SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40
MỤC LỤC
- Hai điều răn.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Một tình yêu duy nhất
- Suy niệm của Lm. Joshepus Quang.
- Mến Chúa và yêu người
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Mến Chúa yêu người
- Điều răn trọng nhất
- Tình Chúa tình người
- Mến Chúa yêu người
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Mến Chúa.
- Đôi cánh để bay lên.
- Giới răn tối thượng.
- Ý nghĩa ba chữ “Hết”
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Vị thế tối thượng của tình yêu.
- Tình yêu là lẽ sống.
- Thiên Chúa bảo vệ người nghèo.
- Điều răn trọng nhất
- Điều răn quan trọng nhất
- Trò chơi hòa bình.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Tình yêu là tất cả.
- Lòng mến, luật trên mọi luật
- Yêu.
- Đức ái
- Yêu thương là chu toàn lề luật
- Giới răn yêu thương.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Con người hay Robot?.
- Giới luật tình yêu.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Lý do của tình yêu.
- Thừa tác viên.
- Giới răn mến Chúa và yêu người
- Ba chiều kích trong tình yêu.
- Mến Chúa, yêu người
- Cốt lõi của Lề Luật
- Mến Chúa và yêu người
- Giới luật trọng đại
- Mến Chúa và yêu người
- Chúa là Thiên Chúa…..
- Trò chơi hòa bình.
- Luật yêu mến.
- Tại sao Thiên Chúa làm người
- Yêu như Chúa yêu.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Điều răn lớn nhất
- Giới răn trọng nhất
- Bất ngờ và không bất ngờ.
- Yêu thương là đón nhận sự sống.
- Chúa Nhật 29 Thường Niên.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Yêu thương là truyền giáo.
- Điều răn nào trọng nhất?.
- Yêu như Chúa yêu.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Tuy hai mà một
- Hàng ngàn giới răn?.
- Điều cốt yếu.
- Giới luật thứ nhất và trên hết
- Giới răn nào lớn nhất?.
- Giới răn trọng nhất
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Mến Chúa yêu người
- Mến Chúa yêu tha nhân.
- Yêu thương.
- Giới răn trọng nhất
- Mến Chúa yêu người
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Yêu thương.
- Trên đỉnh yêu thương.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Luật thiện hảo – Trầm Thiên Thu.
- Luật trọng đại nhất
- Giới răn trọng nhất
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Điều răn trọng nhất – JKN.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- “Ngừng lại!”
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Điều răn trọng nhất
- Cốt lõi của luật là Lòng Mến.
- Chúa Nhật 30 Thường Niên.
- Điều răn trọng nhất
- Luật của sự sống.
- Đạo Yêu – vị tha hay vị kỷ.
- Điều răn trọng nhất – Huệ Minh.
**************************
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người… Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Hai từ “Tình Yêu” đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
– Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Mến Chúa và yêu tha nhân như chính mình – đó là tóm lược tất cả Lề Luật và Ngôn sứ” – Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta như vậy. Như thế, đức ái – vừa quy hướng về Chúa, vừa quy hướng về tha nhân – là một giới răn duy nhất và là nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Đó cũng là bản chất và là nền móng cho đời sống Đức tin. Đời sống Kitô hữu là sự tham dự vào chính bản tính của Thiên Chúa, Hữu thể siêu việt. “Thiên Chúa là Tình yêu” như thánh Gioan tác giả Tin Mừng lặp đi lặp lại nhiều lần để giúp chúng ta nhận ra bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu bao trùm đời sống Kitô hữu. Đó là một tình yêu duy nhất, nhưng được diễn tả ở hai chiều kích: Thiên Chúa và tha nhân. Hai chiều kích này như hai mặt của một tấm huân chương, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Mến Chúa mà không yêu tha nhân sẽ là ảo tưởng lý thuyết; yêu tha nhân mà không mến Chúa sẽ mất đi chiều kích siêu nhiên và có thể chỉ dừng lại ở tình yêu vụ lợi.
Lời Chúa trong sách Xuất Hành đưa ra những vụ việc cụ thể, liên quan đến người ngoại kiều, người nghèo và người mắc nợ. Trong mọi trường hợp, phải đặt tình yêu tha nhân lên trên hết. Phải đối xử với tha nhân như những nhân vị, những con người chứ không phải đồ vật. Thiên Chúa khẳng định: Ngài đứng về phía những người đau khổ để bênh vực họ. Ai xúc phạm người nghèo, người ngoại kiều hay người mắc nợ là xúc phạm chính Chúa, vì Ngài là Đấng nhân từ.
Bất cứ người Do Thái nào khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đều dễ dàng nhận ra đó là giáo huấn của Cựu ước. Quả vậy, lệnh truyền “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” đã được Thiên Chúa phán qua ông Môisen và được ghi trong sách Đệ nhị Luật (x. Đnl 6,4-5). Đây cũng là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức lặp lại mỗi lúc khởi đầu một ngày mới, được gọi là lời kinh “Shema Israel – Hãy nghe đây, Israel”. Lời kinh này giúp họ hướng lòng lên Chúa và chuyên tâm thực thi giáo huấn của Ngài. Theo quan niệm thời bấy giờ, con người được cấu thành bởi ba yếu tố: trái tim, linh hồn và tâm trí. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn tức là dành cho Chúa một tình yêu trọn vẹn, không san sẻ và không tính toán, nhưng hoàn toàn quy thuận về Chúa.
Lệnh truyền “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” cũng đã được ghi trong sách Lêvi (x. Lv 19,18). Đối với Chúa Giêsu, giới răn này cũng giống giới răn trước và không thể tách rời. Đây chính là một trong những điểm ưu việt trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Thông thường, khi so sánh giá trị giữa hai thực tại, người ta xếp hạng thứ nhất và thứ nhì. Ở đây, Chúa Giêsu không xếp hạng như thế. Nếu Người gọi giới răn mến Chúa là giới răn trọng nhất và là giới răn thứ nhất, thì yêu người là giới răn cũng giống như giới răn trước, tức là có giá trị ngang nhau. Mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất hướng tới hai đối tượng, hai chiều kích. Hai chiều kích này bổ túc cho nhau và làm nên lòng mến hoàn hảo. Tình yêu dành cho Chúa là tình yêu không biên giới (hết lòng); tình mến dành cho tha nhân được đo lường bằng tình yêu mà người ta muốn người khác làm cho mình, “yêu người như mình ta vậy”. Mến Chúa yêu người cũng là chu toàn Lề Luật và truyền thống Ngôn sứ. Đây là mối bận tâm lớn nhất của những người Do Thái mộ đạo. Họ lo làm sao để thực hành những quy định của Lề Luật và giáo huấn của các ngôn sứ. Đó chính là con đường nên hoàn thiện trước mặt Chúa. Đối với Chúa Giêsu, con đường nên hoàn thiện trở thành đơn giản hơn và ai cũng có thể thực hiện được, đó chỉ là mến Chúa yêu người.
Lòng mến làm nên sức sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô diễn giải điều này khi ngài có những nhận định rất tích cực đối với tình bác ái của cộng đoàn tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Vị Tông đồ xác nhận rất nhiều việc tốt lành mà cộng đoàn này đã thực hiện, và như thế, họ đón tiếp chính Chúa Kitô. Thánh nhân cũng ca ngợi cách thức cộng đoàn này đã sống trong tình yêu Chúa. Khi làm như thế, “anh em trở nên những mẫu mực cho mọi tín hữu… đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì nữa”. Hai mươi thế kỷ đã qua, chứng từ đức tin và tình mến thể hiện trong cuộc sống của các Kitô hữu Thessalonica là gợi hứng cho những cộng đoàn tín hữu hôm nay.
Trong tháng Mười, chúng ta cùng nhìn lên Đức Trinh nữ Maria. Mẹ là mẫu mực của các tín hữu. Cuộc sống trần gian của Đức Trinh nữ hoà quyện niềm vui và đau khổ, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn trung thành và tín thác vào Chúa. Mẹ là người thực sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Những lúc gian khổ của đời Mẹ như khi gian nan cơ cực tại Be Lem, khi trốn sang Ai Cập, và nhất là vào giờ phút đứng dưới chân thập giá. Trong mọi hoàn cảnh Đức Trinh nữ thành Nagiarét vẫn kiên trung, can đảm, cậy trông và một lòng mến Chúa. Xin Mẹ dạy chúng ta mến Chúa yêu người, như một tình yêu duy nhất, toả hương thơm ngát trong cuộc đời.
4. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang
TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU
Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.
Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.
Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.
Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).
Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.
Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi… và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan… nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình “thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt… thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ đề: Yêu thương là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,36)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.
- Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.
Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Xh 22,21-27)
Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người Do Thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.
Ðoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.
- Ðáp ca (Tv 17)
Ðây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Ðá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.
Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.
- Tin Mừng (Mt 22,34-40)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Ðức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.
Câu hỏi là: “Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất”. Ðây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do Thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.
Câu trả lời của Ðức Giêsu rất xuất sắc: một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy – mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương – là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.
- Bài đọc II (1 Tx 1,5c-10) (Chủ đề phụ)
Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Ðoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
- Gợi ý giảng
- Một lời để ghi nhớ: ngươi phải yêu mến
Ðúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Ðiều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình… Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.
Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Ðiều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Chỉ có một mình Chúa là Ðấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người! Còn về người thân cận, Ðức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Ðây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Ðức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời… Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người… Ðiều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Ðức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.
Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo.
Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp ! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)
- Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Ðấng yêu mến chúng ta?
Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi biết có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi… Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.
Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.
Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi biết bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.
Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì Ta yêu là yêu thôi. Ðó mới là đỉnh cao của “tình cho không biếu không”.
Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Ðức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Ðức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Ðức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.
Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
(H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)
- Những chữ đi sau chữ “yêu”
Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ “như chính mình ngươi”.
“Hết” là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ Do Thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể: “lòng” cũng có nghĩa là cả con người, “linh hồn” và “trí khôn” cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là: “Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình.” Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là: “Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình”.
“Như chính mình” nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.
Tóm lại, những chữ đi sau động từ “yêu” nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.
- Bắt đầu yêu mình trước
Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu bảo “Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi”. Có thể hiểu là: hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.
Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:
– Dân trong thành này là người thế nào?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
– Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:
– Dân trong thành này là người thế nào?
– Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
– Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.
– Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.
Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý: Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)
- Chuyện minh họa: Tin Mừng trọn vẹn
Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.
Ðến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Ðang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:
– Thầy đã phạm luật!
Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:
– Ðúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.
Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.
- Mảnh suy tư
Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.
Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.
Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)
- Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.
- Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc /; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.
- Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.
- Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết “Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa”. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin…
- Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Chúa là Cha chúng ta “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” ta, cũng như yêu thương tha nhân là anh em chúng ta “như chính mình” ta vậy.
Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con luôn cố gắng thực thi điều răn quan trọng nhất là Yêu thương. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
VII. Giải tán
Chúc anh em ra về và sống yêu thương trọn vẹn đối với Chúa cũng như đối với tất cả mọi người.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.
Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.
MINH HỌA LỜI CHÚA
- Mến Chúa và yêu người
Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm đạo. Giáo dân che giấu anh tận tình. Nhưng thấy công an đến lục soát và hăm dọa nếu không bắt được người thanh niên đó, họ sẽ thiêu rụi xóm đạo và giết chết hết nên giáo dân sợ tìm đến hỏi ý kiến cha xứ. Cha vừa thương người thanh niên vừa sợ cho giáo dân nên không quyết định ngay được. Cha vào phòng đọc Kinh Thánh mong tìm được tìm giải pháp. Cha tìm thấy ông Caipha nói về cái chết của Chúa Giêsu: “Thà một người chết còn hơn cả một dân tộc bị tiêu diệt”. Tin đó là Lời Chúa soi sáng, cha bảo giáo dân nộp người thanh niên cho công an và anh bị xử tử. Cái chết của anh thanh niên mà cha biết là vô tội đã dày vò tâm trí cha. Cha giam mình trong phòng để sám hối.
Một sứ thần đến tra vấn cha. Cha đáp:
– Tôi đã nộp người thanh niên đó cho kẻ thù.
Sứ thần tiết lộ cho cha biết:
– Người thanh niên đó chính là Chúa Giêsu.
Lời tiết lộ của sứ thần làm cho cha càng bối rối thêm. Thấy vậy, sứ thần dẫn giải:
– Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Chắc chắn anh ta là Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã chẳng đồng hóa với tha nhân đó sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo: “Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt. 22, 37-39).
Mến Chúa là thương người. Thương người là mến Chúa, vì Chúa đã đồng hóa với tha nhân, và mỗi người là hình ảnh Chúa. Chính vì thế, thánh Gioan đã xác quyết: “Kẻ nào bảo mình mến Chúa mà không thương người là nói dối. Vì tha nhân mình thấy trước mắt mà không thương thì làm sao mến Chúa mình không thấy được” (1 Ga. 4,20).
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta hai giới răn chính yếu Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay. Đó là “mến Chúa yêu người”. Không thể kính mến Chúa mà ghét bỏ con người. Cũng không thể yêu mến con người mà từ bỏ Chúa.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, để con người nhận ra mình trong anh em và mến người anh em như chính mình. Như thế “mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất cao trội”. Hễ kính mến Thiên Chúa là yêu thương anh em. Nếu không anh em thì không thể nhìn nhận Thiên Chúa và kính mến Người được. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
- Người ta thương yêu ông dường nào
Một cuốn phim nói về cậu bé 7 tuổi với ông nội giàu có và đang quản lý nhiều công nhân. Ông là con người ích kỷ, độc ác, bắt công nhân làm việc cực nhọc và nhiều giờ để trục lợi, mà trả lương rất kém. Những ai đã làm việc cho ông đều than phiền ông, nhưng vì không có việc làm nên đành phải chịu vậy.
Trong khi đó, cậu bé quá thần tượng ông mình, nên không nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình là người quảng đại nhân từ. Cậu thường nói với ông:
– Nội ơi! Người ta thương nội biết dường nào. Vì nội nhân từ quảng đại với họ. Con dám chắc người ta thương nội như con thương nội vậy.
Tình yêu và lời nhắc nhở của cậu bé lần hồi thay đổi được lòng ông lão. Ông đã trở nên người quảng đại nhân ái như đứa cháu ông nghĩ về ông.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Giêsu có thể thay đổi tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh thực thi bác ái đối với tha nhân và lòng mến đối với Thiên Chúa.
Việc làm biểu lộ tình yêu rõ rệt và cao cả nhất của Chúa Giêsu là chết treo trên khổ giá.
Trước hết, nó là dấu chỉ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga. 15,13).
Kế đến, việc Chúa Giêsu đóng đinh mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Người bảo chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga. 15,12). Người dạy chúng ta biết: chúng ta có thể hy sinh giúp đỡ kẻ khác như người đã hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta.
Sau cùng, ngoài dấu chỉ tình yêu, lời mời gọi đến tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn mạc khải cho chúng ta biết tình thương kéo theo đau khổ: yêu thương giúp đỡ kẻ khác sẽ đem lại đau khổ mất mát cho chính mình, như Chúa Giêsu vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta phải chịu chết trên khổ giá.
Như thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết điều răn trọng nhất trong đạo là “mến Chúa yêu người”. Và Người mời gọi chúng ta thực thi điều răn đó, bằng cách nêu gương cho chúng ta khi Người chịu chết treo trên thập giá, để làm dấu chỉ tình yêu của Người, để mời gọi chúng ta đến tình yêu và mặc khải cho chúng ta biết tình yêu luôn luôn kéo theo đau khổ mất mát. (Theo “Sunday homilies”).
- Thị kiến hay phục vụ
Đã nhiều năm một vị tu sĩ cao tuổi cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông nhưng chưa được Chúa nhận lời. Trong lúc ông buồn phiền thất vọng thì Chúa hiện ra. Ông mừng quá, quỳ gối tiếp kiến Chúa!… Bỗng hồi chuông tu viện báo hiệu giờ phút phát chẩn cho người nghèo đã đến, và ông là người có trách nhiệm đó. Làm sao đây? Ở lại tiếp kiến Chúa hay đi giúp đỡ người nghèo? Ông suy nghĩ một lúc rồi xin phép Chúa đi làm bổn phận.
Khi làm xong bổn phận, ông trở về phòng, vẫn nuối tiếc vì không được diện kiến Chúa như lòng ước nguyện. Nhưng khi mở cửa phòng, ông không thể tin vào mắt mình: Chúa còn ở đó chờ ông, ông mừng rỡ quỳ xuống cảm tạ Chúa. Chúa liền nói:
– Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo. Ta không ở lại đây chờ con.
Câu chuyện trên đây minh họa tuyệt vời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Con hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con, và hãy yêu người thân cận như chính mình con” (Mt. 22, 37-39). Vị tu sĩ lão thành trên đây đã làm đúng ý Chúa Giêsu. Ông đã học được phương thế tốt nhất để kính mến Chúa. Kính mến Chúa không nhất thiết phải từ bỏ mọi sự, phải quay lưng lại với tha nhân, mà thực hiện điều căn bản nhất là phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Một Kitô hữu vĩ đại thời nay là Albert Schweizer, người đã từ biệt những buổi hòa nhạc nổi tiếng ở Châu Âu đi làm bác ái thừa sai phục vụ người nghèo ở Phi Châu đã nói: “Tôi không biết bạn kính mến Chúa bao nhiêu. Tôi chỉ biết một điều là ai biết tìm và thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự kính mến Chúa như lời thánh Gioan khẳng định: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga. 4, 20-21). (Theo “Thiên đàng là thế đó”).
- Mến Chúa trong tha nhân
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Ý đã đưa ra một hình ảnh tra tấn dã man tại một số nhà tù ở Mỹ, là một nước tự hào là dân chủ tự do, tôn trọng nhân phẩm con người. Những hình ảnh tra tấn dã man đó là nguyên cớ sinh ra hận thù, bạo lực. Có sức mạnh nào thay đổi được thảm trạng hận thù bạo lực giữa con người không? Một linh mục đã từng bị tù ngục bất công trong nhiều năm kể lại: Trong thời gian bị giam, một đêm nọ tôi đau quá. Thấy người lính gác đi ngang qua, tôi liền nói:
– Này anh, anh thương cho tôi thuốc uống.
– Ở đây không có tình thương.
Đó là bầu không khí đè nặng chúng tôi trong tù ngục. Nhưng rồi một đêm lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe có tiếng nhắc nhở tôi: “Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm! Con còn mang tình thương Chúa Giêsu trong lòng con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu thương yêu con…”
Thế là tôi bắt đầu yêu thương họ, yêu mến Chúa trong họ, tươi cười với họ, trao đổi với họ. Dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Bầu khí nhà giam thay đổi hẳn. Quan hệ giữa họ và tôi cũng bắt đầu tốt đẹp thân thiện. Từ đó tôi quyết tâm làm theo Lời Chúa Giêsu: “Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em con là làm cho chính ta”.
Sự thay đổi bầu khí nhà tù và mối quan hệ thân thiện trong câu chuyện trên đây là do sức mạnh của tình yêu: yêu Chúa qua tha nhân. Quả thế ở đâu có tình thương, ở đó có an bình vui tươi và hạnh phúc vì có Chúa hiện diện và ngự trị, có ngôn ngữ của bác ái. Đức ái liên kết mọi người nên một, đạp đổ hận thù, nghi kỵ. Bác ái chính là chứng tích nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bản tính con người hạn hẹp yếu đuối dễ sai lầm, và sai lầm nhiều nhất là không nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Thế nên trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp một người trong nhóm Biệt Phái hỏi thử, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều răn trọng nhất, cốt yếu nhất, tóm lại tất cả lề luật và lời các ngôn sứ: đó là:
“Con phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con…
Và phải thương người thân cận như chính mình con” (Mt. 22, 37-39).
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho một trái tim như trái tim Chúa, để có thể kính mến Chúa tha thiết qua anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
- Yêu người không thấy mặt
Một trung úy Hải quân Hoa Kỳ thuật lại:
Qua mục “Tìm bạn bốn phương” trong báo chí, anh quen được một người con gái ở New York. Sau một thời gian thư từ qua lại, hai người yêu nhau. Nhưng có điều là chàng trung úy không vui là cô gái không bao giờ gởi hình cô cho anh, và anh muốn biết mặt cô. Cô giải thích:
– Nếu anh yêu em thực sự, thì diện mạo bên ngoài của em đâu phải là quan trọng. Giả như em đẹp, em sợ rằng anh yêu em chỉ vì sắc đẹp, đó là điều làm cho em thất vọng. Ngược lại nếu em xấu thì sao? Anh có yêu em không?…
Khi nào anh về New York, anh sẽ thấy em, và lúc đó anh sẽ quyết định.
Và họ hẹn gặp nhau tại ga xe lửa New York. Vừa đến điểm hẹn, chàng trung úy gặp ngay cô gái đang đứng chờ mình. Anh chưa kịp tự giới thiệu thì cô ta đã lên tiếng:
– Thưa ông, tôi không biết có chuyện gì giữa ông và cô gái đang đứng bên kia đường. Vừa thấy ông, cô ấy đã vội vã sang đó, và nhờ tôi gặp ông nói dùm: Cô ấy chờ ông ở trong quán bên kia đường.
Chàng trung úy vội vã sang bên kia đường, đến quán ăn nơi người yêu đang chờ đợi. Và họ đã gặp nhau vui mừng phở lở.
Câu chuyện trên đây nói lên tình yêu giữa người với người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng như một cuộc tình, trong đó chúng ta yêu thương một người mà chúng ta chưa hề thấy mặt. Người tình không chân dung đó chính là Thiên Chúa. Trước khi chúng ta thấy mặt diện đối diện, trước khi cho chúng ta chiêm ngắm dung nhan Người, Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta qua dung mạo của người anh em đồng loại chúng ta.
Do đó, cuộc sống của chúng ta tại thế cũng giống như cuộc tập dợt yêu thương từ một tình cảm vị kỷ, tình yêu của chúng ta ngày càng được thanh luyện để trở nên siêu nhiên hơn. Qua bao nhiêu người đồng loại chúng ta gặp mỗi ngày, Thiên Chúa không ngừng đến với chúng ta. Một tình yêu đích thực mà muốn chứng tỏ với Chúa sẽ được đo lường qua chính tình thương mà chúng ta thể hiện với tha nhân, nhất là qua những người mà tự nhiên không bao giờ chúng ta muốn tìm đến gặp gỡ.
Có thực hiện được như thế, chúng ta mới tuân giữ được giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn thành bổn phận đối với Chúa và với đồng loại. Khi đó chúng ta mới xứng đáng lời Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các con đã cho ăn; Ta khát các con đã cho uống; Ta là khách lạ các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu các con đã chăm nom; Ta ngồi tù các con đã đến viếng” (Mt. 25, 34-36)
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ Sáu, ngày 10 tháng 10, 2014 cùng với ông Kailash Satyarthi cho những nỗ lực tranh đấu chống lại sự áp bức đối với trẻ em và quyền của giới trẻ, trong đó có quyền được giáo dục.
Malala Yousafzai, người Pakistan, năm nay 17 tuổi là người trẻ nhất trong lịch sử được vinh dự nhận giải Nobel Hòa Bình trong danh sách những người nhận giải nổi tiếng như Martin Luther King Jr., Nelson Mandela and Mẹ Teresa.
Hai năm trước đây Malala Yousafzai bị quân khủng bố cực đoan Taliban bắn vào đầu và cổ bởi vì những tranh đấu của cô đòi quyền được giáo dục cho các em gái nhỏ ở Pakistan. Sau khi hồi phục từ cuộc giải phẫu, Malala đã mở rộng phạm vi chiến dịch vận động ra thế giới bên ngoài và trở thành tiếng nói đi đầu cho quyền được giáo dục của các trẻ em phái nữ. Từ khi mới 11 tuổi Malala Yousafzai đã bắt đầu có những buổi trả lời phỏng vấn và chuyển tải những thông điệp của cô về sự quan trọng của giáo dục đối với các bé gái. Lúc bấy giờ Taliban đã chiếm đóng thành phố của cô và đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ những trường lớp dành cho nữ sinh và ngăn cấm các bé gái đến trường.
“Mặc dù tuổi còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Và Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng của cô, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của trẻ em gái được học hành.” Ủy ban Nobel đã tuyên bố. Malala Yousafzai hiện đang theo học tại Birmingham, Anh Quốc và cô nhận được tin thắng giải Nobel Hòa Bình vào sáng thứ sáu khi đang ở trong lớp hóa học. Phát biểu cảm tưởng về giải thưởng, Malala nói rằng cô không tin là cô xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình. Tuy nhiên, cô xem đây là một khích lệ lớn lao để cô tiếp tục và biết rằng cô không cô đơn trên con đường tranh đấu của cô. “Đây chỉ là bước khởi đầu, trẻ em trên toàn thế giới cần đứng dậy cho những quyền của mình mà không phải chờ đợi ai khác,” cô nói. (Theo CNN & USA Today)
Cô bé Malala Yousafzai tuy tuổi nhỏ nhưng đã chín chắn trưởng thành, ý thức tranh đấu cho nữ quyền, mặc dù nguy hiểm đe dọa tính mạng. Cô can đảm xả kỷ, xả thân cho lý tưởng phụ nữ bình quyền. Phải có một tình yêu tha nhân cháy bỏng, cô mới có thể kiên trì dấn thân. Điều không phải ai cũng dễ dàng làm được, dù có thừa lợi thế hơn cô bé.
Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố hai giới răn quan trọng nhất. Đó là mến Chúa, yêu người. Tuy vắn tắt, đơn giản nhưng thực hiện không hề dễ.
Khi con người bị đột biến gien
Trong sáng, thành thật, dễ thương, trẻ thơ là hình ảnh Đức Giêsu muốn nhắn nhủ, gửi đến những ai mong được hưởng Ơn Cứu rỗi, được vào Nước Trời. Nhưng dù lên non tìm động hoa vàng đi nữa, chắc mấy ai có thể cải lão hoàn đồng, khi cái tâm vẫn còn lục dục, thất tình, tham sân si? Vốn nhân chi sơ tính bản thiện, trẻ thơ sống hồn nhiên, vô tư, ngay lành trong tình yêu của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Thiên Chúa đã đặt dấu ân Tình Yêu trên bản sao của Ngài.
Tiếc thay dấu ấn đó phai mờ dần, khi con người lớn lên, chịu ảnh hưởng thói xấu, gian trá, lưu manh, háo lợi, háo danh, háo chức, háo quyền lực của bá tánh, của môi trường xã hội.
Khi này lương tâm hạ cấp thê thảm. Lương tâm không bằng lương bổng! Thay vì làm con thơ yêu thương của Thiên Chúa, lại cam phận nô lệ cho ba thù, xác thịt, thế gian và ma quỷ, mà Thánh Phaolô đã phải chua xót thốt lên: “Họ chẳng phục vụ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình!” (Rm 16, 18)
Tình yêu trong sáng chấp cánh bay đi, chỉ còn tình hận, tình phụ và tình thù. Con người bị đột biến gien, bị văn minh sự chết cấy sinh tử phù dở sống dở chết, cấy gien tự hoại, tự hủy, như Cty Monsanto cấy gien vô sinh vào hạt giống (GMO), để độc quyền cung cấp giống thực vật, động vật đã đăng ký bản quyền.
Khi Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người
“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12) Đây chính là lệnh truyền, cũng như điều răn của chính Đức Giêsu phán dạy. Ngôn hành hiệp nhất, Người đã yêu thương con người, đến giảng dạy và chứng mình lời nói bằng chính cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại để giài thoát con người khỏi kiếp nô lệ và cái chết đời đời.
Người đem Tình Yêu cao quý, sáng ngời, nóng bỏng, đến đốt cháy sự chết, gian tà, kiêu căng, hợm hĩnh, xa hoa, giả hình. Tình Yêu xóa tan hận thù, đố kỵ, chia rẽ, để tất cả thương yêu, hiệp nhất với nhau và với Người. “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17, 20-21) Nên một với Đức Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người, thì con người sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương con người.
