Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32
MỤC LỤC
- Thời kỳ cuối cùng.
- Ngày tận thế.
- Ngày Con Người ngự đến.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Khi Chúa thương gọi con về.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Tin và hy vọng vào Lời Chúa.
- Quê Trời
- Chết trong tình yêu Thiên Chúa.
- Ngày phán xét
- Ngày cùng tận.
- Thế giới này sẽ qua đi
- Tận Thế.
- Tận thế.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Sống sót
- Hiện thực.
- Dấu chỉ
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Với uy quyền và vinh quang.
- Con Người sẽ đến trên đám mây.
- Thế giới này sẽ qua đi
- Ngày cùng tận.
- Phán xét chung.
- An tâm..
- Làm gì khi trông chờ?.
- Hãy chuẩn bị
- Chúa sẽ đến.
- Chúa sẽ đến.
- Qua đi
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chỉ nam..
- Ngày tận thế.
- Cuộc quang lâm của Con Người
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Đi tìm sự vĩnh cửu.
- Cuộc quang lâm của Con Người
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chúa Nhật 33 Thường Niên.
- Chuẩn bị Ngày Phán Xét
- Sẵn sàng đón Chúa lại đến.
************************************
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm
Hai tuần lễ tới đây là những ngày cuối cùng của năm phụng vụ này. Thế nên không có gì ngạc nhiên, khi thấy Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về thời gian sau hết cũng gọi là cánh chung. Chúng ta thường nôm na gọi đó là thời tận thế.
Ước gì từ nay chúng ta bỏ hết mọi suy đoán của loài người, mọi điều thường được gọi là bí mật bà thánh này ông thánh kia, hoặc của nơi hành hương này chỗ thánh điện khác, để chỉ giữ lấy Lời Chúa và các mạc khải của Người. Khi ấy chúng ta sẽ thấy bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn và sống chân thật hơn. Chúng ta sẽ sống bằng đức tin của Hội Thánh, chứ không nghe những chuyện nhảm nhí. Và chúng ta sẽ làm cho người khác kính trọng niềm tin của chúng ta hơn.
Vậy, phụng vụ hôm nay cho chúng ta biết những gì về cánh chung, hay là tận thế? Bài tiên tri Daniel, bài Tin Mừng Marcô, bài thư Hipri, tuy không bao gồm hết mọi lời trong Kinh Thánh về vấn đề, nhưng có thể nói đã nói lên hầu hết. Chúng ta hãy lần lượt đọc lại.
1. Bài Sách Daniel
Daniel là một trong bốn sách tiên tri lớn, tức là dài, và là tác phẩm khó. Người ta cứ tưởng nó giống như các sách Ysaia, Yêrêmia, Êzekiel, được viết vào thời lưu đày Babylonia và về hoàn cảnh đó. Nhưng ngày nay người ta đã thấy nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ nó được viết vào khoảng năm 164 trước kỷ nguyên. Phần đầu tác giả nói đến những biến cố xảy ra ở Cận Động và trong Dân Chúa sau thời gian lưu đày. Một số người đã được hồi hương, cố gắng dựng lại giang sơn tổ quốc cũ. Nhưng hết bị Batư cai trị, lại bị Hylạp thôn tính, Dân Chúa gặp một cơn bắt đạo khủng khiếp dưới thời Antiôchô. Đền thờ bị biến thành nơi thờ thần dân ngoại. Truyền thống Dothái bị ngăn cấm. Nhiều người bị bắt. Tiếng các Tử đạo vang lên tới Chúa.
Người mạc khải ý định của Người trong phần hai của sách Daniel. Đó là một viễn tượng đầy trông cậy. Nhưng đọc kỹ người ta dễ nhận ra ngay đó chỉ là niềm tin rất cổ điển: sự dữ còn gia tăng… cho đến lúc chín mùi. Lúc ấy Thiên Chúa sẽ can thiệp. Sứ thần của Người sẽ được sai đến giao tranh với thần dữ, cứu vớt những người lành, phục hồi các thánh nhân.
Đọc Daniel hôm nay nằm trong phần thứ hai này. Nhà tiên tri được báo cho biết: đến thời cứu độ, Mikael vị tướng cả của Thiên Chúa sẽ được sai đến biểu lộ sức mạnh của Người để gìn giữ con cái của Chúa. Vì lúc ấy sẽ là thời quẫn bách, thời thử thách xưa nay chưa từng thấy xảy ra. Chỉ những kẻ nào đã được tiền định mới thoát nguy. Họ đã có tên ghi trong cuốn sách hằng sống ở trên trời. Và điều an ủi nhất cho Daniel và trả lời trực tiếp cho thắc mắc của dân Chúa thời bấy giờ, là sẽ có sự sống lại. Người thánh sẽ được sống đời đời, bậc lãnh đạo dân Chúa sẽ chói sáng; và kẻ truyền đạo, đưa người khác trở về đàng công chính, sẽ như tinh sao muôn kiếp.
Với những lời lẽ này, Daniel đã an ủi Dân Chúa không ít. Họ đang trong cơn bắt đạo, thấy máu của nhiều người lành chảy ra. Họ tự hỏi về định mệnh của các thánh nhân; và đồng thời cũng nêu lên nghi vấn: có bõ công tiếp tục đi trong đàng ngay chính để có ngày bị bắt và bị giết hay không? Daniel chẳng có lời tiên tri nào nói với họ cả, theo nghĩa hứa hẹn cho người ta một tương lai sáng sủa nào ở trần gian này hết. Ông tuyên xưng niềm tin “chính thống” và cổ điển của mình: Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng; Người sẽ can thiệp, lúc đó người lành được gìn giữ, còn kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Rồi sẽ có sự sống lại cho người thánh đã chết; còn kẻ dữ cứ tiếp tục bị trừng phạt.
Như vậy Daniel cũng đã có góp thêm một phần mới mẻ vào kho tàng mạc khải. Trước ông, như trong Êzêkiel chẳng hạn, người ta đã được biết sẽ có sự sống lại. Nhưng dường như đó chỉ là việc phục sinh phục hồi của dân đang bị tiêu diệt và nghiền nát. Cánh đồng xương khô lấy lại gân cốt và da thịt để sống lại trong Êzêkiel là một hình ảnh về cuộc phục hưng dân Chúa sau thời gian tiêu điều, hơn là một phát biểu niềm tin về sự sống lại trong ngày sau hết.
Ở đây, Daniel rõ ràng nói đến sự sống lại không phải của hết thảy mọi người, nhưng riêng chỉ có những người lành. Cũng như ông đã khẳng định khi ngày của Chúa đến, chỉ những người thánh mới được gìn giữ, còn bao nhiêu kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Nói đúng ra theo Daniel, kẻ lành sẽ được sống muôn đời, còn kẻ dữ sẽ phải chết. Trong ngày của Chúa, ai lành thánh sẽ không phải chết, và cho dù đã chết, cũng sẽ sống lại; còn kẻ tội lỗi cho dù đang sống cũng sẽ chết, huống nữa là khi những kẻ ấy đã chết rồi. Niềm tin của Daniel xác định công trạng của mỗi người, nhưng chưa nghĩ đến sự xác thịt sống lại như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính. Ông cũng đã chú ý riêng đến những người có công với dân và so sánh vinh quang bất diệt của họ sau này như những tinh sao muôn đời muôn kiếp.
Ý kiến của Daniel nhất định đã thổi một luồng gió tin tưởng mạnh mẽ vào trong tâm hồn nhiều người. Họ sẽ cương quyết trung thành với đức tin hơn và hoàn toàn phó thác định mệnh cuối cùng của mình trong tay Chúa. Sách của ông được các thế hệ sau dùng rất nhiều, như bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy; nhưng chẳng ai có thể lợi dụng tư tưởng của ông để thêu dệt những chuyện nhảm nhí về thời cánh chung.
2. Bài Tin Mừng Đức Yêsu
Trong đoạn sách Marcô hôm nay, cũng nói với chúng ta về thời kỳ cuối cùng này. Dường như Người đề cập tới sau khi nói về thời Yêrusalem bị tàn phá. Chúng ta biết hôm các môn đồ trỏ cho Người thấy cảnh huy hoàng của Đền thờ. Mà rực rỡ thật khi thánh điện Yêrusalem được ánh mặt trời chiếu vào! Nhưng cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào của Đền thờ hiện nay, vì Yêrusalem không biết đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm mình.
