Suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6,11-16; Lc 16, 19-31
1. Có một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm… Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không?
– Nếu bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo trên thế giới không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
2. Hai khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.
Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.
Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.
Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.
Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).
Gợi Ý Chia Sẻ
– Con người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?
– Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.
Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trong mấy Chúa nhật liên tiếp, Lời Chúa đều đề cập tới tiền bạc, sự giàu có và thói tục ăn chơi phóng đãng. Hôm nay, một lần nữa, Lời Chúa lại tiếp tục nói với chúng ta về thái độ đối với của cải và sự quan tâm cần có đối với người nghèo, qua nghĩa cử chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ.
Từ khi hiện hữu, con người đã có nhu cầu canh tác đất đai, để kiếm sống cho bản thân và gia đình. Sở hữu vật chất là một đặc tính thuộc bản năng của con người. Những người giàu sang sống yên ổn tại Sion, tưởng chừng đó là những người may mắn, vì họ không phải long đong lo cơm áo gạo tiền. Tuy vậy, dưới cái nhìn của Ngôn sứ Amos, họ lại là những người bị chúc dữ. Bởi lẽ, họ suốt ngày ăn chơi phóng đãng mà vô cảm với vận mệnh của dân tộc mà vị Ngôn sứ gọi là “Nhà Giuse”. Đó là sản nghiệp của các bậc tổ tiên đã bao đời gây dựng. Vì thói ăn chơi ngông cuồng và thác loạn của những người giàu, gia sản ấy có nguy cơ sụp đổ và trở nên hoang tàn. Nên nhớ là Ngôn sứ Amos thi hành sứ vụ của mình ở thế kỷ thứ tám. Ông là một trong những ngôn sứ của người nghèo, vì giáo huấn của Chúa mà ông có trách nhiệm chuyển tải đều mang nội dung phê phán người giàu, bảo vệ người nghèo và bênh vực quyền lợi của những người cô thế cô thân.
Tại sao người giàu có bị căm ghét và lên án? Họ không bị lên án bởi vì họ giàu. Chúng ta thấy trong Tin Mừng, có một số người thuộc hoàng gia đi theo Chúa và rộng rãi giúp đỡ Người. Những người giàu bị lên án vì họ coi tiền bạc như đích điểm của cuộc đời, nhất là họ cậy vào tiền của mà vô cảm trước nỗi đau của người khác. Trong khi đó, nhiều khi tiền bạc họ có được là do bóc lột và bất công với người nghèo. Câu chuyện người phú hộ và ông Lagiarô là một điển hình. Con đường từ trong nhà ra ngoài ngõ chừng một hai trăm mét mà tưởng chừng như xa lắm, xa đến nỗi người phú hộ không bao giờ đến được. Lagiarô như một miếng giẻ rách bị vất bỏ và quên lãng. Trình thuật của Tin Mừng khéo léo đưa ra hai hình ảnh tương phản giữa hai nhân vật này: một bên gấm vóc lụa là, một bên đầy ghẻ lở mụn nhọt; một bên phè phỡn ăn chơi, bên kia đói khát đau khổ; một bên nhiều bạn đến chơi, bên kia chỉ có con chó làm bạn.
Tin Mừng cảnh tỉnh độc giả: Đừng chỉ nhìn những gì bề ngoài! Hãy coi chừng vì cuộc sống không chỉ có hôm nay mà còn có cả tương lai! Đừng tưởng có tiền bạc giàu có mà đã sung sướng! Nếu câu chuyện dụ ngôn được dựng thành kịch, thì vở kịch này sẽ gồm hai hồi mang nội dung hoàn toàn tương phản nhau. Anh phú hộ xưa giàu có phè phỡn ăn chơi, nay khốn khổ gian nan và bất hạnh. Lagiarô xưa bị quên lãng đói khát và tàn tạ, nay hạnh phúc trong lòng Abraham. Đối với người Do Thái, được ở trong lòng Tổ phụ Abraham là điều mơ ước và là hạnh phúc tuyệt vời nhất. Cuộc đối thoại giữa anh phú hộ với Abraham là bài học rút ra từ câu chuyện: Khi sống đừng kiêu ngạo và đừng lãng quên người khác. Gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Đừng cậy vào công phúc của người khác, nhưng hãy lo tích trữ của cải thiêng liêng bền vững cho mình.
Sống trong cuộc đời cần có tiền bạc và vật chất! ai cũng cảm nhận được điều này. Liệu bài học rút ra từ Lời Chúa có phải là một ảo tưởng? Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nhận sự giúp đỡ của mọi người thiện chí quảng đại. Chúa cũng dạy các môn đệ: vào nhà nào, hãy ăn những thứ người ta dọn cho, vì thợ thì đáng được hưởng công. Như thế, Chúa không hoàn toàn khinh chê vật chất bằng bất cứ giá nào. Theo ngữ cảnh, Chúa nói dụ ngôn này trong chuỗi giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Trước đó, Chúa khiển trách những người Pharisiêu ham tiền bạc: “Các ông là những người làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 14-15). Như vậy, Chúa đã dùng hình ảnh anh phú hộ để phê phán những con người cụ thể, tức là những người Pharisiêu lúc bấy giờ.
Giáo Hội Công giáo mang danh là Giáo Hội của người nghèo, nhưng Giáo Hội cũng phải có của cải để điều hành Giáo Hội và giúp người nghèo. Người giàu vẫn có thể nên thánh, nếu họ biết sử dụng của cải như một người quản lý khôn ngoan trung tín. Mẫu mực của chúng ta là Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta. Nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên giàu sang trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, trong khi nỗ lực để có cuộc sống vật chất ổn định, chúng ta phải gắng nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và mến, sống nhẫn nại và hiền hoà. Đó chính là sự giàu sang trước mặt Thiên Chúa và tha nhân, một sự giàu sang bền vững và tồn tại mãi mãi.
Cổ nhân dạy: “Có đức thì mặc sức mà ăn”. Điều đó có nghĩa, khi người ta sống lương thiện và có đạo đức thì công việc của họ sẽ thành đạt và hiệu quả. Những gì họ làm ra sẽ vững bền và giúp họ tìm thấy hạnh phúc đích thực.
“Người giàu có mà không khôn ngoan, thì cũng như bù nhìn mặc áo gấm” (Sưu tầm).
“Nghèo không là xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu; hèn không đáng ghét, hèn mà không có tài mới đáng ghét; già không nên than thở, già mà sống thừa mới đáng than thở; chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi ai” (Sưu tầm).
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ngày 03/07/1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm mục vụ ở Sao Pôlô nước Brazil, Ngài đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại. Ngài nói: Hàng ngàn làn sóng người di dân chen chúc nhau trong những nơi ổ chuột ở thành phố. Cuộc sống đầy thất vọng và tới tận cùng khốn khổ. Những trẻ em, thiếu niên, thanh niên không tìm được khoảng không gian sinh hoạt để phát triển mạnh mẽ những nghị lực vật lý và tinh thần, đành phải sống lang thang trên hè phố, giữa cảnh xe cộ ồn ào náo nhiệt và những cao ốc bao quanh san sát … Bên cạnh cuộc sống tiện nghi hiện đại, lại tồn tại những con người quá thiếu thốn … Sự phát triển hiện đại thường biến thành một phó bản kỳ lạ của bài dụ ngôn Phú hộ và Ladarô. Sự cọ sát giữa xa hoa và khốn cùng gây ra nỗi xúc động đầy thất vọng đau đớn …”. Thật đúng với cảnh dụ ngôn mà Đức Giêsu đã nói. Trong thế gian này luôn có hai hạng giầu và nghèo sống cọ sát với nhau, rất khó thông cảm, dễ gây đối đầu, đối địch nhau.
Hạng giầu sang ăn chơi phung phí, hạng nghèo khổ đói rách bệnh tật.
1/ Hạng phú hộ: Theo quan niệm thế gian: giầu sang phú quý, ăn ngon, mặc đẹp, chơi bời là hạnh phúc. Nhưng theo tâm lý: Kẻ ăn mặc diêm dúa, xa hoa, xa xỉ, thích giao du bạn bè là hạng kiêu căng, giả hình, giả dối. Phúc âm tả Pharisiêu giả hình, kiêu căng nên thích ngồi chỗ nhất, ăn mặc diêm dúa: Thả rộng ống tay áo, đeo tấm thẻ bài vĩ đại trước ngực, thêu ren tua áo lộng lẫy. Đức Giêsu đã bảo: “Họ như mồ mả sơn vôi đẹp bên ngoài, mà trong thì hôi thối, dòi bọ” (Mt. 23, 5.27)
Theo y học về dinh dưỡng, một bác sĩ nói: “Xin các bà vợ đừng giết chồng nữa: Tôi đã nghiên cứu từ 40 năm nay và tôi kết luận: Phần đông đàn ông chết sớm hơn đàn bà vì ăn nhậu thái quá”. Bà vợ càng nấu món nhậu ngon, bụng chồng càng bự. Đó là cách giết chồng sớm, như bà Evà đã giết chồng bằng trái cấm quá ngon. Bà Carnegie nổi tiếng về các sách học làm người, đã hỏi: “Các bà có muốn giết chồng sớm không? Thật giản dị vô cùng: Bà không cần thuốc độc, dao búa hay súng đạn, chỉ cần tọng cho ông các món nhậu thôi” (Giúp Chồng: tr. 219)
Dụ ngôn không nhấn mạnh đến cái chết phần xác, nhưng đến cái chết đời đời phần hồn của những hạng phú hộ ăn nhậu, xa xỉ. Phú hộ phải sa hỏa ngục vì ba tội này:
- Ăn mặc lụa là xa hoa, ủy mị, phung phí, tiết lộ tính tình kiêu căng.
- Ăn uống yến tiệc linh đình dung dưỡng xác thịt: đó là tội mê ăn uống.
- Nhất là tội bất nhân, ích kỷ, không thèm giúp đỡ Ladarô người nghèo khổ nằm ngay cổng nhà mình.
2/ Hạng nghèo khổ đói rách, bệnh tật như Ladorô được hưởng phúc nước trời là vì:
1. Anh đã vui lòng chịu những xỉ nhục nghèo hèn, những bệnh tật đau khổ như thánh Gióp. Anh đã biết dâng những hy sinh đau khổ lên Thiên Chúa như Đức Giêsu để đền tội và chuộc tội.
2. Anh không hề than trách trời đất và buồn hận với ông phú hộ ăn chơi sung sướng trước mặt anh. Ladarô thật giống thánh Gióp trong Cựu ước. Ngài đã vui lòng chịu mọi cực khốn. Đang sống giầu có, sung sướng trong cảnh sum họp gia đình đông con nhiều cháu, đột nhiên nhà cửa bị thiêu rụi, các đoàn vật và con cái chết hết vì những tai họa ghê gớm, Ngài lại bị vợ và bạn bè đay nghiến, nguyền rủa xỉ nhục. Thân mình cô độc lở loét nằm trên đống tro tàn. Trong lúc đau khổ đến cực độ, Ngài vẫn vui lòng chấp nhận thân phận mình và nói: “Tôi đã sinh ra trần truồng trơ trọi. Tôi sẽ trở về trơ trọi hư vô. Thiên Chúa đã ban, Thiên Chúa lấy lại, chúc tụng danh Chúa muôn đời” (Jb. 1, 21)
3/ Ngày nay, được mấy người như Thánh Gióp và Ladarô, lúc gặp đau khổ, họ rên xiết, oán trách trời đất, oán trách xã hội, làng xóm. Lúc hưởng giầu có. Họ tìm cách ăn chơi phung phí. Họ cậy dựa vào tiền bạc. Họ đóng cửa lại không trông thấy ai đau khổ rên rỉ ngay trước cửa họ nữa. Một hố sâu phân cách giữa giầu và nghèo. Hai thế giới chênh lệch vẫn tồn tại song song nhau. Giầu sống khép kín bo bo lấy mình. Họ không bao giờ bước ra khỏi cái tôi. Cái tôi là thân xác, cái tôi là tiền của, cái tôi là khoái lạc có thế thôi. Họ không còn biết đến anh em, không biết đến Đấng trên đầu họ. Họ tưởng thế là hạnh phúc, là bất tử. Họ không ngờ đêm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, người ta đem chôn ngươi. Dưới âm phủ, ngươi phải chịu cực hình, lúc đó mới ngước mắt lên, lúc đó mới thấy Ladarô ngồi sát bên tổ phụ Abraham trên trời, lúc đó mới kêu xin Abraham thương xót, thì quá muộn rồi! Lúc giầu thì lo ăn chơi, chẳng nhớ đến ai, chẳng kêu xin ai. Lúc lửa thiêu đốt, mới ngước mắt lên, miệng lưỡi mới kêu gào. Sao khôn lỏi thế? Sao ích kỷ thế? Sao ma giáo thế?
Xem qua bài Tin Mừng này, có phải Thiên Chúa ủng hộ giai cấp nghèo, giai cấp vô sản và lên án giai cấp giầu, giai cấp tư bản? Không, Thiên Chúa chỉ lên án những kẻ ích kỷ, bất nhân và ủng hộ thương mến những người hy sinh, xả kỷ, nhân hậu như Đức Giêsu. Giầu hay nghèo sống ích kỷ, bất nhân đều bị lửa thiêu đốt trong hỏa ngục. Giầu cũng như nghèo biết thực thi bác ái đều được ân thưởng vinh phúc nước trời.
Lạy Chúa, “xin chớ để con phải ăn mày và đừng để con giầu có. Xin chỉ ban cho con hằng ngày dùng đủ. Kẻo khi giầu, con bị mê hoặc mà bỏ Chúa và anh em, hoặc vì túng thiếu, con đi ăn trộm mà làm ô danh Chúa” (Cn 30, 8-9).
5. Rửng rưng có phải là một tội ác?
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Trong đời sống xã hội hiện nay, con người ngày càng có xu hướng sống khép kín, chỉ biết lo cho bản thân và ít quan tâm đến những người chung quanh. Não trạng ‘sống chết mặc bay’ ngày càng trở nên phổ biến. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trapist, đã viết một cuốn sách tựa đề ‘Không ai là một hòn đảo’ (No man is an island), trong đó Ngài đả kích thái độ sống ích kỷ và hẹp hòi này. Bài Tin mừng hôm nay với dụ ngôn về ‘Người phú hộ và anh Lazarô’ cũng nhắc nhở chúng ta phải biết mở rộng cỏi lòng đến với tha nhân, nhất là những người cùng khổ và bất hạnh đang sống quanh ta. Một triết gia đã nói: “Rửng rưng là một tội ác”. Vậy thái độ khép kín và hẹp hòi mà chúng ta thường mắc phải, có phải là một tội ác hay không? Các bài đọc lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta câu trả lời.
Giàu và nghèo dưới ánh sáng Tin mừng.
Xã hội nào cũng có những người giàu sang phú quý, sống bên cạnh những người cơ cực và nghèo nàn. Sự cách biệt giàu nghèo càng lớn, những tội phạm càng dễ xảy ra. Vào thời Chúa Giêsu, tình trạng xã hội cũng tương tự như thế. Chúa Giêsu đã từng mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc khi Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc Thiên Chúa hoặc tiền bạc”. Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn: “Người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Ngược lại, Chúa đề cao tinh thần nghèo khó như mối phúc đầu tiên. Tin mừng Giáng sinh được loan báo trước tiên cho các mục đồng, là những đứa bé chăn trâu khố rách áo ôm, chắc chắn chẳng có một xu dính túi. Chúa còn khen ngợi người đàn bà góa nghèo chỉ có hai xu để bỏ vào hòm dâng cúng trong đền thờ. Kinh Thánh luôn đề cao những người nghèo của Giavê (anawim), bởi vì họ luôn được Thiên Chúa yêu thương và bênh vực.
Dụ ngôn được đọc lên trong phụng vụ hôm nay cũng nên bật hai hình thái tương phản trong xã hội: Giàu và Nghèo. Người phú hộ thì rất giầu, suốt ngày yến tiệc linh đình, còn Lazarô lại quá nghèo, nghèo đến mức độ thèm những mẩu bánh vụn từ bàn rớt xuống để ăn cho no. Sau khi chết, số phận của họ hoàn toàn đảo ngược lại. Tên nhà giàu thì bị đầy xuống âm phủ, còn Lazarô được đem vào lòng tổ phụ Abraham. Như vậy có phải sự giàu có tự nó đã là một tội, còn sự cùng cực đương nhiên bảo đảm cho phần thưởng nước trời mai sau? Chắc chắn không phải như thế. Có nhiều người sống bần cùng và rất túng thiếu, nhưng có thể do lười biếng hoặc do khờ khạo không biết cách làm ăn. Đó là cái nghèo về kinh tế chỉ thuần mang chiều kích xã hội, lắm khi là một tai họa chứ không phải là mối phúc như Chúa Giêsu đề cao. Ngược lại có những người rất giàu nhưng đã sống với một trái tim quảng đại. Ông bà Martin Guérin, song thân của Thánh nữ Têrêsa là một ví dụ. Giáo hội đã phong thánh để các Ngài trở nên tấm gương sáng cho chúng ta bắt chước. Thế thì tại sao tên phú hộ sau khi chết lại bị đầy xuống âm phủ, còn Lazarô khốn khổ lại được vui hưởng hạnh phúc trong lòng Abraham?
Rửng rưng đáng bị kết án.
Gã phú hộ trong câu chuyện Tin mừng hôm nay là một tay giàu sụ, tiền dư của để ê hề. Anh ta có nhiều của cải, có thể đang sở hữu một gia tài kếch xù do cha ông để lại. Hoặc có thể vì anh ta biết cách làm ăn với những đồng tiền chính đáng, không phải do gian manh hay luồn lẹo. Anh ta cũng chẳng ăn trộm ăn cắp của ai, không lừa đảo, mánh mung hoặc tham nhũng. Xét một cách khách quan, anh ta khá liêm chính. Nhưng anh ta bị phạt trong hỏa ngục vì đã sống trong tình trạng tội lỗi rất nặng nề. Tội sờ sờ trước mắt là anh ta nhắm mắt làm ngơ trước sự khốn cùng của cận nhân đang sống ngay cạnh mình. Anh ta chỉ biết sống hưởng thụ cách ích kỷ, ngày ngày chè chén say sưa, ăn uống linh đình và chẳng thèm nghĩ đến ai. Trái tim của anh ta đã hoàn toàn xơ cứng. Anh ta sống khép kín và quá vô cảm. Một triết gia đã nói: “Chỉ có loài vật mới dã tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại mà chăm chút cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không”. Hiểu như thế, tên phú hộ này đã mất hẳn tính người. Anh ta hành xử như một con thú và đương nhiên anh ta rơi vào tình trạng tội lỗi khủng khiếp.
Chúa không bao giờ kết án người giàu, chỉ vì họ có nhiều của cải. Ngài chỉ gay gắt chỉ trích những ai đang sống với một tấm lòng keo kiệt, bám chặt vào của cải vật chất một cách ích kỷ và sống cho riêng mình. Tội của tên phú hộ chính là ở điểm này.
Cũng vậy trong bài đọc 1, ngôn sứ Amos mạnh mẽ cảnh cáo những người giàu có nhưng chỉ biết hưởng thụ. “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng… Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng… nhưng chẳng thấy đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ. Vì thế chúng sẽ bị lưu đầy (Am 6,4-7).
Chủ nghĩa hưởng thụ dẫn đến tội ác.
Nhiều người vẫn còn nhớ một vụ án xảy ra cách đây khá lâu tại Sài Gòn, làm xôn xao dư luận.Vào một buổi sáng, người ta phát hiện một phụ nữ bị giết chết và xác cô ta bị chặt ra làm nhiều mảnh để phi tang. Chính quyền không khó tìm ra thủ phạm vì chỉ ngay chiều hôm ấy, kẻ sát nhân tên là Nguyễn Trung Nhiên, một kỹ sư trẻ tài năng mới ra trường, đã đến đồn công an tự thú. Bắt đầu đi làm và có nhiều tiền, anh ta dần dần bị tha hóa và biến chất. Anh chàng quen một cô gái và 2 người thuê nhà trọ để sống với nhau như tình nhân. Chỉ một thời gian ngắn, anh ta đâm chán cô nàng. Sau một trận gây gỗ, anh túm lấy cô ta và bóp cổ cho đến chết. Sợ người khác phát hiện, anh ta thản nhiên mổ bụng cô gái, vất hết ruột gan ném vào nhà vệ sinh và chặt xác chết ra làm nhiều khúc. Dư luận xã hội rất kinh hoàng trước sự việc xảy ra. Trong một lần tĩnh tâm linh mục của giáo phận, có một Cha xứ nọ đang phụ trách một giáo xứ khá lớn đã thú nhận với các Cha rằng kẻ giết người chính là giáo dân của Ngài. Trước kia anh ta từng là một giáo lý viên rất tốt lành và hăng say. Anh ta cũng tham gia trong ca đoàn và khá tích cực trong công việc chung. Nhưng từ khi đi làm có tiền, anh ta rơi dần vào tình trạng sa đọa, đi nhà thờ thưa thớt dần và rồi hầu như mất hẳn đức tin. Hệ quả tất yếu, cuối cùng tội ác đã xảy ra. Nguyên do chính cũng vì lối sống hưởng thụ cách ích kỷ.
Kết luận:
Lời Chúa hôm nay giúp lay động lương tâm mỗi người. Câu chuyện về người phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ vẫn còn mang tính thời sự để chúng ta suy nghĩ và nhìn vào cuộc sống của mình. Ông phú hộ đã nói với Abraham: “Xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn 5 anh em nữa. Xin đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào cực hình như con.” Năm anh em đó có thể là bạn, là tôi, là những người còn đang sống hôm nay. Abraham đáp: “Moise và các ngôn sứ mà họ không chịu nghe, thì người chết sống lại họ cũng chẳng tin”. Moisê và các ngôn sứ là hình tượng gợi lên sự nhắc nhở mà Chúa Giêsu gửi đến chúng ta qua nhiều dạng thức, đặc biệt qua sứ điệp lời Chúa hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Chương 16 câu 26 của Tin Mừng Lu-ca khảng định: có một cái hố ngăn cách “Giữa chúng ta đây và các anh có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các anh cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta cũng không được”. Một trong các mục tiêu của dụ nôn ‘ông phú hộ sang giầu và tên La-da-rô nghèo khổ’ là: cho thấy cái hố này sâu tới mức nào. Cái hố ngăn cách giầu nghèo được đề cập tới trong câu truyện dụ ngôn này không thể được hiểu theo định hướng kinh tế xã hội, cách mạng chính trị, ý thức hệ, thậm chí theo nội dung luân lý đạo đức. Ở đây liên tục với nội dung trước đó của chương 16, Lu-ca muốn diễn đạt ý nghĩa Tin Mừng là điều duy nhất Đức Giêsu muốn rao giảng.
Khác hẳn với luật lệ của Cựu Ước nặng tính luân lý và đạo đức, trong đó quan trọng nhất là việc trung thành giữ luật, thì theo Tin Mừng Tân Ước, mạc khải tình yêu nhân hậu tha thứ của Thiên Chúa mới là điều quan trọng nhất cần phải là được đón nhận. Theo Cựu Ước, thiên đàng – hỏa ngục là phần thưởng – hình phạt dành cho người tốt / kẻ xấu, người trung thành giữ luật / kẻ bất trung phá luật, người đạo đức / kẻ khô khan, người thánh thiện / phường tội lỗi. Còn theo Tân Ước, được vào Nước Trời là được hưởng trọn tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa từ nhân (‘La-da-rô trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham’ là một điển hình), sẽ dành cho những ai đã từng biết đón nhận khi còn sống; còn bị loại ra khỏi Vương Quốc tình yêu đó (bị cực hình, bị lửa thiêu đốt) là số phận của những ai khi sống đã từ chối đón nhận tình yêu tha thứ này. Khi Đức Giêsu tuyên bố: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của anh em… khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:20.25) chắc hẳn Người đang công bố nội dung Tin Mừng này.
Như vậy, cái vực thẳm lớn vĩnh viễn ngăn cách việc tiếp nhận hay khước từ Tin Mừng cứu độ chỉ có thể xuất hiện sau khi chết; ‘người nghèo này chết…Ông nhà giầu cũng chết’; thế nhưng, ngay từ cuộc sống trần thế, nó đã khởi sự được hình thành; ‘người nghèo khó… nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no’. Cái hố ngăn cách của tiếp nhận hay chối từ Tin Mừng cứu độ được hình thành và phát triển dựa vào định hướng trái chiều giữa giầu và nghèo trong nội dung Tin Mừng. Đó là lý do khiến Đức Giêsu nhiều lần lên tiếng cảnh giác sự giầu sang đồng thời tôn vinh nghèo khó, Người hoàn toàn trung thành với viễn cảnh đón nhận Vương Quốc tình yêu cứu độ.
Trong dụ ngôn, nếu ông nhà giầu chỉ ‘mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình’, thì đâu ông có làm gì nên tội để đáng bị cực hình thiêu đốt; cũng vậy, nếu La-da-rô chỉ ‘nghèo khó… mụn nhọt đầy mình…’ thì đâu có làm nên công trạng gì để đáng được ‘thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Chi tiết mô tả ông nhà giầu gợi ta nhớ đến cái cảnh ‘được no nê’thỏa mãn đâu cần được ai thương xót; còn người nghèo khó ‘thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống… chó đến liếm ghẻ chốc’ chính là thái độ mong đợi, cầu xin được xót thương. Đối với Tin Mừng, giá trị đích thực của giầu nghèo là ở chỗ đó: sống giầu dễ đưa tới tự mãn để không cần tới lòng xót thương (khốn cho), còn sống nghèo tạo điều kiện tự nhiên để mở ra đón nhận lòng thương xót (phúc thay). Nếu cứ tiếp tục ‘sống giầu’ như thế (trường hợp ông nhà giầu), và nếu cứ tiếp tục ‘sống nghèo’ như thế (trường hợp La-da-rô) thì việc bị loại khỏi hay được đón nhận vĩnh viễn vào Nước Trời sau khi chết sẽ chỉ là chuyện đương nhiên. Lúc đó thì cái hố ngăn cách giầu nghèo sẽ không còn gì có thể lấp đầy được (vẫn theo nghĩa Tin Mừng); “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.
Giầu – nghèo, trong học thuyết Tin Mừng của Đức Giêsu, chỉ là hoàn cảnh / điều kiện nghịch hay thuận để đón lấy Nước Trời cứu độ; do đó “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Đức Giêsu sống thân phận nghèo khó như ‘con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có lấy hòn đá gối đầu’ là để Người rộng mở hoàn toàn cho Vương quốc của Cha. Và Người kêu gọi bất cứ ai muốn theo Người cũng hãy “bán đi hết những gì mình có và bố thí cho kẻ khó…” để có điều kiện thuận lợi mở tâm hồn đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Ki-tô hữu, vì là người của Tin Mừng, phải luôn cảnh giác với cuộc sống giầu sang vì mối nguy cơ nó tiềm ẩn, nhưng phải vui mừng ôm ấp sự nghèo hèn đói khát chính vì thuận lợi Tin Mừng nó cống hiến. Nếu họ có giầu, thì chí ít họ cũng biết nhận ra ‘con đã nhận được phần phước của con’, tức là hồng ân của lòng từ bi Chúa, để biết khiêm tốn tạ ơn; còn nếu nghèo khổ thì ‘suốt một đời chịu toàn những bất hạnh… thì được an ủi nơi đây’, để vui mừng và hy vọng.
Đó chính là Tin Mừng đích thực đang được rao giảng cho những người nghèo khó!
Lạy Thiên Chúa là Cha! Đức Giêsu đã dạy chúng con cầu nguyện cùng Cha. Những điều con cầu xin Cha có thể là vô vàn và rất khác nhau vì con có quá nhiều nhu cầu cả về phần xác lẫn phần hồn, tuy nhiên con biết rất rõ: điều chính yếu trong cầu nguyện chính là tư thế khó nghèo của con. Xin Cha nhận lời cầu nguyện của con, không phải để thỏa mãn những điều con xin, nhưng là chấp nhận thân phận đớn hèn con mong hướng về Cha. Và xin Cha gìn giữ con luôn mãi trong sự nghèo hèn của mình để không ngừng hướng lòng con về tình nhân ái Cha. Amen.
7. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Người giàu và người nghèo (Lc 16, 19-31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Kiếm tiền và sử dụng tiền là những vấn đề rất quan trọng trong cuộc sống. Bởi thế, hôm Chúa nhựt tuần trước Chúa Giêsu đã đề cập đến tiền bạc rồi, và hôm nay Ngài lại đề cập đến nó một lần nữa. Ngài khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời.
Một lần nữa, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lầm lỡ đã phạm trong vấn đề tiền bạc.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta coi trọng những người giàu và coi khinh những người nghèo.
Chúng ta làm ngơ không giúp đỡ những kẻ túng thiếu.
Nhiều lần chúng ta đã xử dụng tiền bạc một cách phung phí không hợp lý.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Am 6, 1a. 4-7)
Ngôn sứ Amos tung ra những lời đả kích rất nặng đối với những người giàu: họ lo hưởng thụ, ăn uống, rượu chè, ca hát mà không quan tâm gì đến số phận của đất nước đang lâm nguy.
- Đáp ca (Tv 145)
Ca tụng tình thương của Chúa dành cho những người nghèo khổ về mọi phương diện: đói khát, bị áp bức, tù tội, tật nguyền, đặc biệt là những cô nhi quả phụ.
- Tin Mừng (Lc 16, 19-31)
Người phú hộ trong dụ ngôn này đã quen cậy dựa vào tiền bạc của cải. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là một người nghèo không có chỗ dựa ở trần gian nên hoàn toàn cậy dựa vào Chúa, nhờ đó sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).
Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến những người giàu: họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không thể đảo ngược được.
- Bài đọc II (1 Tm 6, 11-16) (Chủ đề phụ)
Những lời khuyên Phaolô gởi cho môn đệ mình là Timôtêô. Phaolô nhấn mạnh đến việc trau dồi các nhân đức tin, mến, nhẫn nại và hiền hòa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đừng quá hững hờ
Xem ra người phú hộ trong Tin Mừng chẳng có tội gì để đáng phạt muôn đời trong hỏa ngục: Ông không gian tham, không trộm cắp, không bóc lột… Cuộc đời ông ngày này qua ngày khác chỉ có ăn uống linh đình và mặc lụa là gấm vóc, nghĩa là chỉ có hưởng thụ cái tài sản giàu sang do ông làm ra, mà hưởng thụ như vậy là chính đáng chứ có gì là tội đâu? Tội không giúp đỡ Ladarô chăng? Nếu ta đọc kỹ Tin Mừng từng chữ thì sẽ thấy rằng Ladarô đã không mở miệng một lời để xin ông ta giúp đỡ, Ladarô chỉ âm thầm ao ước được ăn những miếng bánh rơi. Nhưng vì chỉ âm thầm ao ước, mà không nói ra cho nên không ai biết mà cho.
Nhưng tại sao lại không biết? Thưa vì không để ý. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ đó. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Chúng ta vừa khám phá ra một điểm đặc biệt của Tin Mừng: chúng ta không chỉ phạm tội do việc làm, do lời nói, do ý tưởng, mà còn có thể phạm tội do quá hững hờ với người khác nữa, và tội hững hờ này trong những hoàn cảnh quan trọng cũng có thể trở thành tội trọng.
Trong phim “Những đứa trẻ khốn khổ” có một cảnh rất thương tâm: một cô gái nhà nghèo lên tỉnh tìm việc làm và bị dụ dỗ đến có con. Vì phải làm việc suốt ngày nên cô không thể nuôi con mà phải gởi cho một người chủ quán nuôi giúp. Người chủ quán này không có lương tâm, lợi dụng hoàn cảnh của cô để bóc lột: nay hắn gởi thư đòi tiền, mai hắn lại đòi một số tiền khác. Người mẹ trẻ không có tiền nên chỉ biết nhịn ăn nhịn mặc, hết tiền cô cắt mái tóc đem bán, hết tiền lại nhổ từng cái răng đêm bán nữa… và cô trở thành rách rưới, ốm o, xấu xí. Nhưng cô càng gầy ốm, rách rưới, xấu xí thì cũng bị những người khác khinh khi, ghét bỏ. Cảnh cô bị đuổi khỏi sở làm, co ro trong chiếc áo rách chạy giữa trời đông tuyết lạnh, thỉnh thoảng dừng lại ôm ngục ho xù xụ… với cảnh cả một đám đông người xúm lại đánh đập cô, xô cô té ngả xuống đất và nhào vô xâu xé cô… những cảnh như thế làm cho chúng ta xem mà không khỏi cảm thấy thương tâm. Tại sao ta cảm động? Vì ta đã biết hoàn cảnh của cô ấy và khi ta thấy cô bị hành hạ như vậy thì thương tâm. Còn những người kia, những người hành hạ cô, tại sao họ không thương tâm? Thưa vì họ không hiểu hoàn cảnh của cô, họ cùng ở một đường phố, cùng làm chung một sở nhưng không hiểu hoàn cảnh của cô. Họ quá hững hờ.
Chắc chắn có rất nhiều lần chúng ta cũng hững hờ như vậy.
* 2. Giấy thông hành nước trời
Ngày Xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đoá hồng xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khác hắn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
– Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
***
Thiên Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung chung, nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với những ơn riêng mà người khác không có được Mỗi một con người là một bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông đã không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Vậy tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ?”.
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải!à tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hoả hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong lòng Ápraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2. 10. 1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 2O vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các bạn”.
***
Lạy Chúa, thánh Tôm Aquinô đã dạy: “Những ngươi giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”. Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trời đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa ban. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Những thế giới khác nhau
Một ngày mùa hè, một người đàn ông ngồi trong văn phòng có gắn máy điều hòa. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy bên ngoài có một thanh niên đang lao động. Anh này làm việc một cách rất uể oải và chậm chạp, chốc chốc lại buông tay ngồi nghỉ. Ông thầm nghĩ: cái anh chàng này lười biếng quá. Ông mở cửa bước ra xem. Vừa ra ngoài ông đụng ngay cái nóng hừng hực của mùa hè. Sức nóng làm mồ hôi ông toát ra và khiến mọi năng lực của ông như tan biến đâu mất. Ông cảm thấy rất uể oải. Lúc đó ông mới hối hận vì đã vội nghĩ xấu cho người thanh niên nọ: nếu ông cũng phải lao động ngoài trời dưới cái nóng như thế thì chắc chắn ông cũng không làm gì hơn người thanh niên đó được.
Người đàn ông và người thanh niên trên ở rất gần nhau, chỉ cách nhau một cánh cửa, thế nhưng họ thuộc hai thế giới khác hẳn nhau. Vì thuộc hai thế giới khác nhau nên người đàn ông không hiểu được và không thông cảm được với người thanh niên. Chỉ khi ông bước ra khỏi thế giới mình đề đi vào thế giới của người thanh niên thì ông mới hiểu và mới cảm thông.
Người phú hộ và Ladarô trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Họ thuộc hai thế giới khác hẳn nhau:
Một bên mặc toàn lụa là gấm vóc; bên kia rách rưới tả tơi.
Một bên ngày ngày yến tiệc linh đình; bên kia thì một mụn bánh cũng không có.
Một bên sống trong biệt thự; bên kia nằm trước cổng nhà.
Tóm lại một bên như sống ở thiên đường trần thế; còn bên kia như sống ở hỏa ngục trần gian.
Hai người ở sát cạnh nhau nhưng hoàn toàn xa cách nhau. Thậm chí người phú hộ còn không biết tới sự hiện diện của Ladarô.
Hai bức tranh quá đối chọi này gọi cho chúng ta vài suy nghĩ:
a/ Thiên Chúa và loài người cũng thuộc về hai thế giới khác nhau vô cùng. Nhưng Con Thiên Chúa đã ra khỏi thế giới của Ngài để bước vào thế giới chúng ta. Thật là một tình thương to lớn vô cùng!
b/ Có rất nhiều người ở bên cạnh chúng ta nhưng thuộc về một thế giới khác hẳn chúng ta cho nên chúng ta không hiểu họ, không nhận ra họ, thậm chí không ý thức đền sự hiện diện của họ. Có khi nào chúng ta chịu khó ra khỏi thế giới của mình để bước vào thế giới của họ chưa?
* 4. Sự giàu có thật và sự nghèo nàn thật
Một người nhà giàu lái một chiếc xe Mercedes bóng láng đến bãi đậu xe. Một cậu bé khoảng 11 tuổi ngắm nhìn chiếc xe bằng một ánh mắt ngạc nhiên và thèm muốn. Câu chuyện bắt đầu:
– Thưa ông, chiếc xe này của ông hả?
– Phải.
– Chà, nó đẹp quá. Ông mua bao nhiêu vậy?
– Chẳng dấu gì cháu, tôi không có mua. Anh tôi tặng tôi đó.
– Nghĩa là ông không phải tốn một xu nào hết mà có được chiếc xe này?
– Đúng vậy.
Cậu bé trầm ngâm một lúc rồi nói “Ước gì cháu…”
Câu nói bỏ lửng. Người nhà giàu cố đoán phần sau của câu nói. Ông đoán cậu bé định nói “Ước gì cháu cũng có một người anh như thế”. Nhưng thật bất ngờ, cậu bé nói “Ước gì cháu sẽ là một người anh như thế”.
Rồi người nhà giàu suy nghĩ: Tuy mình có một chiếc xe sang trọng, có một người anh giàu có, nhưng lòng mình thì quá nghèo nàn. Còn cậu bé tuy ăn mặc tầm thường nhưng tấm lòng cậu ấy giàu hơn mình nhiều, bởi cậu bé chỉ nghĩ đến việc cho đi.
Người giàu thật là người biết cho; người nghèo thật là người chỉ biết nhận.
Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ; người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.
Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn; sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng.
Bởi vậy cái giàu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và đó cũng chính là cái nguy hiểm của vật chất:
Nó khiến ta quá chú ý đến cái “có” mà quên xây dựng cái “là” của mình.
Mà những cái “có” ấy chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.
Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng che mờ cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa.
* 5. Bắt đầu từ đâu?
Một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy.
Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.
Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Mẹ Têrêsa còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Mẹ nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt”.
- Một chuyện khác
Một tu sĩ kia vào một ngôi làng. Ông sắp sửa ngả lưng xuống một gốc cây để ngủ qua đêm thì một người dân làng đến nói:
– Xin ngài cho tôi viên ngọc quý ấy đi.
– Viên ngọc nào?
– Đêm qua tôi mơ nghe thấy một tiếng nói bảo tôi rằng nếu tôi đi ra ngoài rìa làng thì sẽ gặp một tu sĩ và tu sĩ ấy sẽ cho tôi một viên ngọc.
Vị tu sĩ lục lọi trong túi xách, lấy ra một vật gì đó, hỏi:
– Có phải là cái này không? Nếu phải thì ông hãy cầm lấy.
Người dân làng sung sướng vô cùng vì đó quả thật là một viên ngọc lớn hơn mọi viên ngọc mà ông đã từng thấy. Đêm đó ông không ngủ được. Sáng hôm sau ông trở lại chỗ cũ nói với vị tu sĩ:
– Ngài hãy cầm lại viên ngọc của ngài đi. Thay vào đó xin ngài cho tôi một thứ quý hơn nữa.
– Thứ gì?
– Là thứ đã khiến ngài có thể đưa cho tôi một viên ngọc quý một cách dễ dàng như thế.
Lời bàn: Tâm hồn bên trong của người ta càng giàu thì nhu cầu bên ngoài của người ta càng ít và người ta cũng ước muốn càng ít.
- Mảnh suy tư
Sự giàu có thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi.
Sự giàu đáng giá nhất là giàu trong tâm hồn.
Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết;
Khi ta mở cửa lòng ra là lúc ta bắt đầu sống (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta cùng hướng lòng lên Thiên Chúa là “Cha của người nghèo” và dâng lên Người những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:
1. Hội thánh luôn bênh vực những người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn quan tâm giúp đỡ những ai túng thiếu nghèo nàn.
2. Hằng năm vẫn còn biết bao người lớn cũng như trẻ em / chết đói ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển / để hết thảy mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
3. Đức bác ái đòi buộc người Kitô hữu phải chia sẻ tình thương và cơm áo / cho những người nghèo khổ bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết rộng rãi giúp đỡ những ai đói rách bần cùng.
4. Vui với người vui và khóc cùng người khóc / là bổn phận của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống theo lời nhắn nhủ của thánh Phaolô tông đồ.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu thương tha nhân như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”, chúng ta hãy nghĩ đến những người nghèo túng và xin Chúa dùng chính chúng ta làm những người giúp đỡ những người khốn khổ ấy.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin cho xã hội này sớm thoát cảnh nghèo đói, xin đoái tho cho những ngày chúng con đàng sống được bình an”
VII. Giải tán
Trong tuần này, chắc chắn anh chị em sẽ gặp những người nghèo, những người bệnh. Tuy anh chị em không dư dả gì, nhưng đừng quá thờ ơ như người phú hộ bị Chúa Giêsu chê trách trong bài Tin Mừng hôm nay.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó.
Am 6: 1, 4-7
Ngôn sứ A-mốt lên án những người giàu có chỉ lo yến tiệc linh đình và vui hưởng những lạc thú cho riêng mình; họ sẽ sớm biết số phận đau thương đang chờ đợi họ.
1Tm 6: 11-16
Trong đoạn trích thư gởi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy trung thành kiên vững trong niềm tin.
Lc 16: 19-31
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Số phận của hai người hoàn toàn đảo ngược bên kia nấm mồ.
BÀI ĐỌC I (Am 6: 1, 4-7)
Chúng ta gặp lại ngôn sứ A-mốt, người chăn cừu xứ Giu-đê này. Vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ông đã nhận được sứ mạng đi đến vương quốc miền Bắc để lay động tiếng lương tâm và nhắc lại những yêu sách luân lý của Giao Ước.
Trong đoạn trích Chúa Nhật vừa qua, vị ngôn sứ lên án thói tham lam vô độ và những trò gian dối của những phú thương; trong đoạn trích của Chúa Nhật này, ông tố cáo thái độ dững dưng vô cảm của những bậc quyền cao chức trọng, những kẻ chỉ biết tận hưởng những lạc thú cho thỏa thích mà không lường trước số phận bi thảm đang chờ đợi họ.
- Cuộc sống thanh bình thịnh vượng giả tạo:
Thành đô Sa-ma-ri nằm trên một ngọn đồi biệt lập có những cánh đồng canh tác, được bao quanh bởi những thung lũng, được bao bọc bên ngoài bởi những bức tường thành kiên cố với những pháo đài vững chắc. Thành đô Sa-ma-ri như một thành trì kiên cố có thể kháng cự bất kỳ những cuộc tấn công từ bên ngoài vào, và quả thật, thành đô này đã kháng cự suốt ba năm trước những cuộc tấn công của đạo quân Át-sua hùng mạnh (723-721 trước Công Nguyên). Hơn nữa, vào thời điểm ngôn sứ A-mốt công bố sứ điệp, cảnh thanh bình ngự trị, vì quyền lực đế quốc Át-sua đang suy yếu. Các tướng lãnh và các quan chức có thể vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Vị ngôn sứ tố cáo sự an toàn phỉnh phờ này. Lý do mà vị ngôn sứ nêu ra thật đơn giản: cách sống gây công phẩn của những bậc quyền quý này sẽ dẫn họ đến sự trừng phạt không chút xót thương.
- Những thú vui hênh hoang tự đắc:
Với tài mỉa mai châm biếm, ngôn sứ A-mốt mô tả rất hiện thực những yến tiệc linh đình phô bày thói xa hoa vô độ trong những dinh thự lầu đài nguy nga tráng lệ:
“Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ
mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng.
Chúng đàn hát nghêu ngao;
như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác” (6: 4-5).
Những ngôn từ vị ngôn sứ sử dụng có một âm vang đặc biệt: đây là những từ ngữ được vay mượn ở phụng vụ của những bàn tiệc hy tế: chiên non, bê béo, rượu cả bầu, dầu thơm hảo hạng mà người ta dùng trong việc cúng tế. Phải chăng ngôn sứ A-mốt muốn mô tả những bàn tiệc thánh thiêng mà các bậc quyền quý đã lạm dụng? Điều này cũng có thể. Như vậy, ở nơi danh sách liệt kê những bất công mà ông tố cáo, vị ngôn sứ thêm vào những hành vi phạm thánh, thói đạo đức giả. Vả lại, trước đây ông đã nói nhân danh Đức Chúa:
“Lễ lạc của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường;
hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú.
Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu…
những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận,
chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài.
Hãy dẹp bỏ tiếng đàn hát om sòm của các ngươi,
Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa.
Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào,
cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5: 21-24).
- Thảm họa không sao tránh khỏi:
Ngôn sứ A-mốt nhắc đi nhắc lại sứ điệp đe dọa của mình:
“Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày,
dẫn đầu những kẻ bị lưu đày.
Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (6: 7).
Trong cảnh thanh bình thịnh vượng này, sứ điệp của vị ngôn sứ xem ra thật điên rồ. Tuy nhiên, lời đe dọa này sẽ được ứng nghiệm. Quyền lực của đế quốc Át-sua chẳng bao lâu chỗi dậy. Thành đô Sa-ma-ri bị sụp đổ. Vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en, sẽ biến mất vĩnh viễn. Đoàn người Ga-li-lê và Sa-ma-ri bị dẫn đi lưu đày ở Ni-ni-vê, kinh đô của đế quốc Át-sua. Những tiếng kêu của người nghèo đã vang lên tới Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Tm 6: 11-16)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-mô-thê. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân chủ yếu ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu Ê-phê-xô; trong đoạn trích mới này, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê một cách riêng tư nhiều hơn.
- Ngôn từ:
Đoạn này thuộc phần cuối thư. Thánh Phao-lô khuyên, nhưng cũng truyền lệnh, với uy thế mục vụ và tuổi đời của thánh nhân, vì ông Ti-mô-thê vẫn còn trẻ, như thánh nhân viết trong thư này: “Chớ gì đừng coi ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (4: 12). Thánh nhân nói một cách hùng hồn với tư cách người Ki-tô hữu, nhưng thỉnh thoảng thánh nhân mượn những ngôn từ thao trường và nhuốm màu sắc lý tưởng Hy-lạp.
Về thể thao, thánh nhân một lần nữa sánh ví cuộc đời Ki-tô hữu với một cuộc chiến đấu vì đức tin cao đẹp, nhằm giành cho bằng được sự sống đời đời, như vận động viên thi đấu trong thao trường ra sức giành cho bằng được vòng nguyệt quế (x. 1Cr 9: 24; Pl 3: 14 và 2Tm 2: 4-5 và 4: 7). Thánh Phao-lô cũng nói với tư cách người Hy-lạp, hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh Chân, Thiện và Mỹ: “Anh hãy lao mình vào cuộc thi đấu cao đẹp… Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp…”. Thánh nhân cũng diễn tả Đức Ki-tô theo cùng một cách như thế: “Đấng đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô”.
Năng lực chiến đấu, ý thức về sự cao đẹp của chân lý Ki-tô giáo, những tâm tình như thế có thể giúp ông Ti-mô-thê trong công việc điều hành Giáo Đoàn của ông, vì ông phải nêu gương sáng.
- Lời cam kết:
Ông Ti-mô-thê đã được đặt tay tấn phong; ông là “người của Chúa”; ông “đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (thánh nhân ám chỉ đến bí tích Truyền Chức của ông Ti-mô-thê), vì thế, cách sống của ông phải đi đôi với lời cam kết của ông: “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.
Tiếp đó, thánh nhân nói bằng một giọng điệu nghiêm nghị hơn: trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Giêsu Ki-tô, phải trung thành, phải bắt chước Đức Giêsu, Ngài đã khẳng định chân tính của mình trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thánh Phao-lô biết rằng trong cộng đoàn Ê-phê-xô có những căng thẳng và vài biện luận rất gần với lạc giáo. Ông Ti-mô-thê phải là vị hướng đạo tinh thần không gì đáng trách. Người ta cảm thấy thánh nhân nghi ngờ những sai lạc đạo lý; vì thế, lời khuyên của thánh nhân mặc lấy một lệnh truyền: “Tôi truyền cho anh: hãy tuân giữ điều răn của Chúa”. Và để có tính thuyết phục hơn, thánh nhân gợi lên ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang, đó sẽ là giờ xử án.
- Bài thánh thi:
Thánh nhân chấm dứt bằng lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa, một “vinh tụng ca”, xem ra xuất xứ từ Do-thái giáo. Những ngôn từ được mượn ở nơi những lời nguyện phổ biến trong các hội đường thuộc thế giới Hy-lạp. Người ta nhận ra những biểu thức của sách Đệ Nhị Luật như: “Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10: 17) và các Thánh Vịnh như: “Hãy tạ ơn Chúa các chúa” (Tv 136: 3). Thánh nhân sáp nhập chúng vào trong một thị kiến ở đó Đức Giêsu ngự trị. Đức Giêsu này, Đấng đã làm chứng trước tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, thì chính Ngài, Chúa các chúa, sẽ bày tỏ vinh quang “đúng thời đúng buổi”.
TIN MỪNG (Lc 16: 19-31)
Chương 16 Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và kết thúc với dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn các môn đệ về thái độ họ phải có đối với của cải trần thế. Ngài trở nên nghiêm khắc hơn khi kết án không một chút xót thương những người giàu có sử dụng của cải của mình đến mức chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến những khốn khổ của anh em đồng loại. Trái lại, người nghèo, chết vì cảnh đời khốn khổ, nhưng được hưởng một số phận hạnh phúc bên kia nấm mồ, đây là lời ngợi khen về đức nghèo khổ.
- Một bức tranh đảo ngược:
Hai cảnh đời được mô tả rất tương phản giữa người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ. Người giàu có “mặc toàn gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”; còn anh La-da-rô khốn khổ, mình đầy ghẻ chốc, nằm trước cổng nhà người giàu này, cứ chờ đợi những mẩu bánh thừa rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Bức tranh lại càng thêm bi thảm hơn nữa khi kể: “Lại thêm bầy chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Như chúng ta biết, đối với người Do thái, con chó là một con vật ô uế.
“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”: Đây là kiểu nói Kinh Thánh để chỉ người công chính được chết lành và được đưa vào nơi an nghỉ cùng với các tổ tiên trong khi chờ đợi được sống lại. Không có bất kỳ đức hạnh nào của người nghèo được kể ra. “Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn”: Đây là kiểu nói bình dân để chỉ cái chết của những người chẳng có đức độ gì. Ngoài ra, hình ảnh Kinh Thánh được sử dụng ở đây là “lửa”, lửa phán xét mà các ngôn sứ và chính Gioan Tẩy Giả đã nhiều lần loan báo.
- Tội của người giàu có:
Vậy thì tội của người giàu này là gi? Ông không hất hủi xua đuổi anh La-da-rô, cũng không buông lời mắng nhiếc thóa mạ anh. Tội của người giàu chính là thái độ thờ ơ lãnh đạm nhắm mắt làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của người anh em đồng loại của mình. Vì thế, kẻ đã không bố thí cho người cùng khổ vài mẩu bánh thừa từ bàn rơi xuống, thì cũng sẽ không được ban cho một giọt nước nào trên lưỡi để làm dịu cơn khát trong chốn trầm luân. Điều này gợi nhớ câu nói của Đức Giêsu trong dụ ngôn “cuộc phán xét sau cùng”, trong đó Ngài đã đồng hóa mình với những người bất hạnh: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 42-43).
Ở nơi hoàn cảnh đảo ngược này, chúng ta gặp lại bức tranh bộ đôi tương phản khi thánh Lu-ca đã trình bày các Mối Phúc:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng, vân vân”.
Trái lại:
“Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có,
vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê,
vì các ngươi sẽ phải đói, vân vân” (Lc 6: 20-26).
- Sự tự do của con người:
Qua hai hình tượng: trên thiên đàng và dưới hỏa ngục, cuộc đối thoại giữa tổ phụ Áp-ra-ham và người giàu có, khai mở một trong những giáo huấn chính yếu của Tin Mừng. Trước lời van xin của người giàu có: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát…”, vị tổ phụ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại; suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.
Còn về việc ông cầu xin cho anh La-da-rô đến cảnh báo những anh em của ông hiện đang sống trên dương thế, thì không cần thiết. Thiên Chúa đã ban sẵn cho họ những phương tiện tất yếu cần cho ơn cứu độ rồi: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Không cần thiết phải sai người chết sống lại về báo: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Như vậy, chúng ta gặp lại thái độ của Đức Giêsu đối với những người Pha-ri-sêu thù nghịch: Ngài đã từ chối dấu lạ mà họ đòi hỏi. Lời của Ngài thì đủ cho họ rồi… Từ đó, hai bài học được rút ra: một đằng, lòng chai dạ đá của những người giàu có: “Họ chẳng chịu nghe đâu”; mặt khác, Thiên Chúa kính trọng sự tự do lương tâm của mỗi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 16: 19 – 31: Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói với chúng ta về việc sử dụng Tiền Của, tuần này Ngài nhắc đến một lần nữa và khuyến cáo chúng ta rằng Tiền Của có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời.
Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói với chúng ta về việc sử dụng Tiền Của, tuần này Ngài nhắc đến một lần nữa và khuyến cáo chúng ta rằng Tiền Của có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời.
Một cách cụ thể, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về “người phú hộ và Lazarô nghèo khó”.
Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai, không làm gì phạm đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị đầy vào Âm Phủ? Tội ông ở chỗ nào?
Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ là “hờ hững, dửng dưng” trước đau khổ của người khác, tức là tội vô cảm.
Cha Mark Link kể lại trong tập Mission 2000 câu chuyện cảm động như sau: ông thị trưởng New York tên Fiorello La Guardia thỉnh thoảng ngồi xử kiện. Một lần kia, người ta giải đến cho ông một người thất nghiệp mang tội ăn cắp bánh để nuôi gia đình.
Ngài thị trưởng nói:“thưa ông, luật pháp không trừ ai. Tôi kết án ông 10 đô la tiền phạt.”
Rồi ông thị trưởng lấy 10 đôla trao cho ông nộp tiền phạt, sau đó ông bắt tất cả những người đang hiện diện trong phòng xử án phải nộp mỗi người 50 xu. Lý do là vì họ đã sống trong một thành phố văn minh mà để một người phải đi ăn cắp về nuôi gia đình.
Người đàn ông bước ra khỏi phòng xử án, cảm động, nước mắt đầm đìa vì có được 47$50 (đô la) từ những người tham dự xử án.
Và MacCathy còn kể một câu chuyện như sau: trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện.
Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì. Vừa ra khỏi nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi ngay ở cổng, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Người nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu đi nữa.
Rồi chiều đến, khi về tới cổng, ông thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. Ông động lòng trắc ẩn nhưng lại một lần nữa, ông bỏ qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông lại có một giấc mơ khác. Ông nghe thấy những tiếng kêu cứu. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này cũng lại là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải làm gì và bắt đầu từ đâu.
Từ câu chuyện này, chúng ta lắng nghe Mẹ Têrêxa nói: “tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta.
Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy đã chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong phòng họp đang bàn luận sôi nổi về việc phải làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực, đang khi họ để người đàn ông đó chết, chết vì đói, ngay bên cạnh phòng họp của họ. Mẹ Têrêsa nói tiếp: “tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá từng nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc khác nhau. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người.
Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt nước. Amen.
Nghe qua dụ ngôn ông phú hộ giàu có và Ladarô nghèo đói chúng ta dễ có cảm tưởng rằng hễ sung sướng ở đời này thì sẽ bất hạnh ở đời sau và ngược lại nếu khổ đau ở đời này thì sẽ hạnh phúc ở đời sau. Nhưng thực ra giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là như vậy, bởi lẽ sang giàu không phải là một tội và đói khổ chưa hẳn là một bảo đảm đưa tới ân thưởng. Điều chúng ta cần lưu ý ở đây chính là sự cách biệt và phải khổ sở của người giàu có mà bất nhân trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra.