Khi con người biết yêu mến Thiên Chúa, tôn thờ, ngợi khen và cảm tạ, cũng là lúc biết sám hối, thành khẩn tìm về với Ngài, mong muốn Ngài luôn hiện diện trong thế giới đang ra sức chổi bỏ Ngài, từ khước và vô ơn bạc nghĩa với Ngài. “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 39)
Thắm đậm Tình Yêu Thiên Chúa, con người mới mở rộng cõi lòng đến với tha nhân, mới có thể yêu tha nhân như chính mình. Mới biết đem đến tha nhân những tinh túy Tình Yêu, tình người, lòng bác ái, tình yêu thương, đùm bọc, che chở, chia sẻ và giúp đỡ tận tình.
“Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả: “Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy chỗi dậy và ra đi.” (Đường Hy Vọng, số 159)
Lạy Chúa, xin gột rửa trái tim chúng con nên trong sạch, tẩy đi những dấu vết, hoen ố, tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng, đam mê xác thịt, thế gian, để chúng con xứng đáng đón rước Tình Yêu đại lượng cao cả của Thiên Chúa. Xin Chúa cải hóa chúng con trở lại con người chân chính, nguyên thủy mà Chúa đã yêu thương tạo dựng, để chúng con luôn biết kính yêu Chúa, tôn thờ và cảm tạ Chúa mãi, cũng như biết yêu thương tha nhân chân tình.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ chúng con ngày càng thêm mến Chúa, yêu Chúa qua những bổn phận và trách nhiệm hằng ngày, trở nên chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa giữa tha nhân. Kính xin Mẹ nâng đỡ, hướng dẫn chúng con yêu thương tha nhân như chính Chúa vậy. Amen.
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).
Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu, luật Do thái có 613 khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình. Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thì Ngài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. Nhưng Đức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”. Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau: Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?
- Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?
Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua: Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta… Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.
Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải “ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:
- Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!
- Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.
Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.
Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.
Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.
Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.
Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.
Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác. (8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)
- Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?
Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).
Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phải biết giúp đỡ họ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng “chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.
Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh. Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Nhưng sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”
Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.
Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì
- Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.
- Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
—————————–
[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Chúa Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”
- Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: “điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ… (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là “những kẻ được Cha Ta chúc phúc” và được Người mời “đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: “Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật” (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
- Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 40)
***
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: “Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao” (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y. Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
- Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
- Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
- Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 10).
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!
Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …
Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.
Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.
- Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).
- Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).
Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?
Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).
Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí. Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.
Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:
Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.
Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.
- Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:
- Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.
- Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.
- Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.
Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:
“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).
Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.
Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).
Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.
Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.
Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
YÊU THƯƠNG – CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG
Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình – niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: “Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham…. Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
17. Vị thế tối thượng của tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn…. Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.”
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái – Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối… chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.
19. Thiên Chúa bảo vệ người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.
- Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa
Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.
Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.
- Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo
Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.
- Yêu Chúa yêu người
Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.
Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.
Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.
- Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?
- Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).
- Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi
Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?”
Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!
Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.
Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.
- Yêu anh em như chính mình
Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: “anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em” (Ga.13, 34).
Từ “yêu người như yêu chính mình” (Lv.19, 18) đến “yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta” (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.
Yêu như Chúa yêu!
- Yêu nhau như thế nào?
Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh… (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!
Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?
Yêu là muốn điều tốt cho người khác!
Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!
Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
- Truyền giáo
Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.
Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.
Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!
Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Mt 22, 34-40: Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến.
Ngày kia, ông Mac-sa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Mac-sa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em,
Làm sao trẻ em biết chơi trò chơi hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi trò chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ…khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trê tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được được đứng lên làm người như những người da trắng. Đức Giám Mục Đê-mông Tu-tu, người nam phi, cũng đã đi theo vết chân của Gan-đi và Luther King. Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là Tình Yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho tháy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng vá yêu người như chính mình, cả hai điều luật điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa – Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tắt cả cũng không thể yêu mến Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người ; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì vời nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dững dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải quan tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu: (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, ,ột thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhân ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bìng thường của người kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết chơi trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
(Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là một”.
Xh 22: 20-26
Trong Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.
Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Trên bình diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
- “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
- “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en vào thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa đơn côi.
- Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
- Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
- Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
- Dân ngoại đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh người Pha-ri-sêu tranh luận với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể hãm hại Ngài.
- Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
- Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người, Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18). Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ:
Trước hết, giới luật yêu thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một.
- Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.
25. Lòng mến, luật trên mọi luật
(Suy niệm của Anmai, CssR)
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam – Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước. Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: “Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: “Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em”. (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ… và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là “ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội”… Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ… cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này.
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là “Mến Chúa và Yêu Người”. Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên “Nhất cử nhất động”, con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ “cọng tóc ra làm tư” đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là “ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi”. Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm”. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn “Mến Chúa và Yêu Người” trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối”. Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.
Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.
Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.
Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.
Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).
Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.
Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.
Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.
28. Yêu thương là chu toàn lề luật
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Chủ đề: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13, 10).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Trong Phúc Âm, Chúa Giê-su lớn tiếng tuyên bố: “Ngày sabat được lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabat. Bởi thế, Con Người làm chủ cả ngày sabat” (Mc 2, 27 – 28).
Tuyên bố của Chúa Giê-su giãi sáng chân lý “Luật vị nhân sinh”, nghĩa là, lề luật được đặt ra nhằm mưu cầu hạnh phúc cho con người và cộng đoàn.
Khi hành xử theo nguyên tắc “luật vị nhân sinh”, con người sẽ trở nên dịu dàng, nhân ái, luôn biết chạnh thương, biết cách đối nhân xử thế phù hợp cho mỗi hoàn cảnh, trên nền tảng công lý và tình thương.
Chúa Giê-su kể dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu. Ngài đã phong thánh cho người biết xót thương người bị nạn và hối thúc tất cả hãy làm như vậy, để đáng hưởng sự sống muôn đời.
Với Chúa Giê-su, nền tảng của lề luật chính là tình yêu và sự sống. Ngài ban lề luật, tất nhằm phục vụ lợi ích con người.
Vậy nên, thánh Phao-lô tóm tắt trong một câu, diễn tả tất cả ý nghĩa của luật: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10).
Thưa anh chị em,
Nguyên tắc “luật vị nhân sinh” giúp chúng ta hiểu hơn giáo huấn Lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành, Mô-sê thiết lập những nguyên tắc hướng dẫn dân khi được định cư trong phần đất Chúa hứa. Họ phải tuân thủ các nguyên tắc đó cách nghiêm ngặt để được hưởng bình an, hạnh phúc và sống lâu dài.
Luật cấm ngược đãi, bóc lột ngoại kiều, cấm cho vay, cầm cố nặng lãi, cấm thu giữa những vật dụng thiết yếu đảm bảo sinh mạng, đều nhắm tới con người là trên hết.
Lòng nhân ái của Israel phải mang đặc tính đại đồng, loại trừ phe nhóm bộ lạc, địa phương. Nếu xưa kia họ đã phải trải qua cảnh nô lệ, bị ngược đãi, bị bóc lột, thì đừng gây tai họa, bất công trên những người khác. Đây chính là cốt lõi của luật lệ vị nhân sinh, bởi nó được thiết lập trên sự công bình và tình bác ái.
Mô-sê, khi ban hành luật, đã có chủ đích luật vì con người. Ông là hình ảnh tiền trưng của Đấng ban hành lề luật cho muôn dân, Đức Giê-su Kitô.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, thu gọn mọi luật lệ bằng một giới răn độc nhất “Tình yêu”: Mến Chúa và yêu người, được xem là chu toàn cả lề luật. Luật mến Chúa, yêu người được thực thi cách chân thành giúp bước đi quân bình trên đôi chân khỏe mạnh, có nghĩa là: phải thi hành điều này và không được quên lãng điều kia. Cả hai hiện diện ở trong nhau, bổ túc cho nhau cách hài hòa, hiệu quả.
Yêu mến tha nhân trong Chúa, mới là yêu mến thật, không nhuốm mầu giả dối, ích kỷ, vì kẻ thực hành như vậy, thì đã học được nơi Chúa tình yêu đích thực, hành động vì một tình yêu luôn luôn lớn hơn.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, coi việc phục vụ trong Thánh Thần mới là phục vụ đích thực, mới là yêu thương như Chúa. Ở giữa cộng đoàn, ngài nêu gương yêu thương nhằm mưu ích cho anh chị em. Phao-lô thúc giục cộng đoàn, noi gương ngài mà biết sống yêu thương chân thành, bởi lẽ: yêu thương không làm thiệt hại người nào, và hơn thế, yêu thương là chu toàn tất cả lề luật.
Thưa anh chị em,
Áp dụng giáo huấn Lời Chúa, đức giáo hoàng Gioan Phaolô 2 thúc giục chúng ta sống lòng thương xót đại đồng. Không coi ai là xa lạ, không lợi dụng hoàn cảnh để bóc lột người khác. Người kitô hữu phải luôn trân trọng, lấy con người làm gốc, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Là kitô hữu, chúng ta không được tự nhốt mình bằng những quan niệm cực đoan, quá khích, dứt khoát nói không với văn hóa loại trừ và khăng khít với văn hóa toàn thể.
Kính thưa cộng đoàn,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại quan niệm và cách hành xử của mình. Tôi thuộc típ người “vị luật” hay “vị nhân sinh”?
Nếu câu trả lời là “vị nhân sinh”, tôi dám chắc mình đang là môn đệ của Chúa Giê-su! Tôi đang suy nghĩ và sống như Giê-su, chỉ muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ. Tôi sẽ đối xử nhân ái với mọi người: “không kết án người vô tội”, vì luôn tôn trọng quan điểm riêng của họ.
Khi dốc lòng hành động “vị nhân sinh”, chúng ta đặt con người trên tất cả và trong khi phục vụ họ, chúng ta học được lòng xót thương, nhân ái. Đây là toa thuốc đặc chủng chữa trị tính vô cảm đang là đại dịch trong tàn phá nhân loại.
Xin Chúa Giê-su, Đấng làm chủ ngày Sabat, giúp chúng ta học được tâm tư của Chúa, để trong tình yêu Ngài, chúng ta trở nên sứ giả hoàn bình: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, nhờ đó, chúng ta góp phần làm cho Danh Cha vinh hiển, cho Nước Cha trị đến. Amen.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy”.
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA TRÊN HẾT MỌI SỰ
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật” (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng “yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta” (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là “kẻ khác” Chúa phán: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? “Yêu như chính mình ngươi”.
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
“Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: “Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý.”
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người “không dại gì” và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha. Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
LÀM SAO ĐỂ YÊU THƯƠNG THA NHÂN NHƯ CHÍNH MÌNH
“Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.
Chúa Kitô đã khẳng định: Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.
Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.
Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.
Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).
Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).
Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)
Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.
Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).
Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.
Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).
Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa – yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình”.
Tác giả Lovasik trong quyển “Dụ ngôn đời thường” của Rev. Frank Mihalie – SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: “xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây”. Người ăn xin ngước mặt đáp: “ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi”.
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi – sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu…, bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận “nó mất hết tính người”. Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. “Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, “với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa – là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa – Đấng yêu thương.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức Kitô nói cho họ biết tất cả các giới răn lề luật dậy từ thời các tổ phụ cho đến các tiên tri đều tóm gọn trong hai điều. Đó là mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và điều thứ hai sanh ra từ điều thứ nhất là yêu thương tha nhân chứ chính thân mình.
Hầu như trong chúng ta ai cũng biết làm thế nào để yêu Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn nhưng khi áp dụng điều thứ hai vào trong thực tế cuộc sống chúng ta lại gặp khó khăn. Câu chuyện về người giầu có trong phúc âm thánh Marcô 10,17-31 cho thấy rõ khó khăn trên. Chàng thanh niên giầu có mến Chúa với tất cả tấm lòng, giữ tất cả các luật lớn nhỏ. Anh gặp Đức Kitô và nói thế. Đức Kitô khen anh và thêm anh còn thiếu một điều cần phải làm đó là phục vụ tha nhân. Anh buồn rầu bỏ đi và ta không rõ số phận anh ta sau này ra sao. Yêu thương tha nhân đòi hỏi chúng ta phải làm gì cho tha nhân, không thể yêu bằng nói suông nhưng phải hành động thực tế. Tình yêu Thiên Chúa mở đường dẫn ta tới yêu tha nhân. Như thế yêu thương tha nhân chính là phục vụ tha nhân trong tình yêu Chúa. Phục vụ tha nhân trong cộng đoàn đức tin có tên gọi riêng. Tên đó là thừa tác viên. Họ là những người tình nguyện làm công việc chung trong cộng đoàn. Mỗi Kitô hữu cần trở thành một thừa tác viên trong cộng đoàn. Tuỳ hoàn cảnh và thời gian cũng như tài năng Chúa ban cho mỗi người mà trách nhiệm công việc thừa tác cho xứng với tài năng Chúa ban. Công việc phục vụ nào cũng quí, cũng trọng, cũng cao đẹp bởi vì chúng ta thực thi điều răn thứ Hai đó là thương yêu tha nhân qua hành động cụ thể. Chúng ta phục vụ không vì tư lợi hay bè phái mà phục vụ tha nhân, làm cho Danh Chúa cả sáng hơn. Số giờ, số lượng phục vụ rất quí nhưng phẩm chất phục vụ còn quan trọng hơn bởi nó nói lên tâm tình, lòng quí mến, và tình yêu phục vụ. Phục vụ khi có yêu cầu tại chỗ là điều tốt nhưng đó không phải là công việc thừa tác bởi thiếu chuẩn bị, thiếu hy sinh định từ trước. Công việc thừa tác có lịch trình biết trước, được chỉ định từ trước nên thừa tác viên trước khi đến cộng đoàn đã chuẩn bị tâm tình, tinh thần phục vụ trong khi đáp ứng nhu cầu tại chỗ thiếu những chuẩn bị trên, mặc dù người đó quen công việc làm thuần thục nhưng vẫn không thể coi là nhiệm vụ của thừa tác mà chỉ do lòng bác ái giúp khi được yêu cầu.
Cảm xúc của con tim dẫn đến hành động. Nếu tình yêu Chúa đầy ắp trong tim ta không thúc đẩy ta nhận một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn đức tin thì rõ ràng là có điều chi không ổn. Việc cần phải tìm hiểu là điều chi ngăn cản ta thực thi điều răn thứ hai đó là yêu tha nhân. Rất khó có thể biện hộ cho hành động thiếu yêu thương này bởi Kitô hữu tham dự bí tích Thánh Thể mà lại cô lập mình khỏi cộng đoàn đức tin thì không thể nào nói lên đầy đủ í nghĩa của Thánh Thể. Người ta có thể là Kitô hữu tốt nhưng không thể là môn đệ của Đức Kitô bởi là tông đồ là phục vụ mà thiếu phục vụ chính là Kitô hữu hữu danh, chưa chính thức là môn đệ Đức Kitô.
36. Giới răn mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến “lòng” theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. “Yêu mến Chúa hết lòng” nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến “hết linh hồn”, nghĩa là với tất cả sự sống; “hết trí khôn” bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: “yêu mến người thân cận như chính mình”. Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v… Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình… Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
37. Ba chiều kích trong tình yêu
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:
Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”. Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh”. Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi”. Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.
Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một. Đức Giêsu đã nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 37-40)
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu chỉ trong một chiều kích thôi. Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân. Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu. Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải biết yêu thương chính mình.
Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả 3 chiều kích của tình yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?
Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy, người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó. Tuần vừa qua, khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không, thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa”. Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da. Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà con người vốn thờ ơ, không coi trọng. Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.
Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do chính những người lãnh đạo tôn giáo. Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao của Thiên Chúa. Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu. Họ rất ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân? Sao-lê sau này trở thành Thánh Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này. Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2).
Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang tồn tại nơi bản thân chúng ta. Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự dấn thân trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha nhân, cho sự công bằng và hòa bình.
Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu đích thực dành cho tha nhân là 2 mặt của một đồng tiền. Mọi cố gắng nhằm tách rời 2 điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
“Mến Chúa, yêu người” là nét độc đáo nhất của Kitô giáo. Hai giới luật tạo thành một toàn thể bất khả phân ly và là hai nguyên lý nền tảng của tất cả đạo đức học. Tin Mừng của Chúa Giêsu muốn loan truyền đến mọi người là tình yêu thương. Khi công bố giới luật yêu thương, Chúa Giêsu cũng nêu gương thực hiện giới luật ấy để chúng ta thấy sáng lên tình yêu cứu độ và gặp được những điểm nhấn mà bắt chước thực hành.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc trao đổi giữa những người Pharisêu và Chúa Giêsu về hai điều răn trong Cựu Ước như sau: Khi một người thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào trọng nhất?”, Chúa Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu mến người thân cận của ngươi như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”.
Chúa Giêsu kết hợp hai điều răn trong Cựu Ước: (1) Điều răn yêu mến Thiên Chúa được lấy trong sách Đệ Nhị Luật 6,5: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi với tất cả lòng dạ của ngươi, với tất cả linh hồn của ngươi và với tất cả sức lực của ngươi”. (2) Điều răn yêu thương người thân cận được lấy trong sách Lêvi 19,18b. Đức Chúa phán: “Ngươi yêu thương người thân cận của ngươi như chính ngươi” (Lv 19,18). Hai giới răn này được biết đến rất nhiều; tuy nhiên, qua câu trả lời của Chúa Giêsu, ta thấy có một sự mới mẻ ở đây, đó là Chúa Giêsu đã nối kết giới răn mến Chúa trong kinh shema ở sách Đệ nhị luật với giới răn yêu thương người thân cận trong sách Lêvi.Cái độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giêsu chính là sự liên kết chặt chẽ hai giới luật này với nhau. Khi nói đến “giới răn thứ nhất và lớn nhất”, Người muốn nói rằng giới răn này là quan trọng nhất và tạo ý nghĩa cho tất cả các giới răn khác. Còn về giới thứ hai, nó “giống” với giới răn thứ nhất, nghĩa là cũng quan trọng như giới răn thứ nhất. Chúa Giêsu khẳng định “Tất cả luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy”. Lời khẳng định này có nghĩa là: “Tất cả các giới luật khác có thể được suy ra từ hai giới răn yêu thương, hay ngược lại, có thể quy về hai giới răn này; nói khác đi, ai thi hành các giới răn này thì ‘làm trọn’ Kinh Thánh và vì thế làm trọn ý Thiên Chúa”. Chỉ có những người yêu mến tha nhân mới thể hiện thật sự là người yêu mến Thiên Chúa. Việc đặt để giới răn yêu thương người thân cận ở mức ngang tầm với giới răn yêu mến Thiên Chúa quả là một điều vượt ngoài sức tưởng tượng của những người Do Thái lúc bấy giờ.
Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 22,36-40 // Mc 12,28-34 // Lc 10,25-28) nhắc lại hai điều răn “Mến Chúa yêu người” trong Cựu Ước, đây là hai điều răn quan trọng nhất. Tân Ước cũng áp dụng hai điều răn này cho các môn đệ: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận. Nhưng câu hỏi đặt ra là người thân cận là ai? Trong Cựu Ước, “người thân cận” chỉ giới hạn trong dân Israel. “Người thân cận” là đồng bào Israel, những người thuộc dân Chúa. Người ngoại bang không phải là người thân cận của dân Israel. Vậy Tân Ước áp dụng điều răn “yêu thương người thân cận” như thế nào?
Tin Mừng Luca thuật lại câu chuyện liên quan đến điều răn yêu thương ở Lc 10,25-28. Nhưng vấn đề hóc búa đặt ra: “Ai là người thân cận của tôi?” Đây là câu hỏi rất hay mà các môn đệ Chúa Giêsu cần biết. Sau khi người thông luật nhắc lại điều răn “yêu thương người thân cận như chính mình”, ông đã hỏi Chúa Giêsu: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi khó trả lời đối với Kitô hữu, vì khi chỉ ra ai là người thân cận, cũng có nghĩa là có người không phải là người thân cận của tôi. Khi truyền thống Cựu Ước định nghĩa người thân cận là dân Israel thì đương nhiên tất cả những người không thuộc về dân Israel bị loại trừ. Dân ngoại không phải là người thân cận của dân Israel. Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng cách kể dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10,30-35). Sau đó Chúa Giêsu hỏi người thông luật: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10,36) Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (10,37a). Chúa Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như thế” (Lc 10,37b). Lời của Chúa Giêsu đảo ngược câu hỏi của người thông luật lúc đầu. Thay vì Chúa Giêsu trả lời câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?” thì Người nói: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của người khác như người Samari nhân hậu đã làm. Chi tiết người Samari không thuộc dân Do Thái, cho thấy Chúa Giêsu đã mở rộng khái niệm “người thân cận” để áp dụng cho các môn đệ của Người. Từ nay người thân cận không chỉ giới hạn trong dân Israel là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, mà bất kỳ ai cũng có thể là người thân cận của tôi. Thay vì đặt câu hỏi “ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu mời gọi đặt câu hỏi: “Tôi là người thân cận của ai?”, nghĩa là tôi đã làm gì để trở thành người thân cận của người khác?
Như thế, trong Tân Ước, người thân cận là tất cả mọi người, không phân biệt màu da, chủng tộc. Tân Ước đã áp dụng hai điều răn trong Cựu Ước và mở rộng nghĩa của từ “người thân cận” đến tất cả mọi người. Để tránh rơi vào tình trạng phân biệt ai là người thân cận, ai là kẻ đối nghịch, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: Hãy làm cho mình trở thành người thân cận của mọi người, nhất là hãy là người thân cận của những người đang gặp hoạn nạn, như nạn nhân trong dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10,30-35).
Truyền thống Kitô giáo đã mở rộng nghĩa của từ “người thân cận”, khi nói “yêu thương người thân cận” là nói đến tình yêu giữa các môn đệ Đức Giêsu với nhau và tình yêu giữa các môn đệ với tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc. “Người thân cận” theo nghĩa rộng là tất cả mọi người. Như thế, “yêu thương người thân cận” trong Ki-tô Giáo có chiều kích phổ quát, không loại trừ ai (x. Mt 5,34; 19,19; 22,39; Mc 12,31; 12,33; Lc 10,27; Rm 13,9; Gl 5,14; Jc 2,8)…
“Yêu mến Thiên Chúa”, “yêu mến tha nhân” và “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”: tất cả đây là lý tưởng sống đạo của người tín hữu.
Có thể nói đến ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh.
- Yêu mến Đức Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Cựu Ước (Đnl 6,5; Lv 19,18).
- Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình trong Tân Ước. Trong đó, khái niệm “người thân cận” được mở rộng đến tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai.
- “Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” (điều răn mới) là điều răn của Đức Giêsu và chỉ dành cho các môn đệ. Đây không phải là tình yêu khép kín, mà là yêu thương để mọi người nhận ra môn đệ Đức Giêsu (x. Ga 13,35). (x.Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh, Giuse Lê Minh Thông, OP).
Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới chan hòa yêu thương, chan chứa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
“Mến Chúa, yêu người” là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng này; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn này thì được xem là đã giữ trọn tất cả các điều răn khác như lời Thánh Phaolô: “Thật thế, các điều răn như: ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10).
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân làm nên một giới luật duy nhất là tình yêu. ĐGH Bênêđictô XVI mời gọi chúng ta hãy noi gương mẹ Têrêxa Calcutta, luôn canh tân khả năng yêu thương tha nhân của mình từ việc gặp gỡ Chúa Giêsu Thánh Thể.(x.Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 18).Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu dạy: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.
Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy“.
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con đọc kinh Tin Cậy Mến, và thân thưa với Chúa rằng“chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong cuộc sống chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa giúp chúng con cố gắng thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả. Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
– Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
– Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
– Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
– Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
– Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa. Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ. Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa. Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là … giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực… loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ.”
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịện diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc chất vấn Chúa về sự sống lại, đều bị thất bại; hôm nay nhóm Pharisiêu, là những kẻ tự hào là những thầy thông luật, lại dùng luật để đặt vấn đề với Chúa và hy vọng sẽ thắng được Ngài; nhưng rồi chúng ta thấy khi đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, là tất cả đều phải câm miệng trước sự khôn ngoan và tài đối đáp của Ngài; khiến bọn họ phải kinh sợ hơn nữa khi thấy Ngài thấu suốt tâm tư và vạch trần những âm mưu của họ.
- GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT
Như chúng ta được biết, trong thời Chúa Kitô sống tại Palestine, bộ luật của Maisen mà người Do Thái phải tuân giữ gồm có 613 khoản: 365 khoản cấm không được làm và 248 khoản buộc phải làm.
Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ sai một luật sĩ thượng thặng trong bọn, đến hỏi thử Chúa: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Chúa trả lời: “Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Rồi Chúa lại nói tiếp: “Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Sau cùng, Chúa đã quả quyết: “Toàn thể lề luật và các lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn đó”. Cũng như chúng ta đọc trong kinh 10 Điều Răn: “Mười điều răn ấy tóm về 2 điều này mà chớ, trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Tại sao Chúa lại nhấn mạnh đến giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, là vì Chúa thừa biết họ là những người tự hào, huyênh hoang công phúc việc lành họ đã làm, để chứng minh họ là những kẻ phụng sự yêu mến Thiên Chúa; nhưng họ lại sống ngược với tinh thần của Chúa, như chúng ta vừa nghe lời Chúa truyền trong sách Xuất Hành: “Không được ức hiếp khách ngoại kiều, khinh dể và làm hại cô nhi quả phụ; đặt lời ăn lãi quá mức với kẻ túng nghèo thiếu thốn!”
- BÁC ÁI LÀ THƯỚC ĐO LÒNG MẾN CHÚA
Thấu hiểu giáo huấn của Chúa, các nhà tu đức đã quả quyết rất đúng rằng: “Bác ái huynh đệ là thước đo lòng kính mến Chúa”. Thánh Gioan đã chẳng quả quyết: “Những ai cho mình là kẻ kính mến Thiên Chúa, mà lại thù ghét anh chị em mình, đó chỉ là những kẻ nói dối”. Vì ngài lý luận: “Không yêu thương anh chị em mình là những kẻ mình xem thấy, mà lại nói là kính mến Thiên Chúa, Đấng mình không xem thấy sao được?”
Chính Chúa Kitô cũng đã xác nhận giáo thuyết này khi Ngài quả quyết: “Bao lâu các con làm những việc thiện này cho một trong những người anh chị em hèn mọn này là các con làm cho chính Ta”. Chúa lại hứa trọng thưởng trong ngày chung thẳm, cho những ai thương giúp tha nhân, cũng như họ đã thương giúp chính Chúa.
Trong cuốn John Brown’s Body, tác giả Stephen Benet thuật truyện một Đại Úy của chiếc tầu chuyên chợ nô lệ. Stephen viết: “Đại Úy có vẻ sốt sắng và đạo đức. Ông đọc kinh mỗi ngày, nhưng ông lại không quan tâm gì về việc bán người nô lệ là một việc bất công”. Nếu có dịp giao tiếp tại nhiều cộng đoàn hay Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người có vẻ rất sốt sắng, đạo đức còn hơn cả ông Đại Úy thuyền trưởng chuyên buôn bán người nô lệ chúng ta vừa nghe: Họ đọc kinh như pháo rang, không bỏ Thánh Lễ nào, có ngày Chúa Nhật dự cả 2, 3 lễ, các giờ chầu, các cuộc cung nghinh hay bất cứ một việc đạo đức nào không bao giờ thấy họ vắng mặt. Thế nhưng, ai lỡ làm điều gì phật lòng họ thì họ không thể tha thứ được, họ hờn giận từ năm này sang năm kia; ngay cả con cái trong nhà, họ cũng nguyền rủa, chửi bới và từ rẫy. Hễ thấy một chướng tái gai mắt nào, chẳng hạn thấy một cô, một cậu nào có vẻ cao bồi, áo quần “new way”, tóc tai bù xù, là họ đã kết tội là: “Đồ mất dạy, đồ quỉ sứ, thế mà chúng nó còn dám lên rước Chúa à!”
