-đê. Tổng trấn La-mã là người có quyền ở đây và miền này có những ưu tiên riêng biệt. Dân Do-thái là thiểu số trong miền này, và thuộc về tầng lớp thấp hèn. (ss. G. Schille – Horst Balz / Gerhard Schneider (Hrsg.), Band I, s.681-682)
– Câu chuyện chữa bệnh này thuộc về những câu chuyện Giêsu làm phép lạ. Và nó chỉ ra nhiều điểm liên quan đến y học dân gian và cách thức làm phép lạ thời đó: Đụng vào chỗ đau, sử dụng nước miếng, hướng nhìn lên trời để ‘kéo’ sức mạnh có sức chữa lành xuống, rên lên là công thức bí mật trong khi chữa bệnh. Trong thực tế, Giêsu đã hòa nhập và thích ứng với xã hội thời đó.
– Theo Helmut Meklein, so với Mác-cô, Mát-thêu 15, 29-31 kể lại rằng, sau khi rời Tia, Giêsu đi đến ven Biển Hồ Ga-li-lê ngay. Ở đó Ngài chữa kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Sau sự kiện chữa lành này, Mát-thêu đã kể lại phép lạ hoá bánh ra nhiều lần thứ hai cho bốn ngàn người ăn. (Mt 15, 32-39).
Suy niệm
– Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.
Trong mỗi phép lạ, Mác-cô đều nêu bật rõ hai phần, phần người làm phép lạ xuất hiện, và phần người cần được giúp đỡ đến. Thêm vào đó, Mác-cô nêu rõ bối cảnh của phép lạ. Như phép lạ Ngài chữa người bị quỷ ám trong Mc 1, 21: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um.” Hay phép lạ khác cũng liên quan đến người bị quỷ ám trong vùng của người Ghê-sa-ra: “Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa” (Mc 5, 1). Ngoài ra, có thể coi thêm ở Mc 1, 29; 2, 1-3; 7,24tt và 8,22.
Còn ở đoạn phúc âm này, khung cảnh của phép lạ Giêsu sắp làm cũng được nhắc đến: “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Tuy nhiên, theo R.Pesch thì khi diễn đạt bối cảnh như vậy, Mác-cô không có ý nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của nơi phép lạ xảy ra, mà Mác-cô muốn diễn đạt một chương trình truyền giáo. Vâng, Đấng làm mọi sự tốt đẹp cần được loan báo không chỉ nơi miền đất đầy ánh sáng, mà còn cần phải được loan truyền tại miền đất của dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh.
Theo Meinrad Limbeck, thì đối với Giêsu miền đất dân ngoại không phải là miền đất ô uế. Và ngoài những người ở mảnh đất Israel còn có nhiều người cần đến sự giúp đỡ và cứu thoát của Giêsu.
– Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Một người vừa điếc vừa ngọng – một người bị giới hại rất nhiều trong tương quan với người khác. Thật là khó khăn anh ta mới có thể hiểu được người khác, và ngược lại cũng thế. Chẳng dễ dàng gì để người vừa điếc vừa ngọng có thể hiểu điều mình muốn diễn đạt. Vì vậy, mà cánh cửa mở ra với thể giới bên ngoài, đến với người khác, rất hẹp hay đôi khi bị đóng lại đối với những người điếc và và ngọng. Có thể nói rằng, một bức tường ngăn cách đang đứng trơ trơ ở đó. Cái thê thảm nằm ở chỗ là, bây giờ không chỉ người điếc không nghe được những âm thanh ở bên ngoài, mà anh ta chỉ có thể nghe chính mình mà thôi. Một thế giới như bị đóng kín. Một cuộc đời như bị khóa kỹ vào trong căn phòng đóng chặt tất cả cửa sổ, và bị cách âm hoàn toàn. Chúng ta thử mường tượng, trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ còn nói chuyện với chính mình, chúng ta chẳng còn nghe thấy gì cả và cũng chẳng được người khác lắng nghe. Thật thê thảm. Nếu cứ như vậy thì một lúc nào đó tất cả sẽ bị “xé rách” ra hết. Cả tâm hồn, cả cuộc sống, cả những gì thật là cao quý có thể đều bị “xé nát”. Một cuộc sống thật buồn, vì cuộc sống đó bị cô lập, bị tách ra khỏi lòng xã hội.