Ngài không nói tới việc nhờ đâu mà ông ta được giàu có nghĩa là không cần xét tới tính liêm chính của những điều kiện sung túc ông ta có được. Thái độ đáng trách của ông ta chính là lối sống xa cách đối với người nghèo đói bên cạnh mình. Ông ta quên rằng những của cải và tự do của ông ta luôn hàm chứa trách nhiệm đối với những người chung quanh. Và nó cũng là phương tiện giúp ông ta kiến tạo tình liên đới làm nên hạnh phúc thiên đàng. Ông ta tưởng đâu mình có thể sống hạnh phúc được mãi trong ích kỷ, trong tháp ngà của riêng mình. Và vì vậy chẳng cần gì phải quan tâm xây dựng mối liên hệ với người khác. Nào ngờ đâu, sự chết đến. Nó buộc ông ta phải bỏ lại sau lưng tất cả những điều kiệnđiều kiện sang giàu với những yến tiệc linh đình hằng ngày. Lúc ấy ông ta hoảng sợ vì thấy mình quá xa cách đối với người khác. Và sự xa cách đó đã khiến tông ta chới với, bất hạnh. Vực thẳm ngăn cách quá sâu rộng mà chính ông ta tạo nên do những vô tâm và ích kỷ khi còn sống, giờ đã làm cho ông ta vô phương vượt qua. Ước mong cậy nhờ kẻ mình đã khinh rẻ, bỏ rơi thật trơ trẽn làm sao. Mà cũng chẳng được nữa, dù là một giọt nước. Lời đáp của Abraham thật thấm thía. Nếu khi còn sống ông ta đã biết quan tâm chia sẻ những phúc lộc mình được hưởng cho Ladarô nghèo khó và cho những người chung quanh thì chắc chắn ông ta đã không phải đơn độc trong đau khổ nơi thế giới bên kia.
Theo một số nhà chú giải thì câu chuyện được kể trong dụ ngôn không hẳn là do Chúa Giêsu sáng tác, mà là một câu chuyện đã trở nên quen thuộc đối với quần chúng thời bấy giờ. Tựu chung bài học của dụ ngôn này vẫn còn mang tính thời sự đối với chúng ta hôm nay. Chung quanh chúng ta hiện giờ không thiếu những Ladarô nghèo túng. Có thể chúng ta không phải là những phú hộ với những khả năng, lắm của cải nhiều bạc tiền, nhưng chắc chắn bao giờ chúng ta cũng có một cái gì để chia sẻ. Và không thiếu cách để chúng ta ngày càng trở nên gần gũi và thân thiết đối với những người chung quanh là hiện thân của Chúa. Ước gì mỗi bước đường đời chúng ta đi là một bước tiến đến gần Chúa và gần nhau hơn trong yêu thương và hạnh phúc.
11. Phú hộ và hành khất Lazarô thời nay… – Dã Quỳ
Tưởng chừng thế giới ngày càng văn minh, nền kinh tế phát triển, khoa học kỹ thuật nâng cao nhiều mặt… thì con người bớt đi cảnh nghèo đói. Nhưng không, dường như cái nghèo cứ đeo bám con người trong mọi thời đại. Xã hội như càng phân cấp rõ rệt giữa người giàu và người nghèo. Ai giàu ngày càng giàu có. Kẻ nghèo ngày càng rơi vào cảnh khốn cùng hơn! Chắc hẳn không phải vì họ lười không làm việc, nhưng là họ không tìm được việc làm và cũng không có vốn liếng để đầu tư hay kinh doanh. Vì thế, con số người thất nghiệp, đói nghèo và hơn nữa là phải đi xin không hề ít.
Ngay tại quê hương, nhiều lần tôi đã chứng kiến hàng chục người kéo đến nhà dòng để xin cơm. Đó là những anh em dân tộc thiểu số hoặc anh em ở Miền Trung, Bắc… họ bị mất mùa, không lương thực, không việc làm, nhất là phụ nữ và trẻ em. Thế nhưng cũng có nhiều khi gặp những chị, những anh đến xin không phải là xin ăn mà là xin tiền, xin thuốc men… Trong số họ, có những người thực sự là nghèo khó cần giúp. Nhưng cũng vài lần đã bị lừa khi họ cầm toa thuốc hay giấy nhập viện đến xin, và nhất định chỉ xin tiền chứ không chịu lấy thuốc hay đi đóng viện phí dùm. Làm sao để phân biệt ai nghèo thật ai giả? Không cho thì nếu trong số họ có những người khó nghèo thật thì sao? Thôi thà cho lầm còn hơn bỏ sót.
Thế rồi, những tháng đầu sống trên đất Bắc Mỹ, tôi thật ngạc nhiên khi thấy một người đàn ông ăn xin. Ngày nào cũng sau giờ kinh tối của cộng đoàn là ông ta có mặt. Chẳng cần xin, như đã là thông lệ, một hai Soeur lo đi lấy bánh mì, bơ… và pha cà phê cho ông. Rồi cũng tới phiên tôi lo việc này. Nếu chỉ là lấy và trao cho ông thì dễ dàng. Thế nhưng, cái khó chịu là cứ mỗi ngày lại phải có một cái lọ thủy tinh để đựng cà phê. Sau một vài tuần, tìm lục lọi hết trong nhà cũng không còn lọ và nắp đậy. Nói với một Soeur đề nghị ông ta giữ cái lọ lại để ngày mai mang đến mình sẽ đựng cho ông. Nhưng Soeur ấy trả lời “Ông ta không có nhà, mà mùa đông quá lạnh nên khi uống xong, không thể bắt ông ấy giữ cái lọ suốt cả ngày đêm được!” Thế đấy! Hết có ý kiến. Lại tiếp tục tìm mọi cách để có thể trao cho ông “Ăn Mày” kia lọ cà phê còn nóng hổi thơm tho đậy nắp hẳn hoi.
Sau này, tôi còn gặp nhiều người ăn xin bên đường. Họ không nài nỉ ỉ ôi, nhưng chỉ chìa tay xin. Tôi vẫn cảm thấy thật lạ khi ở cái xứ văn minh giàu có này mà cũng có kẻ ăn mày ăn xin! Người ta nói cũng có những người xin vì thiếu thốn nghèo khổ, nhưng cũng nhiều kẻ vì uống và hút xách nên mặt dày chìa tay đi xin như thế! Vâng, cho hay không là quyền của tôi. Tin họ nghèo hay không là ở chính mình. Biết đâu trong số họ sẽ chẳng có đầy những “Anh Lazarô” đói lả lở loét, ăn mày không chừng! Chẳng hiểu được sao họ không đi làm để sinh sống, nhưng sự thật họ vẫn là những Lazarô, không nhà cửa, đi xin ăn. Còn tôi, nhà cửa ấm êm, cơm ăn ba bữa… Tôi không là phú hộ giàu sang, ăn uống xa hoa, mang mặc gấm vóc… Nhưng tôi được đầy đủ, ấm no.
Có những người đàn ông đến nhà dòng nhấn chuông xin bữa ăn trưa hay chiều một cách ngon ơ! Đôi khi tôi ngập ngừng, chần chờ giữa những phản ứng và lòng quảng đại. Tôi nghĩ ai cũng có đôi tay sao không chịu đi làm mà lại đi xin ăn. Thế nhưng, Chúa Giêsu nói sau này những anh Lazarô ăn xin này sẽ ngồi trong lòng Tổ Phụ Abraham đấy! Còn phú hộ như tôi coi chừng ở trong địa ngục lửa thiêu đốt. Làm sao hiểu nổi. Con đâu có làm gì nên tội nhỉ? Như vậy có công bằng không đây Chúa ơi? Dừng lại nghe lời Chúa nói, con chợt nhận ra… một sự thật rất công bằng “Con ơi, con hãy nhớ lại, suốt đời con, con đã nhận được phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Lazarô được an ủi ở nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.”
Vâng, Chúa cho chúng ta biết số phận đời đời của chúng ta liên hệ mật thiết với cuộc sống của ta ở trần gian này. Nếu ta biết chia sẻ, làm phúc cho anh em mình thì ta sẽ được thưởng. Còn nếu ta khép lòng trước những cơn đói và những nỗi đau của đồng loại thì ta sẽ phải lãnh lấy phần phạt ở đời sau. Được thưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay phải chịu khốn khổ đó là do chính chúng ta có biết để tâm yêu thương chăm sóc anh em đói nghèo quanh ta hay không, chứ không do ta là phú hộ giàu có. Giàu có mà keo kiệt, chỉ ăn uống sống xa hoa cho bản thân, không để mắt đến anh Lazarô nghèo đói ngay cửa nhà mình. Vô tâm, vô cảm và thờ ơ với tha nhân. Số phận đời sau của ta sẽ bị đổi ngược lại. Đó là công bằng.
Phúc cho chúng ta vẫn còn được nghe Lời Chúa nhắc nhở. Như Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước Chúa bảo “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9). Thế nên, đừng từ chối làm điều thiện, như lời sách Châm ngôn nhắn nhủ “Khi có thể cho ngay, thì con đừng có nói đi đi, mai trở lại rồi tôi sẽ cho anh” (Cn 3,28) Đừng bỏ qua hay tránh sang bên với những người anh em khó nghèo ta gặp trên đường, nhưng hãy làm cho con đường ta đi nở đầy hoa bác ái yêu thương. Hãy cho đi với niềm vui và thực hiện việc bác ái với trái tim nhân hậu như lời thánh Phaolô dặn “Ai thực hành lòng thương xót thì hãy làm với niềm vui.” (Rm 12,8) và như thế, chắc chắn Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Hạnh phúc cho ai biết xót thương người, biết “Chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo”. Mỗi Kitô hữu chúng ta luôn được mời gọi trở nên người công chính, là “người biết cảm thương, rộng tay làm phúc cho kẻ khó nghèo.” (x. Tv 111,5.9) Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương xót, hơn bao giờ hết, ta hãy thực thi lòng xót thương như Cha chúng ta là Đấng thương xót. Hãy sống mối thương người cách cụ thể với anh em Miền Trung đang gặp hoạn nạn, đói nghèo…”Hãy biết chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ” (Is 58,7) vì đó là điều Thiên Chúa vui thích. “Người muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (x. Mt 9,18)
Chính Chúa đã đồng hóa với những người nghèo khó. Khi ta cho anh em cơm ăn, áo mặc hay đón tiếp họ vào nhà là ta đã làm cho chính Chúa Kitô (x. Mt 25,31-40) Ngày chung cuộc của mỗi người, khi đến trước Chúa, Người sẽ chỉ xét xử ta về đức bác ái yêu thương ta đã làm, hay không làm cho anh em ta. Vậy khoảng cách của ta với Tổ Phụ Abraham trong Nước Trời hạnh phúc sẽ tùy thuộc vào cách cư xử, lòng quan tâm chia sẻ của ta ngay nơi trần thế này. Xin cho mỗi chúng ta luôn biết quảng đại chia sẻ cơm áo, tình yêu thương với những người nghèo khổ và biết sống liên đới, thân tình với nhau vì tất cả chúng ta đều là anh chị em con cùng một Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở rộng tay con, luôn giữ lại nắm khư khư tất cả, trước cửa nhà có người nghèo đói lả, xin dạy con biết chia sẻ vui lòng. Và xin Chúa mở rộng trái tim con người để con người quảng đại như Chúa, yêu thương như Chúa, cho người nghèo được nâng đỡ yêu thương và nuôi sống nhiều hơn. Amen.
Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một định nghĩa về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên đàng là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là không thể được.
Thật là một câu định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên, hay biết mà giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới. Nó cũng giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại khó được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Ladarô không phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã không oán trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.
Và như thế tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và đường lối của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa. Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên cần thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là luôn ý thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải mở rộng cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được cứu rỗi.
Và trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được cứu độ vì đã biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm, quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ không có một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu…
Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.
14. Giàu có mang lại sự yên ổn giả tạo
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Lc 16: 19-31 Là môn đệ của Đức Kitô, Kitô hữu chúng ta phải cảnh tỉnh trước nguy cơ của tiền tài vật chất và phải biết dùng chúng để làm cho con người và xã hội tràn đầy tình bác ái. Biết xóa đi mọi khoảng cách phân hóa giữa giàu và nghèo trong cuộc sống.
Một lần nữa. Giáo Hội trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu, dạy chúng ta phải cảnh giác chống lại mối hiểm nguy từ tiền của vật chất. Tiền bạc vật chất là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên những sự xấu của con xã hội loài người. Vì mối lợi vật chất mà người ta có thể làm nảy sinh những những xung đột xã hội, chiến tranh, bất công, đói nghèo, phân rẽ cộng đoàn và gia đình … Là môn đệ của Đức Kitô, Kitô hữu chúng ta phải cảnh tỉnh trước nguy cơ của tiền tài vật chất và phải biết dùng chúng để làm cho con người và xã hội tràn đầy tình bác ái. Biết xóa đi mọi khoảng cách phân hóa giữa giàu và nghèo trong cuộc sống.
Tìm Hiểu Lời Chúa: Tin Mừng: Lc 16, 19-31
Dụ Ngôn Người Phú Hộ Xấu Bụng Và Anh Lagiarô Nghèo Khó
Dụ ngôn này quá quen thuộc đối với chúng ta. Bài học của dụ ngôn cho thấy sự hoán đổi tình trạng trong nước Trời nếu không biết quan tâm đến anh chị em nghèo khổ, không biết thực thi tình bác ái với tha nhân, thì chính chúng ta sẽ gánh chịu tình trạng khốn khổ của họ vào ngày phán xét.
Trình thuật dụ ngôn này là của riêng Luca, Trình thuật này rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến nguời giàu, người nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Bản văn này cũng ăn khớp với chủ đề của hầu hết chương 16, mà đây là đoạn kết: xử dụng của cải để được ơn cứu độ.
Dụ ngôn trình bày một mâu thuẫn sống động giữa người phú hộ và anh chàng nghèo khổ Lagiarô: khi sống thì một bên sung sướng thừa mứa của cải nhưng lại thiếu lòng bác ái và không nghe theo lời Chúa và trở nên mù tối trước Chúa và nỗi khốn cùng của tha nhân, còn một bên thì nghèo khó tột cùng, đói ăn, bệnh tật nhưng trông cậy vào Thiên Chúa. Kết cục đời sau đảo ngược hoàn toàn: Người được vào Nước Chúa còn người thì không. Của cải thật là mối nguy hiểm lớn lao.
Số phận của con người sau khi chết liên hệ với việc họ sống và sử dụng của cải trần thế như thế nào. Nếu của cải có thể gây nhiều nguy hiểm thì Thiên Chúa cũng ban cho nhiều phương thế cần thiết để đương đầu và chiến thắng. Vì cứng lòng không chịu nghe lời Thiên Chúa để hối cải nên mới phải chịu số phận bi thảm sau khi chết.
Gợi Ý Suy Niệm
1. Những Khoảng Cách Đời Người: Trong mối tương quan giữa ngườivới người thường nảy sinh những khoảng cách: khoảng cách giữa giàu và nghèo; giữa người quyền thế và dân bần cùng; giữa người tốt và người xấu … Tồn tại những khoảng cách ấy là do lòng người ích kỷ, vô cảm thờ ơ đối với nhau. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu trình bày dụ ngôn người phú hộ xấu bụng và anh hành khất Lagiarô cũng nói lên khoảng cách ấy. Người phú hộ giàu có ngày ngày yến tiệc linh đình, sống trong nhung lụa sa hoa, lại không biết đến một người hành khất đói khổ bệnh tật ngay trước cửa nhà ông, chỉ mong mụn bánh vụn từ ban ăn của ông cho đỡ đói mà không được. Giữa người phú hộ và người hành khất có một khoảng cách có lẽ quá xa khiến hai người gần nhau mà không gặp nhau. Ông phú hộ mù mắt không thấy được, không lưu tâm đến sự hiện diện của Lagiarô. Ông mù tối vì lòng ích kỷ, thiếu bác ái; mù tối vì không quan tâm lắng nghe giáo huấn của Chúa. Và kết thúc bi thảm dành cho người phú hộ ông đã biến khoảng cách giữa ông và Lagiarô thành một vực thẳm khiến hai bên không thể qua lại đựơc nữa: khoảng cách giữa Thiên Đàng và Hoả ngục.
Cuộc sống Kitô hữu ngày nay không thể tránh khỏi những khoảng cách trong cuộc sống. Điều quan trọng là phải biết xóa dần đi những khoảng cách đó bằng nỗ lực sống và thực thi Tin Mừng. Luôn biết yêu thương quan tâm đến nhau, nhất là những anh em đau khổ, hoạn nạn chung quanh. Nếu ngày nay biết sống để xóa bỏ những khoảng cách thì ngày sau tất cả cùng chung hưởng tình yêu và hạnh phúc. Nếu hôm nay chỉ biết khơi rộng khoảng cách thì ngày mai chắc chắn sẽ thành vực thẳm.
2. Chọn lựa một cách sống bảo đảm cho ơn cứu độ: Lối sống của người phú hộ đang được nhiều người tại thế bắt chước. Dụ ngôn còn nói đến những người anh em cũng giàu có, cũng có cùng lối sống với người phú hộ. Anh em ông hôm nay cũng nhiều không ít. Nhiều người đã và đang làm mọi cách để kiếm tiền và thụ hưởng cuộc sống sa hoa bất kể sự đói khổ của người khác, thận chí còn chà đạp lên nhân phẩm, nỗi đau khổ của người khác để mưu tìm ích lợi vật chất cá nhân. Với họ xem ra của cải vật chất là bảo đảm chắc chắn cho cuộc sống. Thế nhưng tất cả đã lầm lẫn, của cải, sự giàu có làm đời sống có thể sung túc nhưng không bền vững, nhất là nếu chỉ biết ích kỷ thụ hưởng quên đi sự đói khổ của anh em chúng quanh thì chắc chắn sẽ gặp bất hạnh đời sau. Chọn lựa bây giờ sẽ đón nhận hậu quả ngày sau. Cần phải biết rằng chỉ có Thiên Chúa; chỉ có việc chọn lựa lối sống Tin Mừng mới bảo đảm cho cuộc đời của mình đựơc hưởng hạnh phúc, tình yêu và sự sống đích thực của Thiên Chúa. Phải biết hối cải để sống đúng đắn. Thiên Chúa luôn hướng dẫn đầy đủ phương thế để chọn lựa một cách sống đúng, luôn ban đủ ơn cần thiết để trung thành với lối sống đựơc chọn lựa. Chỉ vì lòng người quá ích kỷ, chai đá, cố ý chối từ Thiên Chúa mà thôi hay đúng hơn chính họ đã chọn lựa lối sống chạy theo tiền của để rồi cho dù người chết có sống lại nói với họ họ cũng không tin.
Kitô hữu chúng ta hôm nay phải biết lưu tâm đến lời dạy của Chúa. Không nên có một lối sống vô tâm, thờ ơ và ích kỷ. Phải biết quan tâm chọn lựa cuộc sống với Chúa, trong Chúa và vì Chúa để biết từ bỏ những đam mê của cải, những vương vấn thế trần. Mỗi người hãy tự hỏi tôi đang chọn lựa lối sống nào: cuộc sống tại thế với những thụ hưởng ích kỷ hay một cuộc sống bác ái theo những giá trị Tin Mừng.
Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta và mời gọi chúng ta thực thi tình bác ái. Trong sự vâng phục và yêu mến Chúa, chúang ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Hội Thánh luôn vâng theo lời dạy của Chúa Giêsu, Thầy chí Thánh đã và đang hết lòng vì người nghèo qua việc đấu tranh bảo vệ công lý, qua các công việc bác ái từ thiện và qua mọi nỗ lực sống Tin Mừng của mọi thành phần. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn trung thành sống theo Lời Chúa.
2. Ngày nay rất nhiều người đói khổ đang hiện diện trong cuộc sống. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em này luôn có được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều người, nhiều tổ chức thiện nguyện và chính phủ.
3. Yêu thương bác ái với mọi người là giới răn căn bản của Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có một tấm lòng quảng đại, biết quan tâm đến những anh chị em đau khổ, nghèo hèn và bất hạnh. Xin cho mỗi người luôn biết chọn lựa lối sống bác ái Tin Mừng.
* Kết nguyện: Lạy Thiên Chúa là tình yêu. Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chăm sóc cho chúng con. Xin cho chúng con luôn có một tấm lòng rộng mở, một đôi mắt sáng biết quan tâm đến nỗi thống khổ của mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
15. Liên đới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.
Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.
Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.
Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2. Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3. Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4. Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Ích kỷ là một thái độ tiêu cực cần phải kiên quyết loại trừ.
Châm ngôn của những người ích kỷ là: “Đèn nhà ai nấy sáng”, “sống chết mặc bây”, “mạnh ai nấy sống” …
Thói ích kỷ rất tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức. Ngoài ra, thói xấu này còn đưa đến hậu quả đau thương là khiến người ta phải sa vào chốn cực hình như lão phú hộ trong Tin mừng hôm nay.
Khi phải sa xuống hỏa ngục và phải chịu cực hình khốn khổ, lão phú hộ ngước mắt lên trời, nhìn thấy La-da-rô là người ăn xin khốn khổ trước đây nằm trước cổng nhà mình, giờ này đang vui hưởng hạnh phúc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, còn mình thì chịu vô vàn đau khổ trong ngọn lửa hừng hực này, lão cảm thấy uất hận nên than van trách móc Thiên Chúa :
– “Chúa ôi! Con đã làm gì nên tội mà Chúa đày đọa con trong chốn cực hình này? Con chưa hề trộm cắp hay cướp giật của ai. Con cũng chưa từng đánh đập, chém giết người nào. Áo của con, con mặc; cơm của con, con ăn; con hưởng dùng những sản phẩm con tạo ra từ mồ hôi nước mắt của mình… Con chẳng đụng chạm đến ai. Thế thì tại sao Chúa lại để con phải sa vào chốn cực hình này? Có oan cho con không chứ? Chúa là Đấng công bình chính trực, xin đừng xử oan cho con!”
Từ trời cao, có tiếng Chúa vọng lại:
“Ta không bao giờ xử oan cho bất cứ ai. Sở dĩ con phải sa vào chốn cực hình khốn khổ là vì con không biết xót thương và cứu giúp những kẻ khốn cùng đang sống chung quanh con, cụ thể là con chẳng hề thương xót, cứu giúp La-da-rô.”
– “Lạy Chúa! Không xót thương và cứu giúp người khốn khổ là một tội ác hay sao?”
– “Đúng! Đó là tội nặng đưa đến án phạt đời đời.”
– “Thế thì tại sao Chúa không dạy cho con biết trước điều này để con khỏi vi phạm, để con khỏi sa vào chốn cực hình này?”
– “Ta đã dạy rõ điều này qua Tin mừng Mát-thêu, trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” mà con đã nghe đọc nhiều lần rồi” (Mt 25, 31-45).
Thế rồi lão phú hộ hồi tâm lại. Khung cảnh phán xét cuối cùng hiện ra trong đầu óc lão như trong một đoạn phim ngắn. Lão nhìn thấy Chúa Giêsu uy nghi, vinh hiển từ trời ngự xuống phán xét loài người trong ngày sau hết. Lão thấy các thiên thần Chúa tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ. Những người lành được xếp đứng bên phải Chúa thì hớn hở vui mừng tràn trề hoan lạc hạnh phúc, còn những kẻ dữ được xếp vào bên trái thì âu sầu phiền não, cúi mặt xuống đất chẳng dám ngửng đầu lên. Dữ dội nhất là những lời kết án nghiêm khắc, đanh thép, lạnh lùng của Chúa Giêsu đối với những người bị xếp vào bên trái vọng lại bên tai lão:
“Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” và tiếng Chúa kết luận: “Khi các ngươi không thương xót, cứu giúp người khác là các ngươi đã không cứu giúp Ta.” (Mt 25, 41-43).
Đến đây, lão không thể biện minh được nữa. Lão chịu khổ hình như thế này là đáng tội rồi, vì khi còn ở trần gian, ngày nào lão cũng nhìn thấy La-da-rô đói khát, rách rưới, ghẻ chốc đầy người đang mong chờ chút cơm thừa canh cặn nhà lão mà lão nào có quan tâm, cũng chẳng hề động lòng thương xót. Thế thì Chúa đã xử đúng theo điều Chúa đã dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng rồi, không thể kêu ca than trách Chúa được nữa. Đời lão như vậy là khốn cùng rồi, chẳng còn cách nào cứu vãn được nữa.
Bấy giờ, lão chỉ còn một ước vọng, là liệu cách nào cho con cháu và anh em của lão đang còn sống ở trần gian, biết được bài học mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng là: Những ai không biết xót thương cứu giúp người cùng khổ là một trọng tội và phải gánh lấy hậu quả vô cùng đau khổ là phải chịu cực hình trong hỏa ngục như lão đang phải chịu bây giờ.
Nhưng lão cũng biết rằng chắc chắn anh em và con cháu của lão ở trần gian cũng không quan tâm đến bài học này đâu, ai nấy chỉ nghĩ đến mình thôi, chỉ chăm lo cho mình thôi, chẳng biết quan tâm giúp đỡ những người cùng khổ đâu và rốt cuộc cũng rơi vào chốn cực hình như lão mà thôi…
Lạy Chúa Giêsu,
Sở dĩ lão phú hộ phải sa vào chốn cực hình là vì lão sống ích kỷ, vô cảm vô tâm đối với bao người bất hạnh và chẳng xót thương cứu giúp người khốn khổ bần cùng.
Xin cho chúng con đừng đi theo vết chân của lão, để mai sau khỏi phải chịu đau thương khốn khổ trong chốn cực hình.
17. Quy luật của sự sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tội của lão phú hộ là tội gì? Xem ra, lão chẳng làm gì nên tội. Lão chẳng trộm cắp, cướp giật của ai; lão chẳng đánh đập hay chửi mắng La-da-rô…
Vậy tại sao lão lại sa vào chốn cực hình? Hay là vì lão quá giàu? Giàu đâu phải là tội!
Thật ra, lão phú hộ phải sa hoả ngục không phải vì lão giàu có, không phải vì lão đánh đập hay chửi mắng La-da-rô, mà chỉ vì lão là người vô cảm và ích kỷ, chỉ chăm lo bản thân mình mà không quan tâm đến người khác, chỉ biết thu tích cho riêng mình mà không biết chia sớt cho tha nhân. Tội của lão là tội ích kỷ và chính sự ích kỷ nầy là nguyên nhân khiến lão phải chịu đau thương khốn đốn trong chốn cực hình.
Quy luật của sự sống là có nhận có trao. Ngừng nhận và ngừng trao thì phải chết. Quy luật sống trong xã hội là mình sống cho mọi người và mọi người sống cho mình. Nếu ai đi ra ngoài quy luật đó là tự hại mình và chuốc lấy cái chết.
Trước hết, ta thử xem quy luật nầy được áp dụng trong phạm vi nhỏ là cơ thể. Để duy trì sự sống cho thân thể, tất cả mọi thành phần trong thân mình đều phải vận hành theo quy luật nhận và trao.
Quả tim sau khi đã nhận được máu thì liền bơm máu cho khắp châu thân, nhờ đó toàn thân được sống và lớn mạnh. Nếu có ngày nào quả tim tỏ ra “ích kỷ”, không chuyển máu nuôi toàn thân mà chỉ giữ lại cho riêng mình, thì đó là ngày tận cùng của nó và cũng là ngày hấp hối của toàn thân.
Hai lá phổi của chúng ta cũng thế. Phổi liên tục tiếp nhận dưỡng khí và liên tục trao ban. Ngày nào phổi “tham lam” cứ giữ khư khư số lượng dưỡng khí đã nhận được mà không chịu phát ban, đó là ngày tận số.
Nói chung, các cơ quan trong cơ thể muốn tồn tại và phát triển thì chúng phải tuân theo quy luật của sự sống là biết nhận và biết trao.
Trên bình diện rộng lớn hơn, mỗi cá nhân là một thành phần trong một thân thể lớn lao là nhân loại. Vì thế, nếu mỗi chúng ta không trao ban chia sớt những gì mình nhận được cho cộng đồng xã hội, thì số phận chúng ta như số phận của “quả tim ích kỷ”, của “lá phổi tham lam” đề cập trên đây. Có nhận, có trao là sống. Ngừng nhận, ngừng trao là chết.
Lão phú hộ trong Tin Mừng hôm nay chưa hiểu được lẽ đời, chưa hiểu được quy luật của sự sống là nhận và trao, nên lão chỉ biết nhận, biết tận hưởng một cách ích kỷ mà không biết sớt chia cho chàng La-da-rô khốn khổ bần cùng, do đó sau nầy lão phải lâm vào cảnh đau thương khốn đốn.
Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe đi, và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác… Ngoài ra lại còn được đón nhận vô vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải cống hiến, phải biết trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải biết phục vụ người khác.
Không phải chờ đến khi trở thành tỷ phú hay trở nên giàu có như lão phú hộ trên đây, ta mới tính đến chuyện chia sớt của cải mình cho người khác; nhưng ngay hôm nay, chúng ta vẫn có bổn phận cống hiến cho người khác những ân huệ Chúa ban cho mình, như dùng thời gian, công sức, tài năng Chúa ban để phục vụ những người chung quanh, để góp công xây dựng xóm làng.
Nếu chúng ta chỉ khư khư giữ lấy những ân huệ ấy cho riêng mình mà không biết cống hiến chia sẻ cho nhau, thì có khác gì quả tim không bơm máu, khác gì buồng phổi không chuyển trao dưỡng khí, hay dạ dày không cung cấp dinh dưỡng… Làm như thế là chúng ta cũng đang đi vào vết xe của lão phú hộ, và chắc chắn mai sau sẽ cùng chịu chung số phận với lão mà thôi.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Chúa khai mở lòng trí để chúng con hiểu được sự thật lớn lao là mỗi người là một chi thể trong thân thể lớn lao là nhân loại; vì thế, mọi người đều liên đới mật thiết với nhau như những cơ quan trong cùng một thân mình. Sự thật nầy sẽ giải thoát con người khỏi nếp sống ích kỷ, vô cảm vô tâm, nhưng sẽ thôi thúc mỗi người biết sống cho người khác, biết quan tâm xây dựng phúc lợi cộng đồng. Amen.
18. Cho thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó, một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền cởi đôi ủng để trên bờ ruộng, cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc giận người nông dân, nhưng người giám hộ nói với cậu rằng: “Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem thử ông ta sẽ làm gì?”
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền trong đó ông đã vội qùy xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp ông trong lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh.
Nhìn được tất cả những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc. Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Vâng, có ai đó nói rằng: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”. Phúc đức được tích luỹ nhờ trao ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế nên, người có phúc là người biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng đại, biết chia sẻ cho người cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết cho đi, cậu mới hiểu được đâu là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới của những kẻ quyền qúy, những kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái khổ đau của cuộc đời “bán lưng cho trời” nơi giai cấp nông dân nghèo hèn. Cậu càng không cảm nghiệm được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi do công khó mình làm ra. Có lẽ, lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời của người nông dân khi nhận được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được giá trị của sự trao ban. Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy được phúc đức cho đời này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời không có sự trao ban. Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết nghĩ cho mình và sống cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui của sự trao ban. Kẻ vô phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức cho cuộc đời bằng hành vi bác ái yêu thương.
Bài Phúc âm hôm nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo khó thì ngược lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu vắng tình người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời của họ tuy cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách biệt với nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ đói rách bần cùng. Bài phúc âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không khuyến khích sống nghèo đói. Bài Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em. Giầu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời bất hạnh của đồng loại. Phúc âm không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm lơ khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến thiếu trách nhiệm liên đới với tha nhân. Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành phúc đức, thế mà ông đã bỏ lỡ cơ hội mua lấy phúc đức đời sau.
Song le, Lagiarô không phải vì nghèo mà lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không thất vọng về cuộc đời. Anh không oán trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc sống vốn dĩ đầy khó khăn đối với anh. Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng, làm bạn với những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi khổ đau đời này và an hưởng hạnh phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người xưa có câu: “Phú nhân bất nhân – Bần bất nghĩa”. Giầu có hay khinh người, và nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên đàng nếu không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà cha ông ta đã từng khuyên con cháu mình “đói cho sạch rách cho thơm”, và “không ai giầu có ba đời”, thế nên cần phải biết sống có đức, để đề phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là người kytô hữu phải biết thể hiện đức ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù giầu hay nghèo mỗi người đều phải biết sống vì người khác, và cho người khác. Dù sang hay hèn vẫn phải toả lan đức ái trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như thánh Phaolô tông đồ đã nói: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc. Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Đức ái sẽ giúp chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo cho hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đức ái sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân và tiến vào bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ thưởng phạt chúng ta tùy theo mức độ thể hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay. Amen.
19. Khi con người vô cảm xã hội sẽ sao?
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Ngày nay chúng ta hay nói đến hai chữ vô cảm. Vậy vô cảm là gì? Thưa, vô cảm chính là sự dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những cuộc sống xung quanh. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại…
Trong vụ thảm sát tại Đan Phượng- Hà nội đã cho chúng ta thấy rõ một xã hội vô cảm đến lạnh lùng.
Ngày 1/9, đối tượng Nguyễn Văn Đông đã cầm dao sang truy sát cả nhà em trai của mình. Đáng nói, sự việc xảy ra có nhiều người chứng kiến nhưng không ai dám xông vào can ngăn. Khi em trai Đông đã gục xuống, Đông vẫn tiếp tục hạ sát. Đông còn tiếp tục vung dao chém hết thẩy 5 người và 4 người đã chết tại chỗ! Tại sao cả một khu phố không hô hào nhau bảo vệ người làng của mình? Tại sao lại hèn nhát vậy? Nếu nói rằng hung thủ quá hung hãn, vậy thử hỏi nếu người bị hại là người thân của mình có vô cảm vậy hay không? Có lẽ, nếu đó là người thân của ta, thái độ của ta sẽ khác và sẽ không vô cảm như vậy.
Nhưng đáng tiếc, bệnh vô cảm này dường như đã trở thành một lối sống thiếu tình liên đới của người Việt Nam hôm nay.
+ Đã nhiều lần chúng ta từng bắt gặp một người ăn xin, rồi liền quay mặt đi một cách lạnh lùng?
+ Đã nhiều lần chúng ta từng lướt qua một vụ tai nạn với ý nghĩ “Mình đang vội mà. Sẽ có người lo thôi!”
+ Đã nhiều lần chúng ta từng chứng kiến những vụ chồng đánh vợ, nữ sinh đánh nhau, vụ móc túi trên xe bus,…mà chỉ đứng nhìn? (thậm chí móc điện thoại ra quay để có bài đăng facebook cho tối nay!)
Có lẽ điều mà giáo dục hôm nay cần quan tâm đó là xây dựng một xã hội đồng cảm và chia sẻ. Một xã hội mà nơi đó mọi người biết yêu thương nhau, giúp đỡ và sẻ chia cùng nhau. Một xã hội mà nơi đó mọi người biết sống tử tế, vị tha và quan tâm tới nhau hơn.
Thời Chúa Giêsu, có lẽ cũng không thiếu những loại người vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Họ vô cảm đến nhẫn tâm bước qua một phận người lây lấy trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-cô. Họ có “rất nhiều của cải” nhưng lại không dám “bán những gì (họ) có mà cho người nghèo”. Sự vô cảm đó còn len lỏi đến cả những môn đệ của Chúa khi họ xin Chúa giải tán đám đông để tự đi mua thức ăn.
Thầy Giêsu đã nhẹ nhàng nhắc nhở sự vô cảm nơi con người qua dụ ngôn: “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó”. Ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó tuy “rất gần mà lại xa”! Họ rất gần nhau, gần đến nỗi chỉ cách “một cái cổng nhà”, thế nhưng lại rất xa, xa bởi chính “sự-vô-cảm” nơi ông nhà giầu.
Sự vô cảm đến độ hằng ngày ông vẫn ăn mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình và để mặc cho anh Lazaro nghèo khó : “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà của ông” sống lây lất từng ngày.
Thế nhưng, cuối câu chuyện là một sự đảo ngược lạ thường. Ông nhà giàu lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta ! Trước kia Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Thì hôm nay ông “thèm” được Lazaro : “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát, vì ở đây ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
Như vậy, sự giầu có không là tội mà sự vô cảm mới chính là nguyên do dẫn ông nhà giầu chịu cảnh đau khổ ở đời sau. Ông đã bỏ rơi đồng loại trong khi ông có khả năng giúp đỡ họ. Ông đã phớt lờ những mảnh đời bất hạnh bên cạnh sự giầu có xa xỉ của ông. Hậu quả là ông cũng bị mọi người lương thiện nhân ái bỏ rơi ông trước cửa Nước Trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói. Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước địa vị gì, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không? Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những anh em nghèo khó. Xin đừng để chúng con vô cảm mà bàng quan trước những phận người khổ đau. Amen.
20. Xã hội dửng dưng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Xã hội hôm nay đang phát triển. Phát triển rất nhanh về nhiều mặt. Sự phát triển cũng đem lại cho con người no ấm hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng điều đáng tiếc lại đẩy tình người xa rời nhau đôi khi dửng dưng với nhau.
Trên quốc lộ 1A người ta thấy một bé gái tên là Hồ Thị Thu Hương bị tai nạn nằm quằn quại trên vũng máu. Trên đường có rất nhiều xe container và một số xe máy qua lại. Nhưng tất cả đều vội vã chỉ ngó qua rồi đi. Xa xa có vài người đứng lại để bàn tán mà không ai đến gần giúp nạn nhân. Rất may có hai sinh viên đã ra tay nghĩa hiệp đưa em đi cấp cứu trong sự bàng quan của cả xã hội.
Khi video này được đăng người ta thấy có hàng nghìn lượt bình luận trên facebook, hàng trăm lượt chia sẻ và bình luận đã xuất hiện. Điều tôi muốn hỏi bạn và tôi đã bao nhiêu lần mình từng thờ ơ với những giây phút hoạn nạn, khó khăn của người khác? Bao nhiêu lần bạn có thể giúp đỡ mà vẫn khoanh tay đứng nhìn? Phải chăng chính chúng ta cũng quá vô cảm với cuộc sống quanh mình?
Rồi hằng ngày trên báo đài chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều trường hợp có người bị đánh, bị đâm ngay chốn đông người nhưng ai cũng bận rộn chẳng quan tâm đến người anh em đang bị nạn. Gần đây trên Facebook lan truyền một video do một diễn viên Ấn Độ đóng. Anh giả trang thành một người bị nạn trên đường. Đôi tay yếu ớt giơ lên cầu cứu người qua lại trên đường. Gần một tiếng đồng hồ mới có người đến xem thử, hỏi han để giúp đỡ…
Điều đáng sợ là con người hôm nay không chỉ sống dửng dưng với nhau mà đôi khi còn tàn bạo với nhau. Vì một miếng đất có giá trị, anh em sẵn sàng bỏ qua tình máu mủ ruột thịt, tranh chấp nhau từng mét vuông, có trường hợp còn đánh chửi, xô xát và phải lôi nhau ra tòa. Có người đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ để rồi bỏ rơi ngay cả những người từng “mang nặng đẻ đau” ra mình. Có người thấy cái sai, cái xấu, cái ác không dám lên án, đấu tranh, thậm chí còn bao che, tiếp tay, dung dưỡng cho nó ngang nhiên tồn tại và lộng hành. Có người thấy cảnh hoạn nạn, éo le của người khác, không một lời hỏi han, động viên, chia sẻ, mà còn có thái độ miệt thị, khinh rẻ. Có người sống quá xa hoa, lãng phí, nhà cao cửa rộng, tiệc tùng linh đình trong khi xung quanh mình còn bao người phải gom góp, chắt chiu từng đồng bạc lẻ để có bát cơm, tấm áo đời thường và nuôi con ăn học. Đáng buồn hơn, có người đã tìm mọi cách để ăn chặn, ăn bớt…, ngay cả đối với những người nghèo, trẻ mồ côi cũng bị lợi dụng để trục lợi cho bản thân…
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu dường như Ngài đã sống cho người nghèo. Ngài đã từng khẳng định sứ vụ Thiên Sai của Ngài là đến với người nghèo, để nâng đỡ, an ủi, cứu giúp; xây dựng bình an, giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ…
Khi nói như thế, Đức Giêsu công khai đứng về phía người nghèo, người bị bỏ rơi và bị áp bức. Đây là lựa chọn và sứ vụ của Ngài khi đến trần gian và Ngài cũng đòi buộc các môn đệ của Ngài cũng phải sống cho người nghèo, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy”.
Hôm nay qua dụ ngôn Lagiaro, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với nhau. Tình liên đới không cho phép chúng ta dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh bên cạnh chúng ta. Tình liên đới luôn đòi buộc chúng ta nâng đỡ, bảo vệ và cứu giúp anh em. Tình liên đới luôn mời gọi chúng ta chia sẻ với những anh em nghèo khó để mai sau chính họ sẽ dẫn chúng ta vào hưởng hạnh phúc Nước trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói. Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước hay địa vị, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không? Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những anh em nghèo khó. Xin đừng bao giờ vô cảm mà bàng quan trước những phận người khổ đau. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vừa qua, một vụ kiện khiến dư luận vô cùng phẫn nộ là việc cụ Nguyễn Thi Th. (SN 1922, ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc) bị chính người con trai cả đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ ở nhà anh ta.
Cụ Th. từ khi chồng mất vào năm 1997 đã về sống cùng với người con trai cả là Đỗ Xuân Thuận. “Nói là ở cùng vậy nhưng tôi vẫn ăn riêng với gia đình con. Mọi việc trong sinh hoạt cá nhân, tôi đều tự làm lấy cả”, cụ Th. nói.
Đến một ngày năm 2005, trong nhà xảy ra mâu thuẫn, bức xúc, ông Thuận quay sang cạn tình, cạn nghĩa làm đơn kiện cụ Th. ra tòa và đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ Th. sống cùng với vợ chồng ông.
Tổng số tiền này là hơn 146 triệu đồng. Ông còn đòi tiền công trông nom nhà cửa, vườn tược của cha mẹ và bộ đỉnh đồng trị giá 4 triệu đồng mà cụ Th. đang dùng thờ cúng chồng và con trai út đã hy sinh.
Tuy nhiên, hành động bất hiếu đó của ông Thuận đã bị cả hai cấp xét xử huyện Tam Đảo bác đơn và bị dư luận lên án.
Có phải vì nghèo đói mà con người thành ra bỉ ổi đánh mất tình người? Có phải vì tiền mà con người trở thành kẻ ti tiện tiểu nhân? Có lẽ cái nghèo hay giầu sang không phải là nguyên nhân gây nên khổ đau mà tất cả đều bắt đầu từ khi tình người đã mất. Vì khi tình người đã cạn thì họ dễ dàng vô cảm và vô tâm với nhau. Đây là thảm kịch không chỉ xảy ra cho gia đình bà cụ Th ở Tam Đảo mà dường như cho rất nhiều gia đình quanh chúng ta.
Có biết bao gia đình cạn tình nên cũng cạn nghĩa với nhau, vợ chồng bỏ nhau, con cái ly tán. Có biết bao người đã vô cảm trước nỗi thống khổ của các thành viên trong gia đình nên vẫn vô tâm chơi bời, nghiện ngập, lười biếng thiếu trách nhiệm với gia đình. Có biết bao phận người vẫn cô đơn thất vọng ngay trong mái nhà của mình. Họ bị bỏ rơi, bị khinh khi ngay giữa những người thân của mình.
Có một bà mẹ đã tâm sự với tôi: cha biết không, chỉ vì nghèo đói mà con cái chẳng đứa nào về thăm bao giờ! Có một người chồng bại liệt đã than: con nằm đây như là một cái gai trong mắt vợ con, chẳng ai muốn chăm sóc con.
Ky-tô giáo là đạo của yêu thương. Người ky-tô hữu không thể vô cảm và càng không bao giờ được phép vô tâm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Giầu sang – nghèo khó không quan trọng, điều quan yếu là biết sống tình liên đới sum họp với nhau. Đừng vì giầu có mà bỏ rơi đồng loại, và cũng đừng vì nghèo khó mà sống hèn hạ với tha nhân.
Thời Chúa Giêsu, có lẽ cũng không thiếu những loại người vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Họ vô cảm đến nhẫn tâm bước qua một phận người lây lấy trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-cô. Họ có “rất nhiều của cải” nhưng lại không dám “bán những gì (họ) có mà cho người nghèo”. Sự vô cảm đó còn len lỏi đến cả những môn đệ của Chúa khi họ xin Chúa giải tán đám đông để tự đi mua thức ăn.
Có lẽ để đánh thức sự vô cảm nơi con người thời đại của mình, Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn: “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó”.Ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó tuy “rất gần mà lại xa”! Họ rất gần nhau, gần đến nỗi chỉ cách “một cái cổng nhà”, thế nhưng lại rất xa, xa bởi chính “sự-vô-cảm” nơi ông nhà giầu.
Sự vô cảm đến độ hằng ngày ông vẫn ăn mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình và để mặc cho anh Lazaro nghèo khó: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà của ông” sống lây lất từng ngày.
Thế nhưng, cuối câu chuyện là một sự đảo ngược lạ thường. Ông nhà giàu lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta! Trước kia Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Thì hôm nay ông “thèm” được Lazaro: “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát, vì ở đây ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
Như vậy, sự giầu có không là tội mà sự vô cảm mới chính là nguyên do dẫn ông nhà giầu chịu cảnh đau khổ ở đời sau. Ông đã bỏ rơi đồng loại trong khi ông có khả năng giúp đỡ họ. Ông đã phớt lờ những mảnh đời bất hạnh bên cạnh sự giầu có xa xỉ của ông. Hậu quả là ông cũng bị mọi người lương thiện nhân ái bỏ rơi ông trước cửa Nước Trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói. Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước địa vị gì, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không? Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những anh em nghèo khó. Xin đừng để chúng con vô cảm mà bàng quan trước những phận người khổ đau. Amen.
22. Chia sẻ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Truyện kể: Nhà Vua kia không có con nối dòng, đã niêm yết mời những bạn trẻ điền đơn dự xét để được nhận làm con nuôi trong hoàng tộc. Hai phẩm chất cần có là mến Chúa và yêu tha nhân. Có một cậu bé nhà nghèo muốn điền đơn, nhưng cậu không có thể, vì cậu ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Được tin, cậu đã cố gắng làm việc chăm chỉ kiếm tiền mua bộ đồ mới và vội vã lên đường tìm dịp may để được nhận nuôi trong gia đình của vua. Tuy nhiên, đi dọc đường, khi gặp một người nghèo bên vệ đường đang chết lạnh. Anh bạn trẻ tỏ lòng cảm thương và tráo đổi bộ quần áo cho lão ăn xin. Thật khó khăn cho anh bạn trẻ này để được diện kiến nhà vua, vì bây giờ anh chỉ có bộ quần áo rách tả tơi. Vì đã đi được quãng xa, anh nghĩ phải cố gắng hoàn thành được hành trình. Khi anh tới dinh thự của nhà Vua, mặc dầu bị khinh rẻ và cười chê bởi các cận thần của vua. Cuối cùng anh được diện kiến Vua. Anh thật ngạc nhiên thấy vua chính là người ăn xin bên vệ đường và đang mặc bộ quần áo mà anh đã tặng cho ông. Nhà Vua bước xuống khỏi ngai vàng, ôm lấy anh bạn trẻ và nói: Chào đón, hỡi con của ta.
Sự giầu sang phú túc là ân phúc Chúa ban. Người sang giầu hay nghèo hèn cũng chẳng khác gì nhau về sứ mệnh. Người giầu có nỗi khổ của người giầu, kẻ nghèo có nỗi đau của kẻ nghèo. Cách thế tìm kiếm và sử dụng của cải đời này mới là điều quan trọng. Người đời thường chúc nhau làm ăn được phát tài phát đạt, của cải đầy dư, an cư lạc nghiệp và gia đình hạnh phúc. Của cải sinh lợi là dấu hiệu được chúc phúc. Giầu có không phải là cái tội, cái tội do tâm ý con người. Tiên tri Amos đã lên tiếng cảnh cáo những người giầu sang phú quí tự kiêu đã hoang phí tài sản: Đây Chúa toàn năng phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion và tự kiêu trên núi Samaria”(Am 6, 1a). Những người giầu có hay lạm dụng quyền thế để chèn ép những người bé nhỏ thấp kém. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa luôn đứng về phía những người nghèo bị đối xử bất công.
Người giầu được hưởng thụ mọi sự sung sướng trên đời. Một số người giầu còn dung dưỡng xác thịt thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Họ được hưởng nếm mọi của ngon vật lạ. Sự thụ hưởng qúa độ sẽ làm cho thân xác ươn lười, tinh thần yếu đuối và con người hư hỏng. Amos vạch trần những thói đời xa hoa: Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn (Am 6, 4). Chúng ta biết rằng không phải ăn nhiều, uống nhiều và hưởng thụ nhiều là hạnh phúc. Bất cứ cái gì cũng có cái giá phải trả. Ăn nhiều sẽ béo phì, uống quá độ sẽ xay sưa và hưởng thụ nhiều sẽ gây bệnh hoạn yếu liệt. Thật vậy, chẳng béo bở gì khi ngày nào cũng có yến tiệc linh đình. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần có những bữa tiệc vui, những món ngon và rượu nồng để vui thỏa lòng người.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông Phú hộ giầu có và người hành khất Ladarô nghèo đói để giúp chúng ta suy nghĩ về cách đối xử với đồng loại. Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, còn Ladarô bệnh hoạn đói khổ ngồi cạnh cổng và chẳng ai đoái hoài. Một người thì sung sướng, tiệc tùng vui vẻ và hưởng phước cuộc đời. Một người cô thân cô thế, không nơi cậy dựa và chịu thiệt thòi khổ đau. Khi mãn cuộc đời dương thế, mỗi người đi theo một hướng. Kẻ được chúc phúc, người bị luận phạt. Vậy cuộc sống của người giầu và người nghèo có liên đới với nhau. Không ai có thể nói rằng tôi chỉ có nhiệm vụ lo cho chính tôi và người hàng xóm thì mặc kệ họ. Không phải thế, chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống hỗ tương nhau. Cùng giúp nhau hoàn thành sứ mệnh của đời người.
Nhìn xem gương của người phú hộ, dụ ngôn không nói về cách thế làm giầu của ông. Cũng không nói ông phạm tội ức hiếp, khinh bỉ người nghèo hay làm thiệt hại ai điều gì. Ông xây tường cao vui hưởng cuộc sống trong sang giầu cho riêng mình. Có một điều là ông thiếu trách nhiệm với người hàng xóm. Mắt ông không nhìn thấy được sự khổ đau của người khác. Tâm ông không cảm được nỗi cô đơn sầu khổ của người bên cạnh. Ông đã không đoái hoài đến số phận đen đủi hẩm hiu của tha nhân. Kết qủa của cuộc đời, khi phải đối diện với sư thật: Abraham nói lại: ‘Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ (Lc 16, 25). Phần thưởng không nằm ở sự giầu sang hay nghèo hèn, mà là thái độ đối với tiền của và trái tim biết cảm thông chia sẻ với tha nhân.
Sự giầu có tiền bạc của cải có thể làm chúng ta bị mù lòa. Khi giầu có, chúng ta dễ quên mất sự nghèo khổ. Khi chúng ta đi ngang qua người ăn xin, tại sao chúng ta thường ngó sang hướng khác? Có lẽ vì chúng ta sợ tiếng nói của lương tâm làm phiền. Chúng ta giả vờ như không nhìn thấy họ. Thường thì người nghèo không van xin, nhưng họ có đôi mắt với cái nhìn rất tha thiết. Có khi người ăn xin giơ tay van nài và chúng ta phải rất tôn trọng khi bố thí. Đừng quăng ném tiền cắc vào cóng long của người ăn xin như là vất bỏ một vật gì. Thái độ cho đi quan trọng hơn qùa được cho. Có lần mẹ Terêxa đã nói: Bệnh ghê tởm nhất của thế giới hôm nay là cảm thấy bị bỏ rơi và sự dữ lớn nhất trong thế giới là thiếu vắng tình yêu và tỏ ra dửng dưng với những nhu cầu cần thiếu của tha nhân.
Chúng ta không cần đợi người chết hiện về để nói với chúng ta cách thế sống đạo. Lời Chúa dạy quá đủ để chúng ta học hỏi và thi hành. Ông phú hộ xin Abraham cho người đã chết về loan tin. Abraham đáp rằng: ‘Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài’. (Lc 16, 29). Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng dù chỉ một bát nước, chúng ta làm cho người nghèo vì danh Chúa, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Đôi khi chúng ta dửng dưng và nghĩ rằng dụ ngôn Chúa nói là để dành cho những người giầu sang phú quí. Còn chúng ta là những người nghèo, người lao động đầu tắt mặt tối và còn đang hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, lấy đâu ra mà giúp đỡ người này người kia chứ. Biết rằng chúng ta không giầu có về tiền tài của cải, chúng ta vẫn có cái để chia sẻ mà. Chúng ta có một trái tim đấy ắp tình thương. Chia sẻ sự cảm thông, sự hiểu biết và tình người còn quan trọng hơn. Một nụ cười, một lời nói nhẹ nhàng, một thái độ khoan dung và sự cảm mến cũng đủ nguôi lòng người đang trong cơn sầu khổ.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là mộn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành (1Tm 6, 11). Các nhân đức là những bông hoa thơm hương tô điểm cho đời sống đức tin. Các đức tính tốt làm cho đời sống đạo được trổ sinh hoa trái. Đức ái là cao trọng vì đức ái sẽ mở cửa tâm hồn giúp chúng ta đến với tha nhân. Tha nhân giúp chúng ta tiến tới trên con đường trọn lành. Không phải những người giầu có đưa chúng ta tới cửa thiên đàng, nhưng nhờ chính những người bé nhỏ, thấp kém, nghèo hèn và khổ đau. Họ là những ân nhân quí báu nhất của chúng ta trong cuộc hành trần thế này.
Bước vào cuộc đua, chúng ta không thể bỏ cuộc. Phải chiến đấu anh dũng cho đến cùng đường. Đừng khi nào nản chí về việc bác ái giúp người. Bao lâu Thiên Chúa còn ban ân huệ cho chúng ta, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội chia sẻ khả năng, thời giờ và của cải của chúng ta với người chung quanh. Người nghèo là hiện thân của Chúa Giêsu giữa dòng đời. Chúng ta đừng khinh rể họ, vì họ đang được chia sẻ sự nghèo hèn thiếu thốn của Chúa Kitô. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng (1Tm 6, 12).
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con quá nhiều hồng ân. Nhiều khi chúng con cứ khư khư giữ lại làm giầu cho chính mình mà quên những nhu cầu cần thiết của anh chị em chung quanh. Xin cho con biết mở mắt, mở tai và mở rộng tâm hồn để cùng chia sẻ niềm vui với mọi người.
23. Cái không ngờ của đời người
(Suy niệm của Lm JB. Lê Ngọc Dũng)
Dụ ngôn người giàu có và người ăn mày Lazaro cho ta thấy có sự không ngờ trong cuộc đời, của vận mệnh con người.
Thứ nhất, đó là sự không ngờ về phía anh nhà giàu. Anh giàu nức vách đổ tường, ngày ngày yến tiệc linh đình. Anh không ngờ rằng mình bị rơi xuống hỏa ngục, chịu cực hình muôn thuở.