Đức Yêsu đã nhìn thấy trước ngày tàn phá đó. Người dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách tiên tri, để mô tả cảnh tàn phá của Yêrusalem. Rồi từ đó, Người nói sang thời kỳ cùng tận.
Nhưng lời của Người lại được các tác giả thánh diễn lại sau khi đã được chứng kiến ngày Đền thờ sụp đổ và đã từng sống những ngày thánh Hội Thánh bị bắt bớ vì danh Chúa. Do đó, bài sách Marcô hôm nay chẳng hạn, thu góp tất cả mọi nhân tố trên làm cho việc đọc trở nên phức tạp và khó hiểu. Ở đây chúng ta chỉ nói đến những tư tưởng trong bài đọc hôm nay.
Trước hết có những câu nói về sự suy sụp thay đổi trong trời đất: mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển. Có lẽ chính ý tưởng cuối cùng này lại phải để ý đến trước hết. Là vì theo các tác giả thánh, mỗi khi có hiển linh là trời đất rung chuyển. Vậy hiện tượng các thiên thể lay chuyển là điềm báo Chúa đến, là dấu hiệu của ngày cuối cùng. Còn việc mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, chẳng qua muốn nói rằng vũ trụ này sẽ qua đi và biến mất. Tất cả như lại trở về lúc khởi nguyên, lúc còn hỗn mang và chưa có ánh sáng gì cả. Và như thế, với nhiều hình ảnh mượn lại trong các sách tiên tri, ở đây thời sau hết được xác định như là thời thay đổi vũ trụ này, để rồi sẽ có một cảnh mới với trời mới và đất mới. Và người ta không phải chờ lâu. Sách Marcô đã viết ngay: bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây… Rõ ràng tác giả mượn lại chương 7 sách Daniel, câu 13. Nhưng ông đã đem vào một nội dung mới.
Trong tiên tri Daniel, Con Người chỉ đến sau, khi triều đình thiên quốc đã bày biện xong. Thiên Chúa đã ngự trên ngai rồi, thì bấy giờ Con Người mới tiến lại. Người là ai? Theo Daniel đó là dân thánh của Thiên Chúa đến lãnh phần thưởng đời đời của mình. Về sau nhiều người đã đồng hóa Người với Đấng Cứu thế Con Một Thiên Chúa. Ở đây, trong sách Marcô, Người là chính Đức Yêsu Kitô Cứu thế.
Như vậy, “ngày của Chúa” không còn phải là ngày của Thiên Chúa nữa sao? Vì ở đây, người ta không thấy Thiên Chúa hiện đến, mà chỉ có Đức Yêsu được mệnh danh là Con Người. Thật ra, khi nói Người đến trong mây, tác giả không có ý tưởng trong mây như là xa giá đưa Con Người đến. Nhưng cùng với công thức viết sau nói rằng: Người đến trong quyền năng cao cả và vinh quang, hình ảnh mây trời ở đây chỉ có ý nhấn mạnh đến tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy Con Người sẽ đến với Thần Tính và như là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa” khiến “ngày của Chúa” bây giờ trở thành “ngày của Thiên Chúa đến trong Con Người và nhờ Con Người”.
Rồi khác với nhiều tác giả, thánh Marcô không nhắc đến việc phán xét và trừng phạt kẻ dữ. Người chỉ mô tả diện tích cực của ngày Chúa đến. Người sai các Thiên Thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, dĩ nhiên là để đưa họ vào vinh quang của Người.
Và như vậy cái nhìn của Marcô về cánh chung rất bình an và đẹp đẽ. Nó đem tin tưởng lại cho lòng người ngay và tạo nên một cảm giác hạnh phúc.
Nhưng khi nào điều ấy xảy ra? Đó là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo thánh Marcô, thì Đức Yêsu trỏ tay bảo các môn đệ cứ xem cảnh vật thiên nhiên. Cây vả khi trổ lá thì báo tin mùa hè sắp đến sao? Cũng vậy, khi các điều kia xảy ra, thì phải biết Con Người đã gần bên cửa.
Trước hết, Người đã khéo léo gợi đến danh từ mùa hè. Đó là mùa gặt hái. Và hình ảnh mùa gặt hái vẫn được Kinh Thánh dùng để nói đến thời cánh chung và chung thẩm. Còn khi Người nói “các điều kia” thì phải hiểu như thế nào?
Trên đây, Người đã nói đến việc Đền thờ bị phá, chiến tranh nổi lên, Kitô giả xuất hiện, niềm tin trở nên lạnh lẽo… và các tầng trời bị lay chuyển v.v… Do đó mỗi khi thấy các điều trên xảy ra, người ta đã tưởng tận thế đến rồi. Hơn nữa sau đó, Đức Yêsu còn nói: “Thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi mọi điều ấy xảy đến”. Người ta càng tin những ngày tận cùng không còn xa.
Nhưng có lẽ người ta không để ý đủ đến lời cuối cùng của Người: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha”.
Dĩ nhiên có vấn đề: có phải chính Đức Yêsu đã nói tất cả những điều trên đây không và trong cùng một văn mạch không? Hay đó là những lời nói ở những hoàn cảnh khác nhau và đã được xếp gần lại để diễn tả ý kiến về một vấn đề? Nếu thế thì ở đây chúng ta có thể thấy tác giả vừa muốn khẳng định thời kỳ cánh chung đã gần, vừa không gần vì hiện nay đã có những dấu hiệu như cảnh chiến tranh tàn phá, lòng tin ra nguội lạnh, nhiều sự dữ lộng hành, nhiều người lành khổ sở… nhưng chưa chắc đã là điềm báo cuối cùng, vì dù sao cũng chẳng ai biết được giờ nào, ngày nào, vì đó là bí mật Chúa Cha không muốn tiết lộ cho ai… Vì thế thái độ chân thực là luôn luôn phải sẵn sàng và tỉnh thức.
Thánh Marcô đã kết luận như vậy. Và chúng ta, không nên thêm gì vào ý kiến của người. Chúng ta chỉ cần nhớ: vũ trụ này sẽ được biến đổi khi Con Người đến trong vinh quang. Người sẽ tập họp các kẻ được chọn lại. Người không muốn cho ai biết ngày nào giờ nào. Nhưng Người mong muốn ai nấy cũng hãy sẵn sàng và bền vững cho đến cùng.
Bài thư Hipri có thêm gì cho chúng ta không?
3. Đức Kitô Đang Chờ Đợi
Tác giả còn so sánh vị Thượng tế đạo mới với các tư tế đạo cũ. Những người này, như người ta thấy hằng ngày vẫn đứng nơi bàn thờ để dâng những của lễ không hoàn toàn. Họ tỏ ra rộn ràng; vì thế “đứng” là cung cách làm việc vất vả. Và công việc của họ không kết quả vì cứ phải làm mãi, không xóa bỏ được tội lỗi là điều họ mong muốn.
Trong khi đó, Đức Kitô chỉ dâng lễ một lần trong mầu nhiệm Vượt qua, và đã lên ngồi ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứng tỏ lễ dâng của Người đã hoàn toàn và tẩy xóa được tội lỗi. Người không còn vất vả nữa và chỉ còn ngồi chờ đợi mọi người hàng phục để kết nạp họ vào sự thánh thiện của Người.
Tác giả không suy đoán. Thánh Kinh cũng nói rõ như vậy vì trong Thánh vịnh 110, Thiên Chúa đã đặt vị Kitô của Người làm Vua và làm Thượng tế theo kiểu Melkisedek, đợi ngày quân thù của Người quy phục dưới chân. Chúng ta chẳng nên hiểu quân thù nói đây là ai khác những sức mạnh tội lỗi mà Người đang muốn dẹp bỏ ở nơi mỗi người để tất cả chỉ còn ở trong sự thánh thiện của Người.
Như vậy, lời thư Hipri có thể bổ túc cho những điều chúng ta đa biết về thời cánh chung qua các bài sách Daniel và Tin Mừng theo thánh Marcô. Thời sau hết thực ra đã khởi sự từ khi Đức Yêsu tiến vào cung lòng Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa đã biểu lộ nơi sự phục sinh của Người. Ơn Thánh Thần mà Người gửi xuống cho môn đệ không thực tế hơn hình ảnh Đức Mikael đến bảo vệ những người được Chúa chọn sao? Các người thánh đang được thâu họp lại từ khắp mặt đất để được tham dự vào sự thánh thiện của thân thể mầu nhiệm Đức Kitô. Họ được lấy ra từ bao thử thách và gian khổ, khỏi những sự mê hoặc của các Kitô giả khác. Và cùng với Đức Kitô, họ đang chờ đợi ngày Nước Cha trị đến… Và như vậy quả thực thời cánh chung đã đến và chưa đến. Thế hệ nào cũng sẽ không qua đi trước khi những điều này xảy tới, kể cả thế hệ chúng ta.
