SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Hc 27,33 – 28,9; Rm 14, 7-9; Mt 18, 21-35
MỤC LỤC
- Hết lòng tha thứ.
- Mắc nợ và trả nợ.
- Vị thẩm phán chí công.
- Hết lòng tha thứ cho nhau – ViKiNi
- Tha thứ.
- Học tha thứ với Chúa Giêsu.
- Có tha thứ mới được thứ tha.
- Thông cảm để thứ tha.
- Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
- Lòng thương xót
- Tha thứ.
- Tha thứ.
- Hai người lính.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Nhân quả.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Giá trị cục tẩy.
- Bài học tha thứ.
- Tha thứ đến vô tận.
- Hào quang của tha thứ.
- Tha thứ.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Tha thứ.
- Phải tha thứ.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ.
- Một Tin Mừng khó giữ.
- Tha thứ là được thứ tha.
- Chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
- Tha thứ cho nhau.
- Vì sao phải quảng đại tha thứ?.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Bảy mươi lần bảy!
- Tha tận đáy lòng.
- Tha thứ, mùa xuân tình yêu.
- Tha thứ như đã được thứ tha.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Tha thứ không biên giới
- Tha thứ.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Tha thứ.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Tha thứ.
- Tha thứ mà không cần so đo tính toán.
- Công bằng phải trả.
- Tha thứ.
- Tại sao không tha?.
- Tha thứ.
- Sự tha thứ – Radio Veritas Asia.
- Lời dạy tha thứ cho nhau.
- Nên tha hay không?.
- Tha thứ.
- Chúa Nhật 24 Thường Niên.
- Anh em tha thứ cho nhau – JKN.
- Sự tha thứ.
- Chính Ta đã xót thương ngươi
- Tha thứ, hoà giải
- Tha thứ.
- Hãy tha thứ để được thứ tha.
- Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân.
- Luôn tha thứ.
- Tại sao tha thứ?.
- Tha thứ không giới hạn.
- Bài học tha thứ.
- Hãy tha thứ cho người khác.
- Tha thứ thật thà.
- Hãy sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha.
***********************
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng. Bạn không hiểu điều bạn đã làm. Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành được gặp lại nhau trên Thiên quốc,… Chúa là Chúa của hai chúng ta.” Đó là lời trối của cha Christian de Chergé viết cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình, bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.
Ta không thấy có chút hờn oán nào.
Cha coi kẻ giết mình như một người bạn, một người trộm lành như cha, và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ.
Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.
Đời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa.
Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng.
Luật mắt đền mắt là luật công bằng, nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù. Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.
Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi, dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.
Qủa tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, không phải 7 lần, mà là 70 lần 7, nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa, để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ, vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha, khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình, khi chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.
Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này: “Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.”
Gợi Ý Chia Sẻ
– Tha thứ cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù.
– Ở Angiêri đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bị nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu Nguyện
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Các tôn giáo đều dạy người ta tha thứ cho người làm hại mình. Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử dạy: “Dĩ đức báo oán.” Phật giáo cũng đề cao lòng khoan dung để được thanh thản.
Qua dụ ngôn trên đây, Đức Kitô dạy ta phải tha thứ. Hơn nữa, Ngài còn cho biết tại sao ta phải tha thứ cho anh em. Không phải chỉ để oán tiêu tan hay buông bỏ phiền não, nhưng đơn giản là vì có một tương quan bộ ba gắn bó chặt chẽ giữa Thiên Chúa, tôi, và người anh em của tôi.
Đức Giêsu kể chuyện anh đầy tớ nợ nhà vua món tiền cực lớn. Mười ngàn yến vàng tương đương với sáu mươi triệu ngày công. Người ấy phải làm một trăm sáu mươi bốn ngàn năm mới trả nổi! Chúng ta không hiểu tại sao anh lại nợ vua món tiền lớn như vậy. Dù bán anh, bán vợ con, và toàn bộ tài sản của anh cũng chẳng đủ. Dám hứa trả cho hết số nợ đó là một lời nói dối trơ trẽn (Mt 18,26).
Chỉ một người có thể giải quyết được vấn đề, đó là nhà vua. Cần một tấm lòng để có thể xóa sạch món nợ trong phút chốc. Vì chạnh lòng thương, nên nhà vua đã tha nợ và thả anh ta. Biết đâu sau này anh lại được nhà vua trọng dụng. Nhưng anh đầy tớ này lại không có lòng thương xót như chủ anh. Anh không thể tha cho một đầy tớ khác của chủ, nợ anh một món tiền chỉ bằng hơn ba tháng lương, dù người đó đã làm y như anh: đã sấp mình, năn nỉ xin tha nợ. Món nợ này quá nhỏ so với món nợ anh vừa được tha, nhưng anh vẫn quyết đòi cho bằng được. Vì không chấp nhận trì hoãn nên anh tống người bạn đó vào ngục.
Câu chuyện đến tai ông chủ, và điều bất ngờ đã xảy ra. Ông kêu anh lại và gọi anh là “tên đầy tớ độc ác.” Ông nổi cơn thịnh nộ và rút lại quyết định tha nợ cho anh. Như thế, món nợ vẫn còn nguyên, và anh sẽ chẳng bao giờ trả hết. Ông chủ cho biết lý do khiến ông nổi giận và đổi ý: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, há ngươi lại chẳng phải thương xót bạn ngươi, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33).
Tội của anh đầy tớ này là tội không có lòng thương xót như chủ. Dụ ngôn trên đây của Đức Giêsu đòi chúng ta đối xử với nhau như chính Thiên Chúa đã đối xử với từng người chúng ta. Tha thứ bắt nguồn từ lòng thương xót. Tha thứ cho tha nhân được đặt nền trên tình thương mà mỗi người cảm nhận được từ Thiên Chúa.
Càng cảm nhận mình được Chúa xót thương và tha thứ ta càng dễ cư xử tương tự với tha nhân. Càng biết mình đã được tha món nợ lớn ta càng dễ tha những món nợ nhỏ của anh em.
Tất cả nền luân lý Kitô giáo mời ta bắt chước chính Thiên Chúa.
– Hoàn thiện như Ngài,
– thương xót như Ngài (Mt 5,48; Lc 6,36),
– nhân hậu với kẻ xấu và bất chính như Ngài (Mt 5,45; Lc 6,35),
– kiên nhẫn với cỏ lùng như Ngài (Mt 13,29-30),
– tha thứ cách quảng đại như Ngài (Mt 18,22.27).
Bài Tin Mừng hôm nay thật là một tin mừng, vì dạy chúng ta cách để vào Nước Trời, đó là tha thứ. Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ cho ta từ trước rồi, vấn đề là làm sao giữ được ơn ấy cho đến ngày nhắm mắt.
Chúng ta chỉ giữ được nếu chấp nhận chuyển đi cho tha nhân. Chuyển đi là cách duy nhất để giữ lại (Mt 6,14-15). Đức Thánh Cha kêu gọi người ta đừng dùng tôn giáo như phương tiện để kích động lòng thù ghét, cuồng tín cực đoan, nhưng như con đường để diễn tả lòng bao dung tha thứ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa,
và đừng để con quên lời Chúa dạy:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
Là làm cho chính Ta.”
Tạp chí Prier.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cuộc sống luôn đầy rẫy bất công. Những người nghèo và thấp cổ bé miệng phải chịu nhiều oan ức, nhất là trong những chế độ chính trị hà khắc và độc tài. Con người có xu hướng chịu đựng và buộc chấp nhận, như một thứ luật rừng trong xã hội: cá lớn nuốt cá bé. Trước những bất công, nhiều khi người ta chỉ biết kêu trời.
Phải chăng lúc nào lý cũng thuộc về kẻ mạnh? Phải chăng những người bé mọn luôn phải gánh chịu những thiệt thòi? Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: Không phải như vậy. Thiên Chúa là vị Thẩm phán chí công. Người lắng nghe và bênh vực những người cô thế cô thân và những người bị gạt ra bên lề của cuộc sống.
Trong Bài Tin mừng, vị Thẩm phán được diễn tả như một vị vua và với cách gọi “tôn chủ”, thể hiện người đáng kính trọng và là một người liêm khiết. Vị tôn chủ đã chạnh lòng thương trước lời van xin của người đầy tớ và sẵn sàng tha cho hắn món nợ rất lớn là mười ngàn yến vàng. Chúng ta nhớ đến bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế (x. Mt 25,31-46). Lúc đó, vị thẩm phán cũng được gọi là “Đức Vua” xét xử người lành cũng như kẻ dữ, tuỳ theo việc họ đã làm khi còn sống trên dương gian. Trước đó, vị thẩm phán cũng được dùng với danh xưng “Con Người”. “Con Người” hay “Con loài người” là danh xưng chính Chúa Giêsu đã dùng để chỉ bản thân Người. Như thế, vị thẩm phán sẽ xét xử loài người là chính Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Hình ảnh vị tôn chủ trong Tin Mừng hôm nay cho thấy đó là vị Thẩm phán vừa công bằng vừa bao dung nhân hậu. Vị thẩm phán ấy chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con người và sẵn sàng tha thứ nếu người ấy khiêm tốn kêu xin. Tuy vậy, ngài cũng nghiêm khắc với kẻ gian manh, chỉ biết khúm núm trước người chủ nợ, mà lại táng tận lương tâm đối với bạn hữu đang mắc nợ mình chỉ có một trăm quan tiền, trong khi món nợ mình được tha có giá trị gấp nhiều lần.
Nếu Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân hậu, thì những ai tin vào Ngài cũng phải khoan dung nhân hậu như thế. Những ai cố chấp, hận thù và ích kỷ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Người đầy tớ có trái tim chai đá trước lời van xin của tha nhân bị ông chủ kết án là đồ gian ác. Hơn thế nữa, anh ta phải vào tù và phải trả món nợ trước đây ông chủ đã có ý tha, vì thấy anh ta đáng thương và vì lời van xin thống thiết. Trong thực tế, con người dễ hạ mình trước mặt Thiên Chúa, nhưng lại xảo trá và mưu mô đối với đồng loại. Lời kết câu chuyện của Chúa Giêsu cũng là tóm lược lời kinh Lạy Cha: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đây cũng là nội dung của Bài trích sách Huấn Ca: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Bài đọc I). Bao dung nhân hậu, tha thứ yêu thương. Đó là cốt lõi của giáo huấn Kinh Thánh, nhất là trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hãy tha thứ vì con người sống trên trần gian đều là bất toàn. Khi tha thứ, ta mở cho người khác một con đường hướng tới tương lai. Giáo huấn Kitô giáo còn khẳng định: khi tha thứ là ta được thứ tha; khi cho đi ta sẽ nhận lãnh. Tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, sự thanh thản và yêu đời. Người Việt Nam chúng ta thường nói” đời có vay có trả”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Có người bức xúc vì thấy kẻ gian ác cứ sống nhơn nhơn, bất chấp đạo lý luân thường, ấy vậy mà họ vẫn giàu có hoặc may mắn. Nếu họ chưa phải trả giá cho sự gian ác họ đã gây ra cho người khác, là vì chưa đến thời đến buổi đó thôi, vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát”, như cổ nhân đã dạy.
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Ông Phêrô vừa đặt câu hỏi, vừa tự đưa ra câu trả lời. Khi khẳng định tha thứ bảy lần, ông cũng cho mình là rất quảng đại, vì thói quen của người Do Thái thường tha cho một người xúc phạm mình hai lần (Theo Anselm Grün, một chuyên viên Kinh Thánh). Số 7 cũng là con số hoàn thiện. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, Phêrô cũng như những ai tin vào Chúa phải tha thứ vô biên, không giới hạn và lặp đi lặp lại nhiều lần tới mức không đếm xuể. Chúa Giêsu so sánh chúng ta với người đầy tớ cứng lòng không tha cho bạn mình, trong khi Thiên Chúa là Đấng bao dung. Ngài đã tha hết mọi nợ nần cho chúng ta trong Con của Ngài. Xin lưu ý chữ “đồng bạn” được sử dụng năm lần trong đoạn Tin Mừng này để chỉ mối tương quan giữa hai người cùng là con nợ. “Đồng bạn” ở đây có nghĩa là tha nhân và là người cùng phục vụ một tôn chủ.
Trong hành trình cuộc đời, con người sống với và sống cho tha nhân. Chỉ khi nào ý thức được điều này, chúng ta mới tìm được hạnh phúc. Một cuộc sống biết chia sẻ cảm thông sẽ đong đầy niềm vui. Cũng vậy, ý thức sống hay chết đều thuộc trọn về Chúa sẽ giúp chúng ta cảm nhận được tình thương của Ngài giữa những khó khăn trắc trở trong cuộc đời. (Bài đọc II). Chúa Giêsu là mẫu gương cho chúng ta về tâm tình phó thác. Người cũng là mẫu mực cho chúng ta triết lý sống vì hạnh phúc của tha nhân. Trên cây thập giá, Chúa đã xin ơn tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Yêu thương và tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù, những đức tính này làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô.
4. Hết lòng tha thứ cho nhau – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau: “Lê Lợi sai tướng đem chiến lợi phẩm thu được ở trận Chi Lăng vào tận doanh trại của chủ tướng Tàu là Mộc Thạch. Mộc Thạch biết Liễu Thăng bị chết, đại quân bị bại, hoảng sợ chạy về Tàu. Vương Thông đóng quân ở Đông Quan, khiếp đảm, xin cầu hòa – Lê Lợi đồng ý, còn cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước. Nhờ sự tha thứ cho hàng vạn kẻ thù, dân nước được sống hòa bình thịnh vượng. Đó là kết quả của sự tha thứ trong lịch sử Việt Nam.
Còn một sự tha thứ vĩ đại hơn nữa trong lịch sử loài người, là sự tha thứ của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người được Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga. 1, 29).
Ngài là Đấng xóa tội trần gian, nên Ngài nói với người phụ nữ tội lỗi: “Tội chị đã được tha rồi” (Lc. 7, 48).
Ngài cũng tha tội cho người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” và cho anh đứng dậy vác chõng về (Mt. 9, 2). Dù các kinh sư và Pharisiêu dựa vào luật Môisê kết án người phụ nữ ngoại tình, Ngài vẫn tha thứ cho chị: “Tôi không lên án chị đâu, chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thế là Ngài đã tha tội, tha chết cho chị, và không ai có quyền lên án chị nữa (Ga. 8, 11).
Ngài đã tha thứ, và Ngài dậy chúng ta phải tha thứ như người cha tha thứ và vui mừng đón rước đứa con phung phá (Lc. 15, 11-32). Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện để biết tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa Cha đã tha nợ cho chúng ta (Mt. 6, 9-15).
Nhưng lòng con người quá hẹp hòi, cứng cỏi, cùng lắm chỉ tha được đến ba lần: “quá tam ba bận” hoặc hơn chút nữa như luật sĩ tha đến bốn lần. Phêrô tưởng mình tha đến bảy lần thì đã xứng đáng làm tông đồ của Thầy rồi. Không ngờ, Thầy dậy phải tha đến bảy mươi lần bảy: một con toán khổng lồ hàng tỉ lần, thời đó không thể đếm được. Cụ thể hơn nữa, cho ông và mọi người hiểu một cách thấm thía, lòng thương yêu tha thứ vô cùng của Thiên Chúa đối với con người, và lòng độc ác dã man của con người với con người. Qua câu chuyện đầy xúc động sau: Một đầy tớ nợ ông chủ 10.000 nén vàng, nếu bán hết vợ con, tài sản và y đi, cũng không trả đủ. Thế mà, y xin tha, chủ tha luôn. Nhưng bạn y, chỉ nợ y có 100 đồng bạc, chẳng đáng chút nào cái nợ y nợ ông chủ, thế mà bạn y xin khất ít lâu sẽ trả. Y không tha, lại túm lấy, bóp cổ, đánh đập, bỏ tù bạn y.
Không còn cái cảnh bi đát nào tả được lòng độc ác của con người không biết tha thứ cho nhau nữa!
Phêrô nghĩ sao? Chúng ta nghĩ sao? Khủng khiếp đến chừng nào khi không biết tha thứ cho anh em?
Hình như Phêrô cũng như chúng ta chẳng thay lòng đổi dạ gì khi nghe câu chuyện có thực trăm phần trăm đó. Vì chính Phêrô vừa mới rước Mình và Máu thánh Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, thế mà, ông đã hăng tiết rút gươm ra chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy (Mt. 26, 27-51). ông không thể tha thứ được. Chỉ khi ông được Thầy tha tội chối Thầy (Mt. 26, 74-75), chỉ khi ông thấy Thầy bị treo trên Thập giá mà vẫn cầu nguyện xin tha cho kẻ thù của Thầy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc. 23, 34) và nhất là khi thấy Thầy sống lại đầy uy quyền mà Thầy vẫn không trách cứ ông, và không hề trả thù đứa quân dữ nào; chỉ khi đó Phêrô mới thấm thía sâu sắc: “Phải hết lòng tha thứ cho anh em”, chỉ khi đó Phêrô mới thực sự thuộc về Chúa Kitô, mới sống cho Chúa Kitô và cùng chết với Người (Rm. 14, 7-9 – Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin cho con nhớ rằng: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Chúa. Kẻ nuôi lòng hờn giận, thế mà dám xin Chúa ban ơn lành, nó chẳng biết thương đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình” (Hc. 27, 30-28. 1-5 và Mt. 6, 14-15). Lạy Cha, xin cho con luôn luôn tụng niệm lời cầu xin của Đức Kitô: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”, để con được Cha tha tội cho con. Amen.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn. Thế nhưng trước khi hành quyết, ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài. Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ dội như con thú bị trúng thương; có người cảm thấy máu sôi lên trong huyết quản, người nóng bừng lên, hơi thở dồn dập, mặt đỏ gay.
Trong hoàn cảnh đó, phản ứng thông thường của đa số là tìm cách trả đũa thật đích đáng. Thậm chí có người cho rằng thà chịu chết còn hơn chịu nhục. Thế là giông tố sẽ bùng lên, những trận đòn thù như vũ bão sẽ ập đến, hậu quả không biết đâu mà lường!
Trong khi đó, Chúa Giêsu, trong thân phận con người, và nhất là trong cuộc thương khó của Người, đã bình thản đón nhận mọi sỉ nhục, nhạo cười, lăng mạ, phỉ nhổ, chịu hành hạ, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu chết trần truồng, chịu vô vàn đau thương chồng chất và chịu chết tủi nhục trên thập giá mà không hề oán hận hay nguyền rủa những con người bội bạc xúc phạm đến mình, trái lại còn đem lòng thương xót và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. (Luca 23, 33)
Đối mặt với vô vàn xúc phạm đủ mọi hình thức, Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ và kêu mời mọi người hãy tha thứ cho nhau, tha thứ liên tục không ngừng.
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Quả là một đòi hỏi vượt quá sức người. Làm sao con người đầy sân hận lại có đủ bản lãnh và khí phách để thực hiện lời truyền dạy của Chúa Giêsu?
- Con người mắc phải lầm lỗi vì mù quáng, vì thế họ đáng thương chứ không đáng trách.
Chúa Giêsu không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giêsu là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Charlie Charplin nhận định: “người ta mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người ngu thì lên án họ; người khôn thì thương xót họ.”
Không giống như bao nhiêu người thiếu hiểu biết thường vội vàng kết án người khác căn cứ vào hành vi lầm lỗi bên ngoài của tội nhân, Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan thấu suốt lòng dạ con người; Người biết rằng phần lớn những tội người ta phạm là do mù quáng, do thiếu hiểu biết mà ra, vì thế, thay vì lên án, Người thương xót những kẻ mắc phải lỗi lầm và tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 33)
- Không ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: “không ai cố tình làm điều ác” và “sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết”
Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta tự cho là mình vô tội.” Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ.
Tóm lại, để có thể tuân giữ lời mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giêsu, chúng ta cần xác tín như nhà hiền triết Socrate rằng: “Không ai cố tình làm điều ác”, “sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình”.
Và hãy ghi tâm lời nhận định của Charlie Charplin: “con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ.”
Và nhất là học theo gương Chúa Giêsu, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì họ mù quáng, “không biết việc họ làm” (Lc 23,33).
7. Có tha thứ mới được thứ tha
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Một số tín hữu nghĩ rằng: Khi có tội, chỉ cần đi xưng tội và làm việc đền tội; thế là mọi tội đều được tha thứ; rồi sau đó, cứ thản nhiên phạm tội tiếp mà chẳng áy náy chút nào.
Tuy nhiên, qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bác bỏ cách nghĩ, cách làm sai lầm như thế. Ngài dạy ta biết rằng chỉ có những ai tha thứ cho người khác thì kẻ ấy mới được thứ tha; còn ai không biết thứ tha, sẽ không được tha thứ.
Dụ ngôn “Người tôi tớ bất lương” (Mt. 18, 21-35) trong Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ điều này.
Sau khi nhà vua biết tên đầy tớ vừa được vua tha cho món nợ khổng lồ, lại nhẫn tâm tống giam người bạn của y vào ngục chỉ vì người này chưa thể trả món nợ nhỏ cho anh ta, thế là vua liền nổi giận, truyền bắt tên đầy tớ ác ôn đó đến và phán: “Hỡi tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta. Sao ngươi không tha nợ cho bạn người như ta đã tha cho ngươi? Thế rồi vua nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày trả hết nợ cho ông.”
Rồi Chúa Giê-su kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35).
Như vậy, nếu không tha thứ cho người khác, chúng ta phải gánh lấy hậu quả đáng sợ như thế đó! Có tha thứ thì mới được thứ tha là một quy luật quan trọng được Chúa Giê-su lặp lại nhiều lần:
Khi dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha qua kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su nói: “Xin tha tội cho chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
“Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Và qua Tin mừng Luca, Chúa Giê-su dạy tiếp: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37). Đến đây, chúng ta tự hỏi: Tại sao phải tha thứ thì mới được thứ tha?
Ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành theo những quy luật mà Thiên Chúa đã quy định. Minh họa: Nước ở nhiệt độ bình thường thì ở thể lỏng, khi bị đun nóng thì bốc hơi, khi ở nhiệt độ dưới 0 thì đông thành đá, khi ở nhiệt độ vừa phải thì tan chảy thành nước… Nước luôn tuân theo quy luật đó, không thể khác được.
Minh họa thứ hai: Ta gieo hạt cam xuống đất thì sẽ có cây cam; gieo hạt cỏ thì sẽ mọc cỏ… Mọi vật, mọi sự trên đời đều vận hành theo quy luật như thể, không thể làm khác được. Tương tự như thế, nếu ta trao ban sự tha thứ cho người thì ta sẽ gặt được thứ tha; nếu ta gieo rắc hận thù thì phải gặt oán thù.
Quy luật này được Chúa Giê-su xác định như sau: “Ai đong bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38) (đấu là dụng cụ đo lường ngũ cốc, thường làm bằng gỗ) và thánh Phao-lô cũng phát biểu tương tự như thế: “Ai gieo giống nào thì sẽ được gặt giống đó” (Galat 6,7).
Đây là quy luật muôn đời bất di bất dịch. Cũng như mọi quy luật khác, quy luật này không thể nào thay đổi được. Vì thế, ai không thứ tha thì không thể nhận được sự tha thứ, cũng như không gieo hạt cam xuống đất thì sẽ chẳng có cây cam.
Thế là lời Chúa trong Tin mừng hôm nay buộc chúng ta phải chọn lựa dứt khoát một trong hai điều:
– Một là đừng thứ tha cho ai cả, để rồi chẳng được Chúa thứ tha và đành phải mang tội suốt đời;
– Hai là xóa bỏ giận hờn, dẹp qua một bên lòng tự ái… để thứ tha cho người khác khi họ xúc phạm đến ta; bù lại, ta được Chúa tha cho muôn vàn tội lỗi.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con hiểu rằng khi giận hờn và không tha thứ cho người, chúng con sẽ rước họa vào thân, phải mang tội suốt đời; trái lại, khi sẵn sàng thứ tha cho tha nhân, chúng con sẽ được Chúa xóa bỏ mọi tội tình; nhờ đó, tâm hồn chúng con được an bình thư thái và cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?”
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu lại nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Làm sao mà tha thứ cho nổi khi người khác cứ mãi xúc phạm đến ta?
Làm sao có đủ bản lãnh và lòng bao dung để thực hiện lời truyền dạy thứ tha không ngừng của Chúa?
Để có thể tha thứ cho người khác, trước hết ta nên biết rằng: sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ, vì thế họ đáng thương hơn là đáng trách.
Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo… thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt người ấy bước đi an toàn.
Tương tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí, còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt, thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi mà thôi.
Vì thế, người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ; trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là độc ác khi con lên án người mù vì mang đôi mắt mù lòa mà phải sa hầm sập hố hay sa xuống chỗ sình lầy.
Và cũng thật là thiếu khôn ngoan và bác ái nếu con lên án những người khác vì họ mù quáng, tức mù lòa trong tâm trí, mà gây ra những vấp phạm đối với những người chung quanh.
Xin cho con luôn nhớ rằng: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ” để nhờ đó, con biết cư xử như một người khôn ngoan, biết thương xót và tha thứ cho những người lỗi phạm như Chúa đã nêu gương cho con. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Hãy tha thứ để được thứ tha (Mt 18,22)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu đã nói: “Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hòa với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Ðó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác.
Chắc hẳn hiện giờ trong lòng anh chị em, ai cũng có một ít điều gì đó không vui đối với một vài anh chị em của mình. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm lòng quảng đại để có thể tha thứ cho những người ấy. Ðây thực là một việc cần thiết phải làm trước khi chúng ta dâng Thánh lễ.
- Gợi ý sám hối
Chúng ta hẹp lòng hẹp dạ không chịu tha thứ cho người khác.
Nhiều chuyện buồn rất lâu rồi mà chúng ta cữ giữ mãi trong lòng.
Chúng ta không tạo cơ hội cho kẻ có lỗi hòa giải với mình.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Hc 27,30-28,7)
Ðể khuyến khích người ta tha thứ, Ben Sira đưa ra nhiều lý lẽ:
Có tha thứ cho người khác thì khi ta cầu nguyện ta mới đáng được Chúa thứ tha.
Ðang tích lòng giận ghét người ta mà dám xin Chúa cứu chữa mình sao?
Chẳng thương xót người đồng loại mà còn cầu xin Chúa thương xót mình sao?
Người phàm xác thịt mà tích lòng thịnh nộ thì dám xin Chúa tha thứ sao?
Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
Hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
- Ðáp ca (Tv 102)
Tv này ngợi khen tấm lòng từ bi bao la của Chúa: Ngài đã tha thứ tội lỗi cho ta, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta…
- Tin Mừng (Mt 18,21-35)
Ðức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về hai con nợ:
Một ông quan mắc nợ nhà vua một món tiền rất lớn (10 ngàn nén vàng), nhưng đã được nhà vua tha hết.
Khi ông quan này trở ra gặp một người bạn chỉ thiếu mình có 100 nén bạc (chỉ bằng 1 phần triệu số nợ đối với nhà vua) và đã khẩn thiết van xin bằng chính những lời lẽ mà ông quan đã xin với vua, ông quan ấy nhất định không tha.
Ðược biết việc ấy, nhà vua bắt giam ông quan cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn này muốn so sánh cho chúng ta thấy tội của chúng ta đối với Thiên Chúa nặng gấp triệu lần tội người khác phạm tới ta; đồng thời cũng muốn cho biết rằng nếu ta không tha cho người khác để đưa đến kết quả là Chúa không tha cho ta, thì quả là ta rất ngu dại.
- Bài đọc II (Rm 14,7-9)
Văn mạch: Chương 14 của thư Phaolô đề cập đến hai trường hợp khiến các kitô hữu rôma hay xét đoán nhau: 1/ có người sợ ăn lầm nhằm đồ cúng nên không dám ăn thịt mà chỉ ăn rau, có người khác nghĩ rằng lương tâm mình vững vàng nên dám ăn mọi thứ, rồi người này chỉ trích người kia; 2/ Có người tin dị đoan nên cho rằng ngày này tốt ngày kia xấu, người khác không tin cho rằng ngày nào cũng tốt, rồi hai bên lại chỉ trích nhau.
Thánh Phaolô dạy: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy quy chiếu vào Chúa, vì “không ai sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chính mình… Chúng ta sống hay chết thì đều thuộc về Chúa”.
- Gợi ý giảng
- “Nợ” và “trả nợ”
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ, cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ – đòi – trả: đó là cách cư xử công bình.
Nhưng trên thực tế, có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy, ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít. Trường hợp thứ hai này là: Nợ – không đòi được – đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường hợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau (“nợ” đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau (“nợ” theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ “nợ” theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Ðối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa, đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
- Những dây chuyền phản ứng khác nhau
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng… Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác…
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin Cha tha cho chúng con – như chúng con cũng tha cho kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha – thì sẽ được tha lại; Hãy cho – thì sẽ được cho lại dư đầy . Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Ðức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất, mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
- “Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
Ðó là một câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại. Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau nay đều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm – còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có thể nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên ác độc kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi”, rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa?
Bởi thế, Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: “Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”.
- Xin lỗi
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong mùa Chay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là không phải việc của một người mà của cả hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Ðến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Ðó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: “Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?”. Vị Rabbi giải thích: “Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi”.
Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình:
Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, ÐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Hội Thánh trong quá khứ. Trước khi ÐGH làm việc này, nhiều người trong Hội Thánh đã cản ngăn ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Hội Thánh. Tuy nhiên sau khi ÐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không che cười, trái lại còn khen ngợi ngài; uy tín của Hội Thánh chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt: đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
- Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Ðức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản xứ cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết Ðức Kitô là ai khi tôi đánh ngài.”
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.” Chúa nói: “Ðã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
- Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
- Hội Thánh là một bà mẹ hiền / đầy lòng bao dung đối với lỗi lầm của con cái mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết luôn quảng đại tha thứ mọi xúc phạm / mọi đau khổ do kẻ khác gây ra cho mình.
- Trong cuộc sống thường ngày / người ta vẫn còn có khuynh hướng ăn miếng tả miếng / sẵn sàng chém giết nhau / chỉ vì chưa tha thứ cho nhau như Chúa đã dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho tinh thần tha thứ của Ðức Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt thường ngày của xã hội.
- Tha thứ / nhất là tha thứ luôn luôn / trong thực tế là một việc làm con người không thể thực hiện được / nếu không có ơn Chúa trợ giúp / Vậy Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức cho hết thảy các kitô hữu / để họ có thể tha thứ được như Chúa đã dạy.
- Ðức Giêsu nói / “Hãy tha thứ để được thứ tha” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của người khác / hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải tha thứ cho nhau, nếu muốn được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Nhưng lạy Chúa, nói tha thứ thì dễ, còn thực hành tha thứ thì rất khó. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
- Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay chúng ta hãy hết sức thật lòng khi đọc câu “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Chúc bình an: Qua cử chỉ chúc bình an, chúng ta hãy thật lòng tha thứ cho những kẻ làm mất lòng chúng ta, dù đang có mặt hay vắng mặt trong Nhà thờ này.
VII. Giải tán
Tuần này, chúng ta hãy cố gắng hòa giải với những người đã bất hòa với mình, và tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường dựa vào đó để nài xin Thiên Chúa nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình, nhưng ít khi ao ước khao khát trở nên nhân hậu theo mẫu tuyệt hảo là Thiên Chúa. Một khi con người sống nhân hậu thì họ trở nên hoàn hảo và sống hạnh phúc hơn.
- Hận thù ghen ghét
Hận thù và ghen ghét, muốn làm hại người khác, muốn người khác khổ, muốn những tai họa đổ xuống trên đầu người mình thù ghét và những người thân của họ, không muốn người khác sung sướng hạnh phúc, điều này làm người khác và chính mình sống trong buồn bực lo lắng bất an.
Người hận thù cưu mang, nuôi dưỡng tư tưởng làm hại người khác trong lòng họ. Những giây phút họ thoải mái là những giây phút họ quên ý định hận thù, nhưng khi họ nhớ tới, là họ bị nung nấu và họ không thoải mái hạnh phúc. Có những người luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng người khác luôn suy nghĩ và tìm cách làm hại mình, muốn điều xấu cho mình; khi cưu mang suy nghĩ như vậy, chính người đó cũng bất an cực khổ. Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói, ai sống trong thù hận ghen ghét, luôn nghĩ xấu cho người khác, đã phần nào sống trong hoả ngục rồi, nếu hiểu hoả ngục là tình trạng không hạnh phúc, luôn bị dày vò day dứt đau khổ. Và cũng trong ý nghĩa này người ta nhận ra, Thiên Chúa không tạo nên hoả ngục, nhưng chính con người tạo ra hoả ngục cho chính mình.
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, muốn người khác trở nên tốt lành hầu họ nhìn nhận đúng thực tại, để họ bình an và hạnh phúc hơn. Khao khát cho mình và cho người khác trở nên trọn lành, ngay cả những người không ưa hay ghét mình, là khởi đầu của tình yêu đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa.
- Không thương xót là không yêu thương
Trong Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Yêsu cho chúng ta nghe một dụ ngôn về lòng thương xót. Một người mắc nợ chủ, không có gì để trả, đáng lẽ phải bị bán làm nô lệ để trả nợ; anh ta van xin và nhận được lòng thương xót của chủ, và anh ta đã không bị bán nữa mà còn được tha cả món nợ. Thế nhưng anh ta đã không thương xót người bạn, khi người bạn chỉ nợ anh ta một chút xíu so với cái nợ to lớn của anh ta đối với chủ mà anh ta đã được tha “nhưng không.” Anh ta đưa người bạn ra tòa, để rồi người bạn phải vào tù vì “thiếu công bằng,” vì đã không hoàn trả nợ khi đến thời hạn. Theo “luật” công bằng, anh ta có thể làm như vậy, vì ai mắc nợ thì phải trả; tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta đã không có lòng thương xót như anh ta đã van xin lòng thương xót của chủ.
Không lòng thương xót, không động lòng trước nỗi khổ của người khác, không động lòng trước sự bất lực của người khác, đòi phải “công bằng” khi người ta không thể trả nợ được, là điều bất nhân. Công bằng đúng nghĩa, phải luôn luôn hàm chứa yêu thương. Nếu không có yêu thương, không có công bằng. Con người là một giá trị “tuyệt đối” theo một nghĩa nào đó. Lòng thương xót đòi phải thông cảm ngay cả những giới hạn yếu đuối của con người, ngay cả khi họ “sa ngã” phạm tội. Khi nói sa ngã, hàm chứa lúc yếu đuối họ làm như vậy nhưng bây giờ họ không muốn như vậy nữa. Thông cảm và tha thứ, là dấu chỉ của tình yêu. Ai không tha thứ, là không yêu thương, và như vậy không hành xử giống như Thiên Chúa, không là con của Thiên Chúa.