III. MỘT TẤM GƯƠNG BÁC ÁI CAO CẢ
Maria Goretti sinh năm 1890 và chết vì bảo vệ đức trinh khiết năm lên 12 tuổi. Goretti là con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em. Vì bố chết sớm, mẹ phải đi làm thuê để nuôi các con, Goretti mặc dầu mới lên 9 tuổi, đã phải săn sóc các em và dọn dẹp nhà cửa thay mẹ. Khi lên 11 tuổi, Goretti được chịu lễ lần đầu. Liền sau đó, Goretti phải trải qua một cơn thử thách vô cùng nặng nề về đức trinh khiết. Alexandro, một thanh niên hàng xóm, say mê sắc đẹp của Goretti và ép Goretti phạm tội. Vì Goretti yêu mến Chúa hết lòng, nên đã chống lại Alexandro và nói với y: “Không được làm thế, vì đó là tội trọng mất lòng Chúa”. Alexandro nổi giận và đâm Goretti nhiều nhát dao khiến Goretti phải quần quoại trong vững máu. Goretti được cấp tốc đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sau 24 giờ, Goretti đã từ trần trong hương thơm thánh thiện. Khi Goretti gần chết, Linh Mục đưa Mình Thánh Chúa đến cho em lãnh nhận như của Ăn Đàng. Ngài hỏi em cũng cùng một lời mẹ em đã hỏi trước: “Goretti, con có tha cho Alexandro, kẻ thù của con như Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của Chúa trên Thánh Giá không?” Goretti thưa: “Thưa Cha, con đã tha cho Alexandro và con hứa sẽ cầu nguyện cho Alexandro được ơn ăn năn thống hối”. Alexandro bị vào tù. Rồi sai khi tỏ dấu hối cải, anh đã được tha. Anh còn được một ơn cao cả hơn nữa, là anh đã xin vào giúp việc trong tu viện Dòng các Cha Capuscim cho đến chết. Đó là ơn mà Goretti, vị Thánh đã được Đức Thánh Cha Pio XII tôn phong lên Bậc Hiển Thánh của Giáo Hội năm 1950 cầu bầu cho.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta không coi ai là kẻ thù, trái lại còn biết nhận thấy Chúa ở nơi tha nhân. Nếu tha nhân làm mích lòng chúng ta, chúng ta nhận ra đó là những phương tiện Chúa dùng để có dịp cho chúng ta lập công. Không những thế, chúng ta còn cầu nguyện, giúp đỡ, đoán ý lành, tha thứ và làm ơn cho những kẻ làm phiền lòng chúng ta theo gương Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đã từng thương yêu và tha thứ cho những kẻ thù ghét làm khốn mình nữa.
Hơn nữa, chúng ta còn có nhiệm vụ rao giảng Đức Bác Ái thương yêu của Chúa cho kẻ khác, để chinh phục họ về cho Chúa bằng chính đời sống Bác Ái yêu thương của chúng ta, đúng như lời Chúa đã truyền dạy: “Các con hãy làm việc thiện để người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời” (Mt 5:16).
(Suy niệm của Lm. VIKINI – Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: ” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi… và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”.
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan… nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình ” thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt… thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: ” Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Đó là lý do, Giáo Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước về vấn đề kẻ chết sống lại để trả lời cho nhóm Sađucê, một vấn đề không trực tiếp liên quan đến ý nghĩa sâu xa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và Chúa Nhật tuần này. Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước Chúa Giêsu đã lợi dụng vấn đề “trả thuế cho Cêsa có hợp lý hay chăng?”, do nhóm đồ đề của phái Pharisiêu đặt ra để gài bẫy lời nói của Người, để kêu gọi chung tất cả mọi người và riêng thành phần chất vấn Người rằng: “Hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Qua câu trả lời làm cho mọi người ngỡ ngàng này, Chúa Giêsu chẳng những đã kêu gọi riêng thành phần chất vấn Người và chung dân tộc Do Thái của họ là hãy vì Chúa mà nộp thuế cho Cêsa, tức hãy hàng phục Cêsa là nhân vật Thiên Chúa duy nhất của họ đã muốn dùng để kéo họ về với Ngài, vì thực tế họ đã không “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, những gì Thiên Chúa muốn chứ không phải những gì họ nghĩ ra, những gì theo ý riêng của họ. Trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước tôi đã chia sẻ vấn đề dân Do Thái này như sau:
“Thật vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý, sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người con chỉ làm theo ý mình, ‘vâng con đi’, mà thực tế không làm theo ý cha, tức họ đã không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã thực sự không ‘trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa’; hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã không chịu ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’”.
Vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã vạch rõ lý do tại sao họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, và đã xác định rõ cho chung con người, nhất là cho riêng dân Do Thái, biết những gì họ cần phải “trả về cho Thiên Chúa”, và họ phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” bằng cách nào. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho nhóm Pharisiêu thông luật, đó là vấn đề kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình và yêu thương nhau như bản thân mình, một vấn đề cốt lõi của tất cả lề luật và các lời tiên tri, như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm. Vậy nếu thành phần Pharisiêu nói riêng và dân Do Thái nói chung lại hết sức để ý đến lề luật và cặn kẽ tuân giữ từng điều luật của Thiên Chúa thì họ phải là những người đã kính mến Thiên Chúa hết bản thân của họ cũng như đã yêu thương tha nhân như bản thân của họ? Thế mà, theo Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt lòng trí con người, họ chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ hoàn toàn xa cách Ngài (xem Mathêu 15:8), đúng như người con thưa với cha “vâng con đi” rồi lại không đi trong dụ ngôn cha kêu gọi hai con trai đi làm vườn nho cho ông. Điều Thiên Chúa muốn họ trả về cho Ngài đây không phải là môi miệng của họ, mà là tấm lòng của họ, không phải là việc làm bề ngoài của họ mà là lòng họ tin tưởng nhận biết Ngài, ở chỗ kính mến Ngài “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, Thánh Phaolô đã nói đến việc “bỏ những ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Thiên Chúa hằng sống chân thật…”
Và chính vì họ không thực lòng kính mến “Chúa là Thiên Chúa” của họ như thế mà họ chẳng những đã không thể “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, mà còn không thể “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” nữa. Tức là họ như tông đồ Phêrô nhìn tất cả mọi sự theo tự nhiên, theo phán đoán trần gian chứ không theo Thần Linh (xem Mathêu 16:23), và họ như tông đồ Gioan phản ứng hoàn toàn theo tự nhiên, những gì không hợp với họ (như đế quốc Rôma chẳng hạn) đều là kẻ thù của họ, cần phải loại trừ (xem Marco 9:38). Chẳng những thế, vì chỉ tìm mình hơn tìm Chúa, không “trả về cho Thiên Chúa” đúng như những gì của Thiên Chúa và như Thiên Chúa muốn, nên họ cũng đã không “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức cho tha nhân những gì của tha nhân, trái lại, họ đã khinh thường, hà hiếp, bóc lột chính anh em mình, như trường hợp người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện bộc phát đối với người thu thuế ở cuối đền thờ bấy giờ (xem Luca 18:11), những hành động được Sách Xuất Hành trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này liệt kê cấm không được làm. Có thể nói, nếu con người biết “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” là họ đồng thời cũng “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, một khi họ yêu thương tha nhân như bản thân mình là chứng tỏ họ đã “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, đã tỏ ra “yêu Chúa là Thiên Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” của họ.
Như thế, con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là chính tấm lòng của mình, và trả về cho Ngài bằng cách “yêu thương tha nhân như bản thân mình”. Thế nhưng, chỉ khi nào con người biết “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” con người mới có thể vừa “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” vừa “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” mà thôi. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”? Hay tại sao con người phải “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồm và hết trí khôn”? Nếu không phải tại vì “Chúa là Thiên Chúa”!
Đúng thế, theo tiến trình Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái thì vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), đã tự ý tỏ mình ra trong lịch sử loài người, cách riêng cho một dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái. Bằng cách đã tự động lập giao ước với tổ phụ của họ là Abraham và đã giữ trọn những gì Ngài đã hứa với con cháu của ông (xem Luca 1:55), một giao ước và lời hứa đã được nên trọn nơi Đức Kitô Thiên Sai Con Ngài (xem Heb 1:2), Người Con Ngài đã làm đám cưới cho, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hai tuần trước. Phải, Người Con này “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã nên một với loài người, đã cưới lấy nhân tính loài người, như vợ chồng nên một thân thể với nhau, nhờ đó hết mọi người không trừ ai, kể cả Do Thái lẫn Dân Ngoại, đã được mời đến tham dự bữa Tiệc Cưới Thần Linh ấy, một Tiệc Cưới mà thực phẩm Tân Ước tuyệt hảo được thiết đãi nhưng không là chính Mình Máu của Con Thiên Chúa, làm cho khách dự tiệc “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Chính vì Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta trước một cách nhưng không và vô cùng như vậy mà chúng ta phải kính mến Ngài (xem 1Jn 4:19), bằng chính tình Ngài yêu thương chúng ta. Vì “Chúa là Thiên Chúa” đã yêu thương chúng ta vô cùng bằng chính con tim nhân loại của Con Ngài, thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lại cho vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16) toàn thiện toàn ái này một cách cân xứng bằng con tim nhân loại của Đấng đã dạy chung Giáo Hội Nhiệm Thể của Người cũng như riêng thành phần môn đệ của Người rằng “Các con hãy yêu nhau như Thày đã yêu các con” (Jn 13:34;15:12).
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em,
làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
- Tại sao ta phải yêu tha nhân?
- Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
- Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
46. Tại sao Thiên Chúa làm người
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vào thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh khóa miệng, đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ, chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất tận trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề luật làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế, một số người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù hợp với lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào xem mình là công chính và một số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết đến sự tự do tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường hướng nguyên thủy của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay khiến họ quên điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải liên kết người ta lại với nhau bằng một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được không?
Có thể yêu mến Đấng xưng mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến Ngài? Thế nhưng tôn giáo Israel và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần thánh. Trong trường hợp Israel, chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr 31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên Chúa Israel. Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích cực hoạt động trong lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu.
Hơn thế nữa, Con Thiên Chúa khi làm người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ “yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong khi yêu. Vậy mà Israel có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các thánh. Tên cực trọng Giêsu.
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy như bị bao vây bởi “Bức tường luật” kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì càng được coi là công chính.
Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ “đã chất lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng ngón tay vào lay thử”.
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình.
Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông đồ nói: “ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối”; “ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra”.
Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”. Giữ lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa”. Thi hành lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.
Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con người.
“Yêu anh em như yêu chính mình”. Không ai lại ghét mình bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ! Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!
Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt, nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ: “Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời”. Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: “Tôi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba”. Quả thật, yêu người là yêu Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
KHI HAI MẶT CỦA ĐỒNG TIỀN BẰNG NHAU
Nếu một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai là người đá banh hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những người đương thời với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao trọng nhất? Điều đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất nhiều những không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu mến người láng giềng của các người như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
– Câu trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
– Câu trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của Người là nối kết hai điều luật, trong hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người là không thể có tình yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu người láng giềng, tình yêu tha nhân, và không có tình yêu tha nhân nếu không có tình yêu Thiên Chúa.
Hầu hết mọi người có ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết chúng ta biết rằng Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói về sự liên hệ của chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả những người mà chúng ta yêu mến cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một chút bình an và thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta đang dò các kênh của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của chính trị có thể khiến chúng ta chống lại những người mẹ không kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có thể ảnh hưởng chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường, những người không có việc làm và những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới một sự coi thường nền tảng sự sống con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng đại được thực hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị cướp mất những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện này là một phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn lề luật yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an, và điều này thật sự là một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và bình an với những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt của Thánh Kinh, nhưng chúng không được tách riêng trong trái tim của chúng ta, trong hành động của chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Điều răn nào trọng hơn? Có lẽ chúng ta không đặt câu hỏi như thế bao giờ. Nhưng đối với người Do Thái thì không như vậy, vì trong Luật cũ, có rất nhiều điều cấm cũng như rất nhiều điều răn.
Theo các nhà chuyên môn thì trong Luật cũ có đến 365 điều cấm tương đương với số ngày trong một năm. Vậy điều nào trọng hơn? Các nhà thông luật muốn đo tầm mức của Chúa Giêsu bằng một câu hỏi khá gay go, hơn nữa cũng là dịp để họ bắt bẻ Ngài. Ngài biết nhưng Ngài vẫn trả lời và câu trả lời của Ngài chính xác đến nỗi họ không biết nói gì hơn là chấp nhận. Ngài nhắc lại Kinh Thánh và kèm theo một giới răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Ngài ghép hai điều luật lại với nhau như hai khía cạnh của một tình yêu. Câu trả lời của Ngài cũng là một nhắc nhớ cho chúng ta.
Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức…
Chúng ta làm sao yêu mến Chúa?
Chúa ban cho chúng ta một quả tim để yêu thương. Chúng ta yêu người thân, yêu anh em… thì việc đó không có gì lạ lùng, nhưng yêu mến Chúa, Đấng chúng ta không bao giờ thấy thì làm sao yêu được? Yêu mến Chúa không phải là do khả năng của chúng ta mà là do một hồng ân. Chúng ta là con người xác thịt, Thiên Chúa là Tình Yêu, nhưng là Đấng thiêng liêng, yêu Chúa bằng con tim nhỏ bé của chúng ta là một điều không thể. Nhưng tại sao Chúa lại bảo chúng ta yêu mến Chúa? Và yêu đến hết lòng hết sức? Chúng ta không tự mình yêu mến Chúa nếu Chúa không nâng đỡ chúng ta. Ngài có cách tỏ tình. Ngài tỏ tình bằng cách sai Con Một đến với chúng ta, tỏ tình với chúng ta. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa qua Chúa Kitô mà thôi, Chúa Giêsu tỏ tình bằng nhiều cách, bằng cuộc sống trần gian của Ngài, bằng cái chết đau đớn của Ngài vì chúng ta. Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chỉ có một con đường duy nhất đó để đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Chúa Giêsu đến trần gian là để dạy chúng ta yêu mến Cha trên trời. Nhìn Ngài yêu mến Chúa Cha, chúng ta mới thấy được phải yêu Chúa Cha như thế nào. Chính Chúa Con mới yêu mến Chúa Cha đúng nghĩa là yêu mến hết lòng hết sức… Yêu mến Chúa Cha, Ngài chỉ nói đến một điều: “Ta làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Đến nỗi ý Cha là của ăn của Ngài: “Của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người”. Việc thi hành ý Cha không phải đơn thường mà đưa Ngài đến cái chết, đưa đến đau đớn tột cùng đến nỗi Ngài phải cầu khẩn trong mồ hôi máu: “Nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con, mà theo ý Cha”.
Đó là tình yêu nguyên vẹn, trong suốt, thuần túy. Chúng ta yêu mến Chúa Cha khi chúng ta đi theo Chúa Giêsu và yêu mến Chúa Giêsu, vì “Chúa Cha với Ngài là một”. Nhưng yêu Chúa Giêsu thế nào? Cũng bằng con đường thực tế đó là “giữ lời của Ngài”. Như Ngài đã làm theo ý Chúa Cha thế nào, chúng ta cũng phải làm theo ý Ngài như vậy. Ngài là hiện thân của Chúa Cha, là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, vì thế, yêu mến Ngài chính là yêu mến Chúa Cha.
Yêu mến là làm theo ý của người mình yêu. Đó là định luật của mọi tình yêu. Con cái yêu cha mẹ là vâng lời cha mẹ trọn vẹn. Vợ chồng yêu nhau là làm theo ý người mình yêu. Hành động chứng minh cho tình yêu. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nói yêu nhau. Nhiều lúc tiếng nói không đi theo hành động. Những tiếng nói yêu nhau dối trá vẫn thường xảy ra. Nhưng hành động là bằng chứng cụ thể của tình yêu. Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu Ngài bằng những hành động cụ thể, bằng vâng phục. Nhiều người cho rằng yêu như thế thì khô khan, không hấp dẫn. Cần phải có con tim, phải có tình cảm. Vâng, đúng thế. Chúng ta không chỉ yêu mến Chúa bằng hành động mà thôi, mà bằng cả con tim nhỏ bé của chúng ta. Làm sao có thể yêu mến Chúa bằng con tim khi Chúa vẫn vô hình? Đây mới là hồng ân. Khi chúng ta làm theo ý Chúa, Chúa sẽ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài bằng những tâm tình nhẹ nhàng và êm đềm, bằng sự bình an mà thế gian không thể ban cho chúng ta. Sở dĩ chúng ta không cảm nghiệm được sự bình an của Chúa vì chúng ta chưa đạt đến sự vâng phục trọn vẹn. Sự vâng phục của chúng ta vẫn còn pha lẫn những ý muốn riêng, vụ lợi hay chưa khiêm tốn đủ. Tại sao các thánh như Phanxicô Assisi, Têrêxa Hài Đồng Giêsu… yêu mến Chúa đến mức độ say mê? Chỉ vì sự vâng phục của họ hoàn toàn trong sáng.
Tình yêu là cho không và cho hết. Tình yêu chân thật là vô điều kiện, là cho đi mà không đòi hỏi lại. Chúng ta có thực sự cho Chúa hết chưa? Hay chúng ta còn vương vấn những ham muốn trần gian, còn tự ái? Muốn yêu mến Chúa phải qua một cuộc thanh tẩy toàn diện, buông bỏ tất cả bản thân. Chỉ còn một mình Chúa mà thôi. Chúa Giêsu đã từng nói: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá…” Chỉ khi nào chúng ta biết bỏ mình thực sự mới có thể yêu mến Chúa, mới thuộc trọn về Chúa. Dù chúng ta ở trong hoàn cảnh nào, có gia đình hay ở trong tu viện, điều kiện tiên quyết vẫn là bỏ mình.
Yêu là trở nên một với người mình yêu. Đây là định luật của tình yêu mà ai cũng biết, nhưng không mấy người đã thực hiện được. Có lẽ về phần xác thì có thể tương đối thành công, nhưng tâm hồn thì rất khó. Vì thế, nhiều gia đình tan vỡ vì không thể nên một với nhau, vì ích kỷ, vì chỉ tìm mình mà không biết nghĩ đến người mình yêu. Chúa Giêsu yêu chúng ta đến nỗi quên mình, dám chết cho người mình yêu. Ngài đã yêu đến tận cùng. Ngài cũng cho chúng ta những gì cần thiết để nên một với Ngài.
Ngài cho chúng ta lời Ngài. Lắng nghe lời Ngài là nên một với Ngài bằng tâm trí. Ngài cho chúng ta Mình Thánh Ngài để nên một với Ngài bằng thân xác, và nhờ đó chúng ta sống với Ngài, trong Ngài trong mọi thực tại của đời sống, như thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không còn là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Tình yêu như thế mới trọn vẹn. Các thánh đã đạt đến tình yêu trọn vẹn đó.
Nhưng chỉ yêu mến Chúa mà thôi vẫn chưa đủ. Chúa Giêsu liên kết hai giới luật với nhau đến nỗi không thể tách rời là yêu mến tha nhân như chính mình. Thánh Gioan cũng lặp lại giới răn ấy: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là người nói dối”. Nơi khác ngài cũng nói: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”. Như thế, tình thương đối với Chúa phải gắn liền với tình yêu tha nhân, làm như chúng ta là thành phần của Chúa, và đúng thế, chúng ta là con Chúa. Yêu thương anh em cũng là một cách yêu mến Chúa, và tình yêu đối với Thiên Chúa nuôi dưỡng tình yêu đối với tha nhân. Trong Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Bênêđitô XVI đã nói rõ: “Tình yêu trở thành phục vụ”. “Tình yêu tha nhân bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa trước tiên là trách nhiệm của từng người Kitô hữu”.
Chính Chúa Giêsu đã thúc hối chúng ta yêu thương mọi người, bằng chính cuộc sống của Ngài, Ngài chỉ sống cho mọi người và đã chết cho mọi người. Chúng ta chỉ có một mẫu gương duy nhất, đó là Chúa Giêsu. Chúng ta noi gương Ngài để yêu mến Chúa Cha, chúng ta cũng noi gương Ngài để yêu thương tha nhân. Các thánh đã sống yêu thương như Ngài. Chúng ta nghĩ đến Mẹ Têrêxa Calcutta, thánh Đamiên sống chết cho người cùi, thánh Vinh Sơn Phaolô và biết bao nhiêu đấng thánh đã hiến dâng cuộc sống mình cho tha nhân.
Chúng ta đã yêu thương như thế nào? Dấu hiệu đặc biệt của Kitô hữu là bác ái. Chúng ta có mang huy hiệu ấy trên khuôn mặt chúng ta không? Chúng ta mang đồng phục này, người ta mới có thể nhận ra chúng ta là con Thiên Chúa. Chúng ta cũng mang đồng phục này để vào thiên đàng.
Thế giới hôm nay là một thế giới tàn nhẫn, vô nhân đạo. Chiến tranh khắp nơi đưa nhân loại vào chỗ chết và các nước thi nhau vũ trang. Người ta đang thở không khí của chiến tranh, của tham tàn bóc lột, của hưởng thụ vô tâm. Người Công giáo đã làm được gì trong cái xã hội khốn khổ này? Mỗi người chúng ta phải cảm thấy liên đới với mọi người anh em khốn khổ của chúng ta. Chúng ta đừng để cho tâm hồn chúng ta trở nên vô cảm mà luôn trở nên người Samari nhân hậu đối với mọi người chúng ta gặp trên con đường của chúng ta. “Chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu”, thánh Gioan Thánh giá đã nói như thế.
Đứng trước nhu cầu quá lớn, chúng ta không thể làm gì quan trọng, nhưng điều cần thiết là chúng ta có cảm thấy mình phải làm cái gì đó trong hoàn cảnh riêng của chúng ta không? Nhiều người chán nản vì tưởng rằng mình chẳng làm được gì, nhưng “tình yêu Chúa thúc bách chúng ta”, phải làm một cái gì dù rất nhỏ, miễn là làm vì tình yêu, thì chúng ta đã đóng góp một phần nào đó vào kho tàng yêu thương của mọi người thiện chí. Chúng ta không làm một mình, mà cùng với mọi người. Đó là nghĩa vụ cao cả nhất của chúng ta. Đừng mõi mệt làm việc thiện, đừng mõi mệt yêu thương.
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là mẫu gương yêu thương tuyệt hảo. Ngài cho đi, cho hết mà không đòi hỏi lại. Ăn lấy Chúa là bước vào tình yêu của Ngài, vì chính Ngài hoạt động trong chúng ta, cùng với chúng ta. Ngài mong ước chúng ta yêu thương như Ngài đã yêu thương.
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: “Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!” Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như “thực vật” không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O’Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80). Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa quan trọng chính là luật yêu thương. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
- Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan trọng hơn hết? Luật cũ của người Do thái có rất nhiều điều: Bộ luật có tất cả 613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.
- Chúa trả lời: Phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn… Đó là điều răn thứ nhất… Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy yêu tha nhân như chính mình… Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật 6,5 và sách Lêvi 19,18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.
b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?
- Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma như sau: “Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13, 8-10).
- Giới luật yêu thuơng: Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu xác định luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.
Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người được Thiên Chúa dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như Thiên Chúa. Bản chất Thiên Chúa chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu thương Thiên Chúa và yêu thương nhau….
Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi, đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư, biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.
Bà Keye O’Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả của Tình Yêu…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng ta có tin không?
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bất ngờ và không bất ngờ là những gì chúng ta sẽ chứng kiến trong phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay; các bài đọc, Thánh Vịnh đáp ca và bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta những bất ngờ và không bất ngờ đầy thú vị.
Bất ngờ đầu tiên là nhân vật đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu. Đó không phải là một tân tòng xin học đạo, cũng không phải là một người trẻ vốn thường có nhiều vấn nạn; nhưng đến với Chúa Giêsu là một học giả luật. Ông đặt một câu hỏi khá bất ngờ, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”; dẫu biết mình bị gài bẫy, Chúa Giêsu vẫn điềm tĩnh trả lời một cách bất ngờ bằng một câu trích chẳng bất ngờ chút nào, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, Chúa Trời ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”; nhưng quá bất ngờ, Ngài chua thêm, “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Sẽ không bất ngờ khi chúng ta nghe, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” vì Thiên Chúa đáng được như thế; nhưng sẽ rất bất ngờ khi hiểu rằng, câu nói đó muốn nói, phải yêu mến Thiên Chúa với hết trí, hết tri, hết tâm, hết lực; nghĩa là yêu mến với toàn bộ xác hồn; Thiên Chúa phải là trước hết, trên hết, không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa.
Thiên Chúa đó là ai mà chúng ta phải yêu tuyệt đối đến thế? Câu hỏi này khá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Đó là một Thiên Chúa toàn năng vô cùng, quyền phép vô song, cao cả vô lường… tuy điều này chẳng có gì bất ngờ; nhưng sẽ rất bất ngờ khi Thiên Chúa đó còn là một Thiên Chúa xót thương, hạ mình sâu thẳm đến nỗi Người chăm chút đến từng bà goá, từng khách ngoại kiều, từng người nghèo như bài đọc Xuất Hành diễn tả. Chúng ta sẽ ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe những lời từ miệng Người phán ra, “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều”; “Đừng làm hại cô nhi quả phụ”; “Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi”; ‘Ngươi hãy trả lại chiếc áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì nó chỉ có một áo ấy để che thân, không còn chiếc nào khác để mặc mà ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, ngươi sẽ chết với Ta’; ‘Ngươi hãy liệu hồn!’, “Vì Ta là Đấng xót thương”.
Một câu hỏi bất ngờ khác có thể đặt ra, vậy thì làm thế nào để chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa tới mức tuyệt đối đến thế? Câu trả lời sẽ không quá bất ngờ là, chúng ta phải biết Đấng chúng ta yêu mến, cũng là Đấng chúng ta dám phó thác toàn bộ đời mình cho Người là Đấng nào, Người là ai? Một khi xác tín Đấng ấy là một Thiên Chúa toàn hảo, toàn năng và toàn thiện thì không còn gì để nghi ngờ, cũng không có gì quá bất ngờ khi chúng ta chọn lựa Người, yêu mến Người và hoàn toàn tin cậy mà phó dâng đời mình cho Người. Một cách trìu mến, Thánh Vịnh đáp ca hôm nay đã bộc lộ tâm tình yêu thương đầy xác tín đó, “Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài”.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa đến mức ‘vô cực’ như thế? Câu hỏi này quá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Chính ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa sẽ đốt cháy trái tim của chúng ta, trái tim chúng ta sẽ nồng nàn, sẽ xót thương như trái tim Người; tắt một lời, chúng ta sẽ yêu như Thiên Chúa yêu, xót thương như Thiên Chúa xót thương, hành động như Thiên Chúa hành động. Điều này có nghĩa là, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng, chính Chúa Thánh Thần làm những điều kỳ diệu trong tâm hồn mình; chính Thánh Thần sẽ hành động và biến đổi chúng ta ngày càng nên giống Thiên Chúa, nên giống Chúa Giêsu hơn. Và kìa, chính Thiên Chúa sẽ gánh vác và làm những điều lớn lao trong chúng ta như một ngọn lửa tình yêu đang rừng rực cháy. Sẽ không bất ngờ khi Thánh Phaolô vui mừng nói với các tín hữu Êphêsô hôm nay, “Với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo. Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa”.
Bất ngờ lớn lao nhất là tác động của ngọn lửa Thánh Thần đang rực cháy trong tâm hồn để chúng ta làm những điều lớn lao trong cuộc sống cho những anh chị em chung quanh và đó cũng là giới răn thứ hai Chúa Giêsu nói đến. Thật quá bất ngờ! Thế nhưng, bấy giờ, sẽ không còn là bất ngờ khi chúng ta chứng kiến chính Thiên Chúa cùng Thánh Thần của Người đang hoạt động và ngày mỗi ngày, chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến dũng lực siêu phàm và tình yêu Thiên Chúa sẽ biến đổi mọi sự thông qua chúng ta, những tôi tớ hèn mọn được yêu thương. Và đó chính là quà tặng cho những ai yêu mến Người, một quà tặng quá bất ngờ.
Một cô gái mù rất hận chính bản thân, bởi vì cô bị mù. Cô hận mọi người, ngoại trừ người bạn trai khả ái; anh luôn ở đó vì cô. Cô nói với anh, “Nếu tôi có thể nhìn thấy thế giới, tôi sẽ lấy anh”. Một hôm, thật bất ngờ, có ai đó đã hiến tặng cô đôi mắt; khi các miếng băng được tháo ra, cô đã có thể thấy mọi sự, kể cả người bạn trai. Anh hỏi cô, “Bây giờ em đã nhìn thấy thế giới, em có chịu kết hôn với anh không?”. Người thiếu nữ nhìn người bạn trai, thấy anh bị mù; nhìn thấy các mí mắt khép kín của anh, cô bị sốc. Cô không chờ đợi điều này, quá bất ngờ. Ý nghĩ là cô sẽ phải nhìn khuôn mặt ấy, với đôi mắt ấy suốt đời đã đưa cô đến chỗ từ chối kết hôn với anh. Người bạn trai rơi lệ và ít ngày sau, bất ngờ, anh đã viết cho cô một bức thư ngắn, nói rằng, “Em thân yêu, em hãy chăm sóc kỹ càng đôi mắt của em, vì trước khi chúng là của em, thì chúng là của anh”.