Mầu nhiệm cánh chung giờ đây không những cũng được chúng ta tuyên xưng trong bản kinh Tin Kính. Nhất là nó sẽ được nổi lên trong mầu nhiệm Thánh Thể, trong đó chúng ta tuyên xưng Đức Yêsu đã chết và đã sống lại để rồi sẽ lại đến. Và trong khi chờ Người đến trong vinh quang, chúng ta tin Người đang đến trong Thánh Thể để thâu nạp chúng ta vào sự thánh thiện của Người. Một cảnh sống mới, làm ra một trời mới và một đất mới, tức là xây dựng một quê hương mới và một dân tộc mới, có theo sau thánh lễ này hay không? Điều đó còn tùy ở cố gắng của chúng ta hết thảy.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết”. Đó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Điều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: “Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng quả quyết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”. Nói khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Đấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Cha”. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ. Các Chúa Nhật trước chúng ta lần bước theo Đức Giêsu nói các dụ ngôn, chữa mọi bệnh tật, trừ khử quỷ ám, trả lời các kinh sĩ, đào tạo môn đệ. Chúng ta tưởng đã biết rõ về Đức Giêsu. Thực ra, chỉ có Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mới mặc khải cho chúng ta thấy chân dung Ngôi Vị của Người rõ nét nhất.
“Khi Người ra khỏi đền thờ để không bao giờ trở lại đó nữa thì một môn đệ thưa Người rằng: Thưa Thầy, Thầy xem: những tảng đá đẹp tuyệt vời! Công trình kiến trúc vĩ đại chừng nào! Đức Giêsu đáp: Tại đây, sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, tất cả đều sẽ bị phá tan tành”.
Lúc Đức Giêsu đến ngồi trên núi Ôliu, đối diện với đền thờ, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: Xin Thầy cho chúng con biết bao giờ các sự ấy xảy ra? Đức Giêsu đã trả lời bằng một bài giảng về ngày tàn phá Giêrusalem, ngày tận thế và ngày Con Người ngự đến trong vinh quang, cũng gọi là ngày Quang lâm. Đức Giêsu loan báo ba tai họa xảy đến trước ngày tàn phá đền thờ (Mc. 13, 5-13):
1. Những tiên tri giả và Kitô giả làm lung lạc nhiều người.
2. Những tai họa, chiến tranh, động đất, đói kém.
3. Các môn đệ bị bắt bớ.
Tiếp đến, những ngày cực khốn cho đền thờ. Lịch sử đã cho biết đền thờ Giêrusalem đã bị quân La mã dưới quyền tướng Titô phá hủy vào năm 70 và dân Do thái mất nước, đi tản mát khắp nơi, mãi tới 1945 một số người trở về lập quốc, nhưng vẫn bị chiến tranh tàn sát.
Về ngày tận thế, Đức Giêsu loan báo vũ trụ đều sụp đổ từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đến các quyền lực trên trời. Đây là kiểu nói ám chỉ không thể diễn tả được sự biến đổi phi thường từ “trời cũ đất cũ sang trời mới đất mới” (Kh. 21, 1). “Cái cũ qua, cái mới đã tới” (2Cor. 5, 17). Ví như lúc chưa dựng nên trời đất, chỉ là đen tối mông lung: “Chaos” để biến sang một cuộc sáng tạo mới: Con Người ngự đến trong vinh quang.
Từ khi sinh ra khó nghèo trong máng cỏ bò lừa ở Belem đến ngày này, Đức Giêsu chưa bao giờ nói về mình như thế. Bỗng chốc, Ngài trở nên vĩ đại, vinh hiển trên nền trời bao la, cao xanh thăm thẳm! Ngài tuyên bố: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”.
Ngài tuyên bố mình là Chánh Án tối cao của ngày tận thế, ngày phán xét chung. Vai trò phán xét xử muôn dân đó chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, mà chính Đức Giêsu đang nắm quyền. Mấy ngày sau đó, Người lại tuyên bố y như thế trước những quan tòa của Thượng hội đồng Do thái (Mc. 14, 62).
Danh xưng Con Người đã quá quen tai chúng ta rồi, nhưng theo bản văn, danh xưng ấy luôn luôn tiên báo về cái chết của Đức Giêsu. Người đã dùng danh xưng ấy để nhắc nhở đến lời tiên tri thời danh của Daniel (7, 13-14). Sách tiên tri Daniel đã quả quyết sự chiến thắng của Thiên Chúa trong cuộc chống lại sự bách hại dưới thời Antiôkút 4 Êpiphan. Nay, Đức Giêsu muốn báo cho muôn thế hệ biết: các lực lượng sự dữ, những bọn bách hại dân lành, những quân dữ không thể có chiến thắng cuối cùng trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng sẽ về phía Thiên Chúa và kẻ lành.
Đó là niềm hy vọng làm vang lên lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” của các tín hữu ban đầu, và ngày nay trong Thánh lễ, sau truyền phép, chúng ta đồng thanh dâng lên lời cầu xin tha thiết như thế: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Theo truyền thống Khải huyền, những thiên tai trong vũ trụ báo trước những hình phạt nặng nề của Thiên Chúa chống lại kẻ dữ nhưng với Đức Giêsu, thì không phải thế: Đó chỉ là lúc “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người tập họp những kẻ được tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Đó là lúc Người ngự đến trong vinh quang, ngày đại hội quang lâm của muôn dân, ngày tôn vinh Đức Giêsu là Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc. Những ai theo Người thì cũng được chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc với Người.
Chấm dứt mọi tai họa, chiến tranh, bách hại, kỳ thị, ghê tởm, thảm khốc và những tàn phá, tục hóa và bội giáo của kẻ dữ.
Đó là một phép lạ tuyệt diệu nhất. Vậy hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mc. 13, 37). Phúc cho kẻ bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát (Mt. 24, 13).
Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến. Trong cơn gian nan, trong cơn khủng khiếp, tất cả đều qua đi, đều chết đi. Vâng, lạy Chúa, chúng con biết rằng mùa hè trong sáng tươi đẹp sẽ đến cho cây cối đâm bông kết trái. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến cho những người được tuyển chọn tập họp lại chung quanh Chúa. Amen. (Phỏng theo Parole de Dieu, Noel Quesson).
(Suy niệm của Lm. Sean O’Brien – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
Nghe tiếng chuông báo từ lò vi sóng, tôi biết thức ăn của tôi đang hâm nóng đã xong. Rồi khi nghe một bài hát quyến rũ vọng lên từ chiếc xe chạy ngang dưới phố, tôi biết phải chạy nhanh vào nhà lấy tiền để mua thứ gì đó trước khi xe bán kem dạo chạy mất. Nhưng trên thực tế rất ít việc được báo trước và thật bất ngờ. Đây là điều Chúa Giêsu muốn nói đến khi Người dùng ví dụ cây vả: khi bạn sẽ thấy một số thay đổi trên cây là bạn biết ngay: Kìa! Mùa hè sắp đến rồi!
Chúa Giêsu nói điều đó không phải vì Người quan tâm đến mùa hè. Nhưng đó là một thí dụ để ám chỉ một thực tại quan trọng hơn. Chúa Giêsu tuyệt đối và dứt khoát sắp đến rồi. Trong khi đó Người lại nói: Không ai biết được khi nào việc ấy sẽ xảy ra, ngay cả các thiên thần hay Chúa Con cũng chẳng biết. Việc đó không phải là không được báo trước và bất ngờ. Giống như bài hát báo hiệu trước khi người bán kem đến, thì cũng có những dấu hiệu chắc chắn cho biết đây là lần cuối Chúa đến.
Chúng ta phải nhận biết những dấu hiệu này như một việc bác ái vĩ đại vì các dấu hiệu ấy thực sự nói lên một tình yêu bao la. Bản chất việc Chúa trở Lại là điều quan trọng nhất chúng ta cần phải thấu hiểu. Khi Người trở lại, Tổng Lãnh Sứ Thần Mi-ca-e sẽ xuất hiện như một sứ giả. Chúng ta nghe đọc trong sách ngôn sứ Đa-ni-en rằng “đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy” (Đa-ni-en 12:1). Đoạn sách ngôn sứ đề cập đến ngày sau hết, khi những người đã an giấc sẽ trỗi dậy. “Người thì để hưởng phúc trường sinh (có nghĩa là trong an bình và hạnh phúc trên trời), kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.” (Đa-ni-en 12:2). Phần sau của câu này có nghĩa là vào ngày tận thế, thân xác những kẻ xấu sẽ sống lại để vào hỏa ngục.