Anh không ngờ vì thấy mình đâu có làm gì bất chính, gian manh, hay bóc lột người khác. Anh giàu, có thể là vì anh đã có tài năng, đã đầu tư và làm ăn thành công, có thể là vì anh được hưởng gia tài kếch xù từ cha mẹ, có thể là vì anh đã tìm thấy được hũ vàng ở đâu đó, có thể là vì anh trúng số độc đắc…
Dụ ngôn không nói gì đến những hành vi gian trá, bóc lột hay cậy thế cậy quyền của người giàu có. Vì vậy, giả thiết anh là người vô tội nếu xét đến những hành vi tội lỗi, gian ác.
Anh giàu có thì anh có quyền sử dụng tiền bạc mình, đâu có gì sai trái! Anh mở tiệc đãi bạn bè hàng ngày thì đâu có gì là xấu! Và nếu có tội ăn uống, chè chén say sưa hay ham mê ăn uống thì cũng là tội nhẹ nhẹ thôi, chứ làm gì mà phải sa hỏa ngục?
Thứ hai, là sự không ngờ về phía anh ăn mày Lazarô, một người nghèo, nghèo mạt rệp. Anh không ngờ vì qua đời sau, anh được lên Thiên đàng, được thiên thần đem vào lòng tổ phụ Abraham, được hạnh phúc viên mãn. Nhìn lại cuộc đời dương thế, anh đâu có làm gì để tạo nên công phúc gì lớn lao. Dụ ngôn đâu có kể ra việc bác ái, xả thân hy sinh phục vụ cho người khác của anh. Thế mà, anh lại được hưởng phúc Thiên đàng; mà lại hạnh phúc đời đời cơ chứ!
Thứ ba, đó cũng là sự không ngờ đối với những người Do Thái.
Tại sao vậy? Vì theo truyền thống của họ, của cải giàu sang là bằng chứng cho sự chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chẳng hạn như trường hợp ông Job, khi bị nghèo khổ bệnh tật ghẻ lỡ, thì bà vợ và các bạn hữu đã coi ông ta bị chúc dữ, bị Chúa phạt.
Như vậy, cả hai kẻ giàu, nghèo đều thấy không ngờ, và hầu hết những người Do Thái đều thấy không ngờ! Tại sao ta có thể khẳng định là họ không ngờ như vậy? Thưa, bởi vì, chính anh nhà giàu đã xin Chúa cho người chết hiện về để báo cho anh em mình biết để mà tránh cái hỏa ngục không ngờ này.
Vậy thì, ý Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì qua dụ ngôn?
Ít ra là có ba giáo huấn của Chúa, gây nên sự không ngờ, được nhận ra trong dụ ngôn này.
Không ngờ thứ nhất, là có đời sau. Cũng nên biết thời Chúa Giêsu, người Do Thái chưa có niềm tin vào hạnh phúc đời sau, chưa tin vào sự sống lại, chỉ có tin vào Lâm bô, một nơi ở đời sau mà chưa rõ ràng nó là gì. Trong những người Do Thái, nhóm Biệt phái thì tin có đời sau, nhưng nhóm Saduceo lại không tin và họ đã tranh cải nhau kịch liệt.
Giáo huấn về đời sau đồng thời cũng sửa lại quan niệm Do Thái về của cải vật chất đời này. Chúa Giêsu cho họ thấy rằng của cải giàu sang, không là bằng chứng cho sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ, bệnh tật không là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa hay bị chúc dữ.
Quan điểm chung của loài người cũng thường bị sai lầm như những người Do Thái. Khi thấy mình được sinh ra đẹp trai, đẹp gái, khỏa mạnh, có nhiều tài năng, giàu có, sang trọng, có địa vị cao trong xã hội … thì nghĩ rằng mình có phúc, mình vô tội, mình được trời thưởng công. Khi thấy người khác bị bệnh tật, nghèo khổ, gặp tai nạn, phải đi ăn xin…, thì nghĩ rằng người ấy vô phúc, và có khi suy đoán rằng, ông bà cha mẹ nó làm điều gian ác, hay chính nó đã có cuộc sống tội lỗi, nên bị trừng phạt như vậy.
Không ngờ thứ hai, chính là lòng nhân hậu vô cùng, hay ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Chúng ta thường nghĩ có công được thưởng, có tội bị phạt. Điều này không sai, nhưng nhiều khi không có công cũng được thưởng. Đó là trường hợp của người ăn mày Lazarô. Tổ phụ Abraham giải thích: “còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây” (Lc 16,25).
Ngài đã không giải thích, là vì Lazarô đã làm việc bác ái, đã có công trạng này kia nên được thưởng hạnh phúc Thiên đàng, nhưng chỉ nói đó là sự “an ủi” cho người trước đây đã chịu toàn là những sự bất hạnh. Sự an ủi hay hạnh phúcThiên đàng, vì vậy, đều do từ lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Đó là một ơn huệ nhưng không.
Chúng ta cũng hãy nhớ lời dạy trong Tám mối phúc thật (x. Mt 5,1-10): “Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an”. Ngài chỉ nói đơn giản những ai “đau buồn”, sẽ được ủi an. “Ủi an” hay “hạnh phúc” ở đây không có được từ công trạng nhưng chỉ do tình yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng nhớ đến dụ ngôn thợ làm vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Ông chủ trả cho người chỉ làm một giờ vào buổi chiều cũng ngang bằng với người làm tám tiếng, từ sáng sớm, cũng chỉ do lòng nhân hậu của ông chủ, chứ không phải là do trả công (Mt 20,15).
Không ngờ thứ ba, là nổi bật nhất; không ngờ rằng sự thờ ơ ích kỷ của con người lại đưa mình xuống hỏa ngục. Cái giàu sang hay sự sung sướng ở đời này, tự nó, không làm một người xuống hỏa ngục. Nhưng chính cái xử sự, cách sống trái quấy, của con người, đem con người xuống hỏa ngục. Đó là cái thờ ơ ích kỷ, không muốn chia sẻ cho người khác.
Ông bà anh chị em có thấy cái cảnh anh giàu có yến tiệc linh đình lại bỏ mặc người nghèo, đói khát bên cạnh là bất công không? Mọi người bình thường đều cảm thấy có sự bất công rõ rệt, một sự vô đạo đức rõ rệt.
Vì vậy, xét một cách khách quan, thì anh nhà giàu không bị bất ngờ. Anh có thể thấy sự bất công như chúng ta thấy. Anh bất ngờ chỉ theo chủ quan của anh, khi cho rằng anh có quyền hưởng thụ mọi cái ta sở hữu, còn người khác thì mặc kệ nó; nó tội lỗi, nó bất tài, nó lười biếng, nó đáng kiếp…
Anh đã không nghĩ rằng, mọi sự anh có được là do Trời ban cho và anh có nhiệm vụ chia sẻ cho tha nhân. Cái lương tri của con người về sự quảng đại, cứu giúp người nguy khốn, mà Đấng Tạo Hóa đặt để trong con người đã bị xóa nhòa bởi sự ích kỷ, muốn được thỏa mãn những thú vui, muốn được quyền lực, danh vọng.
Về điểm này, chúng ta cũng nhớ lại giáo huấn về ngày phán xét, Đức Vua nói với những người bên tả rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom” (Mt 25,41-42).
Người Kitô hữu chúng ta không cho phép mình rơi vào cái không ngờ mà làm cho mình mất linh hồn. Phải xác định và luôn nhớ rằng là có hạnh phúc đời sau và đó là mục tiêu tối hậu, là cùng đích của đời người. Từ niềm tin vào đời sau này, chúng ta phải luôn đặt ra cho mình một lối sống, một cách cư xử phù hợp theo giáo huấn của Thiên Chúa.
Điều cốt yếu chính là sống quảng đại yêu thương, biết chia sẻ, cứu giúp người khác. Nhưng để sống như vậy, ta phải chịu hy sinh mất mát, chịu bị thiệt thòi, và có khi chịu cả những sự thất bại và bị sĩ nhục nữa, như Đức Kitô trên Thập giá.
Xin Chúa cho chúng ta có đức tin mạnh mẽ, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa, để chúng ta có thể sống quảng đại hy sinh cho tha nhân, cho mọi người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
Cuộc sống hôm nay đầy tất bật. Ai cũng đổ xô đi lo công ăn việc làm. Công việc làm ăn có thể làm ta không còn thời gian để gặp gỡ nhau, ngay cả các thành viên trong gia đình. Điều ấy đã làm bao gia đình chia ly, tan vỡ. Giữa những bôn ba đó, những giây phút dừng lại bên nhau để lắng nghe Lời Chúa luôn là điều tuyệt đối cần thiết. Chúa Nhật tuần trước, Lời Chúa nhắc nhở về thái độ đúng trước tiền của: tiền chỉ là phương tiện chứ không là ông chủ của ta. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy biết nhìn đến người khác, biết chia sẻ hoàn cảnh với những người khác, biết sống với những người đang sống quanh ta.
Trong bài Phúc âm Lc 16, 19-31, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn với hai hình ảnh đối lập giữa một người nghèo và một người giàu.
Ông phú hộ là một người giàu có. Mặc toàn những thứ lụa là gấm vóc. Ông quá dư thừa của cải, hằng ngày thư thái, chỉ việc hưởng thụ. Ông mở tiệc linh đình thường xuyên.
Ladarô là một người nghèo khổ. Thân thể anh đầy mụn nhọt, ghẻ lở. Anh chẳng có nhà cửa, phải vạ vật ở cửa nhà ông phú hộ. Anh chẳng có gì để ăn. Anh ngồi đó và chờ đợi những thứ trên bàn ăn của ông phú hộ rơi xuống đất để kiếm miếng. Và dường như anh cũng chẳng có bạn, chẳng được ai ngó ngàng tới, chỉ thấy mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc trên anh.
Hình ảnh đối lập ấy cũng chẳng thiếu gì trong xã hội hôm nay.
Người ta có thể biện minh rằng ông phú hộ không lấy gì của anh Ladarô. Ông phú hộ cũng không làm thiệt hại gì Ladarô. Nhưng phải chăng ông phú hộ có quyền được tận hưởng những gì mình đang có mà không cần biết đến người khác? Phải chăng sự đầy đủ của cải vật chất như ông phú hộ là bảo đảm cho niềm hạnh phúc mà người ta đang ngày đêm kiếm tìm?
Nếu như cuộc sống chỉ là những gì khi ta sống; nếu như cái chết ập đến là chấm dứt tất cả, thì nhà phú hộ kia đã sống trọn vẹn một kiếp người. Ông không xâm phạm đến ai, ông đã tận hưởng cuộc sống bằng những gì mình có. Nhưng nếu thế thì cuộc đời này cũng còn đâu ý nghĩa. Cái chết ập đến, kẻ giàu người nghèo cũng bằng nhau; người lương thiện cũng bằng kẻ gian ác; người suốt đời miệt mài sống cho người khác cũng chẳng hơn gì người ích kỷ chỉ biết sống cho mình. Xã hội còn đâu là công bình với chân lý.
Cuộc sống không chỉ chấm dứt sau cái chết. Trái lại, chính cái chết mở ra cho con người một cuộc sống mới, một cuộc sống trường tồn vĩnh viễn. Ở cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu cho đưa ra viễn cảnh của nhà phú hộ và Ladarô trong thế giới trường tồn sau cái chết. Từ viễn cảnh ấy ta mới thấy thái độ của nhà phú hộ thật thiếu sót.
Ông không làm hại Ladarô nhưng của cải trần gian đã làm ông mù quáng trước tha nhân. Con người không phải là cỏ cây mà có thể vô tình trước đồng loại. Con người quý giá là ở tấm lòng. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã phải thốt lên: “sống trong đời sống phải có một tấm lòng” là thế.
Cái tội của ông phú hộ là đã không có một tấm lòng đối với người khác. Ông chỉ biết mình, chỉ lo cho riêng mình. Ông không chút động lòng trước cảnh ngộ éo le của người khác. Ông vui vẻ yến tiệc linh đình ngay trước mặt một con người đau khổ đến tột cùng, một con người cũng là người như ông. Một con người đang phải oằn lên với đau đớn thể xác, đang khát khao được sống. Của cải, tiện nghi đã làm ông trở nên mù trước tha nhân. Ông có mắt mà không nhìn thấy nỗi đau của người khác.
Thái độ ấy của ông phú hộ hoàn toàn bị lên án trong ánh mắt hiền từ của Chúa Giêsu.
Thái độ mà ông lựa chọn ấy đã quyết định cho cuộc đời của ông trong cuộc sống vĩnh hằng. Con người có toàn quyền lựa chọn cho mình thái độ sống ở đời. Ông phú hộ đã lựa chọn lối sống ích kỷ, thờ ơ với người khác để rồi cuối cùng ông phải rằn vặt với chính mình ở đời sau.
Ai cũng ước ao mình được an vui ở đời này và hạnh phúc đời sau. Con đường của Chúa Giêsu là bảo đảm chắc chắn đưa ta đến bến bờ ta mong đợi. Con đường ấy là con đường của yêu thương, của phục vụ, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình vì người khác.
Đứng trước những con người đau khổ, Chúa luôn chạnh lòng thương. Chúa tìm cách đến với người đau khổ. Chúa tìm cách giúp đỡ những người đau khổ. Và trên thập giá, Chúa đã gánh lấy tất cả để cứu con người đang khổ đau.
Đi vào con đường của Chúa là biết chạnh lòng trước nỗi đau của người khác, biết nhận ra những nhu cầu của người khác đang sống quanh ta, là biết chia sẻ cho người khác những gì mình đang có mà không đợi người khác đề nghị, là biết giang tay đón nhận người khác vào trong cuộc đời của mình, là biết khát khao được chung sống với mọi người.
Lậy Chúa Giêsu, giữa những bộn bề của công việc và tiện nghi của vật chất, xin Chúa uốn nắn tâm hồn con để con biết nắm lấy bàn tay của những người anh chị em đang sống quanh con, biết cho đi mà không tính toán, biết yêu thương người khác với trái tim sẻ chia đầy tình người trong tình Chúa.
25. Trách nhiệm với nhau – Lm. Cao Vũ Nghi, CRM
Người giầu. Người nghèo. Người cùng khốn. Xã hội nào, thời đại nào cũng có những lớp người đó. Nhưng khi kể dụ ngôn Lagiarô và người giầu có, Chúa không chú trọng đến giầu hay nghèo cho bằng cách người ta dùng tiền của của mình. Tiền của Chúa ban cho con người không phải là để phục vụ cho riêng mình, nhưng như người quản lý, con người phải dùng nó theo ý của chủ, nghĩa là phải dùng nó để phục vụ người khác. Vì thế, giúp đỡ người nghèo khó được coi là một trách nhiệm.
Từ thời Cựu ước, lề luật và các tiên tri đã dạy dân riêng của Chúa phải biết cho người đói ăn, chăm sóc cô nhi quả phụ, đối xử công bằng với ngoại kiều… Nói khác đi, là có sự quan tâm đối với anh chị em đồng loại. Mối quan tâm này không phải chỉ là quan tâm suông, nhưng là cần có những việc cụ thể. Và đó là điều người giầu có đã không làm. Ông ăn sung mặc sướng suốt cuộc đời. Thân thì mang vải gấm; của ăn thì toàn là cao lương mỹ vị. Trong khi Lagiarô thân mang ghẻ lở; ước mong được ăn những mẩu bánh rớt xuống từ trên bàn ăn mà cũng không được. Ấy vậy, mà người giầu không một chút quan tâm. Ông đã vô cảm trước những khốn khổ của một người anh em đồng loại.
Xã hội chúng ta đang sống cũng đầy dẫy những người nghèo khó. Hình ảnh những em bé chỉ còn da bọc xương ở Phi Châu; những người vô gia cư co ro dưới gầm cầu trong đêm giá lạnh ở nhiều nơi trên nước Mỹ; những người tàn tật què quặt không ai chấp chứa ở Việt Nam. Đó là những hình ảnh chúng ta đã thấy qua TV, báo chí, và có khi, chúng ta đã thấy tận mắt. Có lẽ cũng vì vậy mà lòng chúng ta phần nào đã bị chai cứng khi đứng trước những khổ đau của tha nhân.
Gia đình ông Jones Gunn một hôm đang trên đường về thì bị dừng lại vì đèn đỏ. Vừa dừng lại, thì một bà bế một em bé trên tay đến xin tiền để mua sữa cho con. Ông Jones rút một tờ 20 đồng cho bà. Bà vợ cảm thấy hơi khó chịu vì gia đình đâu giầu có gì, nhưng chưa kịp có phản ứng gì thì cô con gái 7 tuổi lên tiếng: “Ba có nghĩ là bà ấy đi mua sữa không?” “Ba không biết!” Cậu con trai 11 tuổi hỏi tiếp: “Vậy tại sao ba lại cho bà ấy tiền?” “Vì Chúa muốn chúng ta là những người cho đi một cách vui vẻ. Ba không phải chịu trách nhiệm về cách bà ấy dùng số tiền đó. Bà ấy sẽ phải trả lẽ với Chúa. Ba chỉ chịu trách nhiệm về phần của ba.” Thực tế là không phải là dễ để có thể phân biệt khi phải đối diện với những hoàn cảnh tương tự như ông Jones Gunn, nhưng nếu chúng ta luôn đặt vấn đề để rồi từ chối không giúp đỡ, thì có lẽ chúng ta cần xét lại thái độ của mình.
Dù sao, điều quan trọng khi nghe lời Chúa hôm nay, là chúng ta cần nhìn lại lòng mình, để xem mình có còn cảm thông, còn đau xót, khi chứng kiến những khổ đau của người khác hay không. Một khi có lòng cảm thông đó, với ơn Chúa, chúng ta sẽ biết nên phải có thái độ và hành vi nào.
26. Người nghèo Thiên Chúa chọn – An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 26 Thường Niên C là dụ ngôn về người giàu có và ông Lazarô nghèo khó. Tin mừng gồm hai phần: phần thứ nhất nói về số phận của con người sau khi chết (c. 19-26); phần thứ hai là cuộc đối thoại của Abraham và người giàu có. Trong phần thứ nhất, số phận của người giàu có cả một đời được sung sướng “vận toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bên cạnh một Lazarô “mình đầy ghẻ chốc” đã bị đảo lộn sau khi chết. “Trong hỏa ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng ngài”. Người giàu có ích kỷ là hình ảnh người không lắng nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa. Họ “lòng chai dạ đá”, không quan tâm đến những bất hạnh của người khác. Trong phần thứ hai, cuộc đối thoại cho thấy con người phải tự nguyện và tự do để hoán cải, chứ không cần đến bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài. Hơn nữa, Thiên Chúa đã dự liệu những phương tiện cần thiết để con người có thể hoán cải.
Dụ ngôn này không có ý an ủi những người nghèo khó: “Anh em là những người nghèo ở đời này, hãy can đảm lên, một ngày kia anh em sẽ được lên trời và anh em sẽ được đền bù những khốn khó đời này như Lazarô”. Thật vậy, bài Tin mừng hôm nay không chỉ khích lệ người nghèo khổ hãy cam chịu nghèo khổ hiện tại để được hưởng hạnh phúc đời sau. Chỉ vì lý do nghèo khó vật chất thôi vẫn chưa đủ, cần có nghèo khó tâm hồn “phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5).
Dụ ngôn này cũng không chỉ nói đến cuộc sống bị đảo lộn sau cái chết của hai nhân vật chính: người giàu và người nghèo, nhưng còn nói đến số phận của con người tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử với người khác ngay tại trần thế này. Đúng hơn, chỉ có một nhân vật chính là người giàu. Người nghèo Lazarô đã chẳng nói một lời nào từ đầu đến cuối. Cuộc đối thoại giữa Abraham và người giàu cho thấy số phận bi đát của người giàu, nếu họ không chịu hoán cải. Hoán cải ở đây tức là quan tâm và giúp đỡ người nghèo. Đóng cửa lòng mình lại trước những khốn khó của những người chung quanh là một tội lớn. “Khi tôi nghèo, các anh đã không cho ăn, không cho quần áo mặc, không thăm viếng, không giúp đỡ tôi” (Mt 25,41-46).
Hình ảnh Lazarô trong câu chuyện là một hình ảnh đẹp. Ông là một người nghèo hoàn toàn. Ông cần người giàu giúp đỡ. Nhưng, cũng cần phải nói thêm: người giàu cũng cần người nghèo “giúp đỡ”. Lazarô có thể “giúp đỡ” người giàu thoát khỏi tính ích kỷ của mình. Mở rộng tấm lòng, có được một tình yêu vô vị lợi. Thật vậy, con người “quên mình là lúc gặp lại bản thân” (thánh Phanxicô Assissi), cho đi là nhận được. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, Đấng đã tự hiến thân mình cho nhân loại. Thiên Chúa mời gọi con người hoàn thành đời mình theo hình ảnh Thiên Chúa. Bao lâu con người còn ích kỷ, còn đóng cửa lòng mình lại trước những người nghèo khổ, bấy lâu con người vẫn chỉ là một nhân loại “thui chột”, không theo hình ảnh Thiên Chúa.
Cho người nghèo khổ một chỗ đứng trong cuộc đời chúng ta, quan tâm đến họ là một cách thế làm cho đời mình trở nên “giàu có” trước mặt Thiên Chúa. “Mến Chúa yêu người” vẫn mãi là luật vàng Kitô giáo.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con đầy lòng ưu ái,
đầy tình thương cảm đối với tha nhân,
khởi đầu với những người gần chúng con nhất.
Xin dạy chúng con biết chia sẻ nỗi đau khổ
của những người gặp buồn phiền,
biết đỡ gánh nặng của họ,
nhờ vậy mà chúng con được gần gũi với Chúa.
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết nhìn thấy những người đang đau khổ.
Chúa đang khóc với những giọt nước mắt của họ.
Biết bao tiếng nức nở đã trôi dạt vào đại dương của tình thương.
Xin dạy chúng con biết canh phòng
bên ngưỡng cửa đưa vào lãnh địa mênh mông của khổ đau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tờ tin điện tử vnexpress số ra ngày Thứ Ba, 21/9/2010, đăng tải câu chuyện rất ấn tượng về một nữ triệu phú gốc Việt có tên là Suzanne Hook. Đã từng là một trong số hàng trăm đứa trẻ bị bỏ rơi trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Suzanne Hook may mắn được một cảnh sát tìm thấy và đưa đến trại trẻ mồ côi ở Sài Gòn năm 1969 và được đặt tên là Thị Hiền. Khi đó, Thị Hiền yếu đến mức không thể cử động được. Các y tá người Anh chăm sóc cô và đưa cô rời khỏi Việt Nam năm 1972. Suzanne trở thành con nuôi của một gia đình ở phía tây London. Năm 18 tuổi, cô xa gia đình và đi học ngành ăn uống rồi thành bếp trưởng trên tàu và nhà hàng. Từ năm 2002, cô tạo dựng dịch vụ làm móng mang tên Couture Nail và trở thành người phụ nữ rất thành công trong ngành làm đẹp.
Nhưng rồi cô đã quyết định bán tất cả những gì mà cô đang có để về Việt Nam lo cho trẻ mồ côi. Tài sản bao gồm ngôi nhà trị giá gần 780.000 USD, chiếc xe Mercedes thể thao, đồ đạc, quần áo và bộ sưu tập giày gồm khoảng 300 đôi. Cô đã từ giã cuộc sống ở Anh để toàn tâm cho nhà trẻ mồ côi Allambie ở Saigon.
Cô nói: “Toàn bộ cuộc sống của tôi đang được rao bán. Tôi chuẩn bị chia tay bạn bè để chăm sóc các trẻ em mồ côi trong phần cuối đời mình. Tôi muốn cho chúng tương lai và giúp chúng học đến đại học, hoặc tìm được việc làm để có thể tự đứng vững trên đôi chân mình, nhưng tôi cũng muốn chúng cảm nhận được tình yêu thương, điều mà tôi không có được khi còn bé”.
Từ rất xa, xa gần một nửa vòng trái đất, nhưng cô Suzanne đã nhìn thấy và quan tâm đến những đứa trẻ mồ côi bất hạnh ở Việt Nam. Trong khi đó người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay lại hoàn toàn khác hẳn. Dường như ông không quan tâm và không để ý gì đến người cùng khốn, ngay cả người hành khất khốn cùng đang ở ngay trước cổng nhà mình.Nếu nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì ông phú hộ này là một triệu phú. Nếu sống vào thời đại này thì ông có nhà lầu, xe hơi đời mới, có con đi du học nước ngoài, có tài khoản lớn nơi các ngân hàng nổi tiếng, có của chìm của nổi, và vì có nhiều của cải như thế nên ông mặc toàn đồ hàng hiệu đắt tiền, rồi tiệc tùng đình đám liên miên với nhiều kẻ hầu người hạ, v.v… Nhưng kết cục đời ông, Tin Mừng cho thấy là quá phũ phàng, quá bi đát: phải trầm luân nơi hoả ngục. Vậy tại sao ông phải chịu cảnh trầm luân nơi hoả ngục như thế?
Không chỗ nào trong dụ ngôn nói đến ông phú hộ này là một tay đại gian đại ác, dùng mọi thủ đoạn thu tích của cải cho mình một cách bất chính, cũng không chỗ nào nói ông ngược đãi hay bóc lột sức lao động của người khác, hoặc là lợi dụng chức quyền, dân đen,… Hơn nữa, là người giàu có, ông có quyền ăn mặc sang trọng và cũng có quyền tổ chức yến tiệc linh đình. Xét cho cùng, ông chẳng có tội tình gì ghê gớm để phải chịu hình phạt đoạ đày. Ông hưởng thụ thật đấy, nhưng cũng chỉ hưởng thụ từ những của cải do ông làm ra, chứ có phải do tham nhũng, hối lộ gì. Vậy thì do đâu? Thưa là do ông đã vô tâm, khép cửa lòng, sống dửng dưng, “mackeno” (mặc kệ nó) trước nỗi cùng khốn của tha nhân. Dẫu ông không la mắng, chửi bới, hay xua đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn phớt lờ đến nỗi Ladarô có thể chết vì đói, đang khi ông ta lại quá dư thừa. Thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng bị gia hình trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát cũng đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giàu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ…… Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, và làm cho người sở hữu nó sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa, cũng chẳng cần biết đến tha nhân. Khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau.
Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo cho những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Kitô giáo không chủ trương tìm kiếm hay yêu mến sự nghèo khó mà là cỗ võ tình yêu thương liên đới đối với những người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có hơn ai hết, nhưng Ngài đã trở nên nghèo khó để cảm thông và liên đới với người nghèo. Ngài đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Người môn đệ đi theo Chúa Giêsu cũng được mời gọi trở nên giống như Ngài.
Ngày hôm nay vẫn còn quá nhiều Lazarô ngay trên đất nước Việt Nam này. Vẫn còn quá nhiều người cần đến “ngôi nhà mơ ước” hay “câu chuyện ước mơ” đầy dẫy trên truyền hình. Không nhà ở, không tiền mua thuốc men chữa bệnh, không có điều kiện cho con đến trường kiếm cái chữ… Họ là những người nghèo thật sự, nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá… Vấn đề ở chỗ chúng ta có nhìn thấy những con người cùng khốn ấy, để ra tay cứu giúp không, hay chúng ta vẫn vô tâm, hững hờ như nhà phú hộ trong câu chuyện Tin Mừng.
Nhạc sĩ trẻ Minh Khang, trong ca khúc Đứa Bé đã viết: “Hãy lau khô cuộc đời em bằng tình thương, lòng nhân ái của con người. Hãy lau khô giọt nước mắt trong lòng em bằng tất cả trái tim con người Việt Nam.” Thiết nghĩ đó là sứ điệp tình yêu mà Thiên Chúa muốn nói với anh qua tiếng lương tâm và muốn anh gởi gắm sứ điệp đó tới tất cả người nghe, để họ biết mở rộng vòng tay yêu thương nhân ái, để họ biết liên đới, biết giúp đỡ, biết chia cơm sẻ bánh cho những người nghèo khổ, túng thiếu và bất hạnh.
Xin Chúa mở mắt, mở tai, mở tay và mở trái tim ta để thấy, để nghe, và để biết sẵn sàng sẻ chia niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau với mọi người. Amen.
28. Suy niệm của Vinh Sơn Dương Văn Đức
Có một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn chế nhạo, bắt nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm cha cậu nhặt được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết… con chó được đặt nằm xuống gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ dáy này, cậu dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm ngoài cửa kêu ăng ẳng thảm thiết.
Cha cậu nghe tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với cậu bé. Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói: “Tại sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?”. Cậu bé nói: “Bởi vì chân con có tật, con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con”. Người cha lúc đó mới ôn tồn nói: “Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên chúng bắt nạt con. Còn bây giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại sao con lại không biết thương cảm nó?”. Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước mắt, một lúc sau cậu ẵm con chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó… Sau này cậu bé trở thành vị bác sĩ nổi tiếng nhân hậu, được mọi người yêu thương và kính trọng.
Câu chuyện cho thấy người cha ở đây đã thật khéo léo để biết cách dạy con mình trở thành người biết yêu thương và nhờ đó người con đã thành nhân và được mọi người quí mến.
Quả thực tình yêu thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành con người đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng ta đang tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng nhau tiến nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa Giêsu nói đến trong bài giảng trên núi: “Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã không tỏ lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi dành cho con người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông còn nhiều của cải, nhưng vì ông đã không biết “sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời”, mà bạn hữu ở đây không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp hang ngày. Thực sự, tiêu chuẩn để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại nơi việc sống bác ái với anh chị em.
Tội của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Thánh Augustinô có lần đã nói rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn mày đang cần đến hồng ân Thiên Chúa: “Anh em giàu có với những của cải tạm bợ, nhưng anh em cần những thứ vĩnh cửu. Điều mà anh em làm với những ai khẩn cầu anh em thì Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện như thế với anh em… Hãy đong đầy cho những người anh em đang túng thiếu, để sự túng thiếu của anh em cũng được đong đầy”.
Là những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, tôi và bạn đến lượt mình, ta phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ ta cho sẽ trở thành mức độ mà ta nhận.
Có một bạn sinh viên đã tâm sự trên Tuổi Trẻ Online như sau: “Dưới cái nắng của buổi trưa tháng 3, tôi đang vội vã đi bộ từ trường Đại học Nhân văn ra Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia. Trên đường, một cô bé chừng 16-17 tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ”. Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ mua bán gì”. Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này. Nhưng đi rồi, tôi vẫn cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…”. Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy. Vậy mà tôi…”
Tâm trạng của người bạn trẻ này chắc cũng phản ánh thái độ vô cảm mà chúng ta đôi khi vướng phải trong cuộc đời, khi chúng ta dửng dưng trước những con người đáng thương. Đó cũng là thực trạng nơi trái tim chai cứng của nhân loại thời nay trước những đau khổ của đồng loại quanh mình. Suy nghĩ của bạn sinh viên một lần nữa lại gợi lên trong chúng ta hình ảnh của Tin mừng Lc 16, 19-31: Người phú hộ giàu có, ngày ngày yến tiệc linh đình, cao lương mỹ vị, nhưng ngay bên lại tồn tại một anh Lazarô nghèo nàn chết trong đói khổ, không được trợ giúp.
Ở đây cho thấy, không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt ta không để ý sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận nhỏ, lòng trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố ngăn cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa. Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo mà chết đi, mất đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy cho chúng con biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo chúng con có biết yêu thương tha nhân hay không. Xin Chúa dắt chúng con luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì chúng con biết Thiên Đàng không dành riêng cho một mình con. Nhưng con chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương – Amen.
29. Bạn hữu của Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa thương người giàu
Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.
Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa cứu người nghèo
Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.
Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16,19-21); – Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); – Tình trạng cực hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26), và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian
Trong hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrain#, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là” (1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số phận của hai người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có “được chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói “trong âm phủ” (c. 23). “âm phủ” là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ” là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.
Lời thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông nói đến “điều tốt” và điều xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25). “Điều tốt” ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, “bây giờ” hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người giàu có, vì các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được đặt ra” (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.
Lời thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh “Hãy nghe” phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải” nếu như được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.
31. Ra khỏi thế giới nhỏ hẹp của lòng mình
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Những bức tranh tương phản
Tin tức trên báo chí cho biết: khoảng vài phần trăm dân số địa cầu nắm giữ gần hết tài nguyên của thế giới, trong khi đa số dân còn lại chỉ được hưởng dùng một số nhỏ. Hố phân cách giữa các miền của thế giới càng lúc càng rộng thêm, số người giàu chỉ tăng lên rất ít, còn số người nghèo càng lúc càng tăng lên rất nhiều. Hình ảnh đó là một sự kiện rõ ràng của thế giới hôm nay, và cũng xuất hiện tại nhiều quốc gia, nhiều vùng đất, nhất là tại các thành thị.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay nêu lên một bức tranh với nhiều mầu sắc tương phản. Hình ảnh được vẽ lên là những thế giới đóng kín, những vũ trụ tách biệt, với những vực sâu ngăn cách. Từ thế giới này sang thế giới kia, không có mối liên lạc nào: mọi cây cầu đã bị phá đỗ.
– Bức tranh thứ nhất: Cuộc sống thường nhật. Một người giàu, ăn mặc sang trọng, yến tiệc linh đình; và một người nghèo tên là La-da-rô, không có gì che thân, không có gì để ăn. Người giàu ở trong nhà và người nghèo ở ngoài cổng. Ở giữa, một cánh cửa đóng kín.
Người giàu không có tên. Chỉ biết rằng ông ta có nhiều của cải, nhiều đến dư thừa. Thái độ, cách cư xử của ông: không để ý đến ai khác, ngay cả người nghèo đang ăn xin ở cổng nhà.
Còn người nghèo có tên là La-da-rô, có nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Anh sống mà dường như đã chết. Thế nhưng anh bị đói, anh đợi chờ và mong ước được sống. Cuộc sống của anh có những lỗ hổng và vì vậy, Thiên Chúa có thể can thiệp.
Khi cái chết phủ xuống: người giàu được đem chôn, còn người nghèo được đem lên trời.
– Bức tranh thứ hai: Tại thế giới kẻ chết: trời cao và âm phủ. Người nghèo được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham: anh đã chết, mặc dù chưa được hưởng điều Thiên Chúa hứa; nhưng anh đã thấy từ xa và đón chào các điều ấy, vì đã xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất (x. Dt 11,13).
Còn người giàu phải chịu muôn vàn đau khổ. Ông muốn được hiệp thông, muốn được chia sớt một giọt nước, nhưng không thể được: không có lối qua, dù đó là vì lòng bác ái, dù đó là những người đang thèm khát. Giữa hai thế giới có một vực sâu, một vực sâu rất lớn. Trước kia người nghèo không có gì cả: anh chỉ chờ đợi và khát mong được sống; người giàu thu hẹp đời mình vào trong những của đang nắm giữ. Bây giờ thì ngược lại, nhưng không còn thay đổi gì được nữa.
– Bức tranh thứ ba: Vẫn tại thế giới kẻ chết. Và ở phần cuối là cuộc sống con người trên trần gian, nơi năm anh em của người giàu đang sống. Giữa hai thế giới này, có thể thông thương được. Thế nhưng chỉ là điều vô ích, vì tâm hổn của những con người đang sống ấy đã bị đóng kín.
Và dụ ngôn kết thúc với một câu nói có liên hệ đến con người thời nay: “người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin đâu.”
Cuộc sống trần gian chưa phải là tất cả
Dụ ngôn trước hết nhắm đến quan niệm sai lầm của những người biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruổng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Ở trần gian này, nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn nếu ngược lại, thì chính vì con người đã phạm tội. Đó là nguyên nhân người biệt phái chế giễu Đức Giêsu vì Người đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này của Đức Giêsu gây ra mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ. Dụ ngôn đã khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa, cũng như nghèo khó không phải là kết quả của sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruổng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Vì thế, không nên căn cứ vào một vài chi tiết của dụ ngôn để rút ra những hệ luận thiêng liêng: chẳng hạn các hình khổ dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiện những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh. Việc người nghèo an nghỉ trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham cũng thế…
Đàng khác, dụ ngôn còn muốn cho thấy rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan gì tới trạng thái tâm hổn. Người ta vẫn thường cho rằng người giàu có, ăn sung mặc sướng là người biết tổ chức tốt cuộc đời của mình, và người ta thương hại kẻ nghèo phải sống lệ thuộc vào người khác, không có khả năng thoả mãn những ước vọng ở đời. Tuy nhiên, Thiên Chúa không xét đoán như thế. Đây là một trong những quy tắc nền tảng của Ki-tô giáo.
Như vậy, dụ ngôn không hề có ý mô tả cuộc sống tương lai cũng như tình trạng đời này. Dụ ngôn muốn chứng tỏ rằng cuộc sống hiện tại của người giàu chẳng có giá trị gì cả. Chính sự hiện diện của người nghèo nói lên điều đó: anh đã muốn phá vỡ nếp sống an toàn giả tạo của người giàu, kêu mời sự hiệp thông, nhưng không được, và thế là hết…
Kể cả người chết sống lại
Không có ai, kể cả người chết sống lại, có thể buộc một người đang sống phải yêu mến. Lời Chúa, luật lệ và các ngôn sứ đã trình bày rõ ràng những điều gì cần được thực hiện. Mặc khải đã có sẵn, cuộc đời là nơi duy nhất để cho những điều đó thành hiện thực.
Hoàn cảnh sống ở đời chưa phải là tất cả. Vực sâu lớn nhất của cuộc đời chính là từ khước yêu mến.
Chỉ có thái độ quan tâm để ý đến người khác mới có thể tạo nên những cây cầu, những lối đi để từ đó đưa đến sự hiệp thông, đến tình liên đới.
Khi biết quan tâm đến những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đang được bày tỏ trong cuộc đời con người; khi biết lắng nghe lời giáo huấn của tổ phụ Áp-ra-ham cũng như của các ngôn sứ; khi biết để ý đến người khác, dù chỉ là những cái nháy mắt, những lời thì thầm, và khi biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa torng những biến cố, thì tất cả đều thay đỗi, tất cả đều dễ thương, tất cả đều trở thành cơ hội để hành động.
Biết để ý quan tâm, biết nhạy cảm, đó là biết bước chân ra khỏi lòng mình đang bị đóng kín với nỗi trống rộng của riêng mình.
Vậy mà, trong cuộc đời, vẫn có biết bao rào cản đã được dựng nên; vẫn có những người đi qua cuộc đời một cách vô tình, không cần chú ý đến ai khác, vẫn có những tiếng kêu than bị bỏ quên, vẫn có những lời cầu cứu không được đáp trả… Người ta vẫn thường dành nhiều thời giờ để bảo vệ mình hơn là để ý đến người khác. Người ta vẫn không ngừng xây những bức tường kiên cố để che chắn cho mình, đang khi lẽ ra cần phải mở ra những cánh cửa, cửa ra vào lẫn cửa sỗ.
Cuộc đời vẫn có nhiều La-ra-rô đang than thở, bị bỏ quên, trong lúc không ít người giàu có lại lẩn quẩn, lại đóng kín trong những nỗi sợ hãi của riêng mình. Thực là những bức tranh tương phản.
Hôm nay, lúc này là thời gian để ra khỏi mình: hãy mở toang những cánh cửa, những cánh cửa của hiệp thông, của liên đới. Chỉ có những người đang sống mới mở được, những người khác, kể cả người chết sống lại, không thể nào mở được.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Người Nghèo,
Chúa chẳng có gì cả,
dù là một viên đá gối đầu.
Chúa chẳng có gì cả,
dù chỉ là một cơn gió nhẹ,
vinh quang của Chúa chính là sự trần trụi
cả một cái áo tả tơi của đứa trẻ mổ côi,
cũng còn đẹp hơn.
…..
Chúa là người ăn xin với bộ mặt ẩn giấu,
là người không có chỗ trên mặt địa cầu.
Nhưng đàng sau sự nghèo khó,
là ánh sáng rực rỡ.
Phỏng theo R.M. Rilke
32. Hậu quả của việc sử dụng tiền bạc
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, anh em sẽ được họ mời đón vào sự sống đời đời”.
Chủ nhật hôm nay, Chúa kể dụ ngôn về một người phú hộ giàu có không biết sử dụng tiền bạc, để rồi phải chết đời đời trong chốn cực hình.
Ông phú hộ chịu cực hình trong cõi chết đời đời, không phải ông làm giàu bất chính, chuyên vơ vét và bóc lột người khác. Nhưng chỉ vì ông đã thờ ơ lãnh đạm, không nhìn thấy Lazarô nghèo khó cần giúp đỡ đang nằm ngoài cổng nhà ông mà thôi. Vâng, chỉ đơn giản có thế thôi, đã đủ làm cho ông phải chịu cực hình.
Tiền bạc đã làm mờ mắt tâm hồn ông, khiến ông chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy Lazarô. Ông giống như một người soi gương, chỉ thấy hình bóng mình trong gương mà không nhìn thấy người khác.
Tiền bạc đã tạo ra một hố ngăn cách giữa ông và người nghèo Lazarô mà cái cổng là một biểu tượng.
Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa vận toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn bên kia là thế giới nghèo khó bần cùng, nằm lay lắt trước cổng nhà giàu muốn được ăn những của dư thừa từ bàn tiệc của nhà giàu rớt xuống mà chẳng ai thèm cho, chỉ có mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc xoa dịu, an ủi ông thôi!
Sự phân cách chênh lệnh đó, đã được cái chết đón nhận và thể hiện một cách rõ nét. Chỉ có điều là thay ngôi đổi chủ và mang tính cách vĩnh viễn:
Trước kia Lazarô đói nghèo bất hạnh ước một mẩu bánh vụn cũng không được, giờ đây ông no đầy hạnh phúc đời đời nơi lòng tổ phụ Abraham.
Trước kia người phú hộ giàu có dư thừa, giờ đây phải đói khát túng thiếu đời đời nơi hoả ngục, túng thiếu đến nỗi một giọt nước nhỏ làm mát lưỡi cũng chẳng thể có.
Trước kia trên trần gian, ông phú hộ và Lazarô bị ngăn cách bởi một cái cổng, thì giờ đây giữa họ là một vực thẳm lớn, khiến hai bên không thể qua lại giúp đỡ nhau được. Đó là khoảng cách giữa Thiên đàng và Hoả ngục.
Đối với ông phú hộ thì Hoả ngục chỉ kéo dài và tiếp nối cái tình trạng đói khổ mà vô tình ông đã tạo nên cho người nghèo Lazarô trên trần gian. Như thế, Hoả ngục là do ông tự xây cho mình chứ không phải Thiên Chúa.
Tóm lại: Con người tự tạo lập Thiên đàng hay hoả ngục cho mình ngay từ trên trần gian này tuỳ thuộc vào cách thế con người xử dụng tiền bạc.
Ông phú hộ giàu có một cách chính đáng, nhưng vô tâm vô tính, nhắm mắt làm ngơ, không quan tâm giúp đỡ những người chung quanh đã có một kết cục bi thảm như vậy, thì những người làm giàu một cách bất nhân bất chính, làm giàu trên xương máu, mồ hôi và mạng sống của người khác sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ không khá hơn ông phú hộ trong dụ ngôn Tin mừng.
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải và tài năng Chúa ban để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân ở đời này và đời sau. Amen.
33. Khoảng cách – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
- Khoảng cách đời này
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
- Khoảng cách đời sau
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”
- Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
34. Giàu có là tội lỗi? – JM. Lam Thy ĐVD.
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 16, 19-31) trình thuật dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”. Nhìn cảnh ông nhà giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh “Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, “trọng phú khinh bần” (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi “lên xe hoa” về âm phủ, ông nhà giàu mới “bừng con mắt dậy…” thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.
Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta mới chợt nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?
Trước hết, nói về những người giàu có. Con người sống trên đời, kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ (“Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” – Kiều; “tham vàng phụ nghĩa” – tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu”. Giàu như vậy, có tội là cái chắc.
Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc (cụ thể là phúc thứ nhất và phúc thứ năm trong “8 mối phúc”). Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, thì hẳn nhiên giàu có chưa phải là cái tội.
Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc cả đâu. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!
Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Ôi chao! Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày)”; rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?
Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum cái vại, đào cái ao cái hồ, xây cái bể cái máng, mới có nước mưa được. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN), đúng không nào? Còn câu trích trong kinh Magnificat, thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” cơ mà!
Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.
Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVI/TN-C).
35. Người phú hộ và Ladarô nghèo khó
Dụ ngôn người quản gia, dạy chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng. Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô nghèo khó, cho thấy người phú hộ đã sử dụng của cải cách sai lầm. Dụ ngôn được chia làm ba phần.
Phần I: Cái cổng, một vực thẳm
Mở đầu, Đức Giêsu đưa ra hai nhân vật: Người giàu không được nêu tên, người nghèo tên là Ladarô, tiếng Dothái, El’azar có nghĩa là Thiên Chúa phù hộ.
Không chỗ nào nói, Ladarô là một con người nhân đức, anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”. Cũng vậy, không chỗ nào nói, ông nhà giầu là kẻ ác ôn, đã vơ vét của cải một cách mờ ám, đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Đức Giêsu không nói, ông nhà giầu không bố thí cho Ladarô. Chúa cũng không bảo Ladarô là người đức hạnh và ông nhà giầu là người xấu xa. Chỉ đơn giản, ông nhà giầu là người giầu, Ladarô là người nghèo. Ông nhà giầu đã không nhìn thấy Ladarô nghèo đói khốn cùng, đang nằm ở ngoài cổng. Cánh cổng là một vực thẳm khủng khiếp ngăn cách giữa ông và Ladarô nghèo khó. Hai vũ trụ, hai thế giới song song. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với ông nhà giầu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó: “Nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống ăn cho no cũng không được. Chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Thật là một cảnh trái ngược giầu và nghèo. Cảnh đó vẫn diễn ra trên thế giới, trên các thành phố, làng xóm xưa cũng như nay.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980, tại Sao Paulô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại, ngài nói: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển… Bên cạnh đó những khu phố với những cao ốc, ở đó, người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại… Sự phát triển nhiều khi trở thành một sự thuật lại không lề dụ ngôn ông nhà giầu và Ladarô nghèo khó”.
Phần II: Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết, thay vì làm cho họ xích gần nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy, từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay được thiên thần đem vào lòng Abraham, hưởng phúc vô tận. Còn viên phú hộ, trái lại, trước đây hưởng thụ giầu sang chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình, nay phải ở dưới âm phủ, đang chịu cực hình.
Đức Giêsu dùng những hình ảnh, những tư tưởng người đương thời, để nói về thế giới bên kia cho người ta hiểu, Ngài không thể nói khác được. Thế giới bên kia được hình dung như một âm phủ bao la (Sheol) với những thân thể, những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước. Nơi những kẻ bị kết án nhìn từ xa, những người được ưu tuyển, cách mình bằng một vực thẳm. Trong cực hình, người giầu năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô. Ông nêu rõ tên, cái tên ông chẳng biết đến khi còn sống ở trên đời, nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát.
Nhưng muộn quá, cuộc chơi đã mãn. Cả Abraham lẫn Ladarô, chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Cái cổng nhà ông đã phân chia hai thế giới trở thành vực thẳm. Cái chết đã làm cho nó trở thành vực thẳm vĩnh viễn không thể vượt qua.
Theo Hugues Cousin nhận định: “Vực thẳm chia cách, giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy”. Hình phạt khủng khiếp ở hỏa ngục đơn giản là khoảng cách mà kẻ giầu có đặt ở giữa họ với Thiên Chúa, và ở giữa họ với những người khác. Xa cách Thiên Chúa như ở trần thế người ta vẫn xa cách, xa cách những người khác, như ở trần gian người ta vẫn làm. Chúng ta ghi nhận: hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này, chính con người tự phân xử mình ngay từ trần gian. Mỗi người chúng ta đang kiến tạo Thiên đàng hay hỏa ngục cho mình. Mỗi lần ta mở lòng cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, là chúng ta bước một bước lên thiên đàng. Mỗi lần ta khép kín mình trong chính mình là bước một bước xuống hoả ngục. Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của Thiên đàng và hỏa ngục.
Phần III: Hãy nghe Lời Chúa, đừng chần chừ nữa
Xin cho mình không được, người giầu có chợt nhớ đến năm người anh em còn sống trên trần thế, họ cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người cũng đang lơ lửng trước tai họa, nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. Nghĩ vậy người giầu cất tiếng: “Xin tổ phụ sai anh Ladarô đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào chốn cực hình này. Bởi, nếu có sự can thiệp của ai đó từ cõi chết hiện về, họ sẽ ăn năn sám hối”.
Chỉ là ảo tưởng, nếu ở hỏa ngục, ai đó có một chút tình yêu dù là nhỏ xíu, cũng được Chúa tha thứ, không bị kết án. Bởi lẽ Chúa là tình yêu và tình yêu vô tận.
Ở đây chỉ là một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời theo sau là lời đáp của Abraham: “Chúng đã có Maisen và các ngôn sứ, chúng cứ nghe lời các vị đó”. Vâng, người ta luôn luôn đòi một dấu chỉ khác thường: “Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để chúng tôi tin”… “Ông hãy xuống khỏi thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa… Ông hãy gieo mình từ nóc đền thờ xuống đi”. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào những phép lạ và những lần hiện ra. Người giầu xin cho Ladarô hiện về. Thế nh¬ưng, sự sống lại của Ladarô em trai của Mácta và Maria ở Bêtania không những không thuyết phục đ¬ược những ngư¬ời Pharisêu và các giáo trư¬ởng, mà con thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11,45-53). Con đ¬ường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền, mà là sự khiêm nh¬ờng lắng nghe Lời Chúa (Maisen và các ngôn sứ).
Hugues Cousin viết: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay, ông nhà giầu t¬ưởng rằng một phép lạ sẽ làm đ¬ược cái mà Kinh Thánh không làm đ¬ược. Lầm to! Một phép lạ cho dù phép lạ người chết sống lại, cũng không thể làm thay lòng đổi dạ những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của lề luật và các ngôn sứ. Ngay trong Hội thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ ăn năn sửa đổi đời sống… Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta. Chỉ khi biết nghe lời Chúa, con người mới có thể hoán cải… Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời, có sẵn tại trung tâm lề luật và các ngôn sứ”.
36. Giấy thông hành Nước Trời – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
– Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
Thiên Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung chung, nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với những ơn riêng mà người khác không có được. Mỗi một con người là một bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Vậy tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ?”
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong lòng Abraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các bạn”.
Lạy Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy: “Những người giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”. Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa ban. Amen.
37. Ông Dives và anh Lazarô – Vincent Travers
Có hai nhân vật trong câu chuyện này. Trước hết là người giàu có, tạm gọi là Dives. “Dives” tiếng La-tinh, có nghĩa là “giàu có”. Ông ta sống trong sự giàu sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong một đất nước mà thường dân may mắn lắm mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân vật thứ hai là anh Lazarô nằm trước cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất đau yếu bệnh hoạn. Mình mẩy anh đầy ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ sức chống đỡ những con chó ngoài đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời đó trên bàn ăn không có dao nĩa và khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong những gia đình phong lưu, những miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn. Họ rửa tay bằng cách lau chùi tay trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt cho vào thùng đựng rác. Chính đó là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ Lazarô đang mong đợi để nuôi sống mình.
Câu chuyện anh Lazarô và ông Dives nhắc tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ thoã và ông trưởng giả đi chung trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói: “Ông ơi,ông sặc mùi hôi.” Ông kia đáp lại: “Thưa bà, tôi xông mùi thối, còn bà đánh hơi.”
Do đó, anh Lazarô là hình ảnh của sự nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình ảnh của sự bê tha ăn uống. Nên để ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên người đàn ông nghèo khó nhưng người giàu sang thì lại không có tên. Trong nền văn hoá ngày nay, người giàu sang cũng như người nổi tiếng thì đều có danh xưng, còn người nghèo hèn thì vô danh tiểu tốt.
Điều đó cho thấy Chúa Giêsu chú trọng đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã dành nhiều thời giờ cho những kẻ bị bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ không phải với những người nổi tiếng.
Vai trò đảo ngược
Rồi cả hai người đều chết. Người giàu có rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên thiên đàng, ở trong lòng tổ phụ Ápraham. Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối thoại giữa ông nhà giàu với tổ phụ Ápraham.
Từ dưới vực sâu hoả ngục, người giàu có đã kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con và sai anh Lazarô nhúngđầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16, 24).
Tổ phụ Ap-ra-ham đã trả lời: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” (Lc 16, 25-26)
Ông nhà giàu lại thưa: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” (Lc 16, 31)
Khỏi phải nói ra, ai cũng rõ là người giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh Lazarô. Nhưng xét theo nhiều khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người xấu. Ông đã không bạo hành đối với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh đáng xuống hoả ngục. Ông cũng không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước cổng nhà mình. Ông cũng không báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm tra vệ sinh về anh ta như là một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông không chống đối việc anh Lazarô chìa tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ thị cho đầy tớ ném bánh mì dơ ở nơi khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi vào nhà thì đều phải đi qua nơi anh Lazarô nằm trước cổng.
Tội lơ là chểnh mảng
Ông Dives không bao giờ nhận ra anh Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong những năm tháng đó, khi anh ngồi ăn xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở dưới hoả ngục, ông cũng không đếm xỉa đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những người ở trong hoả ngục không thay đổi bao giờ.
Phần người giàu có, ông nghĩ về anh Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua câu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27).
Anh Lazarô chỉ là một con người tùy tiện đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ được sử dụng mà thôi. Anh không phải là một con người đáng được kính trọng. Lazarô chỉ là một đồ vật được sử dụng và đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống hoả ngục.
Tội lỗi của người giàu có đối với anh Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên làm! Những tội lỗi tệ hại nhất của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là chểng mảng và đó là những tội mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính là những tội của ông Dives. Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý thức vì không gây nên thương tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng ta có thể là ông Dives đối với người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em, người làng giềng, đối với những trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những bạn đồng nghiệp trở thành trò cười cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải chúng ta cố ý tàn nhẫn. Điều đó hiếm khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn những người khác. Nhưng có những người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần chết mòn về mặt thể xác, tình cảm, tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có những việc chúng ta có thể làm cho họ, nhưng đã không làm.
Tôi có dịp trò chuyện với một người láng giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa trong nhiều năm. Tôi hỏi cảm tưởng của ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà thương như vậy. Ông trả lời: “Khi cha liên hệ với nhà thương lâu dài như con đây, cha sẽ nhận thấy điều khác biệt lớn lao giữa những kẻ đối xử với cha như một con người và những kẻ đối xử với cha như một trường hợp y khoa trong bệnh viện.”
Lòng trắc ẩn
Rồi đây khi tôi gặp gỡ một người ăn xin hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ. Tôi sẽ nhận ra họ như một con người và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc thật chính đáng, có thể làm được là tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời “không” khi họ xin tiền, nếu tôi nói một cách dịu dàng, bởi vì tôi biết rằng tiếng “không” cũng là một từ ngữ của yêu thương!
Bài học của Thánh Luca nhấn mạnh điểm này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi tùy thuộc nơi chỗ đứng của lòng trắc ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói với chúng ta về việc sử dụng tiền của, tuần này Ngài nhắc đến một lần nữa và khuyến cáo chúng ta rằng tiền của có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời. Một cách cụ thể, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về “người phú hộ và Lazarô khó nghèo”. Người phú hộ chỉ biết cậy dựa vào tiền của, chỉ biết hưởng thụ một mình mà quên đi người nghèo khó khác nên đã bị trầm luân; còn Lazarô nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa, sống theo thánh ý Ngài nên được lên thiên đàng.
Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai, không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục? Tội ông ở chỗ nào? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hờ hững, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người khó nghèo Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.
Người ta thường nói: ”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được. Cái chết đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch: thế giới đau khổ và thế giới hạnh phúc. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng. Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16,9).
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Am 6,1a.4-7.
Cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế thế kỷ 8 trước công nguyên đã đào sâu hố phân cách giữa người giầu và người nghèo. Rất nhạy bén với những bất công xã hội, Amos không thể chịu đựng những kẻ có thế lực nhục mạ những kẻ yếu khốn khổ bằng lối sống xa hoa của mình. Vị tiên tri không tiếc lời đả kích những kẻ giầu có chỉ biết hưởng thụ, ăn uống, chè chén say sưa, ca hát mà không quan tâm đến người khác,”chẳng biết đau lòng trước cảnh Israel sụp đổ”. Họ sẽ bị diệt vong. Sống trên đời là phải sống liên đới với người khác trong vui buồn sướng khổ.
+ Bài đọc 2: 1Tm 6,11-16.
Điều thánh Phaolô chờ đợi nơi Timôthêô là phải chiến đấu đến cùng trong cuộc chiến đấu vì đức tin. Đó không phải là cuộc bảo vệ đức tin chống kẻ thù. Đức tin là một cuộc chiến đấu, vì nó cần được diễn tả trong suốt cuộc sống.
Thánh Phaolô khuyến khích ông Timôthêô trung thành trong đức tin đã lãnh nhận và hãy làm chứng về đức tin ấy trước mặt mọi người. Người Kitô hữu, phương chi vị mục tử, cần ghi nhớ những lời khuyên này.
+ Bài Tin mừng: Lc 16,19-31.
Sự đảo ngược hoàn cảnh trong dụ ngôn ông nhà giầu ích kỷ và anh Lazarô khó nghèo – người nghèo được hưởng hạnh phúc còn người giầu bị trừng phạt – là một hình ảnh văn học thường gặp trong các sách tiên tri và Tin mừng.
Người phú hộ quen cậy dựa vào tiền của, không thèm để ý đến ai, khi chết thì những chỗ cậy dựa cũng tiêu tan và phải rơi vào cảnh khốn khổ! Còn Lazarô là người nghèo khó không có chỗ dựa ở trần gian, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên khi chết được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Chúa.
Dụ ngôn cũng nhắc nhở cho người giầu phải sớm sửa lỗi lầm, đừng cậy dựa vào của cải trần gian nhưng hãy cậy dựa vào Chúa. Hãy ăn năn hối cải, đừng để đến giờ chết mới sám hối, vì lúc đó đã quá muộn và tình thế không thể đảo ngược được.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sự giầu có đích thực.
- HAI THẾ GIỚI ĐỐI NGHỊCH.
- Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó.
Dụ ngôn người quản gia bất lương của Chúa nhật tuần trước và dụ ngôn về Lazarô và nhà phú hộ của tuần này hỗ tương nhau vì cả hai dụ ngôn đều qui về một ý tưởng: người giầu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Đức Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thực tương phản: một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa.
Chúng ta đang đồng hành với Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài trên đường tiến về Giêrusalem – nơi Ngài sẽ tự hiến vì nhân lọai. Bằng dụ ngôn “người phú hộ và Lazarô nghèo khó”, Đức Giêsu không những muốn gửi đến cho nhóm người Pharisêu vốn ham thích tiền bạc, xem tiền của, giầu sang như là dấu hiệu được Giavê chúc phúc, mà còn là lời cảnh tỉnh cho hết những ai coi trọng tiền bạc hơn anh em đồng loại.
Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy đều được khép lại với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận, hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược.
Cái chết là tận số chung của mọi người, bất phân giầu nghèo. Hậu quả của cái chết khác nhau tùy theo cách sống của mỗi người khi còn sống. Ở đây người giầu, vì đã không biết sử dụng của cải để bố thí cho người nghèo theo lời khuyên của lề luật và các tiên tri; vì thế ông bị cực hình trong hỏa ngục.
- Hai hạng người đối nghịch nhau.
- a) Người phú hộ.
Người phú hộ trong dụ ngôn này không có tên riêng chỉ biết ông ta là người giầu có. Hình ảnh người phú hộ rất quen thuộc trong xã hội Do thái bấy giờ: một xã hội có những người giầu sống tách biệt với người nghèo. Người phú hộ trong dụ ngôn thường xuyên đầy đủ của cải, nhưng không phải do những lối làm ăn bất chính, cũng như ông không tiêu xài của cải vào việc bất chính như ăn chơi, xa xỉ. Ông chỉ lo sống như những người giầu khác vào thời ông: ăn mặc sang trọng, ngày ngày yến tiệc linh đình. Ở đây cho thấy người phú hộ này không xấu về phương diện tiêu cực như làm giầu cách bất công và tiêu xài của cải cách bất chính để gây ra tội lỗi.
Nếu người phú hộ không phạm một tội ác nào đối với Lazarô mà lại bị trầm luân thì vì lý do gì? Nếu xét về mặt tội lỗi để buộc người phú hộ phải mất linh hồn đời đời nơi hỏa ngục, chúng ta thấy ông ta chẳng có tội nào để chuốc lấy cái án phạt lớn đến như thế. Ông không hề chiếm đoạt tài sản của bất cứ ai. Ông cũng không phải chịu trách nhiệm trên sự nghèo nàn và thống khổ của Lazarô. Còn chuyện ông dư dật và ăn xài cũng không hẳn đã thành tội, vì đó là của cải của ông. Đức Giêsu không kê khai bất cứ tội nào của ông. Ngài cũng không cho biết người nghèo Lazarô đã xin nhà phú hộ giúp đỡ, hay nhà phú hộ đã từ chối giúp đỡ Lazarô. Vậy tại sao ông phải sa hỏa ngục?
Đó chính là nhà phú hộ đã làm ngơ, có thái độ dửng dưng, hững hờ đối với Lazarô đang sống trong cảnh cùng quẫn. Tội của ông chính là tội “Thiếu sót”, vì ông đã không làm gì để cải thiện đời sống của người anh em nghèo khó ở sát cạnh mình. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch sù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: ”Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ”?
Đúng vậy! Dửng dưng hay hững hờ trước những đau khổ của người khác là một tội. Đó là điều Đức Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người phú hộ trong Tin mừng hôm nay.
- b) Người nghèo khó Lazarô.
Lazarô là hình ảnh đối nghịch với người phú hộ, là người nghèo khó, bệnh hoạn, khốn khổ đến cùng cực, cần sự giúp đỡ nhưng không ai cho, ngay cả người phú hộ ở ngay bên cạnh.
“Lazarus”, tên bằng tiếng La tinh của từ “Eleazar” tiếng Do thái, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự nương tựa của tôi” hay “Thiên Chúa phù trợ”. Do đó, Lazarô, không phải chỉ là một người nghèo, nhưng là một người nghèo hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Đây ắt hẳn là một lý do tại sao ông đã “được các thiên thần đem lên lòng Abraham”(Lc 16,22). Nhờ đức tin, sự trông cậy, và lòng phó thác nơi Thiên Chúa giữa cuộc sống nghèo khổ ông được lên thiên đàng, không phải vì nghèo nàn, khốn khổ về vật chất.
Đặt sự tương phản giữa sự nghèo khó của Lazarô và sự giầu có của nhà phú hộ để nói lên khía cạnh ích kỷ, keo kiệt của nhà phú hộ. Ở đây muốn nói: người giầu có đang có cơ hội thường xuyên để giúp người khốn khổ Lazarô, sử dụng của cải theo đúng vai trò người quản lý của Chúa. Nhưng vì người giầu có này hà tiện, keo kiệt, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ, nên đã không biết sử dụng của cải giúp đỡ ngưởi nghèo khổ, vì thế ông đáng tội.
- Vực thẳm giữa hai thế giới.
Cái chết thay vì làm cho họ xích lại gần với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Lazarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn người phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng sự giầu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình, nay phải ở “dưới hỏa ngục, đang chịu cực hình”.
Dưới âm phủ: chữ âm phủ hay hỏa ngụcdịch chữ Hadis hoặc Schéol, chứ không phải dịch chữ Gehenna. Theo quan niệm một số người Do thái, Schéol là nơi người chết vào trong đó và tạm thời được xếp thành 2 loại: Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng của tổ phụ Abraham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời.
“Trong hỏa ngục, nhà phú hộ nhìn thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng Ngài”.
Thấy thế, nhà phú hộ năn nỉ tổ phụ Abraham sai Lazarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống ở trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
Muộn quá rồi! Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Lazarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng buớc đào sâu thêm, giữa sự giầu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Lazarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh viễn”.
Theo nhận định của H. Cousin: ”Vực thẳm chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ đang chịu cực hình dưới hỏa ngục, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Lazarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy” (Fiches dominicales C, tr 316).
- MỘT VÀI SUY TƯ VỀ DỤ NGÔN TRÊN.
- Giầu hay nghèo không phải là xấu.
Thoạt tiên, xem ra có vẻ mâu thuẫn về quan niệm giầu nghèo trong Thánh Kinh Tân ước. Một đàng Đức Giêsu ca tụng nhân đức khó nghèo. Chúa nhấn mạnh rằng tiền bạc có thể là mối nguy hặi cho việc cứu rỗi. Đàng khác, Ngài ý thức rằng nghèo túng có thể làm giảm nhân vị của họ. Nếu xét đến tinh thần nghèo khó trong Phúc âm thánh Matthêu thì cái mâu thuẫn không còn nữa. Vì vậy giầu hay nghèo theo tinh thần Phúc âm là tùy thuộc vào thái độ của ta đối với của cải vật chất. Do đó, người giầu có về phương diện vật chất có thể được coi là nghèo khó về phương diện tinh thần nếu họ làm giầu cách chính đáng, không để lòng dính bén vào của cải vật chất và biết giúp đỡ người nghèo đói. Trái lại, một người nghèo túng về phương diện vật chất, có thể được coi là giầu có về phương diện thiêng liêng, nếu họ luôn mơ ước làm giầu chính đáng.
Như vậy giầu không phải là tội. Và nghèo – nếu chỉ vì nghèo – cũng không phải là một nhân đức. Vậy giầu hay nghèo tự bản chất không phải là một điều xấu. Tuy nhiên nếu người ta coi của cải đời này là cùng đích thì người ta đi vào con đường sai lầm. Con người được tạo dựng với những nhu cầu vật chất để sinh sống và phát triển nhân vị. Tuy nhiên người ta không được để cho của cải đời này làm cản trở mối liên hệ với Chúa. Vậy cái thái độ ta phải có đối với của cải vật chất là tâm tình biết ơn Chúa là Đấng ban phát mọi sự.
Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa thì của cải phải khơi dậy trong ta cái tâm tình biết ơn Chúa và liên kết ta lại với tha nhân trong tinh thần liên đới trách nhiệm. Của cải là để phục vụ con người, chứ không phải là con người phục vụ của cải. Vì thế, ta phải biết quản lý của cải một cách khôn ngoan và có trách nhiệm: không phung phí cũng không ích kỷ. Mỗi người tín hữu dù giầu hay nghèo, tu hay không tu phải cố gắng sống tinh thần Phúc âm là tinh thần siêu thoát. Nếu không, người ta có thể phải làm nô lệ cho của cải (Trần bình Trọng).
- Giầu của có thể nghèo lòng.
Trong dụ ngôn hôm nay, người phú hộ bị hình phạt trong hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình thôi. Ông ta “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà mình “sống chết mặc bay”, phải chịu “mụn nhọt đầy mình”, “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông chủ rớt xuống mà ăn cho no” mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giầu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn vô tội không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả: ông có làm gì khiến họ thiệt hại đâu.
Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những người giầu có vật chất (Lc 12,115-21- 16,9-11). Đối với Đức Giêsu, sự giầu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
– Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
– Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Truyện: Bà già đón Chúa.
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: ”Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà ta đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến, Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: ”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và 3 lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).
- Người giầu thật và nghèo thật.
Người giầu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận.
Người giầu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ; người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.
Sự giầu có thật là giầu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng.
Bởi vậy cái giầu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và đó cũng là cái nguy hiểm của vật chất:
– Nó khiến ta quá chú ý đến cái “có” mà quên xây dựng cái “là” của mình.
– Mà những cái “có ấy” chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.
– Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng che mờ cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa (Carôlô).
Truyện: Giầu có tâm hồn.
Một tu sĩ đi lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: ”Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
Anh định nói về viên ngọc nào”? Người tu sĩ hỏi.
“Tối hôm qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giầu có mãi”.
Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra.”Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến” ông nói và đưa cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
Người dân làng cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: ”Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giầu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
Người giầu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngòai – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn (McCarthy).
Theo sự suy tư của cha Flor McCarthy ta có thể nói:
Sự giầu có thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi.
Sự giầu đáng giá nhất là giầu trong tâm hồn.
Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết,
Khi ta mở cửa lòng ra là lúc ta bắt đầu sống.
- Phải biết chia sẻ.
Suy niệm qua dụ ngôn này, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những đau khổ của những người chung quanh chúng ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu trước mắt mình.
Trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ lần đầu tiên, tại sân vận động Yankee, Đức Giáo hòang Gioan Phaolô II lấy lại dụ ngôn hôm nay và nói: ”Người giầu này bị hình phạt vì ông không quan tâm đến người khác, vì không để ý gì đến Lazarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Ngài đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác…
Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giầu và người nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giầu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
- Biết quản lý tài sản của Chúa.
Tất cả những gì chúng ta đang có đều là của Chúa ban. Chúng ta không phải là chủ mà chúng ta chỉ là người quản lý, cho nên chúng ta phải sử dụng tài sản ấy theo ý của Chúa, không được phung phí. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm của chúng ta.
Người ta nói: ”Hữu lộc bất khả hưởng tận”: có lộc chẳng nên hưởng hết một mình. Con người phải có tình liên đới, còn phải nghĩ tới người khác. Thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo hòang Lêô XIII có nói: ”Chúa khoan hồng ban dư dật mọi ơn huệ hồn xác cho ai, thì kẻ ấy phải dùng để thánh hóa bản thân và cấp đủ sự cần dùng cho đời sống mình trước, rồi sau phải đóng vai quản lý Chúa quan phòng, để cứu đỡ kẻ khác. Kẻ giầu có nhiều tiền thì chớ để sự nhân từ tê cóng trong lòng họ”(đọan 9).
- Phần thưởng và hình phạt đời sau.
Cổ nhân đã nói: ”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: Lành dữ trước sau sẽ có thưởng phạt. Chúng ta biết Thiên Chúa lòng lành vô cùng. Chúng ta cũng thấy ở đời này có sự chênh lệch diễn ra rõ rệt: người giầu thì giầu quá, người nghèo cũng lại quá nghèo. Một điều rất khó hiểu: người tội lỗi thì cả đời may mắn, trong khi người công chính thì cả đời gặp rủi ro tai họa. Giữa lúc phân vân bối rối như vậy thì có những tia sáng lóe lên trong đầu óc, trong đó phải kể ngay đến sự việc của người phú hộ.
Người phú hộ phải phạt không phải vì ông là người phú hộ, mà vì ông đã không phú hộ “cho nên”. Giả như ông thương người nghèo đói cho đúng mức, hay ít ra bố thí cho họ những của dư thừa theo câu “nhiễu điều phủ lấy giá gương” thì đâu đến nỗi phải phạt sau khi ông chết? Đức Giêsu cũng không phi bác sự giầu có, mà chỉ cho đó là cản trở khó vào Nước Trời (Mt 19,224), do đó sự giầu có vốn nó không xấu, cũng không phải là tội, nếu người ta biết giầu có “cho nên”, mà nhà phú hộ kia đã la cái gương đáng kể về người giầu có vậy.
Tư tưởng thưởng phạt mỗi ngày mỗi thêm sáng tỏ trong các dân tộc: dân La mã cũng như dân Hy lạp tin rằng kẻ không kính thờ thần linh, sau này sẽ bị loại ra khỏi nơi cực lạc, trong khi các dân tộc Á đông tin rằng: ”Tác thiện giáng chi bách tường. Giáng bất thiện giáng chi bách ương”. Và nếu kẻ làm lành chưa được thưởng công và kẻ tác quái chưa phải chịu phạt thì “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Phước hoàn bất báo, thời thần vị báo. Cao phi viễn tẩu dã nan tàng”: Làm lành được thưởng, làm dữ phải phạt. Nếu như chưa thưởng chưa phạt, đó là chưa đến giờ. Và khi giờ đã điểm thì dù cao bay xa chạy đến đâu đi nữa cũng không thóat nổi.
- Gấp rút sửa mình, đừng chần chừ.
Trong hỏa ngục nhà phú hộ xin Abraham sai Lazarô về cảnh cáo 5 anh em còn sống, để họ khỏi rơi vào cảnh khốn cực này, để họ trở lại sống đúng ý nghĩa cuộc đời hơn. Nhưng Abraham đáp lại bằng những lý luận Maisen đủ để cảnh tỉnh họ. Luật Maisen và các tiên tri đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: ”Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em”.
Bài học đã quá rõ. Nó được gửi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mờ mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng.
Truyện: Đã quá muộn.
Đã ba đêm, người ta nghe văng vẳng tiếng nức nở và khẩn khoản của một thanh niên ở ngoài nghĩa trang từ một ngôi mộ của một người đàn ông 50 tuổi mới được chôn cất một tuần: ”Cha ơi, con xin lỗi cha. Cha tha lỗi cho con đi cha. Cha có nghe không cha”? Thì ra vì xích mích với cha anh đã bỏ nhà ra đi. Thời gian giúp anh hiểu ra tình cha. Trở về xin lỗi thì đã trễ.
Chúng ta có thể kết luận: Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó, nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân, gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết để thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ tấm lòng của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn.
39. Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.
Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.
Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.
Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.
40. Suy niệm của Lm Anthony Trung Thành
Trong phần sám hối đầu mỗi thánh lễ, chúng ta thường đọc kinh thú nhận: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.” Thật vậy, chúng ta không những phạm các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm mà còn cả những điều thiếu sót. Điều thiếu sót hay là tội thiếu sót là những tội liên quan đến bổn phận buộc chúng ta phải làm, phải nói mà chúng ta không làm, không nói. Để hiểu hơn về tội thiếu sót, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài Tin mừng hôm nay.
Thánh Luca kể rằng: “Có một nhà phú hộ kia, vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19). Nhà phú hộ tức là người giàu có. Nhờ đâu mà ông ta giàu có? Chúng ta không biết, vì Tin mừng không nói tới. Đức Giêsu cũng không kết án ông vì tham ô tham nhũng, làm ăn bất chính hay chiếm đoạt tài sản của người khác. Cho nên, sự giàu có của ông không phải là tội. Nhưng tại sao nhà phú hộ này sau khi chết lại phải sa hỏa ngục? Thưa, nhà phú hộ đã mắc tội thiếu sót. Ông giàu có. Ông có khả năng giúp đỡ người nghèo. Người nghèo đó ở bên cạnh ông. Đó chính là ông Lazarô. Nhưng ông đã không quan tâm, không giúp đỡ, không có tình liên đới. Ông sống dửng dưng. Thánh Luca kể tiếp: “Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy” (Lc 16,20-21).
Vì lý do đó, nên ông bị kết án sa Hỏa ngục. Để hiểu hơn điều này, chúng ta nghe lại lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25 nói về ngày phán xét chung. Chính Đức Giêsu nói với những kẻ bên trái lý do mà họ phải sa Hỏa ngục rằng: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25,42-43). Đức Giêsu giải thích thêm: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”(Mt 25, 45).
Thật vậy, của cải được giao cho con người quản lý. Người được trao năm nén, người được trao hai nén, người được trao một nén (x. Mt 25, 14-30). Ai cũng phải biết làm lời số vốn được giao cho mình. Cách làm lời tốt nhất là phải biết phân phát, chia sẻ. Vì vậy, ai được Chúa trao cho nhiều tiền của phải có trách nhiệm phân phát, chia sẻ cho những người khác. Người khác ở đây chính là những người “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13). Khi chia sẻ cho người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, không những chúng ta đang thi hành việc bác ái, mà hơn thế nữa, chúng ta đang thi hành trách nhiệm của tình liên đới giữa con người với nhau. Ông Gandhi đã nói rất chí lý rằng: “Những của cải chúng ta dư thừa là chúng ta ăn cắp của người nghèo.”
Có nhiều cách để chia sẻ: chúng ta hãy rộng tay chia sẻ cho người nghèo khi họ đến với chúng ta; có khi chúng ta đi tìm người nghèo để chia sẻ cho họ; có thể chúng ta đóng góp phần mình vào các hội từ thiện bác ái trong Giáo Hội hay ngoài xã hội… Nghĩa là chúng ta luôn chớp lấy cơ hội đến với mình, đồng thời có khi phải tạo cơ hội cho mình để phân phát, chia sẻ những gì chúng ta có cho những người nghèo, tàn tật, đui mù. Có như thế, chúng ta mới tránh được tội thiếu sót mà nhà phú hộ trong câu chuyện Tin mừng hôm nay mắc phải.
Còn ông Lazarô, có phải ông nghèo khó nên được lên Thiên đàng không? Chắc chắn không phải như vậy? Nguyên việc nghèo đói không bảo đảm cho con người được lên Thiên đàng. Trái lại, nếu vì lười biếng làm chúng ta trở nên nghèo đói, từ đó sinh ra trộm cắp, gian lận, phàn nàn kêu trách Chúa…thì lại càng không được lên Thiên đàng. Cho nên, ông Lazarô được lên Thiên đàng không phải vì ông nghèo khó, nhưng ông sống tốt bổn phận của ông trong hoàn cảnh nghèo khó. Mặc dầu nghèo khó, nhưng ông không trộm cắp, không gian lận. Ông vẫn sống tinh thần nghèo khó. Ông phó thác hoàn toàn vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không phàn nàn kêu trách Chúa. Nên ông đã được lên Thiên đàng.
Thời đại nào cũng có những người giàu. Đất nước nào cũng có những người sở hữu cả khối tài sản khổng lồ. Có thể họ giàu là do chính sức lao động của họ làm nên. Cũng có thể họ giàu là do thừa kế của ông bà cha mẹ. Nhưng, vẫn có những người giàu có là do nạn tham ô tham nhũng. Đặc biệt tại đất nước Việt Nam chúng ta, có những vụ tham nhũng lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Theo báo cáo tóm tắt của Tổng thanh tra chính phủ cho biết trong 10 năm qua thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng được phát hiện gần 60.000 tỉ đồng và trên 400 ha đất. Đến nay số tiền đã thu hồi cho nhà nước là gần 5.000 tỉ đồng và hơn 200 ha đất (Theo tuoitre.vn). Mới đây, hồ sơ đại án Phạm Công Danh, cựu chủ tịch ngân hàng xây dựng cho biết, ông đã gây thiệt hại cho ngân hàng hơn 9.000 tỷ đồng (Theo Trí Thức Trẻ).
Trong khi đó, rất nhiều người không có gì ăn, trẻ em suy dinh dưỡng, nhiều người phải chết đói. Nhiều trẻ em không có điều kiện để đến trường. Câu chuyện cậu bé Ksor Sôn (lớp 6, Trường THCS Trần Phú), 11 tuổi tự tử vì không có quần áo mới để đến trường là một ví dụ điển hình. Em sinh ra trong một gia đình quá khó khăn, Sôn không có nổi 1 bộ đồ mới chỉ hơn 100 ngàn đồng để nhập học, tủi thân rồi tìm đến cái chết. Rồi chuyện hai người nghèo ở Sơn La chết ở bệnh viện, người nhà không có tiền thuê xe, phải cuốn chiếu chở bằng xe máy đưa về nhà…Xem ra xã hội chúng ta đang sống vẫn còn nhiều nhà phú hộ và ông Lazarô.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, hãy biết sống tình liên đới, chia sẻ: Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tình liên đới sẽ vượt thắng được mọi khủng hoảng.” Nếu chúng ta may mắn là người giàu có, hoặc có của cải dư thừa…Đó là cơ hội để chúng ta sống tình liên đới, chia sẻ với những người nghèo khó, những người kém may mắn hơn chúng ta.
Thứ hai, hãy quyết tâm sống thanh liêm. Nếu phải sống trong cảnh nghèo khó không được trộm cắp, gian lận, không phàn nàn kêu trách Chúa. Cổ nhân dạy chúng ta: “Đói cho sạch, rách cho thơm.”
Thứ ba, hãy làm những gì khi còn có thể: có nhiều người sống như không bao giờ chết. Chính vì thế, họ chỉ lo tích trử chứ không biết chia sẻ. Khi chết rồi họ mới hối hận về cuộc sống của mình giống như nhà phú hộ. Vậy, hãy làm những gì khi còn có thể.
Lạy Chúa Giêsu, xin đẩy xa xã hội chúng con đang sống nạn tham ô, tham nhũng. Xin cho những người giàu biết rộng lòng chia sẻ của cải cho người nghèo. Xin giúp chúng con luôn thấy được, nghe được, cảm nghiệm được sự nghèo khó của những người kém may mắn trong xã hội, để chúng con luôn biết sống tinh thần liên đới, rộng tay ban phát và chia sẻ những gì có thể cho họ. Amen.
41. Hai cảnh đời trái nhau – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ: “Hai đứa trẻ” đã viết:
“Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới”.
Hai đứa trẻ xem ra giống nhau vô cùng, cùng ngây thơ, khờ dại và hồn nhiên, nhưng lại quá khác xa nhau:
“Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày: “Nhạt lắm! Em không ăn!”.
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chửi!” (Tố Hữu-Hai đứa trẻ)
Đó cũng là bức tranh hiện sinh của xã hội con người ngày hôm nay, khi sự chênh lệch ngày một quá lớn giữa các nước trên thế giới, và giữa những người quá giàu và quá nghèo. Người ta ước tính tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống. Dụ ngôn của Chúa nhật 26 năm C lại một lần nữa cho chúng ta thấy sự liên đới, cách sử dụng tiền của Chúa ban quan trọng biết bao cho phần rỗi đời đời của mỗi người.
Liên đới trong trách nhiệm chia sẻ
Ông phú hộ giàu có xét cho cùng cũng chẳng có tội tình gì. Nhà của ông làm tiệc, linh đình trong hoan lạc, ngây ngất lẫn men nồng, đắm say trong yến tiệc. Ông mặc gấm vóc lụa là, người hầu kẻ hạ. Ông sung sướng hưởng thụ những gì mình có. Chung quy lại, trước mặt mọi người ông chẳng có gì để lên án. Thế nhưng chuyện không dễ như vậy. Oái ăm thay, lại có kẻ: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà ông giàu có, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”(Lc 16,20). Ông nhà phú hộ đáng ra phải lưu tâm đến một Lazaro nghèo khó đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Trong thế giới toàn cầu hóa, trách nhiệm liên đới luôn là một đòi hỏi cấp bách. Người ta không thể dửng dâng và đứng nhìn những La-za-rô đang chết dần chết mòn trong những nỗi thống khổ của họ. Cũng như ông Phú Hộ, con người sẽ bị án phạt khi sống vô cảm và thiếu sự chia sẻ cho những hoàn cảnh éo le trong cuộc đời. Tài sản mà nhân loại đang sở hữu chính là do Thiên Chúa ban một cách nhưng không. Người Phú Hộ đã sai lầm khi cho rằng mình có quyền hưởng những gì mình thích, mà không hề biết quan tâm đến một số phận của một con người. Người đó không đâu xa mà là nằm ngay trước cổng nhà mình. Thiếu trách nhiệm với tha nhân, nhất là trong tình liên đới đại đồng. Ông Phú Hộ đã trầm luân trong bể khổ, mà không thể nào quay lại được.
Liên đới trong trách nhiệm yêu thương
Người Việt Nam có những câu ca dao rất đẹp trong tình yêu thương nhau:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống mà chung một giàn”
Hoặc: “ Những điều phủ lấy giá gươm,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
Vâng đúng như vậy, giới răn thương yêu là cốt lõi của mọi lề luật, bác ái chính là khởi xuất từ yêu thương, mà yêu thương chính là ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Những người giàu có nếu biết dùng những của cải chóng qua ở đời tạm này, mà làm những việc lành phúc đức, thì họ sẽ trở nên rạng ngời trước Danh Thánh Chúa. Ông Phú Hộ mời rất nhiều khách để dự tiệc. Nhưng tiếc rằng người nghèo khó ngay trước cổng nhà mình thì không được quan tâm giúp đỡ. Giống như nhận xét của Mẹ Têrêxa “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
So sánh hai cuộc đời của nhà Phú hộ và ông La-za-rô để cho thấy:
– Hai lối sống khác nhau đã làm nên hai điều trái ngược. Nếu như người nghèo khó La-za-rô suốt đời phải sống trong túng cực, bị mọi người khinh chê thì khi chết, ông lại được trọn vẹn phần thưởng lớn lao ở trên Thiên đàng.
– Ông Phú Hộ thì ngược lại lúc sống đã hưởng thụ hết bao điều tốt đẹp trên trần gian, thì số phận của ông lại là một kết cục bi thảm hoàn toàn. Ông phải trọn kiếp trong đau đớn của ngày phán xét chung thẩm.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết giúp đỡ mọi người, thực thi các giới răn Chúa dạy, và luôn quảng đại chia sẻ với những anh chị em đang trong những cảnh đời vô cùng éo le. Amen.
42. Niềm hy vọng của nhân loại
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
“Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn “Phú ông và Lazarô.”
Hai con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Thế giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh “lau tay” đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn “có lòng” hơn phú ông khi không “cắn gậy ăn mày,” nhưng đến liếm các mụn ghẻ cho anh ta.
Thời xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh “lau tay” mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.
Nhưng rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.
Ân phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật “ăn mày” trong dụ ngôn trên. Lazarô có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi.” Như thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham–cha những kẻ tin.
Còn người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì cả cho kẻ khốn cùng.
Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được.
Người nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.
Một nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.
Hai là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.
Hoả ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: “Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này”(Noel Quesson).
Nếu tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời cho tôi.
Dụ ngôn “Phú ông và Lazarô” là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực cho việc phán xét sẽ được đưa ra.”
“Chúng ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và Ngài sẽ nói: “Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta.”
“Kẻ bé mọn” không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao ban.
Thế nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.
43. Giúp đỡ tha nhân – Lm. Minh Vận, CRM
Một hôm, được tin có một gia đình đang lâm cảnh cùng quẫn, đến nỗi không còn một chút lương thực cho đàn con đang đói lả; Mẹ Têrêxa Calcutta và một số chị em Dòng Bác Ái tới thăm viếng và đem cho gia đình này một bao gạo. Khi vừa nhận được bao gạo các Nữ Tu tặng, bà mẹ của gia đình này đã vội chia ra làm hai và đem đi một phần, chỉ để lại cho gia đình một phần.
Mẹ Têrêxa rất lấy làm bỡ ngỡ hỏi: “Bà đem đi đâu vậy?” Bà mẹ này trả lời: “Con đem đến cho một gia đình nghèo cũng như gia đình con ở gần đây đang bị đói lả. Con nghĩ cần phải chia sẻ với họ trong hoàn cảnh túng cực này”.
Mẹ Têrêxa và các Nữ Tu của Mẹ cảm động đến rơi lệ, trước nghĩa cử bác ái và tấm lòng quảng đại của bà mẹ nghèo trong gia đình túng quẫn này.
- TẠI SAO NGƯỜI GIẦU BỊ CHÚA CHÚC DỮ
Của cải là những ơn huệ Chúa ban để giúp con người sinh sống mà phụng sự Chúa và làm vinh danh Ngài, vậy tại sao Chúa lại thường nặng lời chúc dữ những người giầu? Chúng ta sẽ đọc thấy những lý do ngay trong những lời Chúa chúc dữ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giầu có, vì các ngươi đã được an ủi rồi! Khốn cho các ngươi là những kẻ hiện nay đã được no nê, vì sau này các ngươi sẽ bị đói khổ! Khốn cho các ngươi bây giờ tươi cười sung sướng, vì mai sau các ngươi sẽ phải âu sầu than khóc!” (Lc 6:24-25)
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy Chúa thường ban của cải giầu sang chức quyền cho những tôi trung con thảo của Chúa, chẳng hạn như các tổ phụ: Abraham, Maisen, Đavit, Job. Các ngài thường được Chúa chúc phúc và ban cho đông con nhiều cháu như sao trên trời như cát bãi biển, lại được của cải dư tràn: Vàng bạc, trâu châu, đá ngọc, hạt trai, hoa mầu ruộng đất phì nhiêu, những đoàn gia súc chiên bò, dê cừu vô số… Nhưng các ngài đã luôn ý thức và chân nhận rằng: Tất cả những của cải đó đều là những ơn phúc do lòng nhân từ Chúa ban, còn các ngài chỉ là những viên quản lý những kho tàng Chúa ủy thác, nên phải xử dụng theo đúng thánh ý Chúa. Hơn nữa, các ngài còn ý thức được nhiệm vụ phải làm cho số vốn Chúa trao sinh sôi nảy nở, bằng cách dùng chúng để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Rồi khi Chúa cất lấy, các ngài thưa với Chúa như tổ thụ Job: “Chúa đã ban cho, rồi Chúa cất lấy, con xin chúc tụng danh Chúa!” Các ngài không phàn nàn kêu trách, mà còn hân hoan xin cho thánh ý Chúa nên trọn.
Nhưng với những người giầu tiền của mà tự kiêu tự đại, cậy chức quyền, cậy tiền của, tự cho mình là chủ mọi sự, không cần đến ai, khinh dể mọi người, ăn chơi xa xỉ, tiêu xài phung phí, chè chén say sưa, yến tiệc tối ngày, hưởng lạc thâu đêm, như trong bài đọc nhất chúng ta vừa nghe. Họ không hề quan tâm đến nỗi thống khổ của những người túng thiếu; họ không hề biết thông cảm với những người xấu số, bị bỏ rơi và cô độc đang rên xiết trong cảnh túng cực.
Chính vì lạm dụng những ơn huệ Chúa ban, mà những người nhiều tiền lắm của này đã chuốc lấy cái khổ vào thân; họ trở nên nô lệ cho tiền của, bị tiền của làm cho họ tối mắt, không nhận ra Đấng làm chủ mọi sự và những ơn huệ Ngài ban, để cảm tạ Ngài.
Để ngăn ngừa chúng ta khỏi mắc phải những lỗi lầm đó, Chúa đã ân cần nhắn nhủ: “Hỡi các ngươi là những kẻ cậy dựa vào tiền của, thật khó vào Nước Thiên Đàng biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Đàng” (Mc 10:24-25) và (Lc 18:24-25).
Dụ ngôn người giầu sang và ông Lazarô nghèo hèn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nêu lên cái số phận bi đát của người giầu trong cuộc sống mai hậu, vì ông đã được tận hưởng sự giầu sang phúc quí, mà không hề động lòng trắc ẩn trước nỗi thống khổ nghèo nàn túng thiếu, bệnh tật ghẻ lở của con người xấu số là Lazarô đang ngồi gần cổng nhà ông. Đồng thời, Chúa cũng đề cao cái hạnh phúc may mắn mà Lazarô đã được ân thưởng trên nơi vĩnh phúc. Hai hình ảnh thật tương phản và xa cách nhau muôn phần. Qua lời tổ phụ Abraham nói với người giầu, đang rên xiết cầu cứu sự trợ giúp của Lazarô, cho chúng ta hiểu được bài học Chúa dạy trong dụ ngôn này: “Hỡi con, suốt đời con được toàn sự lành; còn Lazarô toàn gặp sự khốn khó. Vậy bây giờ Lazarô được an ủi ở chốn này; còn con thì phải chịu khốn khổ. Điều đó quả là đích đáng”.
- ĐỂ ĐÁNG ĐƯỢC CHÚA ÂN THƯỞNG
Để đáng được Chúa chúc phúc và ân thưởng hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta trên Quê Trời trong đời sống mai hậu, chúng ta hãy quyết địch thực thi mấy điểm sau đây:
Nếu chúng ta là những người được Chúa ban dư giả những của cải vật chất, chúng ta hãy biết thương cảm những nỗi sầu khổ của tha nhân, bằng cách chia cơm sẻ áo với những người túng thiếu nghèo nàn.
Nếu chúng ta là những người gặp may mắn, có địa vị chức quyền, được mạnh khoẻ, nhiều khả năng, được hưởng an bình, tự do và hạnh phúc, chúng ta hãy dùng những ân huệ Chúa ban để trợ giúp tha nhân, nâng đỡ những người yếu kém cô thân cô thế, an ủi những người sầu khổ, khích lệ những người ngã lòng nản chí, nâng dậy những người sa ngã.
Hơn nữa, là con cái Chúa, chúng ta được hưởng muôn vàn ân huệ siêu nhiên Chúa ban, chúng ta hãy cầu nguyện và trợ giúp những anh chị em chưa được diễm phúc làm con cái Chúa, những người chưa nhận biết chân lý, chưa được ánh sáng Đức Tin chiếu soi, nhất là những người lầm đường lạc lối, những người cố tình chống đối Thiên Chúa, để họ được ơn trở về làm hòa với Chúa, phụng sự và yêu mến Người.
Chúng ta còn có nghĩa vụ khẩn thiết là rao giảng Tin Mừng Cứu Rỗi cho tha nhân, chinh phục họ trở về với Chúa; chúng ta hãy luôn tâm niệm và tự răn mình theo gương Thánh Phaolô: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cho anh chị em tôi”. Chớ gì lời đó trở nên lẽ sống thúc đẩy chúng ta luôn biết tha thiết đến phần rỗi anh chị em chúng ta, tức là chu toàn nghĩa vụ đem Chúa đến cho tha nhân, bằng chính cuộc sống thánh thiện như mẫu gương chiếu giãi, trước tiên cho những phần tử trong gia đình, cùng sống chung một nhà, rồi đến họ hàng thân quyến, bạn hữu và tất cả những người chúng ta giao tiếp hằng ngày, tùy theo hoàn cảnh hợp với địa vị và môi trường của mỗi người chúng ta.
Kết Luận
Tấm lòng quảng đại của bà mẹ nghèo trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã biết quan tâm chia sẻ những nhu cầu sinh sống cấp bách, với những người cùng cảnh ngộ đói khổ như mình, là một tấm gương đáng chúng ta suy nghĩ, cảm phục và noi theo bắt chước. Chúng ta lại không có thể hy sinh làm được đôi việc bác ái tương tự như thế cho anh chị em chúng ta vì lòng yêu mến Chúa sao?
Lạy Mẹ, Mẹ là Hiền Mẫu hằng nhân từ thương yêu ban mọi ơn lành cho con cái và tất cả chạy đến cầu khẩn với Mẹ, không bao giờ để họ phải trở về tay không, xin Mẹ dạy chúng con biết noi theo lòng nhân từ bác ái cao cả của Mẹ, để chúng con biết mở rộng tấm lòng trước nỗi thống khổ của tha nhân, như giáo huấn Chúa đã dạy chúng con.
44. Người nghèo… nằm bên cổng nhà
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Dụ ngôn Đức Giêsu kể cho chúng ta hôm nay được xếp vào loại chú giải “các dụ ngôn khủng hoảng đạo đức”, giúp chúng ta nhận thức được vấn đề đích thực trong đời sống, và đặc biệt cảnh báo chúng ta rằng sau thời gian của lòng thương xót, chắc chắn đến sự phán xét bất ngờ.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta, Ngài đã xây dựng cốt truyện hợp tình hợp lý khi dựng cảnh và giới thiệu các nhân vật, rồi kết luận bất ngờ, buộc chúng ta phải im lặng và suy nghĩ.
Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đinh” báo trước, đây là người không có nhân đức chừng mực; nhưng không nói ông đã làm giầu cách bất lương: ông dùng của cải ông có. Tương phản liền với câu văn sau (anh Lazarô nghèo), gợi lên những chỉ trích phê bình. Người phú hộ, nếu có điều kiện ông sẽ chè chén, đó là việc làm của ông; nhưng ông không nhận ra anh Lazarô nghèo nằm ngày ở cổng nhà mình là một điều không thể chấp nhận được.
Đời sống ích kỷ khiến ông chỉ chú ý đến mình và qui mọi sự về mình, nên ông bị mắc kẹt trong sự thờ ơ, trở thành tù nhân của nhà tù mạ vàng của chính ông. Ông đã trở nên mù quáng trước nhu cầu của người anh em đồng loại, và điếc trước tiếng gọi của Thiên Chúa từ bi ái tuất.
Sự kiện bất ngờ ập đến với nhà phú hộ và anh Lazarô nghèo là cả hai cùng chết, cùng chịu xét xử cách. Đức Giêsu cho thấy rõ bản án thật nghiêm khắc: người nghèo vui mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem lên trời nơi lòng Abraham, vui mừng giữa các triều thần thánh. Còn nhà phú hộ được đem đi chôn cất trong lòng đất. Mỗi người bằng bắt đầu cuộc sống của mình sau cái chết: người nghèo được tách khỏi thế gian này, anh có thể được cất nhắc lên trời; người giầu khám phá ra sự hư không của một cuộc đời với những thú vui trần thế.
Thật đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn toàn bị đảo ngược sau khi chết, cuộc đối thoại giữa Abraham và người giầu có khẳng định điều đó: nhà phú hộ đau khổ tột cùng, ông nài xin Lazarô cho ông một chút nước để làm mát lưỡi. Thật không thể nào hiều nổi một “vực thẳm” ngăn cách, khiến người ta không thể làm được một cử chỉ nào với lòng thương xót. “Vực thẳm không thể qua được này” đề cập đến sự cần thiết phải hoán cải ngay lập tức. Ngay hôm nay cần phải thức tình “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), ngày mai sẽ quá muộn.
Dụ ngôn kết thúc ở đây: như một lời nhắc nhở hữu ích về ảo tưởng của sự giầu sang mà tiên tri Amos đã loan báo mạnh mẽ trong bài đọc I. Tuy nhiên, trong trình thuật Đức Giêsu lại làm nổi bật hơn, khi đưa ra một vấn đề thời sự khá bất ngờ, buộc người nghe phải đặt mình trong tương quan với bản thân.
Nhà phú hộ xin với Cha Abraham, nếu không bớt được đau khổ cho ông thì ít ra cũng cảnh báo anh em ông khỏi rơi vào cảnh buồn tủi thế này. Câu trả lời của tổ phụ Abraham nại đến “Môisen và các tiên tri” sẽ thức tỉnh lương tâm họ: nhưng theo nhà phú hộ thì các chứng nhân Cựu Ước không đủ để thức tỉnh anh em ông về sự quyến rũ của thế gian này. Nên ông nài nỉ: “Nhưng nếu có ai đó trong kẻ chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Lời khước từ của Abraham khép lại dụ ngôn ngày lập tức: “Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
Rõ ràng: nếu chúng ta từ chối nghe lời Thiên Chúa không ngừng kêu gọi sám hối ăn năn, cứ đóng kín lòng mình trong sự ích kỷ của cái tôi, chúng ta sẽ không thể gia nhập cộng đoàn huynh đệ đã được Đức Kitô Phục sinh khai mở.
Cánh cửa Năm Đức Tin đang từ từ khép lại, thiết tưởng chúng ta cùng nhau nghe lời dạy của Thánh Công Đồng Vaticanô II:
Của cải trần gian là để cho mọi người hưởng dụng. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền xử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái. Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi xử dụng của cải, con người phải coi của cải vất chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình mình. Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Giáo Hội đã nghĩ như thế. Các ngài dạy rằng mọi người có bổn phận phải nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của dư thừa. Còn những người sống trong cảnh cùng quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở của cải người khác những gì cần thiết cho mình. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới, Thánh Công Đồng thiết tha kêu gọi mọi người hoặc mọi chính quyền hãy nhớ laị lời sau đây của các Giáo Phụ: “hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn tức là đã giết họ”. Tùy theo khả năng, họ nên thực sự san sẻ và dùng của cải của mình đặc biệt để giúp phương tiện cho mỗi người hoặc cả một dân tộc để chính họ có thể tự túc và phát triển. “Gaudium et Spes”, • 69.
Vậy, hãy hướng nhìn về Chúa Giêsu, là nguồn gốc và cùng đích của đời sống đức tin, hãy sống “trong tình yêu, kiên trì và hiền hậu; tuân giữ huấn lệnh Chúa truyền”, nghĩa là: sống trong tình bác ái huynh đệ chịu đựng lẫn nhau, cho tới ngày chúng ta ra trước tòa Thiên Chúa, “là Chúa tể duy nhất, là Vua các vua, Chúa các chúa, chỉ mình Ngài tồn tại đến muôn đời” đón chúng ta vào nhà của Chúa và ban cho chúng ta sự sống của Chúa, thể theo sự quan phòng nhân từ của Ngài đối với chúng ta, qua Đức Giêsu Kitô (Ep 1). “Nơi Người, mọi vinh quang và quyền lực dến muôn đời. Amen!”
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rôbốt, người ta đang cố gắng tạo ra rôbốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác không bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm”. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?
Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về việc thực thi lòng thương xót: “Phúc cho những ai có lòng thương xót, thì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta gắn liền với lòng thương xót của chúng ta đối với người lân cận. Câu chuyện về người nhà giầu và anh Lagiarô là một bằng chứng.
Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19) chứng tỏ đây là người không có nhân đức chừng mực; nhưng không nói ông đã làm giầu cách bất lương, hoặc từ chối lời xin của Lagiarô, vì Lagiarô không có xin: ông dùng của cải ông có. Tương phản với “anh Lagiarô nghèo, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc” (Lc16,20), gợi lên những chỉ trích phê bình. Cảnh này nhắc lại lời quở trách nặng nề của Con Người trong ngày sau hết: “Ta đã đói và các ngươi không cho ăn, đã khát và các ngươi đã không cho uống, đã trần truồng và các ngươi đã không cho mặc” (Mt 25,42-43). Khi loại trừ Lagiarô, ông đã không để ý gì đến Chúa. Người phú hộ có điều kiện, ông chè chén, đó là việc làm của ông; nhưng ông không động lòng trắc ẩn trước kẻ khó nghèo nằm ở cổng nhà mình là một điều không thể chấp nhận được.
Sự kiện bất ngờ ập đến là cả nhà phú hộ và anh Lagiarô nghèo cùng chết, cùng chịu xét xử. Đức Giêsu cho thấy, bản án thật nghiêm khắc: người nghèo vui mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem vào lòng Abraham, vui mừng giữa triều thần thánh. Còn nhà phú hộ được đem chôn vào lòng đất (x. Lc 16,22). Mỗi người bằng bắt đầu cuộc sống của mình sau cái chết: người nghèo được tách khỏi thế gian này, anh có thể được cất nhắc lên trời; người giầu khám phá ra sự hư không của một cuộc đời với những thú vui trần thế.
Thật đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn toàn bị đảo ngược sau khi chết, cuộc đối thoại giữa Abraham và nhà phú hộ khẳng định điều đó: nhà phú hộ đau khổ tột cùng, ông nài xin Lagiarô cho ông một chút nước để làm mát lưỡi. Thật không thể nào hiều nổi một ‘vực thẳm’ ngăn cách, khiến người ta không thể làm được một cử chỉ nào với lòng thương xót. ‘Vực thẳm không thể qua được này’ đề cập đến sự cần thiết phải hoán cải ngay lập tức. Lời Chúa hôm nay thêm một động lực giúp ta thực hành Lời Chúa tuần trước là: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9).
Nhà phú hộ không bị kết án vì của cải của mình, ông bị kết án vì bênh vô cảm, không có khả năng cảm thương đồng loại là Lagiarô, đại diện cho tiếng kêu thầm lặng của người nghèo thuộc mọi thời đại và sự mâu thuẫn của một thế giới, trong đó các của cải và tài nguyên mênh mông nằm trong tay một ít người.
Đây là một bài học đắt giá cho mỗi người chúng ta. Vậy, hãy mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.
Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).
Xin Chúa đánh động trái tim chúng ta, để chúng ta nhận ra những người nghèo khó, rách rưới, đang cần đến miếng cơm của thương xót, chiếc áo của lòng từ bi, che phủ những vết ghẻ chốc, vực dậy và gìn giữ phẩm giá cao quý của con người, và không từ chối giúp đỡ họ. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sự phân hóa giàu nghèo trên thế giới nói chung và ở nước ta nó riêng ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế của cuộc sống hàng ngày. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, những hình ảnh kẻ giầu người nghèo đối chiếu như giữa đô thị rực rỡ đèn màu về đêm, vẫn chen chúc những căn lều xiêu vẹo trong con hẻm tối tăm, hay trong khi có các đại gia chi tiêu hàng chục triệu đồng cho một buổi tiệc tiếp đãi các bạn bè thì vẫn có những gia đình không đủ ngày hai bữa cơm.
Câu chuyện Chúa Giêsu kể ngày xưa, hôm nay vẫn còn mang tính thời sự. Người đặt chúng ta đối diện với tình trạng bất công xã hội phát sinh từ sự chênh lệch giữa kẻ giàu, người nghèo. Phải chăng cái hố sâu giàu nghèo chưa khiến chúng ta đau lòng hay sao mà phải làm đậm nét thêm phần bi thảm? Câu chuyện về anh chàng Lagiarô nghèo làm chúng ta giày vò và thấy cần phải điều tiết công bằng xã hội, một bên là: “Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy”. Bên kia là người: “Vận toàn gấp vóc lụa là, ngày ngày yếu tiệc linh đình”. Rõ ràng là phân hóa: người giàu có quần áo sang trọng mặc, trong khi người nghèo được bao phủ với những vết loét ghé chốc (x. Lc 16,19-21).
Tình thế cân bằng đã đến khi: cả hai cùng chết. Nhưng, chính lúc đó, sự khác biệt càng gia tăng: vì người thì được đưa vào lòng Abraham, kẻ thì được đem chôn. Nếu ai chưa bao giờ nghe đọc câu chuyện của Chúa Giêsu, hẳn người ta sẽ phỏng đoán, người giành được phần thưởng hẳn phải là người giàu, và người bị bỏ rơi nơi phần mộ, đương nhiên là người nghèo rồi. Thật lôgích.
Nhưng lời miệng Abraham, người cha trong đức tin, đã tiết lộ cho chúng ta thấy bản án cuối cùng thật rõ nét: “Abraham nói lại: Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Lagiarô gặp toàn sự khốn khổ” (Lc 16,25). Sự công chính của Thiên Chúa đã thay đổi tình thế. Thiên Chúa không thể để người nghèo cứ khổ đau, túng cực và nghèo hèn mãi.
Thật không có câu chuyện nào thê thảm hơn người nhà giàu, ông chỉ mong muốn được giải thoát khỏi sự khổ đau đời đời, sau khi đã sống một cuộc đời giàu sang, gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc, nhưng lại chẳng biết xót thương người ngay trước cửa nhà đói khổ, phơi trần những vết thương. Đây là thái độ vô cảm. Vô cảm đến độ có mắt mà không thấy, sống mà không biết rung động tâm can, để rồi dù thật hối hận ở đời sau, nhưng đã muộn. Phải chăng ông ta đã tự chọn cho mình số phận như thế?
Bài học của người giầu có trên là một bài học đắt giá cho mỗi người chúng ta, những người có niềm tin vào Chúa đang sống Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Lời Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn còn vang lên như tiếng chuông báo động.
Cởi mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.
Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).
Đức Thánh Cha khuyên chúng ta thực hành Mười Bốn Mối Thương Xót, trong đó Tin Mừng hôm nay đề cập đến: Thứ Ba cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Chúa Giêsu hiện diện trước cửa nhà giầu nơi Lagiarô nghèo khó, rách rưới, đang cần đến miếng cơm của thương xót, chiếc áo của lòng từ bi, để che phủ những vết ghẻ chốc, để vực dậy và gìn giữ phẩm giá cao quý của con người. Phẩm giá này không bao giờ mất đi, dù con người có ghẻ chốc đi chăng nữa.
Trải qua lịch sử với thời gian, câu chuyện của Chúa Giêsu đã đánh động hàng triệu con tim những người giàu và đã có biết bao người hoán cải; Nhưng đâu là sứ điệp chúng ta cần ngày hôm nay, trong một xã hội phát triển, đô thị hóa nông thôn, toàn cầu hóa khu vực? Chúng ta giải thích thế nào về tình trạng bất công xã hội, chênh lệch giầu nghèo ngày càng gia tăng mà chúng ta đang là tác nhân, ít hay nhiều, hoặc là đồng lõa?
Tất cả những ai nghe sứ điệp của Chúa Giêsu đều nghĩ rằng mình có thể vẫn ở trong lòng Abraham, nhưng, trong thế giới ngày nay, có biết bao nhiêu người không đành lòng sau khi chết được chôn cất, mà không nhận được sự an ủi của Chúa Cha trời? Sự giàu có đích thực sẽ đến, chính là ngày được nhìn thấy Thiên Chúa, và điều chúng ta thiếu chỉ là điều thánh Augustinô khẳng định: “Theo con người và ta sẽ đến với Chúa”. Ước gì Lagiarô giúp con người thời nay tìm thấy Chúa.
Lạy Chúa xin mở mắt con, để con luôn nhân từ, và nhìn thấy anh chị em bên cạnh con, trong lúc họ rơi vào tình trạng đói khát, rách rưới, bệnh tật mà ra tay giúp đỡ.
Xin đánh động trái tim con, để con cảm nhận được những khổ đau của anh chị em bên cạnh, và không từ chối giúp đỡ họ. Lạy Chúa, xin cho lòng thương xót của Chúa luôn hiện diện trong con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Không ai lại không có mong muốn hoặc mơ ước, dù chỉ là những mơ ước bình thường. Vì không có, vì thiếu hoặc vì ưa thích cái gì đó nên chúng ta mơ ước. Mơ ước cũng có thể xấu hoặc tốt. Cẩn tắc vô ưu!
Voltaire (1694-1778, tên thật là François-Marie Arouet, nhà thần luận kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chúng ta không thể mong ước điều mình không biết”. Câu nói đơn giản mà chí lý. Thật vậy, không ai lại mơ ước cái mà mình không hề biết nó thế nào. Rõ ràng điều ước đó là ngu xuẩn!
Mơ ước phải LỚN HƠN nỗi sợ hãi. Có vậy chúng ta mới dám làm những gì cần thiết để đạt được mơ ước – dĩ nhiên ở đây chỉ đề cập mơ ước tốt lành mà thôi.
Mơ ước và số phận có hệ với nhau theo chuỗi lô-gích: Có suy nghĩ mới có mơ ước, mơ ước nên cần nói ra, lời nói sẽ dẫn tới hành động, hành động sẽ tạo nên thói quen, thói quen sẽ hình thành tính cách, tính cách sẽ hóa thành số phận. Có thể “so sánh” số phận chính là định mệnh.
Sống sao chết vậy. Đó là một hệ lụy tất yếu. Sống xả láng, chơi bời trác táng, ăn uống thỏa cơn thèm, chắc chắn có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Món này ngon, nhưng không phải ai cũng ăn được. Tâm linh cũng thế, cần kiêng cái này và phải cữ cái nọ!
Qua miệng ngôn sứ A-mốt, Thiên Chúa đã cảnh cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1a). Thiên Chúa chúc dữ cho những người nhàn hạ như vậy, còn người ta nói: “Nhàn cư vi bất thiện”. Thế thì nhàn đâu có sướng, sướng đâu có thích, thích đâu có khỏe. Tại sao? Ăn ngon thì sinh bệnh, bị bệnh thì không khỏe, không khỏe thì bao nhiêu tiền cũng chẳng mua được. Thảo nào tiền nhân đã ví von chí lý: “Sức khỏe là vàng”. Loại vàng này còn quý hơn loại vàng ròng hoặc vàng “bốn số chín” đấy!