Anh Chị em,
Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta đôi mắt, trái tim và toàn bộ sự sống; tất cả những gì chúng ta có đó chỉ tồn tại, chỉ có giá trị và ý nghĩa cũng như thể hiện hết chức năng của chúng khi chúng được gắn kết với Đấng trao tặng chúng; cùng lúc làm theo ý của Đấng đã trao ban. Với Thiên Chúa không có gì là bất ngờ, Người yêu thương, Người trao tặng; có bất ngờ chăng là từ phía con người, bất ngờ khi nó không gắn kết với Thiên Chúa, không yêu mến Người cũng như đôi mắt của cô gái được trao tặng chẳng có ý nghĩa gì đối với cô khi cô không yêu người đã trao tặng nó.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chẳng bất ngờ khi Chúa trao tặng cho con toàn bộ sự sống và những gì con có; nhưng quá bất ngờ khi Chúa còn cho con cả mạng sống và mỗi ngày còn hiến mình cho con trên các bàn thờ. Xin đừng để con bất ngờ mang tiếng phụ tình khi không yêu mến Chúa đủ và cũng không yêu thương anh em đến mức Chúa mong”, Amen.
52. Yêu thương là đón nhận sự sống
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.
Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.
Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.
Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.
Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.
Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.
Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIN MỪNG NHẮC NHỚ HÃY BIẾT QUAN TÂM VÀ YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI HÈN MỌN Ở GIỮA CHÚNG TA
Các bài đọc Chúa nhật XXX Thường niên hôm nay rất quan trọng, thúc đẩy chúng ta phải đặt ra những câu hỏi về việc quan tâm đến những người dễ bị tổn thương cũng như cách thức con người đối xử với nhau để cổ võ tình yêu.
Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Xuất Hành, dân Israen đi qua hoang mạc hướng về miền đất hứa. Sau khi xuất hành khỏi Ai Cập, họ đã đón nhận lề luật, đầu tiên là Mười Điều răn và sau đó là hàng trăm luật lệ bổ sung. Bản thân các bộ luật được viết ra sau khi họ định cư tại vùng đất này, và chúng bao gồm những suy nghĩ, nguyện vọng và nhắc nhở về kinh nghiệm xuất hành cho các thế hệ mai sau.
Bài đọc nêu bật những nhóm người dễ bị tổn thương và lạm dụng nhất: ngoại kiều, góa phụ và trẻ mồ côi. Lề luật được ban hành để bảo vệ những người này và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tinh thần của luật là để nhắc nhở dân Israen quan tâm đến những người bị gạt ra bên lề xã hội và thiếu thốn nhất. Bài đọc cho thấy tầm quan trọng của sự đồng cảm và ký ức, khi dân Israen phải chăm sóc những ngoại kiều họ nhớ lại ký ức đau khổ của chính họ “vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai Cập”. Khi phải chọn lựa các nhà lãnh đạo, hãy cân nhắc xem ai quan tâm đến những người yếu thế và đâu là những chính sách bảo vệ những người đang có nhu cầu cấp thiết nhất?
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu phải đương đầu với một thử thách khác của những người Pharisêu. Một luật sư trong nhóm họ hỏi Chúa về điều răn trọng nhất, và Ngài trả lời bằng cách diễn giải hai điều luật: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đây là một phần trích dẫn của kinh Shema Yisrael (“Hỡi Israel, hãy nghe”), là một lời cầu nguyện của người Do Thái khẳng định tính duy nhất của Thiên Chúa và tầm quan trọng của việc trung thành thờ phượng Ngài (x. Đnl 6,4-5). Chúa Giêsu còn thêm “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” trích từ Lv 19,18.
Chúa Giêsu khẳng định toàn bộ Lề luật và sách các tiên tri đều xoay quanh hai điều luật này, do đó, có những ứng dụng nổi bật với các thính giả thời Chúa Giêsu và cả các Kitô hữu hiện nay. Có thể cho rằng bài Tin mừng hôm nay nêu ra một trong những giáo huấn quan trọng nhất của Chúa Giêsu, trong đó Ngài dựa trên di sản người Do Thái để khẳng định truyền thống và soi sáng điều răn quan trọng nhất: tình yêu thương.
Như đã đề cập trong các bài trước, tiếng Do Thái và Hy Lạp có nhiều từ nói về tình yêu. Các từ trong hai đoạn trích dẫn này là ahavah trong tiếng Do Thái và agape trong tiếng Hy Lạp, mà ý nghĩa của nó vượt khỏi tình cảm đơn giản đối với Thiên Chúa và tha nhân. Những từ này là lời kêu gọi thể hiện sự cam kết chân thành với Chúa qua việc phục vụ Ngài cũng như việc phục vụ giữa con người với nhau.
Có những cách thức cụ thể để thể hiện tình yêu. Tình yêu là thi hành các chính sách bảo vệ người yếu thế và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tình yêu là phê phán những kẻ chĩa vũ khí vào những người hành động cho công lý hơn là vỗ tay khen thưởng việc đe dọa cũng như xúi giục các hành vi thù hận. Tình yêu thương coi mọi người là người láng giềng chứ không chỉ là những người giống như bạn. Tình yêu là chiến đấu cho sự sống.
Thật là giả hình khi cho rằng ủng hộ sự sống của trẻ em chưa được sinh ra có thể miễn trách nhiệm của chúng ta lên tiếng bảo vệ những mảnh đời dễ bị tổn thương, hay ủng hộ những nhóm người sống bên lề xã hội có thể miễn cho chúng ta nhu cầu bảo vệ những trẻ chưa được sinh ra. Cũng là vấn đề khi coi thường nhiều người phải sống và chịu đựng các tệ nạn do nghèo khổ, do phân biệt chúng tộc và do bạo lực mà vẫn cho rằng mình bảo vệ sự sống.
Vì vậy, nếu bạn đang nghĩ đến việc sử dụng Kinh thánh để giúp bạn quyết định những chọn lựa của mình thì sứ điệp của Chúa Giêsu hoàn toàn rõ ràng: yêu thương. Con người bị chia rẽ bởi những lời lẽ và hành động thúc đẩy thù hận và phân rẽ, những hành động đi ngược lại với lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy để sứ điệp Tin mừng về tình yêu tác động lên những chọn lựa của bạn.
(Suy niệm của Lm Augustine SJ.)
Gương mến Chúa và yêu người sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã
Nhật báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ hai.
Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.
Chính cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.
Trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục! Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai.
Trong số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn cướp giật, quấy nhiễu mọi người.
Vị linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.
Thế rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng, trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Cha nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi “Này, cháu yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?” Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: “Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai, để cháu có thể tin?” Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: “Người đó giống như bác!” Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: “Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!”
Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ đã là một người tân tòng Công giáo.
Chúa Giêsu đưa hai điều răn ấy sống động nơi con tim con người
Câu chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?” (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều răn lớn nhất là “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi” (Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con người. Ngang qua con tim, người tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người đó phải phải yêu người thân cận như chính mình”.
Như vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (4,20).
Nhưng cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.
Mười điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.
Mười điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn “giữ ngày sabát” trở thành điều răn “giữ ngày Chúa Nhật”.
Có thể tóm tắt mười điều răn như sau:
Tấm bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4 điều răn là:
- Không được thờ Thiên Chúa nào khác
- Không được thờ ngẫu tượng.
- Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.
- Phải giữ luật ngày Sabát.
Tấm bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6 điều răn là:
- Hiếu thảo đối với mẹ cha.
- Không được giết người.
- Không được phạm tội ngoại tình.
- Không được lấy của người khác.
- Không được làm chứng gian.
- Không được ước ao của người khác.
Mười điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: “Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu” (Ðnl 5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời hưởng được tình thương của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng. Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình.
Con đường của các mối phúc
Vậy mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn “(Mt 22,37). Người đó không còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu nói với con cả trong Tin Mừng Luca: “Con à, lúc nào cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Ðiều mà mối phúc thứ hai nhắm là “được đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4). Ðất hứa nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại, người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính mình.
Ðiều mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó, người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu.
Ðó chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.
(Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An)
Vì yêu bà goá Simpson, Vua nước Anh Edward Đệ Bát đã bằng lòng bỏ ngai vàng để sống đời dân giả hạnh phúc với người yêu. Đây là cuộc tình lý tưởng và chân thật. Kẻ cho, người nhận thấu hiểu và thực thi lời Chúa Kitô dạy “tình cao thượng nhất là tình dám thí mạng cho người yêu” (Ga 15,13). Thế nào là thí mạng? Edward hy sinh và can đảm cởi bỏ vương miện và hoàng bào. Ông trả đời tiện nghi, rời cung điện, bằng lòng sống đơn giản và đạm bạc với người yêu. Nhiều người lắc đầu tắc lưỡi: “thằng khùng!” vì nhà cao bát vàng không hưởng. Nhưng Edward và Simpson đã hân hoan và sung sướng rũ sạch công danh và đời đời có nhau.
Chúa Kitô đã lấy thánh giá làm bằng chứng độc đáo nhất diễn tả tình của Ngài. Chúng ta sống trong hiểm họa và đang lao đầu vào cõi chết. Chúng ta thích thành công với danh, chức và tiên của. Chúng ta chen lấn, tranh giành, lật lọng, mưu mô và chà đạp trên mạng người. Chúng ta đánh giá tình bằng vẻ hào nhoáng và giả tạo bên ngoài. Chúng ta đang hôn mê trong bả phủ vân dẫn đến hư vô và tuyệt vọng. Các hình thức trên bộc lộ cái tình nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn một chiều và ích kỷ của nhân loại.
Chúa lấy thánh giá bắc qua miệng lửa, che đậy hố sâu nguy hiểm và thân thương dìu chúng ta bước qua hố an toàn. Chúa lấy máu và tình thương giập tắt ngọn lửa vô tình và bất nhân. Chúa dùng khổ đau đem lại sự thanh thản, an vui cho nhân loại. Một lần Chúa chết đi cho ức triệu người thoát vòng liên lụy và được giải thoát. Tình yêu cao vời này đã là nguyên nhân cảm hóa và dụ dẫn nhiều tâm hồn can đảm dấn thân theo Chúa. Họ kê vai san sớt gánh nặng và vui bước với Chúa. Họ là những chứng nhân sống, là hiện thân của Giêsu giữa đời. Họ đang nằm rên siết bên đường, đang hấp hối trong rừng sâu, đang thành công giữa đời và nhân ái trong mọi lãnh vực. Họ là những vị tử đạo vô tên tuổi và âm thầm hiến dâng. Nhờ họ mà đức tin được trưởng thành, tình yêu được thăng hoa và Lời Chúa được loan truyền.
Nhìn những người lính thủy quân lục chiến Hoa kỳ thực tập tại căn cứ 29 cây dừa (29 Palm), California: ngày ăn lương khô, uống nước lạnh, mặt mũi và áo quần dính đầy bụi, tay chân nứt nẻ, đêm nằm co ro trong túi ngủ trên bãi cát trong góc đá, và dưới đụm cây làm tôi cảm phục sự hy sinh cao độ của họ và chợt xót xa khi nghĩ đến cả trăm triệu người vô tình quên họ. Vì họ mà quốc gia này thành cường quốc. Vì họ mà dân chúng sống an ninh, tự do và độc lập. Vì họ mà trật tự thế giới được ổn định. Vì họ mà điện Capitol và Nhà Trắng tại Hoa thịnh Đốn thời danh và có thế giá trước Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới.
Người không có thánh giá là người chết. Người trốn chạy thánh giá là thiếu tài cao, đức trọng. Người rủa thánh giá là chưa hiểu ý nghĩa và mầu nhiệm thâm sâu của tình yêu. Người lợi dụng thánh giá là kẻ “đục nước béo cò” và “mượn đầu heo nấu cháo”. Họ giỏi khích lệ ai đó vác và vui chịu. Bản thân họ thì đong đưa ăn trên ngồi chốc. Tình chính chuyên và lý tưởng phải là tình như Đức Kitô, bằng lòng chết đi cho người mình yêu và trước khi vĩnh biệt còn gắng rán sức “tha cho họ, vì họ không ý thức việc họ làm.”
Phim “Người chết đang đi” (Dead-man walking) giới thiệu một nghĩa cử cao thương của chị dòng. Chị nhận diện Chúa trong tên tử tội. Chị chối bỏ thù oán của Cựu Ước và loan báo ơn tha thứ của Tân Ước. Chị cảm hóa được tù nhân và yêu cầu tử tội trước giờ thứ 24, nhìn vào chị, hiện thân của tình Chúa hầu an bình ra đi. Chị lên án chính sách giết người man rợ bằng ghế điện, hơi ngạt, thuốc độc và xử bắn. Theo chị, tình chân thật phải là tình tái sinh bằng mọi giá, như Chúa trên thập tự, đã thăng tiến và công chính hóa nhân loại thay vì kết án và nguyền rủa.
Như vậy tình “ông ăn chả, bà ăn nem” là tình ích kỷ. Tình “ong bướm” là tình tắc trách và trốn chạy. Tình “ly dị” là tình hèn nhát và thiếu thủy chung. Những mẫu tình này hình thành do sự bất toàn, đam mê, ích kỷ và hưởng thụ của con người. Đồng thời nó đang phá hủy tận gốc tình yêu cao đẹp Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn. Bài học sống và chết cho tình yêu cần được mổ xẻ, phân tích, suy tư và thực hiện trong đời mỗi tín hữu. Nhờ đó mà tình của “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy” sẽ “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”.
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
“Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: “Con học bài đi, con phãi siêng học”. Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình”.
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: “Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò… Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng… tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: “yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.” Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể”, nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.”Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi “Bài giảng trên núi”, trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được”. (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.”(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ “và” đến “trong”
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa “hay là” yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc “hay là” chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, “cũng giống điều răn ấy”.
Điều răn thứ hai này “cũng giống” điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng “lớn” như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói “hay là”, nhưng phải nói “và”. Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, “và” sẽ biến thành “trong”: con người yêu mến Thiên Chúa “trong” người thân cận, và yêu mến người thân cận “trong” Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất – Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Văn Tươi. Utica-NY)
Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức sống và nghị lực. Để hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc, thì chúng ta cần phải biết yêu thương và sống cho tha nhân, đó cũng là giới luật yêu thương của Chúa Giê-su. Người ta không thể có tình yêu và hạnh phúc nếu người đó không biết yêu thương. Lời yêu thương luôn là lời êm đẹp, quyến rũ và hấp dẫn. Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất của con người.
Ngày nay, người ta nói rất nhiều về tình yêu, tình yêu được diễn tả trong thơ ca, trong âm nhạc, trong phim ảnh v.v. Tình yêu thì rất đẹp. Nhưng để hiểu và sống đúng với giá trị của tình yêu là điều mà chúng ta cần đáng quan tâm và chia sẻ với nhau qua thông điệp Lời Chúa hôm nay. Như nhà thông luật đặt ra câu hỏi với Chúa Giê-su:” Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là quan trọng nhất?” Đức Giê-su đáp:” Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn người và yêu người thân cận như chính mình vậy.” Lời Chúa Giê-su giải thích rất rõ ràng, yêu Chúa chính là yêu người. Yêu người chính là yêu Chúa. Vì người ta không thể yêu Chúa mà không yêu thương người anh em thân cận. Như lời Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói rằng, đạo đức không phải là một thứ sản phẩm để người ta quảng cáo, nhưng là để sống và thực hiện đời sống đức tin, nó được biểu hiện trong mối tương quan với tha nhân và Thiên Chúa.
Người ta có thể dễ dàng nói lời yêu với Chúa, nhưng lại rất khó nói lời yêu thương với một người phản bội, đối nghịch và là kẻ thù với mình. Hằng ngày, có những người hàng xóm đang sống chung quanh ta, họ đang làm cho ta phải sự ganh tỵ và ghen ghét vì họ giàu có, tài năng và hạnh phúc hơn ta. Những thứ cám dỗ đó làm cho ta nhìn người thân cận như là đối thủ cạnh tranh hơn là đón nhận và cảm phục họ, và tha nhân trở thành địa ngục cho mình. Hơn nữa, trong đời sống gia đình, có biết bao gia đình hôm nay đang tan vỡ và ly dị. Họ không có hạnh phúc vì có quá nhiều sự khác biệt trong cuộc sống hôn nhân. Họ không còn cảm nhận được tình yêu và hy sinh dành cho nhau, thì lời nói tha thứ, khoan dung lại càng trở nên khó khăn hơn. Họ phải sống trong đau khổ, uẩn ức và chịu đựng, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay đang gặp phải những thách đố và khó khăn, vì họ có quá nhiều áp lực bởi sự so sánh giàu nghèo, tính toán hơn thua. Tình yêu được đặt trên cung bậc bởi sự đánh giá giàu nghèo và địa vị. Cho nên, con người luôn đi tìm hạnh phúc trong cái hoàn hảo, và kiếm tìm tình yêu trong ảo tưởng hơn là những gì họ đang có. Đó là thứ tình yêu “ảo” qua các trang mạng, sách báo và phim ảnh mà người ta cho đó là thật. Trong khi đó, gia đình mái ấm hạnh phúc thì lại coi thường và bị bỏ rơi. Người ta thường coi hạnh phúc là được hưởng thụ hơn là sự hy sinh. Thật sự, không có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trần gian này lại phải không phải trả giá để đạt được nó.
Tình yêu chỉ có giá trị và mang lại hạnh phúc đích thực khi người ta biết chấp nhận và sống cho tình yêu. Như lời Chúa Giê-su dạy: ” Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu.” Chỉ có tình yêu nơi Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu làm xóa tan hận thù. Tình yêu làm biến đổi thù thành bạn. Tình yêu là sự tha thứ cho kẻ đã giết mình. Tình yêu đã chữa lành biết bao con người tội lỗi quay trở về. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tất cả. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người hạnh phúc, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là chính Đức Giê-su đã chết cho nhân loại và phục sinh để ban ơn cứu độ cho con người. Ai tin thì sẽ được sống và hạnh phúc đời đời.
Tóm lại, nếu chúng ta muốn được yêu và sống yêu thương như Chúa yêu, thì chúng ta hãy vượt lên trên chính mình, đi ra khỏi sự “cái tôi” thấp hèn và ích kỷ. Tình yêu là sống. Sống là để yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc, nhưng tình yêu phải được gắn liền với tình yêu thạp giá Chúa Ki-tô, thì mới đơm hoa kết trái của đức ái trọn hảo. Như Thánh Phao-lô viết: ” Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả”.
Yêu như Chúa yêu. Tình yêu là không chỉ biết đón nhận mà còn phải biết cho đi. Cho và nhận là bản chất của tình yêu, như vị thánh Đức Giáo Hoàng Gioan PLII đã nói với kẻ đã sát hại ngài rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. Vì lời tha thứ luôn là điều cao quý nhất làm xóa tan lòng hận thù và chữa lành vết thương tâm linh, để ta có sức mạnh tiếp tục yêu thương. Amen.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết phải mến Chúa thế nào và yêu người làm sao thì phải dựa vào Thánh Kinh. Những bài đọc Thánh Kinh hôm nay cũng nói về hai điều đó. Tuy là những bài viết ở những thời đại khác nhau và đã xưa rồi; nhưng suy nghĩ, chúng ta càng nhận thấy tính cách trường cửu của Lời Chúa.
Bài sách Xuất hành đưa chúng ta trở về thời Cựu Ước xa xưa. Chúng ta sẽ ngạc nhiên về tính cách nhân đạo của nếp sống đạo đức thời bấy giờ. Và chúng ta sẽ hiểu bối cảnh của bài Tin Mừng hơn để nhận ra uy tín của Ðức Kitô khi khẳng định về luật mến Chúa yêu người. Cuối cùng thư Phaolô sẽ cho chúng ta thấy gương sáng của một giáo đoàn biết đón nhận và thi hành Lời Chúa.
- Trước Hết, Thời Xưa Ðã Có Nhân Ðạo
Chúng ta thường nghĩ rằng ngày xưa người ta chỉ biết lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Hơn nữa chúng ta còn dám so sánh và cho rằng ở những thời đại xa xưa của Abraham, Môsê và Ðavít, người ta chỉ cư xử với nhau bằng luật rừng, chứ không thể cư xử với nhau theo tình bác ái. Bài sách Xuất hành hôm nay khiến chúng ta phải dè dặt hơn.
Dĩ nhiên đây không phải là những luật đã được ban bố vào thời Xuất hành. Người ta quen lấy những luật ở những thời đại về sau đem cắm vào những thời đại trước và đặt nơi môi miệng của nhà luật pháp trứ danh là Môsê để chúng được thêm uy tín. Tuy nhiên chúng vẫn căn cứ vào biến cố Xuất hành như ta thấy ở ngay câu đầu tiên trong bài đọc hôm nay.
Chúa truyền cho dân: “Khách cư ngụ, ngươi không được ngược đãi và áp bức nó, vì các ngươi đã là khách cư ngụ ở đất Aicập”. Và Người dạy không được ức hiếp mẹ góa con côi, kẻo nó kêu lên Người thì khí nộ Người bốc lên làm cho người ta rơi vào cảnh vợ góa con côi.
Chúng ta thử đặt các lệnh truyền này vào thời đại của chúng cách đây ít nhất cũng phải gần 3,000 năm. Ðó không phải là nhân đạo và văn minh sao? Nhất là luật tiếp theo. Phải cho vay mà không được lấy lãi. Ðược giữ vật thế chân để tránh sự lạm dụng, nhưng những đồ cầm đó phải trả lại trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Thật, ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau. Nhưng ở đây không phải chỉ có vấn đề nhân đạo, mà còn có cơ sở đạo đức. Chúa dạy dân phải giữ các lệnh truyền bác ái, không phải vì mọi người là đồng loại, hoặc vì phải nhớ lại hồi trước dân đã từng là nạn nhân của nhiều sự bóc lột, nhưng nhất là vì Thiên Chúa là Ðấng lân tuất. Người luôn luôn xót thương và bênh vực những kẻ khó nghèo và yếu thế. Người chống lại bóc lột. Người đòi cho mọi người được bình đẳng vì tất cả đều là hình ảnh của Người. Người ta muốn đẹp lòng Người thì phải săn sóc đến tha nhân. Người không tách rời lòng đạo đức và tình đồng loại. Người không đồng hóa hai vấn đề mến Chúa và yêu người; nhưng Người chỉ chấp nhận những lòng mến Chúa đồng thời cũng thương người.
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy; nhưng thường khi người ta lại không thi hành. Ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Các tiên tri của Chúa phản ứng mạnh mẽ, nhưng cho đến thời Chúa Yêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Ðọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy như vậy.
- Cả Hai Giới Răn Ðều Quan Trọng
Mở đầu, thánh Matthêô đã cho chúng ta thấy bầu khí tranh chấp đố kỵ của thời Ðức Yêsu. Người theo Biệt phái, kẻ theo Sađốc phái. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ gặp nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội, cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản: 248 lệnh truyền và 365 điều cấm. Nhưng khoản nào trọng hơn khoản nào và khoản nào quan trọng hơn hết? Ðó là vấn đề sôi bỏng. Tùy theo người ta nghiêng về phụng vụ hay xã hội, về Ðền thờ hay về đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ Biệt phái hay Sađốc phái, thái độ dè dặt hay hợp tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Ðức Yêsu. Lập trường của Người rất quan trọng, vì dân chúng sẽ tùy đó mà biểu lộ cảm tình với phe nào. Nhưng tuyên bố lập trường ấy ra cũng thật nguy hiểm cho Người. Phe đối địch sẽ có thêm chứng cớ để tiêu diệt Người.
Tuy nhiên đó chỉ là những suy tính của người ta. Ðã nhiều lần họ gài bẫy Người. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Ðược hỏi ý kiến về giới răn trọng nhất. Người trả lời như hết mọi người Dothái đạo đức: Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, và hết lòng trí ngươi. Ðó là câu trong sách Thứ luật (6,5), là kinh nguyện hằng ngày của Dân Chúa. Nhưng Ðức Yêsu không dừng lại ở đó. Người còn nói tiếp: Ðó là giới răn thứ nhất. Thứ đến cũng quan trọng như vậy, là ngươi phải thương đồng loại như chính mình. Người không đồng hóa hai việc mên Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, nhưng quan trọng như nhau; và vì thế không được sao nhãng nhiệm vụ nào. Nét độc đáo trong câu trả lời tức là lập trường của Ðức Kitô là ở chỗ đó. Người ta vẫn nói phải mến Chúa và thương người, phải có thiên đạo và nhân đạo. Nhưng thông thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ rời nhau, những bổn phận không liên lạc gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong Ðền thờ và không thương người ngoài xã hội hoặc thương người nơi xã hội nhưng lại không mến Chúa trong Ðền thờ. Nhất là người ta quen coi thương người là thứ yếu sánh với nhiệm vụ phải mến Chúa.
Ðối với Ðức Kitô thì không được như vậy. Phải thương người cũng như mến Chúa. Ưu tiên là mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Sau này thánh Yoan sẽ giải thích: không thể có lòng mến Chúa vô hình nếu không thương người hữu hình (1Yn 4,20). Và khi dạy phải thương người như chính mình, Ðức Yêsu không có ý bảo phải thương mình trước, hay cũng phải thương cả tha nhân nữa. Câu nói của Người có nghĩa rằng: phải thương người hết mình như đã mến Chúa hết linh hồn.
Cuối cùng một nét độc đáo nữa trong câu trả lời của Ðức Yêsu là: tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người ấy. Và như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể mọi lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa và yêu người.
Vấn đề tranh chấp xưa nay giữa các phe nhóm đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng nhưng nhóm nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn Lề luật. Nói đúng ra phe nhóm nào cũng đã lầm lạc. Khi đã không coi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa và thương người như nhau, người ta đã làm mất quân bình, gây ra lệch lạc trong đời sống. Ðức Yêsu đã mang ơn cứu độ đến. Ai đón nhận thì phải mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Thái độ đó, một phần nào chúng ta có thể nhìn thấy nơi giáo đoàn Thessalônikê của thánh Phaolô, mà bài thư hôm nay như muốn nói lên.
- Một Gương Thực Hành
Có thể nói đây là những đoạn văn đầu tiên của bộ sách Tân Ước. Phaolô đã viết bức thư này trước hết vào khoảng năm 51, tại nhà Aquila sau khi Timôthê đã mang mực và da thuộc đến. Lần đầu tiên biên thư cho một giáo đoàn, nên Phaolô có một thái độ trịnh trọng đạo đức, và hầu như phụng vụ nữa.
Người tạ ơn Chúa vì sự sống đạo nơi giáo đoàn ấy. Giáo đoàn Thessalônikê vừa bắt chước Chúa vừa bắt chước các Tông đồ. Họ sống kết hợp với Chúa nhưng cũng kết hợp với các Tông đồ vì họ đã thấy các Tông đồ đến lo việc của Chúa ở nơi họ nhưng đồng thời đã tỏ ra đầy tinh thần phục vụ họ. Mến Chúa và yêu người không phải là hai phận sự tách biệt, nhưng cũng quan trọng như nhau và phải tiến hành đồng đều. Chính vì vậy mà tiếng tăm của giáo đoàn này đã bay đi khắp nơi và Thessalônikê đã trở thành giáo đoàn gương mẫu. Mọi nơi đều ca ngợi họ về hai điểm: đón nhận Lời Chúa cũng như đón nhận các Tông đồ. Họ vừa mến Chúa vừa thương người, vừa kết hợp với Chúa vừa hiệp nhất với nhau.