Thánh Yoan nói, Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương. Ai yêu thương là sống như Thiên Chúa, ai không yêu thương là không sống như Thiên Chúa, là không sống như con cái Thiên Chúa. Kitô giáo là đạo yêu thương, chính vì vậy thánh Phaolô nói: yêu thương là chu toàn tất cả lề luật. Đức Yêsu nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái mới của giới răn Đức Yêsu dạy các môn đệ của Ngài, là hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương đến hiến mạng sống cho người khác, cho tất cả mọi người bao hàm cả chúng ta; và đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
- Tình thương và hạnh phúc
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để cho con người chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm cho con người, mỗi khi con người trở lại với Ngài. Hơn nữa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi lòng mỗi người, mời gọi con người sống yêu thương, mời gọi thúc đẩy tội nhân sám hối trở lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn tất cả được cứu độ, nhưng tuỳ con người. Ngài mời gọi, và con người có tự do. Ngài liên lỉ mời gọi con người hãy sống trong tình yêu của Ngài và với người khác, Ngài kiên nhẫn với con người, với tội nhân cho tới giây phút cuối đời mỗi người. Nếu ai cố tình từ chối lời mời gọi tình yêu, nếu ai cố tình sống trong thù hận như ma quỷ là những thần linh thù ghét Thiên Chúa và không muốn con người sống hạnh phúc, thì những người đó mới phải vào hoả ngục thôi. Và hoả ngục, cũng chính là do họ chứ Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Thiên Chúa không muốn ai đau khổ và bất hạnh.
Yêu thương là khởi đầu của một đời sống hạnh phúc. Yêu thương, thông cảm với nỗi khổ và yếu đuối của người khác, tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, muốn cho người khác những điều tốt lành, tìm cách làm cho người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn, đỡ cô đơn hơn, là cách hành xử của những người đang sống như con cái Thiên Chúa, đang sống trong yêu thương. Và chắc chắn những người sống như vậy, họ cảm nghiệm hạnh phúc, hạnh phúc khi làm cho người khác vui và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Tha thứ, hệ tại điều nào?
- Thiên Chúa có sẵn sàng tha thứ cho kẻ ngoan cố không? Tại sao?
- Không yêu thương là bất hạnh. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần?
Phải tha cho họ mấy lần, đặc biệt là những người đã nhiều lần xúc phạm đến chúng ta?! Liệu phải tha cho họ đến lần thứ bảy chăng?
Yêu thương tha thứ
Thiên Chúa yêu thương tha thứ cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đã bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa! Thiên Chúa luôn luôn tha thứ không kể số lần chúng ta xúc phạm Ngài!
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi cầu nguyện ngươi sẽ được thứ tha” (Sir.28, 2). Nếu một người còn nuôi lòng thù hận, thì sao họ lại dám xin Chúa tha thứ cho họ? Nếu một người không muốn tha thứ cho kẻ có lỗi với họ, thì họ cũng không thể đón nhận ơn tha thứ! Không phải vì Thiên Chúa không tha thứ, nhưng họ không thể đón nhận ơn tha thứ!
Thánh Phêrô hỏi Đức Yêsu: “khi anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ đến mấy lần, đến bảy lần chăng?”. Đức Yêsu trả lời: không phải đến bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy!
Để trở nên con cái Thiên Chúa, phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình!
Món nợ không thể trả
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Ngài thương cảm nỗi khổ đau của con người, Ngài cứu giúp con người, giải phóng con người khỏi mọi nô lệ.
Người đầy tớ trong dụ ngôn (Mt.18, 27) không thể trả nợ! Người chủ đã động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho người đầy tớ không thể trả nợ cho mình.
Món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa cũng không thể trả, vì chúng ta- thân phận con người- xúc phạm đến Thiên Chúa, một lỗi vô cùng lớn, làm sao chúng ta có thể trả?!
Thiên Chúa đã tha thứ tất cả cho chúng ta!
Nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta, chúng ta đâu có giống Thiên Chúa. Nếu chúng ta không biết thương xót, chúng ta đâu có là con Thiên Chúa!
Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu thương thì đã chu toàn Lề Luật (Rm.13, 8).
Tình yêu, thương xót, là nét đặc trưng của con người.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa
Dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa (Rm.14, 8).
Chúng ta là của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã chuộc chúng ta! Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, ngay cả lúc sống cũng như lúc chết!
Không còn gì là của riêng mình! Nếu có gì, cũng là của Thiên Chúa.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ, và sẽ làm cho chúng ta mọi điều tốt lành. Chúng ta là dân riêng của Thiên Chúa, là “của riêng” của Thiên Chúa.
Hãy an tâm, vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Hãy yêu thương tha thứ, hãy có lòng thương xót, vì Thiên Chúa là Đấng thương xót.
Chỉ khi sống như vậy, chúng ta mới được hạnh phúc.
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
– Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
– Sự kiện trên đã làm cho tôi xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi vì tôi đã tin.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới người trộm lành trên thập giá. Mặc dù quãng đời dĩ vãng chồng chất những tội lỗi, nhưng rồi anh đã được Chúa tha thứ. Chính Ngài đã nói với anh:
– Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta.
Tên sát nhân ở Nhật Bản, cũng như người trộm lành đều là những kẻ tàn bạo, thế mà Chúa đã xót thương, cho ăn năn sám hối vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, thì tự hỏi làm sao chúng ta lại khước từ, chẳng tha thứ cho nhau.
Chính Ngài đã khẳng định qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay:
– Thầy không bảo các con phải tha thứ đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy lần, có nghĩa là phải tha thứ cho nhau mãi mãi.
Và để xác minh cho sự thật trên người ta đã đưa ra một câu chuyện cụ thể đó là câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Như chúng ta thấy, khi mắc nợ ai, chúng ta phải hoàn trả cho họ, đó là bổn phận của đức công bằng.
Cũng vậy, tên đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn nén bạc, mà hắn thì không có gì để trả, vì thế, nhà vua cứ dựa theo sự công bằng để ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con và tài sản mà trả nợ. Thế nhưng, nhà vua đã không hành động như thế. Ông đã không cư xử với hắn theo sự công bằng, mà theo lòng thương xót, bởi thế ông đã tha bổng cho y, và đòi y cũng phải thương xót đối với những người chung quanh:
– Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, thì đến lượt ngươi, ngươi cũng phải thương xót bạn ngươi như ta đã thương xót ngươi.
Trong mối liên hệ giữa người với người, chúng ta thấy công bằng phải đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, bởi vì nếu không có công bằng thì cũng chẳng có bác ái. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta phải vượt lên trên cái nền tảng công bằng này để biểu lộ một tình yêu thương và tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có sẵn sàng tha thứ cho anh em để rồi bản thân chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Chúa hay không?
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ.”.
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa”. Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề “Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh” (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng — tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
“Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp và mọi môi trường sống của con người: nơi gia đình, nơi học đường và ngoài xã hội. Hậu quả của những cuộc trả thù là: bị thương tổn về tinh thần cũng như thể xác, thậm chí có những cuộc trả thù gây ra án mạng.
Cách đây không lâu do những mâu thuẫn nhỏ nhặt theo kiểu học sinh và sự “tinh tướng” của lứa tuổi mới lớn, nhóm học sinh cùng trường thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã gây ra cái chết cho chính một người bạn học của mình. Nếu chúng ta gõ trên google chữ “trả thù” thì nó sẽ hiện ra những hàng tít như: Đi ‘báo thù’ cho em, đánh nhau loạn xạ, người anh trai bị đâm chết; Dùng 6 xe tải chở 120 côn đồ đi trả thù; Đi trả thù, con chết cha nhập viện; Anh vác dao đi đánh nhau, trả thù cho em rồi bị đâm chết: Biết trách ai?…
Lối sống và cách cư xử trên đây đi ngược lại với đời sống và lời dạy của Đức Giêsu. Thật vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu là bài học về sự tha thứ. Trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài đã từng tha thứ cho những kẻ tội lỗi như ông Lêvi, ông Giakêu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài từng bị chống đối và bách hại bởi các luật sĩ, biệt phái…Đặc biệt vào những ngày cuối đời, Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xỉ nhục, bị đội mão gai, chịu vác thập giá và đóng đinh trên thập giá…nhưng Ngài không một chút oán hận những kẻ làm hại mình, trái lại Ngài còn cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 33). Chỉ một lời cầu nguyện với lòng sám hối của kẻ trộm lành, Ngài đã tha thứ và cho anh ta vào Thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sau khi sống lại, Ngài đã không nhớ đến tội của các môn đệ, nhất là tội chối Thầy của ông Phêrô. Ngài còn lập bí tích Giao hòa để tha thứ tội lỗi cho con người mãi cho đến tận thế.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Vì sao Đức Giêsu sống tha thứ và dạy cho chúng ta bài học về sự tha thứ?
Thứ nhất, vì con người là bất toàn, hay sai lỗi như thánh Gioan nói: “Ai nói mình vô tội đó là kẻ nói dối” (x.1Ga 1,10). Có tội thì cần được tha. Tôi có tội cần sự tha thứ của anh em. Anh em có tội cần sự tha thứ của tôi. Chúng ta có tội cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, tha thứ rất cần thiết giữa con người với nhau và con người cần sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ hai, khi thực hiện sự tha thứ là chúng ta nên giống Thiên Chúa, nên con cái của Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thứ ba, tha thứ là điều kiện để Chúa nhận của lễ chúng ta dâng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Thứ tư, tha thứ là điều kiện để được Chúa thứ tha: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”(Mt 6,14-15). Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca cũng dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Thứ năm, tha thứ sẽ đem lại bình an cho con người. Trái lại, hận thù sẽ làm cho con người mất bình an. Đúng như người ta nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”
Như vậy, qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Mấy ngày vừa qua, người dân vẫn chưa hết phẫn nộ hành vi dã man của người con gái khi hành hạ, đánh đập mẹ già ở Long An. “Thật phẫn nộ và tội nghiệp cho bà cụ gần đất xa trời mà vẫn phải chịu cực hình do chính đứa con ruột của mình gây ra. Vì bất kỳ một lý do gì thì cũng không thể chấp nhận một người con đối xử với mẹ như thế. Con gái ruột mà đi đánh đập, đổ đất cát có phân lên đầu mẹ già 88 tuổi. Dẫu mẹ bệnh hoạn, mất tỉnh táo thì cũng là mẹ, con cái không được phép hỗn hào bất hiếu chứ đừng nói đánh đập hành hạ đến nỗi vài ngày sau cụ bà đã chết dù được nhiều người thương tâm đưa cụ vào bệnh việnh cấp cứu chữa trị. Mọi người dân khi thấy sự việc như vậy ai cũng tức giận và mắn chửi cô con gái và nguyền rủa cô sẽ bị quả báo vì gieo sao gặt vậy. Đó là quy luật nhân quả.
Nhiều người mặc nhiên coi câu nói ‘gieo nhân nào gặt quả nấy’ như một quy luật. Vì thế khi thấy ai đó gặp phải điều không may, họ quy kết ngay rằng hẳn bà cụ hay cha mẹ bà cụ đã làm điều chi bất nhân thất đức nên mới bị trừng phạt ‘quả báo nhãn tiền’ như thế. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su không nói luật nhân quả là sai nhưng Ngài cho biết căn nguyên của luật ấy là chính Thiên Chúa và mỗi người đều đã nhận được cái “nhân” tối thượng là ơn tha thứ và bao dung nhờ lòng thương xót của Ngài: “Tôn chủ” đã tha nợ cho người đầy tớ món nợ vô cùng lớn chỉ vì “anh đã van xin Ngài.” Vì thế từ cái “nhân” tốt lành đó mỗi người sẽ phải sinh “quả ngọt” bằng cách “thương xót người khác như chính Chúa đã thương xót mình”. Ngược lại, người ta sẽ nhận phải cái kết là “trái đắng” nếu họ cư xử nghiệt ngã vô cảm với anh chị em mình.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát huống chi con người. Cho nên, hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa, yêu thương mọi người. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình. Cũng như Cô con gái bà cụ kia đã gieo sự bạo lực độc ác với mẹ mình giờ đây phải gặt lấy đau khổ mẹ chết và sự bất an trong tâm hồn suốt cuộc đời trước pháp luật và lương tâm.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, chúng ta phải sống yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, khủng bố, bằng súng đạn, người Kitô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung, tha thứ và xót thương vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể thương xót và bao dung tha thứ cho nhau. Tha thứ và yêu người để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không bao dung, tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Thương xót và Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung, thương xót và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Vì vậy, những việc lành phúc đức của chúng ta, việc chúng ta bao dung thương xót và tha thứ cho người khác đúng là những nhân tốt lành để chúng ta gặt được quả phúc mai sau, nhưng, chúng ta nhớ rằng đó cũng là việc chúng ta phải làm để đáp lại việc trước đó Chúa đã xoá cho chúng ta món nợ vô cùng lớn là tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vì thế chúng ta nên hãy nhớ luật nhân quả của Chúa là: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Amen.
THA THỨ NÉT ĐỘC ĐÁO NHẤT CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa tha thứ sạch hết mọi tội, xem như Ngài vất ra sau lưng, đúng như Lời Chúa trong Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa mới đọc: “CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,3-5).
Vâng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đã không ngừng loan báo sự bao dung, và kêu gọi tha thứ và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi theo. Qủa thế, trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu chịu biết bao nhiêu là khổ nhục: chửi mắn, sỉ vả, đánh đập, khinh khi… nhưng Ngài vẫn không thù vặt, sống không để bụng, chết cũng chẳng mang theo hay trả đủa dù Ngài làm được. Qủa thế, trên cây Thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời nói chưa đủ, Ngài đã đổ máu mình ta để tha tội cho con người (Mc 14,24). Vì vậy, Chúa Giêsu là Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa, Người làm cho những kẻ được Người gánh tội trở nên công chính (1Pr 2,24).
Tha thứ của Chúa Giêsu là thế đó, tha vô điều kiện, tha vô hạn nên hôm nay Ngài dạy: “Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tiếc thay, chúng ta rất đỗi nhỏ nhen! Chúng ta thể hiện sự nhỏ nhen ấy ngay trong cách sống của mình: thù vặt, bất bao dung, giận hờn cay đắng hay từ nhau… Cho nên, trong cuộc sống biết bao nhiêu chuyện cay đắng, nghiệt ngã xảy ra từ trong gia đình ra xã hội: cha con chém giết nhau, vợ chồng ly dị, con cái đánh đập cha mẹ, anh chị em đánh đập nhau, bạn bè đánh nhau, đồng nghiệp chơi xấu nhau, rồi ngay cả trong tình yêu trai gái cũng chẳng chịu tha thứ cho nhau cho nên dù tình yêu đầu hay tình cuối thắm thía đến mấy cũng chia tay để rồi tuyệt vọng tự tử. Cho nên mới có chuyện: “Tình đầu hay tình cuối? khi một ngày một người đã ra đi… Tình đầu hay tình sau? khi cơn đau không biết đến bao lâu? Một ngày ta được yêu, rồi một ngày một mình ta buồn thiu. Biết trống vắng, biết thức trắng, và biết nếm trái đắng. Mà đời thì như chiêm bao, khi yêu nhau biết ra sao ngày sau? Tình đầu thường lên men đau, nên đôi khi trái tim như nhỏ máu. Đường tình nào biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng chất ngất tiếc nuối. Thì tình đầu chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi… Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… làm sao anh hôn dòng tóc rối? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… làm sao… làm sao ta có đôi? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… mộ bia đề tên em đó sao? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… để tình đầu là tình cuối đau lòng nhau?” (Lời bài hát Tình Đầu và Tình cuối)
Yêu nhau mà không tha thứ cho nhau dẫn đến cái chết đau thương thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa, hạnh phúc và đáng sống. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy sống nét độc đáo nhất của đạo Công Giáo đó là sự tha thứ, tha thứ cho hết mọi người kể cả kẻ thù chúng ta. Nhưng không ai trong chúng ta lại không cảm nhận nỗi khó khăn khi phải tha thứ cho người khác. Thế thì động lực độc đáo nhất của Kitô giáo thúc đẩy chúng ta dám tha thứ cho nhau là gì? Thưa đó là khi chúng ta cảm nhận chính mình được tha thứ, mình sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác.
Cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu dùng câu chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách… mà chúng ta vừa mới nghe để dạy chúng ta biết lòng bao dung, tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa với con người và sự độc ác nhỏ nhen của con người với nhau. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ cho món nợ rất lớn như thế, nhưng ngược, lại mình vẫn không chấp nhận tha thứ món nợ nhỏ cho anh em mình. Tai sao?
Thứ nhất, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng vì con người ngày hôm nay đang dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi. Cho nên mình ăn gian nói dối, trộm cắp, phá thai, giết người… mà lương tâm mình bình thương không có gì là cắn rứt, không cần Chúa tha thứ (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, số 63). Thứ hai, con người quá yêu cái tôi của mình, cho nên những nhân đức của mình thì phóng cho to, còn những nét xấu giảm đến mức tối thiểu. Ngược lại, với người khác thì phóng đại cái tội lỗi người ta và giảm thiếu nhân đức của họ. Rồi, khi có lỗi với anh em, chúng ta chạy đến Chúa xưng tội, Chúa tha thứ hay là chúng ta chạy đến người mình phạm thôi, xin họ tha thứ; ngược lại họ lỡ phạm đến mình, chúng ta hậm hực không thể bỏ qua, “sống để bụng, chết mang theo”, hoặc bằng mặt chứ không bằng lòng. Hai lý do đó làm cho chúng ta mất cảm giác mình được Chúa tha thứ và cũng mất cảm giác bao dung tha thứ cho người khác.
Vậy phải làm gì? Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói: “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Vâng, sống cho Chúa nghĩa là sống với Chúa trong cầu nguyện. Chính trong cõi thinh lặng ấy ta có thể lắng nghe tiếng Đấng đã nói với ta trước khi ta nói lên lời, Ngài đã chữa lành ta trước khi ta có thể giơ tay kêu cứu, đã giải thoát ta trước khi ta có thể giải thoát kẻ khác và đã yêu thương ta trước khi ta yêu thương tha nhân. Vì vậy, khi cầu nguyện với Thiên Chúa càng sâu xa bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa bấy nhiêu, và ngược lại càng thấy mình khiếm khuyết và tội lỗi, chính lúc ấy chúng ta mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, để rồi “cũng tha cho kẻ mắc nợ với chúng con” (Mt 6,12).
Bình thường chúng ta đối xử với nhau bằng sức mạnh: bạo lực, chính trị, đồng tiền, toan tính thủ đoạn; nếu ai tha thứ thì cho là kẻ hèn nhát. Di sản tinh thần lớn nhất trên thế gian không phải là sức mạnh của bạo lực, tiền bạc mà là tình thương, tha thứ, vì tha thứ là chất xi măng xây dựng tình hiệp nhất, “tứ hải giai huynh đệ”. Hơn thế nữa, Lời Chúa dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có chuyện phải trách móc người kia, Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó chính là chất keo tuyệt vời nhất kết dính mối tình chúng ta với nhau hiệp nhất với Chúa Cha trên trời, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Với đức tin ấy, mời quý ông bà và anh chị em đứng lên tuyên xưng đức tin.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy?
Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa đi những gì không đúng trên trang viết!
Quả thực, cục tẩy thật cần thiết. Nếu không có nó thì trên trang giấy sẽ bề bộn những gạch xóa lem luốc. Cục tẩy sẽ làm mới lại những gì đã viết lên trang giấy không đúng. Cục tẩy sẽ chỉnh lại những lỗi viết sai hay ẩu thả của chủ nhân.
Cuộc đời con người cũng cần có một cục tẩy. Một cục tẩy của lòng bao dung và sự tha thứ. Một cục tẩy có khả năng xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Nếu cuộc đời chúng ta không dám sử dụng cục tẩy để xóa đi những bất hòa ghen tương, những hận thú tranh chấp, những lỗi lầm tội lỗi sẽ làm cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa! Muốn cuộc đời mình đẹp thì phải biết xóa đi những gì không đúng, không đẹp để trang giấy cuộc đời rạng rỡ hơn. Nhưng đáng tiếc, có rất nhiều người cho tới lúc tuổi già vẫn để cục tẩy của mình còn nguyên vẹn vì chúng ta ít can đảm xóa đi những hận thù.
Có một lần sau khi giảng về lòng bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông lão.
– Ông Jones, ông không sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù à?
– Tôi không có kẻ thù nào.
– Thật lạ lùng. Thế ông bao nhiêu tuổi rồi?
– 86.
– Ông Jones này, ông hãy vui lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi từ từ quay lại:
– Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống lâu hơn chúng nó thôi
Hôm nay Chúa bảo chúng ta phải tha thứ cho nhau không phải là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là rất nhiều và mãi mãi. Nếu chúng ta không tha thứ nghĩa là chúng ta vẫn để cục tẩy còn nguyên vẹn, đó là lý do khi nhìn vào trang giấy cuộc đời mình thì lắm lem luốt bởi hận thù chua cay. Con người chúng ta “nhân vô thập toàn”. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy biết tha thứ để cục tẩy của chúng ta mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của mình ở mãi trong kho. Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy chắc chẳng có gì tốt đẹp phải không?
Chúa Giêsu dạy ta biết tha thứ. Ngài đã sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô… Ngài đã dùng cục tẩy của sự tha thứ một cách quảng đại. Ngài đã xóa đi những vết nhơ tỗi lỗi của con người. Ngài đã xóa đi những bụi đời trong thân phận yếu đuối của con người. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên mọi người.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Không phải bao giờ mình cũng đúng mà có khi chính chúng ta là kẻ gây ra đau khổ cho tha nhân, thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Có một câu chuyện kể rằng:
A nói với B: “Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm”. B hỏi: “Thế anh có báo cảnh sát không?”. A trả lời: “Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone”.
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn “dĩ hòa vi quý”, không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Chuyển ngữ: Văn Hào, SDB)
“Con phải tha thứ bao nhiêu lần” (Mt 18,21)
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải đấu tranh với chính mình để thực hiện giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Chị ta nói “Là một tín hữu Công giáo, tôi thấy có trách nhiệm và bổn phận phải tha thứ cho chồng tôi, khi anh ta dùng bạo lựcnhư thể muốn giết tôi. Tôi tin rằng tôi phải bắt chước hành vi yêu thương của Đức Giêsu trên Thập giá, trước khi Ngài dang tay đón nhận cái chết. Tôi phân vân tự hỏi, có lẽ thay vì tha thứ, tôi đã có cảm giác thù hận từ sâu tận trong tâm hồn, và tôi đã tự nguyền rủa chồng tôi, mong anh ta chết quách đi cho xong. Tôi sợ rằng tôi đã không tha thứ hoàn toàn cho anh ta trước khi tôi chết, và như vậy tôi sẽ bị trầm luân mãi mãi”.
Giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay dạy chúng ta phải tha thứ đến vô tận. Có một điều khá gay go, là nếu chúng ta không thể tha thứ thì sao? Cái gì sẽ xảy ra, khi chúng ta muốn tha thứ, nhưng kẻ xúc phạm đến chúng ta lại không hối lỗi và không chịu đền bù thiệt hại. Có những khi, ví dụ trong trường hợp bạo hành xảy ra nơi gia đình, sự tha thứ còn là cớ giống như đổ thêm dầu vào lửa, sẽ phản tác dụng và không đem lại sự hòa giải và an bình thật sự. Tiến trình thực hiện việc tha thứ và hòa giải quả khá gian nan, và chúng ta không thể giản lược trong một vài chiêu thức giản đơn.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tiếp nối với đoạn Tin mừng của tuần trước, trong đó Chúa Giêsu vạch dẫn một lộ trình khởi đầu cho việc hòa giải, khi có những xúc phạm xảy ra trong cộng đoàn. Lộ trình này bắt đầu bằng việc cá nhân đến gặp gỡ cá nhân, rối tiếp theo là có thêm những trung gian, và bước cuối cùng là có sự tham gia của cả cộng đoàn. Đứng trước những chỉ huấn này, Phêrô đã hỏi tiếp Đức Giêsu, thế ông phải phải tha thứ bao nhiêu lần. Ông thấy ngay những khó khăn và trở ngại khi thực hiện tiến trình hòa giải như thế. Để trả lời, Chúa Giêesu đã khẳng định, việc tha thứ phải thực hiện một cách vô tận, không có một giới hạn nào cả. Có những sự việc gây nên nỗi đau triền miên và dai dẳng, vì thế cũng cần phải biết tha thứ vô giới hạn, đồng thời người phạm lỗi cũng cần phải hối lỗi một cách chânthực. Chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện công việc đầy khó khăn này, để hóa giải những tan vỡ, và thực hiện việc giao hòa với nhau.
Trong dụ ngôn tiếp theo về người đầy tớ mắc nợ một số tiền lớn đã được nhà vua tha cho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến món nợ khổng lồ như một gánh nặng. Món nợ đó biểu trưng cho những khó khăn trong việc hòa giải, và nó đã được cất đi khỏi tên đầy tớ. Điều này,Chúa cũng kêu mời chúng ta ý thức rằng: Sự hòa giải ở đây là một quà tặng được trao ban một cách nhưng không. Khi đón nhận món quà này, không phải do công lao của mình, chúng ta cũng phải ban trao lại một cách nhưng không giống như vậy. Tên đầy tớ không thể trả món nợ cho nhà vua, nhưng anh ta có thể sao chép lại cách thức mà nhà vua đã đối xử với anh ta, bằng cách cũng tha cho kẻ mắc nợ mình. Tuy nhiên anh ta đã không hành xử như thế. Anh ta làm ngược lại. Thế rồi nhà vua tức giận, đổi thay tình thế, rút lại sự tha thứ đã ban bố trước đây. Điều làm chúng ta cảm thấy chới với, đó là Thiên Chúa sẽ hành xử giống như thế. Ngài sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài nếu như chúng ta không muốn thứ tha một cách sâu xa tận đáy lòng. Câu nói này của Chúa Giêsu gợi nhắc đến lời kinh Lạy Cha mà chính Ngài đã dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con (Mt 6,12). Lời kinh đó đi kèm theo lời khuyến cáo: Chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta biết thứ tha cho nhau (Mt 6, 14-15).
Điểm nhấn ở đây, không phải là Thiên Chúa lật lọng, đổi thay thái độ, rút lại sự tha thứ đã trao ban, khi chúng ta không hành xử giống như Ngài đã nêu gương. Cũng không phải Thiên Chúa sẽ làm phương hại đến chúng ta, khi chúng ta không tuân theo lối bước của Ngài. Dụ ngôn chỉ muốn khuyến cáo một cách khá cứng rắn, để con tim chúng ta đừng trở nên xơ cứng khi không có lòng bao dung và phải luôn biết sẵn lòng tha thứ cho nhau. Một tâm hồn chai lỳ trong hận thù, dễ làm cho bạo lực tái bùng phát và tiếp diễn. Dụ ngôn chỉ muốn diễn tả một cách thái mà chúng ta phải chọn lựa để làm sao sự tha thứ luôn được chúng ta tâm đắc và thực hành. Chúng ta phải nỗ lực thứ tha, và cầu nguyện để tâm hồn chúng ta luôn biết trải rộng, sẵn lòng tha thứ cả khi việc thứ tha này chưa thực hiện được. Chúng ta khẩn cầu để xin Chúa giúp chúng ta biết mở toang cõi lòng hầu có thể nếm cảm lòng thương xót dịu dàng của Chúa đổ tràn trên chúng ta, giúp chúng ta cũng dễ dàng dàn trải lòng thương xót và sự đồng cảm giống như thế đến cho mọi người. Không cái gì có thể cất khỏi sự tha thứ của Chúa nơi chúng ta. Tuy nhiên, trong cách cư xử thường ngày, nhiều động thái chúng ta thực hiện làm cản che hiệu quả của lòng thương xót đó đang tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Thiên Phúc)
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?” Có lẽ nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Phê-rô lại đặt vấn đề con số.
Đối với Luật Do Thái, mấy chuyên viên luật đã cho một bảng kê khai phải tha cho ai mấy lần tùy trường hợp đối với gia đình hay người ngoài. Thông thường thì tha ba lần là tối đa, do đó đối với Phê-rô, tha bảy lần là vượt mức. Đối với Chúa Giê-su, tha thứ không có hạn chế, không có ranh giới. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là không biên giới và vô điều kiện.
Để minh họa điều đó Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe đọc. Dụ ngôn không khó hiểu, nhưng câu kết lại rất nghiêm trọng và như là một lời cảnh báo: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình thì Cha Thầy ở trên trời cũng cư xử với anh em như vậy.” Như thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy rằng, thái độ của chúng ta đối với anh em đồng loại thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
“Lấy đấu nào đong cho người khác thì Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu ấy.” Lời của Chúa Giê-su hôm nay sẽ trở nên án phạt cho chúng ta, nếu chúng ta không khoan dung đối với anh em chúng ta.
Thánh Phao-lô bảo: “Đừng theo thói thế gian.” Chúng ta thường thấy đời sống xã hội hôm nay là “ăn miếng trả miếng,” cũng như thời Mô-sê, luật báo oán vẫn được áp dụng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.”Chúa Giê-su đòi buộc chúng ta vượt lên trên sự hèn hạ xấu xa của con người.
Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su chứng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta vượt xa mọi tính toán của con người. Chúng ta lỗi phạm. Khối tội của chúng ta là một món nợ khổng lồ không thể trả được. Có ai trong chúng ta có thể lượng giá tất cả tội lỗi của chúng ta đối với Chúa không? Thánh vịnh nói: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được chăng?”
Thế nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta lại bắt lỗi anh em từng lời nói, chúng ta trách phiền người nầy người nọ và có lúc lại hiềm khích hận thù. Món nợ của chúng ta với Chúa to lớn như thế nào, anh em chỉ lỗi phạm một vài điều nhỏ nhặt, chúng ta không đủ can đảm tha thứ. Chúng ta xin Chúa thứ tha thế nào?
Bắt lỗi nhau, hiềm khích nhau để được gì? Ích lợi gì cho chúng ta? Chúng ta chỉ gặt hái sự bực bội, khó chịu và cáu gắt mà thôi. Thỏa mãn một chút tự ái, chúng ta đánh mất sự bình an, và đánh mất cả hạnh phúc.
Hãy nhìn Chúa Giê-su. Ngài thanh thản nhẹ nhàng. Ngài yêu thương những người tội lỗi: Gia-kêu, Maria Ma-đa-lê-na, người phụ nữ ngoại tình… Chúa Giê-su cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài “tìm kiếm những gì đã hư mất,” Ngài phục hồi những tâm hồn hoen ố. Cũng như trên đỉnh đồi Can-vê, trong nỗi thống khổ tột cùng, Ngài nhìn thấy những kẻ thù của Ngài hả hê đắc thắng, ngạo nghễ, vui cười trên đau khổ của Ngài. Ngài xin Cha tha cho họ… Như vậy, thái độ của Chúa không đủ làm cho chúng ta suy nghĩ hay sao?
Chúng ta cần được Chúa thứ tha, vì trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, những người không thể trả nợ, sao chúng ta lại có thể chứa chất trong lòng những tự ái, ích kỷ, ghen tỵ? Sao chúng ta không thể rộng lượng như Cha trên trời?
Đối với chúng ta việc tha thứ đôi khi rất khó, nó đòi hỏi ta phải có lòng yêu thương nhiều, đòi hỏi quên mình và khiêm tốn. Phải, đôi khi nó đòi hỏi chúng ta thật nhiều, nhưng đó cũng là điều kiện tiên quyết để được tha thứ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta quên mình để tha thứ như Ngài: “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Thương, nên chúng ta hãy cố sống yêu thương và học bài học hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ dễ tha thứ và tạo bầu khí xung quanh trong lành và hạnh phúc.
Thế gian đầy dẫy hận thù, tranh chấp. Chúng ta không thể rót vào biển lửa hận thù đó một chút yêu thương sao? Chúng ta không thể xoa dịu những vết thương hận thù giữa anh em chúng ta, xây dựng một tình huynh đệ chân thành giữa anh em đang chung sống với chúng ta trong cuộc sống cam go nầy sao?
Chúng ta mơ tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không ở nơi hận thù ghen ghét. Hạnh phúc thật chỉ đến trong tình yêu. Thánh Phao-lô, trong nhiều bức thư đã khích lệ giáo dân của ngài sống yêu thương, tha thứ. Hôm nay, chúng ta vừa nghe trong đoạn thư gửi giáo đoàn Rô-ma những lời rất đặc biệt mà nhiều khi chúng ta không để ý: “Không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa gì?
Nếu sống cho mình là sống theo bản năng và ý muốn của mình, thì chúng ta chỉ gieo rắc khốn khổ thôi. Sống cho Thiên Chúa là mở rộng Vương Quốc Tình Yêu của Ngài; nơi đó, chúng ta mới tìm được điều chúng ta mong ước là Hạnh Phúc.
Hôm nay, trong hiến lễ tình yêu nầy, chúng ta sẽ cùng với Chúa Giê-su cầu xin cho “Nước Cha trị đến”. Và Nước Cha chính là Nước Tình Yêu và tha thứ.
Chúng ta sẽ ăn lấy Đấng đã yêu thương chúng ta, tha thứ và liều mạng cho chúng ta, chúng ta hãy đem tình yêu vào gia đình, làng xóm và trong môi trường chúng ta đang sống…
Xin cho con biết:
“…đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,…
đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
***
Nhiên liệu để đi xa hơn:
Tha thứ
Mục sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Tha thứ
Cha Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại, có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù. Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai”. Có người trước khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ”.
Một sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả”.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật như Ngài đã nói. Trong Cựu Ước, Luật Môsê dạy tha thứ cho anh em, và ra luật báo oán là mắt đền mắt răng đền răng. Chúa Giêsu bảo phải tha thứ. Mấy ông Pharisêu lại tỉ mỉ cho phép tha thứ giới hạn một số lần nhưng không đồng ý với nhau. Người thì cho là chỉ tha ba lần, người lại cho năm hay bảy lần. Phêrô không rõ nên theo phái nào và đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải là bảy lần không?” Nhân câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu dạy chúng ta không phải chỉ tha bảy lần mà tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha không giới hạn. Và nhân dịp đó Chúa cho một dụ ngôn người đầy tớ vô nhân.