Hình ảnh này cũng có thể liên hệ đến chính chúng ta. Vâng, chúng ta hãy để Đức Thánh Cha Biển Đức chia sẻ về điều này: “Các giáo phụ nói về đề tài con người và nói cho con người của thời đại các ngài. Nhưng điều mà các ngài nói, cũng có liên hệ một cách mới mẻ cả với chúng ta, những con người thời hiện đại. Không những có sự điếc tai của thân thể làm cho con người gần như hoàn toàn bị tách ra khỏi sinh họat xã hội. Còn có một sự giảm yếu trong sự lắng nghe đối với Thiên Chúa, mà chúng ta đang gặp phải, nhất là trong thời đại chúng ta. Chúng ta không thể cảm thấy Thiên Chúa được nữa; có quá nhiều làn sóng khác nhau chiếm cứ đôi tai chúng ta. Điều được nói về Thiên Chúa, xem ra như là điều “tiền khoa học” đối với chúng ta, xem ra như không còn thích hợp với thời đại chúng ta nữa. Với sự giảm yếu sự lắng nghe, hoặc nói cách khác, với sự điếc tai tinh thần đối với Thiên Chúa, thì cũng bị mất đi khả năng chúng ta nói cùng với Ngài hoặc nói với Ngài. Như thế, chúng ta bị thiếu đi một nhận thức quyết định. Những giác quan nội tâm chúng ta gặp nguy hiểm bị mai một đi. Với sự thiếu mất sự nhận thức này, thì tầm mức của tương quan chúng ta với thực tại cũng bị bao vây một cách mãnh liệt và đầy nguy hiểm. Chân trời của đời sống chúng ta bị thu hẹp một cách đáng ngại.” (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
Vâng, thật đáng ngại biết bao, khi cuộc sống của chúng ta bị giới hạn trong thế giới nhỏ bé của chính mình, trong thế giới bao la nhưng thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng đi khả năng lắng nghe Lời Ngài, và vì thế mà tình yêu của Chúa cũng bị để ngoài tai. Vì vậy, lúc này những đôi tai như bị điếc hay bị điếc thật và những đôi môi như bị ngọng hay bị ngọng thật, cần được dẫn tới với Giêsu. Chính Ngài sẽ ra tay chữa lành, chính Ngài sẽ đến để cứu chữa. Ở đây, chúng ta nghe tiên tri I-sa-ia đã loan truyền: “Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35, 4)
Như vậy, người ta đưa anh điếc và ngọng đến với Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Thái độ đặt tay là thái độ mà Giêsu đôi khi làm để chữa bệnh, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc 5, 23) Ngoài ra, cũng có nhiều đoạn khác nhắc đến việc chữa bệnh của Giêsu qua việc đặt tay, hay dùng tay để đụng tới người bệnh: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1, 40-41) Hay trong trường hợp của người mẹ vợ ông Phêrô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31) Vâng, đôi bàn tay nhân từ yêu thương, bàn tay của Giêsu là đôi bàn tay chữa bệnh, nâng dậy, và dẫn về với con đường của sự sống. Về đôi bàn tay nhân ái này, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nói như sau: “Người giơ tay nắm chúng ta trong các bí tích, Người chữa lành chúng ta khỏi bịnh hoạn của những đam mê và tội lỗi nhờ sự xá giải trong bí tích hoà giải. Người ban cho chúng ta khả năng trỗi dậy để đứng trước Thiên Chúa và trước những người nam và nữ.” (Bài giảng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican)
– Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra!
Không như những thầy thuốc bình thường, sẽ đưa người bệnh đến trước đám đông để chữa, vì qua đó họ muốn được người ta nhìn thấy, trầm trồ thán phúc khen ngợi và công nhận. Giêsu chẳng cần lời khen, và cũng không muốn ai thán phục, nên Ngài đã kéo riêng người bệnh tách khỏi đám đông, tách khỏi đám người tò mò, đám người hay dòm ngó, phê bình. Một cách nào đó, đôi khi Giêsu cũng không muốn đám đông quấy rầy, khi Ngài làm phép lạ, như trường hợp chữa cho con gái ông Gia-ia: “Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 40-41)
Sau khi tách người bệnh ra, và một mình với anh ta Giêsu đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.