Cảm động và chân thật hơn nữa là thái độ đón nhận này quả thật rất siêu nhiên, vì là đón nhận giữa bao nỗi gian truân, nhưng lại hoan hỷ trong Thánh Thần. Ðiều này làm chứng Tin Mừng mà Phaolô đem đến không phải là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa. Dân Thessalônikê đón nhận không phải vì thấy đó là lời lẽ khôn ngoan xác thịt, nhưng là Lời có sức mạnh của Thần Khí. Họ phải lướt thắng nhiều khó khăn để đón nhận và đón nhận vui vẻ. Thế nên họ thật đã tham dự vào mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa. Họ đã lãnh nhận được chính ơn cứu độ của mầu nhiệm thập giá. Phaolô đánh giá việc họ đón nhận là việc bắt chước Chúa Yêsu và các Tông đồ; bởi vì khi đón nhận Lời Chúa trong gian truân mà vui vẻ thì rõ ràng người ta đã bắt chước các Tông đồ trong việc dạn dĩ rao giảng Lời Chúa giữa ngăn cấm và đe dọa. Nói cách khác, lòng mến Chúa và thương người nơi giáo đoàn Thessalônikê không theo lẽ thế gian nhưng tựa vào sức mạnh của Thánh Thần. Ðó là nếp sống đạo chân thật vì hoàn toàn siêu nhiên. Phaolô có lý do để hãnh diện vì nếp sống đạo ấy. Người tạ ơn Chúa thật là phải lẽ. Và người không nói sai khi tuyên bố đó là nếp sống phải trở nên gương mẫu cho mọi giáo đoàn.
Chúng ta nghĩ sao về các lời Kinh Thánh ấy? Chúng ta đã thâm tín tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người. Ðó vẫn là hai việc khác nhau: không thể coi mến Chúa là thương người; và cũng không được coi thương người là mến Chúa. Nhưng đó là hai việc quan trọng như nhau; phải thi hành cả hai, phải quý cả hai như một; phải kết hiệp với Chúa và đồng thời cũng phải hợp nhất với mọi người.
Giáo xứ chúng ta có được như giáo đoàn Thessalônikê không? Gặp gian truân, khó khăn, chúng ta có “bắt chước” Chúa và các Tông đồ không? Có giữ đạo và đời không? Có vừa làm tốt đời và đẹp đạo không? Biết đâu những lời trong bài sách Xuất hành không đang còn có giá trị khẩn trương? Chung quanh chúng ta có những đồng bào mới đến. Những anh chị em ấy có được lập tức đón nhận như đồng bào ruột thịt không? Những cảnh mẹ góa con côi cũng không hiếm ở giữa chúng ta. Và chắc chắn nhiều người đang lâm cảnh vay mượn và cần giúp đỡ. Lòng nhân đạo khi gặp khó khăn có vươn lên được nhờ sự giúp đỡ của đức tin không?
Các tín hữu ở Thessalônikê đã nhờ việc “bắt chước” Ðức Kitô mà có một nếp sống đạo chân thực và tốt đẹp. Giờ đây, Ðức Kitô đến hiện diện trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh nơi bàn thờ. Chúng ta muốn tham dự vào mầu nhiệm của Người. Nhưng việc tham dự này chỉ chân thật khi chúng ta quyết tâm bắt chước cuộc đời của Ðức Kitô. Chúng ta sẽ làm chứng mình đã tham dự thánh lễ chân thật, nếu sau khi về nhà, chúng ta sẽ sống tốt cả hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ là Kitô hữu tốt khi chu toàn các bổn phận đối với cả đạo và đời. Xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Đâu đó bạn bè, những người không có đạo thường hỏi chúng ta rằng: cốt lõi của đạo Công Giáo là gì? hoặc điểm chính yếu nhất của đạo Công Giáo là gì? Đặt trường hợp, chúng ta được hỏi, liệu chúng ta có thể trả lời được chăng? hay chúng ta chỉ nhoẻn miệng cười trừ, rồi tạm biệt, hẹn ngày trở lại!!
Tin Mừng hôm nay, câu hỏi mà nhóm luật sĩ đặt ra cho Đức Giê-su cũng hóc búa chẳng kém. Tuy từ ngữ khác với câu chữ thời đại chúng ta, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy nội dung không khác gì mấy, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” (Mt 22, 36). Như chúng ta biết, toàn bộ lề luật Mô-sê và sách các Tiên tri (mà bây giờ chúng ta gọi là Kinh Thánh Cựu Ước) rất nhiều, đặc biệt lề luật của người Do Thái thời ấy thì vô vàn, tỉ mỉ đáng kinh ngạc. Cho nên những ai được gọi nhà thông luật hồi đó, quả thật cũng thuộc loại xuất chúng, không xem thường được!
Họ tưởng rằng, Đức Giê-su sẽ không trả lời được, nhưng ngờ đâu Ngài tóm tắt toàn bộ sách luật Do Thái chỉ bằng một câu ngắn gọn, đó là giới răn yêu thương: kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Tuy hai điều nhưng chỉ là một. Ngài trưng dẫn nguyên văn sách Cựu ước: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (x. Đnl 6, 5) và “ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv 19, 18). Ngài quả quyết mạnh mẽ và rõ ràng: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy…Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (x. Mt 22, 38-40). Nói cách khác, Đức Giê-su đặt tầm quan trọng của điều răn mến yêu tha nhân như tính hệ trọng của điều răn yêu mến Thiên Chúa. Và hai giới răn này không được tách rời. Nếu tách biệt, hoặc trọng một điều mà không thực hiện điều kia, thì chúng ta đang rơi vào những lời biện hộ như thường được nghe, được thấy diễn ra trong thực tế của đời sống hằng ngày.
Cụ thể không ít người Công Giáo nghĩ và sống: kính mến Chúa, được thể hiện qua việc đọc kinh, tham dự Thánh lễ, tích cực hăng hái trong công việc nhà xứ, nhưng lại không dễ tha thứ, thương yêu anh chị em mình. Nhiều người vào nhà thờ đọc kinh sốt sắng, to rõ ràng, nhưng khi bước ra khỏi nhà thờ, hoặc về nhà thì lại không dễ thương, nhẹ nhàng, đón nhận yêu mến anh chị em, dễ cáu gắt, để bụng, giận hờn ghen ghét, ganh tị, nuôi hận thù…, hoặc đối xứ không tốt với hàng xóm láng giềng, và thường nhận lại lời chê bai: ‘người có đạo mà sống tệ vậy à?!!!!’ Lắm lúc, chúng ta trung thành, nhiệt tâm với nhà Chúa, năng nỗ đọc kinh hằng ngày, tham gia các hội đoàn giáo xứ, nhưng mối tương quan với anh chị em lại chẳng được tốt, hoặc không mến yêu tha nhân. Ngược lại, nhiều lúc được hỏi: tại sao không đi lễ, không đọc kinh nguyện hằng ngày, thì lời biện hộ hay lí do hay được nhắc tới, là: ‘đạo tại tâm mà, cho nên khỏi phải đi lễ, đọc kinh, chỉ cần yêu thương người, sống tốt với người khác là đủ!’, hay tiêu cực hơn với lối suy nghĩ ‘những người đi lễ, đọc kinh đấy, nhưng vẫn chửi bới người khác, chẳng muốn hy sinh gì của mình để giúp đỡ tha nhân, cho nên tôi chẳng cần làm vậy, biết giúp đỡ người khác, làm việc từ thiện là tốt đẹp rồi!’.
Chẳng cần bàn luận nhiều, hai xu thướng trên đã và đang hiện hữu ngày càng rõ rệt nơi chúng ta. Nếu chúng ta cứ sống như vậy, thì chắc hẳn giới răn yêu thương bị chia cắt; đúng hơn, chúng ta chưa sống đúng điều răn bác ái mà Chúa dạy. Thật ra, khi chúng ta thật lòng kính mến Chúa với toàn bộ con người chúng ta, thì nhờ điều này mà chúng ta mở lòng đón nhận và yêu thương anh chị em như chính bản thân ta. Và ngược lại, mỗi lúc chúng ta làm việc bái ái, giúp đỡ, tha thứ, yêu mến anh chị em thật tình, thì chúng ta cũng đang nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi họ và kính mến Chúa. Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta yếu đuối, tội lỗi, sa ngã, không kiềm chế và xét mình mỗi ngày, thì bị rơi vào tình trạng như thể ‘lừa dối bản thân’ vì như lời của Thánh Gio-an viết: “nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy…Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (x. 1Ga 4, 20-21).
Chính vì vậy, nếu chúng ta thật sự yêu mến hết con người mình thì lòng mến đó sẽ được bộc lộ một cách cụ thể qua những hành động, thói quen tốt lành như: tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm, chuyện trò, tâm sự với Chúa trong các buổi tĩnh tâm, những giờ học hỏi Lời Chúa, học giáo lý; nhất là để Chúa biến đổi bản thân, đón nhận Lời và Mình Máu Thánh nuôi dưỡng chúng ta, Ngài mở lòng, thúc giục chúng ta biết chấp nhận yêu thương anh chị em như chính mình, dám hy sinh thời gian, sức lực, tiền của, trí lực, tài năng để giúp đỡ tha nhân. Những ai dám nói mình tích cực làm việc bác ái, mà không bắt nguồn từ lòng mến Chúa, từ mối tương quan thân tình với Chúa, từ việc thực hành Lời Chúa, thì có lẽ đó chưa được gọi là việc bái ái, đó chỉ có thể là việc từ thiện như biết bao nhiêu tổ chức ngoài xã hội hoặc kể cả những ai không phải Công Giáo cũng đang nỗ lực thực hiện thôi. Thoạt tiên, chữ ‘công việc bác ái’ và ‘công việc từ thiện’ dường như giống nhau và không ít người Công Giáo nghĩ có thể hoán chuyển cho nhau. Tuy nhiên, nếu xét thật gần và kỹ lưỡng về nền tảng, động lực của nó, chúng ta sẽ thấy khác xa. Công việc từ thiện thì ai cũng làm được, miễn họ có lòng thương cảm, trắc ẩn, bất luận họ là Công Giáo hay không. Trong khi ấy, việc bác ái thật sự được xuất phát từ tình mến Thiên Chúa. Đúng hơn là, Thiên Chúa yêu thương chúng ta tha thiết, vô bờ bến, và chúng ta được cảm nhận tình yêu ấy, rồi nó khiến chúng ta kính mến Người như ‘tình yêu đáp đền tình yêu’, ‘con tim đến với con tim’. Mặc khác, tình Chúa dành cho chúng ta quá lớn, nên chúng ta cảm nhận tình yêu ấy đến độ chúng ta dám ra khỏi những gì an toàn, thoải mái của bản thân mà đến với anh chị em bằng nụ cười tươi, bằng ánh mắt yêu thương, bằng đôi tay mở rộng, bằng tâm hồn trong sáng, vị tha, bằng đôi chân tiến bước giúp đỡ tha nhân, cách riêng những ai bị gán cho vùng ‘ngoại vi’, bị loại bỏ, bị xa lánh…Nói một cách chính xác, lúc ấy, chúng ta đang sống giới răn yêu thương thật sự.
Lạy Chúa, ngay giờ đây, ngay khoảnh khắc này, chúng con quỳ trước Chúa, không phải để nài nỉ cầu xin, cho bằng dâng lời cảm tạ vì Chúa đã yêu thương con vô hạn, mặc dù lòng mến của chúng con với Chúa hữu hạn, và đôi lúc tính toán, đầy những điều khoản hay lời hứa suông. Nhưng thật hạnh phúc, nhờ tình Chúa, mà mỗi ngày chúng con cảm nghiệm và được yêu mến Ngài nhiều hơn, thật hơn, cũng như biết mến yêu anh chị em khác nữa.
‘Mến Chúa yêu người’ giới răn yêu thương Tuy hai mà một, tuy một mà hai. Không thể tách rời, trung thành thực thi. Tương giao chặt chẽ, hoà quyện vào nhau. Như sắc không màu, như màu đa sắc. Hằng ngày cảm nhận, khoảnh khắc yêu thương. Amen!
Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa… Ngươi phải yêu thương anh em ngươi…”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
Các cuộc tranh luận giữa bọn Biệt Phái về phương diện Giáo lý, đã đi tới chỗ quyết liệt nhất là khi tìm xem điều gì cốt yếu.
“Giới luật nào quan trọng nhất?”. Bọn Biệt Phái hỏi Chúa như thế. Họ mong muốn Chúa sẽ trình bày luật pháp là tạm thời, rồi mưu mô đề cao lời của Ngài để nhờ đó, họ có thể công kích hoặc nói rằng Ngài chỉ nêu lên một điểm trong toàn bộ luật pháp, và vì thế họ cũng có thể làm Ngài thua cuộc. Nhưng Đức Kitô thấu triệt được thâm ý của họ. Ngài đi thẳng vào vấn đề: nghĩa là Ngài nêu lên điểm gì là quyết định, chủ yếu, đúng như lời Thiên Chúa đã dạy, tức là nêu lên một phương diện chung duy nhất đó là đức ái.
Mến Chúa là điều cốt yếu. Điều cốt yếu không phải chỉ là khúm núm sụp lạy Thiên Chúa tạo hóa, cũng không phải là lời tuyên xưng tội lỗi của tội nhân, cũng không là cách chiêm niệm siêu thoát của một người đặc biệt, cũng không là ơn xuất thần của một tâm hồn huyền bí. Nhưng điều cốt yếu là đức ái, tức là dòng nước tình ái giữa Chúa và ta. Đó là tình trạng hiệp nhất thâm sâu và nồng thắm, là ngọn lửa thánh thiện bừng cháy trong tâm hồn, là thái độ hiến thân trọn vẹn để được tan biến trong đấng duy nhất và oai nghiêm là Thiên Chúa. Yêu và được yêu là mầu nhiệm thâm sâu nhất của Tôn Giáo Chúa Giêsu. Ở đây không có vẻ rườm ra như một tôn giáo vị luật, nhưng Ngài chỉ quyết đáp một điểm về bản tính đích thực của luật. Tất cả những giới luật chi tiết khác phải hỗ trợ cho điểm trung tâm này. 10 giới răn chỉ là những đường hướng hoạt động khác biệt. Muốn tuân giữ các giới răn ấy, phải có một lòng mến trung thực thấm nhuần tâm hồn và cảm năng, nghĩa là tâm hồn được chìm đắm sâu xa trong vẻ cao trọng huyền nhiệm của Thiên Chúa.
63. Giới luật thứ nhất và trên hết
(Suy niệm của Lm. An Phong)
Nếu tình cờ có ai hỏi: “Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?”; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: “Mến Chúa, yêu người”. Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng “mến Chúa yêu người”; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng “mến Chúa yêu người”. Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện “nhà thờ nhà thánh” hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là “mến Chúa yêu người” được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: “Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 22,34-44 nằm trong văn mạch của các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các vị lãnh đạo Do thái (21,23-46): dụ ngôn hai người con (21,28-32); dụ ngôn các tá điền (21,33-46); dụ ngôn tiệc cưới (22,1-14); vấn đề nộp thuế (22,23-33); kẻ chết sống lại (22,23-33); Giới răn lớn nhất (22,34-40) và câu hỏi về Đấng Mêssia (22,41-46). Đoạn 22,34-44 có thể phân chia như sau: – Dẫn nhập ngắn (c. 34), – Vấn đề đặt ra (cc. 35-36); – Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 37-40).
Đoạn 22,34-40 bắt đầu bằng câu chuyển tiếp nhắc đến kết quả của cuộc tranh luận trước về việc sống lại giữa Chúa Giêsu với nhóm Sađucêô (c.34). Họ đã bị Chúa Giêsu khóa miệng. “Khóa miệng”, phimoō, là làm cho không nói được lời nào nữa. Nhóm Sađucêô đi, nhóm Pharisêô lại vào cuộc. Họ đã tranh luận với Chúa Giêsu nhiều lần từ khi Người vào đền thờ (21,23). Cách nói “nhóm họp lại một nơi” gặp thấy trong Cvtđ 4,26 và Tv 2,2 và chỉ việc “các quan quyền vây cánh liên minh chống lại Chúa và chống lại Đức Kitô của Người”. Việc nhóm họp nầy báo trước ý định xấu xa của họ là “thử Người” (c.35), như họ đã từng làm trước đó là “tìm cách bắt Người” (21,46) và “gài bẫy Người” (22,15.18). “Thử Người” là hy vọng tìm được những sai lỗi căn bản trong lời giải thích của Người.
Việc người Pharisêô quy tụ cũng sẽ là khung cảnh cho đoạn tiếp theo sau, khi họ hỏi về nguồn gốc của Đấng Kitô (c. 41). Nomikos “người thông luật”, “luật sĩ”, là người hiểu biết về lề luật. Họ là người giải thích và dạy lề luật Môsê. Nomikos tương đương với grammateus trong câu song song ở Marcô (Mc 12,28). Người thông luật nầy thuộc về nhóm Pharisêô, và được gởi đến để hỏi Chúa Giêsu về lề luật Môsê.
Câu hỏi của người thông luật liên quan đến Lề luật Môsê. “Thưa Thầy, giới răn nào là lớn nhất trong lề luật?” (c. 36). Trong Matthêô không đưa ra định nghĩa nomos, “lề luật” là gì, mà chỉ nói đến việc tuân giữ và thực hành lề luật (5,19; 15,3). Trong sách Đệ Nhị Luật, lề luật là con đường Thiên Chúa đặt ra trước dân Người để họ bước đi theo đó, được sống và được vào đất hứa (x. Đnl 30,15-20). Matthêô dùng chữ “lớn nhất”, megalē, thay vì “trên hết”, prōtē, như trong câu song song ở Marcô (Mc 12,28). Trong Lề Luật của Môsê, có tất cả 613 giới răn: 248 giới luật, 365 điều cấm kỵ. Mỗi rabbin có một quan điểm riêng về việc phân biệt các giới răn lớn và nhỏ khác nhau, và họ không thống nhất với nhau về cách sắp xếp nầy. Bởi đó, khi hỏi Chúa Giêsu và gọi Người là Thầy “didaskalos”, họ muốn biết Người nghĩ như thế nào về vấn đề nầy. Vậy câu hỏi của thầy thông luật là muốn biết Thiên Chúa muốn gì nhất nơi con người.
Trong câu trả lời trích dẫn Đệ Nhị Luật 6,5 về giới răn yêu Chúa không có lời kinh Shema, “Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Chúa độc nhất” (Mc 12,29) mà người do thái đọc hai lần sáng tối mỗi ngày. Lời trích dẫn của Matthêô giống nguyên văn với bản văn LXX, và chỉ gồm ba phần: “hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết sức lực ngươi” (c. 37). So với Marcô, Matthêô thay đổi “bởi tất cả tâm hồn” thành “với tất cả tâm hồn”, và “sức lực”, dunameōs, thành “trí khôn”, dianoia.
Trong tiếng hipri động từ “Yêu” mang ý nghĩa rất bao quát. Nó đi từ tình yêu phái tính, sang tình yêu đối với các thành phần trong gia đình, bạn bè, quan hệ trong xã hội và đến tình yêu đối với Thiên Chúa. “Yêu Thiên Chúa” theo Đnl 6,5 trước tiên là hành vi vâng phục và tuân giữ các giới răn của Người. Yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi dâng hiến cả con người.
Ba khả năng “con tim”, “linh hồn” và “tâm trí” tượng trưng cho toàn thể con người. Kardia, “con tim”, là trung tâm của đời sống thể lý và tinh thần. Psychē, “linh hồn”, là trung tâm của cảm giác, ước muốn, cảm tính. Dianoia, “tâm trí”, là khả năng của sự hiểu biết. Con người phải yêu mến Thiên Chúa với tất cả các khả năng nầy. Hơn nữa, bản văn luôn lập lại “của ngươi” (tính từ sở hữu ngôi thứ hai số ít) và “tất cả” ở mỗi khả năng trên: “hết lòng người, hết linh hồn người và hết trí khôn ngươi”. Điều nầy cho thấy đây là một đòi hỏi nơi mỗi người và là đòi hỏi trọn vẹn. Như thế, “yêu mến Thiên Chúa” không là một tình cảm, mà là sự dấn thân trọn vẹn và hướng trọn vẹn chính mình về Thiên Chúa qua việc nhận biết Người và sống cho Người.
Câu 38 là riêng biệt của Matthêô. Ông khẳng định tầm quan trọng của giới răn “yêu Chúa” và dùng cả hai chữ “lớn nhất” và “trên hết”. Làm như thế là ông đóng khung lại giới răn và muốn đặt ưu tiên cho giới răn nầy.
Chúa Giêsu nói đến giới răn thứ hai: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi” (22,39). Lần nữa, tính từ sở hữu “đồng loại của ngươi” và đại từ phản thân “chính ngươi” được đặt liên hệ với nhau. Giới răn thứ hai nầy trích từ sách Lêvi 19,18; Hai giới răn đã không được liên kết với nhau trong Cựu ước. Trong câu 5,43, plesiōn “đồng loại” “người lân cận” được đặt đối nghịch với “kẻ thù”, “Hãy yêu thương đồng loại và ghét kẻ thù”. Và tiếp sau đó ở câu 5,46 đối tượng của yêu thương là “yêu người yêu mình”. Như thế, plesiōn trước tiên là người mình có tình cảm hỗ tương; vì thế ở câu 19,19, plesiōn được đặt bên cạnh cha mẹ mà con người phải hiếu thảo. Trong Cựu ước, rēa‘ chỉ bạn bè, người lân cận, người đồng hương, người sống chung một lãnh thổ. Tuy nhiên, trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy tình yêu đối với tha nhân nầy vượt qua biên giới bà con, họ hàng, dân tộc. Tha nhân là người có nhu cầu và cần được giúp đỡ. Và “yêu thương tha nhân” là để tình yêu mỗi người có trong mình hướng dẫn mình làm mọi điều tốt cho người khác (x. 7,12).
Sau cùng Chúa Giêsu đã liên kết hai giới răn nên một và cho thấy tầm quan trọng của chúng: “Toàn thể lề luật và tiên tri đều qui về hai lề luật ấy” (c. 40). Chữ “qui về” dịch từ động từ kremannymi “treo vào” “gắn vào”. Động từ nầy gặp trong 18,6 nói về “treo cối đá vào cổ” (18,6); hay “một người bị treo vào thập giá” (Lc 23,39). Theo nghĩa đen, để có thể treo vào, cần một một vật chính làm điểm tựa hay cột trụ. Vật treo vào hoàn toàn lệ thuộc vào điểm tựa ấy. Ở đây, động từ kremannymi được dùng theo nghĩa bóng. Hai giới răn yêu thương là cột trụ. Toàn thể lề luật và tiên tri phải bám chặt vào hai giới răn nầy mới tồn tại và có ý nghĩa. Không gắn liền với hai giới răn yêu thương nầy toàn thể việc giữ luật sẽ rơi vào duy luật và mất hết ý nghĩa của nó.
Giới răn yêu thương Thiên Chúa và người khác là ý muốn lớn nhất và trên hết của Thiên Chúa. Người muốn con người đáp lại cách cá nhân và với trọn vẹn tình yêu của mình.
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
- Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu trong đoạn văn này nan giải ở điểm nào? Phải chăng đây chỉ là một cạm bẫy?
- Câu trả lời của Chúa Giêsu độc đáo ở điểm nào?
- Những “cuộc họp nhóm” (c.34) phải chăng thường là điềm lành trong Tin Mừng Mt?
- Tại sao Chúa Giêsu không trích dẫn một giới răn nào của Thập giới?
- Phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn nói lên đâu là giới răn trọng nhất mà thôi? Nói cách khác, việc Người đơn giản hóa phải chăng là vì quên sót? Vì muốn loại bớt thay vì muốn triệt để hóa?
***
- Trong cơ cấu văn chương của Mt, các câu này phải được hiểu như là một trình thuật về cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu với các địch thủ của người. Sau những câu hỏi về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế (cc. 15-22). Vấn đề kẻ chết sống lại ( cc.23- 33), là đến những câu hỏi về giới răn trọng nhất (cc. 34-40) rồi về Con vua Đavít (cc.41- 46) ; bốn đề tài này là những đề tài được tranh luận nhiều nhất nơi người Do thái thời Chúa Gíêsu.
- Khi các giáo sĩ ghi nhận sự đa phức của các giới răn, thì bao giờ cũng là để nhấn mạnh tầm quan trọng ngang nhau của chúng, từ giới răn nhỏ nhất đến giới răn lớn nhất: cũng như ai lỗi phạm mọi giới răn là cởi bỏ ách luật, đoạn tiêu Giao ước, và ngang nhiên chống lại Lề luật, thù cũng thế, ai chỉ lỗi phạm một giới răn là cởi bỏ ách luật, chống lại lề luật và đoạn tiêu giao ước” (Mekhilta sur l’exode 6), “Uớc gì giới răn nhỏ cũng được ngươi mến yêu như giới răn lớn ” (Sitré sur le Dt 12, 28), “Nếu bắt đầu nghe chút ít, cuối cùng người ta sẽ nghe nhiều… đến nỗi giới răn ít quan trọng cũng được người yêu mến như giới răn lớn lao” (ibld. 13, 19) “Nếu lỗi phạm điều luật hay yêu mến tha nhân như chính mình, thì cuối cùng người ta sẽ phạm luật: không được báo thù, không được giận ghét, và đi đến chỗ đổ máu tha nhân” (ibid.19, 11).
Tinh thần nệ luật tỉ mỉ này, như mọi tinh thần nệ luật đã phát sinh khi thì một niềm vui chân thành trong sự tuân phục, khi thì một niềm tự mãn có tính cách biệt phái (coi Lc 15,29), lúc lại một mối lo âu nơi những ai không thể nào thỏa mãn vô số giới răn cổ truyền (x.Mt 19, 18). Theo truyền thống của Hội đường, Lề luật gồm 613 giới luật tích cực, trong đó có 365 điểm cấm và 248 qui định. Từ lâu người ta đã muốn tổng hợp chúng lại và đưa ra những đường nét chính yếu (Đavít rút gọn các giới răn vào 11 điều chính: Tv 15, 2- 5 ; Isaia vào 6: Is 33, 15; Mica vào 3: Mca 6, 8 ; Amốt vào 2: Am 5, 4 ; Habacuc và 1: người công chính sống bằng tín trung: Hb 2, 4), nhưng vẫn không sao giờ thực sự vượt qua được tính cách tỉ mỉ quá độ của nền đạo đức này.
Thành thử tính cách độc đáo của bản văn chúng ta không nằm trong ý tưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, mà Cựu ước lẫn Do thái giáo đều quá biết rõ, nhưng trong việc chúng được đưa lại gần nhau và trong chỗ đứng tối thượng mà Chúa Giêsu ban cho “bảng tóm lược” Lề luật này. Vì cả hai giới răn ấy nằm trong những đoạn rất xa nhau của Cựu ước cũng có thể thêm rằng giới răn về tình yêu tha nhân chỉ dược ghi lại một cách rất sơ sài: “Người sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngoại, song ngươi sẽ yêu đồng loại ngươi như chính mình; Ta là Giavê ” (Lv 19, 18).
- Nhưng Chúa Giêsu không chỉ thiết lập một phẩm trật giữ các giới răn, đặt hai giới răn về tình yêu đứng đầu 613 qui định của Lề luật, theo kiểu một sự cận kề, mà còn thêm: “Toàn thể Lề luật và các ngôn sứ đều qui vào hai giới răn ấy” (c.40). Thế nghĩa là gì’? “Lề luật và các ngôn sứ ” là một thành ngữ thông dụng, một kiểu nói chỉ cái biểu thức sống động của ý muốn Thiên Chúa như đã được ghi vào toàn bộ Thánh Kinh. Vậy phải chăng có thể giản lược vào một công thức ngắn ngủi và cô đọng như thế cái ý muốn thần linh đã được ghi vào trong rất nhiều sách và đã được biểu lộ trong nhiều thời kỳ khác nhau? Phải chăng có một cách diễn tả một cách biểu lộ thiên ý mà tóm tắt được mọi cách diễn tả khác? Hay là xét về phía con người, phải chăng có một phương thế để thực hiện thánh ý Thiên Chúa đã được mặc khải rất nhiều lần và nhiều cách, nếu người ta chỉ cần giữ một giới răn hay hai giới răn nhưng được gồm lại một? Lời của Chúa Giêsu đáp trả rõ ràng cho câu hỏi đó và vì thế đã thiết lập một Luật mới thật sự. Giới răn đôi về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân thật ra gồm tóm mọi giới răn khác. Và ta có thể xác quyết ngược lại là mọi giới răn khác rốt cục đều quy về giới răn ấy. Thật là một giáo huấn mới mẻ. Vì Chúa Giêsu không chỉ nói đâu là giới răn trọng nhất, mà còn bảo mọi giới răn khác thực ra được gồm tóm trong nó. Quả là một cuộc giải phóng kỳ diệu cho con người ! Con người không còn phải lo lắng giữ cho được 248 điều truyền và 365 giới cấm nữa. Họ chỉ còn giữ hai giới răn thôi. Ai thực sự hoàn thành những gì đòi hỏi trong hai giới răn ấy thì có thể tin chắc rằng mình đã hoàn tất Lề luật và như thế hoàn tất thánh ý đích thực của Thiên Chúa. Kể cũng ích lợi nếu xem thêm những phát biểu song song về giáo huấn này của Chúa Giêsu trong Mt 7, 12 (luật vàng) ; Gl 5, 14 và Rm 13, 8-10.