Dụ ngôn không khó hiểu cho lắm, nhưng chúng ta cần suy nghĩ để thi hành đúng với những gì Chúa dạy. Thánh Matthêu nói đến một vị vua để có thể kết luận một cách hợp lý. Chúa muốn chúng ta tha thứ cho nhau vì chúng ta được tha thứ trước và nhiều hơn gấp triệu lần. Một người nợ nhà vua hàng ngàn tỷ bạc, vì không có gì trả nên vua đòi phải bán cả gia sản và cả vợ con của y để trả nợ. Thời bấy giờ người ta còn buôn nô lệ, vì thế có vấn đề bán cả vợ con y. Nếu tên này nợ vua nhiều như thế thì không phải là một tên nghèo, cũng không là một người dân thường, gia sản của y cũng khá to có thể bù được món nợ phần nào. Nhưng tên này đã sấp mình xuống lạy lục, vì anh biết số nợ của anh quá to, và anh không có gì để trả.
Chúng ta cũng thế, chúng ta phạm đến Chúa gần như hàng ngày, món nợ của chúng ta như thế nào? Chúng ta có biết được không? Chúng ta không mấy ý thức. Đến lúc ra trước mặt Chúa, chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Vua Đavít sau khi phạm tội đã van nài Chúa như thế nào: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu thương xót con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…” Chúa sẵn lòng tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta van xin Ngài. Nhưng… với một điều kiện là chúng ta phải tha thứ cho anh em chúng ta.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng, nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta như Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì đừng mong được tha thứ. Người mắc nợ vua, khi đã được tha món nợ kết xù của mình, gặp một người bạn mắc nợ chỉ vài trăm đồng đã bóp cổ anh, đòi phải trả. Người bạn đã quì xuống lạy anh nhưng anh một mực không tha và đem anh bỏ tù. Thái độ bất bao dung này đã làm cho những người bạn của y bất mãn và buồn. Họ đem trình mọi việc cho vua. Lúc ấy vua đòi tên kia đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ cho ngươi vì ngươi đã van xin ta, sao ngươi không thương đồng bạn của ngươi như ta đã thương ngươi?” Và vua cho tống ngục tên đầy tớ độc ác kia…
Tha thứ cho anh em là một đòi buộc không thể tránh né, vì chúng ta đã được tha thứ quá nhiều. Những người anh em chúng ta có lỗi phạm thì cũng không đáng giá gì so với món nợ của chúng ta với Chúa. Thế mà Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, tại sao chúng ta không sẵn lòng tha thứ cho anh em chúng ta? Tại sao chúng ta không thấy tình yêu của Chúa mà chỉ thấy lỗi phạm của anh em?
Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúng ta cầu xin như thế, và chúng ta có thực sự làm như chúng ta xin không? Đừng đọc câu này một cách hời hợt, hãy đọc với tất cả tâm hồn thành thật của chúng ta. Chúng ta là ai mà bắt tội anh em đang lúc Chúa nhân từ vẫn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta? Ngay trong Cựu Ước, Giuse, con của Giacob đã tha thứ cho anh em đã bán mình. Giuse không được Chúa dạy như chúng ta, nhưng ông đã biết tha thứ. Chúa Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người làm khổ cho chúng ta. Và chính Chúa đã tha cho những kẻ hành hình đóng đinh Ngài. Như thế không đủ cho chúng ta noi theo hay sao? Chúa còn dạy chúng ta sống hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Hiền lành là luôn biết tha thứ, không tích lũy những sự nhục mạ khinh chê. Khiêm nhượng là chấp nhận tất cả mọi điều sỉ nhục có thể có. Chúng ta noi gương Chúa như thế nào?
Trong nhiều giáo xứ, là cộng đoàn dân Chúa, không thiếu những chuyện hận thù ganh ghét, tranh chấp, gây bất hòa trong cộng đoàn. Trong các hội đoàn cũng thế. Giáo đoàn Côrintô đã gây bao nhiêu khó khăn cho thánh Phaolô và ngài đã nặng lời lên án tất cả những chia rẽ tranh chấp trong cộng đoàn đó. Tha thứ mới có thể hiệp nhất.
Trong gia đình cần phải tha thứ cho nhau nhiều hơn vì cuộc sống chung vẫn có những va chạm nhiều lúc rất trầm trọng. Nhiều gia đình vì không biết tha thứ đã gây nên những đau khổ lâu dài. Cần có can đảm để tha thứ. Và sự tha thứ sẽ mang lại bình an cho tâm hồn.
Thánh Phaolô đã dạy: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn chưa nguôi”. Chúa Giêsu cũng bảo: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ… Anh em đừng lên án thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”… Thánh Phaolô cũng nói: “Đức mến chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả” và như thế có thể hiểu là tha thứ tất cả. Chúng ta cần theo gương của Cha trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành người dữ… Chúng ta đố kỵ, hiềm khích… làm sao chúng ta tự nhận mình là con của Cha trên trời?
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy hận thù chia rẽ, chúng ta cũng bị nhiễm lây thói thế gian. Chúng ta cũng hận thù tranh chấp như những người không biết Chúa sao? Vì sao Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá? Phải chăng là để quy tụ tất cả nên một, để bôi xóa hận thù? Chúng ta lại trở nên kẻ thù của thập giá như thánh Phaolô nói sao?
Gương lành không thiếu, chỉ thiếu thiện chí và can đảm.
Hôm nay, khi dâng lên Chúa của lễ là cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy dâng với bàn tay thanh sạch, nghĩa là không vương vấn những tị hiềm nhỏ nhen, những tranh chấp, những bất hòa của chúng ta, một lòng một ý để tạ ơn và tôn vinh Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy: “Khi đến dâng của lễ trước bàn thờ, nếu ngươi nhớ có mối tỵ hiềm với người anh em, hãy để của lễ ở đó, đi về làm hòa với người anh em đã, rồi đến dâng của lễ”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ vui nhận của lễ khi chúng ta dâng lên với tâm tình yêu thương thành thật. Chúa Giêsu là của lễ tình yêu độc nhất khi Ngài tự hiến trên thập giá, và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Chúng ta cũng phải trở nên của lễ tình yêu như thế nếu chúng ta muốn Chúa thương nhận của lễ chúng ta dâng. Hơn nữa Chúa Giêsu lại chứng tỏ tình yêu của Ngài một cách thiết thực hơn khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ăn lấy tấm bánh tình yêu này, chúng ta phải trở nên tình yêu sống động và làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đầy gian nan của chúng ta. Hãy biến cuộc sống thành tình yêu, đối với Chúa và với anh em, chúng ta mới trở nên con của Cha trên trời và cuộc sống chúng ta sẽ tươi sáng và hạnh phúc hơn.
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha thứ lẫn cho nhau.
Qua câu chuyện của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta thấy được hai thái độ khác nhau của hai chủ nợ. Người chủ nợ thứ nhất tượng trưng cho Thiên Chúa. Còn người đầy tớ mắc nợ mười ngàn nén vàng, tượng trưng cho con người tội lỗi. Mười ngàn vàng là một con số quá lớn, vượt khỏi trí tưởng tượng của người nghe. Ý muốn ám chỉ một món nợ mà con nợ sẽ không bao giờ trả hết. Cam kết trả hết nợ chỉ là một lời hứa liều khi bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào khác. Biết vậy, nhưng người chủ nợ lại là người nhân ái, đã động lòng thương trước lời van xin của tên đầy tớ. Và người chủ nợ đã một việc hết sức bất ngờ, đó là trả tự do và tha hết nợ cho anh ta trong khi anh ta chỉ dám xin khất nợ mà thôi.
Cũng thế, tội lỗi của con người đối với Thiên Chúa quả thực là một món nợ khổng lồ. Bình thường thì chẳng tài nào xoá đi được. Nhưng Thiên Chúa đã chạnh lòng thương. Ngài đã tha thứ không chỉ bằng một lời phán hết nợ, mà còn bằng cách cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ và sau cùng đã chịu chết trên thập giá để giải thoát chúng ta.
Nếu như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng có bổn phận phải tha thứ một cách nhưng không cho người khác. Món nợ của con người đối với nhau, quả thật là nhỏ bé, là tầm thường, so với món nợ đối với Thiên Chúa. Một nén vàng là mười ngàn đồng bạc. Như thế, một vạn nén vàng vị chi là một trăm triệu đồng. Một trăm triệu đồng mà đem so với một trăm đồng thì quả là một trời một vực.
Nhưng cách cư xử của tên đầy tớ vừa mới được tha hết nợ đối với bạn hắn thì lại hoàn toàn trái ngược với thái độ của người chủ nợ đối với hắn. Cũng một lời van xin, nhưng hắn không hề nhớ tới điều hắn đã được hưởng. Người mắc nợ hắn đã bị tống giam vào ngục cho đến khi trả nợ xong. Chủ nợ của hắn buộc lòng phải đối xử với hắn như hắn đã đối xử với bạn hắn. Có điều một trăm đồng bạc thì còn có khả năng trả được, chứ mười ngàn nén vàng thì vô phương cứu chữa. Người đầy tớ không phải chỉ là một kẻ vụng tính mà còn là một con người độc ác, không có được một chút tình thương đối với người bạn của mình.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn đọc hằng ngày: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phải chăng đó chính là lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết sống khoan dung và nhân ái đối với những người chung quanh để rồi chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng khoan dung và nhân ái của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“Thưa Cha, con đã tha thứ cho em của con và bao lần con đã cố gắng để làm hòa, nhưng nó vẫn không chịu, gặp mặt con là nó bỏ con đi chỗ khác, con thực sự rất đau buồn; xin Cha giúp con có cách nào?” Cũng có trường hợp khác “Thưa Cha, con không thể nào mà tha thứ cho người đó được, cho dù người có đi đâu, có chết và hóa ra tro đi nữa con cũng không thể nào tha thứ; mỗi khi nghĩ đến, hay nghe nhắc tới cái tên của người đó là con rất giận, điên tiết lên được; Cha thấy đó, làm sao con có thể tha được đúng không?” Không biết anh chị em đã có lần có rơi vào một trong hai hoàn cảnh đáng thương này không? Nếu có, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì để được tha thứ, hòa giải với nhau? Nếu được đưa ra lời khuyên hay sáng kiến để hòa giải, chúng ta sẽ phải làm gì? Thật vậy, với tài sức và khả năng hạn hẹp, thật khó và quá nan giải, để có thể tha thứ, làm hòa và ngay cả đưa ra phương cách để giúp đỡ nhau. Tạ ơn Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi đường dẫn lối cho chúng ta. Miễn là chúng ta biết khiêm tốn, chịu mở lòng, để cho ơn của Thánh Thần tác động và cố gắng thực thi với ơn sức mạnh của Chúa.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đưa ra cho chúng ta lời dạy và mẫu gương của Chúa Giêsu trong việc tha thứ. Thật ra, chúng ta không thể nào tha thứ cho anh chị em mình, nếu trước tiên chúng ta không cảm nhận và tin rằng chính bản thân mình đã được yêu thương tha thứ bởi Thiên Chúa là “Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.” Nếu không có ơn tha thứ của Chúa trong tâm hồn và đời sống, thì cho dù chúng ta có cố gắng nỗ lực cách mấy đi nữa, e rằng với sức của mình may ra chỉ “quá tam ba bận” để mà tha thứ cho anh chị em mình. Khi đưa ra vấn đề cho Chúa về việc tha thứ, Phêrô đã đặt ra một con số mà ông cho và tưởng chừng là quá hoàn hảo, không thể tốt hơn được. “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Khi hỏi điều này, có thể Phêrô cho rằng, Chúa sẽ đồng ý và tán dương cách ông làm như vậy. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với mong muốn của Phêrô và đã làm cho ý tưởng cao đẹp ông của bị sụp đổ. “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” Thật vậy, con số “bảy mươi lần bảy” mà Chúa Giêsu đưa ra nghĩa là tha thứ không có giới hạn về số lần, tha thứ vô điều kiện. Đây không chỉ là lời dạy hay giáo điều, nhưng chính là căn tính yêu thương khoan dung và tha thứ của Thiên Chúa đang dành cho chúng ta.
Vậy làm sao chúng ta có thể sống tha thứ theo như cách mà Chúa Giêsu đã đưa ra và chỉ dạy? Dụ ngôn giữa ông chủ rất phóng khoáng và giàu lòng nhân nghĩa, hoàn toàn trái ngược với sự ích kỷ, hẹp hòi và bất nhân của tên đầy tớ. Câu chuyện này đang phản ánh chính thực tế về mối tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi con người chúng ta. Nếu chúng ta thử làm một phép tính về việc hơn thiệt qua cách đề nghị của Chúa Giêsu: “Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Thử hỏi trong một ngày, một tháng, một năm, người khác đã xúc phạm, gây lỗi với chúng ta bao nhiêu lần? có nhiều đến mức mà không đếm được không? mình có thể tha thứ không, nếu có thì mấy lần? Trong lúc đó, mỗi ngày trong cả cuộc sống, chúng ta đã không biết bao nhiêu lần phạm lỗi đối với Chúa, con số là vô vàn, không thể đếm được. Như vậy, phần thiệt là chắc chắn 100% là thuộc về chúng ta.
Biết vậy, nghe thì cũng hợp lý, nói thì dễ, nhưng để thực hành thì thật là khó, vì sự hẹp hòi ích kỷ của bản thân và sức hạn hẹp của con người. Thì đây, chính là lúc mà chúng ta cần đến ơn trợ giúp của Thiên Chúa. Vì không phải chính chúng ta, nhưng Thiên Chúa là Đấng tha thứ và ban ơn. Những lúc mà chúng ta không thể sống tha thứ, thì hãy nhớ lời dạy từ Sách Huấn Ca: Dẫu biết rằng với thân phận yếu đuối tội lỗi, chúng ta luôn mang trong bản tính của xác thịt những thói hư nết xấu như thịnh nộ, giận dữ, ghen ghét; tất cả những thứ đó đều ghê tởm và đáng lên án. Ai trong chúng ta cũng biết, và chắc hẳn không ai muốn mình bị coi khinh và bị lên án vì nó. Nhưng làm sao để chúng ta có thể. Cầu nguyện để xin ơn tha thứ là phương cách để giúp cho chúng ta có sức mạnh mà có thể lướt thắng những yếu đuối đó. “Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.”
Đấng đáng kính ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận khi được hỏi, làm sao Ngài có thể tha thứ cho những người bắt hại, tống giam tù tội, và gây nên cho Ngài bao nhiêu cực hình. Ngài đã trả lời: “Vì Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho tôi, chính Chúa và đạo của Chúa dạy tôi phải yêu thương, tha thứ”. Và trên hết sức mạnh để Ngài có thể tha thứ cho mọi người, đó chính là cầu nguyện; “cầu nguyện cho chính mình, cầu nguyện cho những người bách hại, làm khổ mình để họ cũng được Chúa ban ơn mà sống tốt.” Thật vậy, chỉ có ơn Chúa qua sức mạnh của cầu nguyện mới giúp cho chúng ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, để chúng ta mới có thể phần nào sống quảng đại vị tha với anh em mình.
Lạy Chúa, thật là khó, và dường như không thể đối với chúng con khi phải yêu thương tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Dẫu biết vậy, nhưng xin hãy luôn ban sức mạnh hầu giúp chúng con luôn vững tin vào tình yêu thương tha thứ của Chúa; xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để cảm nghiệm được chính ân sủng này. Nhờ đó, chúng con sẽ có một trái tim biết yêu thương quảng đại, để mỗi ngày chúng con sẽ cố gắng và sẵn sàng tha thứ cho anh chị em như chính Chúa yêu thương tha thứ cho chúng con. Amen.
26. Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “Lạy Thày, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không?” (Mt 18, 21). Ông hỏi Chúa Giêsu như thế vì ông tự nghĩ rằng: Theo các Thầy dạy luật, các Rabbi, thì những người công chính nên tha thứ cho những người xúc phạm tới mình 3 lần, sự bất quá tam. Đến lần thứ IV thì không buộc phải tha thứ cho họ nữa! Do đó, ông tự nghĩ: Tha cho anh em đến bẩy lần là điều quá sức, quá quảng đại và đã chứng tỏ rằng mình thực thi như thế là anh hùng và đáng Chúa khen ngợi rồi!
Thế nhưng, câu trả lời của Chúa làm cho ông chưng hửng, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh đề nghị của ông với sự đòi hỏi của Chúa thì thấy mình còn quá xa sự trọn lành, xa đòi hỏi của Tin Mừng, Chúa trả lời: “Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy” (Mt 18, 22)
Để giải thích cho Phêrô tại sao cần phải luôn tha thứ, Đức Giêsu kể lại dụ ngôn những kẻ mắc nợ. Người đầu tiên được ông chủ tha hết nợ mặc dầu anh nợ ông chủ một số tiền lớn. Nhưng chính anh chỉ sau đó ít lâu lại không biết thương xót và tha cho người khác là kẻ chỉ mắc nợ anh một số tiền nhỏ.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
Tha thứ là một hành vi nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người nhưng không phải không làm được. Tha thứ cho người khác vì lợi ích của chính ta, chính ta được tha thứ, điều ấy sẽ làm ta hạnh phúc hơn. Người ta không thể nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người bị xúc phạm tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình. Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người. Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn “Không phải với sự oán giận mà sự oán giận được xoa dịu; với sự không oán giận, sự oán giận mới được xoa dịu”. Tha thứ trong Kitô giáo vượt xa sự không bạo tàn và sự không oán hận. Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: “Ngươi này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”(Sir 27, ). Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân. Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Đây là một phương trình phải luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không thể tha thứ, thì làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho bạn? Ngài muốn tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn đóng cửa lòng, thì lòng thương xót không thể bước vào. Có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, con tha thứ nhưng con chẳng thể quên được điều tồi tệ mà người đó làm cho con…’. Đây lại là một vấn đề khác. ‘Hãy khẩn cầu Thiên Chúa để Ngài giúp bạn quên điều đó đi.’ Thật vậy, người ta có thể tha thứ nhưng để quên đi lỗi lầm thì không luôn luôn thành công. Đôi khi chúng ta nói rằng tôi tha thứ cho bạn nhưng thật ra ý tôi là muốn bắt đền bạn; bạn phải trả giá. Tha thứ kiểu này thật sự không được. Hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ: đó là tha thứ đến tận cùng.
Ước gì mỗi người chúng ta, để đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nhận lãnh sự tha thứ và rồi chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác nữa – tha thứ thật lòng. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ chào tôi khi gặp nhau trên đường nữa, nhưng tự thâm tâm tôi đã tha thứ cho bạn rồi. Và như thế chúng ta xích lại gần điều vĩ đại của Thiên Chúa, đó chính là lòng thương xót. Khi tha thứ, chúng ta mở tâm hồn ra để lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào và tha thứ cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều cần phải khẩn nài sự tha thứ. Tha thứ và rồi chúng ta sẽ được thứ tha. Chúng ta hãy có lòng thương xót người khác, và chúng ta sẽ cảm nhận được lòng thương xót đó nơi Thiên Chúa, là Đấng một khi đã tha thứ thì hoàn toàn quên hết lỗi lầm của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Xót Thương và hay tha thứ, xin dạy con bài học nhân ái, độ lượng và thứ tha, để con không giữ lòng hiềm thù, oán hờn và ghen ghét bất cứ ai đã xúc phạm, gây ra đau khổ cho con, xin giúp con luôn tha thứ cho mọi người vô tình hay hữu ý xúc phạm tới con. Amen.
(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ. Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng. Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều. Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng. Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi thiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa. Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa. Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân. Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác. Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài. Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.
1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua. Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ. Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại. Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa. Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác. Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bay giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.
2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào? Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ. Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng. Tuy nhiên Phúc âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán. Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng. Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào? Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải. Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.
3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không. Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên. Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước? Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt. Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh. Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện. Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.
4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng. Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi”.
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
* Tại sao phải tha thứ cho nhau?
Không phải chỉ bây giờ chúng ta mới đặt ra câu hỏi này. Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của tình thương và sự tha thứ, thì các môn đệ cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự như vậy.
* Tại sao phải tha thứ và tha thứ bao nhiêu lần?
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho câu hỏi chúng ta vừa đặt ra: Tại sao phải tha thứ và phải tha thứ bao nhiêu lần? – Chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta cần tha thứ luôn luôn cho anh em, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta.
Như thế, tha thứ là sống noi gương Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người sống hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Nếu như từ đầu, khi con người phạm tội xa cách Ngài mà Thiên Chúa đã không có biện pháp tha thứ, thì chắc chắn sẽ không có tương lai gì tốt đẹp cho con người, nhưng kể từ giây phút có sáng kiến thực hiện chương trình tha thứ cho con người, thì từ giây phút đó nhân loại có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nếu nhân loại biết vâng phục lắng nghe lời dạy của Ngài mà tha thứ cho nhau.
Vậy mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta để tâm hồn mình hòa điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hòa mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Trong câu chuyện dụ ngôn, Chúa cho thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu, nên không tha thứ cho nhau được.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì người đã van xin ta; con ngươi, sao không chịu thương hại bạn ngươi như ta đã thương hại ngươi?”và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu anh em không hết lòng tha thứ cho nhau”. Như thế, từ chối tha thứ cho anh em là ngăn chặn ơn tha thứ đang dào dạt tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy. “Vì chính khi thứ tha là khi chúng ta được Thiên Chúa tha thứ”.
Thưa anh chị em,
Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng tích chứa trong lòng. Chuyện ngày xửa ngày xưa, ba bốn đời… khi vui, thuận vợ thuận chồng, thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Còn Chúa, đã tha thứ thì Ngài tha luôn, vì “nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129).
Chúng ta hãy cầu nguyện như Bà Corrie-Ten-Boom khi thấy mình không thể tha thứ được: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ được cho anh em con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Amen.
29. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ
(Suy niệm của Anmai)
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23 thường niên tuần trước. Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta một cách hết sức tế nhị khi sửa lỗi với anh chị em đồng loại. Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại nếu như anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Thánh Phêrô vốn dĩ là một con người mang trong mình dòng máu nóng, tính bộc trực nên vừa khi nghe nói vấn đề gì đó Ngài không chịu suy xét, Ngài không trầm lắng đủ để giải quyết vấn đề. Ruột của Ngài thẳng như ruột ngựa vậy, bụng nghĩ sao là nói vậy ngay chứ không hề suy tính thiệt hơn. Nói về việc anh em đồng loại xúc phạm đến mình, Ngài rất hào phóng, rất rộng rãi. Tha một lần đã là quá đáng lắm rồi, theo như cách suy nghĩ của nhiều người. Ngài hào phóng, Ngài nói với Chúa Giêsu là Ngài tha bảy lần tưởng chừng là được Thầy Giêsu khen nhưng đáng tiếc Thầy Giêsu đã nói với Ngài không phải là tha bảy lần nhưng lại là bảy mươi lần bảy. Bảy mươi bảy lần: có bản ghi là 77 lần 7, trong câu trả lời này, Chúa Giêsu đã đưa vào bài ca báo thù của Lamek nơi sách sáng thế 4,24 “Cain được báo thù gấp 7, nhưng Lamek tới 70 lần 7”. Nhưng thay vì nói báo thù thì Chúa Giêsu lại nói tha thứ. Cả hai cách nói đều có ý nói số lần là vô hạn vì thế ở đây Chúa dạy là phải tha thứ luôn.
Luật xưa dạy người ta mắt đền mắt răng đền răng nhưng Chúa Giêsu đến Chúa Giêsu đã sửa luật cũ đó. Sự tha thứ cho đồng loại để được Chúa nghe lời cầu xin được đề cao. Chúng ta được sinh ra và sống thời Tân Ước – thời của Chúa Giêsu – khác với những gì Cựu Ước đã dạy nhưng lòng chúng ta cứ xử với anh chị em đồng loại như thời Cựu Ước vậy. Chúng ta vẫn mang trong mình cái máu đòi nợ máu của anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Một câu chuyện có thật, nó mang đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM: Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất giọng chậm rãi: “Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người”. Cả phòng xử im lặng lắng nghe. Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: “Hôm nay tôi đến đây để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình”. Nhiều tiếng thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Cách nay không lâu, Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy, Phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhâà nội ngất lịm, tưởng như có thể chết cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường Đại Học Mỹ thuật Thành phố HCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường và sống vì người khác.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân nói: “Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện thoại, bà ấy nói: “Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn hơn”. Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình”. Để có thể dự phiên tòa hôm nay, từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên Thành phố HCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: “Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải lên đây nói cho rõ, may ra Hội đồng Xét xử mới tin mà xem xét cho nó. Mong là nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích”.
Cuối cùng, Hội đồng Xét xử cũng chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi ngoai dù thời gian có trôi qua…
Câu chuyện thật giữa đời thường và hết sức thường này gợi lên cho chúng ta về lòng bao dung, về tình người, về lòng nhân đạo, về sự tha thứ… Người cha trong câu chuyện này ắt hẳn là người không phải là người Công giáo nhưng ông mang trong mình tâm tư của người Công giáo và ông đã sống theo lời Chúa Giêsu dạy dù ông không biết Chúa Giêsu là ai. Người cha trong câu chuyện này đã sống tột đỉnh của lòng bao dung của sự tha thứ. Ông cũng không ngại bộc bạch rằng sự tha thứ ấy không dễ chút nào với tình cảm của ông cũng như sự phản đối quyết liệt của gia đình về quyết định tha thứ của ông. Sự tha thứ của ông tưởng chừng như đơn giản nhưng thử hỏi mỗi người chúng ta khi đứng vào vị thế của ông, chúng ta dẫu là người Công giáo, thấm nhuần lời giáo huấà nội của Chúa chúng ta có can đảm tha thứ cho kẻ đã giết đứa con thân yêu của chúng ta không? Hay là chúng ta đòi người khác phải đền nợ máu cho chúng ta, người khác phải trả cho chúng ta đến đồng xu cuối cùng.
Trở lại với trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải nói là người có biệt tài về dùng ví dụ cũng như phóng đại tính chất nghiêm trọng trong ví dụ của mình. Dừng lại một chút chúng ta sẽ thấy khập khiễng làm sao ấy giữa hai món nợ. Một bên thì nợ vua mười ngàn nén vàng, một bên thì người bạn nợ một trăm quan tiền. So sánh giá trị giữa một trăm quan tiền và mười ngàn nén vàng chúng ta thấy một khoảng cách xa vời vợi. Điều này Chúa Giêsu muốn nói rõ cho mỗi người chúng ta là chúng ta nợ Chúa quá nhiều và Chúa tha cho chúng ta còn anh chị em chúng ta nợ chúng ta quá ít mà chúng ta lại đòi anh em chị chúng ta trả cho bằng hết như trong ví dụ của Chúa Giêsu.
Đừng nói gì đến lòng mến, lòng bác ái. Chỉ cần nói đến sự công bằng thôi thì chúng ta thấy chúng ta sống quá ư là bất công. Bất công không chỉ với Chúa mà con bất công với anh chị em đồng loại. Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn thường râm ran: Xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Miệng thì đọc thế nhưng lòng có thật sự tha hay không? Hay là miệng thì đọc nhưng lòng cứ muốn đòi nợ máu anh chị em đồng loại của mình.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe nhắc nhớ mỗi người chúng ta: không ai trong chúng ta được sống cho mình… chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa… Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Chúa vì chưng Chúa đã sống, đã chết là để làm chúa kẻ sống và người chết. Chúa là Chúa của mỗi người chúng ta vậy mà nhiều lúc chúng ta tước đoạt quyền làm Chúa trên cuộc đời chúng ta. Tước đoạt quyền làm chúa của Chúa là chuyện hết sức là bi hài. Chỉ có Chúa mới làm chúa, làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta vậy mà chúng ta muốn làm chúa, làm chủ cuộc đời người khác và bắt người khác phải làm tôi, phải trả nợ cho chúng ta.
Nếu đọc thêm một câu của đoạn thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma nữa chúng ta sẽ thấy Ngài nói: “Còn ngươi, tại sao ngươi xét đoán anh em ngươi? – Hay ngươi, tại sao ngươi khinh anh em ngươi? Vì ta hết thảy sẽ ra trước tòa Thiên Chúa”. (Rm 14,10). Chúng ta thường mang cái bệnh xét đoán anh em, kết án anh em và ra hình phạt với anh em. Và thường hơn nữa trong cuộc sống thường nhật chúng ta hay mang trong mình chứng bệnh khinh thường anh chị em đồng loại khi họ nghèo hơn chúng ta, khi họ khổ hơn chúng ta, khi họ bất hạnh hơn chúng ta, khi họ yếu đuối hơn chúng ta, khi họ vấp phạm điều gì đó mà cộng đoàn đều biết. Thế nhưng Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng: hết thảy chúng ta sẽ ra trước toà Thiên Chúa. Khi và chỉ khi ra trước toà Thiên Chúa thì khuôn mặt thật của chúng ta, tấm lòng thật của chúng ta sẽ phải bị phanh phui ra trước mặt Chúa thôi. Hiện giờ thì chúng ta còn lấp liếm, còn giấu những sự ác, những sự gian tà, những hận thù, ghen ghét anh chị em đồng loại nhưng khi ra trước toà Chúa chúng ta không thể nào giấu được.
Vậy, phải chăng qua trang tin mừng ngắn ngủi, qua ví dụ nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu hôm nay chúng ta liệu liệu mà tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta có một trăm quan tiền để hầu mong Chúa Giêsu tha cho chúng ta là những con nợ đang mắc nợ Chúa với số nợ quá lớn là cả ngàn nén vàng. Chúng ta muốn Chúa tha thứ cho chúng ta thì điều kiện cần, điều kiện trước hết là chúng ta phải biết tha thứ cho anh chị em đồng loại. Nếu chúng ta bắt đền, đòi nợ anh chị em đồng loại thì nào Chúa lại tha cho chúng ta. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ thử xem có phải là chính lúc chúng ta thứ tha là lúc mà chúng ta được tha thứ hay không?
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng bao dung, chậm bất bình và giàu ân sủng thương xót và tha thứ cho chúng ta những món nợ mà chúng ta nợ Chúa cũng như nợ anh chị em đồng loại. Nguyện xin Chúa Giêsu mở lòng mỗi người chúng ta để chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em đồng loại để hầu mong Chúa cũng dễ dàng tha thứ những món nợ mà chúng ta nợ Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy: Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn. Thánh Phêrô, trong câu hỏi của mình, đã vô tình để lộ ra cái ý muốn giới hạn tình yêu của mình. Ngài đưa ra con số 7 mà hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?” Có lẽ thánh Phêrô nghĩ rằng mình đã tha thứ đến 7 lần như vậy, đã là nhiều lắm rồi, đã là không thể tưởng rồi. Nhưng thánh Phêro lầm. Đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Kitô, giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.
Câu trả lời của thánh Phêrô: “Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7”, trở thành điểm qui chiếu cho tình yêu tha thứ của chúng ta. Tha thứ đến 70 lần 7 nghĩa là tha thứ không giới hạn, tha thứ vô cùng, tha không tính toán, không đếm bằng những con số. Vì khi đếm là đã giới hạn lòng yêu thương của mình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo, có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7. Hãy nghe Lời Chúa dạy để đừng đặt giới hạn của lòng tha thứ, mà hãy tha thứ không giới hạn. Có những chuyện ta tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, lại sinh ra oán thù lớn. Ví dụ: hai đứa bé đánh nhau, thì vì chỉ bảo chúng, hai người hàng xóm, vì bênh vực con, lại mắn chửi nhau, rồi không thèm nhìn nhau.
Có khi chỉ là một câu nói lỡ lời, chạm tự ái, dẫn đến chuyện trách móc, phàn nàn nhau. Tệ hại hơn, không thể tha thứ cho nhau, nên dẫn tới chỗ hạ nhục nhau, chửi bới hoặc tìm cách trả thù nhau, chí ít thì cũng nói xấu nhau. Những điều đó đã là xấu đối với những người không có quan hệ họ hàng. Vậy mà những điều xấu đó lắm lúc lại xảy ra trong dòng tộc, trong gia đình: vợ chồng, cha mẹ, anh chị em. Những người thân của nhau mà còn không thể tha thứ cho nhau, thì huống hồ là người dưng.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
31. Vì sao phải quảng đại tha thứ?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một trong những đức luân lý nhân bản. Và tôn giáo nào cũng dạy con người sống phải biết đại lượng, khoan dung, tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Sự oán ghét, hận thù thỉnh thoảng có mặc chiếc áo của sự công bình làm con người thấy hả hê khi kẻ có tội phải bị đền nợ nhưng rồi chẳng thể thực sự “có hậu” như Phật pháp nhận định: lấy oán trả oán thì oán oán chồng chất. Vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta phải quảng đại tha thứ cho nhau và cần phải tha thứ liên lĩ như Chúa Giêsu khẳng định với Phêrô là đến bảy mươi lần bảy?
Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XXIV TN A, đặc biệt bài trích Sách Huấn ca và bài trích Tin Mừng thánh Matthêu đã nêu rõ nguyên nhân khiến chúng ta phải tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ đó là vì chúng ta cũng là kẻ có tội và đã được Thiên Chúa tha thứ cách liên lĩ và quảng đại. Đồng thời việc tha thứ cho nhau còn là điều kiện như tất yếu để nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều là kẻ có tội. Đã là người ít có ai dám to gan khẳng định mình vẹn sạch, không vương bẩn tội nhơ. Cha ông chúng ta cảm nghiệm rằng: Đa thọ đa nhục, đa phú đa ưu. Cũng như càng giàu có thì càng thêm nhiều mối lo thì càng thêm tuổi thì tội lỗi càng chất chồng. Mọi thứ tội mà chúng ta phạm đến Thiên Chúa đều to lớn và nặng nề như món nợ không bao giờ có thể trả được. Mười ngàn nén vàng mà anh đầy tớ mắc nợ nhà vua theo câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể là một minh họa. Mức độ nặng nhẹ của tội mà chúng ta phạm không nguyên chỉ căn cứ vào loại tội gì mà còn căn cứ vào người mà chúng ta xúc phạm. Mọi tội lỗi của chúng ta đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa, vì chúng ta đã cố tình đi ngược với đường lối Người chỉ dạy, làm trái với giới răn Người ban truyền. Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã dựng nên muôn vật muôn loài và dựng nên chúng ta từ hư vô. Người còn là Người cha chí ái đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một cho chúng ta. Chính vì thê phải khẳng định rằng bất cứ thứ loại tội nào dù lớn hay bé, dù mặt này hay khía cạnh kia, khi đã xúc phạm đến Đấng Toàn Năng và Toàn Thiện thì đều đáng “tru di cửu tộc”.
Một thực tế không thể chối cãi đó là Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu với chúng ta không bút nào tả xiết. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta đến nỗi trao ban chính Người Con Một để chúng ta được thứ tha, được hòa giải với Người và dĩ nhiên là để cho chúng ta được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Gioan Tông đồ quả quyết chính Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại cũng đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Anh đầy tớ mắc món nợ kếch xù trong câu chuyện dụ ngôn, không xin tha mà chỉ xin cho khất nợ một kỳ hạn, thì đức vua lại chạnh lòng thương cho y về và xí xóa luôn cả món nợ kếch xù ấy. Lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là thế đó. Đức Bênêđictô XVI trong Thông Điệp đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” đã nhận định: Tình yêu của Thiên Chúa như chống lại sự công minh của Người (số 10).