Thời gian khốn khổ được nhắc đến ở đây không hẳn có nghĩa là tất cả mọi người sẽ bị đau khổ, bởi vì đối với một số người, đó sẽ là thời khắc tuyệt vời và vinh quang nhất trong cuộc đời họ. Tuy nhiên, đối với những người khác thì đây là lúc họ bắt buộc phải mở mắt ra vì trước kia họ đã cố tình làm cho mình thành mù lòa, để rồi họ sẽ cảm nhận rõ ràng sự nặng nề của cả một đời sống xa Thiên Chúa. Đó là nỗi khốn khổ và kinh hãi không thắng vượt được – tức là nỗi khổ đau của những người thiếu khôn ngoan, những người đã không khuyên dạy người khác sống công chính, chứ đừng nói đến chính họ. Trong khi những người hiến thân cho sự công chính của Chúa Giêsu Kitô sẽ được sáng chói như những vì sao trên trời, thì những người bỏ lỡ việc này sẽ phải than khóc thống thiết và tuyệt vọng.
Trong thực tế, Kitô hữu chúng ta cần phải tỉnh thức: Tôi không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của tôi sẽ ra sao. Bạn cũng không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của bạn sẽ như thế nào. Có thể ngay lúc này và ngay tại đây mọi sự đều tuyệt vời, nhưng mỗi chúng ta đang chịu một cơn bão tố đích đáng mà ma quỷ có thể dùng để đánh chúng ta ngã quỵ và phải sa vào lưới của nó. Chúng ta có Thánh Mi-ca-e Tổng Lãnh Sứ Thần chiến đấu thay chúng ta, nhưng ý chí tự do của chúng ta lại dễ dàng lung lay. Cho nên điều ấy làm chúng ta lo sợ và khiến chúng ta phải nghiêm túc nghe theo lời khuyên của Thánh Phao-lô: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Phi-li-phê 2:12).
Vì lý do này, thật là một việc bác ái khi Thiên Chúa ban cho chúng ta các dấu hiệu về ngày tận thế. Cái chết là một thực tại. Chúng ta luôn ý thức một ngày nào đó mình sẽ chết, nhưng chẳng mấy khi chúng ta mong ngày đó sẽ đến. Tuy nhiên đối với ngày sau hết Đức Vua và Thẩm phán sẽ đến thì chúng ta nên mong đợi. Nếu chúng ta đang thấy những xáo trộn thời tiết chưa từng có, nếu chúng ta đang thấy những tai ương khủng khiếp, xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia trên thế giới, nếu chúng ta đang thấy động đất và các thiên tai khác, thì chúng ta hãy biết chắc rằng giờ Chúa đến đang tới gần.
Ngày hôm nay những người khôn ngoan sẽ nhận ra những dấu hiệu này. Ngày hôm nay những ai khôn ngoan sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho ngày tận thế. Và những người khôn ngoan ngày hôm nay sẽ sẵn sàng lãnh nhận vinh quang muôn đời vào ngày mai. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
Nguồn: https://www.hprweb.com/
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này mà suy giảm trí nhớ ít được quan tâm tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo tại hội thảo Sa sút trí tuệ trong thực hành y khoa của Trường Đại học Y Dược Sài gòn, kết hợp với Công ty Dược phẩm Janssen-Cilag tổ chức vừa qua, khoảng 50% người bị suy giảm trí nhớ sẽ chuyển sang thành bệnh sa sút trí tuệ 3 năm sau đó.
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm mức trí tuệ đã đạt được từ trước. Bệnh nhân sẽ bị suy giảm trí nhớ, khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian, ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động… ảnh hưởng nặng nề đến chức năng và chất lượng cuộc sống.
Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ trong phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau lứa tuổi này, mỗi ngày khoảng 3.000 nơron thần kinh bị hủy đi mà không có sự sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động. Vì vậy, bước vào tuổi trung niên bạn đã có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm trí nhớ. Nguyên nhân do tình trạng lão hóa nhanh của các tế bào thần kinh, môi trường sống, stress, thiếu một số chất quan trọng trong cơ thể… (Thanh Niên)
Tuy khoa học đã minh chứng sự lão hóa của cơ thể theo năm tháng, cụ thể như các nơ rôn, tế bào não chỉ mất dần đi theo tuổi tác, chứ không còn khả năng tái sinh. Nhưng mấy ai chịu tin rằng mình sắp chết dần, đang chết dần, chết mòn, mà hầu như ai cũng nghĩ mình còn sống mãi, sống dai, sống dài, sống hoài!
Dù vài chục năm ký cóp chút của cải, chút danh vọng, rồi cũng phải bỏ lại tất cả trên cõi trần. Dù tình yêu có mặn nồng cách mấy, thì cũng phai nhạt dần theo năm tháng với người quá cố. Như vậy, cái chết là dấu chấm hết cho đời người? Đúng với người vô thần. Nhưng sai với người Kitô hữu chúng ta, vì cái chết là khởi điểm cho cuộc đời mới, hoàn toàn tùy thuộc vào nhân quả của đời trước.
Chết đi để sống mãi
Chúa Giêsu còn nâng cao tầm quan trọng của cái chết. Không phải chỉ cái là chết thể lý đơn giản, mà còn là cái chết của các ham muốn, đam mê, dục vọng, bản năng, thú vui xác thịt, hy sinh, quên mình vì phục vụ tha nhân, vì Bát Phúc, vì Danh Cha Cả Sáng. Như thế, cái chết mới phát sinh sức sống mới, tràn trề hoa thơm trái ngọt, gặt hái mùa bội thu, như dòng máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo đã giúp cho Giáo Hội thêm bền vững, phát triển.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
Thiên hạ nói: “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng.” Nhưng cái danh để lại có khi chỉ là xú danh, chứ không phải thanh danh. Dẫu thế, tốt hay xấu thì cũng chẳng nghĩa lý gì với người quá cố, chỉ có chút ảnh hưởng nào đó đến thân bằng quyến thuộc.
Nhưng với lẽ đạo, Thiên Chúa bao giờ cũng công bằng chánh trực, thưởng phạt phân minh từng người theo công đức và tội lỗi vấp phạm.
Như thế chết đi để được sống viên mãn mãi, hay là trầm luân muôn kiếp, đều tùy thuộc cuộc đời dương thế. Một khi sống để hưởng thụ, góp nhặt, chiếm đoạt, say mê danh lợi, bon chen của cải phù vân, thì đâu còn hy vọng chi đời sau? Một nắm xương tàn kết thúc cuộc đời, chẳng mang gì theo, ngoài những tam độc, lục dục và thất tình chăng?
Do vậy Chúa Giê su khuyên bảo hãy chết đi cái tôi mau hư nát, hãy mau mắn đổi của hèn, cuộc sống phù du ngắn ngủi, lấy của của trọng, cuộc sống vinh hiển muôn đời:
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)
Thánh Phaolô cũng tha thiết khuyên nhủ tín hữu Philipphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki tô, và được kết hợp với Người.” (Pl 3, 7-9)
Sống theo Thầy
Đề được hưởng phúc trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi sống theo Thầy, phục vụ Thầy mọi nơi, mọi lúc. Phục vụ Chúa cũng có nghĩa là phục vụ tha nhân đồng loại bất cứ khi nào và ở đâu.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. (Ga 12, 26)
Tuy nhiên, không phải dễ dàng sống theo Đấng Ki tô, một khi còn nặng tính xác thịt, nặng đam mê phù vân thế gian. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã phải khóc thét lên, cảnh báo về sự chọn lựa quan trọng và dứt khoát sống còn này.
“Bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. (Pl 3, 18 -21)
Theo Thầy sống mãi
Phần thưởng cao quý vô ngần, đó chính là Đức Chúa Cha yêu quý, khen thưởng trên Nước Trời những ai quên mình, bỏ mình, phục vụ Chúa Giêsu Kitô, cùng tha nhân bất kể bạn hay thù.
“Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 26)
Con người vốn bất toàn, thiếu sót và tội lỗi, nay được vinh hạnh diện kiến Thánh Nhan nhờ ơn Cứu Rỗi của Chúa Giêsu, thì còn hồng phúc nào dưới thế này có thể sánh nổi?
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đồi”của thiệt” lấy toàn “đồ giả” (Đường Hy Vọng, 676)
Các Thánh Tử Vì Đạo chúng ta đã sáng suốt phó dâng mạng sống, từ bỏ bản thân và mọi cám dỗ xác thịt, để anh dũng tuẫn đạo, theo chân Chúa đến hơi thở cuối cùng. Các ngài đã được ân thưởng trên cõi phúc viên mãn muôn đời. Các ngài đã hiệp thông cùng Chúa Giêsu mà đồng thanh ”Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha!”
Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa luôn mời gọi phục vụ, nhưng lòng dạ con còn nặng nề thế tục, xin cứu giúp con biết từ bỏ ý riêng, chết đi tà tâm, để trung thành và bên vững phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành, che chở con thoát khỏi cạm bẫy danh lợi, quyền thế, dục vọng, để mãi vững tâm đi theo Chúa, Amen.
THỜI GIAN YÊU THƯƠNG VÀ THỜI GIAN CÔNG THẲNG
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Con người có sinh có tử. Vũ trụ này có ngày khởi đầu chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đó là chân lý. Hôm nay, Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, Giáo hội cho chúng ta suy niệm Lời Chúa liên quan đến ngày cánh chung. Chúng ta thấy được hai khung cảnh của ngày tận thế.
Khung cảnh thứ nhất ở bài đọc I, do sách Đanien diễn tả. Tác giả nói tới một thời gian kinh hoàng “Đó là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ”. Trong ngày đó, có tổng lãnh sứ thần Micae can thiệp. Người lành sẻ được thưởng. Đó là những người được “Ghi trong sổ sách”, là “Những người thông minh” và “Những kẻ khuyên dạy sự công chính”. Còn kẻ dữ sẽ bị luật phạt. Họ “Phải tủi nhục muôn đời”.
Khung cảnh thứ hai do Tin mừng hôm nay diễn tả, tác giả Thánh Marcô cho biết: “Trời đất sẽ qua đi”. Nghĩa là có ngày cùng tận của vũ trụ. Nhưng ngày đó đến khi nào chúng ta không biết được: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”. Tuy vậy, tác giả cho chúng chúng ta biết có những dấu hiệu báo cho biết ngày đó sắp đến: (1) “Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển”. (2) “Thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang”. (3) “Và bấy giờ Người sẽ sai các Thiên thần của Người đi qui tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất”.
Qua hai khung cảnh mà bài đọc I và bài Tin mừng diễn tả chúng ta xác tín hơn: Có ngày Tận Thế, Thiên Chúa sẽ phán xét nhân loại và kẻ lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt. Đó cũng là tín điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Vậy, khi chúng ta tin chắc có sự chết, có ngày tận thế và ngày đó lại đến cách bất ngờ thì chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, phải sống tỉnh thức và sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Tỉnh thức như chủ nhà canh phòng kẻ trộm (Mt 24, 43-44). Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể chuẩn bị dầu đèn đầy đủ (Mt 25, 1-3). Tỉnh thức và sẵn sàng chính là biết chu toàn bổn phận: Bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với tha nhân, đó là thực thi trọn vẹn Mười điều răn của Chúa và các điều răn Hội thánh, tóm lại trong hai điều: Mến Chúa và Yêu Người. Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo một tiêu chuẩn duy nhất đó là Tình Yêu (x. Mt 25, 31-46).
Thứ hai, phải tỉnh thức và sẵn sàng khi còn có thể. Trần gian chỉ là quán trọ. Thiên Đàng mới là ngôi nhà vĩnh cửu. Thời gian chúng ta đang sống trên trần gian này là thời gian của Ân Sủng. Thời gian của Thiên Chúa Yêu Thương chúng ta. Trong thời gian này, Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm lành lánh dữ: Ban thời gian, ban sức khoẻ, ban khả năng, ban phương tiện, như những nén bạc để chúng ta sử dụng mà lo phần rỗi. Thời gian này thật đáng quý. Quý đến nỗi có thể chỉ cần một tích tắc thôi cũng có thể biến tội nhân thành thánh nhân. Thời Gian tạm bợ quyết định cho số phận vĩnh cửu. Thánh Gioan Viannay đã nói với một phụ nữ có người chồng mới chết rằng: “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…”.
Chết là hết thời gian Yêu Thương, Thiên Chúa cứ Công Tội mà thưởng hay phạt chúng ta, đó là thời gian của Công Thẳng. Thiên Chúa chỉ dựa vào công để thưởng và dựa vào tội để phạt: “Những ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (x. Ga 5, 28-29). Vậy hãy sử dụng thời gian Yêu Thương để làm những gì có thể làm được “Việc gì làm hôm nay đừng để đến ngày mai”, để khi bước sang thời gian Công Thẳng sẽ không còn hối hận và nuối tiếc.
Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về chân lý trên: Một cô bá tước nọ rất xinh đẹp nhưng lại mồ côi cha mẹ lúc còn bé, nàng lớn lên trong một lâu đài tráng lệ và rất hãnh diễn về gia tộc quí phái của nàng. Một hôm có một cô bé, con của bác thợ gặt nghèo, hổn hển chạy đến lâu đài của cô bá tước và thưa: “Thưa cô, ba cháu sắp chết, và ba cháu xin cô tới ngay vì ba cháu có một điều rất quan trọng cần nói cho cô biết trước khi nhắm mắt”.
Cô bá tước kiêu căng đáp lại: “Ta không hiểu tại sao một bác thợ gặt nghèo hèn như ba của mày, lại có điều gì phải nói với ta”. Và cô bá tước tức giận, đóng cổng, đuổi đứa bé đi. Một lúc sau đứa bé lại hổn hển đến gõ cửa lâu đài và run sợ phân trần một lần nữa với cô bá tước kiêu hãnh: “Xin cô đến mau trước khi ba cháu chết. Ba cháu nói là trước khi má cô qua đời, trong trận chiến tranh cuối cùng, bà đã chôn dấu rất nhiều vàng bạc và một kho tàng lớn cho cô. Ba cháu định để tới khi cô đến tuổi trưởng thành sẽ tỏ cho cô biết má cô đã nhờ ba cháu chôn dấu ở đâu, nhưng bây giờ ba cháu sắp từ trần nên muốn trối lại cho cô kho tàng đó”.
Nghe vậy, cô bá tước vội vàng đi theo đứa bé, vừa đi vừa chạy, nhanh bao nhiêu có thể. Nhưng khi cô bá tước vừa bước chân đến cửa nhà người thợ gặt nghèo khổ, thì ông ta cũng vừa tắt thở không kịp nói cho cô biết kho tàng được cất dấu ở đâu. Kế đó, cô bá tước cho đục khoét nhiều lộ trong phòng, trong tường, nhưng đã quá trễ, không tìm thấy kho tàng chôn dấu ở đâu cả.
Cô bá tước trong câu chuyện trên đây vì kiêu hãnh nên bỏ lỡ cơ hội không lấy được kho tàng quí báu mà mẹ để lại. Nước Trời là kho tàng quí giá, nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội tức là nếu chúng ta không biết sử dụng Thời Gian Yêu Thương để lo phần rỗi thì chúng ta cũng có nguy cơ đánh mất kho tàng quý giá đó. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào chính lời Chúa.
Chúa nhật thứ XXXIII thường niên B làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Và Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu loan báo về sự chung cuộc, mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến lần thứ hai (x. Mc 13,24-32).
Nghe đoạn Tin Mừng Marcô (13, 24-32), chúng ta có thể nghĩ rằng “Ngày ấy còn xa, chưa cần phải làm gì hết”, nhưng “hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi” (Mc 13,29). Tuy nhiên, trong xã hội chúng ta đang sống, có những quan niệm lệch lạc về sự chung cuộc của thế giới. Quả thật, chúng ta không thể nói về sự sống lại mà không nghĩ rằng chúng ta phải chết. Ngày chung cuộc của thế giới bắt đầu với mỗi người chúng ta ngay ngày chúng ta chết, thời giờ thật cấp bách để chúng ta lựa chọn.
Nói đến Tin Mừng là nói đến Tin Vui, tự bản chất của Tin Mừng là Tin Vui, nên Tin Mừng luôn mang đến Tin Vui và Tin Vui ấy là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hằng sống: Cớ gì chúng ta phải sợ? Có phải vì chúng ta thiếu niềm tin và hy vọng không?