Giáo huấn Chúa Giêsu đưa ra trong cuộc tranh luận với người Biệt phái hôm nay, chúng ta đă từng biết đến qua Bài giảng trên núi; nhưng ở đây nó được nhắc lại một cách rõ ràng và được nhấn mạnh nhiều hơn. Mọi cố gắng của con người phải xuất phát từ một căn nguyên và tiến đến cùng một cùng đích: tình yêu. Con người đã không chỉ được tạo dựng để vâng phục Thiên Chúa như vâng phục chủ và chúa của mình nhưng còn để yêu mến Ngài như Cha. Việc vâng lời chỉ trở nên đích thực nhờ tình yêu mến. Thiên Chúa không mong có những tên nô lệ đầy sợ hãi, nhưng muốn có những người con tự do. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mạch của mọi lòng hiếu thảo vậy.
Tình yêu đối với tha nhân cũng phải phát xuất từ cùng nguồn mạch đó. Ta đã biết “tha nhân” không chỉ là người đồng hương, người đồng xứ, theo như quan niệm cổ hũ Do thái đương thời nữa. Mọi người có thể là tha nhân của tôi; nhưng thực tế không tất nhiên như vậy, vì người ta rất dễ trốn vào trong tình yêu đối với tha nhân xa xôi, rất dễ chọn lựa đối tượng xa vời nhất của tình yêu chân chính; nên cụ thể ra, tha nhân là hết mọi ai mà tôi có liên hệ cách cụ thể và đích thực. Tình .yêu của môn đồ Chúa Giêsu không được có giới hạn biên cương. Gương mẫu của họ là tình yêu của chúa Cha, Đấng cho mặt trời soi chiếu trên kẻ dữ cũng như người lành, và làm mưa trên người công chính lẫn hạng bất lương (5, 45). Trong mọi tương quan với hết mọi người, qui tắc bao giờ cũng vẫn là một: chính tình yêu tạo nên sức mạnh sinh động và làm cho các mối tương quan đích thực, giữa nhân vị này với nhân vị kia được thiết lập dễ dàng.
Ta thấy từ bản văn này toát ra một tư tưởng cao siêu chừng nào về cuộc sống con người. Chính nhờ tình yêu mà cuộc sống được tạo thành và phải trở nên duy nhất, không một nứt rạn rẽ phân. Chẳng còn ai bị bắt buộc phụng phí sức lực của mình trong một rừng qui định, luật điều, khuyến cáo nữa. Đối với môn đồ Chúa Giêsu, chỉ có một điều đáng kể, đó là thái độ thâm sâu của mình. Trong bối cảnh ấy, thật dễ hiểu rằng ta không bao giờ bị ép buộc phải cứ mãi đi tìm một câu trả lời cho một trường hợp cụ thể, vì ý của Thiên Chúa luôn luôn được xác định rõ nếu ta có một tình yêu thật lớn.
Chúa Giêsu không nói, ít ra trong đoạn Tin Mừng này, phải thực hành hai giới răn ấy làm sao. Phải chăng đây là hai đường hướng khác biệt, một đàng yêu mến Thiên Chúa, một đàng yêu mến tha nhân? Phải chăng tình yêu khác nhau trong cả hai trường hợp? Nhưng Người, qua cuộc sống, chỉ cho ta thấy đâu là tương quan giữa hai tình yêu đó. Trong đời Người, việc hoàn thành tôn ý của Thiên Chúa và tình yêu phục vụ nhân loại được nối kết trong cùng một thực tại duy nhất. Dĩ nhiên vì tình yêu tha nhân mà Người hoàn tất công trình cứu chuộc, nhưng tình yêu ấy không tách khỏi tình yêu Thiên Chúa, vì đó là ý Chúa Cha (20,28). Ta cũng thấy điều này được phát biểu một cách tuyệt diệu trong thư các sứ đồ và đặc biệt trong đoạn thời danh sau đây: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì cho là kẻ nói dối; vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng nó chẳng thấy bao giờ. Và đây là lịnh tuyền ta đã lĩnh lấy nơi Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì hãy yêu mến anh em” (1 Ga 4, 20-21).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Biệt phái tụ họp lại một chỗ”: Kiểu nói được dùng ở đây (“sunôthêsan epi to auto”) là một trích dẫn nguyên văn từ Thánh vịnh 2,2: “Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (dịch sát chữ: “tụ họp lại một chỗ” (sunêthôsan opi to auto) chống lại Giavê và Chúa Kitô của Ngài”. Thế mà, trong 26, 3 Mt sẽ còn dùng lại cùng động từ ấy (ở cùng một cách, một thì, một ngôi) để diễn tả âm mưu tại nhà Caipha giữa các thượng tế và các kỳ lão nhằm giết Chúa Giêsu. Qua sự tương đồng ấy, Matthêu ngụ ý là những cuộc tranh chấp trong chương trình này chỉ là mào đầu cho cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá. Những cuộc tụ họp như vậy của các đầu mục trong dân hay được Matthêu nhắc lới (2, 4; 22, 41; 26, 3. 57; 27, 62; 28,12) và thường là điềm dữ.
“Để làm Người lúng túng”: dịch sát chữ: “Để thử Người” Matthêu cũng dùng động từ này (pelrazein) ở 22, 18 nơi kể lại chuyện người ta “thử” Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng luôn luôn là dùng cạm bẫy trong cả đoạn.
“Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật”: Lời giải thích được yêu cầu thật đặc biệt quan trọng, vì đây không phải là giải thích một trường hợp cụ thể, đặc thù nhưng là làm sáng tỏ một đòi hỏi luân lý trong chính bản chất của nó. Bản văn hy ngữ dịch sát chữ như sau: Đâu là giới lăn lớn trong Lề luật. Nhưng hình thức nguyên cấp (positio của tĩnh từ lớn (megalê) có giá trị tuyệt đối cấp (superlatio, như thường thấy trong Hy ngữ bình dân (Koinè) và trong bản 70 chịu ảnh hưởng của Hy bá, nhất là nếu sau nó có một danh từ tập hợp, ở đây là Lề luật, hiểu theo nghĩa toàn bộ các giới răn.
“Ngươi phải yêu mến…”. Trong việc triệt để hóa Lề luật này, không có vấn đề đơn giản hóa bằng cách loại bỏ những điều lệ phụ tùy (mà Chúa Giêsu lẫn môn đồ đều tuân giữ) cho bằng là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy chúng bắt nguồn từ trong ý định tối cao của Thiên Chúa. Còn về hình thức phát biểu của giới răn này, đừng tìm cách phân tích đâu là những phạm vi tương ứng của lòng, của linh hồn, của trí khôn: ý nghĩa trùng tích của các thành ngữ là: tình yêu phải có tính cách toàn diện, nghĩa là phải động viên tất cả con người; dầu sao, chỉ cần một từ ngữ thôi, như “lòng” chẳng hạn, cũng đủ để ám chỉ toàn thể con người; các tiếng khác thuộc về kiểu nói hùng biện; lòng và tư tưởng (hy lạp: dianoia) là tiếng dịch chữ lòng (hy bá: leb) của Cựu ước; không nên nghĩ đến một chức năng đặc biệt nào đó của trí tuệ suy luận; trí tuệ được vận dụng vì toàn thể con người dấn thân.
“Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất”: Chữ “và” nối liền hai tĩnh từ lớn và đệ nhất chắc có nghĩa giải thích hơn là có nghĩa cộng thêm: giới răn này đứng đầu hết vì nó quan trọng nhất xét về nội dung và ngược lại; tĩnh từ đệ nhất không muốn nói là giới răn đứng đầu nhiều giới răn khác nhưng là đứng đầu tất cả xét về phương diện ý nghĩa, vì chính nó đem lại ý nghĩa đích thực cho mọi giới răn. Bởi vậy kiểu nói thứ đến cũng giống như điều ấy chẳng có nghĩa là: ở hàng thứ hai xét về bậc quan trọng, nhưng là: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất; giới răn thứ hai không thể so sánh, hay tương tự như giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng cửa cái mà nó dạy truyền; tuy nhiên nó không đồng nhất theo nghĩa có thể chuyển hoán: tình yêu tha nhân chẳng được đồng hóa với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như mến yêu Thiên Chúa.
“Toàn thể Lề luật cùng các sứ ngôn”: Chúa Giêsu hoàn toàn đứng trên lãnh vực các Sách thánh đã được ban cho tổ tiên dân Do thái. Người không phát minh điều gì; tầm quan trọng của hai giới răn này dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả các Sách Thánh; nhưng đàng khác, Chúa Giêsu đã tái giải thích các Sách Thánh ấy khi mặc khải ý nghĩa thâm sâu của chúng ra (x Rm 13, 9).
KẾT LUẬN
Cái mang lại cho giới răn này uy tín và sự cao cả, chính là vì Chúa Giêsu đã phát biểu nó lên và cho nó là lớn lao, quan trọng. Người không mang đến (hay chưa mang đến) một giới răn mới mẻ, nhưng Người mặc cho giới răn cũ giá trị đích thực củ a nó. Câu trả lời của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời của một ký lục, song là của Chủ lề luật. Chính người công bố nó và hoàn thành nó (5,17). Và chính việc người hoàn thành Lề luật đã đem lại cho Lề luật một tính cách mới mẻ thực sự. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không phải chỉ là hai thái độ nhân loại được truyền làm; chúng được hiện thân trong con người của Chúa Giêsu. Chính vì đến để hoàn tất Lề luật và các ngôn sứ qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh, mà Người có thể tuyên bố với uy quyền rằng tất cả nội dung của Cựu ước đều được “quy về” giới răn mến Chúa và yêu người. Chính trong Người mà không những Lề luật dưới hình thức giới răn, nhưng cả lời hứa về ân sủng đã do các ngôn sứ loan báo, đều tìm được sự thành tựu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Yêu tha nhân không có nghĩa là yêu họ chỉ vì Thiên Chúa đòi buộc, chỉ vì để vâng lời Ngài. Mối dây Chúa Giêsu thiết lập giữa hai giới răn chẳng phải là một mối dây ngoại tại, pháp lý, tự ý người bày ra, song là nằm trong lý luận của Thiên Chúa, trong chính bản chất của sự vật mà Ngài đã tạo dựng, rằng là ta không thể yêu Ngài mà yêu anh em. Và không phải làm như thể là vì anh em, mà trong thâm tâm lại làm vì Thiên Chúa. Thiên Chúa đích thực chẳng phải là sản phẩm của những ước vọng và những tưởng tượng đạo đức của con ngươi. Ngài đã đi vào trong lịch sử của chúng ta đã can thiệp vào đó bằng cách trở nên liên đối với con người. Ngài đồng hóa với con người (Cv 9, 5: “Ta là Giêsu người đang bắt bớ”) đến nói từ đây ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ (như Thiên Chúa yêu họ vì họ chứ chẳng phải vì Ngài, vì tình yêu này không đem lại cho Ngài gì cả) ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu, cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
- Một cách cụ thể, phải yêu tha nhân thế nào? Chẳng phải bằng tình cảm (vì có một vài thứ ác cảm tự nhiên hầu như không thể vượt qua) cho bằng là qua thái độ và hành động. Thánh Phaolô đã mô tả cho chúng ta lòng bác ái đích thực như sau: “Đức ái thì khoan dung, nhân hậu; đức ái không ghen tương; ba hoa, tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ; không cáu kỉnh, không chấp nhất sự ác, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lẽ phải. Trong muôn sự, đức ái hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn” (1Cr 13, 4-6). Khi tìm cách tha thứ lỗi lầm của tha nhân, khi luôn hy vọng họ trở nên tốt hơn cho dù bề ngoài thế nào chăng nữa, khi chấp nhận họ như họ đang là, lúc đó chúng ta mới thương yêu thực sự, lúc đó chúng ta mới thật là con cái của Thiên Chúa.
(Chú giải theo Fiches Dominicales)
VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Vấn đề cạm bẫy về “điều răn lớn nhất”
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy niệm trong các Chúa nhật 26, 27 và 28 đã chẳng làm cho các kẻ thù địch Chúa phải câm miệng, mà con châm ngòi một loạt các cuộc tranh cãi khác. Họ liên minh với nhau và lần lượt thử Chúa cốt làm cho Người phải rơi vào bẫy của vấn đề họ đặt ra. Trước hết -Phúc âm tuần rồi- là sự xoay sở của đám “môn đệ những người Pharisiêu cùng đi với những người phe Hêrôđê”. Họ tới hỏi Chúa một câu, bấm bụng rằng bẫy đặt ra như vậy là không tài nào tránh thoát: “Xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho César hay không?”. Nhưng Đức Giêsu chẳng để mình bị kẹt chút nào trong thế lường đao của họ, mà đã chuyển hướng vấn đề, và nhìn vào hình tượng in trên đồng tiền mà họ đưa cho coi Người đã tuyên bố: “Của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Một câu trả lời đã khiến cho đối phương của Người không nói thêm được câu nào nữa: “Họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi”. Tiếp đến -đoạn chuyển tiếp không có trong sách Bài đọc năm A- là ngón xoay sở của những người “phe Sadducée”? nhóm này chủ trương “không có sự sống lại”. Họ đem câu chuyện kỳ cục về một phụ nữ, có bảy đời chồng, hy vọng chế giễu chính Đức Giêsu, và lòng tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ điều Thiên Chúa mạc khải trong câu chuyện về bụi gai rực cháy ở sách Xuất Hành 3,6: Đấng đã tỏ mình ra với ông Môsê như là “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Khi nghe tin Đức Giêsu “đã làm cho nhóm Sadducée phải câm miệng”, thì đến lượt những người Pharisiêu trở lại vào cuộc. Nhưng lần này là một nhóm; một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để “thử Người” rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất”. Nên biết rằng, thời đó, sách Luật gồm, không hơn kém 613 điều răn; các kinh sư phân ra 365 điều cấm (bằng với số ngày trong năm) và 248 điều truyền (bằng với số bộ phận trong cơ thể con người). J.Potin giải thích: “Cuộc tranh luận về điều răn nào lớn nhất tạo nên mối xung khắc giữa những người Pharisiêu chủ trương 613 điều răn đều quan trọng như nhau, với những ai ước mong phải có tôn ti đẳng cấp, rõ hơn có thể giải thích cho người ngoài biết đâu là điều cốt yếu là bản chất của đạo”. (Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, NXB Centurion, 1994, trang 376).
- Dẫn vào điểm cốt lõi của Tân Ước.
Đức Giêsu đã trả lời thật khôn khéo vấn đề của những người Pharisiêu về việc nộp thuế cho César – Người đã trích dẫn Lời Chúa để phá vỡ mưu đồ của những người phe Sadducée. Còn về giới răn lớn nhất, thì câu trả lời Người là thẳng thắn, không do dự, nhắm thẳng đích. Đức Giêsu không nhắc nhở họ về lời ban bố của sách xuất Hành, đoạn 20: Mười Điều răn Đức Chúa Trời. Người trích dẫn hay đúng hơn, Người đọc thuộc lòng lời tuyên xưng lòng tin của sách Đệ Nhị Luật 6,4-5 mà mọi người Do Thái vẫn đọc khi đi ngủ cũng như khi thức dậy; lời này được ghi trên các thẻ linh mà những người Pharisiêu vốn đeo trên trán là trên cánh tay một lời khẳng định tính cách duy nhất của Thiên Chúa mà theo sau là giới răn yêu mến Thiên Chúa, một tình yêu phải thấm nhập vào tận đáy lòng, sức lực và ý nghĩ: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em…” Nhưng điểm độc đáo của Đức Giêsu là Người gắn liền “điều răn thứ nhất” này với điều răn thứ hai: ‘cũng giống điều răn ấy’: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Lv 16,18). Làm như vậy không những Người diễn tả được “Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn sứ nghĩa là tập trung tất cả vào hai giới răn đứng đầu này, không có vậy thì mọi điều răn khác đều mất hết ý nghĩa, nhưng Người còn tỏ cho thấy bí quyết của chính cuộc đời Người, một cuộc đời tự hiến vì yêu mến Cha và yêu thương các anh em của Người. Cl Tassin chú giải: “Hai điều răn này chi phối toàn bộ Kinh Thánh (Luật Môsê và sách Ngôn sứ) không phải để bãi bỏ Kinh Thánh, nhưng là để đọc Kinh Thánh mà thấy rõ hơn. Và, trong Kinh Thánh, lòng yêu mến không dính dáng gì với thứ tình cảnh bồng bột, đổi thay tuỳ cảm xúc; lòng yêu mến đây chính là sự quyết định gắn bó với một ai đó mà mình cho người ấy có quyền trên mình và là những hành động cụ thể nuôi dưỡng quyết định này… không bao lâu nữa Đức Giêsu sẽ dùng cuộc khổ nạn của Người “và chứng tỏ rằng Người là hiện thân chính lòng yêu mến Thiên Chúa là lòng yêu thương mọi người này” (“Phúc âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 236).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Một lời để ghi nhớ: Ngươi phải yêu mến” (Giám mục L. Daloz “Le Règne des Cieux sest approché”. Desclée de Brouwer, trang 309-311).
Đúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là những giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên tính lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy, giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bừng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình. Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến! Giới răn yêu thương có hai mặt hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay: Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là: “ngươi phải yêu người thân cận, như chính mình”. Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết tn khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, và con người được tạo nên cho cõi vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hoá con người! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận, như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các Ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hoá với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời. Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất, còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ dội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người.
Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa? Quả thực, đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo. Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiến, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Linh điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình thì bạn sẽ gặp!
- “Một từ tóm tắt tất cả Phúc Âm: yêu mến” (H. Denis “100 mots pour dire la coi” Desclée de Brouwer, trang 31-32).
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ Tình yêu một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta? Nhưng vậy thì có nhiều cách yêu mến ‘không” Chắc hẳn là có rồi, nên trong vấn đế này, tôi vẫn cứ theo gót” nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustino. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến.
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: Thích được yêu (aimer tres aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay, có ai mà lại không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng môi dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi; nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: Thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này, người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại có vị tha. Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thêm khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bố nông tự để cho con da thịt mình. Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chúng. Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một ‘bệnh nhân nào đó, di uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng. Tất cả thái quá trong lãnh vực này – quảng đại thái quá – có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi. Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer). Có thế thôi. Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì; ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của “tình cho không, biếu không”. Hãy nhìn nhận điều này: Ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần Linh tình yêu, khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritano nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người Cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về. Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
(Suy niệm của Lm Louis Minh Nhiên)
Một em bé tuyên bố em yêu mẹ em hết sức của em. Người bác hỏi xem em nói điều đó có ý nghĩa gì. Em trả lời: “Thưa Bác, cháu và mẹ cháu sống ở tầng lầu thứ ba trong khu nhà thuê. Nhà này không có thang máy, và đống củi thì để ở dưới hầm nhà, dưới basement. Mẹ cháu bận rộn suốt ngày và người cũng không được khoẻ cho lắm. Vì thể bổn phận và trách nhiệm của cháu là đem củi từ dưới hầm lên lò sưởi trên nhà. Cháu đã phải dùng hết sức của cháu để có thể bê củi lên đến tầng lầu thứ ba. Như vậy chẳng phải là cháu yêu mẹ cháu hết sức đó sao?”
Là Kitô hữu, chúng ta thường tự hỏi: Đâu là mức độ chúng ta phải yêu Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay bảo chúng ta rằng, trước hết chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và thứ hai là thương yêu tha nhân như chính mình.
Chúa Giêsu trích hai điều luật này trong sách thánh Cựu ước. Điều luật thứ nhất về yêu mến Thiên Chúa trích ở sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và điều luật thứ hai về yêu thương tha nhân trích sách Lêvi (Lv 19,18).
Như chúng ta đã biết căn bản của đạo Do thái gồm tóm trong 10 giới răn Chúa trao cho ông Maisen. Từ những giới răn này, các thầy thông giáo đã thêm thắt thành 613 luật riêng rẽ, chia ra 248 luật phải giữ và 365 luật cấm. Vì vậy thật khó mà nhớ hết tất cả các luật đó để giữ và chu toàn một cách tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Do đó việc nhận biết khoản luật nào quan trọng hơn mà giữ là điều cần thiết.
Khi Chúa Giêsu nối kết hai khoản luật thành một, Ngài có ý cho chúng ta hiểu rằng mến Chúa yêu người đó là hai mặt của một đồng tiền.
Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhiều người đã bỏ thế gian, trở thành những thầy dòng khổ tu, sống hãm mình khắc khổ trong sa mạc. Một dịp mùa chay nọ, một nhóm thầy dòng cùng với Đức Viện phụ Maisen quyết định ăn chay tuần lễ thánh. Tuy nhiên, vào khoảng giữa tuần, một vài thầy dòng ở một tu viện khác đến thăm chòi của Đức Viện phụ Maisen. Thấy họ đói, Đức Viện phụ thương hại và nấu cho họ chút đồ ăn, và để cho họ khỏi nghĩ ngợi, Đức Viện phụ cũng dùng chút ít.
Trong khi đó, các thầy dòng khác thấy khói bốc lên từ chòi của Đức Viện phụ. Điều đó chỉ có nghĩa là Đức Viện phụ đã nấu đồ ăn. Nói một cách khác, ngài đã vi phạm luật giữ chay. Họ sửng sốt và thương hại cho sự yếu đuối của Đức Viện phụ.
Họ đến chất vấn ngài. Đức Viện phụ bước ra khỏi chòi và hỏi: ” Tôi đã phạm tội gì mà các thầy nhìn tôi một cách khủng khiếp quá như vậy?”. Họ trả lời: “Đức Viện phụ đã vi phạm luật chay mà chúng ta tình nguyện giữ vì yêu Chúa Kitô tử giá”. Đức Viện phụ đáp: “Phải, tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi đã không giữ luật của con người, nhưng trong khi chia sẻ đồ ăn với những thầy dòng nầy, tôi đã giữ luật của Thiên Chúa. Các thầy không nghĩ là Chúa Giêsu cũng làm như vậy sao? Các thầy ạ, các thầy đã xé tin mừng của Chúa ra làm hai. Có hai giới răn trọng, chứ không phải chỉ có một. Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, và yêu tha nhân như chính mình. Chúng ta không vào sa mạc để xa tránh nhân loại và để sống một mình với Chúa. Chúng ta đến đây để tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ trong Thiên Chúa”. Các thầy dòng ra về khiêm nhường và khôn ngoan hơn.
Có lẽ nếu không để ý chúng ta cũng đã phạm cùng một lầm lỗi các thầy dòng, các luật sĩ và biệt phái đã phạm, đó là nghĩ chỉ có một giới luật yêu mến Chúa. Chúng ta có thể chu toàn lề luật siêng năng đi lễ, ăn chay, đọc kinh cầu nguyện, đi hành hương Đất Thánh, hoặc nơi này nơi kia… mà quên đi giới luật yêu thương tha nhân.
Ngược lại, số người khác theo chủ thuyết duy nhân nhân bản, chú trọng giúp đỡ con người, nhưng lại không bao giờ nghĩ đến Thiên Chúa hay cầu nguyện với Ngài.
Thiên Chúa truyền dạy chúng ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Yêu Chúa nhiều thì không dễ, và yêu tha nhân – những con người với nhiều khuyết điểm thiếu sót – lại càng không dễ hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: Đạo chúng ta là đạo của tình thương, và phải chăng thước đo lòng đạo của chúng ta là những kinh kệ dài dòng và biểu dương tôn giáo, hay chính là tình yêu mà chúng ta thể hiện với tha nhân?
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là: “Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 22, 34-40: Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”…
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác. Họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa Giêsu:
“Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì chắc chắn Chúa sẽ bị một trong hai phe chống đối.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”. Đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21)[1]
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “Mến Chúa Yêu Người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe. Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó – chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
“Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?” Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe… Cậu bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! Nhưng em … em … không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại…Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng”.
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường. “Có một người… anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá”. Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường. Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà. Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé.
Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
—————————-
[1] JKN, CN 30A TN
(Suy niệm của Lm. Vũ Nghi)
Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy: “Các con hãy thương yêu nhau.” (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về. Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.
Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn… và hãy yêu thường anh em như chính mình.”
Mến Chúa và yêu người, đó là hai khoản luật Thiên Chúa quan tâm chú trọng ngay từ những ngày đầu tiên con người xuất hiện trên trái đất, và cũng là hai khoản luật con người đã lỗi phạm ngay từ những trang sử đầu tiên của nhân loại.
Vì nguyên tổ đã không hết lòng tin tưởng ở Thiên Chúa, nên đã tin lời của ma quỉ; vì ghen tương, Cain đã giết chết em mình. Đến thời Xuất Hành, khi Thiên Chúa ban bộ luật cho dân Do thái, một lần nữa, hai khoản luật quan trọng vẫn là hết lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê (Đnl 6,5), và yêu thương anh em đồng loại như chính mình, cách riêng những người nghèo hèn yếu thế (x Lv 19,18.33-34)
Dẫu vậy, khi Chúa Giêsu liên kết hai giới luật này, và coi hai điều này là giới luật cao trọng nhất trong toàn bộ lề luật, Chúa đã làm một điều mới lạ. Nhưng vấn đề ở đây là sao Chúa Giêsu lại làm như vậy.
Khi truyền dạy chúng ta “yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn”, đó là Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa với toàn diện con người của mình. Điều này có nghĩa là mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng về Chúa. Thiên Chúa có quyền đòi buộc điều này là vì chúng ta là thụ tạo của Người, và mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúng ta có thể tự tình phụng sự mến yêu Chúa và được hưởng hạnh phúc với Người; hay với sự tự do Chúa ban, chúng ta có thể từ chối phụng sự Chúa, và rồi sẽ phải lãnh chịu hiệu quả của quyết định đó.
Một khi chúng ta quyết định sống với Chúa trong tâm tình thờ kính mến yêu, chúng ta sẽ biết phải có tâm tình nào, hành động làm sao, nói năng thế nào, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống. Các giới luật khác lúc đó không còn là gánh nặng, nhưng là những nhắc nhở cho chúng ta về bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Chúa. Nhưng vì đối với Chúa, chúng ta không thấy, và cũng không cảm nghiệm được bằng giác quan, nên Chúa đã muốn chúng ta yêu mến Người qua các thụ tạo của Người. Theo lời Thánh Augustinô, “Vì chúng ta không nhìn thấy Chúa, nên Chúa đã muốn chúng ta thấy Chúa qua tha nhân. Vì khi yêu mến tha nhân, ánh nhìn của chúng ta được thanh tẩy nên trong sáng hơn để có thể nhìn thấy Thiên Chúa.” Dĩ nhiên lòng mến yêu này không phải là tình yêu tự nhiên, hay yêu tha nhân là vì một lợi lộc cá nhân nào đó, nhưng phải là tình yêu được bắt nguồn và phản ảnh chính tình yêu thương của Chúa Kitô: Một tình yêu rộng mở đến mọi người không kể giai cấp, mầu da, chủng tộc; một tình yêu quảng đại quên mình; một tình yêu nhạy cảm, cách riêng đối với những nghèo khổ, bệnh tật, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội.