Hành động đầu tiên là đặt ngón tay vào lỗ tai. Theo R. Pesch thì sức mạnh có sức chữa lành không chỉ toát ra từ đôi tay, mà còn từ ngón tay nữa. Chính ngón tay của Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi quyền lực của Pha-ra-ô. Vâng, qua cây gậy của A-a-ron, các phù thủy đã nhận ra ngón tay của Thiên Chúa: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập…. Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: “Đó là ngón tay của Thiên Chúa! “ Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.” (Xh 8, 12 và 15) Và cũng với chính ngón tay của Thiên Chúa, Giêsu đã trừ quỷ, đã đuổi thần dữ ra khỏi cuộc đời: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11, 20)
Hành động thứ hai Giêsu làm cũng liên quan đến ngón tay. Vâng, Ngài đã dùng tay bôi nước miếng vào lưỡi anh ngọng. Theo R. Pesch , người ta có thể mường tượng rằng, Giêsu nhổ nước miếng trên tay của mình và sau đó mới bôi cho người bệnh.
Nước miếng là một chất để chữa bệnh. Vâng, tôi vẫn còn nhớ hồi nhỏ Mẹ tôi cũng đã từng dùng nước miếng mình để bôi lên vết xước da chảy máu sau những lần nghịch ngợm. Theo R. Pesch, thì kế bên Nước, Máu, Rượu và Dầu thì nước Miếng cũng thuộc về những chất lỏng có thể dùng để chữa bệnh. Nước miếng cũng có chất nhờn như dầu, và từ cơ thể con người nên cũng có “họ hàng” với máu. Như thời cổ đại Hy-lạp và La-mã, Do-thái giáo cũng coi nước miếng như là chất dùng đặc biệt để chữa bệnh đau mắt. Về điểm này, chúng ta có thể đọc được ở Mc 8,23: “Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: “Anh có thấy gì không? “
Sau hai hành động trên, Giêsu ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Ngước mắt lên trời là hướng về cha mình. Theo Hans Urs von Balthasar, thì mỗi phép lạ mà Giêsu làm là một hành động của Cha được làm qua Giêsu. Chúng ta có thể đọc được thái độ hướng lên trời của Giêsu ở một vài phép lạ khác: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” (Mc 6, 41) Hay như trong phép lạ kêu ông La-gia-rô ra khỏi mồ ở Gioan 11, 41-43: “Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! “
Sau khi hướng mắt nhìn lên trời, Mác-cô thuật lại là Giêsu rên lên một tiếng. “stena,zw stenazo – rên “ Theo R. Pesch là cách diễn tả về thái độ Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Nghĩa là dấu chỉ Giêsu nhận được sức mạnh để chuẩn bị cho phép lạ Ngài làm.
Sau khi đã chuẩn bị như vậy, Giêsu lên tiếng nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Mác-cô giữ lại từ ngữ này trong tiếng aramaica với ý nghĩa được dịch ra sau đó. Theo R. Pesch thì từ ngữ để chữa bệnh này, trong tai của người Hy-lạp là một lời lạ lẫm có sức chữa bệnh như một câu thần chú. Bình thường, thì lời chữa bệnh là lời đầy quyền năng có thể truyền tải sức mạnh. Vâng, một lời có sức giải thoát đời người khỏi bóng đêm, một lời có thể kéo đời người ra khỏi cái điếc và cái ngọng, một lời của tình yêu thương, một lời của ân sủng tràn đầy trên một đời người, trên cả dân Israel và hôm nay cho toàn thể nhân loại. Lời “Ép-pha-tha”, này Giáo Hội cũng dùng trong bí tích rửa tội. Vị linh mục hay thầy phó tế sẽ rờ tới tai và miệng của con trẻ và nói: ““Ép-pha-tha – hãy mở ra”. Mở tai ra để lắng nghe Lời của Chúa, và mở miệng ra để loan báo Tin Vui của Chúa. Tin vui về ơn cứu thoát về tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa từ nhân. Theo Adolf Pohl, qua lời chữa lành của Giêsu, người đọc ở đây sẽ được nhắc nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài đã mở miệng cho con người, mở mắt, mở tai, mở lòng, mở niềm tin, mở cuốn sách cuộc đời, mở cánh cửa cuộc đời, và mở cả cửa lao tù nhốt con người vào trong đêm đen. Và Thiên Chúa mở cả cánh cửa của mồ mả và mở cả cánh cửa của trời cao để đón nhận con người.