Một định luật tất yếu: Nước trên nguồn tuôn đổ dạt dào thì nó cần phải được chảy xuôi về hạ lưu. Đã đón nhận tình yêu tha thứ cách dồi dào và nhưng không, thì chúng ta phải biết yêu thương tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ. Tuy nhiên một thực tế dường như không thể chối, đó là dòng suối ân tình tha thứ đã từng bị chặn đứng bởi tấm lòng hẹp hòi, nhỏ nhen của chúng ta trước lầm lỗi của tha nhân. Cần xác định rằng mọi lỗi lầm mà tha nhân phạm đến chúng ta đều chỉ là món nợ lẻ, không đáng kể. Chúng ta cũng chỉ là thọ tạo như tha nhân không hơn không kém. Chúng ta đồng thời cũng là những tội nhân đầy hạn chế và bất toàn. Chính vì thế những lỗi lầm mà tha nhân xúc phạm đến chúng dù mức nào đi nữa thì chẳng đáng là bao. Thế mà như người đầy tớ vừa được tha một món nợ kếch xù trong chuyện dụ ngôn, chúng ta nhiều khi lại kim gút lỗi lầm của tha nhân đến độ có hành vi nhẫn tâm và tàn ác dường như không thể tưởng.
Một định luật tất yếu thứ hai: Khi dòng chảy bị chặn thì nguồn nước sẽ trào lênh láng ra ngoài. Dù Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ nhưng chúng ta sẽ không nhận được hồng ân ấy, nếu chúng ta khép lòng từ tâm của mình trước tha nhân. Xin cùng nhau ngẫm nghĩ Lời chúa trong Sách Huấn ca: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”(Hc 28,3-5). Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện dụ ngôn bằng những lời sau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế (tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông), nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Trước đó, khi dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều tương tự: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 14-15).
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta đã từng nhiều lần đến tòa cáo giải. Căn cứ vào lời khẳng định của Chúa Giêsu thì vẫn có đó nhiều người dù đã xưng thú tội lỗi, đã nhận được lời xá giải: “Cha tha tội cho con…” , nhưng tội họ vẫn còn đó, nghĩa là chưa nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, tất thảy chỉ vì họ chưa thực lòng tha thứ cho tha nhân, những người đã lỗi phạm đến họ.
THIÊN CHÚA LÀ VỊ THẨM PHÁN TỐT NHẤT CỦA CHÚNG TA.
(Suy niệm của Charles E. Miller – Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt bạn. Trước hết, bạn sẽ thấy những gương mặt quen thuộc, người phối ngẫu của bạn, những đứa con, ông chủ, bạn bè thân thiết, cha mẹ. Bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn, bạn có thể chọn một trong những người ấy làm quan toà xét xử bạn.
Đầu tiên bạn nghĩ: “Dĩ nhiên tôi chọn người phối ngẫu của mình rồi, chúng tôi yêu nhau thật sự mà”. Nhưng kế đó các bạn nhớ lại bao nhiêu lần cãi cọ, bao nhiêu lần đánh nhau nên các bạn sẽ sợ họ bây giờ vẫn chưa quên đâu. Còn con cái của bạn? Bọn chúng nghĩ rằng các bạn quá khó đối với chúng. Còn những người bạn thân thiết? Các bạn sợ họ biết quá nhiều về bạn.
Vậy bạn chọn cha mẹ khi nhìn thấy những gương mặt già nua. Nếu được chọn bạn sẽ chọn Thánh Phanxico de Salesio, người nổi tiếng là hiền lành và hay thương người. Đó là một chọn lựa không tồi. Hay bạn sẽ chọn thánh Vinh Sơn, một cng nổi tiếng về đức ái khó tìm thấy trong thế giới này. Bạn nghĩ, ông thánh này quá tốt rồi. Và rồi những vị thánh khác liên tiếp xuất hiện trước bạn. Sau hết bạn thấy Đức Trinh Nữ Maria, bạn liền nghĩ: “Dĩ nhiên mình sẽ chọn được phán xét bở người mẹ dịu dàng, tử tế và đáng yêu của mình và cũng là người mẹ đời sống thiêng liêng của mình nữa”.
Nhưng trước khi bạn kịp nói điều gì, Đức Trinh Nữ Maria đã đẩy bạn vào tay Con Mẹ. Chúa Giêsu dẫn bạn đến trước một cái ngai chỉ cho bạn thấy trên ngai đó, Người đó là Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Đây là Đấng phán xét con, đừng chọn một ai khác”.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu nói đúng. Tự nhiên chúng ta hy vọng rằng những người gần gũi với chúng ta trong suốt đời sống sẽ nhân từ với chúng ta trong phán xét hơn. Chúng ta cũng tin rằng Mẹ Maria rất nhân từ và thương yêu chúng ta. Nhưng Mẹ Maria và tất cả các thánh chỉ được thông dự vào sự nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, không những Thiên Chúa sở hữu sự nhân từ trong một mức độ vô biên nhưng Thiên Chúa còn thật sự là sự nhân từ nữa. Thiên Chúa là sự nhân từ và là sự thương xót.
Vị Vua trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là Cha của Người. Khi các bạn của vua xin vua hãy khoan giãn cho y và cho y một thời hạn để trả hết số nợ, vị vua đã tha hết số nợ đó, Người xoá sạch số nợ ấy và Người không còn nhớ gì đến nó nữa. Dĩ nhiên là một vị vua nhân loại sẽ không làm một điều như thế bởi vì con người rất giới hạn. Bạn có thể chắc chắn rằng thẻ tín dụng của bạn sẽ không xoá số nợ của bạn cho dù các bạn có năn nỉ hay nài xin thế nào đi nữa. Nhưng chúng ta không thể minh hoạ bức tranh về Thiên Chúa theo kinh nghiệm của con người nhân loại được. Chúng ta chỉ biết lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Người Con của Người.
Dù đã xoá hết nợ nần là tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa Cha vẫn trao ban Con của Người cho cái chết vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên hành động quảng đại tuyệt vời của Thiên Chúa. Hãy chăm chú lắng nghe những lời thánh hiến trên rượu. Qua miệng của vị linh mục, Chúa Giêsu nói với chúng ta trong mỗi Thánh Lễ: “Đây là chén Máu Ta…”. Và Người đã tha thứ cho tội lỗi chúng ta, xoá sạch… Khi chúng ta làm đầy đủ điều kiện của Thiên Chúa, đó là cố gắng tha thứ cho người khác như Người đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta phải nói cách can đảm: “Xin tha thứ cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Điều này phải hiện hữu trong trái tim chúng ta, khi chúng ta làm một hành động tha thứ. Khi chúng ta xin tha thứ trong suốt hy tế Thánh Thể, khi chúng ta cử hành nghi thức Sám hối. Sách Khôn ngoan nhắc nhở chúng ta: “Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa”. Nhưng sự phong phú của khôn ngoan thì vui mừng với Thiên Chúa và chính Người chứ không phải ai khác sẽ phán xét chúng ta.
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ tranh luận về việc tha thứ. “Đối với vợ, ngươi có thể tha thứ cho vợ một lần… Đối với anh em, ngươi phải tha thứ co anh em năm lần”. Còn quan điểm của Chúa Giêsu thì sao?
– Tôi phải tha thứ bảy lần phải không?
– Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy.
Đứng trước câu trả lời này, một trong những câu trả lời điên rồ nhất của toàn bộ Tin Mừng, lúc này đây chúng ta có thể ở trong một tình trạng bi đát hết sức an bình. Bi đát: Chúa đang yêu cầu chúng ta một sự tha thứ rất khó khăn và tất cả đảo lộn trong ta khi nghĩ đến điều đó. An bình: cuộc sống của chúng ta thanh thản đến độ sự đòi hỏi của Chúa Giêsu đối với chúng ta dường như rất dễ: chắc chắn là phải luôn luôn tha thứ.
Lý thuyết! Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta mà xem! Ai tha thứ? Thậm chí ngươì ta nghĩ rằng tha thứ sẽ khuyến khích những gì không thể tha thứ được. “Nào xin bạn cứ tự nhiên!”. Việc nghe theo Chúa Giêsu yêu cầu có một sự đảo ngược.
Tôi lấy lại hai hoàn cảnh trên. Nếu tôi hoàn toàn bị đảo lộn đứng trước một điều gần như không thể tha thứ được (nhưng người ta vẫn luôn luôn nói là sự tha thứ), Chúa Giêsu kêu gọi tôi tha thứ ngay lập tức, mặc dầu những thương tổn và những phản kháng của tôi. Ngay lập tức. Chúng ta huỷ diệt Tin Mừng và sự sống của chúng ta khi chúng ta chờ thời, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có khả năng thực hiện điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Làm cho chúng ta có khả năng, đó là công việc của Ngài, công việc của Thánh Linh. Phần chúng ta là phải đối diện với lơì kêu gọi đó và kêu xin Chúa Giêsu: con muốn, nhưng con không thể làm được, xin Chúa giúp con!
Nếu tôi không có vấn đề gì cả, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu là một liều thuốc phòng ngừa. Sự đòi hỏi đó lôi kéo tôi đi ngược dòng một thế giới kiêu ngạo từ chối tha thứ.
Bởi vì đây đúng là một cuộc chiến chống lại sự kiêu ngạo, luôn luôn sẵn sàng bi kịch hoá các điều sỉ nhục và dựng lên những bức tường trước những ý tưởng hoà giải. Lòng kiêu ngạo rất biết cách nguỵ trang thành danh dự, thành lương tri, thành công bằng, thành sự tự vệ hợp pháp, thành lo lắng không tạo thuận lợi cho những kẻ xấu, đến nỗi trước tiên cần phải loại bỏ lòng kiêu ngạo đó đi đã: “Lòng kiêu ngạo ơi, đừng có mà len lỏi vào đó”.
Trong bầu không khí trong sạch hơn, chúng ta có thể xem xét ý tưởng cho rằng có những sự tha thứ xấu. Khi tôi chấp nhận mỉm cười và giơ tay ra bởi vì điều đó thu xếp ổn thoả cho tôi, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi dùng mánh lới. Khi tôi tha thứ cho một tay độc tài áp bức những người yếu kém, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi sợ. Nếu đó là những sự tha thứ thật sự có giá trị, thì có hai điều có thể làm cho mỗi người trong chúng ta trở thành một người sẵn sàng tha thứ và đấu tranh chống lại nhiều cái “Không thể tha thứ được!” đang đầu độc bất cứ cuộc sống chung nào.
Trước hết, nghĩ đến một người mà chúng ta biết rõ và đã có lần từ chối tha thứ. Đo lường tình trạng lộn xộn của cuộc sống. Sự nghiền ngẫm nội tâm của người đó dồn cho bạn những chi tiết về sự lầm lẫn mà người ta đã làm cho người đó, về người đã xúc phạm hoặc phản bội người đó. Trong khi suy nghĩ về tất cả những điều đó, người ta thề thốt sẽ không bao giờ rơi vào trong sự mất khả năng lật một trang mới nữa.
Tin Mừng cống hiến cho chúng ta một cách khác để vun trồng nơi chúng ta khả năng hoà giải với nhau rất nhanh: đặt những sự tha thứ của chúng ta trong sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ là một người công chính sẽ làm cho lòng khoan dung của Ngài rơi xuống trên một kẻ phạm lỗi đáng thương. Cả hai chúng ta đều là những người được tha thứ, được mơì gọi đi vào trong cùng một quỹ đạo của sự tha thứ.
Đó là quỹ đạo của Kinh Lạy Cha “Xin tha thứ cho con như thể người ta tha thứ cho một người con bởi vì trong khi tha thứ, con cố gắng trở thành con của Ngài”. Tự bảo: “Tôi sẽ không bao giờ từ chối tha thứ”, tương đương với: “Tôi muốn vẫn thuộc về gia đình của Thiên Chúa”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phim “Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim xoay quanh 4 nhân vật, người cha và hai đứa con, cùng cưu mang một người đàn bà làm nghề mại dâm. Bốn người lênh đênh trên một chiếc xuồng máy, nuôi vịt chạy đồng, không nhà không cửa, nay đây mai đó theo con nước. Đời sống của họ ngập chìm đau khổ dằn vặt xuất phát từ sự thù hằn.
Đầu tiên là người cha. Số là anh ta lấy vợ và có hai con. Cuộc sống cơ cực, anh phải vất vả để lo cho ba mẹ con. Ấy vậy mà người vợ ham sang phụ khó theo một thương lái người Hoa, bỏ lại hai đứa con cho anh. Đau khổ tột cùng vì bị chính người vợ yêu thương phản bội, anh đốt căn nhà, đốt cái mái ấm bấy lâu nay, xuống ghe lênh đênh, bắt đầu một cuộc sống trôi sông lạc chợ, nay đây mai đó, không tương lai, không định hướng. Bao nhiêu hận thù, người cha trút hết lên đầu hai đứa con.
Kế đến là sự thù hận của cô gái điếm. Vì hận cha mẹ ly dị bỏ rơi cô, nên cô làm gái để trả thù đời. Trong một lần đi khách, cô bị đám đông các bà vợ bắt và đổ keo dán sắt vào vùng kín. Cô đau đớn chạy trốn và được ba cha con đưa lên ghe cứu chữa. Cuộc sống của 4 người cứ lênh đênh trên sông nước, buồn tẻ vì mỗi người đều mang trong mình những nỗi thù hằn, căm phẫn vì bị chính những người thương yêu phản bội. Ông bố hận vợ, thù người bạc tình nên luôn cau có và bạo lực đánh đập 2 đứa con. Cậu con trai tuy còn nhỏ nhưng đã mang trong mình nỗi hận thù của cha, cậu nói rằng cậu ghét cái ác, và muốn trả thù, có thù thì phải trả. Cô gái làm điếm vì hận thù gia đình, hận thù bố mẹ…
Cũng vì sự hận thù và lòng muốn trả thù nên 4 người trở thành thù địch của nhau. Và họ đi đâu cũng gây thù chuốc oán ở chỗ đó, cho nên nhiều bọn giang hồ ghen ghét. Cậu con trai vì không chịu nổi người ta ức hiếp người đàn bà nên đã phạm tội giết người. Vì sợ, cậu đã bỏ trốn. Người đàn bà không chịu được sự thù hằn của người bố nên cũng bỏ đi. Chỉ còn lại người cha và đứa con gái. Câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa con gái bị nhóm côn đồ hiếp dâm ngay trước mặt ông bố. Chúng nó đánh ông bố ngã quỵ, rồi buộc ông phải nhìn cảnh bọn chúng từng thằng hãm hiếp đứa con gái của mình trong bất lực. Không còn đau khổ nào hơn thế nữa.
Kết thúc bộ phim, cô gái có bầu, không biết cha đứa bé là ai. Cô đi trên một cánh đồng mênh mông, bất tận, vừa đi vừa nói với đứa con trong bụng: Là trẻ con, nên tha thứ lỗi lầm cho người lớn. Và mẹ sẽ đặt tên con là Thương.
Không biết Nguyễn Ngọc Tư có đạo Công giáo hay không, nhưng rõ ràng với những bế tắc của các nhân vật, cuối cùng chỉ có giáo lý Kitô giáo mới giải quyết được vấn đề. Hận thù chỉ làm cho con người bế tắc, chỉ có sự tha thứ và tình yêu sẽ cứu rỗi thân phận con người. (Lm. Mar-Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS).
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ. Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ.Tha thứ không giới hạn và tha thứ tận đáy lòng. Tha tận đáy lòng nghĩa là tha và quên hoàn toàn, như không có chuyện gì đã xảy ra giữa hai người. Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Chúa lấy mức chúng ta tha thứ cho nhau làm thước đo để tha thứ, chúng ta tha thế nào thì Cha trên trời cũng tha cho chúng ta như vậy. Trong “bài giảng trên núi,” Chúa Giêsu đã dạy, không những “chớ trả thù” mà phải “yêu kẻ thù” nữa, “như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Và Chúa kết luận: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 38-48). Tha thứ tận đáy lòng là một cách thức nên hoàn thiện như Cha trên trời: hoàn thiện về lòng yêu mến, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là một nhân đức siêu nhiên nên cần có ơn Chúa, con người mới có thể nói lời tha thứ cho nhau. Tha thứ không chỉ là một hành động thuần tuý ý chí, mà còn là một ân ban. Không thể có sự tha thứ nếu không cầu nguyện. Mỗi người luôn cảm nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chính mình thì sẽ dễ dàng thứ tha cho người khác.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
35. Tha thứ, mùa xuân tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
– Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
– Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
– Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
– Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
36. Tha thứ như đã được thứ tha
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ, chúng ta đã từng nghe ít nhiều câu nói của Đức Giê-su “ai yêu mến nhiều thì sẽ được thứ tha nhiều” (x. Lc 7, 47). Thiết nghĩ, nếu chúng ta thật sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta sẽ nghiệm thấy chúng ta được tha thứ vô vàn; và nếu chúng ta yêu thương anh chị em thật tình, yêu như yêu chính bản thân mình, thì chúng ta cũng sẽ tha thứ cho anh chị em mình nhiều, bất luận họ ra sao, hoặc bất luận lỗi lầm của họ thế nào!
Các bài đọc hôm nay phát hoạ rõ ràng cách thức Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, và Ngài đòi hỏi chúng ta cũng sống thứ tha cho anh chị em như vậy. Mỗi khi chúng ta mắc lỗi phạm đến Chúa hay anh chị em, chúng ta đều mong muốn được tha thứ ngay, tha thứ liền và tha thứ một cách nhanh chóng như lòng kỳ vọng. Nhưng khi anh chị em trót gây ra lầm lỗi, sai phạm đến chúng ta thì dường như chúng ta chẳng chịu tha, hoặc chần chừ, có khi giữ mãi trong lòng cho tới lúc nhắm mắt suôi tay. Thật tiếc cho chúng ta nếu đang trong tình trạng hay tâm trạng như thế, vì một lẽ chắc chắn là lòng bất an, ray rứt, tâm bất tịnh, cồn cào, não ruột; còn người mắc lỗi có như vậy hay không, chúng ta không biết, và thậm chí cũng không cần biết tới! Có lẽ họ vẫn vui tươi với cuộc sống hằng ngày, họ vẫn ung dung tự tại như bao người khác…, nhưng tâm hồn chúng ta (là những người không tha thứ, không chịu tha thứ, không muốn tha thứ) sẽ chẳng nguôi ngoai, trái lại, luôn thổn thức, và cuộc sống chúng ta chẳng mấy vui tươi, hân hoan thật tình.
Để hiểu rõ hơn Thiên Chúa yêu thương, tha thứ chúng ta đến mức độ nào, và Người đòi hỏi chúng ta tha thứ cho anh chị em ra sao thì chúng ta cùng tìm hiểu một chút về bản văn gốc của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Bản văn tiếng Việt dịch là: tên đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn nén vàng/bạc, còn người bạn của hắn thì nợ hắn 100 nén bạc. Nếu so về số lượng 10 ngàn nén vàng/bạc với 100 nén bạc, thì chúng ta cũng thấy cũng khá nhiều (gấp 100 lần). Tuy nhiên, nếu nhìn bản văn gốc thì chúng ta càng ngạc nhiên, và hiểu rõ hơn ông chủ trong dụ ngôn đã tha thứ cho tên đầy tớ nhiều như thế nào. Người tôi tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (đơn vị nén vàng/bạc Hy Lạp) và bạn của hắn nợ hắn chỉ có 100 denarii (đơn vị nén bạc Hy-La, số ít là denarius). Theo cách tính thời đó, 1 talanton khoảng 6 ngàn denarii, 1 talanton ngang bằng tiền lương trong vòng 20 năm (tương đương với $1000-$30000/1 ngày), và 1 denarius tương đương với tiền lương một ngày công cho thợ không lành nghề. Như vậy, người đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (tương đương với 10000 x 20 năm = 20 vạn năm lương), nghĩa là cả đời cũng không thể trả hết (vì đời người dài nhất cũng chỉ 100 năm là cùng!) Ngược lại, người bạn của tên đầy tớ chỉ nợ y 100 denarii (tương đương 100 ngày lương), nghĩa là có thể hoàn trả lại, mặc dù phải mất hơn 3 tháng lương mới thanh toán được.
Với món nợ mà cả đời, thậm chí tính luôn tổng số đời của họ hàng thân tộc của tên đầy tớ cũng không thể trả hết được, nhưng ông chủ đã dủ lòng thương xót, tha bổng cho hắn vô điều kiện; nhưng y lại không thể bỏ qua hoặc gia hạn cho người bạn y món nợ có thể hoàn trả lại, tuy mất nhiều thời gian, hoặc phải đánh đổi nhiều thứ để dành dụm ngõ hầu thanh toán cho y!
Chúng ta nợ nhau với những món nợ có thể thanh toàn ở đời này hoặc không đáng kể, nhưng chúng ta lại không tha thứ cho nhau, không bỏ qua cho nhau, thì làm sao Thiên Chúa tha cho chúng ta món nợ mà thậm chí hết đời này cũng chưa thể thanh toán được! “Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?” (Hc 28, 3-4).
Dân gian có câu: “nhất quá tam” hoặc “quá tam ba bận”. Đơn giản, khi chúng ta làm gì, khi mắc lỗi, cũng như khi tha thứ, thông thường tới ngưỡng tối đa là lần thứ ba. Tương tự như suy nghĩ của người Do Thái nói chung và Phê-rô nói riêng, tha đến lần thứ bảy là tuyệt vời, trên cả lòng mong đợi, và quá ư quảng đại rồi! Mặc khác, Đức Giê-su là người Do Thái, biết rõ tâm tư, và văn hoá Do Thái, đáng lẽ Ngài hoan nghênh, thậm chí nên tán thưởng Phê-rô khi Ngài nghe ông bộc bạch về việc ông tha thứ đến bảy lần chứ! Và nếu thử đặt mình vào tâm trạng của Phê-rô, có lẽ chúng ta cũng sẽ nghĩ như ông là: chắc Thầy Giê-su vui lắm đây, khi nghe những lời này! Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giê-su khiến Phê-rô, các môn đệ và cả chúng ta nữa phải sửng sốt, kinh ngạc, bởi lẽ nó vượt xa, vượt trên những mặc định của Phê-rô tha thứ tối đa là bảy lần, còn mặc định của chúng ta thứ tha tối đa ba lần, đó là: “tha đến bảy mươi lần bảy” (770), nghĩa là tha thứ mãi hoài. (x. Mt 18, 22).
Khi đề cập tới việc tha thứ, sống vị tha với anh chị em, thì vô vàn lí do mà chúng ta thường giữ khư khư như thể vũ khí để biện minh cho hành vi không tha thứ của mình cho anh chị em, thí dụ: người ấy không xứng đáng được tha thứ (không xứng đáng với sự tha thứ của tôi, hoặc không xứng đáng được tôi tha thứ); lỡ họ tái phạm sau khi được tha thứ thì sao, đành rằng nói tha rồi; nhưng đụng chuyện gì đó thì ‘lôi ra’ hay nhắc lại bổn cũ để hạ thấp hoặc mày nheo, đay nghiến anh chị em…v, v…; tôi tha cho họ rồi, nhưng ai thứ tha cho tôi, hay ai sẽ tha thứ cho tôi…Thật ra, nếu mà Chúa cũng nghĩ như chúng ta thì chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng bao giờ được thứ tha, chẳng bao giờ được bình tâm, an lòng, chẳng thể yên thân! Nhưng may thay, Chúa không eo hẹp, ích kỷ và khăng khăng vào nhận định của bản thân; trái lại, Ngài rộng lượng, đầy khoan dung nhân hậu, chậm bất bình, và rất mực xót thương chúng ta, bất luận khi chúng ta tội lỗi hay sống tốt lành, thánh thiện.
Vì lẽ, Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn kẻ tội lỗi, kẻ gian ác phải chết (x. Ez 18, 23; Lc 5, 32) và chẳng giữ mãi lỗi lầm, việc làm xấu xa của chúng ta, hay Ngài không chịu bỏ qua hay tha thứ cho chúng ta đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh chị em, thì lời cảnh báo của Đức Giê-su sẽ thành hiện thực ngay cả ở đời này “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35). Sau cùng, chúng ta nên khắc ghi lời trong sách Huấn Ca và luôn rộng lòng tha thứ cho anh chị em như chúng ta đã-đang-sẽ được thứ tha, “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác” (Hc 28, 6-7). Lúc ấy và chỉ khi ấy, “bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (x. Hc 28, 1).
Nào chúng ta cùng nhìn lại đời mình, nhìn lại tâm hồn mình, nhìn lại thời gian qua, nhất là những khi chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình Chúa thứ tha, cũng như nhiều lần chúng ta chưa sống giới răn yêu thương, chưa mở lòng thứ tha cho anh chị em. Và trong tâm tình đó, chúng ta cùng nguyện cầu:
Lạy Chúa giàu lòng xót thương
Xin cho con yêu thương như Chúa hằng thương yêu
Xin cho con tha thứ như Chúa hằng thứ tha
Xin cho con mở rộng lòng như lòng Chúa mãi rộng mở
Xin cho con bỏ qua lầm lỗi của anh chị em như Chúa hằng bỏ qua cho con. Amen!
CHIỀU SÂU VÀ CHIỀU RỘNG VÔ HẠN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, thoạt tiên, có một cái gì đó gây sốc; một điều gì đó xem ra khá bất công khi Thiên Chúa không ngại đứng hẳn về phía người có lỗi; xem ra Người bênh vực tội nhân khá trộ tràng và nhất là, dường như, ai không biết xót thương như Người, thì Người coi họ là thù nghịch. Thế nhưng, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu và Chúa Cha, Đấng mà Ngài ví như ông chủ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có câu trả lời như một chân lý ngàn đời, chân lý đó được Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Vậy thì điều gì đã gây sốc? Bài đọc thứ nhất gây sốc, sách Huấn Ca viết, “Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm”; “Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù và nghiêm trị tội lỗi nó”. Ơ hay, như thế thì người bị anh em mình xúc phạm, người mà trước đó được coi là vô tội lại trở thành có tội, nên thù nghịch với Thiên Chúa nếu họ giận dữ và thịnh nộ với anh em mình; bấy giờ họ có kêu cầu, Thiên Chúa cũng làm ngơ; có van vái, Người cũng để ngoài tai, vì “Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”; “Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?”.
Bài Tin Mừng cũng gây sốc, Phêrô háo hức đến hỏi Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”. Với chúng ta, một lần cũng đã đáng mơ ước; Phêrô tha đến bảy lần là một điều gì đó quả tuyệt vời. Vậy mà với Chúa Giêsu thì không, với Ngài, chừng đó chưa là gì cả, còn quá ít; Ngài nói, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Tội nghiệp Phêrô! Ông tưởng, được ngần ấy là đã rất hào hiệp và quảng đại; ai dè, với Chúa Giêsu, chừng đó không ăn thua; không phải 7 lần nhưng phải gần cả 500 lần. Thật là sốc! Ngài đòi Phêrô tha theo cấp số nhân, cấp số mũ, cấp luỹ thừa và vô cùng; Ngài đòi ông tha theo cấp của trời, cấp của Thiên Chúa, cấp vô hạn. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu nhắm đến chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót cùng sự tha thứ nơi Thiên Chúa; Ngài nói đến cấp vô hạn của sức nặng thập giá như là món nợ của nhân loại mà Ngài phải gánh chịu. Ngài muốn chúng ta dành cho anh chị em mình cái vô hạn như Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi tha thứ và thương xót nó. Con số bảy nói lên rằng, phải tha hết, tha mãi; đặt lên bàn cân, bảy mươi lần bảy có trọng lượng ngang với thập giá, biểu tượng của lòng thương xót và thứ tha nơi Thiên Chúa, “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Với nhiều người trong chúng ta, lời khuyên của Chúa Giêsu nghe có vẻ tốt lành về mặt lý thuyết; điều Ngài nói thật đầy cảm hứng và khích lệ khi chúng ta suy gẫm về chiều sâu, chiều rộng của việc tha thứ mà chúng ta được mời gọi để trao tặng anh chị em mình. Thế nhưng, trong thực tế, khi đối diện với vấn đề, điều này quả không dễ chút nào; nếu không nói là không thể khi phải tha vô hạn.
Vậy mà đòi hỏi tha thứ vô hạn của Chúa Giêsu, một đòi hỏi thiêng liêng vốn không phải là một lý thuyết hay một lý tưởng để chúng ta cố gắng đeo đuổi mỗi ngày; nhưng trái lại, nó phải trở thành một thực tế thiết thực mà chúng ta phải ôm lấy hết sức mình với sức mạnh của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta phải tìm loại bỏ khỏi bản thân bất cứ một khuynh hướng nào, dù nhỏ đến đâu, là ôm hận và giữ trong lòng sự tức giận. Chúng ta phải tìm cách giải thoát mình khỏi mọi hình thức cay đắng và để cho lòng thương xót của Chúa chữa lành mọi tổn thương bằng thập giá của Con Một Người.
Hãy nhìn ngắm lòng thương xót của Người đối với chúng ta, hãy nhìn ngắm thập giá, trên đó, Con Thiên Chúa hấp hối. Từ khi chúng ta lãnh phép Rửa tội, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi một món nợ không trả nổi, đó là tội nguyên tổ. Nhưng đó là chỉ là lần đầu; sau đó, với lòng thương xót vô bờ, Thiên Chúa tiếp tục tha cho chúng ta vạn lần, tha mỗi ngày, tha mọi lỗi lầm mỗi khi chúng ta xúc phạm đến Người, ngay cả khi chúng ta chỉ thể hiện một chút ăn năn dù là nhỏ nhất. Thiên Chúa là thế đó, “Đấng từ bi nhân hậu; Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ khép lòng lại trước những anh chị em xúc phạm mình, dù họ có mở lời xin lỗi hay không, chúng ta hãy nhớ lại lời Thánh Phaolô trong thư Rôma hôm nay, “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình”; ích kỷ, không mở lòng để tha thứ, là sống cho mình; cũng như không ai chết cho mình, vì Chúa Kitô đã chết cho họ. Và nhất là chúng ta nhớ lại lời ông chủ nói với tên đầy tớ không biết tha thứ cho người anh em, “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”.
Ellen Johnson Sirleaf, nữ tổng thống Liberia, nghĩ rằng, đã đến lúc bà trả thù. Tuy nhiên, một trải nghiệm đã khiến bà thay đổi. Ngày nọ, khi đang ở gần một ngôi làng, đột nhiên bà nghe tiếng súng nổ; Weser, vệ sĩ của bà đã lập tức đẩy bà xuống đất. Dù bà được cứu, nhưng viên đạn đã cướp mạng cận vệ Weser. Sau đó, bà phát hiện kẻ bóp cò chính là hàng xóm của Weser, Asa, người đã được thuê để ám sát bà. Mười ba năm sau, nữ tổng thống Sirleaf một lần nữa đến thăm ngôi làng ấy và bắt gặp mẹ của Weser đang đem đồ ăn cho mẹ của Asa. Bà hỏi tại sao, mẹ Weser trả lời, “Sau sự việc 13 năm trước, Asa bỏ trốn và vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của cậu ta bị bệnh, lại nghèo khổ, không còn gì để ăn”. Sirleaf không nhịn được, “Nhưng bọn họ là kẻ thù! Con trai bà ấy đã giết Weser!”. Câu trả lời của người mẹ khiến bà tổng thống kinh ngạc, “Tất cả đã qua rồi. Lấy oán báo oán, chỉ tăng thêm oán thù nhiều hơn”. Những lời của bà mẹ đã để lại cho Sirleaf một bài học sâu sắc, Liberia bị chiến tranh tàn phá cần sự tha thứ hơn là lòng thù hận! Kể từ đó, Sirleaf đã tha thứ cho những cựu thù chính trị của mình và nhận được sự cảm thông, ủng hộ từ những người Liberia. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của châu Phi, bà đã tạo một tương lai bằng tha thứ và đối xử tốt với những kẻ thù; bà được giải Nobel Hoà Bình năm 2011. Đúng như Jonathan Lockwood Huie, mệnh danh ‘Triết gia của hạnh phúc’, từng nói, “Tha thứ cho người khác, không phải vì họ xứng đáng được tha thứ mà bởi vì bạn xứng đáng được thanh thản”.
Anh Chị em,
Ai đã trải nghiệm một niềm vui, bình an và tự do nội tâm đến từ việc được Thiên Chúa thứ tha, người ấy sẽ có khả năng mở lòng mình ra để, đến lượt họ, tha thứ cho anh chị em mình. Thập giá của Đức Giêsu Kitô là bằng chứng Thiên Chúa tha thứ cho mỗi người, đó cũng là chìa khoá mở cửa thiên đàng. Vì thế, mở miệng kêu xin tha thứ là mới lần bước đến ngưỡng thiên đàng, tha thứ cho người khác thực sự, mới là chìa khoá mở cửa thiên đàng khi mỗi người lấy thập giá của Chúa Giêsu làm tiêu chuẩn và khuôn mẫu cho thập giá đời mình. Tha thứ là đôi cánh thiên thần giúp họ bay lên tới Chúa vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương; xin cho con một trái tim nhân ái như Chúa, để con tha thứ cho anh chị em con mà không cần dè giữ”, Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”…
***
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không giới hạn. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn một mình cô sống sót.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông đó chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia đã giam giữ cô và gia đình cô. Bỗng chốc cô nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác, nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng khó vượt qua được những cảm xúc như cô Coritanbum. Nhưng nếu chúng ta không tha thứ thì chính chúng ta sẽ tự làm khổ chúng ta như văn hào Nga Leon Tolstoi kể câu chuyện như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục, ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiểu tụy đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.[1]
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người. Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Nhưng tha thứ lại là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng. Tha thứ là nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ con người càng nên giống Thiên Chúa. Amen.
——————–
[1] Câu chuyện người ăn xin trích trong R.VERITAS, Lẽ Sống, trg.176-177
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho mình, tha thứ những thái độ xúc phạm đối với mình, tha thứ những điều người khác gây ra trái ý mình. Tha thứ là không hề nhớ, không kể lại, không nhắc tới lỗi lầm của người khác. Là Kitô hữu, chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Như thế, tha thứ không chỉ là hành vi nhân bản mà còn là hành vi nhân linh.
Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau. Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa: “Con phải tha đến mấy lần”. Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần cho chắc ăn để cho thấy tinh thần hào hiệp, ông đề ra cho Chúa Giêsu con số bảy: “Có phải đến bảy lần không”. Tha thứ đến bảy lần là hoàn hảo, là vĩ đại, là hào phóng và thậm chí là tuyệt đối rồi. Ông nghĩ rằng đề nghị như thế là được Chúa Giêsu tán thành ngay thậm chí là còn khen ông nữa kìa. Thế nhưng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: Hãy tha thứ cho nhau, hãy quên hết lỗi lầm, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi. Sao thật khó quá!