Phong cách của những người sống xả láng được Kinh Thánh mô tả thế này: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7). Và hệ lụy tất yếu cũng đã xảy ra. Đối với cuộc đời của chúng ta cũng vậy, điều gì đến cũng PHẢI đến – đã đến, đang đến hoặc sẽ đến! What will be will be – Que sera sera!
Về phương diện xã hội, người ta thường phân chia thành ba giai cấp: thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu. Tóm gọn và đơn giản hóa, chúng ta có thể chia làm hai giới: giàu và nghèo. Người ta chỉ thích người giàu, không ai thích người nghèo – vì sợ “hãm tài”. Nhưng Thiên Chúa lại trái ngược và đối lập với chúng ta.
Thiên Chúa như thế nào? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rõ về phong cách của Ngài: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7-9).
Đôi khi người ta tự mâu thuẫn, họ biết rõ điều gì đó tốt lành và đáng mơ ước, thế nhưng người ta lại không làm. Chẳng hạn, ai cũng biết việc vận động thể lý là điều cần thiết để sống khỏe nhưng có mấy ai kiên trì áp dụng? Đến lúc đuối sức rồi mới mơ ước. Muộn rồi! Tài năng thiên phú cũng cần được trau dồi, phải khổ luyện không ngừng.
Cách sống tâm linh cũng tương tự, tức là cũng phải không ngừng vận động – tránh điều xấu, làm điều tốt. Nói với Timôthê, ông Phaolô khuyên nhủ thiết tha: “Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (1 Tm 6:11-13). Đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta.
Ông Phaolô truyền lệnh cho Timôthê, đồng thời cũng là lời giải thích và xác định: “Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời” (1 Tm 6:14-16).
Thiên Chúa giàu có nhất nhưng tự nguyện trở nên nghèo khó nhất, nhờ đó mà chúng ta được giàu sang. Thiên Chúa dũng mãnh nhất nhưng tự nguyện trở nên yếu đuối nhất, nhờ đó mà chúng ta được vững mạnh. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối thì Ngài sẽ ban sức mạnh cho chúng ta, khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, khiêm nhường nhận biết mình nghèo hèn thì Ngài sẽ làm cho chúng ta giàu sang.
Giàu không có tội, nhưng có thể là mối nguy. Nghèo chưa hẳn là phúc nếu không trong sạch, và nghèo vẫn có thể là mối nguy nếu trộm cướp vì viện cớ là mình nghèo. Thái quá hóa bất cập. Tác giả sách Châm Ngôn đã khôn ngoan cầu nguyện: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài. Nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con” (Cn 30:8-9).
Trình thuật Lc 16:19-31 nói về dụ ngôn “Ông Nhà Giàu và Anh Ladarô Nghèo Khó”. Dụ ngôn cho biết có một người giàu sang, mặc toàn đồ “hàng hiệu”, đi xe hơi xịn, ở biệt thự sang trọng, và ngày nào cũng tiệc tùng linh đình. Ngoài cổng biệt thự nhà ông có anh chàng Ladarô nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống mà ăn cho no cũng không được. Vừa khổ vừa đói đã đành, đằng này lại có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc trên thân thể của anh ta. Nghèo tới tận cùng bảng số, nghèo đến nỗi cũng chẳng có mồng tơi mà rớt!
Sinh ký, tử quy. Thế rồi cả người nghèo và người giàu đều chết. Người nghèo được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham, còn người nhà giàu phải vào chốn khổ hình đời đời. Tội của ông không phải là giàu sang phú quý, mà là tội phung phí tiền bạc vào những lạc thú trần gian vô bổ, là tội không biết xót thương người nghèo. Sướng trước rồi thì bây giờ phải nhường cái phúc cho người khác. Đó là hệ lụy công bình mà thôi!
Đang khi chịu cực hình từ dưới âm phủ, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta xin tổ phụ Ápraham thương xót mà sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi để làm mát ông, vì ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Khổ rồi mới biết sợ, nhưng sự hối hận đã quá muộn màng!
Ông Ápraham phân tích chi tiết: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”. Hai cuộc đời có hai cách sống khác nhau, thế nên hệ quả cũng hoàn toàn khác nhau.
Cầu cứu cho mình không được, ông nhà giàu bèn cầu cứu cho thân nhân. Ông xin Tổ phụ Ápraham sai anh Ladarô đến nhà ông báo hung tin cho năm người anh em của ông mà chấn chỉnh cách sống, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình như ông. Nhưng ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói rằng họ sẽ không chịu nghe, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì họ sẽ ăn năn sám hối. Lắm chuyện, lắm lời, lắm lý lẽ quá!
Ông Ápraham xác định: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Đúng vậy, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, thấy quan tài rồi thì không kịp đổ lệ nữa. Có biết bao lời cảnh báo, nhưng người ta chỉ sợ khi mới nghe, vài ngày là quên ngay, rồi đâu vẫn vào đấy!
Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy Thiên Chúa đề cao lòng trắc ẩn, đề cao đức ái, vì đức ái là đức mến – một trong ba nhân đức đối thần (Tin – Cậy – Mến). Đức ái cao trọng hơn cả (1 Cr 13:13), vì đức mến tồn tại ở cả đời này và đời sau – đức tin và đức cậy không còn ở đời sau nữa.
Đức ái còn quan trọng bởi vì chúng ta “làm gì cho những người bé nhỏ là làm cho chính Thiên Chúa” (Mt 25:40). Mẹ Thánh Teresa Calcutta đã thực hiện như vậy. Mẹ nói về cách yêu thương: “Quan trọng không phải chúng ta cho đi bao nhiêu, mà là chúng ta dành bao nhiêu sự yêu thương để cho đi. Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại”. Người Việt chúng ta cũng có cách nói tương tự: “Của cho không bằng cách cho”.
Hai con người nhưng có ba điều ước: [1] Ladarô mơ ước chút thực phẩm thừa mà không được, [2] người nhà giàu mơ ước những giọt nước để làm dịu cơn nóng bức mà không được, [3] người nhà giàu mơ ước có người chết về báo cho thân nhân nhưng cũng không được. Điều đáng lưu ý là mơ ước [2] và [3] của người nhà giàu, vì những điều ước của ông ta quá muộn màng rồi, không thể được nữa!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết mền yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, xin làm cho con trở nên ánh sáng của Ngài và khí cụ bình an của Ngài, xin biến ước muốn tốt lành của con thành hiện thực để vinh danh Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
William Cowper (1731-1800, Anh quốc), thi sĩ và nhạc sĩ viết Thánh Ca, nhận xét: “Vinh quang xây trên nền tảng ích kỷ là nỗi hối hận và sự xấu hổ”. Nhà có tốt mấy mà nền dở sẽ nguy hiểm. Ân hận thôi!
Ân hận (ăn năn, sám hối, hối hận, hối tiếc) là cảm giác ray rứt về sai lầm hoặc tội lỗi của mình. Sự ân hận rất cần thiết. Sự ân hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng, nhưng với Thiên Chúa thì không hề muộn, vì lòng thương xót của Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân. Nhưng nỗi ân hận sẽ muộn màng nếu chúng ta đã chết!
Trình thuật Lc 16:19-31 cho chúng ta biết về “nỗi ân hận muộn màng” này. Đó là dụ ngôn “Phú Hộ và Ladarô” – một người giàu có hoang phí và một kẻ nghèo khổ khốn cùng.
Người ta gọi đó là Định Mệnh hoặc Số Phận, nhưng hãy nhớ rằng Thiên Chúa không tiền định điều xấu. Cái mà chúng ta gọi là định mệnh đó là do chúng ta “chiều xác thịt”, thích đường rộng và trải thảm nhung chứ không muốn đi vô đường hẹp và gập ghềnh, ưa vác “cây vàng” chứ không muốn vác cây thập giá. Hệ lụy có thế nào thì âu cũng là sự công bình mà thôi. Lỗi tại tôi mọi đàng!
Đẹp hay xấu, to hay nhỏ, già hay trẻ, giỏi hay dốt, cao hay thấp (nghĩa đen và nghĩa bóng), giàu hay nghèo,… ai cũng phải qua ải tử. Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng trường sinh bất tử (1 Tm 6:16). Thánh Phaolô cho biết rõ ràng: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Thánh sử Luca tường thuật dụ ngôn “người giàu và kẻ nghèo” khá chi tiết. Chúng ta cùng đọc lại:
Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên:
– Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Ông Ápraham đáp:
– Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
Ông nhà giàu nói:
– Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!
Ông Ápraham đáp:
– Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.
Ông nhà giàu nói:
– Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì họ sẽ ăn năn sám hối.
Ông Ápraham đáp:
– Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.
Dụ ngôn này như một bộ phim, tuy ngắn gọn nhưng súc tích, mô tả cả một quãng đời dài của hai con người. Một người “đẻ bọc điều” với tràng hoa quấn cổ, cứ “vô tư” sống ung dung tự tại mà tận hưởng ngày tháng sung túc, chẳng phải lo lắng, chẳng phải động gì đến cái móng tay; còn một người khốn khổ cả đời, không một chút thảnh thơi nào, chỉ mơ ước những thứ đơn giản nhất mà cũng không có, chỉ thèm khát những thứ thừa thãi của người khác cũng không được.
Vì giàu mà “có” – giàu có, vì nghèo mà “khổ” – nghèo khổ. Và còn hơn thế nữa: Vì NGHÈO mà KHÓ, vì KHÓ mà KHỔ, vì KHỔ mà NHỤC. Đối với con người, ai giàu thì được trọng vọng, đưa đón, nịnh bợ, và được gọi là “người”, là “ông”, là “đại gia”,… còn ai nghèo thị bị khinh miệt, ghét bỏ, xa tránh, miệt thị, và bị gọi là “kẻ”, là “thằng”, là “đứa”, là “nó”,… Ôi, thế thái nhân tình!
Hai con người, hai hoàn cảnh. Theo cách nhìn của phàm nhân, đó là một người KHÔN và một kẻ KHỐN. Khôn và Khốn đều bắt đầu bằng vần “khờ”. Ngày xưa, người ta có Khôn hay Khốn cũng vẫn “ca hát”, còn ngày nay có Khôn hay Khốn cũng đều “khờ” cả thôi! Tuy nhiên, dù “ca hát” hay “khờ” thì vẫn có điều khác biệt giữa đôi bên: được cái này, mất cái kia – hoặc ngược lại. Thiên Chúa chí công!
Ngày xưa, tại nhà ông Simon Cùi, khi có một phụ nữ tội lỗi ngồi khc1 nức nở bên chân Chúa Giêsu, nhiều người thấy “ngứa mắt” nên đã đã “ngứa óc” và “ngứa miệng” mà xì xầm bàn tán với nhau. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã nói với các thực khách hôm đó: “Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có với anh em” (Mt 26:11; Mc 14:7; Ga 12:8).
Thật vậy, người nghèo rất nhiều, nhiều hơn chúng ta tưởng, và họ cũng nghèo hơn chúng ta tưởng – mọi nơi và mọi lúc. Có những hoàn cảnh nghèo khổ tới mức mà chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Họ là những người “bé mọn” mà Chúa Giêsu luôn quan tâm một cách đặc biệt. Mẹ Thánh Teresa Calcutta là người đã thực hiện đúng ý Chúa theo nghĩa đen: phục vụ những người nghèo nhất trong những người nghèo. Ai làm gì cho họ là làm cho chính Chúa Giêsu (Mt 25:40).
Nói về Ông Phú Hộ và Chàng Ladarô Nghèo Khổ, chúng ta thấy có sự cách biệt rõ ràng, một trời một vực. Khoảng cách đó gần mà xa lắc xa lơ, nhỏ hẹp mà rộng thênh thang, như hai đường thẳng không bao giờ đồng quy. Khoảng cách đó là sự kỳ thị giai cấp, người ta cứ bảo “xóa đói, giảm nghèo” nhưng chỉ là “chiến dịch”, là “phong trào”, rồi đâu lại vào đó: Nguyễn Y Vân và Vũ Như Cẩn (vẫn y nguyên, vẫn như cũ). Lũ giàu sụ lại càng tham ô hơn để giàu thêm, còn đám dân nghèo lại càng khổ hơn vì bị bọn tham quan bóc lột tới xương tủy thì lấy gì mà họ có thể sống cầm hơi nữa? Đến gói mì tôm mà bọn quan làng xã cũng chia nhau thì đúng là tàn nhẫn hết nước nói.
Đó là sự sung sướng trước mắt, hiện tại. Họ là những người Khôn Khéo lắm! Ông phú hộ cũng rất thỏa mãn với những gì ông được tận hưởng. Với đám người trọc phú và gian ác này, nỗi ân hận của họ hóa muộn màng. Ông phú hộ là gương điển hình, là lá cờ đỏ và là tiếng chuông báo động để cảnh báo cho những ai chỉ thích vác “cây vàng” và đùn đẩy cây thập giá cho người khác.
Sau khi giã biệt trần thế, ông phú hộ không chịu nổi sức nóng của lửa-đời-đời nên cầu cứu Tổ phụ Ápraham cho vài giọt nước làm dịu cơn nóng bức, nhưng không thể, vì đó là sự công bình của Thiên Chúa: sướng trước, khổ sau – hoặc ngược lại.
Thất vọng về giải pháp cho mình, ông phú hộ nhớ tới thân nhân của ông đang sống xa hoa trên trần thế, và ông xin Tổ phụ Ápraham cho người về báo mộng để cảnh báo họ, nhưng cũng vô ích. Không ai có thể làm sai Luật Công Bình của Thiên Chúa. Ông phú hộ bị án phạt không phải vì ông giàu có, mà vì ông không biết thương xót người nghèo, không biết dùng tiền của để làm việc thiện. Ông ta GIÀU vật chất nhưng lại NGHÈO tình thương. Ông ta mới là Kẻ Khốn Khổ (3K).
Số phận có thể là định mệnh được an bài, nhưng số phận cũng có thể là định mệnh do chính mình tạo nên, nhưng người ta vẫn có thể thay đổi số phận khi sinh thời. Đức năng thắng số. Vâng, sự thật là thế! Và rồi chắc chắn ai cũng một lần đối diện Tử Thần, đó là lúc lâm chung. Giàu có cỡ nào cũng không thể mua được chút sức khỏe hoặc sự sống, tài năng tột đỉnh cũng hoàn toàn chịu thua, y khoa hiện đại nhất cũng chẳng làm gì được.
Cái chết là “ngưỡng” rất đặc biệt, dứt khoát, rạch ròi, phân minh, và số phận không thể thay đổi được nữa! Mọi động thái đều vô nghĩa, mọi nỗ lực đều vô ích. Tất cả là con số KHÔNG rất tròn, rất to và rất trống rỗng. Hãy giật mình trước khi quá muộn!
Ông phú hộ và chàng Ladarô là hai cuộc đời điển hình, hai con người này có hai cách sống, cách biệt nhưng họ vẫn bình đẳng về giá trị nhân vị và nhân phẩm, tất nhiên cũng có hai hệ quả khác biệt: “Những người bất chính ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25:46).
Trong Tân Ước, chúng ta thấy có một trường hợp đặc biệt kịp sám hối ngay trước lúc chết: Tướng cướp Dismas, người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu trên Đồi Ca-vê chiều xưa, chúng ta quen gọi là “người trộm lành”. Ngay cả người cùng bị đóng đinh kia biết mình sắp chết mà vẫn ngang ngược, không chịu ăn năn, thậm chí còn hùng hổ thách thức Chúa Giêsu nữa. Vì thế, đừng tưởng mình cứ xả láng, đợi đến lúc lớn tuổi hoặc gần chết rồi tính. Tai nạn giao thông, thiên tai, cảm gió,… đủ dạng chết bất ngờ. Liệu có thể tính kịp không?
Chẳng ai biết tương lai ra sao, ngày mai thế nào, thậm chí chỉ là lát nữa thôi. Thế thì không có gì hơn là tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô khôn ngoan, luôn chuẩn bị đầy đủ dầu yêu thương và đèn đức tin theo lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25:1-13). Như vậy có nghĩa là phải biết ân hận ngay bây giờ, đừng để nỗi ân hận hóa muộn màng.
Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai. Có ý nói rằng thánh nhân cũng đã từng là tội nhân, và tội nhân vẫn khả dĩ trở nên thánh nhân. Để nỗi ân hận không hóa muộn màng, bí quyết là ĐỪNG bao giờ tuyệt vọng, và hãy chân thành TÍN THÁC vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Sống sao thì chết vậy, gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Người ta gọi đó là “luật nhân – quả”, và đó là sự công bình, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lv 11:45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8), là Đấng Công Chính (Ga 17:25), là Đấng Công Minh (Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14), là Đấng Trung Tín (2 Tx 3:3). Ngài là Tình Yêu (1 Ga 4:8 & 16) nên chúng ta cũng PHẢI yêu thương nhau, thương xót nhau.
Lạy Thiên Chúa chí công và chí thiện, xin giúp con biết Chúa, biết người và biết chính con để có thể thi hành đúng Luật Yêu Thương của Ngài. Xin giúp con luôn biết tận dụng mọi thứ đúng với Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
KHOẢNG CÁCH VẬT CHẤT
“Trong lịch sử, chưa bao giờ nhân loại đạt được một sự bình đẳng dù ở bất cứ một mức độ tương đối nào, nhưng những gì đang tồn tại, thực sự gây nên những mối lo ngại lớn” (Theo nghiên cứu lịch sử kinh tế thế giới 2000 năm qua, The World Economy: History Statistics).
“Mối lo ngại” trước tiên chính là khoảng cách ngày một xa giữa người nghèo và người giàu, giữa nước giàu và nước nghèo. Đó là điều tồi tệ không mong gì cải thiện được.
Lướt qua số liệu tổng kết khoảng cách giữa các nước kém phát triển và các nước phát triển – giữa dân nghèo và dân giàu – càng lúc càng tăng cao, chúng ta mới thấy rõ đúng là “mối lo lớn” thật sự. Nếu năm 1820 khoảng cách là 3:1, sau 30 năm là 35:1, và đến năm 2002 đã là 75:1.
Khoảng cách giàu – nghèo tiếp tục gia tăng
Cuộc đấu tranh vì công bằng của nhân loại hẳn còn cả chặng đường dài: báo cáo mới của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) cho thấy khoảng cách giàu – nghèo ở 30 nước giàu nhất vẫn tiếp tục tăng trong 20 năm qua, đặc biệt là ở Mỹ. Các tiến bộ về thương mại và kỹ thuật đã giúp kinh tế các nước thành viên OECD phát triển nhanh chóng, nhưng đời sống tầng lớp thấp không cải thiện là mấy.
Nghiên cứu trong suốt 20 năm của OECD cho thấy có đến 27/30 nước có tình trạng thu nhập người giàu thì tăng trong khi nhóm còn lại giậm chân tại chỗ. Mỹ là nước có tỉ lệ chênh lệch giàu nghèo cao nhất, chỉ sau Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, và khoảng cách này đã tăng nhanh kể từ năm 2000 tới nay. Pháp trong khi đó giảm được phần nào sự bất bình đẳng này khi công nhân nghèo đã được trả lương tốt hơn. Ở Mỹ, 10% người giàu nhất thu nhập trung bình 93.000 USD/năm (cao nhất trong OECD) trong khi 10% người nghèo nhất chỉ thu nhập 5.800 USD/năm, thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình của OECD. Nhóm 10% giàu nhất chiếm tới 71% tài sản của toàn bộ nước Mỹ. Thu nhập 10% giàu nhất ở Pháp là 54.000 USD/năm so với 9.000 USD/năm của 10% nghèo nhất. Con số tương ứng ở Nhật Bản là 60.000 USD và 6.000 USD.
Đằng sau sự văn minh của thế giới, vẫn là thiên tai, ô nhiễm, dịch bệnh, cái nghèo cùng cực và chết đói. Đằng sau sự hào nhoáng của các quốc gia đều là những mảng tối. Chiếc bánh kinh tế toàn cầu đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đã ăn hầu hết phần bánh này. Họ dùng cả quyền lực để bảo đảm phần béo bở nhất và chỉ nhường phần vụn thừa rơi rớt cho người người nghèo đói (góp nhặt từ Internet).
Đó là câu chuyện Phú ông và Lagiarô thời đại.
KHOẢNG CÁCH TINH THẦN
Khoảng cách tinh thần: đó là sự “lạnh lùng” đáng sợ của một bộ phận đông đảo những người giàu có. Sự ấm áp đã làm cho họ không thể hiểu nổi thế nào là băng giá. Sự no đủ đã làm cho họ không thể hình dung được thế nào là đói khát. Sự hưởng thụ sung túc đã làm cho họ không thể tưởng tượng được thế nào là cùng khổ.
Ánh mắt của đa số những người giàu có luôn chỉ có một hướng nhìn về “thế giới thiên đàng vật chất” và họ chìm đắm trong mơ ước không ngừng vươn lên cao hơn nữa trong khoái lạc riêng tư với niềm tự hào, tham vọng, và cả lòng ganh tỵ đua chen.
Họ bỏ mặc – hay không còn nhận ra – một thế giới khác đang ở ngay bên cạnh họ. Thế giới của một Lagiarô cùng khổ và cực kỳ bất hạnh. Có khi không phải họ khinh miệt người cùng khổ, thật ra – và là điều đáng sợ – họ quên sự hiện diện của người cùng khổ đang cùng sống với họ trên hành tinh này.
Họ sống trong thế giới hiện thực đầy no thỏa và hóa thân thành thần thánh đầy hạnh phúc trong thế giới thiên đàng ảo – thế giới giàu có vật chất và dư đầy hưởng thụ – cho đến một ngày nào, khi tài khoản thời gian của họ đã hết. Đó là lúc họ mới nhìn thấy thế giới của Lagiarô, một thế giới thần thánh hiện thực mà Lagiarô đã vươn đến được từ thế giới cùng khổ với một đời bất hạnh luôn đói khát no ấm và tình yêu. Nhưng khát vọng ấy Lagiarô đã không tìm thấy được trong thế giới hữu hình mà Lagiarô đã trải qua.
Bây giờ, khi ông nhà giàu chết, ông mới bước vào một thế giới thật – đây mới là thế giới thật! – Ngỡ ngàng nhận ra đây không phải là Thiên Đàng sau những tháng ngày sống trong cõi thiên thai của “thiên đàng ảo” đã tan biến!
Bây giờ, họ – những con người của thế giới phú hộ – mới nhận thấy Lagiarô từ xa. Con người bần cùng, mà trước đây – và cũng là thế giới bần cùng mà trước đây – đã ở ngay bên cạnh họ, ngay trước mắt họ, chỉ cần bước một vài bước là đã thấy, chỉ cần cúi xuống một chút là đã chạm tới – nhưng họ đã không hề biết đến! “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh Lagiarô trong lòng tổ phụ”(Lc.16,23).
Trên đỉnh cao của sự sang trọng, giờ ở tận cùng của sự đọa đày, những con người như nhân vật phú ông mới ngộ ra được thế nào là đau khổ tận tâm cang. “Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”(Lc. 16.19-31).
LẠC LỐI
Trong nơi đọa đày, phú ông mới biết mình đã lầm đường lạc lối.”Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lagiarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’” (Lc. 16.27-28).
Có phải vì thiếu thông tin, thiếu sự hướng dẫn, thiếu giáo huấn, mà phú ông đây “sa vào chốn cực hình” không? – Chắc hẳn là không rồi.
Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để Giáo Huấn Tình Thương của Ngài trong lòng trí con người. Thiên Chúa không ngừng Giáo Huấn con người tiệm tiến theo thời gian. Cho đến khi Ngài chọn Dân Riêng của Ngài để ban tặng cho con người Đấng Cứu Thế. Nhưng Lịch Sử Cứu Độ cho thấy con người đã nhiều lần “để ngoài tai” lời răn dạy của Chúa. Và lịch sử con người cũng chứng minh con người luôn nuôi tham vọng riêng mình, sống ích kỷ chỉ vì bản thân, không biết chia sẻ và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó’. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,29-31).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có kể một câu chuyện:
Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, khi được quyền nhiếp chính chức vụ tể tướng, nét mặt có vẻ vui mừng. Trò của ngài là Trạng Do liền hỏi:
– Do này vẫn được nghe là những người quân tử, thấy tai họa đến cũng không sợ, thấy hạnh phúc tới cũng không vui mừng, thầy mới được có địa vị mà vui mừng như thế là cớ làm sao?
Khổng Tử đáp:
– Phải có câu nói ấy thực, nhưng há chẳng có câu nói rằng: “Người ta vui vì được đem địa vị cao quí của mình mà hạ xuống cùng với mọi người sao?
Giới Luật Yêu Thương đòi hỏi sự chia sẻ trong tình liên đới giữa người với người. Tội lỗi không chỉ là lánh xa những điều độc ác, mà còn phải làm những điều chân thiện. Dân gian cũng có câu: “làm lành lánh dữ”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Câu chuyện phú hộ và Lagiarô vẫn còn tiếp diễn trong thế giới hôm nay. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,31).
Còn hơn thế nữa, chính Đấng Cứu Thế đã đến với nhân loại. Giáo Huấn Tình Thương của Ngài đem đến cho con người sự an bình và dịu ngọt biết bao! Thế nhưng, vẫn còn đó “những người giàu có” lạnh lùng trước những “Lagiarô” đầy đau khổ và bất hạnh. Trong rất nhiều hoàn cảnh, Giới Luật Yêu Thương vẫn còn nằm bên lề cuộc sống.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, người Kitô-hữu chúng ta vẫn luôn sống trong hy vọng. Ánh sáng Tin Mừng vẫn tiếp tục chiếu soi trong thế giới tối tăm này. “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga.1,5).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tình liên đới bằng con tim rộng mở, để biết chia sẻ với đồng loại nhân danh Tình Yêu Thiên Chúa. Amen.
50. Lừa gạt – Lm. Vũ Đình Tường
Chúng ta thường bị tình cảm con người lừa gạt. Lý do rất đơn giản là bạn nghĩ việc đó đã được giải quyết ổn thoả. Bạn cảm thấy yên tâm, không quan tâm đến nữa. Nghĩ như thế là bạn đang bị lừa gạt bởi sự việc có thể rất đơn giản đối với bạn nhưng xem ra phức tạp với người bạn đối xử với họ. Bạn cho vấn đề đó đơn giản bởi do công việc và địa vị trong xã hội khiến bạn từng giải quyết nhiều vấn đề phức tạp hơn trăm lần; tuy nhiên người khác có thể không có kinh nghiệm đó, điạ vị xã hội của họ không phải giải quyết vấn đề phức tạp nên vấn đề đối với họ là phức tạp. Quan hệ tình cảm, bác ái và lòng xót thương luôn đòi hỏi vừa tế nhị vừa công bằng. Thiếu những điều căn bản này vấn đề thay vì giải quyết êm thắm lại trở nên phức tạp. Có nhiều vấn đề bạn quyên bẵng đi vì công việc quan trọng khác chiếm chỗ nhưng nó lại sống động trong tâm não người khác nhất là khi họ cảm thấy họ là nạn nhân, bị đối xử bất công. Để ý một chút bạn sẽ thấy hầu hết thời giờ trong các tiệc tùng, họp mặt người ta luôn nói về những vấn đề giao tế và cách xử thế con người đối xử với nhau trong xã hội. Có những chuyện tốt khi nghe kể lại ai cũng vui và cám ơn lòng tốt, lòng bác ái, thương người của kẻ vô danh nào đó. Lại cũng có hành động xảy ra truớc đó vài ba chục năm vẫn còn được khơi lại như chuyện mới bởi vết thẹo trong tim họ chưa lành và sẵn sàng bật máu khi cơ hội nhắc đến nó. Bị xử oan ức, hàm oan; bị coi thường, khinh khi, lăng mạ; bị vu cáo. Toàn là những bị. Những bị này chất trên vai họ khiến lưng họ cong xuống. Chúng nằm trong kí ức khiến tâm trí họ bị khuấy động. Chúng đè nặng con tim nên con tim hận thù hơn tha thứ. Chúng chợt thức giấc khi tiếng động thức tỉnh chúng.
Một số lý luận không làm gì cả là giải đáp tốt nhất. Thật ra không làm gì cả lại là một loại lừa gạt khác bởi hành động yêu thương, bác ái cần được thể hiện trong mọi hoàn cảnh khi có thể. Không thực thi bác ái là một tội. Chính Đức Kitô xác định điều này và đây cũng là điều mà người giầu trong Phúc âm hôm nay phạm phải- thiếu bác ái với tha nhân. Người giầu có đã bỏ qua hành động yêu thương và đó là cái vạ đời anh. Cả người giầu và người nghèo sống cùng một xóm nhưng cuộc sống hai người quá khác biệt. Người giầu có dư ăn, dư mặc, sống cuộc sống hưởng lạc; ngoài cửa nhà anh có người nghèo nhiều tối đi ngủ bụng đói cồn cào vì thiếu ăn, cơn gió lạnh căm khiến anh co rúm vì thiếu mặc. Cả đời chỉ được đứng ngoài hàng rào nhìn ngó thiên hạ dự tiệc, còn anh chưa bao giờ có cái vinh dự đó. Cuối cùng cả hai cùng chết và cùng gặp nhau trước toà Chúa. Người nghèo vật chất được tổ phụ đón chào, người nghèo bác ái thì không. Người nghèo vật chất được sống an vui, người nghèo bác ái khóc than. Người nghèo vật chất tràn ân sủng Chúa, người nghèo bác ái trắng tay. Người nghèo vật chất có bạn bè đón chào; người nghèo bác ái không cô đơn bởi cuộc sống trần thế của anh không có họ nên khi chết đi họ cũng không biết anh.
Ai sống cuộc đời thực thi bác ái, yêu thương họ sẽ được sống trong bác ái, yêu thương của Thiên Chúa. Ai sống chỉ lo hưởng lạc, khi chết tất cả lạc thú chết theo bởi lạc thú trần thế không gây tình cảm, khi chết họ cô đơn. Hãy sống chân thành, sống cho anh em người, lừa mình nhưng thực thi bác ái, công bình, yêu thương là đường dẫn đến tình yêu chân thật và vĩnh cửu.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Dụ ngôn nhà phú hộ không biết tên và người nghèo khó tên là Lazarô cho thấy cuộc sống hiện tại ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống mai hậu. Trường hợp nhà phú hộ và người nghèo thì cuộc sống đời này, và đời sau hoàn toàn đổi ngược. Anh nghèo trở nên giầu có trong nước trời. Anh giầu tình Chúa mến thương. Được Chúa đón nhận vào nước trời. Còn người giầu lại trở nên khốn khó. Anh bị xua đuổi và anh sống trong đau khổ tột cùng vì cuộc sống của anh không phải chỉ thiếu tình thương Chúa, mà chính là hoàn toàn vắng bóng tình thương Chúa. Cuộc sống không tình thương là cuộc sống buồn nản, cô độc và tuyệt vọng. Muốn chết cũng không thể chết được. Dụ ngôn cho biết cuộc sống mai hậu không phải chỉ thay đổi cuộc sống hiện tại, mà còn thay đổi cả ý nghĩa của giầu sang, nghèo hèn. Giầu và nghèo trong nước Chúa hoàn toàn khác với giầu nghèo theo nghĩa thông thường chúng ta hiểu. Giầu nghèo trong nước Chúa chính là giầu tình thương, lòng mến của Thiên Chúa. Điều này Thiên Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Không cá nhân nào có thể san sẻ cho cá nhân khác, ngay cả cho người thân; cũng như không cá nhân nào có thể đánh cắp được ân sủng này, bởi có Chúa làm bảo chứng cho ân sủng của Ngài.
Giầu có trên trần gian có thể hiểu là đặc ân Chúa ban. Không phải vì đặc ân này mà cá nhân người đó bị án phạt sau khi qua đời, mà chính là cách cá nhân đó xử dụng đặc ân Chúa ban như thế nào? Cuộc sống trường sinh ảnh hưởng rất nhiều vào cách cá nhân người đó xử dụng đặc ân Chúa ban khi còn sống. Con người cần ý thức là tất cả những gì ta hiện có đều đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho. Chúng ta chỉ là người quản lý của cải, tài năng Chúa đặt vào tay ta. Chúng ta không phải là chủ nhân của những gì chúng ta đang có. Chúng ta là người quản lý coi sóc của cải vật chất Chúa ban. Bởi là quản lý nên cần chia sẻ vật chất đó cho tha nhân. Nhận thức mình là người quản lý là điều tối quan trọng trong việc phân chia của cải Chúa trao ban cho ta cầm giữ. Sau khi qua đời người quản lý bị phán đoán, xét xử dựa trên việc thi hành đúng đắn trách nhiệm quản lý lúc còn tại thế. Là quản lý tốt lành sẽ được tình thương Chúa, là quản lý vô trách nhiệm sẽ bị tước hết tình thương Chúa và đó là cuộc sống của người giầu có trong dụ ngôn. Bài giảng trên núi (Mat 5) và ngày dụ ngôn Phán Xét (Mat 25,31-46) cho biết ai giúp đỡ, yêu thương tha nhân chính là đón tiếp, giúp đỡ Đức Kitô. Người quản lý khôn ngoan, làm tròn trách nhiệm là người biết dùng của cải, vật chất, chức tước Chúa ban để làm ơn, giáng phúc cho tha nhân. Đó là cách làm giầu trước mặt Chúa và điều này nằm trong tầm tay của mỗi cá nhân. Sau khi hoàn tất hành trình dương thế, Chúa đong đầy đời họ với tình thương Ngài.
Dụ ngôn đưa ra hai cách sống hoàn toàn trái ngược. Người giầu yến tiệc linh đình, mặc gấm vóc; anh nghèo đói khổ triền miên, khi ngủ bao tử rỗng, bạn của anh là chó hoang. Anh sống không xa, ngay ngoài cánh cổng nhà phú hộ. Cả hai đều chết. Người giầu chết, không rõ lý do. Người nghèo chết có thể vì đói, dơ bẩn gây nên bệnh tật. Cả hai đến trước mặt Chúa. Người nghèo khó được Chúa đón nhận, người giầu bị tổ phụ Abraham xua đuổi. Trong đau khổ, người giầu hai lần van xin và cả hai lần đều bị từ chối. Lần thứ nhất tổ phụ Abraham nói giữa anh và người nghèo có khoảng cách ngàn trùng. Khoảng cách này do chính anh tạo thành khi còn sống. Chỉ cách nhau một cánh cổng mà hai cuộc sống khác biệt. Lần thứ hai tổ phụ Abraham đáp nếu thân nhân anh không nghe lời tổ phụ và các vị vọng, tiên tri thì lời thường dân đâu đáng họ để tai.
Dụ ngôn xác định rõ mỗi cá nhân sẽ lãnh nhận phần thưởng đời sau tuỳ vào cách hành xử của người đó với tha nhân. Tốt lành với tha nhân sẽ nhận ân sủng, tình thương Chúa. Chối bỏ tha nhân, khinh thường tha nhân sẽ bị Chúa chối từ bởi đời họ thiếu kinh nghiệm ban phát tình thương. Lời Đức Kitô rao giảng hết sức rõ ràng. Đó là mến Chúa, yêu người. Mến Chúa, yêu người là sứ mạng của chính Đức Kitô và cũng là sứ mạng của mỗi chúng ta. Tiên tri Isaiah 61,1-12 đã mặc khải rõ khi ngài nói: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Sứ mạng trần gian của mỗi chúng ta là mang tin mừng cho tha nhân. Giầu có nơi trần gian không bảo đảm giầu có trong nước Chúa, trừ khi người đó biết phân phát, làm tròn trách nhiệm quản lý Chúa trao. Ai cũng biết khi chết ra đi hai bàn tay trắng, nhưng mấy ai đủ can đảm chia sẻ của cải cho tha nhân khi sức còn dư, lực còn thừa, tinh thần còn minh mẫn và trí còn thông suốt. Cơn cám dỗ dựa vào sức mạnh vật chất lớn nhất trong các cơn cám dỗ. Người có can đảm từ chối đó đáng lãnh phần thưởng gia nghiệp Chúa ban.
Không nhận được tình thương của người phú hộ, anh nghèo Lazaro sống cuộc sống âm thầm. Trong thầm lặng anh đặt trọn niềm tin vào Chúa, hy vọng ngày mai sẽ tươi sáng. Anh không nhận được hy vọng đời này, nhưng chết trong hy vọng. Thiên Chúa biến hy vọng đời này thành hiện thực đời sau. Đời anh tươi sáng, sống hạnh phúc. Câu tâm niệm của chúng ta tuần này là:
Đức Kitô trở nên nghèo khó cho chúng ta giầu có trong Ngài (2 Cor.8,9).
52. Môi trường đức tin – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình.
Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn.
Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không –chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1) Tự do của tâm hồn.
Đây là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước hết mọi sự.
Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của đức công bằng.
Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con người thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2) Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận.
Sự thể tiến trình mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ trong ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết.
Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.
3) Đức tin sống động thì có tình yêu thương.
Luật truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.
53. Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: “Tôi là ai trong dụ ngôn đó?”. Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện không có tên (ông ta có biệt danh là “Dives” từ này trong từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì mình đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không có mà ăn.
Cũng có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng liêng chứ không theo một cách thể lý.
Không có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.
Thiên Chúa đã thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao, là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của Ngài đã đổ ra vì chúng ta.
Cách thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông nhưng chúng ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: “Lạy Cha, chúng con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ”. Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.
54. Giàu có và nghèo khó – McCarthy
Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.
Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.
Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.
Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
– Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.
– Phải. Ông ta đáp.
– Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?
– Nói thật với chú bé là tôi không biết.
– Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?
– Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.
– Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?
– Đúng thế!
– Tôi ước gì tôi…
Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp “Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế”.
Và ông ta kết luận: “Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang hơn mình… Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.
Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”. “Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi”. Câu trả lời là như thế.
55. Bác ái bắt đầu từ nhà mình – McCarthy
Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.
Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?
Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.
Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.
“Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.
Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
– Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
– Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi”.
Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
56. Chú giải của R. Gutzwiller
KHÓ NGHÈO và SANG GIÀU.
Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.
Ở đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói ‘Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai thèm cho’. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Hai nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng Abraham cũng thế…
Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.
Giải thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.
Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, ‘đã làm được một cái gì’ và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.
‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng’. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài… Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.
Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.
“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”
Chương 16 của Tin Mừng Luca được lồng vào giữa hai dụ ngôn mà mọi người nhất là người thừa tiền lắm của phải suy niệm nằm lòng. Đó là dụ ngôn người quản lý bất lương (1-13) được đọc Chúa nhật tuần trước, và dụ ngôn về Ladarô và người phú hộ (19-31) của Chúa nhật hôm nay.
Hai dụ ngôn đều qui về một ý tưởng: người giàu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Chúa Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thật tương phản: một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa, Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Hai người cách xa nhau một trời một vực. Nhà phú hộ, nhà cao cửa rộng, trận vui suốt sáng trận cười suốt đêm. Người hành khất ngồi dưới đất đen. Gần nhau mà xa nhau. Mảnh vụn bánh từ bàn tiệc của nhà phú hộ rơi xuống cũng không đến tay người nghèo. Giữa hai người có một địa ngục, một vực thẳm. Người giàu có thể giơ tay lôi kéo người nghèo lên, nước giàu có thể cứu trợ nước nghèo khỏi phá sản. Có điều, họ có muốn không?
Điều bi đát là nhà phú hộ coi Ladarô như không có. Ông chỉ biết thụ hưởng, sống chết mặc bay.
Nhưng bi đát hơn: một đêm kia sự chết đánh gục cả hai người cùng một lúc. Ladarô được vào dự tiệc trên trời do Abraham chủ lễ, được “ngồi trong lòng”, nghĩa là bên hữu vị tổ phụ (Ga 13,23). Còn nhà phú hộ bị tống xuống biển lửa. Miệng ông khô đét không được một giọt nước để làm dịu cơn khát đang giày vò, như xưa Ladarô không được một vụn bánh rơi rớt để thoa dịu cơn đói hoành hành.
Hoàn cảnh và thời thế đã thay đổi.
Người giàu bị đuổi ra khỏi bàn tiệc, không phải vì ông nhiều của, nhưng vì ông bị của cải đè bẹp trong chiếc hòm quí giá người ta mang đi chôn. Người nghèo cũng chết nhưng được các Thiên Thần “nâng bổng lên nơi lòng Abraham”. Thế giới bên kia đã mở, một thế giới không phải của tiền bạc mà của tình yêu. Ai có tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, mới được vào.
Thời gian viên mãn. Công tội được cân nhắc và báo đền.
Abraham nói: “Suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”. Một tuyên ngôn nặng nề vì là một bản án vô phương giải toả.
Người chết đi, nhưng còn năm anh em ở lại. Họ cũng sống trong nhung lụa, coi người nghèo như không có trên mặt đất.
Có thể trong một ngày tang lễ, họ cũng đã đổ vài giọt nước mắt, nghe vài lời giảng thuyết: “Hỡi người hãy nhớ người là bụi tro, sẽ hoàn về tro bụi” (Stk 3,19). Nhưng rồi đâu lại vào đấy, Người đi đi mãi, kẻ ở vẫn tiếp tục cuộc sống lạc hoan. Phải một phép lạ, một người chết hiện về may ra mới cảnh tỉnh được họ. Nhưng trong thực tế, họ đi “cầu cơ, gọi hồn” vì tò mò, nhưng đời sống vẫn không thay đổi một gang một tấc.
Chỉ có Lời Chúa mới cứu vãn, nếu họ biết lắng tai nghe.
Lạy Chúa, xin cho lòng con đầy ưu ái, đầy tình thương cảm đối với tha nhân.
58. Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?
Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:
“Người nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta chôn ông”.
Chúng ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có “xấu xa”, nhưng đơn giản chỉ là “một người giàu có” và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: “Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống”.
Người giàu có không “thấy” Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói: “Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua “vực thẳm lớn lao” được.
Vì không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh em của ông.
– “Lạy tổ phụ Abraham,… xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”, ông nói với Abraham như thế.
Abraham nói: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.
Người giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà …. Cần phải khua chiêng gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.
– Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:
Bài học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là “mũi nhọn”. Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua Abraham: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ”.
Thậm chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn…
– Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ.
Tôi phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?
59. Sống trong thế giới trái ngược
Đó là một ngày tháng bảy. Một người đàn ông ngồi ở bàn giấy trong một phòng có máy điều hòa. Nhiệt độ trong phòng ở 23 độ, một nhiệt độ thích hợp. Ông ta cảm thấy đầy nghị lực. Từ cửa sổ ông nhìn thấy mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ ở bên ngoài và thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lay động các ngọn cây. Đó là một ngày rất đẹp!
Ông ta nhìn một cậu thiếu niên đang làm việc trong sân. Căn cứ vào những động tác chậm chạp của cậu, người ta phải nghĩ rằng cậu là một tù nhân làm việc khổ sai. Cậu nghỉ ngơi thường xuyên. “Cậu ta có vấn đề gì? Làm sao mà một người trẻ tuổi lại lười biếng như thế?”. Người đàn ông tự hỏi.
Nhưng gần đến trưa, người đàn ông đi ra ngoài để làm một vài công việc. Ngay khi ông bước ra khỏi phòng, ông đụng phải hơi nóng như những làn sóng cản đường. Nhiệt độ bên ngoài là 34 độ và độ ẩm của không khí khá cao. Bấy giờ ông mới biết cậu bé đã chống chọi với cái gì. Và trong một ngày oi bức như thế này, ông ngạc nhiên vì cậu bé chưa bị ngất xỉu.
Mặc dù thế giới của ông được ngăn cách với thế giới của cậu bé chỉ bằng bề dày của một bức tường, hai thế giới ấy khác nhau nhiều lắm. Tuy nhiên nếu ông không rời khỏi thế giới của ông để bước vào thế giới của cậu bé, hẳn ông sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau đó.
Chúng ta có thể cách người khác chỉ một tầm tay, nhưng sống trong một thế giới khác với người ấy. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau ấy trừ khi chúng ta rời bỏ thế giới của chúng ta và bước vào thế giới của người đó. Chúng ta không bao giờ hiểu được điều đó từ bên ngoài.
Ông nhà giàu (phú hộ) và Ladarô đã sống trong những thế giới trái ngược, dù rằng những thế giới này nằm bên cạnh nhau. Nhưng ông nhà giàu chưa lần nào bước vào thế giới của người nghèo. Ông không nhìn thấy Ladarô như một con người, càng không phải là người anh em mà ông có thể chia sẻ nhân tính chung. Ông lãnh đạm, thờ ơ với Ladarô, và lãnh đạm là một thói xấu lớn.
Làm sao có thể như thế được? Của cải làm cho một người chỉ nghĩ đến mình. Chúng làm cho người ấy mù lòa trước những nhu cầu của những người khác và làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Đó là một bi kịch thật sự. Một cá nhân hoặc một quốc gia đánh mất tâm hồn mình khi cứ mải lo tích lũy những của cải lớn hơn.
Người giàu có không làm điều gì sai. Ông không làm tổn thương hoặc bóc lột người nghèo. Tuy nhiên, sau cùng “ông ta phải chịu cực hình trong âm phủ”. Ông ta bị lên án không phải vì ông ta giàu có mà vì ông không bày tỏ lòng thương xót người nghèo. Ông sống chỉ vì bản thân mình.
Tội lỗi không chỉ vì làm điều sai trái, mà còn là không làm điều tốt –tội không hoạt động, không làm gì và tệ hơn nữa là sự thờ ơ. Đây là một dụ ngôn làm xúc động. Không có cái kết thúc của một câu chuyện thần tiên– ít nhất là đối với ông phú hộ và ông này là nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Xin Chúa, Đấng đã bước vào thế giới chúng ta một cách trọn vẹn, giúp chúng ta bước vào thế giới của những người đau khổ và thiếu thốn. Rồi khi đã có kinh nghiệm về đời sống của họ như thế nào, chúng ta chắc chắn sẽ được động viên để làm điều gì chúng ta có thể làm để giúp đỡ họ.
Là những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, chúng ta đến lượt mình phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ chúng ta cho sẽ trở thành mức độ mà chúng ta nhận.
Vào thời Chúa Giêsu, hẳn rằng tiền bạc chưa chiếm được địa vị ưu tiên, địa vị số một như ngày nay, bởi vì người ta còn sống gần gũi với thiên nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta không thể đi một bước mà không cần đến tiền bạc, thế mà lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề tiền bạc lại thật là dứt khoát:
– Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Như vậy, không thể nào có được sự thỏa hiệp, sự đi nước đôi và đội trời chung giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Do đó, phải chọn lựa. Mà chọn lựa thì vữa có nghĩa là chấp nhận, lại vừa có nghĩa là từ bỏ.
Đúng thế, nếu muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, thì chúng ta không thể nào làm tôi tớ cho tiền bạc, không thể nào quì gối thờ lạy tượng con bò vàng. Hơn bao giờ hết, ngày nay con bò vàng, biểu tượng của tiền bạc, đang hướng dẫn và lũng đoạn thế giới. Và số người thần phục nó thật là đông đảo. Để kiếm được tiền bạc, người ta sẵn sàng làm mọi sự, dám bán đi cả thân xác lẫn linh hồn, dám hy sinh cả danh dự lẫn thời giờ quí giá của mình.
Sự chọn lựa căn bản này sẽ xác định hướng đi cho cuộc đời và sẽ đem lại những hậu quả thật trái ngược. Thực vậy, nếu tin tưởng và phụng thờ Thiên Chúa, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Còn nếu chạy theo tiền bạc và thế gian, chúng ta sẽ chỉ thấy được những gian tham và tội ác.
Đúng thế, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một ông vua tàn bạo, một ông chủ hà khắc, nhưng là một người cha giàu lòng nhân ái, luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Để giúp chúng ta hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh, hình ảnh chim trời và hình ảnh cánh hoa đồng nội. Và rồi Ngài đã kết luận:
– Các con còn quí giá hơn gấp ngàn vạn lần những cánh chim trời và những bông hoa đồng nội.
Dân ngoại thường lo lắng nhiều về vấn đề cơm áo gạo tiền, còn chúng ta, những người con cái Thiên Chúa, chúng ta vừa phải làm việc, nhưng lại vừa phải tin tưởng vào Ngài. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy sự bình an và hạnh phúc.
Thế nhưng, chúng ta có thể nêu lên một vài thắtc mắc. Thắc mắc thứ nhất: Đây có phải là một sự tin tưởng mù quáng, làm tê liệt mọi hoạt động của chúng ta hay không? Chắc chắn là không, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ cho phép chúng ta lười biếng với thái độ ngồi chờ sung rụng. Hơn thế nữa, làm việc còn là một bổn phận của con người, như lời thánh Phaolô đã nói:
– Ai không làm thì không đáng ăn.
Thắc mắc thứ hai: qua bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, cũng như qua nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã có một thái độ khinh chê tiền bạc. Điều này chỉ cò thể được thực hiện nơi các bậc tu trì, chứ còn chúng ta, sống giữa lòng cuộc đời, làm sao chúng ta lại không cần đến tiền bạc? Không có tiền, làm sao chúng ta có được những phương tiện để sinh sống? Ấy là chưa nói tới những hậu quả thảm khốc do sự nghèo túng gây nên, như những bệnh tật phần xác và những tội ác phần hồn, vì bần cùng sinh đạo tặc,
Điều băn khoăn này thật hợp tình và hớp lý. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại lài một ông chủ hà khắc, giết chết mọi tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Ông phú hộ qua đoạn Tin mừng hôm nay bị kết án hỏa ngục, không phải vì ông ta giàu có, những vì trái tim ông ta đã trở nên băng giá và chai đá, đã khép lại trước nỗi đau khổ của Ladarô nghèo túng.
Hơn thế nữa, kiếm sống bằng những nghề nghiệp và những cách thức chính đáng là điều tốt. Chính Giáo hội đã đưa ra cho chúng ta mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài cũng đã từng lao động vất vả.
Đồng thời, Giáo hội luôn bênh vực quyền lợi của giới lao động và chống lại những chèn ép và bóc lột của giới chủ nhân. Giáo hội như muốn nhắn nhủ chúng ta rằng:
– Hãy lao động, hãy kiếm tiền để làm cho cuộc sống này được tươi đẹp hơn, nhưng đồng thời phải dứt khoát gạt bỏ những bất công. Đừng bao giờ trở thành nô lệ cho tiền bạc. Hãy làm việc và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán:
– Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi những sự khác sẽ được ban cho cac con sau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét mình về thái độ sống đối với anh chị em xung quanh, nhất là trên bình diện sử dụng nguồn vốn Thiên Chúa ban cho.
Bài đọc I trích từ sách tiên tri Amos: “Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quí tại Sion và tự kiêu trên núi Samaria”. Những lời này tự cảnh tỉnh mỗi người trong chúng ta có thái độ tự kiêu, ỷ lại vào của cải mà không nghĩ gì đến những anh chị em đang cần sự chia sẻ và tình liên đới của chúng ta.
Thử hỏi hiện có bao nhiêu người trong xã hội này hằng ngày đang lo lắng? Nhưng trớ trêu thay, không phải lo lắng vì thiếu thốn nhưng lại lo lắng không biết phải ăn uống làm sao? Lo lắng không phải vì thiếu mặc, nhưng lo lắng phải mặc những kiểu áo nào cho hợp thời trang, vì có quá nhiều của cải dư thừa, không biết phải làm gì cho hết. Trong khi đó thì hằng ngày bên cạnh ta, trước mắt ta, bên tai ta, ta có thể thấy, có thể nghe không biết bao nhiêu thảm cảnh của những anh chị em đang phải chết đói, đang cần của ăn áo mặc cho cuộc sống.
Trước viễn cảnh đau lòng như vậy, có thể nào chúng ta im lặng, lãng quên được hay không? Mỗi người trong lãnh vực của mình và nhất là những anh chị em có trách nhiệm trong xã hội, trong môi trường sinh sống đều có bổn phận nghiên cứu để thăng tiến mức sống của những anh chị em khác. Những anh chị em nào có trách nhiệm nhiều thì sẽ không thể nào ngủ yên khi chỉ lo tìm tư lợi cho mình như người giàu có trong bài Phúc âm hôm nay. Ông vui sống an nhàn trong ngôi nhà sang trọng của mình mà quên đi hay không thèm biết đến nỗi thống khổ và sự cần được trợ giúp của anh người nghèo Ladarô ngay trước cổng nhà mình. Ông đã không thực thi tình liên đới bác ái chia sẻ và ông chỉ cảm thấy lời này khi qua đời. Lúc đó ông hiểu hơn: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.
Một nhà tỷ phú trước khi chết đã phải thốt lên: “Nếu tôi có thể đổi hết phần gia tài tôi có để thêm vài phút sống nữa trên trần gian này thì tôi sẵn sàng đổi”. Vài phút trên trần gian này có là bao so với sự sống đời đời. Vấn đề là chúng ta tin Chúa và tin vào sự sống đời đời hay không mà thôi.
Đối với những tín hữu bình thường là như vậy, rồi còn đối với những ai có trách nhiệm tôn danh Chúa lại còn phải đòi hỏi nhiều hơn nữa. Chúng ta được lưu ý điểm này nơi bài đọc II, lời của thánh Phaolô cảnh tỉnh người đồ đệ Timôthêô như sau: “Phần con, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó, hãy cố gắng trở nên người công chính đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến. Hãy sống nhẫn nại và hiền lành. Con hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, vì đức tin dành cho được sự sống đời đời. Chính vì sự sống này mà con đã được Thiên Chúa kêu gọi và con đã nói lên lời tuyên xưng trước mặt nhiều nhân chứng.
Thực hiện được những điều này đòi buộc người tông đồ của Chúa không những phải biết sống bác ái, chia sẻ tình liên đới, không ham của cải giàu sang mà còn phải biết chăm lo cho ơn cứu rỗi, cho sự sống đời đời của những ai được trao phó cho mình chăm sóc: “Hãy cố đạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi, và vì đó con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng”. Lời rao giảng của người đồ đệ Chúa cần phải đi đôi với việc làm, với đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số phận của nhà hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời này, người phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi ngày, sống trụy lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái hoài, một người hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước cổng nhà người giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.
Hai nhân vật này không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và người giàu cũng chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần đến đưa người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa. Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ.
Ngược lại, nghèo khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể làm cho người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp, láo xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách Chúa, coi nhẹ linh hồn mình… Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết bao người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham lam đủ thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó, không phải nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần, có tâm hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy: công phúc của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Đàng khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên nước trời.
Ngược lại, ai khư khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên Chúa xét đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ cho ông Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ được thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên ông đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng lo lắng quá mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn chán, vì chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai, Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Sách thánh ngày hôm nay cho chúng ta thấy hình ảnh của hai con người, là người như nhau nhưng cuộc sống rất khác nhau. Một người thật giàu có, ăn sang mặc sướng đến độ dư thừa. Người giàu này không làm hại ai, không lấy của ai và cũng chẳng cho ai điều gì ngay cả một miếng bánh vụn.
Vâng! Cảnh giàu có, trâu ruộng bề hề, lúa gạo đầy dư, vải mặc không hết, cồng chiêng quí giá… rượu uống quanh năm, heo gà… đếm không xuể… Không gian tham, không lấy của ai, không sợ phải cho ai thì làm sao mà lo, làm sao mà đói được…! Sống cảnh này, là người ai lại không mong, không thích… và ai mà không nghĩ như thế!