Tóm lại, về những hành động của Giêsu trong phép lạ này, Đức Thánh Cha diễn tả rất hay và liên quan trực tiếp đến chúng ta: “Phúc âm kể lại rằng Chúa Giêsu đưa ngón tay chạm đến lỗ tai của người câm điếc, và thấm một chút nước miếng của Ngài trên lưỡi của người bệnh và nói: Effata – Hãy mở ra! Tác giả phúc âm đã giữ lại cho chúng nguyên ngữ tiếng aramaica mà Chúa Giêsu đã nói, và như thế đưa chúng ta trực tiếp vào trong giây phút đó. Điều mà được kể lại trong phúc âm, là điều duy nhất, tuy nhiên không thuộc về quá khứ xa xôi: Chúa Giêsu thực hiện cũng một điều như vậy một cách mới mẻ và làm lại điều đó nhiều lần cả trong thời đại hôm nay. Trong bí tích Rửa Tội, Chúa Giêsu đã hoàn tất trên chúng ta cử chỉ chạm đến này, và đã nói với chúng ta: Effata, hãy mở ra! Để làm cho chúng ta có khả năng cảm nghiệm được Thiên Chúa và như thế để cho chúng ta có lại khả thể nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng biến cố này, – biến cố Bí Tích Rửa Tội – không có gì là ảo thuật. Bí tích Rửa tội mở ra một con đường. Bí Tích đưa chúng ta vào trong cộng đoàn của những kẻ có khả năng lắng nghe và nói, đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với chính Chúa Giêsu, Đấng duy nhất đã nhìn thấy Thiên Chúa Cha và sau đó đã có thể nói về Ngài (x. Gn 1,18): qua đức tin, Chúa Giêsu muốn chia sẻ với chúng ta việc Người nhìn thấy Thiên Chúa, việc Người lắng nghe Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa. Con đường của kẻ lãnh nhận bí tích rửa tội, phải là một diễn tiến của sự phát triển từ từ, trong đó chúng ta lớn lên trong cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa, và như thế đạt được một cái nhìn mới khác về con người và về tạo vật… và Phúc âm mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng trong chúng ta có bị thiếu hụt về khả năng nhận thấy – một sự thiếu mà lúc đầu chúng ta không lưu ý được như vậy -, bởi vì phần còn lại được xử dụng bởi sự khẩn thiết và hợp lý của nó; bởi vì từ bên ngoài xem ra như tất cả đều tiến hành một cách bình thường, cả khi chúng ta không còn đôi tai lắng nghe và đôi mắt nhìn thấy Thiên Chúa nữa và chúng ta sống không có Ngài. Nhưng thử hỏi có phải tất cả đều diễn ra cách đơn thuần, khi Thiên Chúa bị thiếu đi trong đời sống chúng ta và trong thế giới chúng ta hay không? (Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera)
– Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Kết quả của phép lạ được Mác-cô diễn tả tương hợp với hành động Giêsu đã làm trước đây. Đó là “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.”
Như vậy, Giêsu đã đặt ngón tay vào lỗ tai và đã “mở tai” của người điếc, để anh ta có thể nghe lại được, và với nước miếng Ngài đã bôi vào lưỡi, để nhờ đó lưỡi anh hết bị buộc lại, nghĩa là được cởi ra khỏi “một sức mạnh đang trói buộc anh.”