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để học trò hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá nhỏ bé, hẹp hòi, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý. Chúng ta dễ tức giận nhau, để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để dạ, chết mang theo”. Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách! Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta thấy ngay từ đầu, khi con người phạm tội nếu Thiên Chúa đã không tha thứ thì con người sẽ không có tương lai tốt đẹp gì như ngày hôm nay. Mỗi lần tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta để tâm hồn mình hoà điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hoà mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót tha nhân như mình đã được Chúa xót thương. Sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có sai sót, nhiều khuyết điểm, tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.
Trong câu chuyện dụ ngôn, chúng ta thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu nên không tha thứ cho nhau được. Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên di những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng trích chứa trong lòng.
“Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?”
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết cho Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ. Sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới hiệp thông và yêu thương. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho chúng con có tâm tình của Chúa để chúng con có thể tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIN MỪNG CÓ THỂ DẠY CHÚNG TA BÀI HỌC GÌ KHI XIN GIÚP ĐỠ
Bài đọc Tin mừng của Chúa nhật XXIV Thường niên hôm nay nói về lòng thương xót và sự tha thứ. Khi dùng dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ, thánh Matthêu dạy chúng ta một số nguyên tắc hữu ích trong xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chính dụ ngôn, ngay cả những nhận thức từ đó, có thể gây khó hiểu.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu về số lần nên tha thứ cho người khác trong cộng đoàn như thể là thắc mắc này có thể trả lời bằng việc đưa ra một con số. Phêrô đề nghị bảy lần, nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến bảy mươi bảy lần, muốn cho thấy rằng về tha thứ thì không có giới hạn nào. Phản ứng của Chúa Giêsu cho thấy tầm quan trọng của lòng thương xót liên lỉ và Ngài đã dùng một dụ ngôn để minh họa vấn đề này.
Tuy nhiên, dụ ngôn bắt đầu với một hình ảnh khó hiểu, gây thắc mắc. Nước Trời được ví như tương quan của vị vua với những người đầy tớ mắc nợ tiền. Thiên Chúa được xem như một vị vua triều đình, và con người là những người đầy tớ mắc nợ. Dụ ngôn phản ánh thực tế xã hội vào thời của thánh Mattthêu, trong đó việc nô lệ và nợ nần là những thực hành được chấp nhận. Độc giả hiện nay có thể thấy những dụ ngôn gây khó chịu và thất vọng như vậy là cách phản ánh mối tương quan của nhân loại đối với Thiên Chúa, nhất là dụ ngôn được xây dựng dựa trên sự tàn ác vô nhân.
Khi nhà vua (Thiên Chúa) được thông báo về các khoản nợ to lớn của người đầy tớ, ban đầu ông ra lệnh bán người đàn ông, vợ, con và tài sản của ông như là đầy tớ để có tiền trả nợ. Hãy hình dung là chúng ta đọc dụ ngôn trong bối cảnh mà việc nô lệ là hợp pháp. Trong Tin mừng của Chúa nhật hôm nay việc chiếm giữ và chiếm hữu đầy tớ mới để gia tăng sự giàu có của con người là việc đương nhiên. Thật không may, các văn bản Kinh thánh như vậy đã ảnh hưởng đến các chủ đầy tớ, nô lệ ở châu Âu, những người biện minh cho hành động của họ dựa trên sự tin tưởng vào uy thế của người da trắng và vào thần quyền.
Dù có nghiêng về việc bắt cả gia đình làm đầy tớ, nhà vua (Thiên Chúa) vẫn tha cho người đầy tớ và tha nợ cho anh ta vì ông chạnh lòng lòng thương khi người đầy tớ nài xin sự khoan hồng và sự kiên nhẫn của nhà vua. Nhưng khi người đầy tớ đó gặp một người đầy tớ khác trong hoàn cảnh tương tự, anh lại không bắt chước cách hành xử của nhà vua, và bắt bỏ tù con nợ của mình.
Các bạn đầy tớ đau khổ nên kể lại với vua về sự nhẫn tâm của anh ta. Nhà vua khiển trách tên đầy tớ rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn người như ta đã thương ngươi?”. Sau đó, nhà vua đã ra lệnh tra khảo người đầy tớ này cho đến khi anh ta trả được nợ. Chúa Giêsu kết luận bằng cách tuyên bố rằng Chúa Cha sẽ tra khảo con người nếu họ không tha thứ cho nhau.
Khó có thể nghĩ đến hình ảnh Thiên Chúa như là người tra khảo cho đến đời đời, dù hình ảnh này phù hợp với cái nhìn về ngày cánh chung của thánh Matthêu mà chúng ta đã đọc thấy trong các dụ ngôn vào các Chúa nhật trước. Một vấn đề khó khăn khác là yêu cầu người đầy tớ đầu tiên phải hành xử giống hệt như cách nhà vua (Thiên Chúa) đã làm. Trong khi đây là một ví dụ về tình yêu vị tha (Hy lạp là Agape) thì ứng xử này là một vấn đề gây khó hiểu theo những điều kiện kinh tế được giả định trước trong dụ ngôn. Việc giả định rằng người đầy tớ sống trong cảnh nô lệ nợ nần có thể hoặc nên cư xử như vị vua giàu có, không nhận ra sự bất cân xứng rõ ràng trong tình trạng kinh tế và xã hội của họ. Trong sự khắt nghiệt của người đầy tớ đầu tiên thì yêu cầu đòi nợ của anh đối với bạn mình chắc chắn sẽ bức thiết hơn yêu cầu đời nợ của vị vua giàu có.
Tuy nhiên, đọc kỹ dụ ngôn này sẽ mang lại một số nhận thức có ý nghĩa. Dụ ngôn dạy về tầm quan trọng của lòng thương xót, yêu cầu giúp đỡ và trợ cấp những người đang cần. Câu chuyện cũng gợi ý rằng những người có phương tiện, như nhà vua, nên công bằng, thực thi chính nghĩa và quảng đại vì sự giàu có của họ. Dụ ngôn thách thức những người có ít điều kiện hơn thể hiện lòng tốt đối với những người có hoàn cảnh tồi tệ hơn mình. Những khái niệm này có giá trị, nhất là khi đề ra những chính sách, luật pháp và chương trình để giúp đỡ những người sống trong nghèo đói, đặc biệt là nơi các hệ thống kinh tế có sự chênh lệch và bất bình đẳng.
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con hay không? Tội lỗi của chúng ta thì nặng nề và chồng chất, làm cho Thiên Chúa phải buồn lòng. Và theo một ý nghĩa nào đó, tội lỗi ấy được sánh ví như là một món nợ khổng lồ chúng ta thiếu hụt cùng Thiên Chúa. Đồng thời trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những khổ đau, những bất công do anh em gây nên.
Thế nhưng, trong kinh Lạy Cha, chúng ta dám thưa lên cùng Thiên Chúa: Xin Ngài tha thứ cho chúng ta những lỗi lầm quá lớn, nếu như chúng ta biết quên đi những vấp phạm nhỏ bé của anh em. Đúng là một tỷ lệ không cân xứng và chẳng có ý nghĩa chi cả… Và đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Ông vua muốn tính toán nợ nần với những bầy tôi của mình. Ông vua chính là Thiên Chúa còn bầy tôi chính là chúng ta. Món nợ khổng lồ lên tới 10 ngàn nén bạc, chính là những tội lỗi của chúng ta khi đứng trước một vị Thiên Chúa nhân từ, thánh thiện và công bằng vô cùng. Còn món nợ nhỏ nhoi 100 đồng là những vấp phạm của anh em đối với chúng ta. Và như thế chúng ta nhìn thấy sự sai biệt giữa hai món nợ là như thế nào.
Trước lời van xin của tên đầy tớ thứ nhất, nhà vua đã thực sự xúc động, ông đã tha thứ và xóa bỏ món nợ kếch xù của hắn. Còn hắn, hắn lại tỏ ra hà khắc đối với bạn hắn, là người chỉ mắc nợ hắn một số tiền nhỏ bé. Khi hay tin, nhà vua đã vô cùng sửng sốt, ông đã đối xử với tên đầy tớ theo như mức độ nhân từ mà họ đối xử với nhau… Và phần kết luận, hẳn chúng ta đã rõ. Lý hình chính là những sự trừng phạt ở đời này cũng như ở đời sau. Đoạn Tin Mừng không phải chỉ kêu gọi chúng ta tha thứ cho một người anh em hay kẻ bạn hữu, mà còn tha thứ cho tất cả những bất công mà kẻ thù gây nên.
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài: yêu thương kẻ thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài: Tại sao chúng ta lại phải tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu của chúng ta. Đức cha đã trả lời: Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh tới lời van xin: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Ngày hôm sau được phép cử hành thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là hãy tha thứ cho nhau.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Mt 18,21-35. Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả…
Suy niệm
Như chúng ta biết đó, theo luật Môisen, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần. Con số 3 là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”, Phêrô có thể nghĩ rằng mình đã làm một sự bức phá để có thể trở nên một con người hết mực nhân từ vì tha thứ là một điều không phải dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương rất nhiều.
Sống với nhau giữa đời, đôi lúc có những lời ăn tiếng nói làm cho nhau tổn thương là điều không thể tránh khỏi vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. Thánh Gioan bảo rằng “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Cũng như tục ngữ Việt Nam có câu: “Chén úp chung trong một sóng còn khua”. Đúng thế, với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Cho nên người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng… tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn mà ta có thể gây tổn thương người anh chị em một cách vô tình bất cứ lúc nào. Lời Thánh vịnh 51,13-15, thánh vương Đavid than phiền sự bất trung: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi…”
Cho nên, trước câu hỏi một cách chân thành và đầy thiện chí cũng như sự cố gắng muốn nên tốt lành của Phêrô, Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu vượt lên trên ý chí của con người. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, còn Chúa Giêsu dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót.
Nếu như mỗi ngày công là một quan tiền, thì với số nợ lên đến 10.000 yến vàng nghĩa là 10.000 x 6.000 quan tiền tương đương 60.000.000 ngày công. Một món nợ mà người này có phải trả tới 200.000 năm vẫn chưa xong! Nhưng anh van xin và tôn chủ chạnh lòng thương bỏ qua tất cả cho anh. Tuy nhiên tới lượt anh, khi đóng vai ông chủ nợ với số nợ chỉ là 100 quan tiền, tương đương 100 ngày công, người này lại là bạn của anh nữa chứ, nhưng anh ta đã không chịu bỏ qua. Vậy mới thấy, nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người. Khi con người đối xử với nhau không có tình người thì sẽ bị Thiên Chúa phán xét. Bài đọc I trích sách Huấn Ca đã dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao?”
Qua câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã muốn chỉ ra thế nào là sự tha thứ mà Phêrô cần có. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao. Trên đời này, mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình người ở lại. Vậy, bao lâu còn thời giờ, chúng ta được Chúa mời gọi hay biết làm điều tốt cho anh chị em mình và biết thứ tha cho nhau.
Câu chuyện về hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Khi đang trò chuyện cùng nhau họ bắt đầu tranh luận một cách gay gắt, ví quá tức giận người bạn của mình, người kia không kiềm chế được đã tát vô má anh nọ một cái thật mạnh. Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên bãi cát dòng chữ “Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi”.Rồi hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông phải qua mà không có đò đưa, hai người lội qua. Khi ấy, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết. Khi đã được cứu lên được bờ và hết hoảng sợ, anh viết trên tảng đá bên bờ sông: “Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi”. Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??” Mỉm cười anh trả lời ” Khi anh làm tôi đau, tôi viết trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ, nhưng khi anh làm điều tốt là đã cứu tôi, tôi đã viết nó trên đá như ghi khắc vào trong trái tim của mình, không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được”. Câu chuyện này có thể chúng ta đã nghe đi nghe lại nhưng cũng khó lắm để làm theo. Nhưng không thể chỉ vì cãi nhau mà có thể làm hỏng một kết nối bền chặt. Tuy nhiên, một nghịch lý luôn chi phối mọi tín hữu khi sống trong cộng đoàn, đó là chỉ muốn được tha thứ nhưng lại không dễ dàng thứ tha.
Chúng ta hãy luôn tha thứ vì Chúa muốn chúng ta như vậy, Chúa đã tha thứ cho chúng ta, nhận chúng ta làm con của Ngài nên không vì cớ gì mà chúng ta không tha thứ cho anh em mình. Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Rôma và mỗi người chúng ta hãy sống một đời sống mới: “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa”.
Lạy Chúa, Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý, chúng ta tức giận nhau, chúng ta để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hoả ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua Kinh thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
44. Tha thứ mà không cần so đo tính toán
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm nhưng cho đến nay thành phần lãnh đạo và giới trí thức của hai quốc gia nói chung rất dè dặt trong mối quan hệ ngoại giao, rất nhạy cảm mỗi khi đề cập, đá động đến chuyện xưa. Người Do thái thường nói: Chúng tôi có thể tha thứ, nhưng chúng tôi không thể nào quên tội ác của dân tộc Đức trong quá khứ!
Chúng ta phải tha thứ cho kẻ khác bao nhiêu lần? Tất cả đều có giới hạn của nó. Một lần là đủ rồi. Nếu không thì chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ bị kẻ khác lợi dụng từng bước. Chúng ta nghĩ như thế, những người chung quanh cũng vậy. Thánh Phêrô cũng đã nghĩ như thế, và bởi vì nghĩ như thế cho nên ông cảm thấy mình khoan dung độ lượng, rất tự hào đến hỏi Đức Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết: làm việc thiện thì tốt hơn làm điều xấu. Để nhận biết sự khác biệt giữa nhân đạo và vô nhân đạo con người chưa cần nại đến đức tin hay tôn giáo. Tha thứ, làm hoà: đó là kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã từng trải. Nhưng chắc chắn ai cũng phải nhìn nhận rằng, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu như có ai lần đầu tiên vô tình hay hữu ý xúc phạm đến chúng ta, chúng ta có thể nhường nhịn, xí xoá bỏ qua. Thôi thì “chín bỏ làm mười”, hãy cho kẻ ấy một cơ hội. Nhưng được một lần thì lại có lần thứ hai, thứ ba! Khi chó bị dồn vào chân tường thì sẽ cắn quái! Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nổi giận và nói: Hắn đã xúc phạm đến tôi, tôi không thể nào dung thứ cho hắn. Tất cả đã quá trớn!
Đúng như thế, nếu nhìn sự việc theo những khía cạnh thuần tuý con người thì tất cả có lẽ đã quá trớn, nhưng cãi cọ xung khắc là lẽ thường tình của đời sống con người. Mỗi một mối quan hệ là một cuộc phiêu lưu. Ai muốn kết giao với kẻ khác đều phải chấp nhận mạo hiểm. Buổi ban đầu tất cả đều đẹp đẽ, đầy hứa hẹn. Nhưng nếu không biết trân trọng giữ gìn thì một ngày nào đó những vui thú hứng khởi lúc đầu thành tẻ nhạt, xung khắc bất đồng nảy sinh. “Không ưa thì dưa có giòi!” Chúng ta trở thành ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ rút lui vào vỏ ốc của mình, rào giậu, xây tường lũy chung quanh, bởi vì nỗi phập phồng lo sợ đã đi vào tận xương tủy. Nhưng “tức nước vỡ bờ”, những đè nén trong lòng sẽ nổ tung, khi chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa tứ bề. Chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ chính mình bằng mọi giá, nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tranh tụng bùng nổ trong gia đình cũng như trong Giáo hội. Ly dị ngày càng nhiều! Chúng ta đã tìm đủ cách để làm thay đổi môi trường sống cũng như quan hệ của chúng ta. Nhưng dựa vào sức lực tự nhiên chúng ta không đủ khả năng để tha thứ cho kẻ khác mãi mãi, cho nên chúng ta đặt tiêu chuẩn, giới hạn. Chúng ta cần sự trợ giúp. Chúng ta cần một người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có khả năng tha thứ. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm sáng tỏ một điều: Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta ơn tha thứ. Câu chuyện mà Ngài kể giống như một tấm gương. Nếu như chúng ta có can đảm nhìn vào thì chúng ta sẽ khám phá hình ảnh của chính mình trong đó. Không phải chúng ta mà là chính Thiên Chúa đã thực hiện bước đầu tiên. Thiên Chúa đã tự giao hoà chúng ta với Người qua Đức Giêsu và đã sai phái chúng ta đi làm hoà với người khác. Dù chúng ta đã phạm tội gì đi nữa, dù chúng ta có phạm bao nhiêu lần đi nữa, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Như Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thứ cho nhau.
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu đã trả lời cho Thánh Phêrô về sự tha thứ. Đó là tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha mãi, tha hoài, tha vô hạn định. Tuy nhiên, qua phần dụ ngôn kế tiếp cho thấy, mặc dù được tha nợ quá lớn, quá nhiều, nhưng con người chúng ta, như người đầy tớ đã không chịu tha thứ, tha nợ cho người khác.
Vì sao con người chúng ta lại khó mà tha thứ cho nhau?
Ai đó đánh tôi, tôi có đánh lại không? Ai đó cướp bóc hành hạ tôi, tôi có trả thù không? Ai đó mắng chưởi hay nói hành nói xấu tôi thì liệu tôi có im lặng chịu thua không? Có lẽ chỉ người điên điên khùng khùng không nghe không hiểu, hoặc lành thánh lắm mới im lặng tha thứ.
Trả thù như đã nằm trong bản năng hiếu chiến của con người nên khó mà làm ngược lại. Trong các phim võ hiệp Trung quốc, một nét khá nổi bật, đó là sự trả thù. Dĩ nhiên là phải có thù hận mới có đánh nhau, nếu không có thù hận làm sao đánh nhau. Thế nhưng có điều rất lạ là việc trả thù được coi như là một nghĩa vụ. Con phải báo thù cho cha mẹ, trò phải báo thù cho sư phụ, nếu không thì mang tội bất hiếu, bất trung, hơn thế nữa mang tội với trời đất.
Tại sao họ làm như vậy? Không những vì bản năng đấu tranh để sinh tồn mà còn vì quan niệm: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Đó là quan niệm căn cứ trên lẽ công bằng.
Chính cái lý lẽ công bằng có sẵn trong tâm trí con người đã khiến con người không thể tha thứ: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Nói một cách khác, tâm trí ta không chịu được sự bất công, sự phi lý của kẻ khác. Thằng hàng xóm nó lừa gạt ta, ta phải cho nó biết tay; anh em trong nhà bê tha rượu chè, trộm cắp tiền bạc, đứa con dâu hổn hào láo xược, tôi phải cho nó một bài học, phải trừng trị thích đáng!
Thế thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi cái lý lẽ trói buộc ta như thế?
Chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự ghen ghét, thù hận, hay thoát khỏi những tức giận của ta trước sự bất công, phi lý. Ngài chỉ cho ta thấy, chính vì sự công bình mà đòi ta phải tha thứ.
Anh đã được tha thứ, vậy anh phải tha thứ thì mới công bằng chứ. Anh đã được tha nợ mười ngàn nén vàng mà bây giờ anh lại không tha cho người khác chỉ nợ anh có một trăm nén bạc. Quả là bất công! Anh phải bị phạt vì anh hành xử cách bất công quá lớn.
Mỗi người chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa ân huệ quá lớn. Ta được tạo dựng từ hư không, được sinh sống và lớn lên trên quả địa cầu này, sử dụng đất đai cầy cấy, nuôi trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sông núi biển khơi, hưởng gió mát trăng thanh… mà chẳng phải trả cho Thiên Chúa một đồng nào. Nếu như Thiên Chúa đòi trả thì ta phải trả cho Ngài bao nhiêu? Quả là vô giá và không thể nào trả nỗi. Thiên Chúa còn cho Con Ngài là Đức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá để chuộc tội chúng ta, để chúng ta có thể sống hạnh phúc mãi mãi đời sau. Nếu Thiên Chúa đòi thì ta trả Ngài bao nhiêu?
Thật ra, ta chỉ giả thiết chứ Thiên Chúa không bao giờ đòi ta trả một cách tương xứng, Ngài chỉ đòi ta tha thứ cho người khác, yêu thương người khác. Một sự tha nợ, tha thứ của ta cho dù ta thấy lớn, ta thấy rất lớn, thật sự vẫn là quá bé nhỏ so với ân huệ lớn lao, mà ta đã thụ hưởng, đã lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Tại một nhà thờ ở bên Tây Ban Nha, có một tượng Thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ thánh giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa ra phía trước trong tư thế ban phước lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng Thánh Giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với một vị linh mục chính xứ ngay dưới chân cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật đó, không bao lâu người đó lại sa ngã. Lần này sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây Thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể giải tội cho ông nữa”.
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe một tiếng thì thầm từ bên Thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi Thánh giá và ban phép lành cho tội nhân. Và vị linh mục lại nghe tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính ta là người đổ máu ra cho người này, chứ không phải là ngươi”.
Bên kia của sự oán thù, của sự không thể tha thứ, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, không ngừng ban phát ơn huệ, một tình yêu vượt lên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên Thập giá chúng ta cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài, cảm nếm được ân huệ vô song từ Thiên Chúa, mà ta chẳng bao giờ có thể đáp đền cho cân xứng được. Xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nếm được những ân huệ lớn lao, tình yêu thương vô bờ bến đó, để chúng ta có được động lực mà ban phát, mà cảm thông, mà tha thứ cho anh chị em của chúng ta.
Phêrô không phải là không tính toán kỹ lưỡng khi hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ cho anh chị em bao nhiêu lần, có phải bẩy lần không? Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Ông hy vọng sẽ được Chúa khen ngợi; không ngờ câu trả lời của Chúa là “bẩy mươi lần bẩy”, có nghĩa là phải tha thứ không giới hạn!
Rồi Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót. Sự so sánh món nợ lớn lao của anh với nhà vua là “mười ngàn nén vàng” và số tiền của người bạn nợ anh là “một trăm quan tiền” đã làm nổi bật lên lòng nhân từ của Thiên Chúa. Có tác giả đã so sánh một quan tiền là một ngày lương của người lao động. Người bạn nợ anh 100 ngày lương. Còn một nén vàng tương đương với 6000 quan tiền. Mười ngàn nén vàng là 60 triệu quan tiền. Nếu một người lao động làm việc năm ngày một tuần, 50 tuần một năm, phải mất 280 ngàn năm mới trả đủ số tiền nợ nhà vua. Không thể nào trả nổi!
William Barclay đã viết như sau: “A.R.S. Kennedy đã vẽ ra bức hình sống động này để đối chiếu những món nợ. Giả sử họ trả bằng tiền bảng Anh. Món nợ 100 quan tiền có thể được mang trong một cái túi áo hay túi quần. Món nợ 10 ngàn nén vàng phải được một đội quân 8,600 người mang, mỗi người mang một cái túi nặng 60 cân Anh – khoảng 27 kg; và nếu họ đứng sắp hàng, mỗi người cách nhau chừng 80 cm, làm thành một hàng dài 5 dặm – khoảng 8 cây số”.
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta đã được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết của Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa thứ tha.
Sự tha thứ mang lại ích lợi cho người tha thứ và người được tha thứ: Shakespear xưa kia đã nói: “Tha thứ là hai lần phúc lành”. Nó mang lại phúc lành cho người tha thứ và người được tha thứ.
Khi cựu tổng thống Bill Clinton gặp cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela lần đầu tiên sau khi được thả ra khỏi tù, ông Clinton nói: “Khi ông được thả ra khỏi nhà tù, tôi đã đánh thức con gái tôi dậy vào lúc 3 giờ sáng. Tôi muốn cô bé chứng kiến biến cố lịch sử này”. Rồi ông Clinton chuyển sang một câu hỏi đã in trong tâm trí từ lâu: “Khi ông bước ra khỏi khu nhà tù, băng ngang qua cái sân tới cổng nhà tù, máy thu hình đã tập trung vào khuôn mặt của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự giận dữ và hận thù trên khuôn mặt của bất cứ một người nào được diễn tả như trên khuôn mặt của ông vào lúc đó. Đó không phải là Nelson Mandela mà tôi biết hôm nay”, Clinton nói. “Điều gì đã làm ông thay đổi?”
Mandela trả lời: “Tôi ngạc nhiên rằng ông đã nhìn thấy điều đó, và tôi tiếc rằng những chiếc máy thu hình đã chộp được cơn giận của tôi. Khi tôi bước qua sân nhà tù ngày hôm đó tôi tự nghĩ rằng họ đã tước đoạt đi tất cả mọi sự của tôi. Sự nghiệp đã chết. Gia đình đã mất. Bạn bè đều bị giết. Bây giờ họ thả tôi ra, nhưng chẳng còn gì nữa cả. Và tôi thù ghét họ vì cái họ đã tước đoạt cuộc đời của tôi. Nhưng rồi, tôi tự cảm thấy một tiếng nói tự bên trong ngỏ với tôi: “Nelson! Ông là tù nhân của họ 27 năm, nhưng ông đã luôn luôn là một người tự do! Đừng để họ thả ông ra làm một người tự do, rồi lại biến ông thành tù nhân của họ qua sự hận thù”.
Henri Nouwen đã so sánh cuộc đời của chúng ta với những cái ly phải được làm trống rỗng đi để được đổ đầy trở lại. Nếu chúng ta đổ cay đắng, hận thù và trái ý đầy vào ly, Thiên Chúa không thể tuôn đổ ân phúc của ngài vào được.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hùng)
Trong ngày Tết Âm Lịch, người ta chúc nhau một câu vui đùa: “Chúc cho năm mới làm ăn phát tài, tiền vào như nước, tiền ra nhỏ giọt”. Nghĩ cho kỹ, câu chúc này không thích hợp với định luật tự nhiên nếu không muốn nói là… “có trục trặc bệnh lý”. Một người ăn uống thả cửa, món ngon món dở thầu chở ráo trọi mà không có chuyện giải quyết… “hậu sự”, thì chắc chắn trong vòng 24 tiếng sẽ phải nộp đơn xin nhập bệnh viện gấp. Có “input” mà không “output” thì chắc chắn sẽ bị dồn ép và bùng nổ. Con người muốn sống lành mạnh phải theo định luật tự nhiên ra vào đều hoà.
Tuy nhiên theo tâm lý tự nhiên con người lại có chiều hướng bệnh hoạn, chỉ có vô mà không cho ra. Người ta muốn chìa tay xin xỏ, nhận lãnh, nhưng không muốn ban phát. Trong bài Phúc Âm, thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?” Thánh Phêrô nghĩ rằng con số bảy là quá rộng rãi. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người chủ tha nợ cho đầy tớ nhưng hắn lại không tha nợ cho bạn hắn. Cuối cùng tên đầy tớ phải chịu hành hình cho đến khi trả nợ xong.
Tội nguyên tổ đã làm cho con người nên hư hỏng hẹp hòi, ích kỷ, chỉ muốn vơ vào, tích lũy, không chịu cho đi, ban phát. Đó chính là cái bệnh làm cho cuộc sống con người trở nên bất hạnh. Của cải vật chất, tiền bạc người ta ôm vào cho thật nhiều để rồi lo lắng, không ăn không ngủ vì sợ mất. Những khó chịu, giận dỗi, hận thù, ganh tỵ với tha nhân là những viên thuốc độc giết chết con người dần mòn, nhưng người ta cứ khư khư ôm lấy để sống trong buồn sầu bất hạnh.
Một người ăn xin đến gõ cửa nhà một người giầu có. Người giầu không cho gì mà còn đuổi đi và ném theo một cục đá vào lưng người ăn xin thật đau điếng. Người ăn xin nhặt cục đá bỏ vào trong bao đeo trên mình với lời thề nguyền để ghi nhớ suốt đời mối hận này. Năm tháng trôi qua người ăn xin già đi và cảm thấy cục đá để trong bao mỗi ngày một nặng hơn, và lòng ông cũng nặng chĩu với mối hận ghét người nhà giàu ác tâm ném đá ông. Một ngày kia ông già ăn xin cảm thấy mệt mỏi vì mang trên mình cục đá đó, ông đã thò tay vào bao lấy cục đá ra và ném xuống đất. Người ông cảm thấy thật nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó ông không còn để lòng hận ghét và nhớ đến người nhà giàu kia nữa.
Qua bài Phúc Âm Chúa muốn dạy chúng ta, tha thứ là con đường tự giải thoát chính mình. Muốn lãnh nhận ơn tha thứ, ta hãy mở lòng tha thứ cho người khác. Ơn tha thứ Thiên Chúa sẵn sàng ban phát, nhưng chúng ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi mở cửa lòng ra để tha thứ cho người khác. Ngược lại, nếu chúng ta khư khư ôm mối căm hờn khép kín cửa lòng lại với tha nhân, ơn tha thứ của Thiên Chúa không thể đến với ta được.
John Huffman đã nói: “Con người thống khổ nhất trên thế giới là người sẽ không tha thứ. Không có gì có thể vặn cổ linh hồn mau lẹ hơn nó. Nói đúng ra, nếu tôi có một kẻ thù mà tôi muốn phạt, tôi sẽ dạy nó thù ghét một người nào đó”.
Sự tha thứ của Đức Hồng Y Bernadin đã chúc lành cho anh Steven Cook một cách rất kỳ diệu. Anh là người đã vu oan cho Đức Hồng y về tội quấy rối tình dục. Nhưng Đức Hồng y đã tha thứ khi anh xin lỗi và anh đã nói: “Sau khi hoà giải, một cái ách nặng nề lớn lao đã được cất đi khỏi người tôi. Tôi đã cảm thấy được chữa lành và an bình”. Cuối cùng anh đã chết bình an sau khi trở về với Giáo Hội và Thiên Chúa.
Sự tha thứ mang lại ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến cho hối nhân – người sám hối được tha thứ. Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyên chúng ta nên thường xuyên lãnh Bí tích Hoà giải.
Một buổi chiều trời mưa tầm tã, bà mẹ đón con đi học về đang lái xe trên đại lộ chính của thành phố. Bà phải để hết chăm chú vào việc lái xe vì đường phố rất ướt và trơn trượt. Thình lình, cậu con trai ngồi thoải mái bên cạnh mẹ nói lớn: “Mom, con đang suy nghĩ điều này”. Hành động này đối với bà mẹ thường có nghĩa là cậu con trai 7 tuổi của bà đang muốn xin một điều gì đó và bây giờ sẵn sàng lên tiếng. “Con đang nghĩ gì vậy?” Người mẹ hỏi. “Trời mưa”. Nó nói, “giống như tội, và những cái gạt nước giống như Thiên Chúa quét sạch tội lỗi của chúng ta đi”. “Con giỏi quá, Matthew”. Rồi tò mò người mẹ muốn biết đứa con trai của bà hiểu được điều mạc khải này sâu xa như thế nào. Bà mẹ hỏi: “Con có để ý thấy mưa cứ tiếp tục rơi như thế nào không?” Mưa rơi nói với con điều gì không?” Matthew không do dự, trả lời: “Chúng ta đã phạm tội, và Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục tha thứ cho chúng ta”.
Sự tha thứ phản ảnh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới cảm thông, và yêu thương. Nhân ngày tưởng niệm các nạn nhân vô tội trong những vụ khủng bố vào ngày 11/9/2001, tại Hoa Kỳ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
49. Sự tha thứ – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Điểm đặc biệt trong đời sống Kitô hữu là mỗi người được Lời Chúa trong Chúa Nhật 24 nhắc nhở rõ ràng là sự tha thứ cho nhau. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Huấn Ca (Hc 27,33-28,9), loan báo trước giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, giáo huấn về sự tha thứ cho những lỗi phạm của anh em: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Bài Phúc Âm thánh Mátthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong câu trả lời cho Thánh Phêrô đến hỏi Chúa: “Tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, đến bảy lần chăng?”. Phêrô đến với Chúa bằng một tâm thức câu nệ hình thức, tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ và ông nghĩ rằng, tha thứ đến bảy lần là đã làm trọn luật Chúa dạy. Noi gương của Thiên Chúa như đã được kể lại trong sách Cách Ngôn: “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Cách nói bảy mươi lần bảy cũng là cách nói được dùng trong sách Sáng Thế Ký (x. St 4, 24), có nghĩa là tha thứ luôn luôn, không có giới hạn, không có tính toán.
Đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu được trích lại nằm trong toàn bộ chương XVIII nói về những đặc điểm nếp sống mới của những đồ đệ Chúa Kitô, và nền tảng cho nếp sống mới là căn cứ theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt5,48). Mỗi một thái độ sống của người đồ đệ Chúa đều được Chúa qui hướng về việc bắt chước theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha.
Chính vì thế mà để làm nổi bật khía cạnh đặc điểm tha thứ cho anh em, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để diễn tả thái độ của Thiên Chúa Cha như ông chủ tha thứ cho người tôi tớ vì tình thương hơn là chính người tôi tớ tha thứ cho bạn của mình, vậy chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho anh em mình, cho những người xúc phạm hay làm tổn thương đến chúng ta bằng cách này hay cách khác.
Đặc điểm thứ hai cần lưu ý là mối liên quan giữa nếp sống Kitô và lời cầu nguyện. Điều này được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất, đó là sự liên kết giữa cuộc sống hàng ngày và đời sống cầu nguyện, vì tha thứ cho kẻ làm hại đến mình thì con người sẽ được tha thứ như vậy. Không thể không có tha thứ đích thực nếu không tuân giữ luật Chúa dạy. Các tiên tri nhiều lần đã lên tiếng cảnh cáo những thái độ sống giả hình, đó là dâng lễ vật lên Thiên Chúa mà vẫn hà hiếp, áp bức anh chị em xung quanh: “Thiên Chúa muốn tình thương hơn là lễ vật” (Mt12,7). Và: “Khi các con đến dâng của lễ mà nhớ có điều gì bất bình với anh em thì hãy bỏ của lễ lại mà đi làm hòa với anh em con trước đã, rồi hãy đến dâng lễ vật” (Mt5,23-24). Giáo huấn này được Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn nữa khi Ngài đưa nó vào lời kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành. Vào thời hậu thế chiến thứ hai bên Âu Châu, cô Coritanbum, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp nơi bên Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp đưa tay ra bắt lấy cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác đi nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng không vượt qua được về những cảm xúc đó như cô Coritanbum. Ông Alexande Box đã có lần nói: “Lầm lỗi là chuyện thường tình của con người, nhưng tha thứ phải là chuyện của Thiên Chúa”. Cần có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ vấn đề, không phải chỉ giữ luật tha thứ như Phêrô nghĩ là tha thứ đến bảy lần, vì luật Môisen chỉ dạy tha thứ có bảy lần mà thôi, nhưng hệ ở chỗ là tâm hồn luôn luôn tràn đầy tình yêu thương để tha thứ cho anh em mình. Tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghìa là tha thứ luôn luôn, chúng ta cần phải có tâm hồn như Chúa, tha thứ như Chúa, không tính toán số lượng, số lần theo luật định, nhưng phải với tâm hồn đã được ơn Chúa biến đổi là tha thứ vô hạn định.