Chắc rằng cho dù gia đình người Thụy sĩ có yêu mến gia đình người hàng xóm đến đâu đi nữa. họ cũng không đủ sụ quảng đại và kiên nhẫn để tiếp tục công việc bác ái đó trong suốt 3 năm trường, nếu lòng yêu mến đó không được nâng đỡ và thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa. Mến Chúa và yêu người do đó có một mối liên hệ thật mật thiết với nhau. Lòng mến Chúa cần được bày tỏ qua tình thương mến đối với tha nhân, và lòng yêu thương tha nhân chỉ bền vững và chân thành khi nó được nuôi dưỡng và nâng đỡ bởi tình yêu mến Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Mt 22, 34-40: Thiên Chúa qua Môisen đã huấn dụ dân việc yêu mến Thiên Chúa phải dẫn chúng ta đến việc biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người bé mọn, yếu thế, những người không có địa vị trong xã hội.
Suy Niệm:
Các giới răn của đạo Kitô giáo, hay đúng hơn là của Đạo Công Giáo dạy chúng ta về việc mến Chúa và yêu người. Thiết nghĩ, điều này không phải là do chúng ta tự đặt ra, nhưng giới răn yêu thương ấy đã có từ trong thời Cựu Ước.
Bài đọc thứ Nhất trích sách Xuất Hành cho chúng ta biết, Thiên Chúa qua Môisen đã huấn dụ dân việc yêu mến Thiên Chúa phải dẫn chúng ta đến việc biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người bé mọn, yếu thế, những người không có địa vị trong xã hội. Nếu chúng ta ức hiếp anh chị em mình, Thiên Chúa sẽ tính sổ với chúng ta, để trả lại công bằng cho anh chị em ấy. Vâng, những người có tôn giáo biết rằng những việc chúng ta làm không qua mắt được Thần Linh, vì thế mà cần phải tập sống ngay lành, mến Chúa yêu người như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau, nhất là với người khó khăn, cho vay mà không được lấy lãi. Giữ vật thế chân là chiếc áo làm mền đắp của người nghèo, thì khi đêm về phải trả lại cho họ đồ cầm cố đó trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Tuy nhiên, ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Đến thời Chúa Giêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Vì thế, Chúa Giêsu đã tóm kết qui luật mến Chúa và yêu người cách cụ thể hơn. “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.”
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy, nhưng thường thì người ta lại không thi hành. Con người ta nói mình yêu mến Thiên Chúa thì rất dễ, có khi chúng ta nại đến việc đọc kinh, dự lễ, miệng râm ran kinh Mân Côi vì lòng mến Chúa, nhưng lòng yêu mến anh chị em sống chung quanh ta thì lại rất khó. Vị thánh Tông đồ cho ta biết chúng ta đừng yêu nơi đầu môi chót lưỡi. Vâng, chúng ta không thể phục vụ anh chị em trong tư thế của một người đầy tớ nếu mình xử sự theo thói quan liêu, kẻ trên người trước, bố thí cho người dưới yếu thế. Đã có những con sâu làm rầu nồi canh làm cho nồi canh nhiễm bẩn. Nhưng không vì thế mà tinh thần đồng bào bị coi nhẹ. Nói đến tinh thần tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách, thậm chí lá rách đùm lá nát” thì dân tộc Việt Nam chúng ta không thua kém một dân tộc nào trên thế giới. Có những tấm lòng yêu thương anh chị em mình bằng những hành động biết nói.
Khi trận dịch bệnh xảy ra trên đất nước Việt Nam thân yêu, và ảnh hưởng trực tiếp trước tiên là tới những người nghèo, những người không có đủ lương thực hàng ngày thì nói gì đến việc tích trữ lương thực trong những ngày phải cách ly vì dịch bệnh, thì đã có những tấm lòng hảo tâm của người dân sáng kiến ra cây ATM gạo, những nơi sẵn sàng trao mì gói miễn phí đến người cần.
Hay trong những ngày bão lũ ở miền Trung của đất nước chúng ta hiện nay, báo đài hay nhắc tới ba địa danh chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão lũ là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế mà người dân quen gọi tắc bộ ba ấy là Bình-Trị-Thiên, thì cũng đã có nhiều hình ảnh thật đẹp không chỉ của Thủy Tiên, vợ cầu thủ bóng đá Công Vinh, mà còn rất nhiều tấm lòng hảo tâm của những người sẵn sàng làm thiện nguyện từ việc ủng hộ tiền của, vật chất, thậm chí các chị em phụ nữ dành ngày mừng 20/10 thật ý nghĩa bằng việc cùng nhau gói bánh tét chuyển tới cho anh chị em đồng bào của mình đang phải gánh chịu việc mất mát nhà cửa, người thân, không nơi khô ráo nương náo có được chút ấm lòng! Nườm nượp đoàn xe tải tiếp tế, cứu trợ khắp nơi từ Nam ra Bắc, từ cao nguyên xuống vùng rốn lũ, từ miền ngoài vào dãy Trường Sơn.
Lạy Chúa, ước gì lòng mến Chúa thương người nơi mỗi chúng con luôn là điểm then chốt cho chúng con sống đức tin của mình giữa lòng xã hội hôm nay. Amen.
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có”. Người thanh niên kia bật cười, bảo “nói chơi đó bác ơi”. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!!
***
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấm áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là “mến Chúa, yêu người”. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu ngời thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêm mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có “Mến Chúa” mà không có “yêu người”, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn “Mến Chúa và yêu người” mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng “Mến Chúa” thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hang ngày, năng tham dự các bí tích, và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ “hết”, chúng ta dã yêu được mấy chữ “hết” đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết lòng” khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, hay các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết linh hồn” khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết trí khôn” khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương dân, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
“Mến Chúa” đã khó, “Yêu người” lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. “Yêu người” như Chúa dạy là “Yêu như chính mình”. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriao viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
***
Lạy Chúa, bác ái chính là đồng phục của người Kitô hữu. Nếu ngày nào chúng con yêu anh em mà con tim sẽ thắt, thì xin nhắc cho chúng con nhớ lại Lời Chúa: “Điều gì các con làm cho người bé nhỏ nhất là các con làm cho chính Ta”. Amen.
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Kính thưa anh chị em!
“Kính mến Chúa, yêu thương người” giới răn này dễ hay là khó. Nói thì thật là dễ, nghe thì thật là hay và rất lãng mạn, có thể ai cũng muốn thực hiện và chinh phục; nhưng tại sao lại quá khó để thực thi được điều này? “Mến Chúa-yêu người” tuy là hai nhưng chỉ là một giới răn, giới răn của yêu thương. “Mến Chúa-yêu người” phải là kinh nghiệm sống từ lòng mến của ân sủng đến lòng mến sẻ chia, trao ban hồng ân, chứ không còn phải là giới răn-lề luật khó, không còn là một khái niệm, định lý hay châm ngôn sống nữa.
Tin mừng hôm nay, khi một người thông luật đến để hỏi thử Chúa: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Là người thông luật Do Thái, ông ta chắc chắn biết, nhớ rõ và học thuộc về các lề luật, nhưng tại sao ông muốn hỏi thử Chúa? Phải chăng có quá nhiều thứ lề luật, nên ông ta không phân định được đâu là trọng và nhẹ? Cũng có thể vì giới răn “Mến Chúa-yêu người” quá trừu tượng chăng, vậy nên các luật sĩ và những người Do Thái thông luật cũng không thể phân biệt cái nào trọng nhất. Nhưng tại sao với Chúa Giêsu “Mến Chúa-yêu người” lại là giới răn quan trọng nhất? “Tất cả các lề luật và Tiên tri đều tóm gọn trong giới răn này”.
Trong những ngày qua mưa bão, lũ lụt xảy ra liên tiếp ở Miền Trung Việt Nam, không ai trong chúng ta mà không khỏi đau lòng khi chứng kiến những hoàn cảnh rất thương tâm của những ACE bà con đồng bào ruột thịt của chúng ta đang phải gánh chịu. Những nỗi đau khổ khi mất người thân yêu, mất nhà cửa, tài sản, ruộng vườn…mưa to và nước lũ lớn đã cuốn trôi, mang đi tất cả. Trong những lúc tang thương, đau khổ như vậy, đã có rất nhiều người hy sinh, quảng đại xả thân đến sẻ chia, giúp đỡ, vừa tinh thần và vật chất. Những người đầy lòng hảo tâm đi thiện nguyện này, khi được hỏi về lý do và động lực nào mà giúp họ có thể làm những việc quá tốt lành vậy. Câu trả lời rất đơn giản, chỉ vì họ đã đón nhận được nhiều điều tốt lành và thuận lợi trong cuộc sống, nên họ muốn chia sẻ như lời tri ân. Tất cả vì muốn chia sẻ tình yêu thương với ACE, vì quá xúc động trước những hoàn cảnh khổ đau, những việc thiện nguyện hy sinh chia sẻ, cảm thông như vậy được thực hiện. Điều đáng trân quý là, có những người trong số đó, khi làm việc thiện nguyện, họ không phải là người Kitô hữu; có thể họ không hay chưa biết về giới răn quan trọng nhất là “Mến Chúa-yêu người”, nhưng công việc bác ái-yêu thương đã được trao ban, sẻ chia chỉ vì từ tấm lòng đến tấm lòng.
Bài đọc một trong sách Xuất hành, Thiên Chúa cũng đã chỉ dạy dân chúng hãy yêu thương, quan tâm sẻ chia với những người nghèo khổ, những khách ngoại kiều, kẻ cô nhi, người góa bụa. Vì rằng nơi những con người đáng thương, đang bị lãng quên và bị loại ra bên lề xã hội này. Họ cũng chính là người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống với hình ảnh của Ngài. Tiếng kêu cứu than van của họ đã chạm đến lòng từ bi-nhân lành của Thiên Chúa. Do đó, việc yêu thương giúp đỡ những con người phận nhỏ này cũng phải là căn tính của con cái Chúa, điều mà Chúa đã đặt để trong chính lòng dạ của mỗi con người chúng ta. Thật là không đúng, nếu chúng ta không quảng đại giúp đỡ ACE mình, mà còn tệ bạc hơn nếu chúng ta vì tư lợi mà áp bức, bóc lột hay trục lợi vì những hoàn cảnh đáng thương này của ACE.
Còn với chúng ta, những người mang danh là Kitô hữu, là con cái Chúa, chúng ta đã có thái độ, phản ứng hay những hành động gì trước những hoàn cảnh rất thương tâm của AEC chúng ta. Có thể ai trong chúng ta cũng muốn giúp đỡ, sẻ chia; nhưng cũng có thể chúng ta không biết phải giúp thế nào; cũng có thể, chúng ta đang bất lực, tuyệt vọng chẳng làm được gì cho người khác. Chúa dạy chúng ta “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” Thật là khó để cho chúng ta có thể sống thực hiện và chu toàn giới răn quan trọng nhất này. Khó thật với sức của con người, nhưng không phải là không có thể được. Để có thể thực hiện, điều duy nhất mà chúng ta cần có, đó chính là lòng tin và luôn ý thức rằng, tất cả những gì mà chúng ta đã và đang có được là do bởi tình thương của Chúa dành cho chúng ta với những ơn ban của Ngài. Thật vậy, chỉ khi nào chúng ta tin và nhận ra được bằng chính con tim cảm mến của chúng ta, thì khi đó, hành động tôn kính Chúa và yêu thương quảng đại với ACE mà chúng ta thể hiện là sự đáp trả ân tình, là nghĩa cử của lòng mến, chứ không còn là giới răn hay lề luật. Vì “Yêu thương là chu toàn cả lề luật.”
Qua tràng chuỗi Mân Côi, nguyện xin Mẹ Maria cầu cùng Chúa giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn và xin ban ơn tình yêu Chúa cho chúng con, để trong mọi sự chúng con luôn tôn vinh Chúa, đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.
76. Luật thiện hảo – Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp. Tác giả Thánh Vịnh cho biết kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh rất mạnh và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này.
Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy “rút gọn” chỉ còn một điều: YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là Luật hai-trong-một.
Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Sáu Điều Răn. Cả 16 điều đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Yêu thương liên quan công lý.
Chỉ một chữ YÊU, rất ngắn gọn, không còn ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.
Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt,…), và hướng đến với các linh hồn. Tuyệt vời biết bao! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm!
Luật vị nhân sinh. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23).
Luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.
Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ” (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa đầy Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!
Được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:2-3). Tác giả Thánh Vịnh xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).
Chúng ta cũng đã và đang nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Hãy cùng tác giả Thánh Vịnh xưng tụng Ngài khi chúng ta xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Nhờ đó, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài.
Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” (vừa “mới” vừa “lạ”) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” thì đừng “hành” người khác, mà phải phục vụ mới đúng luật (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).
Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 22:34-40) nói về “điều răn trọng nhất” (tương tự Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU.
Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, có một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi!
Nói đi nói lại, nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói ngang nói dọc,… nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16) nên luật của Ngài là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).
Liên quan Luật Yêu, Thánh Bênađô nói: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu này y học không hề biết vì không đủ trình độ để phát hiện.
Quả thật, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Thánh Tiến sĩ Tommaso d’Aquino (Tôma Aquinô) xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”.
Lạy Thiên Chúa, xin thương giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con khả dĩ nhận biết chính mình để chúng con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng, bằng cả con người của chúng con. Xin hướng dẫn chúng con đi theo Đường Chân Lý của Ngài (Tv 25:5). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn “Mến Chúa và Yêu Người”. Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là “ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi”. Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: “Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi “.
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm”. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn “Mến Chúa và Yêu Người” trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: “Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết”. Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: “Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi”.
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: “Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm”.
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao qúi của tình yêu, đồng hóa tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói:”Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:
Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.
Theo Đức Cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị:”Ama et fac quod agis”(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27.
So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:”Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công, họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10.
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30.
Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật. Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:
– Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.
– Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
– Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Mến Chúa yêu người
- BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng:”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm:”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
- NÓI VỄ CHỮ YÊU.
- Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình. Đại khái:
* * Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói:”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
- Yêu trong thực hành.
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne:”Yêu mến Chúa là gì? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
- Tình yêu và hy sinh.
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến…
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.
(cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
- Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
- Tình yêu trong phục vụ.
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài:”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói:”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể:”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến… Rồi người lạ đến gặp tôi nói:”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư:”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói:”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8-10).
Thánh Augustinô khuyên: ”Ama et fac quod agis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,
Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
LẠY CHÚA, XIN GIÚP CON YÊU MẾN CHÚA
Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo công giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể… Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng cách đó”. Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài. Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Câu hỏi gợi ý:
- Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
- Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
- Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
- Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều “bì phu”, điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu Pha-ri-siêu” đã bị Đức Giêsu tố cáo: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành “những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
- Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: “yêu thương”
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”, và “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Tại sao thế? Vì con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (…) Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (13,9-10); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,24).
- Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha”.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
ĐỂ YÊU CHÚA VÀ THA NHÂN, PHẢI BIẾT YÊU MÌNH
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu “Lạy Cha” rồi bất ngờ ông la to “Ngừng lại”. Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi.” Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói” Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa” triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật “yêu mến kẻ khác.” Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi “Giới luật nào cao trọng nhất?” Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi,” thứ hai, “Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: “Ta ban cho các ngươi giới luật mới… Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy” (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: “Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ.” Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: “Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra.” Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười “muốn ít, càng ít càng tốt và tính nệ luật “làm đủ luật” là xong và bảo đảm, đủ luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…. hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da (superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói “yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”. Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái. Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt. Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy: Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là “mến Chúa yêu người”. Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn”. Đọc hoài, ngon miệng nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải “mến Chúa yêu người” rồi kể là đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết lòng. “Trên hết mọi sự” thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa, là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người. Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien (Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương. Không phải “mến Chúa yêu người”.
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ. Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong “một” là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong “tất cả luật Môsê và các tiên tri” đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí không “yêu” mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh Gioan nói “anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối”.
(Suy niệm, Chú giải của Lm PX. Vũ Phan Long)
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
- Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
- Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
- Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
– Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
– yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
– hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
– yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
– thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
– Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
- Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
- Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
- Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
- Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
85. Cốt lõi của luật là Lòng Mến
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Mt 22, 34-40: Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô)…
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa…!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
- Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22,37-40).
Khi nói “Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy”, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
- Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: “Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ […] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[…] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16), còn nếu: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được… Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng… Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện…
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia…, nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
MẾN CHÚA THỂ HIỆN QUA ĐỨC YÊU NGƯỜI
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Câu hỏi của người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức Giêsu để thử Người vốn là một trong những vấn đề mà các Rá-bi Do Thái luôn bất đồng ý kiến và không ngừng tranh cãi nhau: “Trong sách Luật Mô-sê thì điều răn nào là điều răn lớn nhất?” Nhưng điều họ cho là khó thì Đức Giêsu lại dễ dàng giải đáp. Theo Đức Giêsu thì toàn bộ sách Luật và các Ngôn sứ đều tóm gọn trong hai điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu Người.
CHÚ THÍCH:
– C 34-35: + Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng: Trong dân Do Thái có nhiều phe nhóm khác nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã dựa trên luật “thế huynh” (x. Đnl 25,5-10) để đặt vấn đề với Đức Giêsu. Người đã trả lời bằng hai điểm: Một là khi sống lại, người ta sẽ sống như các thiên thần (x. Mt 22,30). Hai là Người nhắc lại lời Thiên Chúa phán với Mô-sê rằng: Người là Thiên Chúa của các tổ phụ, ngầm ám chỉ các tổ phụ ấy vẫn đang sống với Người (x. Xh 3,6). Trước những bằng chứng rút từ Thánh Kinh ấy, họ đuối lý và đành câm miệng. + Thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở đây nhằm đối phó với Đức Giêsu. Sau này các đầu mục Do Thái cũng họp nhau để tìm cách giết hại Người (x. Mt 26,3-4). + Một người thông luật trong nhóm: Đây là một kinh sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời Đức Giêsu có khoảng sáu ngàn người thuộc nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái. Cũng như nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu thường kết nạp những người có lòng đạo đức muốn chống lại ảnh hưởng ngoại giáo. Nhóm gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật Mô-sê. + để thử Người: Ở đây nhóm Pha-ri-sêu nêu câu hỏi nhằm đưa Đức Giêsu vào thế bí, để xem Người sẽ giải quyết thế nào đối với một vấn đề nan giải, thường gây tranh cãi giữa các ráp-bi với nhau.
– C 36-37: + Luật Mô-sê: Luật hay “Tô-ra” trong tiếng Do Thái, ám chỉ giáo huấn mặc khải của Thiên Chúa nhằm hướng dẫn cách sống của dân Chúa về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tổ chức gia đình và xã hội, nghi thức phụng tự, các thừa tác viên và các điều kiện cử hành… Đây là toàn bộ những điều luật ghi trong Ngũ Thư và chi phối đời sống tôn giáo và trần thế của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613 điều khoản khác nhau, trong đó có 246 điều truyền buộc và 365 điều luật cấm đoán. + Điều răn nào là điều răn lớn nhất: Lớn nhất tức là quan trọng nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Đức Giêsu, phần vì họ không nhất trí được với nhau, phần vì muốn thử Đức Giêsu để mong đặt người vào thế bí không thể giải đáp được. + Ngươi phải yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người. Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. + Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu: Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới (x. Đnl 6,5). Tầm mức quan trọng của điều luật này không phải vì được xếp đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa là điều quan trọng bậc nhất. Vì thế mỗi người Ít-ra-en đều phải đọc đi đọc lại Luật này mỗi ngày hai lần: lúc vừa thức giấc cũng như trước khi nghỉ đêm.
– C 38-40: + Điều răn thứ hai cũng giống điều thứ nhất: Điều răn thứ hai tuy nói về đức yêu người, nhưng cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất nói về lòng mến Chúa. Vì đức yêu người bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cần thiết ngang với lòng mến Chúa vậy. + Yêu người thân cận: Đối với dân Ít-ra-en: người thân cận là những người cùng chủng tộc, cùng huyết thống. Nhưng Đức Giêsu đã mở rộng tình yêu tha nhân đến hết mọi người: Dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do… và yêu cả kẻ thù của mình nữa (x. Mt 5,43-48). + như chính mình: Yêu kẻ khác giống như yêu bản thân mình, là đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. Nói cách khác yêu người bằng mình là: “Muốn người ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy” (x. Mt 7,12), và ngược lại “Điều gì con không thích thì đừng làm cho ai” (Tb 4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ là cách nói chỉ toàn bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư. Còn sách các Ngôn sứ gồm hai loại: sách các Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và sách các Ngôn sứ nhỏ như Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua các giới răn, và qui về hai giới răn là “Mến Chúa” và “Yêu người”. Như vậy, Đức Giêsu đã gắn liền điều răn yêu người với điều răn mến Chúa, bằng cách cho cả hai cùng quan trọng như nhau, và tập trung tất cả lề luật vào hai điều răn này. Từ nay, người ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả 613 điều khoản, với các chi tiết khó nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ chỉ cần giữ hai điều then chốt là “Mến Chúa hết lòng hết sức” và “Yêu thương tha nhân như chính mình”. Giữ hai điều này là đã giữ trọn Lề Luật và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi. Sau này, Đức Giêsu còn thêm một điều răn mới là: “Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Thái độ của nhóm Pha-ri-sêu đối với Đức Giêsu thế nào?
ĐÁP:
Trong nhóm Pha-ri-sêu, một số người có thiện cảm với Đức Giêsu, nên đã mời Người đến nhà (x. Lc 7,36;11,37), trong số đó cũng có người có chức vị thủ lãnh (x. Lc 14,1). Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi bị Hê-rô-đê bắt (x. Lc 13,31). Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên của nhóm Pha-ri-sêu cũng đã bí mật gặp Đức Giêsu vào ban đêm (x. Ga 3,1-2), và sau đó đã công khai bênh vực Người (x. Ga 7,50), và góp phần vào việc mai táng Người như một môn đệ (x. Ga 19,39-40). Ông Ga-ma-li-ên, một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng có lần đã lên tiếng bênh vực các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Tông đồ Phao-lô trước khi theo Chúa đã từng là một thành viên nhiệt thành nhất trong nhóm Pha-ri-sêu (x. Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa số người Pha-ri-sêu không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, nên kịch liệt chống lại Người và giáo lý của Người.
HỎI 2: Thái độ của Đức Giêsu đối với nhóm Pha-ri-sêu ra sao?
ĐÁP:
Về phần Đức Giêsu, tuy nhiều lần nặng lời quở trách nhóm Pha-ri-sêu về lối sống vụ Lề Luật, giả đạo đức, vụ lợi, nói mà không làm, kiêu căng, ưa xu nịnh, khinh thường các tội nhân và dạy giáo lý sai lạc (x. Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)… Nhưng Người công nhận họ siêng năng cầu nguyện, bố thí và ăn chay (x. Mt 6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo (x. Mt 23,15), phần nào ăn ở công chính (x. Mt 5,20), gắn bó với truyền thống của cha ông (x. Mt 6,16), giữ Luật cách nghiêm nhặt (x. Mt 23,23). Đức Giêsu cho biết Người đến không nhằm bãi bỏ nhưng kiện toàn luật Mô-sê hay các ngôn sứ (x. Mt 5,17-19), và nhất là Người kiện toàn luật về ngày hưu lễ Sa-bát và truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa (x Mt 12,2; 15,1-2).
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 2,37-39).
- CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh của tình yêu.
Có một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà nuôi. Ông nội cậu bé đang làm chủ một xí nghiệp lớn có hằng trăm công nhân, sản xuất quy mô theo dây chuyền. Ông vốn là một người tham lam và độc ác, thường tỏ ra hống hách và bớt xén tiền lương ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt cậu bé, ông lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Nhất là ông rất yêu thương chăm sóc cậu bé, khiến cậu coi ông như một thần tượng. Cậu luôn miệng khen những việc tốt ông đã làm, và cả những việc xấu nhưng đã được cậu bào chữa do động cơ tốt. Cậu thường nói với ông: “Nội ơi, nội được nhiều người yêu quý lắm phải không? Cháu dám cá là họ phải yêu ông nội thật nhiều, giống như cháu yêu nội vậy!” Chính tình yêu thương của cậu bé khiến trái tim sơ cứng của người ông dần dần trở nên mềm mại, và cuối cùng đã biến ông trở thành một người tốt lúc nào không hay, theo những đức tính mà cậu bé thường hay ca ngợi người ông thân thương của mình.
2) Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo.
Một hôm một người khách đến thăm một tu viện thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta sáng lập. Ông ta nhìn thấy các sơ vừa đem về tu viện một bệnh nhân sắp chết, được tìm thấy đang nằm trên vỉa hè cạnh một lỗ cống xông lên hôi thối. Trên mình người này đầy những chí rận. Ông khách thấy các sơ vui vẻ giúp người này tắm rửa, diệt trừ chí rận với thái độ ân cần đầy cảm thông. Sau đó, ông đến gặp Mẹ Tê-rê-sa và nói: “Thưa mẹ, khi đến đây con vẫn đang có ác cảm và thù ghét đối với hội thánh công giáo. Con nghĩ rằng các linh mục và nữ tu chỉ là bọn người đạo đức giả! Nhưng giờ đây, con đã loại bỏ tất cả những hiểu lầm và thành kiến lâu nay. Vì tại tu viện này, con đã chứng kiến tình yêu Chúa được diễn tả cụ thể qua hành động và thái độ của các sơ, khi các sơ săn sóc cho người bệnh sắp chết kia. Bây giờ thì con đã xác tín “Thiên Chúa là tình yêu”. Vì nếu không có Thiên Chúa trong tâm hồn, thì chắc các sơ đã không thể đủ nghị lực để quên mình xả thân phục vụ cách vô vụ lợi những người bệnh tật bất hạnh như vậy!”
- SUY NIỆM:
1) Mến Chúa đi đôi với yêu người: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: Người phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40). Lời tuyên bố này giống như lời của một vị tôn sư tối cao, chấm dứt được sự tranh luận lâu nay của các hệ phái Do Thái về điều răn nào trọng nhất trong bộ Luật Mô-sê.
2) Ba bậc mến Chúa:
Có ba bậc mến Chúa là mến Chúa hình thức, mến Chúa thông thường và mến Chúa hết lòng như sau:
+ Mến Chúa hình thức: Một số người chỉ giữ những việc đạo như mười điều răn, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ… vì sợ bị mắc tội nặng phải sa hỏa ngục. Còn những tội nhẹ như: chửi nhau, tục tĩu, ăn cắp vặt, gian dối, tham lam… thì họ không quan tâm chừa cải. Những người này giống như những đứa trẻ chỉ học hành hay làm các việc nhà vì sợ cha mẹ rầy la trừng phạt, nên dễ dàng đi chơi khi cha mẹ vắng nhà. Đó là những người “chỉ mến Chúa ngoài môi miệng, còn lòng họ thì ở xa Chúa” mà người Pha-ri-sêu trong Tin mừng hôm nay là bằng chứng.
+ Mến Chúa thông thường: Một số người khác cố gắng sống đạo nghĩa là giữ các giới răn để sau này được lên thiên đàng. Nhưng vì tình mến Chúa không nhiều, nên đến khi buộc phải hy sinh bản thân thì họ lại làm như các môn đệ trong cuộc khổ nạn của Chúa: Kẻ thì “hèn nhát chối không biết Thầy là ai” (Si-mon Phê-rô); Kẻ thì “bỏ Thầy để chạy thoát thân” (các môn đệ khác); Thậm chí có kẻ còn “liên kết với các đầu mục Do thái để bán nộp Thầy” (Giu-đa Ít-ca-ri-ốt)…
+ Mến Chúa hết lòng: Chúng ta phải liệu sao để có đức “Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn tất cả mọi người và mọi sự khác trên đời. Chúa Giêsu cũng đòi môn đệ phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và nếu cần còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu Thầy (x. Ga 15,13). Tông đồ Gio-an mến Thầy nên đã can đảm bán sát khi Thầy bị xét xử tại dinh Thượng Tế và bị hành hình trên đồi Can-va-ri-ô. Thánh Phao-lô thể hiện lòng yêu Chúa tột đỉnh khi nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Đúng như lời Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chúng ta cần xin ơn Thánh Thần giúp chúng ta đạt tới lòng mến Chúa hết lòng như vậy.