Động từ “trói buộc” chỉ về một căn bệnh bị thần dữ trói buộc. Ở Luca 13,16 cũng nhắc đến người phụ nữ còng lưng được Giêsu tháo cởi khỏi xiềng xích trói buộc bà: “Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “
Vâng, giờ đây anh bạn điếc và ngọng của chúng ta đã có lại được khả năng nghe và nói. Và anh ta còn nói được rõ ràng nữa, chứ không phải bặp bẹ một vài câu. Mác-cô diễn tả rất rõ ràng. Anh ta đã trở lại con người bình thường như mọi người. Thật là một tin vui lớn lao. Tin vui này ứng nghiệm với lời của tiên tri Isaia 35, 5-6:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.”
– Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
Lời truyền bảo phải giữ kín của Giêsu ở đây hướng về ngôi thứ hai số nhiều “họ”. Như vậy, nhóm người có mặt dù đã bị tách biệt, nhưng có thể vẫn chứng kiến được phép lạ Giêsu làm. Tuy nhiên, điều mà tác giả muốn diễn tả ở đây là việc lời truyền bảo giữ kín của Giêsu đã bị “phá tan”. Ngoài ra, Mác-cô cũng hướng về tinh thần truyền giáo của Giêsu và về Giêsu tại miền Thập Tỉnh, miền đất của dân ngoại, như chính một anh bị quỷ ám được Giêsu chữa bệnh, và sau đó được sai đi vào miền Thập Tỉnh để làm chứng: “Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” (Mc 5, 19)
Vâng, hành động tốt lành của Giêsu không thể giữ kín được. Điều tốt lành cần được lan rộng, lan rộng như vết dầu loang.
Còn về nguyên nhân Giêsu truyền phải giữ kín, thì chúng ta cũng có thể nhận ra. Đó là Giêsu muốn thi hành sứ mạng của mình. Nếu không, thì người Do-thái có thể bắt Ngài và tôn Ngài lên làm vị thủ lãnh, là Vua theo ý riêng và chương trình của họ. Mà sứ mạng của Giêsu thì đâu có tương hợp với một kế hoạch chính trị nào.
– Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Một lời chứng và ngợi ca giữa mảnh đất dân ngoại, trong miền Thập Tỉnh. Thật là tuyệt vời! Vinh danh Thiên Chúa không chỉ tỏ rạng trong vùng trời của niềm tin, mà còn tỏ rạng trong bầu trời của nhiều tâm hồn chưa biết Chúa. Có lẽ vì thế, mà cần phải mở miệng tung hô to hơn và rõ ràng hơn.
Máccô diễn tả thật là hay: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả.” Lời ngợi khen này giành cho Giêsu. Và Giêsu được ăn mừng như Đấng được nhắc trong Sáng thế ký 1, 31: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.” (ss. thêm ở Hc 39,16)
Vâng, trong Giêsu Gia-vê Thiên Chúa đang đến, như I-sa-i-a đã nói: “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (35,4), và khi Người đến thì người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, và què sẽ đi lại đàng hoàng, người còng lưng sẽ đứng thẳng dậy và không chỉ thế, mà còn:
“có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên.” (Is 35, 6b-7)
Vâng, Đấng Cứu Độ đã đến và khi Ngài đến thì Ngài sẽ giải thoát những người con yêu dấu của Ngài và:
“Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35, 10)———————–
Tham khảo
– Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1, s. 391-400
– Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, s.296-301
– Meinrad Limbeck, Markus-Evangelium, Stuttgarter kleiner Kommentar, kbw-Verlag, Stuttgart 1984, s. 97-98
– Gottfried Schille – Horst Balz & Gerhard Schneider (Hrg), Exegetisches Woerterbuch zum Neuen Testament Band I, 2.Aufl., Kohlhammer Verlag, Stuttgart-Berlin-K#ln 1992I, từ ngữ Deka,polij (dekapolis)
– Helmut Merklein, Die Jesusgeschichte-synoptisch gelesen, Stuttgarter Bibelstudien 156, kbw-Verlag, Stuttgart 1994, , trang 135-136
– Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI, giảng ngày 5/2/06 khi ngài viếng thăm Giáo xứ Thánh Anna tại Vatican. www-vietcatholic.net
– Bài giảng của ĐTC Beneđitô XVI trong thánh lễ Chúa Nhật mùng 10 tháng 9 năm 2006 tại thành phố Munich, thủ phủ của Bang Baviera. www.vietcatholic.net
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mc 7: 31-37 Trang Tin Mừng hôm nay cho ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc.