Xin Chúa đến với chúng con ngày hôm nay trong Bí Tích Thánh Thể, đặc biệt khi chúng con rước Chúa vào tâm hồn, chúng con xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con được trở nên giống như Chúa, tâm hồn tràn đầy tình thương của Chúa để chúng con tha thứ cho tha nhân như Chúa, xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
(Chú giải, Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
- Câu hỏi của Phêrô về việc thường xuyên tha thứ có phải là cảm hứng theo pháp luật không? Còn câu trả lời của Chúa Giêsu thì sao? Trong dụ ngôn, đâu là những chữ diễn tả lý do khiến ông chủ đã tha cho người tôi tớ mắc nợ lút đầu?
- Con số 77 mà Chúa Giêsu dùng phát xuất từ đâu? Ngoài việc dùng con số 7 với ý nghĩa biểu trưng cổ điển là sự viên mãn, tròn đầy, phải chăng ở đây Chúa Giêsu còn ám chỉ đến một nhân vật Cựu ước nữa?
- Trong đoạn văn này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc thường xuyên tha thứ, chứ không đến các điều kiện cụ thể để được thứ tha. Nhưng trong đoạn song song Lc 17, 3-4, Người lại bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải. Tại sao đòi buộc điều kiện cụ thể ấy?
- Trong dụ ngôn, tất cả đều như có thật hay chỉ gồm những nét có tính cách tượng trưng?
- Dụ ngôn nhấn mạnh đến số lần tha thứ hay đến đòi hỏi phải tha thứ để được thứ tha?
- Cái liên kết đoạn này với đoạn trước là ý niệm tội lỗi. Nhưng ở đây nói rõ đó là tội trực tiếp can hệ đến người anh em, còn đoạn trên kia thì chẳng nhấn mạnh như thế. Người ta không xác định ở đây bản chất lẫn tính cách trầm trọng của lỗi phạm, nhưng hình như đề cập đến lãnh vực các thiếu sót đối với giới luật yêu thương, là giới luật căn bản “gồm tóm Lề luật và các ngôn sứ ”.
- Câu hỏi của Phêrô biểu lộ khuynh hướng cố hữu muốn hiểu giáo huấn Chúa Giêsu theo một nghĩa duy luật. Tâm hồn con người là vậy, bao giờ cũng thiên về việc lập điều lệ cho ân sủng hoặc trái lại lợi dụng nó! Câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng, dụ ngôn kèm theo cũng sáng sủa: Ai đã được Thiên Chúa tha thứ thì phải thứ tha luôn luôn. Đoạn song song Lc 17, 3- 4, trong đó Chúa Giêsu bắt việc tha thứ lệ thuộc lòng hối cải cho thấy việc thi thố lòng nhân lành không phải là lời khích lệ thói xấu, nhưng trái lại nhằm đỡ nâng người phạm tội đứng lên.
- Dụ ngôn quy hướng về giáo huấn căn bản vừa nói và còn chất chứa nhiều giáo huấn khác nữa:
- Nó tỏ cho thấy Thiên Chúa, trong con người của vị vua, dù có quyền trên tôi tớ mình, nhưng vì trắc ẩn, đã bằng lòng không sử dụng quyền ấy và chịu mọi mất mát thiệt thòi.
- Đồng thời nó nhắc lại đâu là thân phận của con người trước mặt Thiên Chúa: Một con nợ không thể trả nổi. Dù kê khai mọi thứ quí nhất mình có, dù thu vén mọi của giá trị nơi bản thân và nơi vật sở hữu, người tôi tớ vẫn biết rõ y không thể nào thỏa mãn các yêu sách của chủ y, dù đã đoan hứa này nọ. Nhưng nhà vua đã quyết định tha cho y chỉ vì ông “chạnh lòng thương xót” Người tôi tớ nợ lút đầu chỉ được tự do nhờ một sắc lệnh ân xá hoàn toàn vậy: “ông thả y về và tha bổng cả món nợ “.
- Sau cùng, dụ ngôn cho thấy đâu là chủ đích, ý nghĩa của việc Thiên Chúa thứ tha. Người tôi tớ đã để lộ sự bất xứng của mình khi, “đi ra, y gặp một người bạn đồng liêu mắc nợ y 100 đồng bạc” và y đã bóp cổ đòi nợ. Xa cách chủ y, y đã quên… hay đúng hơn đã không hiểu rằng việc y được tha nợ chẳng phải là một may mắn tình cờ, song là một ân huệ, và ân huệ không xứng đó đòi buộc ở y một bổn phận, trói buộc y trong cuộc sống cụ thể nhất của y và từ đây phải soi sáng cùng hướng dẫn thái độ y đối với các anh em mình.
Với một ngôn từ cụ thể, Chúa Giêsu đặt ra ở đây vấn đề lớn của luận lý Kitô giáo, mà sau này sẽ trở thành một trong các chủ đề chính yếu của lời rao giảng sứ đồ: “Anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng . .. ” (Pl 1, 27), “Hãy mặc lấy người mới đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4, 24), “Hãy là những người noi gương Thiên Chúa… ” (Ep 5, 1). Thay vì noi gương chủ, người tôi tớ vô tâm đối xử với bạn mình không như chủ đã đối xử với y: “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng liêu với ngươi sao, như chính Ta đã thương xót ngươi?”. Ân sủng phát sinh một đời sống mới hoặc chẳng phải là ân sủng. Nó đánh đau khởi điểm chứ không phải sự tận cùng của các liên hệ giữa ta với Thiên Chúa.
- Các “bầy tôi ” của vua trong Thánh kinh cũng như ở Đông phương chỉ các viên chức triều đình. Ở đây hai viên chức xem ra thuộc về hai cấp bậc khác nhau: người ta không vay nợ 10.000 nén vàng mà không ăn xài xa xỉ; đối lại người lúng túng khi phải trả 100 đồng bạc nợ (tức tương đương với 1/3 lợi tức hàng năm của một người làm công nhật) chỉ có thể là một viên chức hạng quèn. Nếu dựa trên các cách bình giá tiền tệ của flavius Jotsèphe, một người đương thời với Chúa Giêsu, thì một nén vàng hồi đó tương đương với 10.000 đồng bạc (Ant. 17, 323) có nghĩa là món nợ 10.000 nén vàng tương đương với 100 triệu đồng: thành thử tỷ lệ giữa hai khoản nợ là 1/1 .000.000. Số tiền này thật ra quá đáng và chẳng tương ứng với thực tế chút nào (vì ta biết tiền cống thuế của cả một tỉnh thuộc đế quốc Rôma thường chỉ vài trăm nén vàng chứ không hơn. Xem F.Josèphe, Ant 17, 11, 4): lý do duy nhất của con số khổng lồ ấy là “10.000 và “nén vàng” tượng trưng cho những gì quá sức vĩ đại (10.000 là con số cao nhất mà người ta dùng và nén vàng là kim bản vị lớn nhất được biết đến tại Cận đông thời đó). Với số tiền khổng lồ quá sức tưởng tượng như vậy, người ta chỉ muốn làm nổi bật sự đối nghịch với số bạc nhỏ bé 100 đồng. Thành thử dụ ngôn đã tiềm ẩn lời giải thích: đằng sau ông vua là Thiên Chúa, và đằng sau kẻ mắc nợ là con người với khả năng nghe sứ điệp thứ tha.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Đến bảy lần không?”. Học thuyết Do thái giáo của các giáo sĩ có đề cập đến việc anh em tha thứ cho nhau, nhưng trong một hệ thống duy luật; người ta tranh luận về số lần tha thứ, và con số 4 thường được coi là tối đa; khi hỏi phải chăng tha đến 7 lần, Phêrô nghĩ là “cấp tiến” lắm đối với Thầy của ông.
“Đến 77 lần” (Nguyễn Thế Thuấn: 70 lần 7): trong câu Người trả lời, Chúa Giêsu lấy lại bài ca báo thù của Lamek nơi St 4, 24: “ca in được báo thù gấp bảy, nhưng Lamek tới 77 lần”, song Người trở ngược lại trong nghĩa tha thứ. Con số đó muốn nói rằng việc báo thù hay việc tha thứ sẽ vô cùng vô tận.
“Vì vậy về Nước Trời thì cũng in như … “: Dụ ngôn này là của riêng một; nó diễn tả một cách cụ thể giáo thuyết của Huấn ca (28, 1- 7) mà Chúa Giêsu đã từng công bố (6, 14). Nhưng ở đây có đào sâu thêm về phương diện giáo thuyết. Huấn ca cho thấy sự chối từ tha thứ là một hành vi điên rồ từ phía người cần được tha thứ. Trong Tin Mừng, lòng nhân từ đã được chính nhà vua thi thố và lẽ ra phải nêu gương cho kẻ bầy tôi. Công thức nhập đề (dụ ngôn bất đầu với dữ cách: datit) không có ý nói Nước Trời giống như ông vua, như là bảo rằng trong Nước Trời do Chúa Ki-tô khai mạc, các sự việc sẽ xảy ra như dụ ngôn trình bày (ở đây bản dịch của BJ thật là tuyệt hảo).
Trong các trình thuật Thánh kinh, ông vua tượng trưng Thiên Chúa là ông vua phương Đông, có quyền tối thượng, quyền sinh sát trên mọi thần dân, vì làm vua là kiêm luôn chức vụ Thẩm phán tối cao. Động từ “tính sổ ” (sunairoin, cũng như trong 25,19) có ý chỉ đó là những việc tính sổ dứt khoát và trọn vẹn.
“Tôn chủ ra lệnh bán y và vợ con…”: Luật Do thái chỉ cho phép bán một người Israel trong trường hợp trộm cắp, khi tên trộm không thể hoàn trả đồ đã lấy (thế nhưng, ở đây chẳng nói người bầy tôi đã sống bất lương, mà chỉ bảo y không thể trả nợ nổi). Hơn nữa việc bán vợ là một việc bị cấm chỉ hoàn toàn. Thành thử câu chuyện giả thiết vua và bầy tôi đều là người ngoại giáo.
“Xin Ngài khoan hồng cho với…”: người bầy tôi không xin tha, vì y hứa một ngày kia sẽ trả đủ nợ, y chỉ xin khất lại một thời gian. Ta cũng nhận xét được như vậy về đứa con hoang đàng xin cha cho mình làm việc như một gia nhân trong Lc 15,19.
“Tôn chủ… tha bổng cả món nợ”: Nhà vua thi ân cho người tôi tớ gấp bội điều y xin: ông tha bổng cả món nợ. Thật là một hồng ân cao quí. Do đó người đầy tớ sẽ không lý nào mà sau đó lại tỏ ra tàn nhẫn; y chẳng mắc nợ gì nữa, mà còn giữ được gia sản mình, một gia sản chắc chắn không phải nhỏ. Động từ chỉ mối trắc ẩn của vua (chạnh lòng thương xót) thường thấy xuất hiện với nghĩa ấy trong Cựu ước và Tân ước (Mt 9, 36 ; 15, 32 ; 20, 34 v.v…)
“Xin khoan hồng cho tôi với… “: Những lời đây cũng giống những lời mà viên chức cao cấp đã thốt lên lúc nãy, nhưng không có chữ “hết”, vì lần này chẳng đáng giá bao nhiêu và con nợ có thể trả nổi mà không cần minh nhiên bảo đảm sẽ giao hoàn trọn vẹn. Qua hai lời van xin tuyệt đối giống nhau ấy, chắc chắn một muốn làm nổi bật sự song song giữa hai con nợ, và do đó làm nổi bật nét tương phản giữa thái độ nhà vua và thái độ viên chức cao cấp.
“Y lại đi bỏ tù”: Ngục tù xem ra không phải là phương thế tốt để con nợ có thể xoay sở mà trả hết bạc tiền. Nhưng người ta có thể bắt đương sự lao động, như người Rôma xưa vẫn làm; hoặc con nợ sẽ quyết định đem bán các của cải chìm để trả, hay bạn bè y sẽ thanh toán cho y.
“Cho lý hình”: ở Israel chẳng có việc tra tấn, nên đây còn là một bằng chứng cho thấy câu chuyện không xảy ra tại Palestine. Ở phương Đông có luật dùng biện pháp tra tấn đối với các quan lại bất trung hay chểnh mảng trong việc đóng thuế, để khám phá ra nơi họ chôn dấu tiền bạc, hoặc để làm áp lực với thân nhân, bằng hữu. Khi miêu tả các phương sách tài phán xa lạ với người Do thái và bị họ coi như là vô nhân đạo, Chúa Giêsu muốn cho thấy hình phạt thật ghê rợn đến độ nào.
“Cũng vậy Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi” : Ở đây cũng như nhiều nơi khác (6, 14-15 ; 7, 1-2 v.v…), Chúa Giêsu lấy lại học thuyết Do thái về hai “đấu”, nhưng Người biến đổi nó hoàn toàn (thật không phải là chuyện tình cờ nếu văn chương Do thái chẳng cống hiến một dụ ngôn nào song song với dụ ngôn chúng ta). Do thái giáo dạy rằng Thiên Chúa dùng hai “đấu” để cai trị thế giới: lòng nhân ái và sự công bằng. Tuy nhiên trong ngày phán xét cuối cùng, công bằng là đấu duy nhất còn lại: “Đấng Tối cao sẽ xuất hiện trên ngai trong tư thế vị thẩm phán. Bấy giờ sẽ là cùng tận, lòng nhân ái sẽ biến mất, niềm trắc ẩn sẽ xa đi và đức nhẫn nại sẽ tiêu tan…” (4Edr 7, 33). Trái lại Chúa Giêsu dạy rằng vẫn còn lòng nhân ái trong ngày Chung thẩm; nhưng vậy thì lúc nào Thiên Chúa sẽ sử dụng đấu nhân ái và lúc nào sử dụng đấu công bằng? Chúa Giêsu trả lời: ở đâu mà sự tha thứ của Thiên Chúa thúc đẩy đến thái độ sẵn sàng thứ tha, ở đó lòng nhân ái của Ngài sẽ tuyên bố tha bổng; còn kẻ nào chẳng biết sử dụng hồng ân thứ tha của Thiên Chúa, thì sẽ bị sự công bằng của Ngài luận xử cách nghiêm khắc, như thể y chưa bao giờ được tha thứ vậy.
KẾT LUẬN
Kết luận của câu 35, lấy lại các đoạn trong Diễn từ trên núi (6, 14- 15 ; 7, 1 -2) về việc tha thứ và xét xử nhau, cho thấy rằng cuối cùng tất cả đều sống đời sống của kẻ được tha thứ đều tùy thuộc vào cuộc phán xét dứt khoát thời cánh chung, khi Thiên Chúa sẽ trả cho mỗi người theo công việc họ đã làm. Do đấy ngay từ bây giờ, ai nấy đều bị xét xử theo cách họ tiếp đón và san sẻ cho anh em ơn tha thứ đã nhận được từ Chúa Cha. Mỗi người càng “thật tâm ” tha thứ cho anh em mình bao nhiêu, như Thiên Chúa thứ tha họ, thì ơn tha thứ luôn luôn đi đầu của Chúa Cha sẽ được thể hiện bấy nhiêu trong cộng đoàn và trong mỗi kẻ đã biết san sẻ nó cho anh em Như vậy ta thấy rõ ràng lời cầu xin của Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6, 12) thật là sâu xa và mối chân phúc thứ năm: “Phúc cho những kẻ biết xót thương vì họ sẽ được thương xót” (5,7) thật là đúng vậy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Vị vua tha bổng một số nợ kếch xù, chỉ vì người ta cầu xin như thế, chính là Thiên Chúa. Lòng nhân lành của Ngài thật vô biên, và thực thể số nợ lại vượt quá sức loài người. Trong dụ ngôn hôm nay, Ngài mặc khải cho ta thấy vẻ uy nghi, sự cao cả và lòng thương xót bao la của Ngài. Nhưng không chỉ có vậy mỗi người chúng ta đều biết rằng mình cần lòng nhân ái vô biên đó để có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa vì chúng ta cứ chồng chất thêm nợ nần mãi như người bầy tôi thứ nhất của dụ ngôn. Nếu Thiên Chúa tha nợ cho thì trước mặt Ngài, ta vẫn còn như người bầy tôi chỉ sống nhờ lòng hào hiệp và nhân ái của chủ.
- Chính vì thế mà ta hiểu rằng bổn phận tha thứ cho anh em cũng chẳng có giới hạn. Kẻ được hưởng một lòng thương xót vô biên, không được khép kín mình lại và để con tim ra chai đá. Kẻ đang nợ nần vô số chớ nên coi một ai khác như có mắc nợ với chính mình. Vì Thiên Chúa lấy đấu nào mà đong cho ta, ta cũng phải lấy đấu đó đong lại cho anh em. Mối tương quan của ta đối với anh em phải được qui định bởi mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài yêu cầu ta hãy sẵn sàng hòa giải với nhau, đừng hạn chế chút nào. Chỉ với cách đó mà ta mới có thể hy vọng được cứu rỗi trong ngày phán xét sau hết.
- Mối liên hệ giữa anh em nhờ đấy được nâng lên một bình diện khác hoàn toàn. Tất cả chúng ta đối với nhau đều như những người sống nhờ lòng nhân ái của cùng một Thiên Chúa. Sứ mệnh của ta là san sẻ cho nhau và gieo rắc ngần nào có thể lòng nhân ái đã được thi thố cho ta như thế.
(Suy niệm của Phillip Bình Khả)
Aba Gayles kể lại một khúc quanh của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là con gái yếu dấu của bà bị kẻ sát nhân, ông Mickey, đâm tới chết, bà đã bàng hoàng và cảm thấy đau đớn tột cùng. Trong những ngày tháng sống trong đau buồn vì mất người con gái yêu dấu và giận ghét đối với kẻ giết con mình, bà rất muốn trả thù cho con gái bà, bà muốn kẻ sát nhân phải chết. Chính vì sống trong tâm trạng đó, bà Aba Gayles đã sống xa cách mọi người, bà mất đi cuộc sống vui tươi. Nhưng rồi qua học hỏi lời Chúa và cầu nguyện, bà đã tìm lại được cuộc sống thật của bà và cuối cùng bà đã tha thứ cho kẻ đã giết con gái của bà. Hơn thế nữa, bà còn thường xuyên đi thăm viếng người hãm hại con gái bà đang ở trong tù để nâng đở tinh thần ông ta. Đây là sự tha thứ mà chúng ta không dễ tìm thấy, nhưng đó là điều mà Lời Chúa trong hai bài đọc hôm nay mong muốn nơi mỗi người.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm ngày hôm nay cùng khuyên chúng ta trong việc tha thứ cho người khác. Lời Chúa đến với chúng ta trong bài đọc thứ nhất khuyên rằng đừng giận ghét kẻ khác; hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ. Trong bài Phúc Âm, ông Phêrô cũng nhận thức được sự cần thiết của sự tha thứ, chỉ có điều là ông thắc mắc đến việc tha bao nhiêu mới đủ. Đối với ông việc tha cho kẻ xúc phạm đến ông đến bảy lần là quảng đại lắm vì các thầy Do Thái dạy rằng tha cho người xúc phạm đến ta ba lần là quá lắm rồi. Nhưng Chúa Giêsu dạy rằng không phải là tha đến bao nhiêu lần mà là phải luôn sống trong sự tha thứ. Đây là điều mà chúng ta cảm thấy rất khó thực hiện, phải không các bạn. Tuy nhiên, đây là việc mà chúng ta nên và phải làm. Vì sao?
Xét về khía cạnh tâm lý tự nhiên thì việc thứ tha là một cách giải thoát đi nỗi đau đớn, lòng hận thù trong chính con người mình khi người khác xúc phạm đến ta. Việc chúng ta giận ghét người khác không làm cho người khác đau khổ nhưng ngược lại chính chúng ta là người phải chịu sự dằn vặt tâm hồn, mất bình an, ngủ không yên và nhiều xáo trộn khác. Chính chúng ta hại bản thân. Bà Aba Gayles trong câu chuyện ở trên mất đi cuộc sống vui tươi khi bà còn giữ hận thù trong lòng. Nhưng khi bà biết tha thứ thì cuộc sống của bà trở nên có ý nghĩa. Mỗi người đều có cảm nghiệm này. Như vậy việc chúng ta tha thứ làm ích không cho người nào khác hơn là cho chính chúng ta trước nhất. Nó mang lại sự bình an tâm hồn, cuộc sống tươi vui.
Hơn nữa, xét theo mối tương quan giữa ta với Thiên Chúa và với tha nhân, chúng ta cũng cần sự tha thứ của người khác thì tha thứ là việc phải làm. Dụ ngôn người đầy tớ bất lương trong bài Phúc âm hôm nay nói rất rõ. Chúng ta cứ tính toán torng việc tha thứ cho người khác, trong khi chính Thiên Chúa hằng tha cho chúng ta bao nhiêu tội lỗi. Bài đọc thứ nhất khuyên: “Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ.” Chúng ta qua kinh Lạy Cha cũng thường xin Chúa “tha nợ chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con.” Chúng ta chỉ mong muốn Thiên Chúa hay người khác quên đi lầm lỗi của chúng ta hoặc tha cho chúng ta trong khi đó chúng ta lại quên đi việc chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay đang thách đố mỗi người hãy luôn sống trong sự tha thứ. Đây cũng là điều mà Chúa Kitô đã cầu nguyện khi bị đóng đinh trên cây thập tự: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” Bà Aba Gayles cũng đã thực hiện đúng tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu đối với kẻ giết con gái yêu dấu của bà la dứt khoát tha và tha hết; hơn nữa bà nâng đỡ tinh thần ông trong khi đang ở trong tù và mong muốn cho ông sống tốt hơn.
Mỗi người cũng nên tự hỏi nơi chính mình rằng còn người nào đó mà chúng ta cần tha thứ không? Cha mẹ? Vợ chồng? Con cái? Họ hàng? Hàng xóm? Những người làm cùng hãng? Và chính bản thân chúng ta?
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Quá tam ba bận. Có tha chỉ tha ba lần mà thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của người Do thái. Sách Tiên tri Amos có ghi một loạt các lời phán quyết: “Vì ba tội ác của (Đama, Gaza, Tyrô, Edom…) và vì bốn tội…Ta sẽ không hối lại… Ta sẽ phóng hoả tường thành” (Am 1). Từ đó người ta suy luận: Thiên Chúa sẽ trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm đến lần thứ tư, và người phàm thì không thể nhân lành hơn Thiên Chúa, thế nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần.
Trước lối suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Đức Giêsu khen ngợi khi đề nghị tha đến bảy lần. Bởi vì tha như thế là đã gấp đôi truyền thống Do thái, và còn cộng thêm một lần. Đây quả là lời đề nghị quảng đại, đầy tính cách mạng.Thế nhưng, câu trả lời của Đức Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7.” Như vậy, vị chi là 490 lần. Thế thì có khác nào bảo người ta tha thứ không ngừng. Mà tha kiểu đó thì có khác gì tạo cớ vấp phạm: được đàng chân, họ lân đàng đầu thì sao?
Lắm khi tôi cũng tính toán như thế. Và không ít lần tôi chẳng muốn thứ tha người khác. Tôi tìm cách báo thù cho thoả lòng tự ái. Tôi tìm cách lật tẩy lỗi lầm tha nhân để nó đừng tái phạm. Tôi cố gắng thi hành chính sách “mắt đền mắt, răng đền răng” cho hợp lẽ công bằng. Tôi đưa ra nhiều lý do rất “kêu” để biện minh cho hành vi của mình. Nhưng thử hỏi có lý do nào phát xuất từ tình mến thương chăng?
Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn đáng cho tôi suy nghĩ: Có vị vua kia muốn tính toán sổ sách với các con nợ. Một kẻ thiếu ngài 10 ngàn nén vàng. Đổi ra cũng được 100 triệu đồng, tương đương với 60 triệu ngày làm công. Sử gia Flavius Gioseph cho biết: vào năm thứ tư trước công nguyên, số tiển thuế hai tỉnh Galilê và Pêrê nộp cho Rôma là 2 trăm nén vàng. Như thế 10 ngàn nén vàng là một món nợ vô cùng lớn.
Kẻ mắc nợ bị điệu đến trước mặt vua. Nhưng vì y không có gì trả nên vua ra lệnh bán y củng vợ con để bù vào. Chắc chắn số tiền đó chẳng đáng là bao. Nhưng đâu còn biệp pháp nào khá hơn.
Trước viễn cảnh gia đình tan nát, thân xác sẽ mang kiếp nô lệ ngựa trâu, tên mắc nợ sấp mình nài van đức vua cho thêm thời gian xoay sở. Thấy con nợ than khóc khẩn cầu, vua chạnh lòng thương. Tình thương ấy dâng cao đến nỗi vua cho y về, thậm chí còn tha luôn nợ.
Không phải xa vợ con, không bị đoạ đày khổ sai, lại còn được xoá đi món nợ khổng lồ. Ôi, có niềm hạnh phúc nào to lớn hơn!
Anh hân hoan nhịp tung chân bước. Lòng phơi phới, miệng hát ca. Từ nay sẽ không còn bồn chồn lắng lo. Khung trời tự do như rộng thêm dưới từng nhịp bước. Nhưng chân anh bỗng khựng lại vì chợt thấy bóng người hàng xóm. Tên này đang thiếu nợ anh. “Hắn mượn mình 100 đồng từ lâu mà chưa chịu trả,” anh nghĩ bụng, “ta phải cho nó biết tay.” Thế rồi, anh tóm lấy, bóp cổ, đòi nợ, và tống giam kẻ ấy sau khi hắn van xin anh cho thêm chút thời gian xoay sở mà không được.
Vụ việc đến tai vua. Nhà vua đã trừng trị hắn đích đáng.
Tôi tự hỏi: tại sao anh kia lại đối xử với tha nhân thiếu tình người như thế. Hà cớ gì anh lại ra tay vũ bạo với con nợ bé tí thế kia?
Câu trả lời sẽ là vì anh ta mau vô ơn. Tham chút lợi nhỏ trước mắt mà quên mất hồng phúc lớn lao trong đời. Mau vô ơn, cũng mau vô tình vô tâm. Thế nên để sống có tâm, có tình, con người cần phải nhìn lại chính mình luôn luôn. Nhìn lại để thấy tình Chúa chứa chan. Nhìn lại để biết chia ban ân phúc cho người.
Thiên Chúa luôn quảng đại thứ tha. Ngài không thích trừng phạt ai. Thế nhưng con người sẽ tự trừng phạt chính mình khi đóng cửa lòng với người khác. Mở ra là điều kiện tất yếu để đón nhận. Càng biết tha thức càng được Thiên Chúa thứ tha. Tha nhân nợ tôi, dù có nặng nề mấy, cũng chẳng đáng là gì khi so với việc tôi nợ Chúa. Thế thì dại chi khi không bỏ một vốn để được bốn vạn lần lời.
“Hãy cho đi để được cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã lắc, đầy tràn toé ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các nguơi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.’ (Lc 6,38).
Người ta kể: trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha trong những năm 1930, các phiến quân triệt hạ giáo xứ, đốt phá nhà thờ, và giết hại nhiều linh mục, giáo dân.
Một ngày nọ, bọn phiến loạn trói giật cánh khuỷu một linh mục già và đem ra pháp trường xử bắn. Trước khi bị hành hình, vị linh mục thều thào với viên chỉ huy:
– “Xin anh cởi trói cho tôi”.
– “Chết đến nơi rồi thì cần gì cởi trói”, viên chỉ hay quát lại.
– “Tôi muốn ban phép lành lần sau cùng cho các anh”.
Nghe thế viên chỉ huy vô thần tức giận vung chiếc rìu lên, chém đứt không chỉ sợi dây trói, nhưng còn luôn cả đôi bàn tay linh mục.
Mặc dù đau đớn cùng cực, vị linh mục vẫn giơ cổ tay đầy máu lên cao, vẽ thành hình Thánh Giá như dấu hiệu ban phép lành. Ngài nói trong hơi thở đứt đoạn: “Tôi tha thứ cho các anh. Tôi xin Chúa tha thứ và chúc lành cho các anh.”
Một loại đạn vang lên, xác vị cha già đổ xuống. Đầy máu.
“Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống. Làm thế ngươi sẽ chất than hồng trên đầu nó. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12,14,20-21)
Biết cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình – đó có thể là vợ tôi, chồng tôi, con chiên tôi, các đồng nghiệp của tôi… – là biết sống tinh thần bác ái Kitô Giáo. Và như thế, tôi đang giúp họ cũng như chính mình tiến đến đỉnh cao kiện toàn.
Một nhà tư tưởng đã viết: “Nắm bắt chân lý để rao giảng về nó là một cuộc chiến khó khăn; sống theo chân lý lại là một cuộc chiến gay go gấp bội; nhưng chỉ những ai chú tâm cầu nguyện mới mong nắm được phần thắng” (Jack McArdle).
Liệu tôi đã biết cầu xin để có thể tha thứ cho nhau hay chưa?
GIÊSU: ĐẤNG ĐẦY LÒNG XÓT THƯƠNG VÀ HAY THA THỨ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Mang thân phận yếu đuối, lại bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ, con người thường xuyên phạm tội. Tội do cố ý, tội do vô tình đã cắt đứt mối tương quan vốn tốt đẹp với Chúa và tha nhân, gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không được tha thứ, bỏ qua kịp thời.
Vì sự bình yên, hạnh phúc của mọi người, các tiền nhân giáo dục con cháu sống yêu thương, nhường nhịn, tha thứ, tạo nên nét đẹp nhân văn trong văn hóa ứng xử.
Tuy nhiên, yêu thương và tha thứ thật lòng không hoàn toàn đặt trên phạm trù nhân bản, nó còn được bổ trợ bằng đức tin, nghĩa là: Lời Chúa giáo dục con người vượt lên trên mọi điều kiện đặt ra như một giới hạn, để đạt tới tầm mức yêu như Chúa yêu và tha thứ như Ngài: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Vậy gương yêu thương và tha thứ của Chúa là gì? Đó là, Chúa quên và quên tất cả. Dầu tội lỗi các ngươi có đỏ như vải điều, Ta cũng sẽ giặt nó trắng tinh như tuyết, có nặng như chì, Ta cũng biến nó nên nhẹ như cánh hồng (cf. Is 1, 18).
Chuyện kể:
Đức Hồng Y Jaime Sin, nguyên tổng giám mục Manila, Philippine kể: vào một buổi chiều, một phụ nữ tới gặp ngài và quả quyết Chúa Giê-su đã hiện ra với chị. Để trắc nghiệm, ngài đề nghị: “lần tới gặp Chúa, con hỏi Chúa các tội cha đã phạm”. Sau một thời gian, chị gặp lại ngài và như lần trước chị cũng nói đã gặp Chúa. Chị cũng hỏi Chúa về các tội cha đã phạm, nhưng Chúa bảo: “Ta quên hết rồi !”. Câu chuyện là thế. Chúng ta không bận tâm về tính xác thực, nhưng ghi nhận chân lý: Tình yêu và tha thứ thật lòng là phải quên tất cả lỗi phạm người khác gây cho mình. Chỉ mình Chúa Giê-su là nguyên nhân mô phạm cho chúng ta về lòng xót thương và hay tha thứ.
Bài đọc I, trích sách Đức Huấn Ca, đúc kết lời dạy của các hiền nhân Israel về vấn đề tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình. Khi nghĩ đến việc báo oán, trước tiên phải đặt mình trong mối tương quan với Chúa. Vấn đề báo oán không chỉ đơn thuần thuộc phạm vi con người với nhau, mà có đụng chạm tới cả Thiên Chúa nữa: “Kẻ muốn báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Chúa” (Hc 27, 1).
Tác giả sách thánh còn chỉ ra tình trạng chung: mọi người đều có tội, đều phạm lỗi. Nếu muốn thong dong họ phải cầu xin Chúa thương xót và tha thứ. Chúa đặt ra điều kiện cụ thể: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi cầu khẩn, tội lỗi con sẽ được tha” (Hc 27, 2).
Nguyên tắc này được hoàn hảo trong lời dạy của Chúa Giê-su, Đấng giầu lòng xót thương và hay tha thứ.
Trong bài Tin Mừng, Giê-su thiết lập luật yêu thương và tha thứ khi trả lời câu hỏi của thánh Phê-rô: “Khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” (Mt 18, 21). Chúa bảo ông: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Câu hỏi của Phê-rô đại diện cho con người tự nhiên, cho lề luật, nghĩa là đặt một giới hạn như một thứ thông điệp gởi tới cho người phạm lỗi: đừng đi quá sức chịu đựng của tôi. Tôi chỉ có thể chịu đựng bạn tới mức đó.
Giả thiết đặt ra, nếu người kia lại xúc phạm đến tôi quá bảy lần thì sao? Tôi có đủ kiên nhẫn để tha cho họ lần nữa không? Nếu tôi không tha, thì bảy lần tha kia có ý nghĩa gì !
Tựu trung, tha thứ có điều kiện là hành động nửa vời, còn dành khoảng trống cho ích kỷ, tự ái mọc lên và dần lấn át những khoảng trống khác thống trị tâm hồn. Cuối cùng chỉ còn là ghen ghét, oán hờn, thù hận.
Câu trả lời của Chúa Giê-su thể hiện đặc tính của con người siêu nhiên, của ân sủng, luôn trổi vượt con người tự nhiên về mọi phương diện.
Giê-su, Đấng thần thiêng, đến từ trời, là dung mạo lòng thương xót Chúa Cha.
Cuộc nhập thể biểu lộ tình yêu tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Trong Ngôi Lời, trên thập giá và trong sự phục sinh vinh hiển, Người đã tháp nhập nhân loại vào thân mình mầu nhiệm của Người, để từ đây diễn ra sự trao đổi kỳ diệu, khiến loài phải chết mặc lấy sự trường sinh bất tử, được sống muôn đời.
Mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giê-su là bản tóm tình yêu và sự sống Thiên Chúa thực hiện vì yêu thương chúng ta. Và khi dạy tha thứ đến bảy mươi lần bảy, Giê-su đã làm gương trước, để chúng ta cũng làm như vậy.
Luật yêu thương và tha thứ của Tin Mừng mang tính bắt buộc. Nó là điều kiện để được thứ tha và được phần phúc Nước Trời: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rom 13, 10) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 36).
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, diễn tả sự gắn bó hoàn hảo với Chúa Giê-su, đó là phải nên đồng hình, đồng dạng, nên giống Người trong mọi sự.