Sống trong thời đại không thiếu những thiên tai và rất tiếc cả những nhân tai như chiến tranh và bạo lực, làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn, cộng thêm sự xâm nhập của chủ nghĩa tương đối khiến lòng người khó tin và thất vọng. Nếu như thời Chúa Giêsu đã xảy ra việc làm cho người ta xao xuyến trước những biến động về thế giới và vũ trụ: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13, 25), thì trước đó, tinh thần của dân Chúa thời tiên tri Đaniel cũng đã trải qua cuộc khủng hoảng tương tự, lúc ấy Thiên Chúa chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc của họ. Họ thưa cùng Chúa rằng: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa” (Tv 15,5).
Khi có khốn đốn kinh hoàng như Daniel loan báo: “Thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ” (Dn 12, 1-3 ). Nhưng nếu họ tin tưởng và cậy trông vào Chúa, “khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát”. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài là niềm vui và là chỗ dựa vững chắc của mỗi chúng ta. Vị Thiên Chúa ấy hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Đấng nối liền hiện tại với tương lai; các lời tiên tri xưa kia sau cùng đã tìm thấy một trung tâm nơi con người của Đấng Cứu Thế người thành Nagiarét, chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới. Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi” (Mc 13, 31).
Thật thế, chúng ta biết rằng trong Thánh Kinh, Lời Chúa là nguồn gốc của việc tạo dựng; mọi tạo vật, bắt đầu từ các yếu tố vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, bầu trời đều vâng phục Lời Thiên Chúa, hiện hữu trong tư cách “được gọi” bởi Lời Chúa. Quyền năng tạo dựng đó của Lời Chúa đã được tập trung nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và cũng qua các lời nói của Người mà “bầu trời” đích thật hướng dẫn tư tưởng và lộ trình của con người trên trái đất này.
Giáo hội tiếp tục loan báo cho chúng ta một Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Ít sợ hơn nhưng liên kết giữa cách sống với niềm tin của chúng ta hơn! Đức Hồng Y Newman JH nói: “Khi chúng ta đến trước tòa Chúa, chúng ta sẽ được hỏi về hai điều: nếu chúng ta là phần tử của Giáo hội và nếu chúng ta làm việc trong Giáo hội Chúa. Mọi thứ khác chẳng có giá trị gì”. Giáo hội không chỉ dạy chúng ta cách chết thế nào, mà còn dạy chúng ta về cách sống ra sao sau phục sinh. Bởi vì những gì Giáo hội dạy không phải là sứ điệp của riêng mình, nhưng sứ điệp của Đấng là nguồn mạch sự sống. Chỉ trong niềm hy vọng này mà chúng ta có thể thanh thản đối mặt với sự phán xét của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Lời Chúa, Lời Chúa là ngọn Đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sánh chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như nước Vatican, Taiwan và Kosovo không là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nói đúng hơn là có tất cả 196 nước trên thế giới. Có những Nước lớn, đất rộng người đông như Trung Hoa có trên 1 tỷ 341 triệu người, Ấn Độ có trên 1 tỷ 210 triệu và Hoa Kỳ có trên 314 triệu người. Tổng số dân trên thế giới khoảng trên 7 tỷ. Có những quốc gia nhỏ xíu như Nước Vatican rộng (0.2 square miles) với dân số 770 dân và Nước Monaco (0.7 square miles) có 32 ngàn dân. Số dân tăng dần mỗi năm. Số người qua đời ít hơn số trẻ sơ sinh. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia hướng đến cùng đích. Bước vào thế kỷ thứ 21, nhờ khoa học kỹ thuật siêu vượt, con người đã mở rộng tầm kiến thức và tạo mối liên hệ tới mọi quốc gia. Sự truyền thông đa chiều đã nối kết con người xích lại gần nhau hơn.
Sống trên trần gian là cuộc lữ hành đi về quê thật. Có biết bao con đường mở ra giúp dẫn đưa con người đi đến cùng đích. Con người mọi thời đã suy tư giác ngộ ra nhiều thứ đạo, nhiều tôn giáo và nhiều cách thế để đạt mục đích. Có 20 tôn giáo chính thức, đang là chỗ cậy dựa tinh thần cho nhiều người: Kitô giáo đông nhất có trên 2 tỷ tín đồ, Hồi Giáo khoảng trên 1 tỷ 570 triệu, Hinduism có khoảng 950 triệu, Buddhism (Phật giáo) số thống kê không chính xác (350-1,600 triệu tín đồ)…Ngoài ra còn rất nhiều các nhóm tôn giáo khác nhau. Tất cả các tôn giáo cùng đi tìm ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Đa số các tôn giáo đều tin có cuộc sống hạnh phúc mai hậu nơi thiên đàng, niết bàn, cõi tây phương cực lạc, quê trời, cõi trời và nơi trường sinh bất tử.
Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những dấu chỉ về ngày cánh chung. Nước Trời khởi đi từ trần thế và kết thúc trên quê trời. Chúa Giêsu chỉ dậy: Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần (Mc 13, 28). Chúa quan phòng cho chúng ta thấy những dấu chỉ của thời gian, không gian và vạn vật muôn loài. Mọi thứ đều có khởi đầu và có ngày cùng tận. Mọi loài thụ tạo được phát triển trong thời gian, đừng mong có những bước nhảy vọt. Cuộc sống của con người cũng như thiên nhiên cần phát triển theo những chặng đường rất tự nhiên, từ trẻ tới già, từ non nớt tới sự chín mùi, từ ngây thơ tới tuổi trưởng thành và từ khởi sinh đến cùng đích. Chúng ta được mời gọi bước tới trên con đường trọn lành để chiếm hữu quê thật.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm đối diện với những người tốt, kẻ xấu. Mỗi người đều có cơ hội thay đổi để nên tốt lành hơn. Sự thật ở đời, chúng ta khó tìm được một người hoàn toàn tốt hay một người toàn xấu. Trong tâm con người, có phần tốt và chút thói xấu lẫn lộn. Nghèo cùng tâm trí và không biết gieo duyên lành sẽ dễ bị cuốn lôi theo dòng chảy. Đôi khi vì qúa chủ quan, chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình. Mỗi người cần xét mình và biết mình để tìm cách sửa sai và thăng tiến mỗi ngày.
Trong thế giới ngày nay, xuất hiện rất nhiều tôn giáo dẫn đường cuộc sống. Mỗi tôn giáo với những linh đạo riêng có thể giúp các tín đồ của mình tu thân và tu tâm để thoát vòng loạn ly. Đời sống con người hiện đại đang dần bị tục hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ và tương đối đang bủa vây và kéo chìm con người trở về với bản năng hưởng thụ. Qua truyền thông nối mạng, hình như các tệ nạn và gương xấu đang tràn lan một cách mạnh mẽ như sóng triều. Sức mạnh của sự thỏa mãn vật chất mạnh hơn các lý tưởng tinh tuyền của tôn giáo. Nhiều người tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật thể và vui hưởng cuộc sống trong hiện tại, thay vì hướng đến cuộc sống hạnh phúc tương lai. Chúng ta cần thức tỉnh cả trong ý tưởng, tâm linh và thân xác để nhận diện ý nghĩa thật của cuộc sống.
Nhiều bạn trẻ thả trôi cuộc đời lênh đênh không có đích điểm. Thật đáng thương cho kiếp phận con người. Hằng ngày tôi gặp gỡ nhiều người trẻ tự thắt nút cuộc đời qua những biến cố xảy ra. Đang trong tuổi đẹp trăng tròn, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu tìm hưởng thụ tính dục, rồi sớm có con, không hôn nhân, không gia đình, thay bạn đổi bồ như thay áo. Qua năm tháng, những nút thắt cuộc đời đan kết chất chồng lên nhau như mối tơ vò. Nhìn một người mẹ trẻ có ba đứa con với hai hoặc ba người bạn tình. Tương lai tại thế của các bạn trẻ này thật mờ mịt khó đường giải quyết. Xảy một ly đi một dặm, làm lại cuộc đời thế nào bây giờ. Làm sao chúng ta có thể nói với họ về tương lai của ngày sau? Các bạn trẻ tự giới hạn viễn tượng sống để giải quyết vấn đề hiện tại với nhiều điều nan giải. Cứ thế cuộc đời bị luẩn cuẩn trong mạng lưới ràng buộc, cả nể cho nên sự dở dang.