Thông thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Với trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thánh Máccô trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại… và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.
Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.
Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ và có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này.
Ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: “Hãy mở ra” Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Người câm điếc Chúa Giêsu chữa lành, theo một cách nào đó cũng là hình ảnh của nhiều trong chúng ta. Bởi vì, chúng ta không bị câm ngọng điếc về mặt thể lý, nhưng bị câm điếc về mặt thiêng liêng. Đã có biết bao người trở nên, ngọng nghịu, điếc lác về mặt tâm linh. Họ không tha thiết cầu nguyện và ngại ngùng đến với Thiên Chúa. Họ cảm thấy khó khăn tâm sự, đối thoại với Chúa và cũng cảm thấy khó khăn trong việc để lắng nghe Chúa nói với họ.
Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp… vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận…
Ta và nhiều người có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.
Có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng vv…Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình vv…Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi…như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản.
Trong trường hợp này chúng ta phải làm gì đây? Thưa chúng ta đã có sẵn lời đáp trong bài Tin Mừng: hãy bắt chước người câm điếc trong bài Tin Mừng của thánh Máccô, hãy đi tìm kiếm Đức Kitô, hãy cùng Ngài ra khỏi đám đông và hạnh phúc ở bên Đấng có đầy uy quyền trên sinh mạng của mọi người. Hãy để Chúa mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, hãy để Ngài khai thông đôi tai điếc lác nặng nề của chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nói chuyện, hãy đối thoại với Ngài, nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện để Chúa thực hiện nơi chúng ta điều Chúa đã làm cho người câm điếc. Chúng ta hãy để Chúa chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng của chúng ta.
Trang Tin Mừng hôm nay cho ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! “Epphatha- Hãy mở ra” là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.
87. Lạy Chúa Trời xin mở miệng con
(Suy niệm của Huệ Minh)
Một thời gian dài bị đau họng không thể nào nói được để rồi kèm theo đó không biết bao nhiêu là bất tiện. Muốn nhờ người khác giúp cho cái gì thì đều phải ra dấu. Có khi ra dấu cũng không hiểu nên đành phải lấy giấy viết ra mà ghi.
Chỉ ít hôm đau họng mà tôi cảm thấy bất tiện như thế huống hồ mình rơi vào cảnh câm điếc.
Lần nọ, vào quán ăn, trước mắt tôi là gia đình kia có vài người rất lạ. Thay vì họ nói với nhau nhưng không, họ đưa tay ra để đưa dấu cũng như những ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ của người khiếm thính.
Và, một thời gian đủ dài để tôi sống gần với những người khiếm thính. Muốn trao đổi điều gì đó với họ buộc lòng tôi phải học theo ngôn ngữ của người khiếm thính. Vì chỉ là giao tiếp thường nên cũng chỉ học ít dấu chỉ để nói chuyện. Chỉ nhiêu đó thôi cũng đã thấy phức tạp hơn rất nhiều cũng như bất tiện nhiều so với người nghe được và nói được.
Thường thì người bị câm sẽ đi theo luôn cả chứng điếc. Vừa câm mà lại còn vừa điếc nữa nên quả thật là khó khăn.
Ngày hôm nay, ta thấy những người dân ở gần biển Galile đã mang người câm điếc đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chạnh lòng thương anh và rồi Chúa đã chữa lành cho anh khỏi chứng bệnh câm điếc mà anh gặp phải. Và, ta thấy điều lạ đó là Chúa Giêsu cấm anh ta không được nói điều mà Chúa Giêsu mới làm cho anh nhưng rồi anh lại đi loan truyền hồng ân mà Chúa đã làm cho anh.