Dấu chỉ đảm bảo nên giống Chúa là sự vâng lời. Giê-su vâng lời, tự hủy đến cùng kiệt sống kiếp phàm nhân, cho đến chết trên thập giá. Ngài không sống cho riêng mình, nhưng sống cho Cha và cho nhân loại được ơn cứu độ.
Người môn đệ chân chính cũng phải theo sát dấu chân Giê-su mới góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh Phao-lô diễn tả bằng những ngôn từ thần bí, nhưng rất sống động: “Không ai sống cho riêng mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa và chết cũng là cũng là chết cho Chúa” (Rom 14, 7 – 8). Sống và chết cho Chúa luôn đồng hóa với lòng xót thương và tha thứ như Giê-su.
Phao-lô không trình bày một lý thuyết về tình yêu và tha thứ, trên tất cả ngài đã sống hoàn hảo điều loan báo: “Tôi luôn mang trong mình sự thương khó của Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống lòng thương xót và tha thứ, bắt đầu từ trong chính gia đình chúng ta. Sở dĩ có cãi vã, bạo hành trong gia đình là vì chúng ta còn sống ích kỷ, vô cảm, thiếu sự cảm thông, khích lệ và cộng tác. Xin Chúa dạy chúng ta biết sống yêu thương và tha thứ thật lòng.
Mỗi người hãy tự hứa với lòng mình và với Chúa, từ bây giờ, tôi quyết hoán cải và canh tân. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé đơn giản, rồi dần tới những việc lớn lao hơn. Từng bước sống lời Chúa để gia đình trở thành tổ ấm biết yêu thương và tha thứ. Đó là cách làm dậy men Tin Mừng, góp phần tích cực Phúc Âm hóa gia đình và môi trường xung quanh, xứng đáng là môn đệ Giê-su, luôn biết chạnh thương và tha thứ.
Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
54. Anh em tha thứ cho nhau – JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Nếu bạn chợt nhận ra mình cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn muốn kết án họ không?
- Bạn có dễ dàng tha thứ lần nữa cho người mà bạn đã từng tha cho một món nợ lớn, nhưng chính người ấy lại không chịu tha cho con cái bạn một món nợ rất nhỏ không?
- Khi bạn mang trong mình một nỗi hờn giận, tâm hồn bạn có bình an không? Cách tốt nhất và khôn ngoan nhất để giải quyết nỗi hờn giận ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
- Sống trên đời, ai cũng lầm lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giêsu đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi, lại vừa phải tha thứ.
“Nhân vô thập toàn”, trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
- Ta luôn thấy lầm lỗi của ta đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bị ai trách cứ, hầu như lần nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế, để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở dĩ kết án ta là vì họ không hiểu được thế kẹt của ta, nên họ không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại. Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là người tốt, người đúng. Ông đã chứng minh điều ấy bằng những sự kiện cụ thể mà ông thu thập được trong đời sống của ông. Theo ông, ngay cả những tên cướp giết người không gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho những hành động gớm ghiếc của chúng, mà chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với những người tôi muốn kết án.
- Đức Giêsu khuyên ta luôn tha thứ, và tha thứ vô điều kiện
Đức Giêsu là một con người y như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được sự yếu đuối của con người y như chúng ta, chính Ngài cũng bị cám dỗ phạm tội như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm thấy mọi tội lỗi của con người đều đáng được tha thứ. Lý do mà Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi tầy trời của ta được? Mà nhất là người ấy lại là hiện thân của chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người ấy lại không chịu tha nợ cho con của ta, cứ nằng nặc đòi nợ với đủ mọi đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một số tiền nhỏ. Trường hợp đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta cũng làm một hành động phi lý và vô ơn tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác, chính là một hành động vô ơn đối với Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở bên ta, tức những người sống chung quanh ta.
- Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung độ lượng. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, mà trái lại thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và sau đó, của người khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án người khác thế nào được? Nếu mình cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”, “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Họ không dám ném đá kẻ ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội, như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy, kết án người khác, không tha thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối, rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ. Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế, liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình đã suy nghĩ chín chắn được như người ấy không? Nếu mình chỉ được học hành hay được giáo dục như họ thôi, mình có hành động khá hơn họ không? Nếu mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ được như họ, liệu mình có hành động khác hơn không? v.v…
- Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm, thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó, chẳng hạn chửi bới người ấy, nói một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm một điều gì khiến người ấy phải đau khổ… Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng: có hành động theo sự thúc đẩy của xung lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận bằng những hành động ấy, tôi chỉ được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải đối phó với sự trả thù của người kia. Vì khi người kia bị tôi hạ nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát sinh một xung lực y như tôi trước đó, và họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì: “Lấy oán trả oán, oán chập chùng” (Đức Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào địa vị người ấy, tôi sẽ dễ dàng thông cảm và hiểu được những lý do thúc đẩy họ hành động như vậy, nhờ đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi vừa quyết định tha thứ, lập tức tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến mất. Tích cực hơn nữa, nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, thay vì trả oán, tôi quyết định làm một điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa). Từ đó tình cảm giữa hai người thắm thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: “Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít” (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương “lấy đức trả oán, oán tiêu tan” của Đức Phật.
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Nếu con tha thứ cho mọi người vô điều kiện, dù họ lỗi nặng đến đâu, thì làm sao Cha có thể kết án con được? Chẳng lẽ lòng bao dung của Cha lại thua con sao? Vả lại con vẫn thường xin Cha: “Xin tha nợ cho con giống như con tha nợ cho người khác”. Con tha nợ cho người khác vô điều kiện, Cha cũng phải “như con” mà tha cho con vô điều kiện, dù con lỗi nặng đến đâu. Ai cầu xin như con mà không chịu tha thứ là tự họ bắt Cha kết án họ, vì họ xin Cha làm “như họ”“.
(Suy niệm, chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm A này là “sự tha thứ”.
Hc 27: 30-28: 7
Trong bài đọc thứ nhất, hiền nhân Do thái, trung thành với lề luật Mô-sê, mời gọi “oán cừu nên tháo không nên buộc”.
Rm 14: 7-9
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng không ai sống cho chính mình.
Mt 18: 21-35
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải tha thứ vô điều kiện và không giới hạn.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)
Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.
Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ III đầu thế kỷ IV trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng và là hiền nhân ở Giê-ru-sa-lem, ông đã viết lại những lời dạy khôn ngoan của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm Híp-ri của ông sang Hy-ngữ và xuất bản.
Sự khôn ngoan, thành quả của suy tư và trải nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ văn hóa Hy lạp trở nên mối nguy hiểm đối với văn hóa Do thái, ông Si-rác, hiền nhân Do thái, ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Lề Luật của Ngài làm chuẩn mực cho cuộc sống.
Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên dạy cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc trả thù và tha thứ.
- Cách hành xử của kẻ gian ác
Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến cách hành xử của kẻ gian ác:
“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài” (27: 30).
Ông nhận xét rằng nếu cứ cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly” (28: 1)
Trong Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy. Kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại cuộc sống đời nầy, như chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bảo” hay “Gieo nhân nào thì gặp quả nấy”.
- Đức hạnh của người công chính
Ngược lại với cách hành xử của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính là “lấy ân mà trả oán” hay “Lấy sự tha thứ mà đáp lại oán cừu”.
Sự tha thứ được Lề Luật truyền dạy, như sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18). Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:
“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (28: 2).
Theo Hiền nhân Si-rác, sự tha thứ giữa người với người có mối quan hệ hỗ tương với sự tha thứ của Thiên Chúa:
“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!” (28: 3).
Vì lẽ người nào hành xử với anh chị em của mình như thế nào, thì Thiên Chúa cũng hành xử với người ấy cũng như thế ấy:
“Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình!
Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận,
thì ai sẽ xin tha tội cho nó?” (28: 4-5).
Những lời dạy của hiền nhân Si-rác về sự tha thứ gợi nhớ lời dạy của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài trong của kinh “Lạy Cha”:
“Xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha
cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
Chúa Giê-su còn giải thích cho rõ thêm nữa: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Cuối cùng, hiền nhân Si-rác nêu lên vấn đề chủ đạo tại sao phải tha thứ cho anh chị em mình. Người công chính phải thanh thoát trên mọi ưu tư thường ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời hiền nhân Si-rác, Ít-ra-en chưa biết viễn cảnh nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những đau khổ sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước.
“Hãy nhớ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù,
nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
mà trung thành gìn giữ các điều răn” (28: 6)
Cách hành xử nầy thật là cao thượng vì chân trời bị giới hạn vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng này khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành xử như thế vì lòng yêu mến Thiên Chúa và Lề Luật của Ngài:
“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (28: 7).
Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên mỗi một thành viên của dân Ít-ra-en sao? Nền luân lý thật cao thượng này chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)
Nếu tách đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma ra khỏi văn mạch của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên dạy của thánh Phao-lô. Trong chương 14 nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên có quá nhiều quan điểm khác nhau trong cách đối nhân xử thế thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi “những người yếu” và những người mà thánh nhân gọi “những kẻ mạnh”.
Thánh nhân đề cập cách cụ thể giữa những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận rằng cuộc sống hòa hợp giữa các thành viên trong cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác. Tự do mà thánh nhân đề cập ở đây không là cá nhân chủ nghĩa: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi lẽ “Đức Ki-tô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi phân biệt đối xử phải bị loại trừ trước mối liên hệ căn bản là hiệp nhất mọi thành viên trong cộng đoàn, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.
Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng thường hằng của thánh Phao-lô trong các thư của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)
Sau khi đã nhắc nhở đức ái huynh đệ và những cảnh báo mà mỗi thành viên trong cộng đoàn có bổn phận và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật trước), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa, cho đến việc tha thứ vô điều kiện và không giới hạn cho những kẻ xúc phạm mình.
- Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật con người Phê-rô, thậm chí ngay cả thậm chí trước khi ông được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội tương lai, như trong câu chuyện phong ba bão tố, chỉ một mình thánh Phê-rô xin Thầy: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (14: 28); hay trong câu chuyện trên đường Xê-sa-rê Phi-líp-phê, thánh Phê-rô, đại diện nhóm Mười Hai, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” (16: 16); hoặc trong biến cố Biến Hình, chỉ một mình Phê-rô lên tiếng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay!” (17: 4).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần”, đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một lời đề nghị: “Có phải bảy lần không?” Khi đưa ra bảy lần, ông nghĩ là mình quá rộng lượng từ bi nhân hậu lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình không vượt quá ba hay bốn lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”. Kinh sư Jehuna thì dạy tha thứ khoan dung hơn: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam: “Sự bất quá tam, một lần tha ba lần chém”. Hơn nữa, “con số bảy” biểu thị sự giới hạn cuối cùng, không thêm được nữa. Trong Cựu Ước, con số “bảy” được dùng để diễn tả mức độ trả thù hết mức: “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4: 15).
Đức Giê-su trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Trong Cựu Ước, diễn ngữ “Bảy mươi lần bảy” cũng được dùng để chỉ một sự trả thù vô cùng tận, như lời nói đầy sát khí trả thù của ông La-méc, hậu duệ của Ca-in:
“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).
Như vậy, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận bằng sự tha thứ vô giới hạn. Để minh họa tư tưởng của mình, Ngài kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu tường thuật lại. Khi so sánh với Bài Đọc I trong đó hiền nhân Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, thì Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Thiên Chúa. Lời này loan báo Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa vương quốc nầy.
- Dụ ngôn “Người đầy tớ không có tấm lòng biết yêu thương và tha thứ” (18: 23-35)
Dụ ngôn này hình thành nên một vỡ bi kịch gồm ba cảnh:
A- Cảnh 1: “Cách cư xử của Đức Vua đối với người đầy tớ mắc nợ vua” (18: 23-27)
Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, muốn bầy tôi của mình thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách chỉ là việc nhỏ.
Đức vua đích thân triệu mời người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn. William Barclay giúp chúng ta có thể hình dung mức độ khổng lồ của món nợ nầy: “Mười ngàn yến vàng, tương đương với 2. 400.000 bảng Anh. Đó là món nợ không thể tưởng tượng được, nó lớn hơn tổng ngân sách của một tỉnh. Tổng lợi tức xứ Edumaca, Giu-đê và Sa-ma-ri chỉ có 600 yến vàng”.[1] Nhưng Đức Giê-su không có chủ ý quy chiếu đến sự kiện lịch sử, Ngài chỉ muốn chúng ta hiểu rằng một món nợ tự sức mình không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy phải là một quan chức, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan đại thần được gọi là tôi bộc của vua.
Vì thế, Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Món nợ mà người chủ gia đình mắc phải liên đới đến mọi thành viên trong gia đình. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin. Đức Vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.
B- Cảnh 2: “Cách cư xử của người đầy tớ được tha nợ đối với người bạn mắc nợ mình” (18: 28-30)
Cảnh 2 được xây dựng trên một sự tương phản với Cảnh 1. Tên đầy tớ được tha bổng lại cư xử không một chút xót thương một bạn đồng liêu của mình, người này mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ mà y có đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình, những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y: y liền túm lấy, bóp cổ và tống bạn mình vào tù.
C- Cảnh 3: “Đức Vua luận tội người đầy tớ không có lòng xót thương” (18: 31-35)
Sự việc đến tai Đức Vua. Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho lý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết đồng xu cuối cùng. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ mà mỗi người phải có đối với anh chị em đồng loại của mình. Người đầy tớ này không ngờ rằng có một mối quan hệ hổ tương giữa cách hành xử của y đối với bạn đồng môn của mình và cách hành xử của Đức Vua đối với y. Khi y từ chối tấm lòng xót thương của y đối với bạn mình, chính y đã huỷ bỏ làng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua. Từ dụ ngôn này, một bài học được rút ra: điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ chính là mỗi người phải có lòng tha thứ cho anh chị em mình, như lời dạy của Đức Giê-su trong phần kết của kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).
Phía sau dụ ngôn này, chính Đức Giê-su, qua cuộc sống chan chứa yêu thương và hay tha thứ của Ngài, nhất là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, đem đến cho mỗi người những phương thế để đổi mới tấm lòng của mình, ngõ hầu con người có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.
——————————–
[1] W. BARCLAY, được trích dẫn theo bản dịch tiếng Việt, Tin Mừng Mátthêu, quyển 2, tr. 166.
56. Chính Ta đã xót thương ngươi
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Khi nói đến “người anh em lỗi phạm” đến mình (cc. 15-17), Matthêô đã trình bày cách đi sửa lỗi họ, và có hai khả năng: hoặc là người ấy nghe lời mà sửa đổi, hoặc là không nghe. Và đứng trước người từ chối nghe lời của cá nhân cũng như cộng đoàn, Matthêô đã kết luận là xem họ như “người ngoại, người thu thuế (c. 17). Trong đoạn 18,21-35 nầy, Matthêô đặt lại vấn đề “người anh em lỗi phạm” đến mình, nhưng đưa ra một cách giải quyết mới. Đó là tha thứ. Chủ đề nầy được Matthêô trình bày dưới hai hình thức: giáo huấn về sự tha thứ (cc. 21-22) và dụ ngôn về cách Thiên Chúa đối xử với người không tha thứ (23-35). Từ aphiēmi, “tha thứ” và adelphos, “anh em” đóng khung đoạn nầy (cc. 21 và 35).
Giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ (cc. 21-22)
Câu hỏi của Phêrô ngỏ với Chúa Giêsu mở ra chủ đề tha thứ. Với “anh em lỗi phạm đến tôi”, Matthêô muốn nhắc lại vấn đề ở trên (c. 15) và đưa ra một cách giải quyết hoàn toàn khác. Đây không còn là xem người anh em “từ chối nghe lời” ấy như là “người ngoại, người thu thuế” (c. 17), mà tha thứ cho người ấy; tuy nhiên thánh sử không nói gì đến sự hoán cải của người anh em như trong Lc 17,4.
Phêrô đặt câu hỏi với Chúa Giêsu là phải tha thứ bao nhiêu lần, nhưng đồng thời ông cũng đề nghị trước con số bảy lần (c. 21). Trong cựu ước con số bảy gắn liền với tội lỗi và sự tha thứ, như rảy máu bò tơ bảy lần trong ngày Xá Tội (Lv 4,6.14,16); phạt bảy lần vì tội đã phạm (Lv 26,18.24). Như thế, bảy lần là con số tối đa. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu tha thứ là phải không giới hạn. Con số Chúa Giêsu đề nghị, hebbdomēkontakishepta, có thể đọc hai cách: hoặc là 490 hoặc là 77 lần (x. Stk 4,24). Thật ra điều Chúa Giêsu muốn dạy ở đây là sự tha thứ vô giới hạn, vượt qua cái giới hạn đã thực hành theo truyền thống. Vì thế cách đọc có khác nhau, nhưng đều diễn tả một điều mà thôi.
Vậy khi đặt vấn đề tha thứ, Phêrô đếm bao nhiêu lần, còn Chúa Giêsu nói đến sự tha thứ không tính toán. Sự tha thứ không tính bằng số lượng, mà bằng lòng quãng đại vô hạn. Chính vì điều nầy mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn tiếp theo đây.
Dụ ngôn về cách đối xử của Thiên Chúa với người không biết tha thứ (cc. 23-35)
Sau khi giáo huấn về sự tha thứ cho Phêrô, Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn nầy để minh họa sự tha thứ của Thiên Chúa, như là mẫu gương về sự tha thứ vô biên. Dụ ngôn về Nước Trời nầy gồm dẫn nhập (c. 23a), ba màn: vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27), người nợ nầy với người đồng liêu mắc nợ (cc. 28-30), vua và người nợ một vạn nén bạc (cc. 31-34); và kết luận (c. 35).
Matthêô hay dùng dia touto, “Về điều nầy”, để chuyển sang một đoạn mới, và điều sắp nói có liên quan đoạn trước (6,25; 12,31; 18,23; 23,34). Matthêô đã đưa ra giáo huấn của Chúa Giêsu về sự tha thứ. Với dụ ngôn nầy, thánh sử không chỉ muốn minh hoạ điều ấy, mà còn ghi nhận thêm nhiều điều khác liên quan đến việc tha thứ. Dụ ngôn nầy được gọi là dụ ngôn về Nước Trời, nghĩa là liên quan đến Thiên Chúa. Câu kết áp dụng dụ ngôn nầy cho Thiên Chúa (c. 35). Hơn nữa, cách dùng “một vị vua” tuy không xác định, rất giống với dụ ngôn tiệc cưới (22,2), chính là Thiên Chúa.
a/ Vị vua với người nợ một vạn nén bạc (cc. 23b-27)
Ở mỗi màn có kết cấu tương tự nhau: tình huống (cc. 23b-25), lời (c. 26), hành động (c. 27). Màn thứ nhất mở đầu với tình cảnh thật khó giải quyết: Vua muốn tính sổ với người đầy tớ (c. 23b), số tiền quá lớn “một vạn nén bạc” (c.24), phải bán cả vợ con và lấy tất cả những gì đang có để trả nợ (c. 25). Số tiền “một vạn nén bạc” có thể ít nhất là 240 tấn bạc, tương đương với 60 triệu đồng bạc, dēnarion; đối lại là chỉ có 100 đồng bạc mà người đồng bạn đã nợ người nầy (x. Marvin A. Powell, The Anchor Yale Bible Dictionary, ed. D. N. Freedman, New York – 1996, VI, 907). Món nợ khổng lồ xem ra không thể trả được.
Người nầy đã cầu xin với vua “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 26). Động từ makrothymeō, là hapax trong Matthêô, có nghĩa là “chậm nổi giận”, “chậm trừng phạt” (Cn 19,11). “Động từ nầy đặc biệt chỉ về Thiên Chúa và liên kết với lòng nhân từ của Ngài. Makrothymia chỉ sự chịu đựng của Thiên Chúa đối với con người, đặc biệt đối với tội nhân. Ngài không trút cơn giận xuống trên họ. Thay vào đó là sự tha thứ vàơn cứu độ, chỉ khi nào họ hoán cải” (EDNT, II, 380). Như thế người mắc nợ nầy nài xin lòng nhân từ của Thiên Chúa đừng nổi giận mà phạt ông ngay, và để cho ông thêm một thời gian nữa.
Đáp lại lời van nài nầy, vị vua chạnh lòng thương. Trong tin mừng Matthêô động từ splanchnizomai đều dùng cho Chúa Giêsu. Động từ mang ý nghĩa thiên sai. Bởi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu ra tay thi ân (9,36; 14,14; 15,32; 18,27; 20,34). Sự tha thứ là một trong các đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Ngài được sai đến để tha thứ tội lỗi nhân loại. “Vua chạnh lòng thương và thả người nầy ra về và tha nợ cho người nầy” (c. 26). Động từ aphiēmi, “tha tội/nợ”, nghĩa là thả cho người nầy khỏi mọi ràng buộc luật pháp về món nợ đã mắc. Như thế, ở màn đầu nầy Chúa Giêsu đã cho Phêrô thấy ông chủ đã tha cho người mắc nợ nầy một món tiền khổng lồ và không thể trả được; đối lại với con số giới hạn “bảy lần” mà ông đã đề nghị (c. 21).
b/ Người nợ một vạn nén bạc và người đồng liêu (cc. 28-39)
Điểm đáng chú ý trong màn thứ hai nầy là những chênh lệch lớn so với màn thứ nhất. Tình huống ởđây làviệc tính sổ giữa hai người tôi tớ của ông chủ; họ ngang hàng với nhau trong địa vị xã hội; doulos và syndoulos (c. 28), số tiền người nầy nợ chỉ một trăm đồng bạc, dēnarion; xem sự chênh lệch đã trình bày ở trên; bóp cổ người nợ và “Trả tiền mầy nợ đây!” Điểm quan trọng hơn là cách hành xử. Người nợ một trăm đồng bạc nầy dùng cũng một lời nài xin mà người trước đã nói với ông chủ: “Xin khoan hồng cho tôi với, tôi sẽ trả” (c. 29). Đáp lại chủ nợ nầy từ chối “ông không chịu” và “bắt bỏ tù cho đến khi trả hết nợ” (c. 30). “Ông không chịu/không muốn”, nghĩa là dùng lý sự mà xét xử người nầy; trong khi ông chủ trên dùng tình yêu mà đối xử, và “bắt bỏ tù” đối nghịch với “thả ra về” và “tha hết nợ” (c. 27). Người nầy giao người nợ mình vào trong ngục tù.
c/ Vị vua với người nợ một trăm nén bạc (cc. 31-34)
Màn ba trở lại với cảnh hai nhân vật chính ban đầu, nhưng tình huống và các hành động khác hẳn màn thứ nhất. Tình huống ở đây là vua biết chuyện người nợ nầy đã đối xử như thế nào với người cùng tôi tớ và vua triệu người nợ ấy đến (cc. 31-32a). Lời trong màn nầy không còn là lời của hai người nợ, mà là lời xét xử của vị vua (c. 32-33), và hành động đáp lại của vua là đối xử với người nợ nầy theo cách anh đã đối xử với người nợ anh một trăm đồng bạc, thậm chí còn nặng hơn (c. 34).
Vua gọi là “người tôi tớ bất lương”, lập lại trong dụ ngôn các nén bạc và dùng cho người tôi tớ không làm theo ý của chủ (25,26). Tương tự, người tôi tớ nầy được gọi là bất lương vì đã không hành động giống như vị vua (c. 32). Lý chứng duy nhất vị vua đưa ra dựa trên món nợ/mắc nợ, opheiletēs (c. 24)/opheilē (c. 32)/động từ: opheilō (28[2x].30.34). Vua nhắc lại cho người nầy biết món nợ anh đã mắc và đã được tha nợ bởi “chạnh lòng thương” của vua (c. 27); động từ parakaleō, “kêu cầu”, “kêu nài” được dùng trong bối cảnh cầu cứ sự trợ giúp của Thiên Chúa (8,5; 14,36; 18,29.32; 26,53).
Vua dùng sự kiện nầy để đặt vấn đề về cách anh đã đối xử với người nợ anh chỉ một trăm đồng bạc, “Há ngươi không phải thương xót bạn đồng bạn với ngươi sao, nhưng chính ta đã thương xót ngươi?” (c. 33). Câu hỏi đã có sự kiện chứng minh. Động từ eleeō, “rất quan tâm đến người đang thiếu thốn”, “có lòng xót thương/nhân từ/cảm thông”, thay thế cho splanchnizomai (c. 27). Vị vua lấy mình làm chuẩn về lòng xót thương. Và vua xét xử người nợ nầy vì đã không hành động như vua đã đối xử với anh, hōs kagō, “như tôi”. Động từ dei, “phải”, ở thì quá khứ chưa hoàn thành, làm mạnh hơn lời trách “Há ngươi không phải…”. “Phải” thuộc về cả mệnh lệnh và công bằng. Vì người nầy đã không xót thương, mặt trái của mối phúc về lòng thương xót (5,7), nên anh cũng không được xót thương.
Hành động trong màn cuối cùng nầy khác hẳn với những gì vua đã làm cho anh lúc ban đầu (c. 34). Thay vì “chạnh lòng thương”, vua “nổi giận”, orgizomai; Nổi giận thường xảy ra trước hành động tiêu diệt (x. 5,22, 22:7). Thay vì giao cho phylakē, “cai ngục”, như người nợ nầy đã làm cho đồng bạn (c. 30), vị vua nầy giao người nợ nầy cho lý hình, basanistēs. Lý hình không chỉ canh giữ mà còn hành hạ, làm khổ nhục nữa; động từ nầy được dùng nhiều trong sách Khải huyền (9,5; 14,11; 18,7.10.15). Và người nầy phải nằm trong tù cho đến khi trả xong nợ. Cũng một hình phạt người nợ một trăm đồng phải chịu (c. 30), nhưng người nầy vẫn hy vọng có ngày ra khỏi tù hơn người nợ vua. Vì đã không đối xử với người khác tương xứng với lòng thương xót nhận được, người nợ vua phải chịu trở lại hình phạt do món nợ như chưa được tha.
Kết luận của dụ ngôn nói đến cách hành xử của Chúa Cha đối với người không tha thứ (c. 35). Vị vua trong dụ ngôn và cách đối xử của ông đối với người nợ ông (cc. 31-34) được áp dụng cho Thiên Chúa. Sự tha thứ của Thiên Chúa tỉ lệ thuận với sự tha thứ con người làm cho nhau (x. 6,14-15; so sánh với Gia 2,13).
Giáo huấn và dụ ngôn trong đoạn nầy là một lời nhắc nhở mạnh mẽ và sống động rằng không tha thứ là không hành động như Cha trên trời (x. 5,48). “Tha thứ”, “chạnh lòng thương” và “lòng thương xót” luôn đi với nhau. Thiên Chúa muốn điều ấy hơn mọi lễ hy sinh (9,13; 12,7; 23,23) Ngài muốn con người tha thứ cho nhau cách vô giới hạn như Ngài đã làm cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)
“Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không rõ việc chúng làm” (Lc 23,34) đã được Đức Gioan Phaolô II thực thi, khi ngài thân hành đến khám đường thăm viếng, hoà giải và an ủi Ali Agca, kẻ hành thích ngài tại công trường Thánh Phêrô ngày 13 tháng 8 năm 1981. Chúa Kitô luôn khuyến khích tín hữu cởi trói mọi ràng buộc, giải toả các uẩn ức, giao hoà các bất đồng và hợp tác trong tình thương. Tha 70 lần lũy thừa 7 là tiêu chuẩn của ơn tha thứ hoà giải. Tích cực hơn, Chúa dậy các tín hữu phải yêu thương các địch quân và nguyện cầu cho họ. Đối với nhân loại thì đây quả là một vấn đề khó khăn.
Tình tiêu cực theo lý thuyết tương đối rất dễ. Chúng ta cần trưng Lời Chúa và chủ trương yêu thương và tha thứ. Tình nầy đã được ứng cử viên tổng thống Dukhakis xướng họa năm 1988. Nhưng khi được hỏi “ông sẽ làm gì khi vợ ông bị hiếp tối hôm qua?” thì ông ấp úng không lối thoát. Tình tích cực với hành động minh chứng thật nhiêu khê. Đích danh ông bà, anh chị gặp hắn, kẻ vừa giết con gái, hãm hiếp vợ, bán đứng anh và bêu xấu ông, quí vị sẽ làm gì?
Đưa giới lệnh tha thứ và hòa giải vào đời, Thiên Chúa muốn các tín hữu học, hiểu và sống cái Đức, cái Nhân và cái Dũng của chính Chúa, Đấng ban ơn mưa móc xuống trên người lành lẫn kẻ dữ. Không như Khômêni treo giải thưởng 1 triệu Dollars cho chặt được đầu của Ruskee. Cũng không như đám đạo tặc ăn mừng khi Ngô Đình Diệm bị bức tử. Nhưng phải như bà Cornie, người sống sót duy nhất của gia đình Boom ở Amsterdam, Hoà Lan. Gia đình bà vì bác ái đã che chở, chứa chấp và nuôi sống những người Do Thái trong nhà hồi đệ nhị thế chiến. Bị kẻ thủ lợi báo cáo, cả gia đình đã bị bắt giam và chết trong trại tập trung Ravensback. Bà Cornie thuyết trình về ơn tha thứ và hoà giải, đã gây chấn động. Lời bà phát xuất từ con tim rướm máu, bằng cảm nghiệm thương đau và với tâm hồn sần sùi vết thẹo. Sau bài diễn thuyết, một người Đức đến cám ơn và xin bắt tay. Nhìn lên, bà Cornie bỗng chết trân, miệng há hốc, vì chính hắn, kẻ đã giết gia đình bà. Trong cơn giận, tay bà không sao đưa tay lên nổi để tha thứ và hòa giải. Bỗng từ đấy lòng, tâm tình thiêng liêng khơi động “Giêsu ơi, con thật không tha thứ nối, xin giúp con.” Một thần lực bao phủ, bà đưa tay lên. Chính lúc đó ơn tha thứ và hoà giải đã tràn ngập tâm hồn bà và anh lý hình ngày trước.
Trong tâm tình khiêm tốn, thành thật và nghiêm chỉnh, Chúa muốn mỗi chúng ta tự đặt mình dưới ánh sáng đức tin và trong tình yêu Chúa. Hãy can đảm nhận diện những lỗi lầm, bội ước, đểu cáng, bất nhân chúng ta đã thực hiện. Hãy cám tạ Chúa vì Ngài luôn tha thứ, khoan nhân, độ lượng, chờ đợi và tạo cơ hội cho chúng ta trở về. Hãy xin ơn thông cảm để như Phêrô chúng ta biết “hồi tâm và nâng dậy anh em” và nhất là nhìn mọi người theo khía cạnh nhân loại. Họ có thất tình, lục dục như chúng ta. Họ ngày đêm bị sức ép của đam mê, cám dỗ và yếu đuối dằn vặt. Họ cần được cảm thông và hòa giải như chúng ta cần Chúa thương xót và tha thứ. Và cùng với họ, chúng ta đứng lên làm lại cuộc đời.
Chồng chị mèo chuột, gạt gẫm, cờ bạc, hút sách và hung hãn, làm sao chị sống đời tha thứ và tìm ra những điểm tích cực dễ thương nơi anh đây? Anh là hình ảnh Thiên Chúa vô hình! Anh cần được nâng dậy! Anh phải sống đời mới! Chị là tâm Chúa từ nhân, là bàn tay dịu dàng nâng đỡ, chị có trách nhiệm giúp anh trở về! Vợ anh chua chát, điêu ngoa, giả dối và làm tan gia bại sản, làm sao anh tha thứ và thông cảm đây! Đức tin cho sức mạnh, sức mạnh nối lại tình thương, tình thương đem ơn tha thứ và tha thứ là phương tiện cho Chúa hiện diện.
Đó là thực cảnh, là thách đố, là gương vỡ lại lành và là nhân cách của đời Kitô hữu. Bạn ông, chồng chị, vợ anh, con cháu chúng ta vì nông nổi và nhẹ dạ, vì hiếu kỳ và ương ngạnh, vì yếu đuối và đam mê đã một thời bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, không lẽ chúng ta ngồi nhìn họ chết mà không chút động lòng trắc ẩn! Hối nhân sẽ trở về và ngã gục trong lòng những ai tràn đầy thân thương, nhân ái và tha thứ như Đức Kitô. Ngài nhỏ nhẹ, thông cảm và yêu thương nhìn người phụ nữ trắc nết và hoang đàng “con hãy về và đừng tái phạm nữa”.
Ông Yigal Cohen, một người Israel bị đau tim nặng nhận được trái tim của một người Palestine trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000. Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Israel khác. Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Israel và người Palestine, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm lòng khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em”.
Tin Mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phái, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha cho chúng ta. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Phải tha thứ cho anh em vì chính Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và Người còn liên tục tha thứ mãi, như kinh Lạy Cha Đức Giêsu đã dạy: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Phải tha thứ cho anh em vì đó là một nghĩa cử yêu thương tuyệt đỉnh mà Chúa luôn đòi hỏi và coi trọng hơn cả việc thờ phượng Người: “Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta. Vâng, chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Đúng như lời Alexande Pope có nói: “Lỗi lầm là của con người, và tha thứ là của Thiên Chúa”.
- Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang vượt lên bản tính tự nhiên, đang trở nên giống Thiên Chúa, đang nâng mình lên tới tột đỉnh của nhân đức.
- Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang thi ân cho kẻ thù. Nhờ sự tha thứ của chúng ta mà họ được an tâm, không sợ báo thù. Cuộc đời họ lại nhẹ nhàng, thư thái, bình an.
- Khi chúng ta quyết định tha thứ thì lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui: vui vì mình đã làm được một nghĩa cử cao đẹp cho anh em, vui vì biết chắc rằng mình sẽ được Chúa thứ tha.
Từ chối tha thứ cho anh em là nói rằng chúng ta không cần thứ tha. Chỉ có kẻ công chính mới không cần được tha thứ. Nếu ai cho mình không cần được thứ tha, thì họ là kẻ kiêu ngạo đáng thương. Họ tự khóa chặt cánh cửa tâm hồn để lòng mình rêu phong ẩm mốc. Chính sự tha thứ đem lại cho tâm hồn mùa xuân mới, để kẻ tha thứ và người được thứ tha lại nở rộ mùa hoa nhân ái, cho lá vẫn xanh, cho hoa vẫn nở, trong mưa hiền hòa, trong nắng thênh thang.
59. Hãy tha thứ để được thứ tha
GỢI Ý
- “Nợ” và “trả nợ”
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ. Cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ – đòi – trả: đó là cách cư xử công bình. Nhớ rằng trên thực tế có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít Trường hợp thứ hai này là: Nợ – không đòi được – đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường lợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau (“nợ” đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau (“nợ” theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ “nợ” theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Đối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
- Những dây chuyền phản ứng khác nhau.