Sách thánh cũng cho biết, bên cạnh người giàu có là một người rất nghèo khổ, lúa gạo không có, áo quần rách rưới, mong đồ thừa rớt ra từ bàn ăn của người kia mà cũng không có một tí mà ăn…
Thật thế! Sống nghèo đói, tủi nhục như vậy ai mà ham được. Tuy nhiên, sẽ đến ngày mà ai cũng phải gặp; người giàu cũng sẽ chết và người nghèo cũng phải trở về với ông bà tổ tiên…
Theo ông bà của chúng ta từ xa xưa cho biết; mọi đồ đạc của người chết phải được mang theo để dùng như khi còn sống. Nhưng thực tế, ai cũng thấy là không đúng như vậy, người chết không thể mang theo điều gì, cũng chẳng có thể ăn được cái gì mình có hôm nay. Trộm cắp đã lợi dụng phong tục chôn đồ của người chết để lấy cắp đồ đạc, nhất là vàng bạc quí giá. Mồ mả ông bà bị họ đào tung lên hết! Thật là tội nghiệp họ, vì chết rồi lại cũng không yên và cũng vì phong tục cũng không có đúng với thực tế và cũng không đúng với sách thánh ngày hôm nay nữa… Như sách thánh cho thấy, cuộc sống sau khi chết sẽ rất khác; người nghèo được Chúa thương và người giàu, vì không cho người nghèo ăn nên Chúa không thương! Người nghèo được gặp ông Abraham là người ông bà của chúng ta được Chúa thưởng và cho gặp lại con cháu… Người giàu có thì không được gặp tổ tiên mà còn ở nơi đau khổ đói khát nữa…
Biết cuộc sống sẽ như vậy; không chia áo cơm cho người nghèo thì Chúa không thương. Như năm người con của người giàu… cũng không tin, cũng tham lam ích kỷ như cha của họ ngày trước… Tại sao lại như thế!
Thưa, là vì họ gặp Chúa mà họ không nhận ra Chúa, vì họ không nhận ra Chúa nên họ cũng không tin Chúa… nên người sống họ đã không tin, và họ cũng không tin có người sống lại từ cõi chết, thì dù có chăng nữa thì họ cũng chẳng tin.
Nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin người chết phải mang theo của cải để dùng nên họ không cho người khác, nhất là người thiếu ăn, thiếu mặc hằng ngày ta vẫn gặp.
Ai cũng mến Chúa, ai cũng tin Chúa vì Chúa có quyền đối với người sống lẫn người chết và Chúa có thể cho ta hạnh phúc hôm nay cũng như sau khi chết. Như Chúa Giêsu đã nói: “Ta là sự sống và là sự sống lại… Ai tin Ta sẽ được sự sống đời đời…” Và chính Chúa đã nói: “Ai yêu thương người nghèo là thương chính Chúa”, nghĩa là, ai cho người nghèo một chén cơm, một ly nước, một trái bắp… là cho chính Chúa, và Chúa sẽ cho lại gấp trăm những gì ta đã cho Chúa. Chúng ta cho người nghèo Chúa sẽ cho lại ta, chúng ta thương người nghèo Chúa sẽ thương ta.
Vậy chúng ta hãy tin tưởng lời Chúa Giêsu: chia cái ăn cái mặc cho người nghèo, thì chúng ta sẽ có hạnh phúc cả hôm nay lẫn mai sau nữa. Và vì chúng ta đã làm cho Chúa được no, được ấm suốt đời, và qaun trọng nhất là được vui hưởng hạnh phúc với Chúa Giêsu nơi Nước Trời…
Xem ra người phú hộ trong Tin Mừng chẳng có tội gì để đáng phạt muôn đời trong hỏa ngục: Ông không gian tham, không trộm cắp, không bóc lột… Cuộc đời ông ngày này qua ngày khác chỉ có ăn uống linh đình và mặc lụa là gấm vóc, nghĩa là chỉ có hưởng thụ cái tài sản giàu sang do ông làm ra, mà hưởng thụ như vậy là chính đáng chứ có gì là tội đâu? Tội không giúp đỡ Ladarô chăng? Nếu ta đọc kỹ Tin Mừng từng chữ thì sẽ thấy rằng Ladarô đã không mở miệng một lời để xin ông ta giúp đỡ, Ladarô chỉ âm thầm ao ước được ăn những miếng bánh rơi. Nhưng vì chỉ âm thầm ao ước, mà không nói ra cho nên không ai biết mà cho.
Nhưng tại sao lại không biết? Thưa vì không để ý. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ đó. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Chúng ta vừa khám phá ra một điểm đặc biệt của Tin Mừng: chúng ta không chỉ phạm tội do việc làm, do lời nói, do ý tưởng, mà còn có thể phạm tội do quá hững hờ với người khác nữa, và tội hững hờ này trong những hoàn cảnh quan trọng cũng có thể trở thành tội trọng.
Trong phim “Những đứa trẻ khốn khổ” có một cảnh rất thương tâm: một cô gái nhà nghèo lên tỉnh tìm việc làm và bị dụ dỗ đến có con. Vì phải làm việc suốt ngày nên cô không thể nuôi con mà phải gởi cho một người chủ quán nuôi giúp. Người chủ quán này không có lương tâm, lợi dụng hoàn cảnh của cô để bóc lột: nay hắn gởi thư đòi tiền, mai hắn lại đòi một số tiền khác. Người mẹ trẻ không có tiền nên chỉ biết nhịn ăn nhịn mặc, hết tiền cô cắt mái tóc đem bán, hết tiền lại nhổ từng cái răng đem bán nữa… và cô trở thành rách rưới, ốm o, xấu xí. Nhưng cô càng gầy ốm, rách rưới, xấu xí thì cũng bị những người khác khinh khi, ghét bỏ. Cảnh cô bị đuổi khỏi sở làm, co ro trong chiếc áo rách chạy giữa trời đông tuyết lạnh, thỉnh thoảng dừng lại ôm ngực ho xù xụ… với cảnh cả một đám đông người xúm lại đánh đập cô, xô cô té ngã xuống đất và nhào vô xâu xé cô… những cảnh như thế làm cho chúng ta xem mà không khỏi cảm thấy thương tâm. Tại sao ta cảm động? Vì ta đã biết hoàn cảnh của cô ấy và khi ta thấy cô bị hành hạ như vậy thì thương tâm. Còn những người kia, những người hành hạ cô, tại sao họ không thương tâm? Thưa vì họ không hiểu hoàn cảnh của cô, họ cùng ở một đường phố, cùng làm chung một sở nhưng không hiểu hoàn cảnh của cô. Họ quá hững hờ.
Chắc chắn có rất nhiều lần chúng ta cũng hững hờ như vậy.
Một ngày mùa hè, một người đàn ông ngồi trong văn phòng có gắn máy điều hòa. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy bên ngoài có một thanh niên đang lao động. Anh này làm việc một cách rất uể oải và chậm chạp, chốc chốc lại buông tay ngồi nghỉ. Ông thầm nghĩ: cái anh chàng này lười biếng quá. Ông mở cửa bước ra xem. Vừa ra ngoài ông đụng ngay cái nóng hừng hực của mùa hè. Sức nóng làm mồ hôi ông toát ra và khiến mọi năng lực của ông như tan biến đâu mất. Ông cảm thấy rất uể oải. Lúc đó ông mới hối hận vì đã vội nghĩ xấu cho người thanh niên nọ: nếu ông cũng phải lao động ngoài trời dưới cái nóng như thế thì chắc chắn ông cũng không làm gì hơn người thanh niên đó được.
Người đàn ông và người thanh niên trên ở rất gần nhau, chỉ cách nhau một cánh cửa, thế nhưng họ thuộc hai thế giới khác hẳn nhau. Vì thuộc hai thế giới khác nhau nên người đàn ông không hiểu được và không thông cảm được với người thanh niên. Chỉ khi ông bước ra khỏi thế giới mình để đi vào thế giới của người thanh niên thì ông mới hiểu và mới cảm thông.
Người phú hộ và Ladarô trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Họ thuộc hai thế giới khác hẳn nhau:
– Một bên mặc toàn lụa là gấm vóc; bên kia rách rưới tả tơi.
– Một bên ngày ngày yến tiệc linh đình; bên kia thì một mụn bánh cũng không có.
– Một bên sống trong biệt thự; bên kia nằm trước cổng nhà.
– Tóm lại một bên như sống ở thiên đàng trần thế; còn bên kia như sống ở hỏa ngục trần gian.
Hai người ở sát cạnh nhau nhưng hoàn toàn xa cách nhau. Thậm chí người phú hộ còn không biết tới sự hiện diện của Ladarô.
Hai bức tranh quá đối chọi này gợi cho chúng ta vài suy nghĩ:
a/ Thiên Chúa và loài người cũng thuộc về hai thế giới khác nhau vô cùng. Nhưng Con Thiên Chúa đã ra khỏi thế giới của Ngài để bước vào thế giới chúng ta. Thật là một tình thương to lớn vô cùng!
b/ Có rất nhiều người ở bên cạnh chúng ta nhưng thuộc về một thế giới khác hẳn chúng ta cho nên chúng ta không hiểu họ, không nhận ra họ, thậm chí không ý thức đến sự hiện diện của họ. Có khi nào chúng ta chịu khó ra khỏi thế giới của mình để bước vào thế giới của họ chưa?
Một người nhà giàu lái một chiếc xe Mercedes bóng láng đến bãi đậu xe. Một cậu bé khoảng 11 tuổi ngắm nhìn chiếc xe bằng một ánh mắt ngạc nhiên và thèm muốn. Câu chuyện bắt đầu:
– Thưa ông, chiếc xe này của ông hả?
– Vâng.
– Chà, nó đẹp quá. Ông mua bao nhiêu vậy?
– Chẳng dấu gì cháu, tôi không có mua. Anh tôi tặng tôi đó.
– Nghĩa là ông không phải tốn một xu nào hết mà có được chiếc xe này?
– Đúng vậy.
Cậu bé trầm ngâm một lúc rồi nói “Ước gì cháu…”
Câu nói bỏ lửng. Người nhà giàu cố đoán phần sau của câu nói. Ông đoán cậu bé định nói “Ước gì cháu cũng có một người anh như thế”. Nhưng thật bất ngờ, cậu bé nói “Ước gì cháu sẽ là một người anh như thế”.
Rồi người nhà giàu suy nghĩ: Tuy mình có một chiếc xe sang trọng, có một người anh giàu có, nhưng lòng mình thì quá nghèo nàn. Còn cậu bé tuy ăn mặc tầm thường nhưng tấm lòng cậu ấy giàu hơn mình nhiều, bởi cậu bé chỉ nghĩ đến việc cho đi.
Người giàu thật là người biết cho; người nghèo thật là người chỉ biết nhận.
Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ; người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.
Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn; sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng.
Bởi vậy cái giàu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và đó cũng chính là cái nguy hiểm của vật chất:
– Nó khiến ta quá chú ý đến cái “có” mà quên xây dựng cái “là” của mình.
– Mà những cái “có” ấy chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.
– Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng che mờ cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa.
Một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy.
Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.
Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Mẹ Têrêxa còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Mẹ nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt”.
68. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
ĐỜI SỐNG MỚI SAU CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ
Nhiều người chê Ki-tô hữu là dại, vì các Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên đời, lại còn chuốc vất vả vào thân khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người này nghĩ vậy, vì họ chỉ biết đến họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao anh em nghèo đói sống bên họ. Thế nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người chỉ biết sống cho mình, chỉ biết sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở thành người dại sau khi chết.
Ai cũng phải chết
Không phải ai cũng giầu, cũng đẹp, cũng có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng cho mọi người: ai cũng phải chết. Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai mang theo gì với mình ngoại trừ chính con người của mình: không tiền bạc, không người thân, không quyền lực, không sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi, chết cũng trần trụi.
Cái chết làm con người trở lại với con người thực của mình. Cái chết giúp người ta nhận ra sự thật, và cố gắng sống cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn quan này, cái chết không chỉ là mối họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai đang sống, vì qua nó, con người nhận ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là điểm mà mỗi người sẽ đến. Chỉ lo đi bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo hoàn tất nhiệm vụ của mình, thì quả là người dại biết bao.
Cái chết làm người ta đi vào vĩnh cửu
Thời gian thật là quý. Vì người ta có thể xây dựng và hoàn thành con người của mình một cách tuyệt vời. Con người mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này. Khi chết rồi, mình không còn thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là thời gian của mỗi người, thuộc về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và hình thành con người mình theo như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình thành đời mình, nếu không phải chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm cho người ta ra khác, được sống hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi, quý như thế nào.
Cũng khó mà diễn tả tại sao cái chết lại làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan của thánh Ynhã Loyola, ma quỷ và những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối và nguyền rủa Thiên Chúa. Thái độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng của người đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh em của ông ta còn đang sống, nên đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết rằng, bởi vì đây là dụ ngôn, nên không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được giải thích. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để khi chết được hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống của mình, với những lời dạy dỗ của những người được sai tới với họ. Họ không cần phải chờ người chết hiện về, hoặc thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những người sống với chúng ta, những người nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng. Không ai thay thế họ cho chúng ta. Đừng đòi người chết hiện về để nói.
Hôm nay là ngày hồng phúc, hôm nay là ngày cứu độ
Hôm nay, với những điều kiện tôi có và hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi, tôi phải sống cho ra người, hình thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin, không có gì, vẫn có thể hình thành con người của anh ta cách trọn vẹn. Những người làm vệ sinh đường phố, những người quét rác ngoài đường, những giám đốc xí nghiệp lớn, hay những bác sĩ kỹ sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời mình. Nếu một bác sĩ không tận tâm cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó cũng tương tự như người giầu không có lòng thương với người nghèo ăn xin Ladarô. Nếu một công nhân quét đường mà không làm tròn bổn phận của mình, thì cũng dở như một giám đốc xí nghiệp không cố gắng để xí nghiệp được trao cho mình phát triển. “Không có nghề dở, chỉ có người dở”. Trước mặt Chúa, bác sĩ và công nhân vệ sinh trong bệnh viện đều ngang nhau. Và ngay cả trước mặt con người, một người làm phu vệ sinh nhưng thương yêu và giáo dục con nên người, thì tốt hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà không dành giờ để thương yêu và giáo dục con cái họ. Chính trong việc làm, và trong việc giáo dục con cái, hình thành nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng như hình thành con người vĩnh cửu của mình trong đời sống mai hậu.
Tài nguyên của cải, là của Cha trên trời cho tất cả mọi người. Không ai được lợi dụng tài năng của mình để bóc lột người khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi người; và tài năng là để phục vụ mọi người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang, không chắc đã tốt bằng người công nhân xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc mỗi người dùng tài năng Chúa ban cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu Chúa ban cho họ 5 nén, họ phải làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén, Ngài chỉ đòi tôi làm lời 1 nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác. Nếu không có người phu quét đường và những người trồng và săn sóc cây trong công viên, cuộc đời đã không đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường phố, không chỉ làm đẹp phố phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh phúc. Họ có thể là những người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, Thiên Chúa có công bằng khi để mỗi người đều phải chết không? Tại sao?
- Người giầu và người nghèo, ai dễ hạnh phúc hơn? Tại sao?
- Có ai hình thành đời bạn giúp bạn không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế nào?
69. Chọn lựa hình thành chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa tạo dựng con người mà không hỏi ý kiến con người vì lúc đó chưa có con người, nhưng một khi con người được sinh ra thì Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của họ. Thiên Chúa không cứu độ con người nếu con người không đồng ý. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, con người được tạo dựng có lý trí, tự do, và biết yêu. Con người được tạo dựng một cách tuyệt vời. Con người có khả năng hình thành chính mình trong không và thời gian. Hành vi đặc trưng nhất của con người là yêu thương. Yêu thương, là hành vi làm con người trở nên thần linh, trở nên giống Thiên Chúa.
Là người, ai cũng đều có thân xác như nhau. Mỗi người đều có tai mắt mũi miệng; tuy nhiên, mỗi người là một độc đáo với những nét đẹp xấu khác nhau, vì mỗi người là công trình tuyệt vời của Thiên Chúa. Con người là một tạo vật “mở,” vì con người có thể hình thành chính mình qua những quyết định chọn lựa sống của mình. Ai cũng giống ai, nhưng người ta khác nhau tùy chọn lựa sống của mỗi người. Có người đứng trước nỗi khổ của tha nhân thì động lòng thương và tìm cách giúp đỡ họ, có người đứng trước nỗi khổ của người khác thì dửng dưng vô cảm, cũng có người lại vui thích trước nỗi khổ của người khác và còn tìm cách “đổ thêm dầu vào lửa.” Qua chọn lựa sống và cách đối xử với tha nhân, người ta hình thành chính mình. Người ta trở nên tốt lành hoặc độc ác, đẹp hoặc xấu, bao dung hay xét nét, quảng đại hay nhỏ nhen, dễ thương hay đáng ghét tùy thái độ chọn lựa sống của mỗi người.
Dụ ngôn trong Tin Mừng Luca hôm nay cho thấy người phú hộ được mời gọi động lòng thương người nghèo ngồi ăn xin trước cổng nhà ông. Người phú hộ đã đóng lòng lại, không đoái hoài đến Lazarô đói rã rời chỉ mong có những gì từ bàn ăn người phú hộ rớt xuống để ăn, nhưng không được. Lazarô khốn khổ tột cùng, ghẻ lở, đói ăn, bị khinh khi coi thường; tuy vậy, người phú hộ vẫn không động lòng thương. Người phú hộ không có tình thương thật đối với con người cụ thể; điều mà ông có thể làm được và cần phải làm thì ông đã không làm. Sau khi chết, người phú hộ không cần phải lo cho người khác, như lo cho năm người anh em của ông ta. Năm người anh em của ông đã có những người khác lo, ông ta không cần bận tâm làm gì. Ông ta sợ những người khác không giúp họ được, và chỉ có ông ta mới có thể giúp họ được thôi. Điều này lại cho thấy thêm về con người của người phú hộ: ông ta cho rằng ông ta có khả năng làm điều này điều kia mà người khác không làm được. Nếu những anh em của ông ta không nghe những người còn đang sống thì cũng chẳng nghe lời ông ta.
Suy nghĩ và chọn lựa sống làm thành con người. Người phú hộ không quan tâm đến người nghèo Lazarô, và chỉ làm điều anh ta muốn; ngay cả khi anh ta chết, anh ta vẫn vậy, anh ta vẫn nghĩ rằng anh ta có thể giúp người khác nhưng điều này lại là không cần và không thực tế với anh ta. Điều thực tế nhất và là điều anh ta đã có thể làm mà anh ta đã không làm, đó là thương người nghèo khổ Lazarô đang đói khổ trước cửa nhà anh ta. Chỉ cần anh ta quan tâm một chút, chỉ cần anh ta bỏ ra một chút của ăn để giúp đỡ người nghèo, thì anh đã là con người khác. Con người trở nên tốt không phải bằng những mơ tưởng dự phóng của mình nhưng bằng những hành vi yêu thương cụ thể trong cuộc sống thường ngày.
Nghèo hay giầu đều không phải là điều xấu. Ông Giakêu một người giầu hối cải đã dùng tiền của để trang trải những bất công ông phạm đối với tha nhân; các Kitô hữu tiên khởi đã bán những gì mình có và đặt mọi sự làm của chung. Tiền là một tên đầy tớ đắc lực nhưng lại là ông chủ tàn ác. Nếu con người dùng tiền như phương tiện, tiền bạc sẽ phục vụ con người; còn nếu một người chỉ lo thu tích của cải, thì của cải sẽ chi phối và điều khiển họ. Lúc đó, người mê say tiền của không dành thời gian cho gia đình, không dành thời gian cho những công việc cần thiết để phát triển chính mình; những người ham mê tiền bạc có thể dùng những cách bất lương để chiếm đoạt tài sản của người khác, và thậm chí còn xúc phạm đến thân thể và mạng sống người khác để đạt được ý nguyện của họ.
Là người, ai cũng được sinh ra và cũng sẽ qua cái chết. Mỗi người là mình qua thái độ sống của mình với tha nhân, qua cách hành xử của mình. Nếu tôi lắng nghe, trân trọng, quý mến mọi người, tôi là người dễ thương, là người được yêu mến, là món quà quý đối với những ai tôi gặp gỡ. Còn nếu tôi nhăn nhó, hà khắc, làm người khác sợ hãi, thì tôi là mối họa cho những người gặp gỡ và sống với tôi. Tôi là tôi qua những giao tiếp và cách đối xử của tôi với tha nhân. “Không Trời ai sống được với ai.” Tin vào Thiên Chúa (hay Tuyệt Đối) giúp người ta tin vào chính mình và tin vào tha nhân, giúp người ta tin tưởng và yêu thương tha nhân.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- “Người ta trở nên mình qua những quyết định chọn lựa của mình.” Theo bạn, câu nói này có đúng không? Tại sao?
- Đâu là dung mạo người mà bạn mong ước trở thành? Bạn làm gì để thành người như bạn mong ước?
Robert Schuller viết trong nhiều cuốn sách của ông: Vào năm 1923, một cuộc họp quan trọng đã được diễn ra tại thành phố Chicago. Trong cuộc họp này gồm 9 chuyên gia tài chính quan trọng của toàn thế giới. Sau đó 25 năm, những chuyên gia tài chính này đã trở thành những người bần cùng và có một kết quả bi thảm:
Giám đốc công ty hãng sắt lớn nhất trở thành một người nợ nần và sau đó tự vẫn. Giám đốc công ty điện nước lớn nhất phải lánh nạn ở vùng đất khách và chết một cách nghèo khổ. Giám đốc công ty gas lớn nhất bị điên. Người đầu cơ lúa mạch lớn nhất bị chết tại đất khách. Giám đốc cổ phần tại New York lớn nhất (New York Stock) tự vẫn. Một nhân viên thân cận của tổng thống phải ở tù. Một nhân viên nổi tiếng về tiền tệ Wall Street bị ở tù. Một chuyên gia tư bản độc quyền tự vẫn. Giám đốc của một nhà băng cũng tự vẫn.
Qua đó, chúng ta thấy rằng chúng ta phải làm gì với cơ nghiệp chúng ta có để nó thực sự sinh ích lợi cho chúng ta?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu kể một câu truyện về một người đàn ông giàu có và một người đàn ông nghèo khổ, Ladarô. Họ ở hai thế giới khác nhau, một người thì giàu có, và người kia thì nghèo túng. Một người thì từ cái ăn uống đến cách ăn mặc đều sang trọng, còn người kia thì ghẻ lở và ăn uống giống như một con chó. Cả hai đều đã chết, và số phận của họ cũng khác nhau. Ladarô thì được phúc thiên đàng, còn người giàu có phải bị trầm luân. Người giàu có thấy vậy thì liền xin cùng Abraham cho phép ông về để cảnh cáo những người còn sống thay đổi cách sống ích kỷ của họ và biết thương yêu chia sẻ cho những người khác để khỏi bị trầm luân giống như ông. Câu truyện đã được kết thúc bằng lời của Abraham rằng, “Dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu” (Lc 16:31).
Chúa Giêsu kể câu truyện trên để giúp ích cho những người Pharisiêu, là những người mà Ngài thường lên án do trái tim cứng cỏi và sự lì lợm của họ trước những chân lý Ngài rao giảng. Chúa Giêsu nói với họ rằng thái độ đọc và sống luật bằng chữ nghiêm ngặt của họ không những không làm cho họ mà còn làm cho cả những người khác cũng không thể nhận ra chân lý. Có lẽ nhiều người chúng ta cũng như thế, cho nên câu truyện hôm nay cũng là bài học áp dụng cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, cho dù là Chúa Kitô Phục Sinh có muốn đến với chúng ta đi nữa mà chúng ta không đồng ý sẵn sàng thì cũng vô dụng. Cái lúc mà chúng ta nhận thấy rằng mình không cần ơn trên phù trợ là lúc mà chúng ta đóng cửa lòng mình lại. Phương thế duy nhất để chúng ta có thể nhận lãnh ơn của Chúa là phải qua cây Thánh Giá. Không có một cách thức nào khác để chúng ta có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục sinh mà không phải qua Thánh Giá.
Cho dù là các bạn có ở trong tình trạng nào đi nữa trong lúc này, vui mừng phấn khởi hay là chán nản, bệnh tật hay khỏe mạnh, giàu có hay nghèo khổ, tình thương của Thiên Chúa hằng luôn ở cùng các bạn. Nếu các bạn biết mở lòng ra trong sự khiêm nhượng, như chính Chúa Giêsu đã làm trên thánh giá, Ngài sẽ đổ vào lòng các bạn tình yêu của Ngài. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ nói với các bạn về chính con người của các bạn và về mối liên hệ của các bạn với tha nhân, là điều thường hay làm cho các bạn đau khổ. Mối liên hệ đó có thể đã bị thương do sự hiểu lầm, cắt đứt, lạm dụng, và nó tạo cho các bạn mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên, không bao giờ mà tình yêu của Thiên Chúa không hiện diện cùng các bạn ở những lúc cùng quẫn đó để nâng đỡ, chữa lành, và tẩy rửa các bạn.
Cũng giống như câu truyện trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta những lời của Thiên Chúa để cảnh cáo chúng ta phải biết vâng theo. Chúng ta vâng theo vì chúng ta được một Thiên Chúa quyền năng, Ngài yêu thương.
** Nhiều người có ý nghĩ rằng: Thiên Chúa nhân từ vô cùng, thì chắc chắn Ngài không phạt ai mãi mãi trong hỏa ngục, và do đó, không có hoả ngục! Đó là một ý nghĩ sai lầm! Bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu đã xác quyết có hỏa ngục, nơi giam cầm mãi mãi những người cố tình phạm trọng tội, nhất là tội thiếu yêu thương, không muốn chia xẻ những gì mình có cho người túng thiếu, khổ cực! và hình phạt vô cùng thảm khốc sẽ đến cho họ sau kiếp sống vắn vỏi này!
Chúa Giêsu kể một dụ ngôn đặc biệt nói đến hai hạng người trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như ngày nay: Một hạng người trọc-phú, và một hạng người bần cùng khốn khổ nhất trong xã hội, hạng người rất đáng chúng ta thương xót! Thế nhưng số phận đời đời của 2 người mà Chúa nói tới, hoàn toàn đảo ngược sau khi họ chết!
Người phú hộ: Ăn mặc toàn gấm vóc lụa là, quần áo lộng lẫy, ngày nào cũng yến tiệc linh đình, ăn toàn cao lương, mỹ vị, không thiếu sơn hào hải vị. Ông là một người giầu, một trọc phú điển hình thời Chúa Giêsu, giầu theo kiểu đại phú gia La-Mã lúc bấy giờ. Ông quá giầu: Vì ngày nào cũng yến tiệc linh đình, không như những người giầu vừa vừa, chỉ mở đại tiệc dăm ba lần trong năm!
Lazarô: Một người cùng khổ nhất trong xã hội, vừa ốm đau, ghẻ lở khắp mình, phải đi ăn xin cơm thừa canh cặn của những người khá giả để sống qua ngày! Lazarô và nhà phú hộ là hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược: Một người quá giầu còn Lazarô lại ở mức cùng tận của cái nghèo! Tên Lazarô có nghĩa là Chúa thương giúp. Trong Tin Mừng có 2 người khác nhau cùng có tên là Lazarô: một người mà Tin Mừng Thánh Gioan nói tới trong đoạn XI, là em của Bà Martha và Maria, được Chúa cho sống lại sau khi đã chết 4 ngày. Còn Lazarô là người cùng khổ mà Chúa Giêsu nói tới. Ông là người duy nhất được Chúa đặc biệt nói rõ tên trong các câu chuyện Tin Mừng.
** Giầu không phải là tội, tuy nhiên, giầu mà không biết chia xẻ, không biết xót thương những người nghèo khổ, thì đó mới là tội. Người phú hộ, quá dư thừa, ngày nào cũng yến tiệc linh đình, đồ ăn thừa mứa, trong khi Lazarô chỉ ước ao những mụn bánh rớt xuống từ bàn ăn của ông phú hộ, nhưng cũng không ai thèm cho! Mà Lazarô có ở đâu xa, ông nằm ăn xin ngay bên cổng của người phú hộ, thế nhưng ông phú hộ đã không thèm để mắt tới! Nếu ông ta đã quan tâm thì đâu Lazarô có phải túng thiếu, khổ sở tận cùng như thế! Ông ta chỉ cần sai đầy tớ đem cho Lazarô chút cơm thừa, canh cặn thì Lazarô đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng mơ ước quá nhỏ bé đó đã trở thành ảo vọng, vì ông phú hộ đâu thèm xót thương thân phận hẩm hiu thê thảm ấy, thê thảm còn hơn con vật nữa! Một cảnh thật thê lương: Lazarô nằm teo-tóp, chốc lở đầy mình, không một ai thương cảm, chỉ có những con chó đến liếm những mụn ghẻ chốc của ông mà thôi! Mà sự cảm thông, chia xẻ đây có làm bớt đi gia tài kếch xù của ông ta đâu! Và sự chia sớt này chỉ cần ông ta để tâm một chút thì đã dễ dàng đem lại hạnh phúc cho Lazarô, nhưng ông ta đã không làm!
** Người phú hộ ăn uống dư thừa, tiêu sài hoang phí cho riêng mình nhưng từ chối chia xẻ cả những đồ ăn thừa mứa đối với Lazarô, một người đói nghèo, cùng khổ, để làm giảm bớt một chút nào tình cảnh nghèo khó… Đó là một trọng tội đối với Thiên Chúa. Ông không thèm để mắt tới một người khốn cùng, túng đói, khốn khổ hơn cả một con vật, ngày ngày ăn xin ngay trước cổng nhà mình, thì làm sao đáng Chúa xót thương?
** Trong đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu vẽ ra 2 cảnh hoàn toàn trái ngược: Một cảnh ở trần thế: đó là cảnh tưng bừng náo nhiệt, ăn sài cao lương mỹ vị dư thừa nơi nhà ông phú hộ, với cảnh cùng khổ của của Lazarô, thiếu thốn cả những gì cần thiết nhất để sống còn. Một cảnh khác ở kiếp sau: Đó là cảnh hạnh phúc bất tận nơi Thiên Quốc mà Abraham, Lazarô và các con Chúa được hưởng sau kiếp sống vắn vỏi này, đối chiếu với cảnh lửa hồng nung nấu, tuyệt vọng hoàn toàn của người phú hộ bị trầm luân muôn kiếp.
Bị nung nấu trong lửa chẳng hề tắt, ông phú hộ chỉ dám xin tổ phụ Abraham sai Lazarô nhúng một đầu ngón tay vào nước để nhỏ xuống, cho ông ta đỡ khát một chút, nhưng không được, vì có một vực thẳm ngăn cách 2 bên, không thể có ai còn giúp đỡ nhau được nữa! Bởi vì đã hết giờ Cứu Độ! Sự chết đã vĩnh viễn đóng kín mọi cánh cửa hy vọng nơi các linh hồn bị trầm đọa muôn kiếp! Không còn cơ hội để thay đổi số phận được nữa! Sự ngăn cách giữa Thiện-ác trong kiếp sau là sự ngăn cách vĩnh viễn, không bao giờ có thể thay đổi được!… Khi còn đang sống, thì bất cứ lúc nào, chúng ta lắng nghe và thực thi Lời Chúa để sống Yêu Thương, thì số phận tức khắc thay đổi, nhưng sau khi chết, thì hoàn toàn bất di bất dịch: Hoặc thiên thu hạnh phúc hay đời đời khốn khổ!
** Ở đời này, có khi chúng ta cũng gặp nhiều nghịch cảnh, túng thiếu, gian truân… nhưng nếu cứ bước đi tren đường giáo huấn của Chúa để sống trong tình thương, yêu Chúa và tha nhân, thì chắc chắn, tương lai tốt đẹp sẽ đến, Thiên Chúa sẽ trọng thưởng các con của Ngài thiên thu hạnh phúc trên Nước Trời. Muốn thế, chúng ta đừng nhắm mắt, bịt tai trước những thống khổ, túng thiếu của tha nhân, nhất là những người cùng khổ bên cạnh chúng ta.
Sự đau khổ túng thiếu đời này chưa phải là cùng tận, chỉ là một thử thách chóng qua, chúng ta cứ vững tâm sống trong Thánh Luật Yêu Thương của Chúa, thì tương lai rực rỡ sẽ đến và thay đổi hoàn toàn số phận chúng ta trong Cõi thiên thu vĩnh hằng!
Câu hỏi gợi ý:
- Người giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay có phạm một tội ác nào không? Ông phải chịu hình phạt nơi âm phủ vì lý do gì? Đó có phải là một tội không?
- Làm ngơ hay lãnh đạm trước những đau khổ, cùng quẫn, cảnh áp bức mà người thân mình đang phải gánh chịu một cách bất công mà không ra tay can thiệp khi có thể, có phải là tội lỗi không? Đó có phải là thiếu tình yêu? Và như thế, có thể vào được Nước Trời là nơi chỉ dành cho những người biết yêu thương thật sự không?
Suy tư gợi ý:
- Chúng ta chỉ là những người quản lý những gì chúng ta có
Tất cả những gì chúng ta đang có trong tay, dù là vật chất hay tinh thần (đức độ, tài năng, chức quyền, địa vị, hay của cải, tiền bạc, v.v…) cũng đều do Thiên Chúa ban. Ngài muốn chúng ta tạm thời quản lý để làm những việc ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân, tức làm lợi cho Nước Trời. Chúng không phải là của ta, vì nếu chúng thật sự là của ta, thì chúng cũng phải theo ta về đời sau. Nhưng trong thực tế, khi lìa cuộc đời, ta phải để lại tất cả cho người khác. Do đó, xét cho cùng, chúng ta chỉ là những người quản lý tạm thời những gì chúng ta đang có, và phải sử dụng chúng theo ý muốn của người chủ đích thực của chúng là Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta quản lý chúng. Người quản lý nào không sử dụng của cải tiền bạc của chủ đúng theo ý chủ, nghĩa là không làm lợi cho chủ mà chỉ làm lợi cho mình, sẽ bị đuổi việc hoặc phải chịu trách nhiệm về cách quản lý sai trái ấy.
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người phú hộ bị hình phạt dưới âm phủ, chịu lửa thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm một tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình. Ông ta “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà mình “sống chết mặc bay!”, phải chịu “mụn nhọt đầy mình”, “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giàu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn vô tội khi không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả: ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại đâu!
Nhưng việc ông phải chịu phạt dưới âm phủ chứng tỏ cách suy nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm. Tuy dù ông không có hành động tích cực hay cụ thể nào gây bất công cho ai, nhưng việc chỉ dùng của cải Thiên Chúa ban để hưởng thụ một mình mình, hay một mình gia đình mình, đồng thời làm ngơ hoặc không đếm xỉa gì đến những đau khổ của những người nghèo túng, bị áp bức chung quanh mình, thì ông đã phạm một tội rất nặng rồi. Vì tiền bạc của cải ông có, thật ra đâu phải là của ông khiến ông có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông chỉ là người quản lý, và ông phải quản lý làm sao để chứng tỏ ông có tình thương, để làm lợi cho Nước Trời, là thứ xã hội lý tưởng trong đó mọi người luôn yêu thương nhau. Có thế ông mới xứng đáng được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, vốn chỉ dành cho những con người có tình yêu thương thật sự. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng thể vào được Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25,42-43).
- Của cải vật chất trên nguyên tắc là để mọi người hưởng dùng
Thiên Chúa tạo dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng dùng. Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa hợp lý, khiến cho xã hội còn nhiều bất công: “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”. Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai được cơ chế xã hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách rất hợp pháp, phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là những người gặp cảnh cùng quẫn. Đó là nghĩa vụ mà lương tâm tự nhiên của con người đòi hỏi, không cần phải nại đến luân lý Ki-tô giáo. Cổ nhân ta có những câu như “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Việc xây dựng một xã hội công bằng, trong đó của cải được phân chia hợp lý, hay việc chống bất công, cũng là nghĩa vụ của mọi người, nhất là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều khả năng làm việc ấy một cách hữu hiệu (những người có tài năng, chức quyền, có địa vị trong xã hội và Giáo Hội…)
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa công bằng và yêu thương, Ngài đã cho Con Một Ngài xuống thế để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời và khởi đầu xây dựng nước ấy, trước hết tại trần gian, và sau đó là trên trời. Nước Trời là một xã hội hay Giáo Hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử với nhau không chỉ hợp với lẽ công bằng, mà còn phải đầy tình yêu thương nữa. Những người ích kỷ, chỉ biết hạnh phúc một mình, đầy đủ một mình, những người chủ trương ai chết mặc ai, ai khổ mặc ai, không thể là đối tượng của Nước Trời. Vì thế, những người theo Ngài, tức các Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tiếp nối công việc của Ngài là làm chứng và xây dựng cho Nước Trời. Làm chứng là chính mình sống đúng tinh thần công bằng và yêu thương của Nước Trời ngay trong chính môi trường mình đang sống. Xây dựng là làm sao để trong môi trường mình sống ngày càng có nhiều người sống tinh thần ấy. Thiết tưởng mọi Ki-tô hữu cần ý thức và quan tâm tới chiều kích xã hội và giáo hội này.
- Những người giàu có, hạnh phúc, cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo túng, đau khổ
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những đau khổ, thế cùng quẫn, tình trạng bị áp bức, bóc lột mà những người chung quanh ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu trước mắt mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta hành động như anh nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay, an tâm “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” trong ngôi nhà khang trang đầy tiện nghi, không thèm đếm xỉa đến nỗi cùng quẫn của những “Ladarô, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống mà ăn cho no” đang nằm trước cổng nhà mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta khoanh tay ngồi nhìn những kẻ ác tự do gây bất công cho những kẻ thế cô, khi mà chúng ta có thể dùng tài năng hay địa vị của chúng ta để can thiệp.
Chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những gì Thiên Chúa ban mà chúng ta lại không sử dụng để làm lợi cho Ngài và tha nhân. Dụ ngôn về nén bạc cho chúng ta biết điều ấy (xem Mt 25,14-30; Lc 19,12-27): Kẻ nào đem chôn nén bạc Chúa trao, dù chỉ là một nén, mà không sinh lợi ích cho Ngài, thì sẽ Ngài bị kết án: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25,30). Do đó, chúng ta không thể tự hào mình vô tội chỉ vì mình không hề làm điều gì bất công. Coi chừng chúng ta là kẻ tội lỗi đáng kết án chỉ vì đã không làm những gì lương tâm và tình yêu thương đòi buộc phải làm, dù bởi lười biếng hay hèn nhát…
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy mình chưa đủ tình thương đối với Cha cũng như với đồng loại, vì con chưa dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của cải, hay chấp nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người thân đang đau khổ chung quanh con bớt đau khổ. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn và hạnh phúc của riêng con, coi sự an toàn và hạnh phúc của con hơn tất cả. Xin ban cho con có nhiều tình yêu hơn, vì có đủ tình yêu, con sẽ làm được tất cả những gì Chúa muốn, những gì lương tâm và tình yêu đòi buộc. Amen.
73. Suy niệm của Nguyễn Hữu Nghĩa
Câu hỏi gợi ý:
- Lời Chúa, qua ba bài đọc, muốn nhắn nhủ ta điều gì?
- Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo?
- Sự chia sẻ.
Suy tư gợi ý:
- Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa: Hạnh phúc vĩnh cữu.
Qua ba bài đọc, Giáo Hội muốn ta ý thức lại cùng đích tối hậu của đời ta là CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG, là HẠNH PHÚC VIÊN MÃN. Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Amốt đã ghê tỡm những thú vui trần tục. Ông đã cảnh cáo các vua chúa nếu cứ tiếp tục hưởng thụ một lối sống sa đoạ, sẽ có ngày đền tội bằng một cuộc đời lưu đày vất vả. Bài dọc 2, Thánh Phaolô khuyên đồ đệ thân tín của mình hãy can đảm sống công chính cho đến ngày Đức Giêsu quang lâm. Ngày đó, những kẻ tín trung sẽ được chiêm ngắm dung nhan của vị Chúa Tể Càn Khôn, Người đã sai Đức Giêsu, Con Một của Người đến trần gian dể cứu độ chúng sinh. Hạnh phúc được chiêm ngắm Ngài sẽ là viên mãn và vĩnh cữu. Bài đọc 3, sự tương phản giữa hai cuộc sống đưa đến sự tương phản giữa hai hạnh phúc: Hạnh phúc tương đối và hạnh phúc tuyệt đối. Ở cuộc sống chóng qua này, người nhà giàu xem ra rất hạnh phúc, ăn sung mặc sướng. Trong khi đó, Ladarô nghèo đói khổ cực, bệnh tật ghẻ chốc, bị khinh rẻ. Nhưng tất cả đều qua đi nhanh chóng vì ai cũng phải chết. Sau khi chết, cuộc sống vĩnh hằng bắt đầu, hạnh phúc hay đau khổ vĩnh viễn. Ông nhà giàu đã sa vào chốn cực hình. Người nghèo khó đã ung dung hạnh phúc trong lòng Apraham. Như vậy, Lời Chúa khuyên chúng ta hãy can đảm lội ngược dòng đời, hãy từ bỏ những sự phù phiếm thế gian để chiếm lĩnh phần phúc trên trời. Nhưng thế nào là phù phiếm thế gian? Có phải hễ cứ giàu có thì sở đắc nhiều phù phiếm thế gian chăng?
- Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Ta thấy người giàu có đã sa vào âm phủ đời dời kiếp kiếp với những cực hình không thể tả nỗi. Một giọt nước đở khát cũng không được. Rồi ta lại liên hệ đến câu nói của Chúa Giêsu: ” Người giàu có vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim”. Hoá ra sự giàu có là một trọng tội? Sự nghèo khổ là cơ duyên cho một hạnh phúc vĩnh cữu? Vậy tại sao ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên giàu có? Nếu chúng ta không có quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo, chắc chắn chính chúng ta sẽ tự mâu thuẫu với chúng ta. Chúng ta thường tự hào khi đứng về phía người nghèo để đấu tranh cho họ. Không lẽ chúng ta đấu tranh cho họ để họ nghèo thêm? Mà nếu đấu tranh cho họ khá hơn thì tức là ta đã làm cho họ xấu hơn. Chương trình xoá đói giảm nghèo phỏng có ích gì? Và phải chăng ông Dale Carnegie đã sai lầm khi cho rằng một trong những điều kiện làm ta vui sống chính là ta phải thoát khỏi tình trạng túng quẫn thiếu nợ. Thực ra, nếu trong xã hội có nhiều người giàu thì càng tốt chứ sao. Vì như thế, người nghèo mới hy vọng có nơi để mượn tiền khi túng quẫn. Ai cũng thiếu ăn thì ai có thể giúp ai được.
Như vậy, kẻ giàu, theo Tin Mừng, tức là người xem của cải trần gian này là mục đích tối hậu, nếu không nói sự giàu sang phú quí chính là thần tượng mà họ tôn thờ, là Chúa của lòng họ. Cái phao cuối cùng của họ là vật chất. Họ bám víu vào nó. Họ chiếm hữu nó bằng mọi giá. Hậu quả là họ tự phụ khi họ giàu. Họ mặc cảm khi họ làm ăn thua lỗ. Họ ganh tị khi thấy người khác kinh tế khá hơn mình. Tôi còn nhớ, cách đây không bao lâu, Báo Công an Thành phố HCM có đăng tin. Chỉ vì ganh ghét người bạn đồng nghiệp ngư phủ của mình làm ăn phát đạt mà kẻ sát nhân đã mất hết tính người, trói cả gia đình người bạn quẳng xuống sông, nhận chìm luôn chiếc ghe của họ. Rất tiếc, kẻ sát nhân đó là một người “có đạo”.
Còn kẻ nghèo, theo Tin Mừng, là người xem đồng tiền như một đầy tớ hữu dụng, biết dùng nó để mua những giá trị đời đời. Kẻ nghèo không bao giờ coi thường vật chất, cũng không tôn sùng nó như vị chúa tể của lòng mình. Họ biết đặt nó đúng vị trí. Do vậy, trong thực tế, có thể người giàu có trước mặt thế gian lại là người nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Và ngược lại. Đến đây, chúng ta có thể trở về với vấn nạn: Ta phải làm gì để đạt hạnh phúc đời đời?
- Chia sẻ
Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó. Nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết dể thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ thiện tâm của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn (hiểu theo nghĩa rộng là Chân Thiện Mỹ).
NGUYỆN:
Lạy Chúa, là Khôi Bình viên, hơn ai hết con phải biết chia LỜI và sẻ BÁNH cho anh em con. Xin Chúa cho con có đủ quảng đại để biết chia mà không tính toán hơn thiệt. Xin cho con không những chỉ chia những cái dư thừa, nhưng ngay cả cái con đang cần, để con ngày nên giống Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá hơn. Amen.
74. Thắp một ngọn đèn- Lm. Vũ Minh Nghiễm
Barbara Varenhorst trong cuốn sách nhan đề là Real Friends (Những người bạn chân thật) có viết về một phụ nữ tên Erma như sau.
Hôm đó, một người đàn bà tên là Erma có việc đi Chicago bằng phi cơ. Cô đến phi trường khoảng nửa tiếng trước khi máy bay cất cánh. Làm thủ tục xong, Erma ngồi chờ nơi phòng đợi. Trong lòng cô còn đang bực mình vì những chuyện không vui tuần vừa rồi. Cô lấy một cuốn sách hay ra đọc.
Nhưng rồi bỗng Erma nghe tiếng một người đàn bà khác đã có tuổi ngồi bên cạnh nói:
– Tôi đoán rằng tại Chicago trời lạnh lắm.
Erma mắt không rời cuốn sách, đáp lại cách lơ đễnh:
– Có thể lắm.
Người đàn bà có tuổi kia tiếp tục nói. Erma tiếp tục trả lời lại bằng những câu cụt ngủn lạnh lùng.
Thế rồi bà ta nói ra một tin động trời.
– Tôi hiện đi theo xác chồng tôi đem về Chicago. Anh ấy đã chết đột ngột sau 53 năm hôn phối.
Đến đây, quả tim Erma nhảy lên, đập nhanh đập mạnh. Cô nhận thức được rằng người đàn bà đang ngồi bên cạnh mình là người đau khổ, cần một người khác biết lắng tai nghe, biết cảm thông, hầu bà có thể thổ lộ tâm tình, cho vơi sự đau khổ đang đè nặng tâm hồn bà. Bà ấy không van xin một lời khuyên nhủ. Không van xin bạc tiền. Bà chỉ đi tìm một người biết lắng tai nghe. Thế mà Erma đã vô tình, làm người hoàn toàn xa lạ.
Bây giờ cô xếp sách lại, bỏ xuống ghế, đưa hai tay cầm lấy tay bà kia, và lắng tai nghe bà kể lể nỗi niềm đau thương của bà.
Trong khi lắng tai nghe bà kia kể lể, Erma quên hết các vấn đề khó khăn của mình. Cô bỗng cảm thấy tươi trẻ lại, can đảm hơn, mạnh mẽ hơn.
Khi tiếng người nhân viên hàng không vang lên trong máy phóng thanh, báo tin đã đến giời đi Chicago, Erma khoác tay bà kia lên máy bay. Tới nơi, họ chia tay nhau, tới chỗ ngồi của mình. Họ ngồi cách nhau vài ba hàng ghế.
Khi Erma đang đứng bỏ chiếc áo quàng lên hộp đựng hành lý phía trên đầu, Erma nghe bà kia nói với người hành khách bên cạnh bà y như đã nói với cô trước đây..
“Tôi đoán rằng ở Chicago trời lạnh lắm…”
Nghe vậy, Erma tự nhiên thốt lên một lời cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa ban cho người hành khách kia ơn biết nhẫn nại và lắng tai nghe với tất cả tấm lòng thương yêu.
Câu chuyện đây giống như câu truyện Chúa phán trong bài dụ ngôn hôm nay về người phú hộ và người ăn mày nghèo khổ tên là Ladarô. Người giàu có đầy đủ hết mọi sự. Còn Ladarô thì thiếu thốn hết mọi sự. Ladarô rất cần sự giúp đỡ và chỉ cần rất ít thôi. Nếu người phú hộ kia muốn giúp đỡ Ladarô, thì chỉ cho anh ăn những mụn bánh từ bàn tiệc của ông rơi xuống đất cũng đủ. Nhưng ông không bao giờ để ý đến Ladarô cả. Ông coi Ladarô như không có. Cách xử trí của ông đối với Ladarô không khác gì cách xử trí của Erma lúc ban đầu đối với người đàn bà đau khổ trong câu chuyện nói trên.
Cái tội làm cho người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay phải chịu cực hình trong địa ngục là tội gì?
Ông không bảo đầy tớ đuổi Ladarô ra khỏi cổng nhà của ông.
Ông không đánh đập Ladarô mỗi khi ông đi ngang qua chỗ anh nằm.
Ông không chưởi bới rủa nộp Ladarô mỗi khi ông trông thấy anh.
Vậy tội làm cho người phú hộ phải chịu cực hình là tội gì? – Thưa là tội ông ta coi Ladarô như không có! Tội ông ta không phải là một tội phạm vì đã làm một điều không được làm. Tội ông là một tội thiếu sót. Không làm điều đáng lý ông phải làm (sin of omission). Tội người phú hộ là tội không lay một ngón tay để giúp đỡ một tí, một tí thôi, người nghèo cực cần được giúp đỡ.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn về chúng ta và xã hội chúng ta hôm nay. Ai trong chúng ta mà không nhận thấy rằng câu chuyện Ladarô đang tái hiện hằng ngày giữa chúng ta? Đang tái hiện trong mọi tầng lớp của xã hội chúng ta đang sống?
Con người chúng ta, xã hội chúng ta đang đặt ưu tiên của mình trên vật chất hơn là trên con người.
Tổng thống Eisenhower trước đây có nói: “Mỗi một cái súng được đưa ra, mỗi một chiến hạm được hạ thủy, mỗi một hỏa tiễn được bắn đi, xét cho cùng là một cuộc đánh cắp người nghèo đói, không cơm ăn áo mặc.”
Tổng thống John K. Kennedy còn nói mạnh hơn nữa: “Khi người ta đặt ưu tiên của vật chất trên con người, không những người ta hủy hoại lớp người nghèo cực, mà còn hủy hoại cả xã hội mình đang ở giữa. Nếu một nước tự do mà không lo cứu vớt lớp người nghèo, người ta cũng không thể cứu vớt được lớp người giàu.”
Nếu chúng ta không lưu tâm đến những kẻ túng thiếu ở giữa chúng ta, thì không những chúng ta hủy hoại họ, mà hủy hoại cả chính bản thân chúng ta nữa.
Nói như vậy, có những người cũng còn cho là mơ hồ, chưa nhìn thấy một câu trả lời cụ thể cho cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại. Vậy chúng ta có thể trả lời cho bài học của dụ ngôn hôm nay bằng ba cách.
Thứ nhứt. Chúng ta xử sự như người phú hộ trong Phúc âm hôm nay: nhắm mắt lại trước mọi hoàn cảnh không may mắn, trước mọi đau khổ đang xảy đến chung quanh chúng ta.
Thứ hai. Chúng ta không nhắm mắt lại trước hoàn cảnh đau thương, khỗ cực, túng thiếu đang xảy ra chung quanh. Chúng ta lên tiếng phản đối ầm ĩ, bằng lời nói, hoặc bằng ngòi viết. Nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi! Chúng ta không lay ngón tay để làm một việc gì khác nữa cả, ngoài ra lời nói và ngòi viết.
Sau cùng, thay vì nhắm mắt lại trước những cảnh đau thương khổ cực, thay vì đứng nguyền rủa bóng tối do hoàn cảnh tạo nên, chúng ta thắp lên một ngọn đèn, và thực hành một cử chỉ cụ thể nào đó.
Ngọn đèn của một mình tôi xem ra mờ yếu. Nhưng nếu ngần nầy người trong nhà thờ hôm nay, mỗi người cùng thắp lên một ngọn đèn, thì sẽ tạo ra một rừng ánh sáng, đuổi bóng tối âm u ra khỏi khu vực của chúng ta.
Nếu mỗi người con cái Chúa đều thắp lên một ngọn đèn như vậy, thì không bao lâu ánh sáng sẽ lan toả ra khắp nơi, trong làng mạc chúng ta sinh sống, trong thành thị chúng ta hoạt động, torng quốc gia chúng ta đang cư ngụ, trong toàn thế giới. Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu thực hành những việc nhỏ mọn, như Erma đã làm đối với người đàn bà đau khổ tại phi trường trong câu chuyện mở đầu. Nghĩa là làm những gì chúng ta có thể làm. Đây là sứ điệp của bài Tin Mừng mà Đức Yê-su thách đố chúng ta hôm nay: “Chúng con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu chúng con.”
Khi chúng ta xử đại lạnh lùng đối với nhau thì mọi sự đều bế tắc hỗn loạn. Khi chúng ta biết thương yêu lẫn nhau, thì mọi sự thảy đếu xuôi gió thuận buồm.
75. Lòng nhân đạo- Lm. Bùi Mạnh Tín
Chia sẻ tiền của cho những người nghèo đói, đó là một hình thức bác ái cụ thể nhất và luôn được Chúa chúc phúc.
Trong cuộc sống, chúng ta thường phân biệt: công bằng và bác ái.
Công bằng là điều buộc phải tuân giữ, không tuân giữ thì có tội, chẳng hạn: không được bớt xén tiền bạc, không được lấy của kẻ khác, đừng làm hại tài sản của tha nhân, v…v…
Bác ái là nhưng điều không buộc, muốn thì làm không thì thôi, chẳng hạn: cho kẻ nghèo một đồ vật cần dùng, ủng hộ cho cơ quan từ thiện một số tiền,v…v…
Suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy, nếu chỉ làm những việc phải làm, nếu chỉ dừng lại ở mức độ công bình, mà không tiến tới mức độ bác ái, con người vẫn chưa sống xứng với “đạo làm người”, sẽ đánh mất đi “lòng nhân đạo” và sẽ trở thành ích kỷ. Hiểu như vậy, cha ông chúng ta đã thường dùng những câu châm ngôn để nhắc nhở: “Chia cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”.
Về phương diện tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, bác ái không phải có tính cách “nhiệm ý”, nhưng là một điều luật căn bản và quan trọng, như Chúa Giêsu tuyên bố: “Đây là một giới răn mới”. Là một điều luật, một giới răn, bác ái mang tính cách bắt buộc, và mọi Kitô hữu phải tuân giữ. Để nhấn mạnh tầm quan trọng này, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta câu truyện về một nhà phú hộ và Ladarô. Theo câu truyện, nhà phú hộ không làm gì sai đức công bằng: không gian tham, không trộm cắp, không bớt xén tiền của tha nhân. Nhưng điều tạo nên số phận bất hạnh đời đời cho ông, chính là ông không quan tâm đến Ladarô, một người nghèo và bệnh tật mà ông gặp hằng ngày, không chia sẻ cơm áo cho người anh em trong cảnh túng quẫn đang hiện diện bên ông. Ông chỉ biết phung ph1i tiền của để tạo nên hạnh phúc cho riêng mình. Nói khác, ông sống ích kỷ. Ở đây, chúng ta cũng nên nhớ lại quang cảnh ngày phát xét chung, do chính Chúa Giêsu mô tả (Mt 25:31-46). Định mệnh đời sau của mỗi người hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào tinh thần bác ái – có nghĩa là, tất cả những việc tốt chúng ta làm cho tha nhân, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng luôn mang giá trị cứu độ và đóng góp vào hạnh phúc mai sau. Bác ái, như Chúa Giêsu cho biết, là con đường bảo đảm nhất dẫn vào Nước Trời. Hơn thế, Chúa cho thấy những ích lợi của bác ái ngay trong cuộc sống này.