Nhìn lại anh chàng câm điếc hôm nay ta lại nhìn lại cuộc đời của ta. Chúa cho ta nghe lời của Chúa đó và Chúa mời gọi ta nói lời của Chúa đó nhưng rồi trước lời của Chúa ta cứ giả điếc làm ngơ.
Ta may mắn hơn rất nhiều người nhưng rồi ta không nhận ra đó là quyền năng mà Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta cách đặc biệt.
Ngày hôm nay, dường như người ta lại thích nghe những thông tin có tính cách giật gân hơn là nghe những lời giáo huấn của Giáo Hội, của Thiên Chúa. Cứ thử làm một bảng thống kê ta sẽ nhận ra được điều bi đát trong đời sống con người thực tại.
Cứ có chuyện gì đó xảy ra trong xã hội thì con người lại cứ truyền tai nhau mà khổ một cái là truyền tai chưa chắc là đúng sự thật hay có khi là thiếu đức bác ái và lỗi nặng về đức bác ái nữa.
Qua trang mạng của một giáo phận, người ta biết được, người ta thấy được thông tin của giáo phận treo chén của một linh mục trong giáo phận. Thông báo vừa được dán lên thì một số người nhảy vào và copy đem về trang cá nhân của mình. Từ trang cá nhân của người nào đó và rồi lại cứ loan đi và loan đi.
Chuyện rất nực cười khi suy cho bằng cùng là như thế này: chuyện cha nào đó bị treo chén quả thật là nỗi đau của Giáo Hội, của giáo phận đó. Tôi thiển nghĩ là giáo phận đó đau lòng lắm khi phải đưa ra tờ thông báo đó. Thế nhưng, một số người vì thiếu đạo đức truyền thông và thiếu cả bác ái nên cứ loan truyền nhau. Người này nói người kia, người kia nói người nọ và người ta loan đi để rồi mất tình bác ái với nhau.
Xét cho bằng cùng thì cha đó chẳng làm tổn hại đến những người đi nói thêm về thông tin của cha đó. Chuyện chỉ là giữa tòa giám mục đó và cha đó và giữa cha đó với Chúa thôi. Mình đâu có dính dáng gì đến cha đó đâu mà phải bàn tán xôn xao.
Không chỉ chuyện cha đó bị tòa giám mục đưa ra thông báo treo chén mà còn nhiều chuyện khác trong cuộc đời. Cứ thấy chuyện gì đó đưa lên báo chí là bắt đầu không ít thì nhiều người ta bắt đầu đi tuyên truyền. Và những điều tuyên truyền đó cứ sai lạc để để lại không biết bao nhiêu điều đáng tiếc.
Cả người Công Giáo của ta, ta cũng phải nhìn lại lời ăn tiếng nói của ta, cung cách cư xử của ta trong cuộc sống. Có khi ta hồ đồ, có khi ta bộp chộp, có khi vì tự ái cao để rồi ta làm tổn thương người khác.
Thánh Giacobê mới gọi mỗi người chúng ta: Anh em hãy mau nghe chứ đừng vội nói! Nghe cái đã! Chúa ban cho ta được hồng ân là ta nghe để rồi ta phải sử dụng hồng ân đó như thế nào đẹp lòng Chúa.
Ta vẫn thường chạy theo thói của thế gian là thích nghe và thích nói những điều xúc phạm đến người khác, làm tổn thương đến người khác.
Ta đã từng mất ăn mất ngủ, ta đã từng đau khổ khi nghe người khác nói không đúng về ta, sai sự thật về ta để rồi đó cũng là kinh nghiệm để ta đừng bao giời đối xử với anh chị em đồng loại ta như vậy.
Ta lại xin ơn Chúa để Chúa mở miệng, mở tai tâm hồn của ta để ngày mỗi ngày ta l ắng nghe lời Chúa hơn cũng như ta biết cao rao hồng ân mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ta hơn.
Ta lại thầm thì với Chúa với tâm tình thánh thi kinh sách tuần II:
Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,
Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà,
Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,
Ðừng để con cứ giả điếc làm ngơ.
Và, xin cho cuộc đời ta mãi mãi được thân thưa với Chúa:
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con –
Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.