3) Hai bậc yêu người:
- a) Yêu người như yêu bản thân mình: Đây là tình yêu nhân bản vị tha của Do thái giáo: Như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,16), và “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Ngoài ra còn phải yêu thương hết mọi người, dù là người thân hay người xa lạ, dù là bạn hay thù như lời Chúa dạy: ”Thầy nói với anh emlaf những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,27-31). Mỗi tín hữu chúng ta cần phải xin Chúa giúp thực tập đức ái theo từng bước như vậy.
- b) Yêu người như Chúa đã yêu: Đây là tỉnh yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa do Chúa Giêsu đề ra, nêu gương và mời gọi môn đệ học tập làm theo:
– Một tình yêu rộng mở: Khác với tình yêu bình thường của loài người là chỉ yêu những ai yêu mình và ghét bỏ những ai ghét mình; Chỉ yêu những người nào đáng yêu, ghét những kẻ dễ ghét; Chỉ giới hạn tình thương nơi những người thân quen với mình… Còn tình yêu của Thiên Chúa lại rộng mở: Yêu hết mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ bất cứ ai, kể cả những kè thù ghét làm hại mình, như lời Đức Giêsu đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt. Và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,44b-45). Tình yêu của Thiên Chúa còn thể hiện tới mọi loài mọi vật khác nữa như các thú vật cỏ cây: “Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo không gặt, cũng không có kho có lẫm. Thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!… Hãy nhìn hoa huệ mà suy: Làm sao chúng không kéo sợi, không dệt vải. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.” (Lc 12,24.27).
– Một tình yêu quên mình phục vụ: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên loài người, thừa nhận loài người làm con cái để chia sẻ hạnh phúc với Người. Nhưng loài người đã đáp lại tình yêu ấy bằng thái độ tệ bạc là nghe lời cám dỗ của ma quỷ phạm tội chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người phải bị phạt là chịu đau khổ bệnh tật và cuối cùng là bị chết. Nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc loài người, đã đề ra chương trình cứu độ: Ngài hứa ban ban dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu con rắn hỏa ngục là ma quỷ, còn ma quỷ sẽ tìm cách chống lại (x. St 3,15b). Dòng giống người nữ ấy là Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đức Giêsu Ki-tô Con Thiên Chúa sẽ xuống thế làm người, vâng lời Chúa Cha, bằng lòng chịu chết thập giá để đền tội thay cho loài người, và sống lại để mở ra một con đường cứu độ là đạo công giáo, hầu ai tin Chúa Giêsu và đi con đường mến Chúa yêu người của Người sẽ được hưởng ơn cứu độ (x Pl 2,5-11).
– Một tình yêu tha thứ vô điều kiện. Tha thứ là dấu hiệu của một tình thương thực sự. Khi yêu ai, người ta sẽ dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người đó. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đề cập nhiều đến tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, như trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Người Cha này đã sẵn sàng tha thứ cho đứa con bỏ nhà đi hoang, luôn chờ mong đứa con hư sớm trở về, vui mừng ra tận cổng đón nó, và lập tức tha thứ lỗi lầm cho nó, trả lại quyền làm con và mở tiệc ăn mừng. Ông đã trả lời anh con cả biết lý do vui mừng như sau: “…Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống. Đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32). Đức Giêsu cũng muốn các tín hữu chúng ta noi gương yêu thương của Chúa Cha: Đối xử bao dung với nhau như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chứng con” (Kinh Lạy Cha). Chúa muốn chúng ta yêu thương hết mọi người. Nhất là yêu thương những người nghèo hèn, bất hạnh, bệnh tật và bị bỏ rơi… Chúa muốn chúng ta luôn tha thứ cho tha nhân đã xúc phạm đến mình cách vô điều kiện (x. Mt 18,21). Chúa muốn chúng ta có tình yêu thương quảng đại hy sinh, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt. Đó mới chính là tình yêu đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chỉ tình thương như thế mới bền vững và mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
- THẢO LUẬN:
1) Làm thế nào để phân biệt một tình yêu thật sự với tình yêu vụ lợi ngoài môi miệng? 2) Mỗi tín hữu cần thực hành Lời Chúa để đi bước trước trong tình yêu tha nhân: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12)?
- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Ngày nay Chúa cũng muốn chúng con mở rộng vòng tay đến với hết mọi người. Chúng con chỉ có thể “nối vòng tay lớn” nếu biết gắn bó với Chúa. Ước gì khi nhìn lên cây thánh giá, chúng con thấy mẫu gương một tình thương tột đỉnh của Chúa là hy sinh quên mình chịu chết để cho chúng con được sống. Tình thương của Chúa mời gọi chúng con giang tay cầu nguyện, rồi nắm tay nhau để hợp tác xây dựng một thế giới mới ngày một công bình, yêu thương và an bình thịnh vượng hơn.
– Lạy Chúa. Ước chi chúng con biết làm mọi việc vì lòng mến Chúa và sẵn sàng hiến thân phụng sự Chúa như lời thánh Phao-lô: “Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14). “Đối với tôi sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21); Từ nay “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20); Tôi “Không còn được sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì tôi” (2 Cr 5,15).
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) bị thất bại thê thảm, thì lại đến lượt đám Xa-đốc gài bẫy Người về vụ “Kẻ chết sông lại”. Đám Xa-đốc vốn không tin có sự sống lại, nên mới đưa ra trường hợp một người đàn bà liên tiếp sống với 7 đời chồng (là anh em ruột, cứ người anh chết đi thì lại lấy người em kế, cho đến khi cả 7 anh em đều chết hết). Sau đó người đàn bà cũng chết. Họ hỏi Đức Giê-su: “Vậy khi sống lại, thì bà ấy sẽ là vợ ai trong số 7 người chồng đó?” Thực tế, không thể và không hề có chuyện như vậy. Nhóm Xa-dốc phịa ra một câu chuyện không tưởng, mục đích chỉ để dồn Đức Giê-su vào thế bí, nhằm hạ nhục Người. Đức Giê-su đã giáng một đòn rất mạnh, khiến họ phải câm miệng: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22, 29-30).
Vì liên tiếp thất bại, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
Bài Tin Mừng hôm nay CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt 22, 36-40).
Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu trình thuật, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta”.
Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22).
Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Người. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).
Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.
Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: “Thế nào là sự tử tế?” Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.
Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).
“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Kinh thưa quý vị! Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên Chúa phát xuất ra, chứ sự sống không do bởi con người. Vì thế, nguồn sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Chủ đề Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXX TN (A), tuy không dài, nhưng thật quan trọng, thật cao siêu. Vì đây là tận cùng là mấu chốt của vấn đề Đức Tin Kitô giáo.
Vâng, tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, tất cả, chung quy, mọi sự rồi phải đến cùng đích đó là: “SỰ SỐNG VIÊN MÃN”. Từ đó, việc giữ đạo mới thật sự có giá trị.
Tại sao chúng ta nói: Thiên Chúa là tình yêu, vâng, quả thật là như thế. Bởi vì, Thiên Chúa là sự sống, là nguồn sống. Nếu như, Thiên Chúa không là tình yêu, thì tất không có sự sống. Chúng ta thấy, tại sao có ma quỷ? Bởi vì, nơi nó không có sự sống. Nó ghen ghét, nó có hận thù, nó là cho chết, tìm cách hãm hại. Thì chúng ta gọi đó là ma quỷ. Tại sao gọi là ma quỷ? Thưa, quỷ là kẻ đầu nêu, là kẻ gieo mầm sự chết. Tức satan, có nghĩa là kẻ phản nghịch, kẻ chống lại Thiên Chúa. Còn, ma là linh hồn người ta bị quỷ cám dỗ theo nó. Cho dù, linh hồn con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, hay là quỷ đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không tiêu diệt quỷ hay linh hồn đó. Bởi vì Nguồn sống bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng. Thiên Chúa chỉ tạo dựng một lần và mãi mãi, không tạo dựng hai lần. Đó là nguyên lý nguồn sống từ Thiên Chúa, hay nói cách khác, ngoài Thiên Chúa thì không có nguồn sống. Từ chân lý nầy, chúng ta suy ra, sự sống của linh hồn và sự sống của thân xác. Sự sống của linh hồn tuy siêu nhiên, nhưng bất tử, vĩnh cửu, đời đời. Chúng ta không nhìn thấy sự sống của linh hồn bằng con mắt thể xác. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sự sống của linh hồn qua con mắt đức tin. Bởi vì, điều gì nhìn thấy qua con mắt thể xác, thì điều ấy sẽ giới hạn. Vì vậy, qua sự sống hữu hạn, chúng ta được nhìn thấy sự sống vô hạn, đó là sự sống của linh hồn. Dù tin hay không, thì đây là chân lý.
Từ sự sống thể xác, chúng ta suy về sự sống của linh hồn, từ đó, chúng ta cần tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn của sự sống vĩnh cửu và hữu hạn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy luật của sự sống. Vâng, luật của sự sống đó là “YÊU THƯƠNG “. Vì tình yêu gắn liền với sự sống, cả nghĩa đen lẫn nghĩa siêu nhiên. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, hơn là quyền năng của Thiên Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa làm cho chúng ta xúc phạm, còn tình yêu thương của Thiên Chúa, thì làm cho chúng ta được sống. Vâng, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu của Ngài qua Con Một- là Đức Giêsu –Kitô. Vì nếu chúng ta không đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên tất cả, thì chúng ta không thể có sự sống vĩnh cửu được. Vì sự sống vĩnh cửu chỉ có ở một nơi duy nhất đó là Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa là tình yêu, mà chúng ta lại không trao ban tình yêu cho tha nhân. Trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 39 b) hôm nay, gọi là “người thân cận “: Người thân cận có nghĩa là: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, hàng xóm,tất cả những người chúng ta gặp hằng ngày, nơi công xưởng, đồng nghiệp, học đường, ngoài chợ, bạn hàng. Tóm lại là tất cả mọi người chúng ta gặp từ người thường xuyên gặp đến những người ít găp, mới gặp. Trong cộng đoàn dòng tu, anh em cùng dòng, bề trên, bạn hữu, tất cả những anh chị em khác dòng, những người giúp việc, tất cả mọi người chúng ta gặp trên đường đi. Cụ thể như trường hợp các thánh. Các thánh tu trì không sống trong môi trường gia đình theo huyết thống, nhưng trong một môi trường gia đình thiêng liêng. Các thánh sống trong bậc gia đình, thì chu toàn bổn phận vì yêu thương gia đình đúng cách. Yêu như chính bản thân mình, là biết “hy sinh” cho người thân cận.
Chúa Giêsu day cho chúng ta biết yêu thương tha nhân như chính mình, là dạy cho chúng ta biết yêu thương đúng cách. Để chu toàn luật yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Hai điều nầy không mâu thuẫn với nhau, nên, gọi là một điều răn. Vì ai yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì tất không có lòng thù ghét người thân cận. Người thân cận, rất nhiều khi làm mất lòng chúng ta, làm cho chúng ta thiệt thòi về những điều cố tình hoặc vô ý. Chúng ta rất khó chịu, đó là sự sống thân xác. Nhưng, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì đó là sự sống linh hồn, sự sống siêu nhiên. Theo đó, yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thận cận như chính mình, chính là một con người có thân xác và có linh hồn, như thế mới gọi là một con người sống có sự sống. Như vậy, gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG”. Vì nếu, chúng ta chỉ yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa không thôi, thì chưa đúng như Lời Chúa dạy. Còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ yêu người thân cận không thôi, thì làm sao chúng ta có sự sống đích thực là Thiên Chúa. Khi thân xác hữu hạn qua đi, chúng ta làm sao có sự sống vĩnh cửu là Thiên Chúa được. Vậy, chúng ta phải tìm lấy sự sống vĩnh cửu, để chu toàn sự sống hữu hạn nơi thân xác là yêu người thân cận như chính mình. Vì như thánh Phao-lô nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8). Như vậy, cũng có thể gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG “. Khi chúng ta giết người, thì chắn chắc luật xã hội sẽ trừng trị chúng ta. Nhưng khi, chúng ta hận người trong lòng, thì luật tình yêu thương của Thiên Chúa sẽ lên án chúng ta. (vì luật xã hội không làm gì được chúng ta)
Tình yêu chính là sức mạnh, là động lực sống cho con người. Muốn làm được tất cả, trước tiên phải có tình yêu. Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa, nam nữ giữa con người mà thôi. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, bởi vì: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU. Tình yêu gắn kết đôi nam nữ và làm cho họ trở nên vợ chồng, như vậy hôn nhân cần có tình yêu. Nhưng, tình yêu của hôn nhân cần có tình dục để chu toàn trọn vẹn tình yêu. Hôn nhân gia đình, nếu thiếu hoặc mất đi hương vị của tình yêu, thì không còn hôn nhân nữa.
Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa là tình bạn hữu muôn đời không thay đổi, vì đó là sự sống thần linh. Chúa Giêsu nói: “ Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì điều gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15).(Lc 12, 4)
Theo đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự khôn ngoan đích thực hầu bảo đảm cho chúng ta một sự sống đời đời. Như thế, không phải là “luật của sự sống” hay sao? Lời Chúa cho chúng ta biết sống, sống đúng cách, và sống đời đời.
Thánh Vịnh 17 hôm nay khái dài, cho chúng ta biết:” Bài ca cảm tạ “ Thiên Chúa: Chúa là dũng lực. là thành lũy chở che con. Muôn đời con cảm tạ ơn Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con một điều răn quan trọng nhất, đó là luật mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu thường người thân cân như chính mình con. Xin thương ban cho chúng con biết thực thi Lời dạy của Chúa để chúng con nhận được sự sống đích thực từ nơi Chúa là nguồn sống, vì đó chính là đích điểm của chúng con. Amen.
89. Đạo Yêu – vị tha hay vị kỷ
(Suy niệm của Lm. JP. Vũ Minh)
Phúc Âm Nhất Lãm có viết về Điều Răn Trọng Nhất (Mt 22:34-40; Mc 12:28-34; Lc 10:25-28) và bài Phúc Âm của chủ nhật này theo Thánh Mátthêu đã dựa vào bối cảnh của Phúc Âm theo Thánh Mátcô để diễn tả rằng Chúa Giêsu phải đối phó nhiều với các thượng tế, luật sĩ và người Pharisêu vì sau khi Ngài được đón rước vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng như một Vị Cứu Tinh nhưng những kẻ ghét Ngài đã quá thiển cận và mù quáng nên họ vẫn cứ gài bẫy, phản kháng và thách đố Chúa Giêsu để họ có thể tìm cách giết Ngài, và những cuộc đối chất này sẽ đưa đến hậu quả tối hậu là Ngài sẽ phải chết.
Trong phần đối chất theo bài Phúc Âm của chủ nhật này, một luật sĩ đã thử Chúa Giêsu với một câu hỏi rất thông thường trong Đạo Do Thái về lời Kinh Shema (như là Kinh Tin Kính) mà người Do Thái phải đọc mỗi ngày — “Nghe đây, hỡi Ítsraen; ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất, hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (NL 6:4-5) — để xét Ngài sẽ đáp lại thế nào về giới răn trọng đại nhất. Phúc Âm Thánh Mátthêu đã bầy tỏ rằng Chúa Giêsu đã biết ác ý của họ (Mt 22:18) nên Ngài đã dùng dịp này để đáp lại với một câu trả lời thật sâu xa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai – cũng giống điều răn ấy – là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:37-40); rồi những người muốn tranh luận với Ngài đã phải câm miệng và rút lui.
Câu trả lời tinh tế này cũng là một lời cảnh tỉnh cho cả chúng ta nên ta hãy bàn thêm về câu nói này của Chúa Giêsu: Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn là một lẽ đương nhiên của những ai tin vào Thiên Chúa! Nhưng lời kinh này không phải chỉ được đọc suông như con vẹt vì người đọc lời kinh này phải chứng tỏ lòng tin đó qua cuộc sống của họ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại nói thêm vào lời kinh đó với câu nói: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy’.” “Yêu người thân cận như chính mình” là bằng chứng cụ thể của người yêu Thiên Chúa một cách đích thực!
“Yêu người thân cận như chính mình” ám chỉ rằng lòng yêu người phải được nhấn mạnh về tình thương tha nhân trước hết… khi ta thấy nỗi đau của người khác chính là nỗi đau của mình và tìm mọi cách để đáp ứng thì mới chứng tỏ được tình yêu tha nhân của mình có tính cách vị tha; thay vì tình yêu theo tính vị kỷ của con người vì họ chỉ nghĩ đến mình trước khi nghĩ đến người khác. Ta hãy xét lại về tình thương của ta với Thiên Chúa hay tha nhân để xem tình thương của ta có tính cách vị tha hay vị kỷ. Đây chính là Đạo Yêu đích thực mà Chúa Giêsu muốn ở nơi ta!
90. Điều răn trọng nhất – Huệ Minh
Kính thưa cộng đoàn,
Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người như những lần trước, thì lần này họ đưa ra một người đại diện trong nhóm thôi!
Vì muốn thử thách Chúa, họ đã đưa ra một người biết lề luật, và phải nói rằng người này là luật sĩ. Ông rất là thông luật.
Ông này thuộc lòng 613 luật phải ghi trong luật Do Thái. Và trong đó có 365 điều cấm, 248 điều luật truyền làm, chưa tính những cái luật phụ. Ông biết những cái luật này chia làm 2 vế trong Luật: về việc trọng luật và khinh luật.
Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội nhưng phạm trọng luật như: giết người, thờ Tà Thần, gian dâm thì bị tử hình. Bởi vì là người thông luật nên hiển nhiên rằng, ông biết rằng mỗi nhóm có giữ một điều luật và cho rằng điều ấy là quan trọng của họ. Và nếu mà Chúa Giêsu đưa ra cho mình cái luật nào hơn cái luật nhóm kia, thì Chúa Giêsu kẹt.
Và họ chất vấn rằng: Thưa thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất? Thì, chúng ta thấy họ gài bẫy. Chúa Giêsu đáp với người ta rằng: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi” nhưng mà, chúng ta thấy cái điều mới mẻ nhất đó là, Chúa nối kết một câu trích khác ở sách Lêvi 19, 18 dạy rằng: “Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi. Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Trước Chúa Giêsu chúng ta thấy chưa ai đặc ngang hàng giữa luật yêu mến và đến Ngài Ngài đã hợp nhất thành luật mới đó là đặc điểm của Tin Mừng! Hơn nữa Chúa Giêsu còn tuyên bố rằng: Tất cả luật Môsê và sách ngôn sứ đều thuộc về hai điều này. Có nghĩa là hai điều răn này đã diễn tả trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, và do đó hai điều răn này chứa đựng tất cả mọi điều răn khác. Hay là nói cách khác tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này! và rồi chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa khi mà Chúa Giêsu dạy người ta phải yêu mến Chúa và yêu thương an hem như Người đã yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Chúa và yêu người với chính tình yêu của Người, một tình yêu chấp nhận từ Chúa Cha và cái tình yêu đó thúc đẩy người ta đến độ, hiến thân mình hy sinh mạng sống mình, vì người mình yêu.
Hiến chế về mục vụ Giáo Hội Công giáo trên thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy có vài đoạn nói về hiện tượng vô thần.
Ngày hôm nay Giáo Hội lưu ý chúng ta, về một số trào lưu là nhân bản vô thần. Nghĩa là người ta nhân danh con người để khước từ Thiên Chúa.
Những người đó lý luận rằng: niềm tin vào Thiên Chúa và đời sống mai sau, hạnh phúc mai sau. Để rồi, người ta quên lãng cái cuộc sống trần thế, làm cho người ta vô cảm với người khác. Không có giúp đỡ người khác, và họ sống theo cái kiểu chờ thời, chờ lên thiên đàng.
Và rồi vì nhân danh lòng yêu mến con người mà họ đã khước từ Thiên Chúa, thì những người này thì lý luận cái cơ sở rằng là: nhân danh con người.
Bởi vì chính vì con người mà họ khước từ Thiên Chúa, là điều này không có, bởi vì trong lịch sử Thánh Kinh và trong đời sống Giáo Hội người ta nhấn lòng yêu mến Thiên Chúa mà quên đi tình thương với con người.
Chúa Giêsu đi rất sát với câu chuyện Tin Mừng ngày hôm nay. Những người đạo đức, những người thầy thông luật thì họ cái lời Kinh Sêma, cái lời Kinh Sêma là như thế này mà chúng ta nghe rất quen:
Hỡi Iraen! hãy nghe đây! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất và các ngươi phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức ngươi.
Và rồi chúng ta rất là buồn cười, những người đạo đức họ viết cái điều luật này vào trong tờ giấy và cho vào hộp, dán trên trán để khỏi quên.
Dán trên trán thì làm sao mà quên được, lúc nào cũng nhớ cả. Và chúng ta nhớ lại Cựu Ước đã có nhiều lần nói về Luật Yêu Thương:
“Ngươi không được trả thù, ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19, 18).
Nhấn mạnh đến việc mà yêu Chúa, yêu người hết lòng, hết trí khôn! Thì chúng ta lại thấy, thực tế về con người, nó rất là buồn cười: Con người, người ta mâu thuẫn khi mà Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát thì họ phản đối và họ cắt nghĩa rằng là nếu con lừa rơi xuống hố thì họ có quyền kéo lên và nếu là con người thì không được!
Con người xét cho bằng cùng thì con người không bằng con lừa.
Và chúng ta thấy nhìn thấy cái mâu thuẫn đó để rồi cái dụ ngôn Samaria rất là thực tế.
Thầy tư tế, thầy Lêvi đi lên đền thờ, thấy có một người nằm sóng soài ở dưới đất, bị bỏ rơi chẳng ai coi sóc cả, bởi vì người ta đi lên đền thờ, người ta không muốn vấy vào người đó để bẩn tay. Và rồi người ta đã quên đi cái lòng thương xót, và người ta không nhìn tới những cái con người đau khổ. Họ cứ nghĩ rằng là họ đi lễ, đi đọc kinh, đi cầu nguyện làm tốt, nhưng rồi trong lời ăn tiếng nói, trong các cách hành xử của họ lại thiếu bác ái.
Người ta nhân danh Thiên Chúa để quên đi Thiên Chúa ngày hôm nay, mà người ta nhân danh con người. để rồi Cái thái cực mà nhân danh Thiên Chúa đó, để có thể quên đi Thiên Chúa.Và ngày hôm nay, nhân danh con người, người ta gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người. Điều này rất là tinh tế, đã xuất hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Liên quan trong cái đời sống thờ phượng, chúng ta có nghe rồi. Có những người lý luận rằng: cần gì đi nhà thờ Đọc kinh cầu nguyện làm gì? miễn là bác ái thôi!
Lý luận này xem ra cũng hay đó. Nhân danh lòng yêu mến mà con người đã gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng mà rồi tinh tế hơn nữa, đó là: đời sống và luân lý đạo đức. Người ta nhân danh con người để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Ví dụ như: Một chàng trai mà lỡ cho cô gái con người ta có thai thì, biện pháp tốt nhất mà người ta dùng đó là đi phá thai thôi! Trong vòng mấy phút đồng hồ và tốn tiền thì coi như xong! Khỏi có áy náy, xã hội không còn lên án nữa! Và lúc đó cảm thấy là thương cô gái đó đó!
Nhưng mà, khi mà người ta làm như thế người ta nhân danh con người, người ta hủy hoại Thiên Chúa hủy hoại cuộc sống. Sự sống, mà mầm sống mà Thiên Chúa ban cho con người. Người ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời người ta, bởi vì chính Thiên Chúa mới là chủ cuộc đời của người ta thật.
Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam thì chưa có, chứ ở nước ngoài thì người ta chủ trương “chết êm dịu”:
– Già rồi, gần chết rồi! chích một mũi thuốc đi “chết êm dịu”.
Mà rồi, Giáo Hội không chấp nhận điều đó. Nhưng khi người ta thấy Giáo Hội làm điều đó, người ta cho Giáo Hội là gian ác, Giáo Hội quay lưng với con người.
Rất tinh tế, người ta nhân danh con người, để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Người ta mâu thuẫn, mà thật sự rằng, nếu mà thật sự như thế! thì rằng, người ta có yêu mến con người hay không?
Sau khi giúp một cô phá thai, người ta có xóa đi vết thương lòng của cô đó hay không? Hay cái nỗi dằn vặt “giết người con” của cô đó, đi theo cô đến chết! Có thật sự rằng, mình yêu mến cô ta thật sự! Hay mình hủy diệt cô ta cùng với đứa con của cô ta, đó là cái điều chất vấn chúng ta.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay xem ra quen thuộc, và rất mới và rất gần với đời sống của chúng ta. Cái nét độc đáo của Chúa Giêsu là đã kết nối hai cái giới răn này thành một, và nếu như tách ra hai giới răn này thì không có gì mới nói cả!
Cựu Ứớc thì đã nói về yêu mến rồi, yêu con người thì không cần! Nhưng mà chúng ta thấy đó về phần mà tôn giáo thì người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói là gì: “Yêu người, như thể thương thân”.
Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, nối kết cái ý thức đó chứ không có tách lìa.
Còn nói về yêu thương con người thì chả cần gì về Công giáo cả! Có khác nào là Chúa Giêsu. Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, giúp cho con người ta không gạt bỏ Thiên Chúa và cũng không gạt bỏ con người bên ngoài. Cái mới nằm ở chỗ đó đó!
Những cái lối sống thiếu bác ái, thiếu yêu thương, thì không thể nào nói rằng mình mến Chúa được! Và ngược lại nếu mình yêu Chúa thì mình cũng phải bác ái, yêu thương thôi!
Như Thánh Gioan tông đồ nói: – Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Chúa, mà lại ghét anh em mình là nói dối; vì ai không yêu thương anh em mình người mà họ trông thấy, mà họ yêu mến người không trông thấy đó là Thiên Chúa. (1 Ga 4:20).
Điều răn mà ta nhận ra từ ngài: “Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em”. (1 Ga 4:21)
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta, đó là một người Cha yêu thương con cái, ngay khi mà đứa con đó còn ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời. Nghĩa là yêu thương mọi người không trừ người nào.
Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngài đến để nói với con người rằng: Thiên Chúa yêu thương và con người cũng hãy yêu thương nhau!
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, khi đó Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một cái thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội không bằng lòng, nhưng Têrêsa thì ngược lại vẫn tỏ ra thái độ vui tươi và hồn nhiên và chịu đựng tất cả, vì đơn giản Thánh nữ Têrêsa yêu mến Chúa, vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến cả cái nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng hành động: sự nhẫn nhịn, sự thứ tha và cảm thông.
Khi mà Chúa Giêsu truyền dạy ngươi hãy yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu như đặt một tấm gương soi, chúng ta có yêu kẻ khác hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu của kẻ khác trên mệnh lệnh của Người. Mệnh lệnh ấy tóm tắt về lề luật. Đây là giới răn của thầy: “Anh em hãy yêu nhau như thầy đã yêu thương anh em”.
Nhiều người có khi đồng hóa Kitô giáo với luật Yêu Người. Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút nữa, khi nói về tình yêu người khác, thì người ta nghĩ ngay tới việc làm như: bác ái phải làm cho kẻ khác. Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, đi thăm viếng…nói tóm lại là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu chứ chưa phải là yêu. Lòng từ tâm tới trước cái việc làm phúc. Trước khi làm phúc người ta phải muốn là một phúc.
Thánh Phaolô nói rõ với chúng ta: “Đức Bác ái không giả vờ.” Tức là phải chân thật, nghĩa đen là không giả hình. Người ta phải yêu thương với một con tim trong sạch.
Trên thực tế, ta có thể làm việc bác ái và bố thí nhiều, lý do không dính dáng gì tới tình yêu, bởi vì họ đã tô điểm chính mình, bởi vì họ làm cái vẻ đẹp, điều thiện, để được lên thiên đàng. Và có thể là để trấn an một cái lương tâm xấu, bởi vì họ đã không yêu thương thật lòng, như chính mình.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu. Và vì vậy: Hãy yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của chính bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Ước gì mỗi người chúng ta, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Sau khi thánh lễ này về, chúng ta sống với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta ngày mỗi ngày: yêu Thiên Chúa, cũng như yêu mến anh chị em đồng loại; mà đặc biệt không phải chỉ trên môi, trên miệng, mà bằng trên hành động, trên việc làm của mỗi người chúng ta. Amen.