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng… Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác.
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin tha cho chúng con – như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha – thì sẽ được tha lại; Hãy cho – thì sẽ được cho lại dư đầy. Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Đức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất”mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
- “Hãy nhớ đến điều sau hết và chấm dứt hân thù”
Đó là câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời cuả nhân loại.Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: Những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau dều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm… Còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên án độc kia. Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi” Rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa? Bởi thế Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: “Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
- Xin lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong Mùa Chay. Đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là việc không phải của một người mà là của hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lừa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng Vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: “Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao Thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi Thầy?” Vị Rabbi giải thích: “Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi”.Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình.
– Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
– Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
– Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai. Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi, nhưng cũng không xin lỗi.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Giáo Hội trong quá khứ. Trước khi Đức Giáo Hoàng làm việc này, nhiều người trong Giáo Hội đã cản ngăn Ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Giáo Hội. Tuy nhiên sau khi Đức Giáo Hoàng làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười? Trái lại còn khen ngợi Ngài; uy tín của Giáo Hội chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn..
- Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Đức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội.
Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài?
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời? Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
60. Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân
Trong sách, “Bản Tính của Thế Giới Vật Chất,” Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của sự bước vào một căn phòng như sau: “Tôi đang đứng nơi ngưỡng cửa sắp bước vào phòng. Nó là một sự việc phức tạp. Trước tiên, tôi phải chống lại sức đẩy của không khí với sức mạnh của mười bốn trọng lượng trên mỗi thước vuông của thân hình tôi. Mỗi lần đặt chân trên sàn, tôi phải biết là tôi đáp xuống trên một tấm ván đang di chuyển với tốc độ hai mươi dặm một giây chung quanh mặt trời…” Phân tích một sự việc thường như đi bộ trong phòng, các nhà khoa học cũng thấy thật hấp dẫn. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ đơn giản mà đi vào. Và chúng ta nghe là không khí rất cần cho chúng ta thở và không có nó chúng ta sẽ chết. Nhưng trước khi chúng ta biết điều đó, thì chúng ta đã thở.
Hãy đọc đoạn đầu của Kinh Thánh, “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất…” (St 1:1). Thánh Kinh không bắt đầu với một lý do căn bản sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được thừa nhận.
Trong thư gửi cho Roma, Thánh Phaolô viết, “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình” (Rm 14:7). Hết thảy đức tin bắt đầu với ý nghĩa của sự lệ thuộc vào Một Đấng, phẩm chức cao cả hơn chính chúng ta. Thường gọi là bản năng, trực giác, khôn ngoan bẩm sinh, gọi là gì tùy theo bạn, nhưng nó là một phần của chúng ta. Tại vì chúng ta là chính chúng ta, ý nghĩa lệ thuộc vào một đấng siêu việt khác đã ăn sâu tận gốc rễ của con người chúng ta. Con người đã dùng nhiều cách thế thật khéo léo để tạo nên chiến tranh chống lại tôn giáo, để xóa bỏ ý tưởng về Thiên Chúa trong tâm trí của loài người, nhưng tất cả đều bị thất bại, vì Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người. Bạn không thể tẩy xóa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống bạn vì không có Thiên Chúa, thì không có sự sống.
Martin Scott, đã để lại câu chuyện mà ông ta đã kinh nghiệm trong lúc đi săn bắn ở miền Arkansas như sau:
Tôi rất là khoẻ mạnh, rất sành ghề cỡi ngựa, đuổi bắt bò, khi tôi đã dẫn bò đến đồng cỏ rộng để cho các súc vật chạy nhảy. Con bò đã đi trước, và tôi cỡi ngựa đi theo sau, ngẩng cổ lên để nhận biết đồng cỏ rộng bao nhiêu. Vào ngay lúc đó, con bò đã quay lại húc tôi; con ngựa tự nhiên phản ứng quay bánh xe. Sự thay đổi bất thường này đã ném tôi xuống khỏi yên ngựa, cả người tôi đã bị ném xuống, nhưng chân tôi vẫn treo một bên cổ ngựa. Chân thì đang treo mắc lại còn cổ thì dọc thẳng xuống đất. Con bò lại húc vào xương sườn của con ngựa ngay chổ tôi đang bị treo, và con ngựa đã lúng túng vì sức nặng của tôi, trong tư thế đó con bò đã tấn công con ngựa.
Cuối cùng, tôi đã bị kiệt sức; tôi cảm thấy tôi có thể bám thêm một hai giây nữa: nhưng đầu con bò đã đến quá gần tôi, đến nỗi tôi có thể cảm được những hơi gió từ mũi con bò thổi vào mặt tôi. Tôi đã tuyệt vọng; tất cả lời cầu xin tôi có thể làm được ngay lúc đó là tôi đọc lại Thánh Vịnh từ thuở xưa tôi hay đọc: “Bây giờ con xin phó thác để được nghỉ yên;” và tôi đã đọc đi đọc lại hai ba lần. May mắn thay, con ngựa đã quay đầu, tấn công con bò. Húc vào con bò một cái, làm cho tôi tí nữa té xuống đất, tung tôi lên lại trên yên ngựa, thế là tôi đã lấy lại được thế chỗ ngồi trên lưng ngựa.
Trong mỗi một người, đều có một bí nhiệm mà họ không thể nào hiểu. Nó có thể chất chứa lâu năm hầu như đã bị quên lãng; hoặc có thể đã bị đè nén cho đến chết. Nhưng vào một đêm nào đó, khi họ một mình trong sa mạc dưới bầu trời đầy sao, họ sẽ đứng lên cúi đầu, với một đôi mắt ướt đẫm, hoặc có lúc khi họ bám víu vào những chiếc thuyền đang bị gió bão xô đẩy trong nỗi thất vọng; hoặc họ nắm chặt bánh xe trong lúc xe đang bị xoay chiều, và thình lình, từ sự bị quên lãng của chính họ, bí nhiệm này sẽ được bộc lộ ra qua lời cầu xin. Không ai sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình.
Đức tin Kitô hữu trưởng thành có nghĩa hơn là chấp nhận tính chất của Đấng cao cả. Nói rằng, “Tôi tin Thiên Chúa” trong một cách người Kitô hữu trưởng thành là “Tôi tin cậy vào Thiên Chúa và tôi sẽ sống theo huấn giới của Ngài. Thánh ý của Thiên Chúa đã được thực hiện và tỏ ra cho tôi qua Chúa Giêsu.” Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải ý định của Thiên Chúa cho đời sống của bạn và tôi trong sự kiện tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa rằng, “Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?” “Không,” Chúa Giêsu đáp, “Không phải bảy lần, nhưng 70 lần bảy” (Mt 18:21-22). Đây là cách nói của Chúa Giêsu là tha thứ không giới hạn trong sự thương yêu. Nước Trời, Chúa Giêsu giải thích cho Thánh Phêrô, được xây dựng trên nền móng của sự thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta tin cậy ở Ngài. Chúa nói với ta rằng, để trở nên con người trọn vẹn như Chúa muốn, để được hạnh phúc đích thật, chúng ta phải học biết tha thứ cho anh chị em vô điều kiện, không phải chị bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh họa thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tí, chúng ta nhất định không tha tứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hỏa ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèn hoặc trong trận lôi đình đập đánh chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quãng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xóa bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thủy và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gãy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta qua Kinh Thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
(Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật của Lm Cantalamessa – Người giảng Phủ Giáo Hoàng giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật)
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều:
***
NHƯNG NGƯỜI TA PHẢI THA THỨ BAO NHIÊU?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: “Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, “mắt đền mắt, và răng đền răng,” đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: “Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh”, nhưng, “Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác.” Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!” (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn ” Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu.” Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng “bảy mươi lần bảy.”
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác– nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói: “Tôi tha thứ cho anh!”, chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta: “Xin tha thứ cho tôi!” Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
(Suy niệm, Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
- Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
- Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
- Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
- Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
- Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
- Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
- Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
- Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
2) Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
- a) Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
- b) Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
- c) Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
3) Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
3.- Vài điểm chú giải
– Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: “Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)”, vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 (“Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy”), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là “bảy mươi lần bảy”, hoặc “bảy mươi lần bảy lần”. Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
– đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
– Mắc nợ mười ngàn yến vàng… một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
– Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
– buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
– trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là “nói toạc ra hết; làm sáng tỏ”.
– thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
– trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài “sự tha thứ”. Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ “phạm tội chống lại con” ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. “Bảy lần” mà ông gợi ra không hề không đáng kể. “Bảy” là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: “Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?”.
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời “đúng thế”, nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là “bảy mươi lần bảy”. Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức “bảy mươi lần bảy”, Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót”, Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị “vua” dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. “Thanh toán sổ sách” (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ “đầy tớ” mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người “phụng sự” Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. “Con nợ” và “mắc nợ” là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva’ có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; “ông tha”: động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là “đầy tớ độc ác” (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho “anh em” (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (5,7). Nói về “anh em”, tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
- Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: “Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
- Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
- Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay tha thứ, chứ không phải là vì tội nhân đáng được thứ tha. Cũng có những khi ta thấy Thánh Kinh nhắc đến việc Chúa nỗi cơn thịnh nộ và quyết định sửa phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh Kinh nói về những trường hợp mà người ta đã tử khước tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho loài người, mà còn nói đến bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau.
Trong Phúc Âm Chúa nêu lên trường hợp người đầy tứ được tha thứ nhiều nợ nần, nhưng lại không tha thứ cho người khác chỉ nợ anh ta phần nhỏ. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người hãy tha thứ và làm hòa với nhau. Đó cũng là cơ hội để ta học cái bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Cái điều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, khiến ta nghĩ rằng anh ta cũng phải đền đáp bằng việc tha thứ cho người chỉ mắc nợ anh ta một phần nhỏ.
Cái điều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi ta bị xúc phạm và thiệt thời nặng nề. Đó có lẽ là điều khó nhất trong các giới răn của Chúa. Có những nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can mà người ta không dám nói ra. Ai đã bị bạn bè hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi đắng cay đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người đàn bà bị phản bội khiến họ không còn muốn gặp và tin tưởng vào bất cứ người đàn ông nào khác.
Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nặng trên tâm hồn. Tuy nhiên ta cảm thấy thật khó lòng. Nhưng đó là lúc ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là ta tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong Bài Sách Đức Huấn ca ghi lại, hay là tha thứ để được tự do, để tâm hồn được thanh thoả. Ngay cả sau khi đã quyết định tha thứ, cái cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện cho người đã súc phạm đến mình. Rồi cái cảm giác đau lòng sẽ dần dần biến đi với thời gian. Và tâm hồn ta lại được bình an thư thái.
Trong Phúc Âm, Chúa dạy ta phải tha thứ 70 lần bảy, nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, vô giới hạn. Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hàng ngày, những người làm cùng sở, thì việc tha thức lại càng khó lòng, nhưng là điều cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể đếm được bao nhiều lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau, nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống?
Bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay cảnh giác ta báo thù là dấu chỉ của tội lỗi. Người để lòng báo thù và ghen ghét đã quên đi cái giao ước với Thiên Chúa. Cái ngụ ý của Bài Phúc Âm hôm nay là giận ghét sẽ thống trị con người khi người ta quên đi cái liên hệ của mình với Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc.
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Người quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Chúa sẽ tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải. Chúa hiểu sự yếu đuối của loài người và sẳn sàng tha thứ. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Nhận thức rằng con người là bất toàn cho nên ta phải sẳn sàng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân, gây đau khổ cho người người khác. Tha thứ là chấp nhận người thống hối để tái lập tình bạn và tình thân hữu. Là người Công giáo ta bắt đầu thánh lễ với cầu xin tha thứ. Ở đây, ta có cơ hội thú tội trước cộng đồng, trước khi dâng của lễ lên bàn thờ. Cái việc tha thứ giữa người với người là điều kiện để được Chúa thứ tha cho loài người.
Vậy hôm nay, ta hãy cầu nguyện, xin Chúa tha thứ khi ta đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con và khi chúng ta chúc bình an cho nhau.
65. Hãy tha thứ cho người khác
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói:”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện:”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 27, 30 – 28.7.
Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ:
– Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.
– Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.
– Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.
– Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
– Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
+ Bài đọc 2: Rm 14,7-9.
Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Roma hay phê bình chỉ trích nhau vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề, ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu… Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo. Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định: Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài có ý khuyên: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,21-35.
Ông Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu: khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần? Có đến 7 lần không? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ: “quá tam ba bận” thôi.
Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.
Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.
Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em thì Thiên Chúa mới tha cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thứ
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tha thứ thì được thứ tha.
- Thiên Chúa là Đấng tha thứ.
- Trong Cựu ước.
Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín… dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt…”. Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng:”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).
Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5)? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
- Trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói:”Các ngươi có nghe lời truyền rằng: hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng: hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời: vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán:”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói:”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
- Con người phải tha thứ.
- Thực hiện lời Chúa dạy.
Người ta thường nói:”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng:”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không”? Chúa Giêsu đáp:”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22; Lc 17,4).
Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố:”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.
(R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
- Người đời và sư tha thứ.
Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:
* Nhận xét của nhân gian.
Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân:”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
* Chủ trương của hiền nhân quân tử.
Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
. Nhà Nho dạy thế nào? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu:”Dĩ đức báo oán”.
. Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
. Ông Tertullien nói:”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
. Hiền triết Marc Aurèle nói:”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.
. Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
Truyện: Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một hoàng đế Trung hoa nói:”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ tâu vua:
– Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
Hoàng đế trả lời:
– Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
* Cách trả thù hay nhất.
Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.
Ông Swift nói:”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.
Marc Aurèle nói:”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này: đừng giống họ”.
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.
Mạnh Tử nói:”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
Truyện: Trọng danh dự
Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le Tasse nghiêm trang trả lời:
– Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
(Hoàng Xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta:”Anh muốn vui sướng trong chốc lát: cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.
III. Chúng ta cũng phải tha thứ.
Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện. Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện:
. Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15; Mc 11,25; Lc 11,4).
. Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24); Mc 11,25).
Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi,và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói:”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng: không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
Văn hào Goethe đã nói:”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói:”Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không:”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
Truyện: Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói:”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa:”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp:”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là: Hai chữ tha thứ…
***
Kính thưa Cộng Đoàn
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là:
Hai chữ gì?
– Hai chữ tha thứ. Bởi vì, một người nào đó mà xúc phạm đến mình: vợ xúc phạm chồng, chồng xúc phạm vợ, khó tha thứ! Nó chỉ là lý thuyết thôi.
Bạn bè hay hàng xóm xúc phạm đến mình, mình còn tha thứ được, nhưng mà còn với người ruột thịt hay người thân mà xúc phạm thì khó lắm! “Thương nhau lắm, cắn nhau đau” mà! Bởi vì, tha thứ không phải đơn giản.
Người ta vẫn thường đi theo cái lối sống công bằng. Công bằng thôi! Ai mà vi phạm tới mình, thì mình trả thù.
Còn nếu mà trong cuộc sống mà cái sự ganh đua nó càng mạnh, thì cái sự tha thứ nó càng khó! Bởi vì không ai chấp nhận sự tha thứ, nhưng mà sự tha thứ đó sẽ làm cho con người được sự bình an.
Nếu như không tha thứ, thì người đó, đánh mất căn tính người Kitô hữu của mình. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, ngài nhắc nhở chúng ta: Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Như Đức Kitô đã tha thứ cho anh em, thì anh em hãy tha thứ cho nhau.
Nếu ai nào đó không tha thứ, thì không còn là mang trong mình căn tính của người Kitô hữu nữa.
Chúng ta thấy bài học của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những nói nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho sự tha thứ.
Trên đỉnh đồi Canvê, không còn nỗi nhục nào bằng cái nỗi nhục nào! Không còn đòn roi nào kể xiết. Sự đau đớn mà người ta đánh cho một thân mình tội lỗi. Một thân mình đau đớn.
Đau quá! Đau Thể xác thì ít, mà đau phần hồn thì nhiều. Bởi vì, chính những con người mà mình làm phép lạ, chính những con người mình trao ơn cho họ, hóa bánh ra nhiều nuôi họ, lại là những người: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá đi!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu ở trong Tin Mừng thánh Máccô đã dạy cho chúng ta về sự tha thứ, về sự hòa giải:
– Nếu anh em chuẩn bị đi đến mà dâng lễ vật, mà có sự bất bình với ai đó, thì hãy tha thứ đi.
Ở chương 5 thì thánh Maccô cũng dạy: – Anh em nếu có sự bất bình thì đi làm hòa đi!
Cái bầu khí mà hòa bình, tha thứ đó! Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà Ngài thực hiện.
Còn nhớ đến Tin Mừng theo Thánh Mátthêu: – Tha cho anh em, thầy bảo anh em tha cho anh em.
Và ở chương 18 này, Chúa Giêsu nói: – Anh em hãy tha thứ.
Khi mà thánh Phêrô đã đưa ra vấn nạn tha thứ: “Cha thầy ở trên trời sẽ đối xử với anh em như là, anh em đối xử với người khác”.
Và nếu xét cho bằng cùng, tha thứ chính là tiêu chuẩn cần thiết, để được vào thiên đàng.
Bởi vì, nếu không tha thứ mà còn giận hờn có nghĩa là không yêu thương nhau. Mà không yêu thương nhau, thì làm sao sở hữu được nước thiên đàng.
Và điều này, thánh Phêrô, chúng ta cho thấy, một người xem ra rất là phóng khoáng. Con số 7 là con số tròn đầy của người Do Thái. Và thánh Phêrô rất là mạnh miệng: Con tha thứ 7 lần rồi!
7 lần là kinh khủng lắm! Nhưng mà, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chỉ 7 lần, mà là 70 lần 7.
Trên thánh giá người ta chế giễu mình, nhục mạ mình. Nhưng rồi: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Tha thứ có khi không phải chỉ là cái hành động nhất thời, nhưng mà phải là tha thứ mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm và cái tiến trình tha thứ đó, nó phải được kéo dài trong cuộc đời của ta.
Mà nhiều lần, nhiều lúc trong cuộc đời, có khi, có người này, có người kia từ chối và khước từ sự tha thứ. Bởi vì, họ nghĩ rằng người khác sai và đáng trừng phạt như thế là do lỗi của họ.
Và có những người đặt mình ở chiếu trên, có quyền tha thứ, nhưng người kia không đáng được tha thứ, để rồi họ không tha thứ cho nhau.
Có những người có khả năng xin được tha thứ, nhưng người khác lại không tha, từ chối trách nhiệm không tha. Và khi đó người đó mặt lấy tâm tình của một con người kiêu ngạo.
– Làm trai phải đáng nên trai. Thực sự ra, có những con người đàn ông làm biếng và yếu nhược, nhưng rồi tự cao tự đại và không bao giờ cho mình sai. Và sau một thời gian sống, họ nhận ra sự thật. Và khi đó, họ cảm thấy con người họ thiếu sót và họ lại dễ tha thứ cho người khác. Còn nếu, họ nghĩ, họ là người chủ trong gia đình và họ sống theo kiểu “Chồng chúa, vợ tôi”, thì cái sự tha thứ đó rất khó.
Tha thứ cho vợ chồng, con cái, cha mẹ không phải dễ đâu!
Khi chúng ta muốn tha thứ, thì chúng ta phải xin cái ơn khiêm nhường. Để rồi, chúng ta thấy, chúng ta cũng là những con người tội lỗi, cũng là những con người yếu đuối, để xin cho chúng ta được khiêm nhường.
Và rồi, chúng ta, cái chuyện quan trọng nhất đó là:
Chúng ta phải đi làm hòa với nhau. Mà, Chúa mời gọi đó: “ Hãy đi làm hòa và hòa giải vô điều kiện.”
Gia đình nào cũng có nỗi khổ riêng.Gia đình nào cũng có những cái riêng của mình. Để rồi, không phải dễ, để mà tha thứ cho nhau.
Nhưng rồi, chúng ta thấy: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an.
Và rất khó tha thứ, bởi vì chúng ta cứ phải bắt lỗi người này, người khác. Đừng bao giờ kể lỗi của người khác, thì chúng ta sẽ được tha thứ, và chúng ta tha thứ dễ dàng.
Chúng ta còn nhớ đến hình ảnh của Gia Kêu, Gia Kêu trèo lên cây sung và lòng chạm lòng mắt chạm mắt. Gia kêu đã thấy Chúa Giêsu và Chúa Giêsu không hề hạch tội. Tha thứ là tha thứ cho đến tận cùng. Và chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã tha thứ cho Gia Kêu đến tận cùng, khi không kết án ông. Dẫu rằng, người ta vẫn dán nhãn cho ông là một người thu thuế đầy tội lỗi.
Trong Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy, lời Kinh Hòa Bình rất là hay:
Lạy CHÚA, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp… vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.
Đó là hai vế của một phần mệnh đề: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại chúng ta, thì chúng ta cũng được tha thứ từ Chúa Giêsu. Bởi vì: Con người là lầm lỗi, lầm lỗi là con người.
Tha thứ là thần thánh, thần thánh là tha thứ.
Khi chúng ta mặc lấy con người yếu đuối, chìm trong cái con người, thì chúng ta không bao giờ nhận ra được lỗi của mình và khó tha thứ cho người khác. Còn khi chúng ta nhận ra yếu đuối của mình, để chúng ta tha thứ cho người khác, thì cái tiến trình làm thánh nó gần hơn con người của chúng ta. Con người mang trong mình căn tính là thánh thì dễ tha thứ cho người khác lắm. Còn nếu mình là con người thì mình sẽ không bao giờ chịu tha thứ cho người khác.
Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi kiêu ngạo. Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi thành toàn, tôi đạo đức hơn người khác.
Và nói tới đây, con nhớ đến một câu nói rất hay:
– Người đầu tiên biết xin lỗi là người dũng cảm nhất.
– Người đầu tiên biết tha thứ là người mạnh mẽ nhất.
– Người biết quên đi quá khứ đau buồn, đó là người hạnh phúc nhất.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta đặt mình trước mặt Chúa như Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, người biết quên đi quá khứ đau buồn, là người hạnh phúc nhất!
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta là người hạnh phúc nhất! Bởi vì, chúng ta sẵn sàng, chúng ta quên đi những cái quá khứ đau buồn trong cuộc đời của chúng ta. Amen.
67. Hãy sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phêrô đề nghị, nhưng Người đòi môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha luôn luôn cho anh em mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ những tội nợ của anh em mình vì ba lý do như sau: Một là vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với ta chẳng là gì so với số nợ ta mắc đối với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ sòng phẳng thế nào, thì ta cũng sẽ bị Thiên Chúa tính sổ nợ sòng phẳng như vậy.
CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + Ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi…: Phêrô muốn biết phải xử trí thế nào đối với những kẻ đã xúc phạm đến mình? + Con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?: Các Ráp-bi Do thái xưa dạy “quá tam ba bận” nghĩa là tha tối đa 3 lần. Tông đồ Phêrô thì đưa ra số 7 lần là một con số hoàn hảo. Nhưng Đức Giêsu còn đòi các môn đệ phải đi xa hơn nhiều. + Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy: Có chỗ ghi là bảy mươi bảy lần bảy. Ông La-méc xưa đã đòi vợ con phải trả thù cho ông: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, còn La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (x. St 4,24). Ở đây, thay vì đòi báo thù, Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là: Phải tha luôn luôn, không giới hạn số lần và phải tha vô điều kiện. Lý do để tha không phải do kẻ có lỗi đã biết ăn năn sám hối, cũng chẳng phải vì kẻ bị xúc phạm muốn tỏ ra sự quảng đại của mình, nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đối xử cách quảng đại và bao dung đối với mọi con nợ của mình.
– C 23-25: + Ông vua kia: Trong Kinh Thánh, vua thường ám chỉ Thiên Chúa, Đấng có quyền tối thượng trên mọi phàm nhân, là vị thẩm phán tối cao và có quyền ra án lệnh cuối cùng. + Đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách: Ở đây là tính sổ theo phép công bình. + Các đầy tớ: Trong Thánh Kinh, đầy tớ vừa ám chỉ thuộc hạ hay nô lệ mà cũng ám chỉ bề tôi hay cận thần của nhà vua, là những người có đầy thế lực (x. 1 Sm 8,14; 2 V 5,6). + Một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng: Mỗi nén vàng thời đó giá sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công. Mười ngàn nén vàng tương đương với 60.000.000 (sáu mươi triệu) quan tiền + Y không có gì để trả: Không trả được vì món nợ quá lớn. Cũng vậy, tội lỗi của con người phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không bao giờ người ta có thể trả hết được. + Chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ: Trong Kinh Thánh có những trường hợp người mắc nợ không trả được món nợ, nên đã bị chủ bắt con cái người ấy phải làm nô lệ để trừ nợ (x. 2 V 4,1). Ở đây cho thấy cả vợ con cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trong việc trả nợ. Như vậy tội lỗi gây ra hậu quả nghiêm trọng không những đối với người phạm tội, mà còn đối với cả những người thân trong gia đình nữa.
– C 26-27: + Sấp mình xuống bái lạy: Người đầy tớ biểu lộ thái độ khiêm nhường luỵ phục bằng việc sấp mình xuống trước tôn chủ mà bái lạy. + Xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết: Anh ta không dám xin tôn chủ tha nợ, vì anh biết số nợ kia quá lớn, và anh không đáng được tha món nợ ấy. Anh chỉ dám xin thêm thời gian để lo thu xếp trả nợ. Cũng giống như đứa con hoang đàng thấy mình không còn đáng được Cha tiếp nhận làm con giống như trước đó, mà chỉ dám xin cha cho anh được làm công cho cha để đền tội mà thôi (x. Lc 15,19). + Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ: Cho dù món nợ quá lớn, nhưng thấy người đầy tớ có thái độ khiêm nhường xin được khất nợ, thì tôn chủ đã động lòng thương. Ông không những cho khất mà còn sẵn sàng tha hết số nợ lớn lao cho anh ta. Cũng vậy, dù tội chúng ta phạm đến Chúa nặng đến đâu đi nữa, nhưng nếu ta ăn năn và quyết tâm chừa cải, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta tất cả, và còn ban thêm nhiều ơn hơn cả những điều ta dám cầu xin Người.
– C 28-30: + một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền: Người bạn này chỉ mắc nợ y một trăm quan tiền, tương đương với một trăm ngày công lao động. Ở đây so sánh hai món nợ chênh lệch nhau quá nhiều nhằm diễn tả tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thật quá nặng nề, nếu so với tội anh em phạm đến ta. Vì Thiên Chúa thánh thiện và uy quyền vô cùng, nên tội ta dù nhỏ bé, cũng trở nên nặng hơn nhiều lần. Giống như khi ta dùng một lời nào đó để chửi bạn bè nặng một, nhưng nếu ta cũng dùng lời đó để chửi cha mẹ hay người bề trên thì sẽ thành nặng hơn gấp mười. + Y túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”: Câu chuyện này diễn tả thái độ khắc nghiệt của tên đầy tớ đối với một người bạn là con nợ của hắn ta. Thái độ này tương phản với thái độ bao dung độ lượng của tôn chủ đối với anh ta. + Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh: Thái độ và lời năn nỉ của người đồng bạn cũng giống như thái độ và lời cầu xin của tên đầy tớ đối với tôn chủ trước đó. Cả hai con nợ đều không dám xin tha nợ, mà chỉ xin khất một kỳ hạn. Đức Giêsu cố ý trình bày sự tương đồng giữa thái độ của hai con nợ, để làm nổi bật sự tương phản, một bên là lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa tha nợ vô điều kiện, và bên kia là sự hà khắc độc ác của phàm nhân chúng ta đòi xử lý tới cùng. + Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ: Khi bắt con nợ vào ngục, chủ nợ cưỡng bức lao động để trừ dần số nợ, hoặc để người này phải nhờ thân nhân bán đồ đạc nhà cửa, hay đi vay mượn để lấy tiền trả nợ. Ở đây cho thấy lòng dạ tên đầy tớ này thật hẹp hòi và thiếu lòng khoan dung độ lượng.
– C 31-33: + Các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ: Họ bất mãn trước cách cư xử vô nhân đạo và độc ác của tên đầy tớ với bạn hắn ta. Thái độ ấy trái với lòng quảng đại bao dung mà hắn đã nhận được từ nơi tôn chủ. Vì thế những người này đã đi tố cáo hành động bất nhân của hắn để yêu cầu tôn chủ xử lý hắn. + Tên đầy tớ độc ác kia: Tôn chủ la rầy sự độc ác mà hắn đã xử với con nợ của hắn, trái với lòng khoan dung của ông đối với hắn. + Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?: Tôn chủ đã hạch tên đầy tớ về thái độ thất nhân ác đức đối với đồng bạn của hắn. Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ phải tha thứ tội nợ cho anh em để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ cho mình.
– C 34-35: + Tôn chủ nổi cơn thịnh nộ: Việc tên đầy tớ không chịu tha thứ cho đồng bạn khiến hắn đã bị tôn chủ nổi giận. Ông đã xử lý với hắn theo phép công bình là giam hắn vào ngục tối cho đến khi trả hết số nợ, đúng như hắn đã xử lý với người bạn là con nợ của hắn trước đó. + Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Lời kết luận nhằm áp dụng cụ thể bài học: Nếu các môn đệ muốn được Thiên Chúa đối xử khoan dung tha thứ tội lỗi cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cho anh em.
CÂU HỎI:
1) Phân biệt về số lần đòi báo thù của ông La-merk thời các Tổ phụ, lời dạy về số lần tha thứ của các rab-bi Do thái, lời đề nghị về số lần tha thứ cho anh em của Tông đồ Phêrô và lới dạy về số lần phải tha thứ của Chúa Giêsu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn về hai con nợ, kẻ mắc nợ mười ngàn nén vàng đã cư xử thế nào đối với con nợ chỉ mắc nợ anh ta có một trăm quan tiền?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
- CÂU CHUYỆN:
1) Người hành khất có lòng khoan dung tha thứ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
2) Xây dựng một tình yêu đại đồng:
Trong cuốn tiểu thuyết “MẶT TRẬN PHÍA TÂY VẪN YÊN TĨNH” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
3) Sẵn sàng tha cho kẻ thù ghét giết hại mình:
Cha KÍT-XI-ĂNG XÉC-GHÊ (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán.
Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của mỗi tín hữu chúng ta.
4) Để dễ tha thứ cần khiêm tốn nhận mình cũng bất toàn:
Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
5) Mau quên các lỗi phạm và luôn ghi nhớ công ơn của tha nhân:
Sự tha thứ và biết ơn luôn là những cách giúp chúng ta yêu quý cuộc sống, tránh được sự muộn phiền và lòng tràn ngập yêu thương. Nhưng để làm được điều ấy thật không dễ. Bài học về tha thứ và biết ơn từ câu chuyện của cát và đá sau đây sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tâm hồn.
Có hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi”. Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy”.
Anh bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ”.
Người kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian, gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
- SUY NIỆM:
1) Tại sao phải tha thứ?:
+ Tha thứ để đáng được thứ tha: Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ các lỗi lầm của anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình: Câu chuyện về tên đầy tớ độc ác vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng đang khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn đã không đối xử bao dung nhân ái như thế với một người bạn chỉ nợ hắn có 100 quan tiền. Hắn đã đòi xử lý để yêu cầu tống giam người kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Tôn chủ của hắn nghe biết đã nổi giận và đã xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
+ Đàng khác, tha thứ cũng là một cách để hóa giải thù hận như Đức Phật đã dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất. Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”.
2) Phải tha thứ bao nhiêu lần?:
+ Phải tha luôn luôn: Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô đề nghị với Thầy tha tới bảy lần và nghĩ rằng sẽ được Thầy khen ngợi. Nhưng ông thật bất ngờ khi Thầy đòi ông không những phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và tha vô điều kiện (x. Mt 18,22).
+ Phải tha vô điều kiện: Qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải sẵn sàng tha thứ, không phải vì kẻ có tội đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để các ông có dịp lập thêm công đức, nhưng chỉ vì lòng xót thương. Chúa muốn các môn đệ hãy luôn tha thứ vì mình đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là các tội đã phạm đến Chúa, nên cũng phải biết noi gương Chúa để sẵn sàng tha lỗi cho anh em mình.
3) Điều kiện để dễ tha thứ:
+ Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta khó thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn tranh chấp và báo oán. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy có giúp chúng ta trả oán công minh, nhưng chính nó lại là nguyên nhân khiến thế giới này lâm vào tình trạng chiến tranh hận thù liên miên. Chỉ khi con người sẵn sàng tha thứ thì họ mới có thể sống chung hòa bình và được hạnh phúc thực sự.
+ Tha thứ đồng nghĩa với chịu thiệt thòi. Khi chấp nhận tha thứ là ta công nhận tình thương sẽ đánh tan băng giá. Tình thương sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta biến đổi nên mềm mại để tiếp tục rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ đau khổ tội lỗi noi gương Chúa Giêsu.
4) Làm gì để thực hành sự tha thứ?
Việc tha thứ cho kẻ thù không dễ dàng, đòi mỗi chúng ta phải quyết tâm áp dụng các phương thế giúp chúng ta dễ tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta như sau:
+ Một là kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho như lời Đức Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
+ Hai là nhớ lại chúng ta đã được Chúa tha cho bao tội lỗi, nên chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của kẻ khác, như ông chủ đã trách con nợ trong Tin Mừng: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? “ (Mt 18,32-33).
+ Ba là coi kẻ có lỗi đang bị lầm lạc, như Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Bốn là hãy năng nhắc lại lời Chúa dạy tha thứ kèm theo lời cầu nguyện như sau: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37), “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
- THẢO LUẬN:
1) Mỗi người hãy tự xét mình: Bây giờ tôi đang có kẻ thù nào không? Tôi có làm gì sai lỗi đáng bị thù ghét không? Tôi cần làm gì để loại bỏ nguyên nhân ấy? 2) Theo lời Chúa dạy, tôi sẽ làm gì để quảng đại tha thứ cho những kẻ đã xúc phạm đến mình, và sẽ làm gì cụ thể để biến thù thành bạn?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy giúp chúng loại bỏ đi sự thù oán để chứa đầy tình thương bao dung, bỏ đi những tranh chấp chiến tranh để chấp nhận sống chung hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an của Chúa vào trái tim khô cằn của chúng con, để sự bình an ấy sẽ chảy tràn sang những người thân trong gia đình, lan ra ngoài xã hội và đi đến khắp nơi trên thế giới.
– Lạy Chúa. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, sự quảng đại tha thứ và lòng bao dung nhân hậu, để chúng con luôn biết quan tâm phục vụ mọi người, nhất là cầu nguyện cho những kẻ đang thù ghét bách hại chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi thương xót, và nên anh chị em của mọi người chung quanh để làm chứng cho Chúa.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.