Ngày cánh chung sẽ đến giống như dấu chỉ của cây vả xanh tươi, chúng ta biết mùa hè sắp đến. Mỗi người chúng ta nên nhìn dấu chỉ của thời đại để chuẩn bị cho đời sống mai hậu. Chúng ta biết rằng một việc tốt dù nhỏ cũng có thể sinh ra hoa trái tốt lành. Chúng ta phải gieo nhân tốt mới có thể sinh qủa tốt được. Giữa ngã ba cuộc đời, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. Chọn lựa con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Từ bỏ đi những bận vướng của cuộc sống. Cuộc đời có nhiều vương vấn nên cần có thái độ dứt khoát. Ai cũng có thể làm lại cuộc đời. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Chấp nhận thực tại, chúng ta tháo cởi từng những nút thắt để cuộc sống tâm linh được thanh thản và an vui. Những việc làm tốt nho nhỏ hằng ngày sẽ lớn dần và đâm bông kết trái.
Chúa Giêsu biết thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của con người, nên Ngài đã dâng hiến lễ đền tội để giao hòa. Thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo (Dt 10, 14). Dù con người có sa phạm, lầm lạc và tội lỗi, Chúa vẫn có cách dẫn đưa họ trở về như mẫu gương của thánh Augustinô. Nếu chúng ta chỉ hối tiếc về sự sa ngã lầm lạc thì chưa đủ. Muốn làm lại cuộc đời, chúng ta cần thành tâm nhận lỗi, rồi hối lỗi, thật lòng sửa lỗi, chuộc lỗi, xin tha lỗi và tu luyện tâm tánh. Đây là một sự thách đố quyết tâm đổi đời. Hãy chạy đến với lòng Chúa thương xót xin ơn tha thứ. Chúa sẽ tẩy sạch tâm hồn, đổi mới trái tim yêu thương và thánh hóa trở nên con người mới trong ân sủng.
Niềm tin vào Thiên Chúa là niềm hy vọng viên mãn. Tiên tri Đaniel đã có thị kiến về ngày thế mạt: Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Dn 12, 2). Chúng ta không thể coi thường những chỉ thị, huấn lệnh và lời giảng dạy trong Giáo Hội. Niềm tin tôn giáo là cửa ngõ dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta cần phải đi, phải bước tới và thực hành những điều Chúa truyền dạy. Nước Trời mở cửa đón nhận tất cả mọi người, nhưng chỉ những kẻ kiên trì phấn đấu đến cùng mới đáng hưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta không biết được ngày giờ Chúa đến, nên luôn phải sẵn sàng: Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13, 32).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày để ngày sau được chung hưởng hạnh phúc đời đời.
9.Chết trong tình yêu Thiên Chúa
Người ta thường hay nói: “Hổ chết để da người chết để tiếng”, muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh – lợi – thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình…kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là “phù vân”, như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ “Thập Giá’ chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy:”Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo”. Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác”.
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy”. Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể “xử trảm” chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không… đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh, chúng ta cũng xác tín “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy”. Amen.
Vũ trụ này đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần lưu ý, đó là nhân loại này luôn luôn được chia làm hai giới tuyến, tin và không tin. Đón nhận và từ chối lời Ngài. Hai giới tuyến này vẫn tồn tại và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của trời đất. Đúng thế, trong ngày tận cùng của trời đất Đức Kitô sẽ xuất hiện, không phải với thân phận nô lệ, nhưng với tất cả quyền năng của Ngài để phân xử ngay cả những tư tưởng thầm kín nhất của chúng ta.
Chính lúc ấy, hai giới tuyến này mới thực là rõ rệt. Một bên thì sáng ngời và hạnh phúc vì họ là những người đã trung thành gắn bó với Chúa… Còn một bên thì khổ đau và tuyệt vọng, bởi vì họ đã từng là những kẻ thù, chống đối và phỉ báng Chúa.
Lúc bấy giờ, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Trong khi đó những người lành thì hân hoan vui sướng, bởi vì họ đã trung thành gắn bó với Chúa, không bao giờ họ bán rẻ đức tin của mình cho những đam mê và những khát vọng trần tục. Bấy giờ Chúa sẽ phán với họ: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã được chuẩn bị cho các ngươi từ trước muôn đời. Bấy giờ cánh cửa Nước Trời được mở rộng để họ tiến vào, ở đó họ sẽ được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời với Chúa, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xác tín rằng Nước Trời mới là quê hương đích thật, mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chúng ta. Còn trần gian thì chỉ là quán trọ mà chúng ta là những lữ khách. Bởi đó, không được từ khước một hy sinh, một gian khổ nào. Trái lại, bằng mọi giá phải chiếm cho được quê hương Nước Trời.
Hãy nghĩ đến Nước Trời mỗi khi chúng ta gặp phải những cám dỗ và thử thách. Hãy nghĩ đến Nước Trời giữa những vất vả và mệt mỏi, giữa những buồn phiền và cay đắng của cuộc sống thường ngày. Hãy nghĩ đến Nước Trời trong những lúc nghèo túng, bệnh tật và cô đơn. Bởi vì Nước Trời trổi vượt trên mọi thực tại trần gian.
Đừng bán quyền trưởng nam bằng một bát cháo. Đừng bán cuộc sống vĩnh cửu bằng một vài giây phút vui thú chóng qua. Đời sống thì ngắn ngủi. Danh vọng và vui thú thì chóng tàn. Việc quan trọng chúng ta cần phải làm trước tiên, đó là tìm kiếm Nước Trời như lời Chúa đã nói: Sau cuộc sống trần gian này, thì hạnh phúc Nước Trời đang chờ đón chúng ta, thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để chúng ta xứng đáng được Chúa đón nhận vào chốn quê hương vĩnh cửu?
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. Trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động. Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa.”
Phải chăng những điều ấy phù hợp với những gì Đức Mẹ đã nói với ba em thụ khải ở Fatima! Nhất là trong một số bí mật được trao phó? Có một bí mật Đức Mẹ dạy chỉ được tiết lộ năm 1960. Năm đó, Lucia đã viết lại và đệ trình Đức Gioan XXIII. Ngài coi xong, suy nghĩ và quyết định không tuyên bố. Phải chăng là những gì quan trọng sẽ xảy ra trong Giáo hội và thế giới, cách riêng về dấu chỉ lòng đạo đức sẽ sa sút! Một dấu tiên báo ngày thế mạt sắp đến.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (IITim. 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn.” Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt. 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh. 2,10).
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc chúng ta nghĩ đến ngày cùng tận của thế giới. Chẳng có gì thuộc về thế gian mà tồn tại vĩnh viễn, trái lại tất cả sẽ sụp đổ. Chỉ có những gì thuộc về Chúa mới trường tồn.
Thực ra, chẳng ai biết lúc nào thì tận thế. Cho nên có lẽ chúng ta sẽ không gặp ngày đó. Tuy nhiên, ai cũng sẽ gặp phải ngày tận thế của đời mình, đó là ngày chúng ta chết. Vì thế ai cũng phải chuẩn bị cho ngày đó.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta quá bám víu vào thế gian này, tưởng như nó không bao giờ qua đi.
Chúng ta quá bám víu vào cuộc sống này, làm như chúng ta không bao giờ chết.
Chúng ta ít khi chuẩn bị cho cuộc sống đời sau.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Đn 12,1-3
Ngôn sứ Đanien nói về thời cùng tận: khi đó Thiên sứ Micae, Tổng lãnh đạo binh các thiên sứ, sẽ đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực gian tà. Nhưng đó cũng chính là lúc những người công chính được giải thoát và ban thưởng phúc trường sinh.
Thực ra chúng ta không cần coi đoạn sách Đanien này là những lời tiên tri về ngày tận thế. Hãy coi đây là một việc thường xuyên diễn ra trong lịch sử chung và cuộc đời riêng của mỗi người: luôn có một cuộc giao tranh giữa cái xấu và cái tốt; khi cái xấu sụp đổ thì cũng là lúc cái tốt lên ngôi.