Bà goá miền Sarepta, vì biết chia sẻ nước uống và bánh cho tiên tri Isai, đã được Thiên Chúa cứu sống qua thời gian hạn hán, bằng cách làm cho hũ bột và bình dầu của bà không bao giờ vơi cạn (xem 1 Các Vua, 17). Tabitha được thánh Phêrô cho sống lại, “vì bà là người đã làm nhiều việc tốt và việc bố thí đối với tha nhân” (xem TĐCV 9:36-42). Cùng với lời cầu nguyện và ăn chay, sự bố thí rộng lượng của Monica đã đem con trai của bà là Augustinô về với Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng ta biết “dùng của cải đời này để mua sắm nước Thiên đàng đời sau.”
76. Bác ái cụ thể- Lm. Thanh Minh
Chắc hẳn ai trong chúng ta lúc học giáo lý đều hiểu rõ đức bác ái là cốt tủy của đạo thánh Chúa: “Mười điều răn Đức Chúa Trời tóm về hai nầy mà chớ: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”. Trong ba năm rao giảng nước trời Đức Chúa Giêsu đã huấn dụ rất nhiều về Đức bác ái như bài giảng trên núi (xem Mt chương 5), dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37), diễn từ chung luận về ngày tận thế (xem Mt. 25, 31-46), dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô hôm nay (Lc 16, 19-31). Và nhất là lời trối trăng di chúc của Ngài trong bữa tiệc ly tối thứ năm trước khi bước vào giờ tử nạn: “Thầy truyền cho chúng con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con, nhờ đó thiên hạ sẽ nhận ra các con là môn đệ của thầy” (Ga 13, 34-35)
Quảng diễn giáo thuyết của thầy chí thánh, thánh Phaolô đã ca lên trong bài ca đức ái (xem 1Cor 13) và Ngài đã khẳng quyết: “Yêu thương anh em là chu toàn lề luật”.
Tiên tri Amos trong bài đọc 1 đã nói với những người phú quý giàu sang rằng vì họ xưa kia đã được sung sướng no đầy nên nay phải bị lưu đày.
Người phú hộ trong bài Phúc Âm, thuở sinh tiền đã sống trong nhung lụa giàu sang phung phí yến tiệc linh đình mà khinh chê rẻ rúng người hành khất đáng thương Ladarô túc trực bên vỉa hè, do đó ngày nay bị trầm luân muôn kiếp trong lửa hỏa ngục, còn Ladarô suốt đời cực khổ, sống chẳng ra người thì nay được hưởng phần thưởng trên nước Thiên đàng với tổ phụ Abraham.
Đây là một câu chuyện nửa dụ ngôn, nửa thực tế, đáng chúng ta run sợ xét lại mức độ thực thi bác ái cụ thể của mình.
77. “Họ đã có Môisen và các tiên tri”
(Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh)
Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc các vị cần phải có tinh thần trung tín như một người quản gia hết mình phục vụ Nhà Chúa, không làm tôi hai chủ, thì bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI tuần này, Người nói với nhóm Pharisiêu về dụ ngôn người phú hộ và Ladarô. Tại sao Chúa Giêsu không nói dụ ngôn này với các môn đệ của Người, hay với chung dân chúng, hoặc với thánh phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo dân Do Thái, mà lại nói riêng với nhóm Pharisiêu? Để trả lời cho vấn đề vừa được đặt ra ở đây, cũng như nhờ đó để hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần đọc lại đoạn Phúc Âm Giáo Hội không muốn cho đọc, đoạn Phúc Âm giữa bài Phúc Âm lần trước và lần này. Chúng ta nhớ lại là bài Phúc Âm tuần trước được kết thúc ở câu Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Bởi thế, ngay sau câu này, Phúc Âm Thánh Luca viết tiếp là: “Những người Pharisiêu, thành phần tham lam, nghe thấy tất cả những điều ấy thì cười nhạo Người”. Như thế, sở dĩ Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho riêng nhóm Pharisiêu chẳng những vì họ là “thành phần tham lam”, mà còn vì họ đã “cười nhạo Người”, nghĩa là không tin lời Người khẳng định “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, vì họ cho rằng, dù cho họ có thực sự tham lam đi nữa, nhưng, như dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện trong Phúc Âm Thánh Luca cho thấy, họ vẫn giữ đủ mọi luật lệ dâng cúng theo lề luật, tức là họ vẫn có thể được rỗi.
Nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn người phú hộ và Ladarô này, Chúa Giêsu như muốn chỉnh lại ảo tưởng vô cùng nguy hại này của họ, như muốn ngầm nói với họ rằng: Thế thì các người hay nghe dụ ngôn sau đây và hãy suy nghĩ cho kỹ, chứ đừng có mà tưởng bở, kẻo sẽ bị lãnh số phận vô cùng bất hạnh như người phú hộ trong dụ ngôn đó. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn này thì nhà phú hộ trong dụ ngôn chính là hình ảnh sống động của họ, và Ladarô trong dụ ngôn còn ai hơn là hạng người tội lỗi, được hiện thân nơi người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, hạng người đáng khinh bỉ dưới con mắt ngạo mạn của người Pharisiêu cũng đang cầu nguyện trong đền thờ bấy giờ. Qua dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hai cảnh hoàn toàn trái ngược nhau, chẳng những ở đời này, một người giầu sang phú quí là người phú hộ, và một người thì cùng cực khổ đau là Ladarô, mà còn ở đời sau nữa, người phú hộ thì bị muôn đời trầm luân khốn nạn, còn Ladarô thì được ngàn thu vinh phúc. Tại sao người phú hộ trong dụ ngôn bị hư đi và Ladarô cùng khổ được cứu độ? Phải chăng chỉ vì người phú hộ giầu sang phú quí đến nỗi đã phũ phàng hất hủi Ladarô khi còn sống? Và phải chăng Ladarô được cứu độ chỉ vì cảnh cùng khổ của Ladarô trên trần thế?
Trước hết, về số phận hư đi đời đời của người phú hộ đã được xác định rõ trong dụ ngôn, ở câu: “Người phú hộ chịu cực hình trong chốn kẻ chết, ngước mắt lên thấy Abraham từ xa và Ladarô đang nghỉ ngơi trong lòng ông… Abraham đáp lời hắn: Giữa ngươi và chúng ta có một vực sâu thăm thẳm ngăn cách, không ai có thể từ đây sang đó hay không ai có thể từ đó sang đây”. Thế nhưng, số phận bị đời đời hư đi “trong chốn kẻ chết” đây của người phú hộ chẳng lẽ, như lời Abraham nói với hắn, là vì “hỡi con, con hãy nhớ rằng con đã được may lành trong cuộc sống”. Như thế, số phận “may lành trong cuộc sống” nói chung chẳng lẽ lại chính là cớ làm cho con người hư đi đời đời hay sao? Phải chăng cũng chính vì thế Chúa Giêsu đã khẳng định trong Phúc Am Thánh Luca đoạn 6 câu 24 về cái khốn đầu tiên trong tứ khốn là: “Khốn cho các người là những kẻ giầu có, vì giờ đây các người đã được an ủi rồi”. Như thế thì đúng là cái khốn của thành phần giầu có là ở chỗ “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống”! Tại sao? Nếu không phải vì tình trạng “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống” này sẽ dễ làm cho lòng tham vô đáy của con người nơi họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ mà thôi. Thái độ “chỉ nghĩ đến hưởng thụ” này của thành phần tham lam giầu có cũng được Chúa Giêsu đề cập đến ở một dụ ngôn Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XVIII Năm C, cách đây 9 tuần, đó là trường hợp của “một người giầu có được mùa” liền nghĩ cách tích chứa những gì thặng dư của mình, sau đó anh ta tự nhủ mình như sau: “Hãy sống thoải mái! An cho ngon, uống cho đã. Hưởng cuộc đời”. Người phú hộ “ăn mặc lụa là gấm vóc, hằng ngày yến tiệc linh đình” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên hôm nay cũng thế, chỉ biết hưởng thụ đến nỗi, như lời Chúa Giêsu diễn tả, không hề biết đến Ladarô là một kẻ cùng khổ ngồi ngay “trước cổng nhà của mình”, nghĩa là ở ngay trước mắt người phú hộ. Bởi thế, cho dù người phú hộ chẳng hề ra mặt khinh khi và phũ phàng hất hủi hay tống cổ Ladarô đi cho khuất mắt, trái lại, chỉ vì ông đã neglect, đã không để ý đến mà thôi, ở chỗ không chịu ra tay giúp đỡ khi có thể, mà bị đời đời hư đi vậy.
Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Bởi vì, số phận hư đi đời đời ở đây còn liên quan đến một vấn đề sâu xa hơn nữa, hay nói cách khác, liên quan đến một nguyên nhân sâu xa khiến cho chung người giầu có, điển hình là người phú hộ trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu ở bài Phúc Âm hôm nay, chỉ biết sống hưởng thụ, ngoài ra không còn biết đến, hay không hề nghĩ đến, tha nhân cùng khổ chung quanh mình nữa. Nguyên nhân sâu xa khiến con người sống vị kỷ trên đời này, cũng là nguyên nhân khiến họ hư đi đời đời đó là gì, nếu không phải chỉ vì họ đã không sống đức tin, hay có đức tin mà không áp dụng, một đức tin phải được thể hiện qua việc thực thi bác ái, như nguyên tắc Thánh Phaolô đề ra trong Thư gửi Giáo Đoàn Galata đoạn 5 câu 6: “Đức tin hoạt động qua đức ái”. Đó là lý do, để trả lời cho lời yêu cầu của người phú hộ xin cho người chết hiện về báo cho 5 người anh em của hắn biết về số phận vô cùng khốn nạn để họ khỏi bị chung số phận đời đời trầm luân như hắn, vị tổ phụ đã trả lời với hắn là: “Họ đã có Moisen và các tiên tri… Nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri thì dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin”. Mà toàn bộ luật Moisen và lời các tiên tri dạy gì, nếu không phải được tóm gọn trong tinh thần mến Chúa yêu người, đúng như Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 22 câu 40: “Toàn thể lề luật và lời các tiên tri được dựa vào hai giới răn này”. Vậy thành phần hư đi nói chung chính là thành phần không mến Chúa yêu người. Ap dụng lời Chúa vào trường hợp người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay thì sở dĩ hắn có bị vĩnh viễn hư đi cũng chỉ vì hắn không mến Chúa yêu người. Mà lòng mến Chúa được thể hiện qua đức bác ái yêu thương, tức không biết yêu nhau thì không thể nào mến Chúa, trái lại, “họ chỉ là kẻ nói dối”, như Thánh Gioan xác nhận Thư Thứ Nhất của ngài ở đoạn 4 câu 20. Vậy người phú hộ, hiện thân của nhóm Pharisiêu, dù có giữ lề luật tỉ mỉ, những việc liên quan đến lòng mến Chúa, song không tỏ lòng yêu thương tha nhân trong tầm tay của mình, trái lại, còn ra mặt khinh bỉ những người tội lỗi, thì thực sự họ không sống trong chân lý, sống giả tạo trước nhan Thiên Chúa.
Nếu người phú hộ bị muôn đời trầm luân vì không sống đức tin, được thể hiện qua việc mến Chúa yêu người, thì Ladarô được rỗi chắc chắn cũng phải có đức tin, cũng phải mến Chúa yêu người, chứ không phải chỉ ở trong cảnh cùng khổ là tự nhiên hay tất nhiên sẽ được cứu độ. Hình ảnh Ladarô ngồi trong lòng tổ phụ Abraham là cha của những kẻ tin tưởng cũng đủ chứng tỏ Ladarô đã sống đức tin trong đời này. Tuy Phúc Âm không kể lại rõ ràng những cách thức Ladarô chứng tỏ đức tin của mình, chứng tỏ lòng mến Chúa yêu người của mình, ngoại trừ cho thấy hình ảnh của một Ladarô âm thầm chịu đựng nỗi cùng cực khổ đau của anh ta về phần xác, như bị chó đến liếm tấm thân ghẻ lở cùng mình, mà còn chấp nhận cả những bất hạnh, nhục nhã bởi cùng khổ mà ra, như bị đồng loại khinh bỉ, bỏ rơi, quên lãng, song anh vẫn hoàn toàn không hề than thân, trách phận, oán trời, hận đời v.v. Thế nhưng, trong bài Phúc Am theo Thánh Luca Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay Chúa Giêsu không quan trọng hoá số phận của Ladarô cho bằng của người phú hộ. Vì Người cố ý nói dụ ngôn này với thành phần Pharisiêu là thành phần chẳng những tham lam, chỉ biết sống cho mình, mà còn bị mù tối bởi ảo tưởng về việc tự công chính hóa của họ, đến nỗi, đã tỏ ra không tin tưởng Người, ở chỗ, cười nhạo lời Người khẳng định với các môn đệ trong bài Phúc Am tuần trước, đó là: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Phúc Âm Thánh Luca không thuật lại cho chúng ta biết phản ứng của những người Pharisiêu sau khi nghe dụ ngôn người phú hộ này ra sao, nhưng theo thực tế sống đời và kinh nghiệm sống đạo, ai trong chúng ta dám phủ nhận lời Chúa Giêsu, hay dám chứng minh ngược lại những gì Chúa nói không còn công hiệu hay giá trị nữa, lời Người phán: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu quả thực người phú hộ trong bài Phúc Am Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên theo Thánh Luca Năm C hôm nay bị hư đi đời đời chỉ vì ông ta không có đức ái với tha nhân, ở chỗ, có khả năng mà không chịu ra tay giúp người, chứ không phải lỗi phạm đức ái với tha nhân, như hiếp dâm, sát nhân hay trộm cắp v.v., thì phải chăng chỉ cần loài người chúng ta nói chung, và Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô chúng ta nói riêng, không có bác ái, như không có hay không mặc áo cưới khi được mời đến dự tiệc cưới Nước Trời (xem Mt 22:11-12), thì sẽ bị trầm luân muôn kiếp, như thành phần dê không chịu phục vụ Chúa nơi đồng loại của mình trong ngày chung thẩm (xem Mt 25:42-43)?
78. Cuộc sống trần thế không phải là tất cả
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)
Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
1.- Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình, đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.
Vì không có một từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi trước nó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2) Cuộc đối thoại (16,23-31):
- a) Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
- b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài điểm chú giải
– mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
– lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.
– Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
– được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu “cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.
– anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
– âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn thấy”. Đối với người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử, linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
– ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”, tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.
– lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
– Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
– đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã định sẵn một vực thẳm”.
– Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em ông nhà giàu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
* Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham (của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không còn có thể thay đổi được nữa.
Chúng ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người này đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”, Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển […]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông nhà giàu không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!
+ Kết luận
Trong bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự “không nghe” này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
- Hai người ở cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào “phát triển”, người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì! Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
- Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào, để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
- Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
- Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức thúc bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
- Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).
Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”
Đức Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng… giữa những người quá giàu, và những người quá nghèo.
Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El’azar có nghĩa là “Thiên Chúa – phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị… chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những tòa nhà bằng bê-tông… Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất… Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn”
Đó đúng là điều Đức Giêsu đã nói:
Những mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?
Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”
Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.
Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.
Ông Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’
Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 – 16,9-11).
Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
- Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
- Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử mình ngay từ trần gian này”.
Hình phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đã trở thành “vực thẳm”.
Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.
Người nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã “mở lòng mình ra cho những người khác”. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này’
Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’
Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’
Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)… sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)…
Nhưng Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ… sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ… bị giam hãm trong của cải của họ… Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.
Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.
Hãy nhìn kỹ lòng mình… Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn có nghèo không?
80. Chú giải của Fiches Dominicales
GIỮA CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Đừng đào thêm vực thẳm.
Trên hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại – Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo” giống như “con cái đời này”: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.
Giờ đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.
Người thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông. Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi – chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức Giêsu – và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ “Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.
Không chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà mình”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ “mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết… ông nhà giàu kia cũng chết”
- Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải ở “dưới âm phủ, đang chịu cực hình”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
Muộn quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.
Theo nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy
- Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em còn sống trên trần.
Họ có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này”. Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó “từ cõi chết” hiện về với họ, “thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ao tưởng thôi – câu trả lời cho ông – nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe”: Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư’? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh em”. Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)
Bài học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.
BÀI ĐỌC THÊM:
- Sức mạnh của Tin Mừng.
“Không mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là… cười nhạo Đức Giêsu”. Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết lòng các ông”. Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó!”. Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.
- Trên những nẻo đường của tình liên đới
(G. Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).
Nỗi khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu, hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những nhu cầu cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ vận mạng của mình.
Chúng ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi, luật pháp, công ước.
Góp tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới, của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải, chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn…
Phải chăng Thiên Chúa mới đúng là “người từ cõi chết” đến kêu gọi chúng ta như thế?
81. Người phú hộ xấu bụng và Lazaro nghèo khổ
(Chú giải và Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Trình thuật có tính cách dụ ngôn này là của riêng Lc, được ông lồng vào “phần giữa” của phúc âm. Trình thuật này rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Lc thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ họ tùy trường hợp. Nó cũng rất ăn khớp với chủ đề của hầu hết chương 16, mà nó là đoạn kết thúc: sử dụng của cải để được cứu rỗi cá nhân; chính trong nhãn quan cứu độ mà con người phải biết sử dụng của cải trần thế (16,1-13), dù các người biệt phái nghĩ thế nào đi nữa (cc.14-15), sử dụng của cải một cách khác sẽ đưa đến khốn khổ bất hạnh ở thế giới bên kia (cc. 19-31). Tuy nhiên, tương quan của trình thuật này với các câu đi ngay trước nó (cc.16-18) xem ra không có, dù có tiếng phụ ngữ dé được đặt ngay sau chữ thứ nhất câu 19a. Quả thế, các câu 16-18 không đề cập đến của cải, mà nói về cách chiếm đoạt vương quốc, về sự trường tồn của lề luật và về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Bởi đó văn mạch của trình thuật chúng ta đang nghiên cứu không rõ ràng mấy.
- Ngay cả bản văn trình thuật cũng làm các nhà chú giải ngạc nhiên phần nào. Họ bỡ ngỡ vì trình thuật không có lời dẫn nhập chính đáng (ví dụ hãy so sánh với Lc 15,1-3), cũng như không có phần áp dụng ở cuối của cải để làm nổi bật bài học (so sánh với Lc 15,7.10). Bởi đó họ có rất nhiều cách phân chia hoặc hiểu ý nghĩa đích thật của bản văn này. Tên riêng của người ăn mày cũng làm họ ngạc nhiên, vì các dụ ngôn không bao giờ nói đến tên tuổi, lý lịch của các nhân vật. Do đó người ta suy diễn dù hơi hấp tấp, nhất là trong quá khứ (x.Tertullien, De Anima, VII), rằng bản văn này kể lại một câu chuyện có thực, chứ không phải là một trình thuật có tính cách dụ ngôn. Nhưng làm sao một câu chuyện có thực lại có thể xảy ra theo sát một chủ đề văn chương nối tiếp như thế ở miền Trung Đông cổ xưa, và làm sao câu chuyện có thực đó lại chất chứa biết bao nét có tính cách dụ ngôn như thế (việc mô tả thế giới bên kia, cuộc đối thoại giữa Abraham và người phú hộ…)
- Cảnh đầu tiên của dụ ngôn trình bày một mâu thuẫn sống động. Hai nhân vật có hai địa vị xã hội hoàn toàn chênh lệch đối diện nhau ở đây: một người giàu có thường xuyên dư đầy của cải, một kẻ nghèo khó thường xuyên thiếu thốn ngay cả những gì cần thiết để sống. Người giàu có không những không cần lao động để sống, mà còn được sử dụng một gia tài kếch xù. Ông ăn mặc sang trọng với gấm tía, nhung lụa như một hoàng tử; ngày ngày yến tiệc linh đình. Bản văn không cho biết tên ông, chỉ có một vài thủ bản (Sahidique; p.75) vì muốn chứng tỏ bản văn này là một bản văn lịch sử, nên gọi ông ta là Nevès, Ninveveh hay Pinées. Người nghèo khó sống trong trình trạng còn cùng cực hơn cả người phải vất vả lao động để kiếm ăn, ông là một người ăn mày (ptôchos), một tên hành khất kém may mắn, đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. Ông chỉ ao ước ăn những gì rơi rớt từ bàn ăn của người giàu có. Về điểm này, có nhiều thủ bản Latinh (Vulg.) đã đồng hóa cách quá đáng ông ta với người con hoang đàng đang chết đói “không ai cho ăn” (Lc 15,16). Sức khỏe ông thật mong manh, vì đầy ung nhọt đến độ không còn sức xua đuổi bầy chó đến liếm vết thương lở lói của ông. Ý nghĩa biểu trưng của cái tên được gán cho ông, còn nói rõ hơn nỗi khốn khổ hiện tại của ông và sửa soạn cho ý tưởng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ ông sau khi chết (cc.22tt). Lazarô, viết tắt chữ Eléazar, có nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Quả thực, không có dụ ngôn nào khác nói đến các nhân vật của nó. Tuy nhiên chúng ta đừng vội ngạc nhiên về trường hợp dị thường đang gặp, là trường hợp bản văn sống động hơn. Vì trong các trình thuật giả tưởng của Thánh kinh, các vị anh hùng cũng được đặt tên riêng (Ruth, Esther, Giuđit…).
Trong cảnh đầu tiên của dụ ngôn này, ngoài việc mô tả khéo léo hai nhân vật đối nghịch ấy, còn có một cái gì đó sâu xa hơn nữa. Trước khi nghe tiếp câu chuyện, một thính giả Do thái khi nghe đến đây có thể rút ra bài học lớn lao: việc nhắc lại các lời khuyên nhủ trong Thánh kinh về bổn phận người giàu có đối với người nghèo. Đã nhiều thế kỷ ở Israel, các sách thánh không ngừng nhắc lại lối xử thế đối với người nghèo đã mạnh mẽ chống lại việc vi phạm các lối xử thế đó, đã nói đến Thiên Chúa như là đấng bênh vực người nghèo, đã gán cho đấng Messia tương lai phận vụ tái xác định giá trị của người nghèo, nhất là nhấn mạnh đặc biệt đến bổn phận bố thí và ân cần chỉ rõ những hình thức bố thí khác nhau. Việc bố thí vào thời của dụ ngôn được coi trọng trong môi trường Do thái đến nỗi người ta luôn lưu tâm đến vẻ bề ngoài của việc bố thí (x.Mc 7,9-13; 12,40). Do đó trong cảnh này, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một người giàu có đang có một cơ hội thường xuyên, qua con người ăn mày, để sử dụng của cải như Thánh kinh thường dạy, nhưng vì họ hà tiện ông đã không chụp lấy cơ hội đó. Người giàu có này không thể tha thứ, vì ông biết Thánh kinh như mọi người Do thái khác, có đầy đủ của cải, luôn có người nghèo trước mắt, đã nhận thấy nỗi khốn cùng tột độ cũng như có khả năng cải thiện trình trạng khốn cùng đó. Nhưng ông đã không làm gì cả, vẫn bỏ rơi người nghèo bên vệ đường, kiếm đồ ăn dơ dáy, bị mụn nhọt hành anh khổ sở.
Cuối dụ ngôn, bài học chúng ta vừa nhấn mạnh trở nên sáng tỏ hơn cốt để toàn bộ dụ ngôn được đồng nhất. Quả thế, thái độ của người giàu có không phù hợp với giáo huấn của lề luật và các tiên tri. Nếu đã tuân theo giáo huấn này, chắc ông đã hoán cải (cc. 29-31). Nhưng ngay cả trước khi đọc phần kết quả của dụ ngôn, độc giả phúc âm thứ ba đã được chuẩn bị để rút tỉa bài học rồi. Kỳ thực, phải chăng độc giả, trong mạch văn của phần trước đã chẳng đọc thấy rằng: phải sử dụng của cải đòi này để mưu ích cho tương lai (Lc 16,1-8), rằng việc bố thí nhằm chuẩn bị cho tương lai đó, nghĩa là cho được vào nơi cư ngụ vĩnh cửu (cc. 9-12), rằng của cải tự nó không phải là dấu chỉ được Thiên Chúa chúc phúc, không phải là dấu chỉ của con người thánh thiện, như các người Pharisêu giàu có xấu bụng thường nghĩ (cc.14-15) ? Học thuyết trên đã trở nên một trong các chủ đề để dạy giáo lý tiên khởi (x.Lc 10,29-37; 12,13-21; 14,13-14…). Thánh Giacobê đã là người hăng say phổ biến học thuyết đó, bằng cách dùng các kiểu nói Chúa Giêsu đã dùng (Giac 5,1-6).
- Sau cảnh sống tại thế của kẻ giàu người nghèo, tác giả nói đến cuộc sống của họ bên kia thế giới, sau khi từ trần. Cũng đối nghịch giữa cảnh huống của hai người, nhưng đã đảo ngược hoàn toàn. Lần này người giàu ngồi chỗ rốt, chỗ đau khổ khốn cùng; người nghèo ngồi chỗ nhất, chỗ hạnh phúc. Điều này được diễn tả qua ngôn ngữ tượng hình của thời đó. Quả thế các ngụy thư và văn chương của các thày rabbi đã nói đến các thiên sứ mang linh hồn các người công chính về bên kia thế giới (x. Le Testament d’Abraham, l’Assomption de Moise, le Targum in Cant. 4,12). Chúng cũng nói đến địa nhục (hades, c.23), là từ ngữ dịch từ chũ Shéol, cũng như nói đến chỗ ở của mọi người quá cố, và thường phân biệt trong đó cũng như trong dụ ngôn này, có hai vùng cách biệt đối nghịch nhau. Các người công chính được vào nơi mát mẻ, có tiệc tùng linh đình (Eđen, thiên đàng), còn người gian ác bị giam cầm trong nơi đầy lửa thiêu đốt (Ghéhenne, hỏa ngục)(x.4sd; 4Mcc; Hén; 2Baruch; Talmund: Bêrrâkôth 28b; Derêk’êrêtz rabba 1,1; 3,1…).
Khi nói theo ngôn ngữ qui ước đó, Chúa Giêsu hoàn toàn không muốn mặc một giá trị tuyệt đối cho tất cả mọi chi tiết trong dụ ngôn; phù hợp với thể văn dụ ngôn, Ngài chỉ giữ lại ở đây ý tưởng tổng quát. Sau khi chết, người nghèo lập tức được hưởng hạnh phúc, được an ủi (c.25), được ngồi trong lòng Abraham (cc.22-23); thành ngữ sau cùng này có thể ám chỉ người nghèo đã được tiếp đón như đứa con hoang đàng trở về được cha mình ôm vào lòng (x.Lc 15,20), hay đúng hơn, ông ta đã được đặt ngồi bên hữu Abraham trong bàn tiệc thiên đàng (x.Mt 8,11; Lc 11,13.27-28; Gio 13,23.25). Còn người giàu có sau khi được chôn cất tại trần thế này, chứ không phải ở “địa ngục”, như các bản dịch Latinh (Vulg; VI, c.e.l.r) lập tức bị trừng phạt. Người ta không thể chứng minh việc đề cập đến sự chôn cất là phương thế cuối cùng được dùng để làm nổi bật sự sang trọng lộng lẫy của người giàu có. Nhiều người cho việc đó có nghĩa như thế, nhưng điều đó có thể chỉ là cách làm nổi bật việc ông vĩnh viễn ra đi hay việc ông chấm dứt cuộc sống tại thế.
Cuộc đối thoại giữa người phú hộ và tổ phụ Abraham (cc.24-26) muốn cho thấy rằng những người Do thái xấu nết, sau khi chết, không được hưởng nhờ công nghiệp của tổ tiên họ; hẳn nhiên Abraham là cha của họ (c.24), nhưng điều đó không giúp gì cho ơn cứu rỗi của họ (x. Mt 3,9; Gio 8,37-58). Số phận của họ ở thế giới bên kia tùy thuộc cuộc sống tại thế của họ (c.25) cách dứt khoát (c.26). Vực thẳm không thể vượt qua ở địa ngục biểu trưng tính cách dứt khoát của số phận bên kia thế giới. Còn cách nói: cuộc sống tại thế xác định số phận cuộc sống ở thế giới bên kia (c.25), làm người ta bỡ ngỡ nếu bị tách biệt khỏi mạch văn. Trong trường hợp đó, hình như chỉ có luật về sự đảo ngược trật tự xã hội là còn giá trị mà không tham chiếu đến luật luân lý và sự công bằng của Thiên Chúa. Nguyên tắc trong câu 25, phải được chú giải dựa vào các điều đã nói ở trên (cc.19-21) và sẽ nói sau này (cc.27-31). Người giàu có chỉ bị trừng phạt vì khi còn sống tại thế không biết dùng của cải đúng cách. Đối lại, người nghèo khó chỉ được tưởng thưởng vì đã chấp nhận tinh thần của Thánh kinh sự thiếu thốn ông phải chịu: ngay cả tên của ông (người được) Thiên Chúa giúp đỡ cho thấy ông đã bị loài người bỏ rơi, nên ông đã phó thác cho lòng Chúa xót thương. Sự giàu có cũng như nghèo khổ không phải là những giá trị tuyệt đối, vì cái chết làm cho chúng phải tiêu tan. Với ơn Chúa, đấng tạo dựng của cải, các kẻ giàu có mới có thể được cứu rỗi (Lc 18,24-25); và nếu không có tinh thần siêu thoát đích thực, người nghèo cũng có thể bị diệt vong (Lc 12,13-14; 14,25-27).
- Cuộc đối thoại giữa người giàu có và tổ phụ Abraham xem ra đã kết thúc. Và này Lc lại nói đến nó dưới hình thức hai bài đọc. Trước tiên ông xác định giáo huấn về cách sử dụng tốt của cải (cc.27-29), là giáo huấn cho đến lúc đó chỉ được giả thiết là có, hơn là đã được định thức (plus supposé que formulé). Sau đó ông làm nổi bật lý do đích thật của việc không chịu hoán cải (cc.30-31). Việc nhắc lại cuộc đối thoại này, làm liên tưởng đến các dụ ngôn có hai lược đồ bổ túc nhau (x.Lc 15,11-32; Mt 20,1-6; 22,1-14…). Nó cũng gợi lên các áp dụng thực tiễn thường theo sau hình ảnh hay câu chuyện dụ ngôn: cũng như… cũng như…; việc này có áp dụng cho 5 người anh em giàu còn sống của nhà phú hộ đã qua đời?
Lối sống của nhà phú hộ đã qua đời đang được nhiều người tại thế bắt chước, các anh em ông cũng giàu có như ông, cũng đã sử dụng của cải cách ích kỷ. Họ sẽ phải chịu đựng cùng một án phạt, nếu không chọn một lối sống khác, là lối sống từ bi với người nghèo. Họ cần được báo động rồi, lời báo động này đã được chất chứa trong các lời khuyên răn của lề luật và của các tiên tri, về việc sử dụng của cải. Họ hãy lưu ý đến để tuân giữ, nhờ đó sẽ được cứu rỗi (c.29). Quả thực, chính Chúa Giêsu đã nói thế qua miệng Abraham, chính Ngài ngỏ lời với toàn thể cử tọa giàu có của Ngài. Ngài khẳng định với họ là đã có trong các sách thánh ánh sáng cần thiết để sử dụng của cải một cách thiết thực, đem lại phần rỗi cho họ. Khi hoàn toàn chịu trách nhiệm về thái độ tại thế của họ và về hậu quả tất định do thái độ đó gây ra, là điều đã được Ngài diễn tả bằng chữ: chúng hãy nghe (lề luật và các tiên tri), Chúa Giêsu muốn cho họ hiểu rằng họ đã nhận được từ Thiên Chúa ánh sáng cũng như sức lực đủ để đáp lại lời mời gọi của lề luật và các tiên tri (x.Lc 18,27). Vậy nguyên tắc đã được định thức ở trên, về việc đảo ngược hoàn cảnh mỗi người sau cuộc sống này (c.25), không có giá trị tuyệt đối, nguyên tắc đó chỉ đưa ra một việc có thể xảy ra đặt cơ sở trên luân lý.
Qua trung gian các đối thoại viên đó, Chúa Giêsu thêm rằng các phương thế thông thường đó đủ gây nên lòng thống hối (metanoia) nơi các người giàu ích kỷ, và làm cho họ sử dụng tốt của cải trần thế này. Quả quyết ngược lại là sai lầm, Ngài đã nói rõ như thế (c.30). Hơn nữa, việc từ chối các phương thế thông thường đó làm cho người có trách nhiệm đây không thể nhận ra sức mạnh thuyết phục của các phương thế phi thường bất ngờ xảy đến, cho dù có người chết hiện ra để xác quyết nỗi khốn cùng vĩnh cửu mà ông đang phải chịu (c.31). Vậy lý do đích thực của lòng thống hối cái không phải là vì không đủ phương thế đã đề nghị trước đây, phần cuối của dụ ngôn (cc.27-31) thật ăn khớp với toàn bộ dụ ngôn (cc.19tt). Không nên tách nó ra khỏi toàn bộ đó. Thật là vô căn cứ khi xem đây là một phần được thêm vào sau này, có giáo thuyết khác biệt, ít nhiều liên hệ với trình thuật Lazaro sống lại ở Bêtania, hay với trình thuật Chúa Giêsu phục sinh.
Nếu liên kết dụ ngôn này với văn mạch trực tiếp và với các bản văn khác xa hơn, ta có thể tin rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến các người biệt phái xấu xa lúc bấy giờ; họ là những người ham mê tiền bạc, đã lên mặt khinh khỉnh khi nghe khuyên nên làm phúc bố thí (Lc 16,9.14); họ “họ ngốn cả nhà cửa các bà góa” (Lc 20,47); họ khinh chê lề luật, và dạy con cái lường gạt cha mẹ để lấy đồ trong gia đình (Mc 7,9-13); họ đòi xem các dấu lạ mới tin vào giáo huấn họ nghe (Mt 12,38-42; Lc 11,29-32); cuối cùng khi được thấy các dấu lạ đó, họ vẫn cứng lòng tin (Gio 11,46-53; Mt 27,62-66). Trong cảnh này, khó mà thấy là Chúa Giêsu ngỏ lời với các người Sadducêô, là những kẻ không tin vào sự sống lại (Mt 22,23), và lối sống của họ dựa trên niềm xác tín này là: chết là hết. thực ra, dụ ngôn không dạy về học thuyết có sự sống lại và cũng không cho thấy người giàu có xấu bụng đã sống ích kỷ vì không chấp nhận học thuyết đó. Trái lại người giàu có đó cũng như nhiều kẻ đồng đạo của ông thời bấy giờ tất có thể nghĩ rằng của cải dư dật của họ là dấu chỉ họ được Thiên Chúa chúc phúc (Lc 16,15; 18,26). Vì vấn đề thưởng phạt chỉ được làm sáng tỏ rất chậm tại Israel. Từ đó có thể kết luận ông là người thánh thiện.
- Để kết thúc cuộc phân tích này, chúng ta hãy cố gắng vắn tắt ghi lại những bài học có được trong dụ ngôn này. Điểm thiết yếu Chúa Giêsu dạy là: số phận sau khi chúng ta chết liên hệ với việc chúng ta sử dụng của cải trần thế này. Ngài cũng dạy, nếu của cải có thể gây nhiều nguy hiểm, thì Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta nhiều phương thế cần thiết để đương đầu và chiến thắng; rằng người ta không chịu hối cải là vì cứng lòng không chịu tuân theo các phương thế đó, chứ không phải vì thiếu phương thế; rằng số phận sau khi chết là không thể thay đổi (c.26). Điều này không loại bỏ sự hiện hữu của luyện ngục, bởi vì luyện ngục là đường dẫn lên thiên đàng. Luyện ngục dứt khoát qui định số phận người quá cố sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Tuy nhiên Chúa Giêsu không có ý nói hết mọi điều trong một dụ ngôn. Ở đây Ngài chỉ nói đến trường hợp một người hoàn toàn từ chối không nghe lề luật, cứng lòng không chịu hối cải. Trong các bản văn khác, Ngài đề cập đến các tội có thể được tha (Mt 5,19; 12,32; …) và qua đó Ngài bỏ ngõ không xác định gì thêm về “tứ chung”. Trong dụ ngôn này Ngài có dạy điều gì về sự nghèo khó không? Nhiều người nghĩ là có. Tuy nhiên không chắc mấy vì trong bản văn này, tất cả đều hướng về người giàu có. Hình như việc đề cập đến bản thân người nghèo khó ở đây chỉ đề làm sáng tỏ bản thân người giàu có, để giải thích thái độ ích kỷ của ông, cũng như để làm nổi bật hình phạt đang chờ đón ông, và để đưa ra mẫu đối thoại, từ đó vụt ra nhiều bài học hữu ích.
KẾT LUẬN
Người giàu có được nhiều của cải nên cảm thấy được bảo đảm, không cần hy vọng và niềm an ủi của Thánh kinh (Rm 15,4). Ông đã giả điếc làm ngơ trước lời Thiên Chúa và tiếng Ngài mời gọi. Của cải và cuộc sống dễ dãi đã làm ông tối mịt tâm trí – và ông đã trở nên mù đối với Thiên Chúa, đối với người nghèo và cuộc sống đời sau. Lazaro đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa vì quá cùng cực nên được nhận vào bàn tiệc của vương quốc Thiên Chúa. Của cải thật là mối nguy hiểm lớn lao.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Hai nhân vật trong dụ ngôn này sống gần nhau mà xem ra không thấy nhau, không gặp nhau. Trong thực tế người giàu có đã không từ chối gì với Lazaro cả. Vả lại, Lazaro cũng không xin ông ta điều gì hết. Đúng hơn hình như người giàu có đã không thấy Lazaro, Lazaro sống ở cửa nhà người giàu có mà ông không bao giờ thấy, không bao giờ lưu tâm đến sự hiện diện của Lazaro. Đối với ông, không có Lazaro. Người giàu có đó tự khép kín trong thế giới của ông. Nếu chỉ tin tưởng vào tiện nghi, của cải, vào “sự phát triển”, con người sẽ trở nên mù quáng. Đó là hậu quả thứ nhất.
- Hậu quả thứ hai được kể lại trong phần thứ hai của trình thuật. Đó là cái chết đến làm đảo ngược hoàn toàn các địa vị. Lazaro được sống thân mật với Chúa; còn người giàu có phải chịu những hình phạt của hỏa ngục. Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy sự lựa chọn của chúng ta khi còn tại thế là những lựa chọn bất khả thay đổi, vì chúng xác định cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Sau cái chết, tất cả sẽ không thay đổi. Đó là điều Chúa Giêsu nhắn bảo chúng ta ở đây, và giúp chúng ta biết nghiêm chỉnh lựa chọn đúng.
- Nhiều Kitô hữu không để ý gì đến giáo huấn của Chúa Giêsu về việc lựa chọn khi còn sống tại thế này. Họ sống cách vô thức hoàn toàn; ước chi họ biết lo lắng hơn, vì cuộc sống thực hiện tại qui định cả cuộc sống vĩnh cửu. Đối với kẻ khác, viễn tượng này quá ghê sợ, không phù hợp với lòng từ bi cao cả của Chúa. Làm thế nào một quyết định hệ trọng như thế lại có thể tùy thuộc một phút lỗi lầm?
Phải lưu ý rằng, trong cuộc sống của người giàu có mà tin mừng mô tả, không có vấn đề lầm lạc trong một giây phút nào đó, hay một yếu đuối nhất thời, nhưng là một chọn lựa sâu xa của cả cuộc sống ông. Đàng khác không phải Thiên Chúa xét xử, nhưng chính con người lựa chọn giữa hai cuộc sống với Chúa đi đôi với việc từ bỏ các vương vấn trần tục, nhân bản.
- Người giàu có khi phải bị đau khổ đã xin Abraham xin Lazaro đến giúp 5 anh em của ông: khi thấy kẻ chết sống lại và sứ điệp của người ấy có lẽ họ sẽ kinh hãi đến độ sẽ thôi mù quáng để tránh khỏi khỏi số phận ghê rợn mà anh cả của họ đang chịu. Chúa từ chối: “Họ đã có Abraham và các tiên tri, cho dù có kẻ sống lại, họ cũng không khuất phục…” Lời đáp trả của Chúa xem ra ghê sợ đối với chúng ta, là những người tưởng rằng một “phép lạ đích thực” sẽ dễ dàng hoán cải bất cứ ai cứng lòng. Nhưng thực tế, nếu không có ý hướng tốt, nếu không có tự do bên trong, thì dù phép lạ cao cả biết mấy cũng không thể lay chuyển tâm hồn người ta được. Lazaro ở Betania đã sống lại từ cõi chết và dẫu vậy ông không thể làm cho người Do thái chống đối Chúa Giêsu hết cứng lòng tin (Gio 11,46tt). Thực ra Thiên Chúa đã thực hiện điều người giàu có xin, vì chính Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Qua Ngài, Thiên Chúa đã ban cho người biệt phái dấu chỉ họ xin (Mt 12,38-40), nhưng họ cũng không tin. Trái lại, Chúa Giêsu thêm rằng ai tìm kiếm Ngài với một tâm hồn ngay thẳng, sẽ luôn có thể gặp Ngài. Con người đã có sẵn Môisen, các tiên tri và cả phúc âm nữa. Người nào không bị mù quáng vì của cải và tiện nghi, sẽ có thể nghe lời chúa và luôn thấy anh em nghèo khổ bên mình. và bấy giờ, cho dù làm chủ nhiều của cải trước mặt người đời, thì trước mặt Thiên Chúa ông chỉ là người quản lý, người ban phát cho anh em mình đang túng thiếu. Chính vì thế, một ngày nào đó ông đáng được nghe lời này: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc. Ta đói, ngươi đã cho ta ăn…” (Mt 25,34-35).
82. Chú giải của William Barclay
HÌNH PHẠT CHO NHỮNG AI KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN NHỮNG NỖI KHỔ CỦA THA NHÂN
Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lý. Dụ ngôn về người phú hộ Ladarô nghèo được Chúa dùng để cảnh cáo những người nghe khỏi lạm dụng của cải. Trong câu chuyện này Chúa không dạy rằng nên làm giàu là tội lỗi hoặc tất cả người nghèo đều được cứu. Ngài muốn nói đến cái hiểm họa nghiêm trọng của việc sử dụng tiền bạc cách ích kỷ. Tội của người phú hộ không phải ở trong cách làm giàu hay trong sự giàu có của ông, cũng chẳng phải trong nếp sống kém đạo đức của ông, mà ở một điều đã được mô tả rõ ràng là trong khi ông ta sống xa xỉ ích kỷ, thì có một người thiếu thốn khổ sở ngay trước nhà ông mà không được ông giúp đỡ.
Chúng ta rút tỉa một số dạy dỗ trong dụ ngôn này.
- Trước hết dụ ngôn dạy tất cả mọi người đều phải chết, và chết chưa phải là hết vì vẫn còn một đời sống bên kia cửa tử, và đời sống ấy là hậu quả của đời sống này:
Ngay sau khi chết con người được tòa án Thiên Chúa xét xử về đời sống trên trần thế để đáng lãnh thưởng hay bị chịu phạt.
Trên trần gian, của cải vật chất cũng như các đau khổ, đều là tạm bợ, sẽ mau qua, nó chấm dứt với cái chết, và bởi sự chết cũng chấm dứt thời gian thử thách và khả năng làm lành hay làm ác, rồi bắt đầu từ đó vui lòng thưởng công hay chịu đau khổ hình phạt tùy theo hậu quả của đời sống trên trần.
Theo như giáo lý của Giáo Hội: linh hồn của những người chết trong ơn nghĩa Chúa sẽ được lên thiên đàng ngay hay sau một thời gian thanh luyện nếu cần: “Chúng tôi tin có sự sống đời đời. Chúng tôi tin rằng tất cả những người chết trong ơn nghĩa Chúa Kitô, hoặc còn phải thanh luyện trong luyện ngục, hoặc ngay sau khi rời bỏ thân xác, được Chúa Giêsu đem về thiên đàng như người trộm lành, đều là dân Thiên Chúa bên kia cửa tử, tử thần sẽ bị vĩnh viễn chiến bại ngày phục sinh khi các hồn người được kết hợp lại với thể xác”. (Phaolô VI, tuyên xưng đức tin Công Giáo).
- Tiếp theo là bài học chính yếu của dụ ngôn, dụ ngôn đề cập đến vấn đề sử dụng ích kỷ của cải trần gian.
Chúng ta cần phác hoạ hai nhân vật trong câu chuyện để thấy được điểm này.
– Trước hết là người giàu. Mỗi câu văn đều làm tăng thêm sức sống sa hoa của ông ta. Ông thường mặc áo tía hồng và áo gai mịn đó là cách nói về hai bộ áo của thầy tế lễ thượng phẩm với giá từ ba mươi đến bốn mươi Anh kim một số tiền khổng lồ, trong khi lương công nhật một người chỉ được bốn xu Anh, ông ta ăn cao lương mỹ vị hàng ngày. Từ ngữ chỉ đồ ăn ở đây dành cho những tay sành điều, chuộng những món ăn đắt tiền và hiếm có. Ông ta ăn như vậy mỗi ngày, tức là chủ ý phạm điều răn của Chúa. Điều răn Chúa không những cấm làm việc trong ngày sabat, mà cũng còn nói “ngươi hãy làm việc trong sáu ngày” (Xh 20,91) trong một xứ mà được ăn thịt mỗi tuần mộ lần và vẫn phải làm việc suốt sáu ngày trong tuần đã là may mắn rồi, thì người nhà giàu này quả là một tên lười biếng, chỉ ăn chơi. Còn Ladarô cứ chờ đợi từng mẩu bánh nhỏ rớt xuống từ bàn tiệc của người nhà giàu. Trong thời Chúa Giêsu, khi ăn không dùng dao, nĩa hay khăn, nhưng dùng tay mà ăn, và trong những nhà giàu có, người ta dùng những mẩu bánh mì nhỏ lau tay cho sạch rồi ném bánh đó. Ladarô chỉ đợi những mẩu bánh này.
– Nhân vật thứ hai là Ladarô. Lạ thay, Ladarô là một nhân vật duy nhất trong truyện ngụ ngôn được nêu tên riêng. Tên đó có nghĩa là “Chúa là sự giúp đỡ của tôi”. Ông là người ăn mày, mình ông đầy ung nhọt. Ông yếu đuối đến nỗi không thể đuổi lũ chó hoang ở đường phố, chúng đem mõm bơ bẩn đến làm khổ ông.
Cảnh tượng thế gian là như vậy, rồi tức khắc biển đổi sang một cảnh khác, khi cả hai bước qua cửa tử, trong đó Ladarô được vinh hiển, còn tên nhà giàu bị gia hình. Tội của người nhà giàu này là tội gì? Ông ta không tống cổ Ladarô ra khỏi cổng nhà, đã không phản đối mà vẫn để cho Ladarô nhận lấy những miếng bánh từ trên bàn của ông ta vất xuống. Ông đã không giơ chân đá Ladarô mỗi khi đi qua, đã không có lòng độc ác với Ladarô kia mà! Tội của ông ta là tội đã không quan tâm đến Ladarô, là kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, là chấp nhận Ladarô như một phần của cảnh đời và chỉ đơn giản nghĩ rằng việc Ladarô sống trong đau khổ, đói khát, còn ông ta chìm ngập trong xa hoa sung túc, chỉ là việc tự nhiên không thể tránh khỏi được, như có người đã nói “Không phải vì ông ta đã làm những điều quấy mà bị sa địa ngục, nhưng chính vì ông ta không quan tâm đến các điều lành phải làm nên mới xuống đó”.
Lấy câu chuyện này làm điểm tựa, Đức Gioan Phaolô II đã ban huấn tại sân vận động Yaukee: “Người giàu này bị hình phạt vì ông không quan tâm tới người khác, vì không để ý gì tới Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Người đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác…
Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giàu và nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giàu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”. Nói như thế Đức Thánh Cha cũng chỉ nhắc lại điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Các giáo phụ và các tiến sĩ của Giáo Hội dạy rằng mọi người có bổn phận nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của cải dư thừa. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới. Thánh Công Đồng tha thiết kêu gọi mọi người “hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn là giết chết họ” (MV 69).
Về một phương diện khác, dụ ngôn này về giá trị cao cả của con người, độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội, văn hóa tôn giáo, tình trạng giàu nghèo… Lòng kính trọng nhân phẩm này diễn tả việc ta phải giúp đỡ những ai khi gặp cảnh xấu số về tinh thần cũng như vật chất. “Vậy mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (MV 27).
Tội của người nhà giàu này là ông ta thấy những đau khổ túng cực của thế giới mà không cảm thấy thương xót, buồn rầu, ông ta đã nhìn thấy một người đói khổ và không làm gì để cứu giúp. Hình phạt cho người này là hình phạt của một người đã không hề chú ý, quan tâm đến kẻ khác. Cần phải nhớ lời cảnh cáo đáng sợ ở đây: tội của người giàu ở đây không phải là ông đã làm gì xấu xa nhưng là đã không làm gì cả trước những đau khổ của kẻ khác.
Một thí dụ khác của việc tôn trọng nhân phẩm là phân phối cân bằng tài nguyên thế giới, và những nỗ lực bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, như Đức Phaolô đệ lục đã phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 4-10-1965: “Chính trong tổ chức của quý vị, mạng sống con người, ngay cả trong vấn đề sinh sản, phải được đặc biệt tôn trọng và được bảo vệ. Nhiệm vụ của quý vị là làm thế nào để có dồi dào cơm bánh trên bàn ăn nhân loại, chứ không phải là cổ võ kiểm soát sinh sản một cách giả tạo và phi lý, nhằm giảm bớt số người tham dự bữa tiệc đời sống”.
- Bài học cuối cùng liên quan tới lời yêu cầu của người giàu xin cho anh em ông.
Có thể là vì tình thương mà xin, nhưng cũng rất có thể ngầm bào chữa rằng nếu được soi sáng nhiều hơn, hẳn ông đã không phạm tội đáng buồn như thế.
Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời ông ta xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Ápraham là nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn. Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân, chí có thù ghét ngự trị. Khi Ápraham nói với người giàu: “giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn”. Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà!
Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích của thánh Gioan Kim Khẩu: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta”.
83. Sự công bằng của Thiên Chúa
(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Pet. Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, khởi đi từ Bài đọc I (Am 6, 1a. 4-7), tiên tri Amốt đã cho biết rõ về sự công bằng của Thiên Chúa bằng những lời lẽ hết sức rõ ràng. Thiên Chúa đã chúc dữ cho những ai sống cuộc sống phong vận tại Sion và trên núi Samaria. Theo đó, sống một cuộc sống xa hoa, phung phí, không biết tôn kính Thiên Chúa và tha nhân, mặc sức sống một cuộc sống vàng son, trụy lạc, nên chi họ đã bị lên án.
Bài đọc II, thánh Phaolô cho biết Đức Kitô- Giêsu cho chúng ta sống một mẫu gương Bác ái, đạo đức. Chính cuộc sống ấy, một cách kiên nhẫn, chúng ta sẽ nhận được một sự sống từ Thiên Chúa qua Đấng cứu chuộc Giêsu- Kitô, Đấng ấy sẽ xét xử mọi loài. Đấng ấy là Vua các vua, Chúa các chúa.
Qua đó, Lời Chúa hôm nay (Lc 16, 19-31), có hai ý chính cho chúng ta thấy sự công bằng của Thiên Chúa và tiên báo mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Giêsu.
Đó là dụ ngôn người giàu có và người nghèo Lazarô.
Theo đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đến để dạy cho chúng ta một chân lý về của cải, sự giàu có về tài sản thế trần. Bên cạnh thứ tài sản hiện hữu ở trần thế, chúng ta còn có một thứ tài sản vô cùng quý giá ở Nước Trời. Đó là Thiên Chúa, vâng! Thiên Chúa chính là “khối tài sản” quý giá nhất của con người. Vì vậy, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa một cách có ý thức, như vậy Lời Chúa mới giúp chúng ta nhận ra chân lý để chân nhận Thiên Chúa mới chính là tài sản mà chúng ta hướng đến.
Qua sự trình thuật của thánh Luca hôm nay, giữa người giàu và người nghèo, chúng ta thấy rõ sự ngăn các, sự khác biệt đối với cuộc sống giữa hai người khi còn sống, một bên là xa hoa, sang trọng quá mức, một bên thiếu thốn, nghèo hèn quá mức. Một bên là ăn vận lụa là, gấm vóc, một bên là ghẻ lở đầy mình, đến nỗi chó đến liếm ghẻ.
Như vậy, sự khác biệt giữa hai cuộc sống là quá lớn, người phú hộ giàu có kia đã sống một cuộc sống đầy đủ, trọn vẹn nơi trần gian. Còn người ăn mày Lazaro thì thiếu thốn mọi thứ trong cuộc sống trần thế. Nhưng đến lúc hai người cũng phải chết, rồi thì cuộc sống sau khi cuộc sống trần gian kết thúc, người ăn mày Lazaro được các Thiên Sứ đem vào lòng Tổ Phụ Apraham. Còn người phú hộ thì vào nơi dành riêng cho ông ta. Lúc nầy, cuộc đời đổi lại 360 độ, Người nghèo Lazaro được hưởng những gì mà người phú hộ kia không thể hưởng được. Như vậy, chúng ta thấy, mầu nhiệm của sự sống không phải là ở nơi của cải, mà là ở nơi tình yêu Thiên Chúa ngự trị và chính Thiên Chúa mới là tài sản đích thực của chúng ta. Vì điều gì hiện hữu nơi chúng ta nhìn thấy, thì không còn là mầu nhiệm nữa, mà là một sự hiện nhiên, một sự bộc bạch từ Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn trên, chúng ta nhìn thấy hai cuộc đời, hai số phận khác nhau, sự chênh lệch quá lớn nơi sự hiện hữu ở trần gian. Sự bất hạnh và sự hạnh phúc nơi trần gian, mà nhân trần nhìn thấy được thì hoàn toàn khác biệt với những gì mà phàm nhân chưa nhin thấy được, đó là mầu nhiệm của sự sống nơi có Thiên Chúa hiện hữu.
Dụ ngôn trên, cho chúng ta biết sự công bằng của Thiên Chúa và sự giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chúng ta phải nhận ra chân lý ấy. Để chúng ta không phải hối tiếc như người phú hộ kia.
Chúng ta may mắn hơn người phú hộ, vì Chúa Giêsu đã đến trực tiếp giáo huấn chúng ta, và Người đã tử nạn và Phục Sinh để cho chúng ta tin vào Người.
Mầu nhiệm của sự sống sau cái chết trần thế, không ai biết rõ, trừ phi “Người Ấy” từ cõi chết sống lại. Qua sự đối đáp giữa Tổ Phụ Apraham và người phú hộ, chúng ta thấy, ông ta sau khi nhận ra sự thật thì đã muộn màng. Và muốn xin một đặc ân sau cùng cũng không được, vì sự sống và sự chết thật có một hố sâu ngăn cách, không thể liên thông được. Ông ta ao ước có một người từ cõi chết sống lại để nói cho người thân của ông ta biết đừng sống một cuộc sống như ông ta. Đó là lý do, mà Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng, đời nầy nếu chúng ta biết sống công bằng hợp lý, thì chúng at sẽ không phải ân hận như người phú hộ kia.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho chúng ta:
* Một sự hy vọng chắc chắn vào đời sau
* Một niềm cậy trông vững vàng vào Chúa Giêsu và những Lời dạy của Người.
* Vì Thiên Chúa là Đấng công bằng và công minh đối với mọi người.
* Thiên Chúa chính là tài sản quý giá nhất, vì những gì ở nơi Thiên Chúa và thuộc về Ngài là vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và dạy cho loài người những bài học về Nước Trời. Trong dụ ngôn trên, không phải Chúa muốn trừng phạt kẻ giàu có, mà là cho họ một bài học để thức tỉnh vì tình thương. Chúa đã yêu thương người giàu cũng như kẻ nghèo, và muốn cứu độ tất cả họ. Xin thương ban cho mọi người giàu cũng như nghèo, biết nhận ra chân lý của tình yêu là Thiên Chúa duy nhất. Đó là tài sản quý giá nhất của họ mà thôi. Amen.
84. Đừng vô cảm… – Petrus.tran
Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam rất phong phú. Có thể nói rằng, nó là một kho tàng tốt cho việc giáo dục con người xưa cũng như nay.
Thật vậy, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần được dạy dỗ rằng, “thương người như thế thương thân”, hoặc “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, hay “một miếng khi đói bằng gói khi no” v.v… Tiếc thay! có vẻ như, những lời dạy dỗ tốt đẹp đó ngày càng xa rời cuộc sống của không ít người hôm nay.
Nhớ, ngày 13/10/2011, tại thành phố Phật Sơn, Nam Hải, Trung Quốc. Một bé gái ba tuổi tên Yue Yue đang chơi trong khu chợ, có một chiếc xe tải đi qua, chiếc xe đó cán lên người cô bé. Nhiều người qua lại nơi đây, thấy, nhưng họ vẫn dửng dưng bỏ đi. Theo dõi trên clip, có khoảng 20 người qua lại nơi tai nạn xảy ra, nhưng không ai dừng lại cứu cô bé.
Rồi cũng trong năm 2011, vào ngày 07/10, một vị bác sĩ, trong lúc lái xe bất cẩn, đã gây ra một tai nạn hàng loạt khiến cho hai người chết và mười bảy người khác bị thương. Điều đáng tiếc là, khi tai nạn xảy ra, những người hiếu kỳ thay vì đưa nạn nhân cấp cứu, họ lại nhảy vào “hôi của” cướp đồ nạn nhân…
Tại sao lại có những chuyện như thế xảy ra? Thưa, đó chính là do “sự vô cảm”, sự vô cảm đã chế ngự con người, nó làm cho con người trở nên ích kỷ, dửng dưng, không rung động, không cảm xúc trước nổi đau, hoạn nạn của người khác…
Nói đến sự “vô cảm”, có thể nói, hàng ngày, nó đã gây ra biết bao nhiêu “… điều trông thấy mà đau đớn lòng”, từ chuyện một chú bé “cuộc sống đói rách bơ vơ…Hỏi ai ai cho nương nhờ! Chuỗi ngày tăm tối bơ vơ…” cho tới chuyện, có những đại gia, tỷ phú… đã dám chi hàng tỷ đồng chỉ để “ăn một bữa trưa” theo sở thích của mình.
Niềm tin Kitô giáo không dạy con người sống vô cảm. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng, một Kitô hữu không chỉ mến Chúa nhưng còn phải yêu thương người. Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn. Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc. v.v…”
Vâng, “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc” cũng chính là điều Chúa Giêsu luôn đem ra khuyên dạy và đề cao.
Thật vậy, với sự giàu có, Ngài đã khuyên dạy rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 19-21)
Với những người, có “rất nhiều của cải”, như trường hợp ông thủ lãnh nhà giàu, Đức Giêsu khuyên “hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo và ông sẽ được một kho tàng trên trời”.
Và để cho mọi người cảm nhận rõ lời khuyên đó, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” (x.Lc 16, 19-31).
Dụ ngôn được kể rằng: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.(x.Lc 16, 19) Câu chuyện sẽ không có gì để nói, nếu “trước cổng ông nhà giàu” không có “một người nghèo khó… nằm (ở đó)”.
Người nghèo khó đó tên là Lazaro, anh ta trông thật thảm thương. Trên cơ thể anh ta “mụn nhọt đầy mình”.
*Thưa bạn, bạn có bị “ghẻ” bao giờ chưa! Tôi đã bị. Năm học lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), chân tay của tôi “mụn nhọt đầy mình”, phải nói rằng, nhức nhối khủng khiếp. Thế nhưng, cái nhức nhối của thể xác không sánh bằng cái nhức nhối tinh thần. Cái nhức nhối tinh thần, đó là sự cô đơn, một lớp học gần bốn mươi học sinh, nhưng không có một người nào muốn đến gần tôi. Thật ra, cũng có người đến, nhưng họ đến chỉ để nói với tôi rằng “đồ ghẻ tàu!”.
Với “ngưòi nghèo khó tên là Lazaro” ư! Có phần chắc, anh ta cũng nhức nhối, anh ta không chỉ nhức nhối thể xác bởi mụn nhọt, bởi cái dạ dày “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”, anh ta còn nhức nhối tinh thần. Từ tâm can, anh ta nhận ra “sự vô cảm” của ông nhà giàu, phải chi ông ta đến và chỉ nói “đồ ghẻ La Mã” có lẽ anh ta cũng vui vui chút ít!
Sự vô cảm của ông nhà giàu, có thể ví như “cục lơ Pháp”, đã được ông ta “thoa” lên “cây cơ” là đám mụn nhọt và sự đói khát trong nỗi cô đơn của anh Lazaro. Vâng, chỉ là một cách diễn tả, kết thúc hồi một, buồn thay! chỉ có “mấy con chó… đến liếm ghẻ chốc anh ta”.
Với hồi hai, như người ta thường nói “mồm chó vó ngựa”. Anh Lazaro, phần vì đói, phần vì mồm những con chó liếm vào những vết ghẻ của anh ta… Ôi! vết thương của anh ta, không nhiễm trùng mới là chuyện lạ! Lazaro chết, có phần chắc, vì đói và vì nhiễm trùng. Sau đó, “ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).
Và như lời một bài kinh đã viết “sự chết chỉ là sự biến đổi chứ không hề tiêu tan”. Cuộc đời Lazaro được biến đổi, anh ta không còn cô đơn bên “mấy con chó” nhưng tràn đầy hạnh phúc “trong lòng tổ phụ”.
Còn ông nhà giàu ư! Chuyện được kể tiếp rằng: “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta…” – ông nhà giàu – lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta.
Trước kia, nơi trần gian, Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Nay, dưới âm phủ, ông nhà giàu “thèm” được Lazaro “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi (ông) cho mát, vì ở đây (ông) bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16, 24).
Kết thúc dụ ngôn, như đã nói ở trên, anh nhà nghèo tên là Lazaro được ở “trong lòng tổ phụ”. Còn ông nhà giàu thì “Phải chịu khốn khổ” (Lc 16, …23).
**
Qua dụ ngôn này, có thể nói rằng, “sự vô cảm” chính là con đường dẫn chúng ta đến “âm phủ”. Chính vì thế, là một Kitô hữu, chúng ta đừng quên rằng, những gì chúng ta làm hôm nay, ở đời này, sẽ là “tấm chiếu khán” đưa chúng ta đến đời sau, nơi “hỏa ngục” hay “thiên đàng”.
Giàu có ư! Tốt, vì đó là ơn phúc Chúa ban.
Giàu có không phải là một cái tội. Câu chuyện dụ ngôn trên không thấy một câu hay một chữ nào lên án về việc “giàu có” của ông nhà giàu. Hãy nhìn xem sự giàu có của ông Gióp khi xưa. Kinh Thánh có chép rằng, Ông ta có “một đàn súc vật bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái”. Chính Xatan cũng phải công nhận Đức Chúa đã “ban phúc lành cho công việc do tay (Gióp) làm, và các đàn gia súc của (Gióp) lan tràn khắp xứ” (G 1, 10).
Chỉ có điều, nếu giàu có thì, hãy nghe tông đồ Phaolô nói: “Đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng”(1Tm 6,17).
Thánh nhân thêm một lời khuyên rằng: “Phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy (sẽ) tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai”.
Cho nên, khi ta giàu có “Hãy rộng lượng với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí. Hãy đón tiếp kẻ khó nghèo, vì họ túng quẫn, đừng để họ ra về tay trắng” (Hc 28, 8-9).
Hãy nhớ, sự giàu có không ngăn cách ta đến bên “lòng tổ phụ” Apraham, sự vô cảm mới chính là “hố sâu”, là “vực-thẳm-lớn” ngăn cách ta với ngài, sau này, cũng như với những người anh em, những người đồng loại, ngay hôm nay.
Nếu hôm nay, trong cuộc sống thường nhật, chúng ta “không vô cảm” với những người anh em, những người đồng loại, những người mà họ đói chúng ta cho ăn, họ khát chúng ta cho uống, họ rách rưới chúng ta cho mặc, họ bịnh hoạn chúng ta thăm viếng v.v… thì, sau này, trong ngày phán xét, Chúa cũng sẽ không nhìn chúng ta bằng ánh mắt “vô cảm”.
Trái lại, Ngài sẽ nói với chúng ta rằng, “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho Ta ăn; Ta khát, các người đã cho Ta uống… Ta là khách đau yếu, các ngươi đã thăm viếng…”(Mt 26, 34-36)
“Ta” là ai? Thưa, Ta là “họ”. “Họ” là ai? Thưa, họ là những người chúng ta “không vô cảm”.
Nói tắt một lời, để đời sau, chúng ta không phải lớn tiếng kêu, “Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con”, thì đời nay, nguyên tắc sống của chúng ta chỉ cần gói gọn trong ba chữ “đừng vô cảm”.
85. Đừng “dửng dưng” và “vô cảm” như thế!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Lc 16: 19-31 Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy sự “vô cảm”, “dửng dưng”, trước nỗi thống khổ của người anh em. Một Lazarô nghèo khổ, bệnh tật nằm ở ngay gầm cầu thang của nhà phú hộ.
Trong bài viết “Giới trẻ trước căn bệnh vô cảm”, đăng trên http://www.giaophanvinhlong.net, tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình, M.F. đã nhận định như sau: “Nhân loại đã bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên với rất nhiều thuận lợi, giúp cho con người […]tiếp cận với nhiều phương tiện hiện đại. Tiếc thay, giá trị đạo đức lại bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến ‘bệnh vô cảm’”. Và, tác giả xót xa cho truyền thống nhân văn của dân tộc đang bị gậm nhấm và sói mòn. Thật vậy, còn đâu câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; hoặc “Thương người như thể thương thân…?”.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy sự “vô cảm”, “dửng dưng”, trước nỗi thống khổ của người anh em. Một Lazarô nghèo khổ, bệnh tật nằm ở ngay gầm cầu thang của nhà phú hộ. Một khoảng cách rất gần về không gian, nhưng tiếc thay, chính sự gần gũi đó lại làm cho họ xa nhau trong cuộc sống vĩnh cửu.
Ý Nghĩa Lời Chúa
Người phú hộ giàu có hôm nay được thánh Luca trình bày rất gợi cảm: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16, 19). Tác giả không nói rõ người đó to cao, mập mạp thế nào? Nhưng cứ sự thường thì đây phải là một người tốt tướng. Ông ta mang trên mình những thứ sang trọng theo kiểu cung đình. Ông được nhiều người hầu hạ. Và, ăn uống tối ngày với những món ăn đặc sản thời bấy giờ. Nhưng ngược lại với hình ảnh của nhà phú hộ, là một Lazarô nghèo khổ: “Có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16, 20). Hai hình ảnh của hai con người trái ngược nhau ngay trong một căn nhà.
Nếu ông phú hộ là một người oai phong lẫm liệt, thì Lazarô lại là một người thấp cổ bé họng, bệnh tật.
Nếu ông phú hộ mặc những thứ vải vóc sang trọng, thì Lazarô có lẽ chỉ có mảnh vải rách che thân.
Nếu nhà phú hộ ăn uống linh đình, thì Lazarô chỉ mong được những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống mà cũng không ai cho. Chỉ có những con chó đến liếm ghẻ chốc của Lazarô mà thôi.
Một sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Tuy nhiên, hình ảnh đó đã bị đảo lộn khi cả hai cùng chết. Tin Mừng cho thấy:“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22). Chính cái chết làm cho tình trạng của hai người hoán đổi cho nhau. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Thưa, chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” của nhà phú hộ khi còn sống.
Tin Mừng làm nổi bật sự mỏng dòn của tiền bạc, một lúc nào đó tiền của không còn là chỗ dựa duy nhất. Hình ảnh của nhà phú hộ luôn coi tiền bạc như lá bùa hộ mệnh của mình; còn Lazarô thì sống dở, chết dở ngay ở cổng nhà ông. Vì vậy, ông chỉ còn một chỗ dựa duy nhất đó là Thiên Chúa.
Sứ Điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống, hẳn mỗi chúng ta đều biết câu ngạn ngữ: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Sự giàu sang ở đời không đảm bảo được sự sống. Mọi người đều có thể chết bất cứ lúc nào. Muốn cho cuộc sống của mình có hậu sau khi chết, thì hãy chuẩn bị cho mình những giấy “thông hành” chính là tình huynh đệ, lòng bác ái, yêu thương ngay khi còn sống. Đây là cách làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Hạnh phúc hay không là do thái độ của mỗi người khi còn sống. Nhà phú hộ trong dụ ngôn ta không thấy có những chuyện bóc lột, đàn áp, hay có lối sống bất chính. Như vậy, ông không có lỗi để đáng phải trừng phạt trong hỏa ngục. Trong toàn dụ ngôn, Đức Giêsu không nói về bất cứ lỗi nào ông ta phạm, chỉ đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau khi sống và lúc chết. Như vậy, tội của nhà phú hộ kia chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” với người anh em đang đau khổ.
Hai thái độ, dẫn đến hai sự lựa chọn và đi đến những hệ quả khác nhau. Nhà phú hộ thì an tâm vì của cải dư thừa mình có; còn Lazarô thì nghèo khổ, ốm đau; nhà phú hộ giàu về vật chất, nhưng ông lại quá nghèo về tinh thần chia sẻ; Lazarô thì nghèo về vật chất, nhưng ông lại rất giàu về đường thiêng liêng, nên sau khi chết, Lazarô lại là người giàu, còn nhà phú hộ lại là kẻ nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa. Lazarô được hạnh phúc, con nhà phú hộ thì đau khổ. Một khoảng cách vĩnh viễn được thiết lập. Cuộc chơi đã hết. Thắng bại phân minh.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: giàu có không hẳn là tội, và nghèo chưa chắc đã phải là nhân đức. Nó trở nên tội hay không là do thái độ lựa chọn và sử dụng nó. Nước Trời không có chỗ cho những người ích kỷ, vì đã không biết yêu thương, do thái độ “vô cảm”; “dửng dưng” trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sống Lời Chúa hôm nay
“Mọi sự đều bởi Chúa mà ra, từ Chúa mà đến”. Thật vậy “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Khi đã xác định như thế, chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa mà thôi. Nếu quản lý tốt và biết sinh lợi cho Chúa thì Chúa để cho chúng ta tiếp tục, mà nếu không biết cách sinh lời thì Chúa cất đi, mà chuyện làm lợi cho Chúa là gì nếu không phải là tình liên đới, bác ái với những người nghèo chung quanh chúng ta hằng ngày. “Hữu lộc bất khả hưởng tận” thật đúng với tinh thần kitô giáo, có lộc không nên một mình hưởng, cần phải nghĩ đến người khác.
Chúa không phạt nhà phú hộ vì ông ta giàu. Chúa cũng không cổ súy cho sự nghèo nàn của Ladarô. Nhưng Chúa mời gọi hãy sống có sự liên đới với nhau để người giàu không dư, người nghèo không đói. Vì thế, ngay từ khi còn sống trên trần gian này, chúng ta hãy gấp rút sửa mình để kẻo quá trễ như nhà phú hộ. Mọi chuyện sẽ có ngày phân định. Cái chết chính là lúc phân minh. Thưởng hay phạt chính là lúc này.
Nhưng, thật xót xa cho xã hội của chúng ta, vẫn còn đó những nhà phú hộ giàu có “dửng dưng”; “vô cảm”. Thật vậy, căn bệnh này đang trong tình trạng báo động. Vì thế, chúng ta hãy “tiêu diệt” căn bệnh này một cách triệt để, bằng cử chỉ yêu thương, tình liên đới. Bao lâu, một xã hội không biết cách vượt ra khỏi căn bệnh trên, là một xã hội chết! Một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri (x. Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình, M.F. “Giới trẻ trước căn bệnh vô cảm”, đăng trên http://www.giaophanvinhlong.net).
Ước gì xã hội chúng ta có nhiều người quay lưng lại với sự “vô cảm”; “dửng dưng” và hướng lòng về “tình yêu thương”. Mong thay đâu đó có nhiều con người biết đồng lòng và thương cảm như học sinh Nguyễn Văn Nam. Em đã xả thân cứu bạn em khỏi bị nước cuốn trôi. Em đã coi sự sống của bạn là của mình, nên bất chấp nguy hiểm để hy sinh thay cho bạn của mình được sống. Không cần biết em Nam có phải là người Công Giáo hay không? Cũng chẳng cần biết em có bà con họ hàng gì với những em gặp nạn hôm đó không? Chỉ biết rằng em có trái tim rất đẹp và tình yêu thương vô vị lợi, đáng để cho chúng ta noi gương (x. Theo Khánh Hoan,Thanh Niên Online, ngày 6.5.2013).
Lạy Chúa Giêsu, giàu không phải là tội, mà nghèo chưa chắc đã là nhân đức. Xin cho mỗi người chúng con biết sống tình liên đới trong cuộc sống, để dù giàu hay nghèo, chúng con trở thành những người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa. Xin cũng cho chúng con đừng rơi vào tình trạng “dửng dưng”; “vô cảm” như nhà phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
86. Học cho biết cách dùng của cải – Huệ Minh
Trang Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Ích kỷ là loại bệnh nan y, khó có thể chữa trị được bởi vì: người ích kỷ có bao giờ biết mình ích kỷ. Cái gì cũng nghĩ về mình, lo cho mình, vơ vào mình, họ không chỉ vơ vật chất, mà còn vơ cả phần chân lý về mình nữa. Thực chất người ích kỷ còn là người “bảo thủ”, toan tính thiển cận, thấy cái lợi trước mắt là lao vào như con thiêu thân để giành giật. Ích kỷ còn là nguồn gốc của mọi giống tội khác như: tham lam, kiêu căng, lật lọng, tráo trở, độc đoán, khinh bỉ, coi thường người khác…
Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Sự giàu có của người phú hộ được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, chỉ dành cho vua (Mc 15, 17.20; Kh 18, 12) và hàng mịn. Cả hai thứ nà được kể là những đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18, 12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc” liên tục, và việc này nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12, 19).
Người giàu có không “thấy” Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói: “Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua “vực thẳm lớn lao” được.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy cho ta rằng giàu có không phải là một tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực sự. Và rồi Chúa dạy cho ta biết mối quan hệ giữa cách ta sử dụng tiền của đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa.
Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ.
Tội của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã không tỏ lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi dành cho con người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông còn nhiều của cải, nhưng vì ông đã không biết “sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời”, mà bạn hữu ở đây không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp hang ngày. Thực sự, tiêu chuẩn để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại nơi việc sống bác ái với anh chị em.
Dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên nước trời.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy sống theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Xin Chúa cho ta biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo ta có biết yêu thương tha nhân hay không. Xin Chúa dắt ta luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì ta biết Thiên Đàng không dành riêng cho một mình ta. Nhưng ta chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 16: 19 – 31: Tin Mừng không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng quang lạnh lùng.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Ladarô nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Ladarô nghèo khó thì ngược lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu vắng tình người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Người xưa có câu: “Phú nhân bất nhân – Bần bất nghĩa”. Giàu có hay khinh người, và nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên đàng nếu không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà cha ông ta đã từng khuyên con cháu mình “đói cho sạch rách cho thơm”, và “không ai giầu có ba đời”, thế nên cần phải biết sống có đức, để đề phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Cuộc đời của họ tuy cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại quá cách biệt với nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ đói rách bần cùng. Tin Mừng không đả phá về sự giàu sang, và cũng không khuyến khích sống nghèo đói. Bài Tin Mừng chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em. Giàu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời bất hạnh của đồng loại.
Tin Mừng không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm lơ khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân.
Tội của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Tình yêu thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành con người đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng ta đang tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng nhau tiến nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa Giêsu nói đến trong bài giảng trên núi: “Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
Ta thấy không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt ta không để ý sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận nhỏ, lòng trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố ngăn cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa. Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo mà chết đi, mất đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động.
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong lòng Abraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Và rồi ta thấy Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
88. Quan tâm phục vụ người bất hạnh
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về một ông nhà giàu và người hành khất La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu thì ăn mặc sung sướng đang khi La-da-rô có cuộc sống rất tồi tệ. Nhưng sau khi cả hai đều chết đã được Thiên Chúa xét xử công bình: La-da-rô thì được an ủi ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, đang khi ông nhà giàu phải chịu đau khổ trong hỏa ngục.
CHÚ THÍCH:
– C 19-21: + Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình: Dụ ngôn này lấy từ hình ảnh quen thuộc trong xã hội Do thái có những người giàu sống tách biệt với người nghèo. + Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô: Đối nghịch với hình ảnh người nhà giàu kia là hình ảnh La-da-rô nghèo khó khốn khổ. Anh này làm nghề hành khất, người đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. La-da-rô hay Ê-lê-a-da-rô nghĩa là “Thiên Chúa giúp”, ý nói anh ta chỉ còn biết trông chờ một mình Thiên Chúa giúp đỡ mà thôi. + Mụn nhọt đầy mình… Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta: trong Kinh thánh, chó bị coi là con vật ghê tởm và dữ tợn (x. Tv 22,17.21; Mt 7,6). Kiểu diễn tả “ước được những mụn bánh” và “chó đến liếm ghẻ chốc” nhằm làm nổi bật cảnh khốn cùng của La-da-rô và sự thờ ơ ích kỷ của ông nhà giàu.
– C 21-24: + Dưới âm phủ: Theo quan niệm của một số giáo phái Do thái: Người chết bị vào trong âm phủ và tạm thời được xếp thành 2 loại: Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. + Thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ: “Ngồi trong lòng tổ phụ” là một chỗ vinh dự trong bữa tiệc do tổ phụ Áp-ra-ham chủ tọa. Sau này trong bữa tiệc ly, Gio-an cũng được vinh dự “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu” (Ga 13,23). + “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”…: Cuộc đối thoại giữa người giàu có với tổ phụ Áp-ra-ham cho thấy số phận của con người ở thế giới bên kia tùy thuộc vào cuộc sống của họ khi còn ở trần gian.
– C 25-26: + “Bây giờ La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”: Người giàu có bị trừng phạt vì khi còn sống đã không sử dụng của cải theo thánh ý Chúa. Còn người nghèo khó được thưởng vì đã chấp nhận sống tinh thần nghèo khó. Cái chết sẽ làm đảo ngược vị trí của người giàu và kẻ nghèo. Chỉ nhờ ơn Chúa thì những người giàu có mới có thể được cứu độ (X. Lc 18,24-27). Nhưng không phải bất cứ người nghèo nào cũng đương nhiên được hưởng lòng Chúa thương xót. Nếu nghèo mà không có tinh thần siêu thoát đối với tiền bạc của cải, thì số phận của họ cũng sẽ bị diệt vong (x. Lc 12,15; Mt 19,29). + “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn”…: Vực thẳm lớn không thể vượt qua, biểu tượng cho tính dứt khoát của số phận của những người được hưởng hạnh phúc hay sẽ phải chịu đau khổ trong thế giới kẻ chết.
– C 27-31: + “Vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con”: Ông nhà giàu muốn dùng kinh nghiệm bản thân của mình để cảnh báo những anh chị em đang sống chung dưới cùng một mái nhà của cha ông. + “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ”…: Sự cảnh báo về việc sử dụng của cải đã hàm chứa trong Luật pháp Mô-sê và Lời Chúa do các ngôn sứ tuyên sấm, đủ thuyết phục họ sửa đổi thói ích kỷ và biết quảng đại nhường cơm sẻ áo cho những người nghèo đói khác. Vì thế nếu những người giàu có đã không hồi tâm sám hối, không phải vì họ đã không có đủ các phương thế giúp ăn năn hối cải, nhưng chỉ vì họ đã cố tình từ chối thi hành các phương thế ấy mà thôi. + “Nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”: Ở đây ông nhà giàu muốn dùng việc kẻ chết hiện hồn về để đánh động lòng sám hối của các người anh em còn sống. + “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”: Câu này là cốt tủy của dụ ngôn. Dù lời dạy của Mô-sê và lời các ngôn sứ không phải là những phép lạ và chỉ nhằm để thúc đẩy người ta tin, nhưng đó cũng chính là Lời Chúa phán trong Thánh kinh (x. Lc 24,27.44). Ở nơi khác, Đức Giêsu cũng nói đến sự vô hiệu của các phép lạ (x. Lc 10,13). Người cũng khẳng định các dấu chỉ thiêng liêng có giá trị hơn các phép lạ bên ngòai, khi nói: “Anh em hãy tin vào Thầy” (Ga 14,11.12) và: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29b).
CÂU HỎI: 1) Câu nào diễn tả cảnh khốn cùng của người nghèo khó La-da-rô? 2) Bài Tin mừng hôm nay dựa theo quan niệm của Do thái giáo: chia người chết thành hai lọai người nào? 3) Phải chăng người giàu có ở đời này sẽ đương nhiên chịu hình phạt ở đời sau và người nghèo khó ở đời này đương nhiên sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau? 4) Câu nào cho thấy tổ phụ Ap-ra-ham không cho phép La-da-rô hiện hồn về để nhắc bảo các anh em của ông nhà giàu? Tại sao?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16,19-20).
- CÂU CHUYỆN: PHIM “NHỮNG ĐỨA TRẺ KHỐN KHỔ”:
Một cô gái quê lên tỉnh đi tìm việc làm và đã bị kẻ gian lừa đến chỗ đã mang thai ngoài ý muốn. Sau đó do không thể vừa đi làm vừa nuôi con thơ, cô đành gởi con cho một chủ quán nhà trọ nuôi giúp. Người chủ quán này là kẻ vô lương tâm, đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của bà mẹ trẻ để ra sức bòn rút bóc lột: nay hắn đòi phải đưa thêm tiền sữa tăng giá, mai lại đòi tiền thuốc chữa bệnh cho đứa con. Bà mẹ trẻ chỉ còn biết nhịn ăn nhịn tiêu để chi trả những số tiền vượt kế hoạch. Khi không còn gì để trả, chị ta đành phải cắt mái tóc óng mượt đẹp đẽ của mình mang đi bán. Rồi sau đó lại phải nhổ từng cái răng để bán tiếp… và chỉ một thời gian ngắn sau đó chị biến thành một phụ nữ ốm đói quần áo lôi thôi rách rưới, mặt mũi xấu xí và bị mọi người khinh dể xa lánh như một người điên. Sau đó chị bị viên quản đốc thẳng tay đuổi ra khỏi chỗ làm giữa một buổi sáng mùa đông giá lạnh, phải co ro trong chiếc áo rách, vừa đi vừa ôm ngục ho sù sụ… Lần khác chị bị một đám đông hè nhau xô té xuống lề đường và thay nhau hò hét đấm đá… Khi xem phim, có lẽ nhờ đã hiểu biết về hoàn cảnh cùng cực của bà mẹ trẻ khiến nhiều ngừoi chúng ta cảm thương, đang khi do thiếu hiểu biết mà nhiều kẻ đã đang tâm hành hạ chị không chút thương tiếc.
Còn chúng ta thì sao? Có khi nào chúng ta đã làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân, thậm chí còn vào hùa với kẻ ác tâm để chế diễu hay hành hạ những kẻ điên loạn nghèo đói gặp phải giữa đời thường hay không?
- SUY NIỆM:
1) Thực trạng giàu nghèo trên thế giới hiện nay:
Hiện nay tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển. BIU GHẾT (Bill Gates) giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông thì Liên Hiệp Quốc sẽ có đủ tiền chi cho công cuộc cải cách giáo dục căn bản, phục vụ sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài. Hiện nay hố sâu ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo ở các đô thị và giữa đô thị với vùng nông thôn càng lúc càng lớn. Có 800 triệu “La-da-rô” đang lâm cảnh đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ “La-da-rô” đang bệnh tật mà không được thuốc thang chữa trị. Hàng ngày vẫn có bao người bị chết đói, vì không được hưởng những thực phẩm dư thừa từ cac bàn tiệc của những người giàu. Dửng dưng trước sự đau khổ của người khác cũng chính là một tội ác lớn lao.
2) Thế nào là sự giàu có và nghèo khó thực sự?:
Sự giàu có đích thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi. Người giàu đích thật là người biết cho đi, còn người nghèo thật sự là người chỉ biết đón nhận. Người giàu đích thật là người có ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đầy đủ, đang khi người nghèo thật sự lại có quá nhiều nhu cầu nên lúc nào cũng thấy thiếu thốn. Sự giàu đáng giá nhất là giàu có trong tâm hồn. Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết. Khi ta mở cửa lòng mình ra là lúc ta bắt đầu sống (McCarthy). Khi chỉ biết tìm kiếm sao cho có thật nhiều tiền, cặp mắt người ta sẽ bị che mờ đến nỗi không còn nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa.
3) Phải tránh thái độ làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân: Chính tội làm ngơ của ông nhà giàu đã thành tội nặng khi gây thiệt hại nghiêm trọng khiến La-da-rô bị chết thảm vì đói và bệnh, nên ông nhà giàu đã bị phạt trong hỏa ngục. Như vậy ngoài các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm, còn có thêm tội thiếu sót, không chu toàn bổn phận yêu người, làm ngơ trước những kẻ bất hạnh đang cần đến mình.
4) Phải tập quảng đại: cho đi hơn là nhận lãnh: Ông nhà giàu phải “chịu cực hình” không phải vì giàu có, nhưng vì đã không quảng đại, không biết chia sẻ cho những người đói khát cơm áo tiền bạc dư thừa của mình. Bác sĩ AN-BỚT SUÝT-DƠ (Albert Schweitzer), người đã bán hết gia tài to lớn để xây dựng một bệnh viện để cứu giúp những người cùng khổ ở Châu Phi, đã đặt vấn đề như sau: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc khi còn biết bao người khác đang bị đau khổ?”.
5) Phải bắt đầu từ đâu?:
– Phải bắt đầu từ gia đình mình trước: Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố. Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào”.
– Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: Muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó. Mẹ Têrêsa kể tiếp: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này đã phải chết vì đói!”.
-Tích tiểu thành đại: Theo Mẹ Tê-rê-sa: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến từng cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu nhiều giọt nước khác”.
6) Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài giảng lễ Chúa nhật tại vận động trường Yăng-ki (Yankee) Nữu Ước trong chuyến thăm nước Mỹ 1979 đã phát biểu về việc chia sẻ bác ái như sau: “Người nghèo khổ nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới đều là anh em của các bạn trong Chúa Ki-tô. Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo cho mình cái chính yếu của cuộc sống, và đừng tìm sống sung túc, để nhờ đó, các bạn có thể giúp đỡ cụ thể cho những người nghèo khổ. Ngoài ra các bạn còn phải đối xử với họ như những vị khách quí trong gia đình các bạn nữa”.
- THẢO LUẬN: 1) Một văn sĩ nổi tiếng đã nói: “Mỗi khẩu súng được chế tạo, mỗi tàu chiến được hoàn thành, mỗi hỏa tiễn được bắn ra… Xét cho cùng, chính là một lần ăn trộm của những kẻ đói khát vì không được nuôi dưỡng, của những kẻ bị lạnh lẽo vì thiếu quần áo che thân!”. Bạn có đồng ý với lời đó hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì trong những ngày sắp tới để giúp đỡ cách cụ thể cho một cụ già neo đơn, một trẻ em mồ côi hay một bệnh nhân không tiền thuốc thang chữa trị mà bạn quen biết…?
- NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho con nhìn thấy những La-da-rô nghèo khó đang ở chung quanh con và đang cần đến sự giúp đỡ của con. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó đến với con, để con không xua đuổi, nhưng tiếp đón họ cách thân tình. Cảm tạ Chúa vì đã dựng nên loài người chúng con ai cũng nghèo về một phương diện nào đó, và ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác… Như vậy chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho hết mọi người đều được nên sung túc giàu có.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo và bị áp bức. Chính vì thế, Con Chúa mạc khải tất cả tình yêu Thiên Chúa qua dụ ngôn đầy kịch tính hôm nay. Sự thật đã đảo lộn tất cả những suy nghĩ thường tình. Bởi vậy, cần suy nghĩ sâu xa và quyết định sáng suốt để kịp thời hành động.
LUẬT QUẢ BÁO.
Lời kinh “Magnificat” đã ứng nghiệm từng chữ trong dụ ngôn người phú hộ hôm nay. Không những trở về tay trắng, người giàu còn phải chứng kiến một cảnh đảo lộn chưa từng thấy trên dương gian. Ngày xưa ông sống trong cảnh vinh hoa phú quí “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình.” (Lc 16:19) Trái lại, Ladarô ngước mắt lên “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16:21) Có lẽ Ladarô đã chết vì đói khát bệnh tật. Còn người giàu có lẽ chết vì chè chén say sưa.
Tại sao người giàu bị đầy xuống âm phủ? Phải chăng ông không có quyền hưởng những gì ông đã làm ra? Tin Mừng không hề nói đến cảnh bất công đã đưa ông lên tột đỉnh hạnh phúc. Ông cũng không hề phạm một tội ác hay tạo nên cảnh?nghèo đói của Ladarô. Ladarô cũng không hề mở miệng xin người giàu và bị từ chối bao giờ. Ladarô được thưởng không phải vì nghèo. Nghèo không phải là một điều phúc. Giàu không phải là một tội. Vậy tại sao Ladarô được thưởng, còn người giàu bị phạt?
Vấn đề tùy chúng ta quan niệm thế nào về tội. Trước thánh lễ, chúng ta vẫn đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.” Tội không chỉ tại đã làm hay nói điều gì xấu. Không làm điều tốt cũng là một tội. Điều tốt phải làm trong trường hợp này chính là phải chia sẻ một chút hồng ân Thiên Chúa với người nghèo. Ladarô không ở xa nhà ông ta, nhưng “nằm trước cổng ông nhà giàu.” (Lc 16:20) Ngày ngày ra vào, tất nhiên ông không thể không nhìn thấy cảnh tượng “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.” (Lc 16:21) Nhưng ông đã không thèm để ý đến cảnh khốn cùng đó. “Yến tiệc linh đình” đã lấn át tiếng lương tâm. “Lụa là gấm vóc” đã xóa nhòa hình ảnh ghê tởm. Có lẽ thấy cảnh tượng khốn cùng của Ladarô, ông đã nhổ nước miếng quay đi. Càng nhìn thấy con người bần cùng đó, ông càng thấy khoảng cách quá xa giữa ông và Ladarô. Ông chỉ cắm mắt vào của cải. Đó là lẽ sống duy nhất đời ông. Giá trị con người hoàn toàn tùy thuộc những gì mình chiếm hữu được. Càng thờ ơ, lãnh đạm trước những khổ đau của người khác, càng vinh thân phì da. Không cần có trách nhiệm gì trước những khổ thống của người bên cạnh.
Trên tột đỉnh hạnh phúc, ông thấy rõ chỉ có của cải vật chất mới đem lại hạnh phúc. Ông đặt tất cả niềm tin vào những thực tại trần thế. Chẳng có gì có thể phá đổ niềm tin đó. Mọi sự đều được bảo đảm. Trong tháp ngà hạnh phúc đó, ông sung sướng hưởng tất cả những gì do mồ hôi nước mắt mình đã tạo nên. Giữa một xã hội mọi người có cơ hội đồng đều, chỉ những người lười biếng và ngu dốt mới khổ mà thôi. Ai cũng phải lo cho mình. Tội gì “ăn cơm nhà vác ngà voi”! Tôi không phạm tội, không gian tham, không giết người, như vậy chưa đủ sao? Bổn phận đối với Chúa và tha nhân tôi đã chu toàn, còn đòi hỏi gì nữa? Tội không phải vì đã không chu toàn bổn phận. Nhưng chính lúc không làm gì cho người nghèo khổ và bị áp bức, tôi đã đắc tội với Chúa. Lý do vì sống là liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo khổ. Người nghèo là ưu tiên số một trong những bận tâm của Chúa. Người Kitô hữu cũng phải chia sẻ nỗi bận tâm lớn lao đó. Phải đợi sau cuộc đời này người giàu mới thấy mối liên đới với người nghèo khổ. Lúc mở mắt ra “thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ” Abraham (Lc 16:23), người giàu mới thấy choáng váng. Mọi sự đã quá trễ. Lúc đó chung quanh chỉ còn “lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16:24) Khoảng cách giữa người giàu và Ladarô thành vô cùng. Trước kia Ladarô “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16:21) Bây giờ người giàu thèm một giọt nước từ ngón tay Ladarô (x.Lc 16:24) Quả báo nhãn tiền: “Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.” (Lc 16:15)
Nằm “trong lòng tổ phụ,” (Lc 16:23) Ladarô hạnh phúc muôn đời trong Nước Chúa. Không dụ ngôn nào nhân vật được Chúa đặt tên rõ như vậy. Bởi đấy tên Ladarô phải có một ý nghĩa nào đó trong việc giải thích dụ ngôn. Ladarô có nghĩa “Thiên Chúa là Đấng phù trợ đời tôi,” hay “một người nghèo tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa.” (Ezego: Sunday Homilies for Year C, 27/9/2001) Không phải ai nghèo cũng có niềm tin như thế. Trái lại, biết bao người nghèo oán trách trời đất hay cay đắng vì thân phận hẩm hiu. Đời này không ngóc đầu lên được. Cả đời sau cũng không khá hơn.
Muốn khá hơn, phải lắng nghe lời “Môsê và các Ngôn Sứ,” (Lc 16:29) nhất là Đức Giêsu Kitô. Nếu phải đợi “người chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối,” (Lc 16:30) Lời Chúa chỉ là một bóng ma hù dọa những người yếu bóng vía mà thôi. Nhưng Lời Chúa tác động đến cõi thâm sâu nhất trong nội tâm, vì mạc khải tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Lời Chúa là “thần khí và sự sống.” (Ga 6:63) Nếu sống Lời Chúa, chắc chắn người giàu đã thấy mình phải làm gì cho người nghèo Ladarô. Vì sống là liên đới, cảm thông, dấn thân cho tha nhân.
THẾ LIÊN ĐỚI.
Nhưng Lời Chúa mới “làm cho sống” (Ga 6:63) và “sống dồi dào” (Ga 10:10) cả đời này lẫn đời sau. “Chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi.” (1 Tm 6:12) Thánh Phaolô nói với đệ tử Timốt như thế. Chúng ta cũng được kêu gọi để chia sẻ sự sống đó. Thực tế, sự sống sẽ bị đe dọa mọi mặt khi khoảng cách giữa giàu nghèo quá lớn. Muốn cuộc sống bảo đảm, “trước hết phải đối thoại với người nghèo, không chỉ là nghèo về của cải vật chất mà còn nghèo về phẩm giá, về kiến thức, về niềm hy vọng… Không nên coi người nghèo như đối tượng của?việc từ thiện? nhưng như những con người đáng được tôn trọng và cần được lắng nghe.” (Thư chung HĐGMVN 22/9/2001) Lý do vì “đối thoại là tên gọi mới của niềm hy vọng” (Thượng hội đồng tháng 10-2001, Tài liệu làm việc, số 30) Cuộc đối thoại chỉ thành công khi những người có trách nhiệm cố gắng sống “công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, nhẫn nại và hiền hòa.” (1 Tm 6:11) Giữa thế giới đầy hoang mang hôm nay, không gì khó bằng đem niềm hi vọng cho con người thời đại. Ai có khả năng đem lại niềm hi vọng, sẽ thu hút được quần chúng. Thiên Chúa đang cần đến những người như thế. Chính họ mới là những tông đồ đích thực đem Tin Mừng Hi vọng cống hiến cho nhân loại.
Tin Mừng mạc khải tất cả giá trị đích thực của những thực tại trần thế. Của cải chỉ là phương tiện để phục vụ chứ không phải để thống trị. Con đường phục vụ chỉ chiếu sáng lên khi người giầu ý thức được sự liên đới với người nghèo. Chính sự liên đới này thúc đẩy người giàu vận dụng mọi phương tiện để chia sẻ với những người cùng khốn hơn mình. Càng chia sẻ càng giàu có. Vì khi chia sẻ, họ sẽ thấy niềm hi vọng lớn lao và vững chắc hơn nhiều. Thiên Chúa sẽ trả lại tất cả những gì đã làm cho những người anh em bé nhỏ nhất (x. Mt 25:31-46). Đúng hơn, khi giúp những anh em khó nghèo, họ đã đặt hi vọng vào một thực tại vượt quá trần thế. Đức tin mạc khải cho chúng ta biết giữa trăm chiều thử thách “chính Chúa Kitô ban cho chúng ta niềm hi vọng đạt tới vinh quang,” (Cl 1:27) và “nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hi vọng.” (Rm 15:13)
Chính đức tin bảo đảm niềm hi vọng lớn lao đó (x. Rm 5:2) và hạnh phúc đích thực. Vì “Thiên Chúa là nguồn hi vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin.” (Rm 15:13) Với niềm hi vọng lớn lao đó, người tín hữu cảm thấy hạnh phúc khi phục vụ những anh em khó nghèo. Chỉ có đức tin mới lấp đầy khoảng cách giữa giàu nghèo và đem lại cho thế giới niềm hi vọng thực sự. Chính Thánh Linh là tác giả đức tin đó.
Nhưng cũng chính Thánh Linh đang hoạt động trong lương tâm mỗi người để khơi dậy những tình cảm liên đới và nối kết mọi người. Chẳng hạn trong cuộc khủng bố tại New York và Washington vừa qua, mặc dù không ngờ thời đại có thể chứng kiến một sự tàn ác đến thế, cũng nhờ đó chúng ta có thể thấy sự kỳ diệu của Thánh Linh trong việc liên kết mọi người. Biết bao người đã hiến máu, tình nguyện và đóng góp tiền của và sức lực rất lớn cho những người mình chưa hề biết. Chỉ trong vòng hơn một tuần kêu gọi, đài Little Saigon tại Houston cuối tháng 9/2001 đã quyên góp được trên 400,000 Mỹ kim.
90. Giàu và nghèo – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Trong cuộc sống, chúng thấy người ta thường trò truyện với nhau, có khi còn tranh luận nữa: ai giàu, ai nghèo? Ai giàu vật chất nhưng có tinh thần nghèo, ai nghèo vật chất nhưng có tinh thần giàu? Đối với chúng ta, vấn đề không phải là phân biệt ai giàu ai nghèo, nhưng vấn đề quan trọng là: ai là người có phúc, ai là người bị lên án? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: một người giàu, ăn sung mặc sướng ở đời này, nhưng lại phải khổ ở đời sau. Ngược lại, một người nghèo, đói khát ở đời này, nhưng lại được hạnh phúc ở đời sau. Như vậy, phải chăng giàu có là một tội và nghèo khổ là có phúc?
Trước hết, nói đến giàu nghèo là nói đến tiền của, và nói đến tiền của chúng ta có thể ghi nhận ba điều: Thứ nhất, tiền của cũng như danh vọng, khoái lạc, đối với lòng tham của con người, không bao giờ là đủ, lòng tham này vô đáy. Người ta có thể mơ ước tiền của suốt đêm, bàn tán về tiền của suốt ngày, lo tìm kiếm tiền của suốt tháng, vơ vét tiền của suốt năm… chẳng bao giờ thỏa mãn và chẳng biết bao nhiêu là đủ: ta có một triệu, lại muốn được hai triệu, có hai triệu, ta lại thèm ba triệu, có ba triệu, ta lại ước bốn triệu. Cuộc săn đuổi cứ tiếp tục leo thang, thỏa mãn, cho là đủ rồi, thật là hai tiếng xa vời. Thứ hai, thái độ cần tiền của là chuyện tự nhiên, không ai tránh được, vì ai cũng cần chúng. Và việc cố gắng làm cho có nhiều tiền của không phải là chuyện xấu, cũng như giàu có không phải là một tội, miễn là người ta không kiếm tiền và làm giàu cách bất chính. Thứ ba, tiền bạc, của cải vật chất là điều có thể mất, chúng ta mất chúng vì chúng bỏ chúng ta, như khi tiêu xài, mất mát, nhưng chúng ta cũng mất chúng, vì chúng ta bỏ chúng, lúc chúng ta chết chẳng hạn, chúng ta phải bỏ lại tất cả, chúng có thể hết, vì là vật chất, linh hồn không hết, vì linh hồn thiêng liêng.
Thế nên, tiền của không thể bảo đảm hạnh phúc đời sau cho chúng ta được, mà trái lại, như thực tế chúng ta thấy, chúng thường là nguyên nhân gây ra bao tội lỗi, tật xấu và làm mất hạnh phúc đời sau của chúng ta. Tuy nhiên, tiền bạc của cải, nếu được sử dụng đúng cách, hợp tình hợp lý, cũng có thể là phương tiện mua nước thiên đàng, như giúp đỡ việc công, làm việc bác ái, cứu giúp người nghèo khổ… đó là dùng tiền của để mua nuớc trời, đó là cách thu tích của cải để bảo đảm hạnh phúc đời đời.
Trong dụ ngôn của Tin Mừng, chúng ta thấy không đề cập tới một tội rõ rệt nào của ông nhà giàu, thế mà ông đã sa hỏa ngục, như vậy, nguyên việc giàu đã là một tội chăng? Không, ông bị phạt không phải vì ông giàu, nhưng vì ông đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ. Ngược lại, người hành khất La-da-rô nghèo khổ, nguyên tình trạng nghèo chưa phải là điều kiện để ông được thưởng, mà là ông có tinh thần, có tâm hồn nghèo khó, biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo ý Chúa. Dĩ nhiên sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Như vậy, một điều nữa chúng ta cần ghi nhận là có sự tương quan giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu: nếu ông nhà giàu biết đem tiền của chia sẻ cho ông La-da-rô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời. Chính vì thế có người đã nói rằng người Ki-tô hữu có ba loại người bạn là tiền bạc, bà con bạn hữu và việc lành phúc đức. Tiền bạc là người bạn chúng ta thương nhất, quý nhất, chiếm môt vị trí quan trọng trong đời chúng ta, thậm chí khi phải chọn lựa, có người đã không theo lẽ phải, nhưng đã để hấp lực của đồng tiền cuốn hút. Loại người bạn thứ hai cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tim óc chúng ta là bà con ruột thịt và bạn hữu, trong đó phải kể đến người bạn cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với chúng ta, người bạn mà Chúa đã bảo chúng ta với họ không còn là hai nhưng đã trở thành một.
Thân như thế, thương như thế, mà khi chúng ta chết, cả hai đều dừng bước trước cánh cửa vĩnh cửu. Trước tòa Thiên Chúa, tiền bạc như câm nín, chẳng một lời biện hộ cho chúng ta. Còn thân quyến bạn hữu, tốt lắm là theo chúng ta tới huyệt, đẹp lắm là ném cho chúng ta một nắm đất rồi ra về, quên lãng, việc chúng ta gặp gỡ Chúa khó dễ thế nào họ chẳng biết đến.
Còn người bạn thứ ba là việc lành phúc đức, chúng ta không yêu, không thương bằng hai người bạn kia, nhưng lại tín trung với chúng ta hơn cả. Khi sống ở trần gian, nhờ nó chúng ta được mọi người yêu thương quý mến, nhất là khi chúng ta cất bước đi về đời sau, nó là người bạn sát cánh chúng ta hơn cả, nó không dừng lại trước nấm mồ, nhưng theo chúng ta tới tận tòa Chúa, mạnh dạn biện hộ cho chúng ta và đưa chúng ta vào cõi phúc. Người bạn này thật chân tình đối với chúng ta, thế mà khi sống ở đời này, chúng ta chỉ đáp lại hờ hững.
Tóm lại, tiền bạc của cải rời bỏ chúng ta khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, thân thuộc bạn hữu còn nán lại lâu hơn đưa chúng ta tới phần mộ, chỉ có việc lành phúc đức mới đi theo chúng ta vào cõi đời đời. Xin Chúa cho chúng ta từ nay có thái độ gần gũi, gắn bó với người bạn thứ ba nhiều hơn.
91. Giàu có là tội lỗi? – JM. Lam Thy ĐVD
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 16, 19-31) trình thuật dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”. Nhìn cảnh ông nhà giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh “Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, “trọng phú khinh bần” (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi “lên xe hoa” về âm phủ, ông nhà giàu mới “bừng con mắt dậy…” thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.
Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta mới chợt nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?
Trước hết, nói về những người giàu có. Con người sống trên đời, kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ (“Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” – Kiều; “tham vàng phụ nghĩa” – tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu”. Giàu như vậy, có tội là cái chắc.
Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc (cụ thể là phúc thứ nhất và phúc thứ năm trong “8 mối phúc”). Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, thì hẳn nhiên giàu có chưa phải là cái tội.
Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc cả đâu. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!
Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Ôi chao! Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày)”; rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?
Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum cái vại, đào cái ao cái hồ, xây cái bể cái máng, mới có nước mưa được. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN), đúng không nào? Còn câu trích trong kinh Magnificat, thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” cơ mà!
Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.
Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN26TN-C).
92. Lòng ích kỷ – Giuse Hồng Ân
Ích kỷ là loại bệnh nan y, khó có thể chữa trị được bởi vì: người ích kỷ có bao giờ biết mình ích kỷ. Cái gì cũng nghĩ về mình, lo cho mình, vơ vào mình, họ không chỉ vơ vật chất, mà còn vơ cả phần chân lý về mình nữa. Thực chất người ích kỷ còn là người “bảo thủ”, toan tính thiển cận, thấy cái lợi trước mắt là lao vào như con thiêu thân để giành giật. Ích kỷ còn là nguồn gốc của mọi giống tội khác như: tham lam, kiêu căng, lật lọng, tráo trở, độc đoán, khinh bỉ, coi thường người khác…
Một trong muôn vàn tật xấu của người ích kỷ, là không bao giờ biết quan tâm đến người khác. Dụ ngôn “nhà phú hộ và người hành khất La-da-rô” Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng hôm nay, cho ta thấy cảnh đau lòng đó: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16, 19-21). Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch cảnh ngay trong cuộc sống trần gian: Ông nhà giàu xử dụng một gia tài kếch xù. Ông ăn mặc sang trọng với gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn La-da-rô nghèo khó thì sống trong tình trạng cùng cực, là một người ăn mày, một tên hành khất kém may mắn. Ladarô chỉ có một ước mơ rất đơn giản là được ăn những gì rơi rớt từ bàn ăn của người giàu kia mà chẳng được. Sức khoẻ của La-da-rô thật là tồi tệ, đời sống thật mong manh, không có gì ăn, nên không đủ sức đề kháng, ung nhọt phát triển, bệnh tật gia tăng.
Tuy nhiên, còn có một điểm chung, đó là cả người giàu và người nghèo đều phải chết. “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).
Sau đời sống tại thế của kẻ giàu và người nghèo, Tin Mừng nói đến cuộc sống của họ bên kia thế giới. Sau khi từ trần, vẫn là nghịch cảnh, nhưng đảo ngược hoàn toàn. Lần này người giàu ở chỗ tối tăm, đau khổ khốn cùng, thay vì chỗ sang trọng nơi bàn tiệc. Người nghèo ngồi chỗ nhất, được hạnh phúc bên tổ phụ Abraham.
Người giàu ở trần gian, thì ngày ngày yến tiệc linh đình, nay phải xin một giọt nước. Người nghèo thay vì ngồi lê lết trước cửa ông nhà giàu để ăn mày, nay được ngồi nơi mát mẻ, thanh nhàn vui vẻ hạnh phúc.
Tội của người giàu trong Tin mừng không phải vì ông ta đánh đuổi, lăng mạ người nghèo. Ông ta không trộm cắp, không cướp của giết người, không tham ô hối lộ, không bóc lột người nghèo, cũng không buôn gian bán lận… Nhưng là tội ích kỷ chỉ lo cho bản thân, hưởng thụ của cải mình, mà chẳng màng chi đến anh em nghèo đói xung quanh, thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ của đồng loại. Người giàu tự khép kín trong thế giới của riêng ông để hưởng thụ. Ông đã trở nên mù quáng trước lề luật của Thiên Chúa và trước sự hiện diện của người nghèo khổ. Có lẽ, mấy con chó còn tử tế với La-da-rô hơn ông nhà giàu (x. Lc 16, 21). Vì ích kỷ nên nhà phú hộ đã hoàn toàn xa cách với La-da-rô. Ông tự tạo cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Vực thẳm đó ngăn cách cuộc sống của hai người ngay tại trần gian và kéo dài mãi đến tận thế giới bên kia, như lời tổ Phụ Abraham nói: “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16, 26).
Thế giới ngày nay cũng không thiếu những La-da-rô nghèo khổ đang lê lết trước cổng nhà ta, chờ được chúng ta bố thí chút cơm thừa canh cặn. Vậy mà nhiều khi chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ, vẫn bưng tai bịt mắt, ung dung vui hưởng những của cải mà Chúa đã ban cho ta, không màng chi đến nỗi thống khổ của đồng loại. Phải chăng chúng ta cũng đang tạo cho mình một vực thẳm ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa sang và hèn, giữa nông thôn và thành thị. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 1979, ĐTC Gioan-Phaolô II đã nói: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải mà Chúa ban cho chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó người hành khất “La-da-rô” của thế kỷ vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ở cửa…. Ông nhà giàu và Ladaro nghèo khổ, cả hai đều là người, đều được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, đều được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá rất đắt là giá máu quý báu mà Ngài đã đổ ra…. Chúng ta đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc”.
Mẹ Têrêxa thì nói: “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu, sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến”.
Mỗi người trong chúng ta hãy đứng lên ra khỏi bàn tiệc, cởi bỏ những trang phục quá sang trọng, không cần thiết, vì nó làm cho ta xa cách Chúa và xa lạ với những người nghèo. Chúng ta hãy nhìn ra cổng để thấy và đến gần những “La-da-rô” của thời đại, đang ngồi lê trước cổng nhà ta. Chúng ta hãy đưa tay ra chia sẻ, giúp đỡ để xoa dịu nỗi đau của đồng loại, thu nhỏ vực thẳm ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Để chúng ta không phải chịu cực hình trong âm phủ, không phải ngửa tay xin một giọt nước để làm mát. Thiên Chúa rất vui lòng khi thấy con cái của Ngài sống tình liên đới, biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận từ nơi Ngài như thế, để Ngài thưởng công cho họ. Vì khi chúng ta chia sẻ cho anh em nghèo khổ, là chúng ta làm cho chính Chúa vậy (x. Mt 25, 40).
Của cải là mối nguy hiểm lớn cho con người ở mọi thời và mọi nơi. Vì của cải là con dao hai lưỡi, nếu biết sử dụng thì của cải là đầy tớ tốt phục vụ cho chính mình cùng đồng loại ở đời này và là phương tiện đưa ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Còn không biết sử dụng thì của cải là ông chủ tồi, đời này huỷ hoại cuộc sống ta trong những cuộc chè chén say sưa, ăn chơi vô độ, bán rẻ lương tâm, huỷ hoại nhân cách, xa tránh anh em. Nó còn ngăn cản chúng ta trên đường tiến về Nước Trời để vui hưởng cuộc sống vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là những con người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nghĩ về mình, vơ vào mình để hưởng thụ, mà không màng chi đến nỗi thống khổ của anh em con. Chúng con cũng đang tự xây cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa giàu và nghèo. Làm cho chúng con xa cách, không thể đến được với Thiên Chúa và tha nhân. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con biết lấp đi vực thẳm ngăn cách đó, cho chúng con đến được gần Chúa và gần anh em nghèo khổ. Làm cho cuộc sống mai sau chúng con cũng được vào nơi mát mẻ bên cạnh tổ Phụ Abraham và trước nhan Thiên Chúa.