2. Đáp ca Tv 15
Bài ca bày tỏ lòng phó thác vào Chúa: “Số mạng con chính Ngài nắm giữ… được Ngài ở bên con chẳng nao núng bao giờ”
3. Bài đọc II Dt 10,11-15.18 (Chủ đề phụ)
Tiếp tục so sánh các thượng tế Do Thái với Đức Giêsu Thượng Tế: (1) Những thứ lễ tế mà thượng tế Do Thái dâng lên chẳng thể nào xóa bỏ được tội lỗi; còn hiến lễ của Đức Giêsu Thượng tế xóa sách mọi tội lỗi của loài người; (2) Do đó các thượng tế Do Thái phải mỗi ngày dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ dâng duy nhất một lần và sau đó lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời.
4. Tin Mừng Mc 13,24-32
Đức Giêsu nói về ngày Ngài quang lâm trở lại. Ngài không mô tả ngày đó nhưng cho biết những nét chính:
Ngày Chúa quang lâm cũng là ngày bắt đầu một cuộc tạo dựng mới: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển” là đối ảnh của St 1,1.16 mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng: “Lúc khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và trái đất. Ngài làm 2 chiếc đèn lớn, chiếc lớn hơn để cai ngày, chiếc nhỏ hơn để cai đêm, rồi các ngôi sao”.
“Lúc đó Ngài sẽ sai thiên sứ đi và tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất đến cuối chân trời: khi vũ trụ cũ đầy gian tà sụp đổ thì cũng là lúc quyền lực của Chúa lên ngôi. Những kẻ lành được Ngài tuyển chọn sẽ làm thành nhân loại mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ngày cuối cùng – Ngày Chúa đến
– Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những đoạn Thánh Kinh khó hiểu nhất. Nó thuộc văn thể Khải Huyền, là một loại văn thể bóng gió, nghĩa là không nói thẳng ý tưởng ra, nhưng diễn tả ý tưởng một cách gián tiếp qua trung gian những hình ảnh. Những hình ảnh này không quan trọng vì chỉ là phương tiện diễn tả, cái quan trọng chính là ý tưởng mà những hình ảnh ấy muốn diễn tả.
Vậy ý tưởng chính của bài Tin Mừng này là gì? Thưa là nói về ngày cùng tận.
Ngày cùng tận ấy sẽ đến vào lúc nào? Có nhiều người không biết đã học giáo lý kiểu nào, hoặc đã đọc ở những sách nào mà dám quả quyết rằng ngày ấy sẽ đến vào năm 2000. Quyết toán như vậy là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi vì trong bài Tin Mừng này, chính Chúa Giêsu đã nói “Còn về ngày hay giờ đó thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Chúa Con đi nữa cũng không ai biết được, trừ một mình Chúa Cha mà thôi”.
Ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay mô tả “Khi ấy mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống. và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển”. Những hình ảnh ấy khiến cho nhiều người cho rằng ngày ấy sẽ là một ngày khủng khiếp. Có người còn tô vẽ thêm rằng ngày đó sẽ có nắng lửa mưa dầu. Có người khác lại giải nghĩa rõ hơn nữa, rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao rung chuyển và nắng lửa mưa dầu ấy là hậu quả của một cuộc chiến tranh nguyên tử; rằng thế giới này sẽ tận diệt bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử. Thế nhưng, như tôi đã lưu ý ngay từ đầu: đây là văn thể Khải Huyền, trong đó những hình ảnh không quan trọng vì chúng chỉ là phương tiện để diễn tả một ý tưởng. Thực ra ngay cả những hình ảnh được dùng trong bài Tin Mừng này cũng không phải là do chính Chúa Giêsu đưa ra, mà Chúa chỉ lấy lại những hình ảnh mà các tiên tri quen dùng để nói về ngày cùng tận. Mà theo các tiên tri thì những hình ảnh trên mang một ý nghĩa rõ ràng. Ý nghĩa đó là gì? Đây ta hãy nghe một đoạn trong sách tiên tri Isaia: Ngày ấy sẽ không cần mặt trời soi sáng ban ngày, cũng không cần mặt trăng soi sáng ban đêm, cũng không cần ánh sáng của các ngôi sao hoặc ánh sáng của đèn đuốc, vì chính Chúa Cứu Thế sẽ là Ánh Sáng soi chiếu khắp nơi. Nghĩa là các tiên tri và cả Đức Giêsu đều không quan tâm ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào, chỉ quan tâm đến sự kiện quan trọng nhất trong ngày ấy, đó là Chúa sẽ đến. Tới ngay cùng tận thì Chúa sẽ đến. Ngày Chúa đến có thể là một ngày khủng khiếp đối với những kẻ tội lỗi, mà cũng là một ngày hân hoan vui mừng cho những người công chính.
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay? Hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ. Tuần tới sẽ là Chúa nhật cuối cùng. Sau đó là qua Mùa Vọng bắt đầu một năm Phụng vụ khác. Vậy trong ngày chúa nhật áp chót, Phụng vụ chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận thì cũng là hợp lý.
Thời giờ thắm thoát thoi đưa, nói đi đi mãi có chờ chờ ai!
Thế giới này không phải là vô tận, thế nào rồi cũng có ngày tận cùng.
Cuộc đời con người cũng không phải là vĩnh cửu, thế nào rồi cũng có ngày chấm dứt. Một năm trôi qua là thế giới càng tiến gần đến ngày tận cùng của nó. Một năm trôi qua, đời người cũng càng tiến gần đến ngày cuối cùng của mình. Ngày cùng tận ấy sẽ đến lúc nào? Không ai biết. Nó sẽ diễn ra như thế nào? cũng chẳng ai biết trước được. Chỉ biết chắc là ngày đó Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đến với mọi người để kiểm điểm đời sống mỗi người, để đánh giá xem mỗi người đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào.
Người ta thường ví cuộc đời như một chuyến đi, thời gian như một con đường, và con người như một kẻ lữ hành. Người lữ hành thực hiện chuyến đi cuộc đời trên con đường thời gian. Và cũng như con đường phải dẫn đến một đích điểm, thì người lữ hành phải biết tận dụng thời gian để nhanh chân tiến bước đến đích điểm ấy. Không thể là một người lữ khách lang thang, cứ vô tình bước những bước vô địch, không biết đã đi qua đâu mà cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.
Hết một năm là hết một đoạn đường. Giáo Hội muốn chúng ta hôm nay tạm dừng chân lại để kiểm điểm cuộc hành trình của mình.
Một năm qua, thế giới đã có những bước tiến tốt đẹp: Nhiều nước thù nghịch nhau đã tiến gần tới nhau để hoà giải hoà hợp với nhau. Một năm qua, đất nước chúng ta cũng có nhiều bước tiến, có đổi mới nhiều mặt để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cuộc đời mỗi người chúng ta, một năm qua có tiến bước gì không?
Đối với bản thân: con người chúng ta có trở nên tốt hơn không.
Đối với tha nhân: liên hệ giữa chúng ta có công bình hơn, bác ái hơn?
Đối với Chúa: sau một năm chúng ta có đến gần Chúa hơn không? Có thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa nhiều hơn không? Đức tin của chúng ta có vững vàng hơn không? Đức cậy chúng ta có chắc chắn hơn không? và đức mến của chúng ta có nồng nàn hơn không?
Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta tạm dừng chân để suy nghĩ về những điểm trên, để nếu cần thì điểu chỉnh lại cho cuộc hành trình của mình được vững bước hơn. Có như vậy chúng ta mới có thể sẵn sàng và vui mừng hân hoan đón Chúa khi Ngài đến.
2. Ngày tận thế (CN 33 TN-B)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết”. Đó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Điều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: “Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng quả quyết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”. Nói khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Đấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Cha”. Amen.
(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
3. Ngày tận thế
Một bà kia vừa kết thúc một ngày làm việc chạy vội về nhà. Đêm nay bà sẽ đi đánh bài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà, bà gặp một thanh niên cầm một tấm bảng ghi dòng chữ “Ngày tận thế gần đến rồi”. Bà hỏi:
– Cậu nói là ngày tận thế gần đến rồi hả?
– Thưa bà đúng vậy.
– Nhưng cậu có chắc không?
– Thưa bà chắc chắn.
– Cậu nói nó gần đến?
– Đúng vậy.
– Gần như thế nào?
– Rất gần.
– Cậu có thể nói rõ hơn không?
– Thưa bà, ngay đêm nay.
Người đàn bà dừng lại suy nghĩ một lúc. Rồi với giọng lo lắng, bà hỏi tiếp: “Nó đến trước hay sau ván bài vậy?”.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới không ổn định. Hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác. Tình trạng không ổn định như thế khiến người ta sợ hãi lo âu. Và giữa cái thế giới không ổn định đầy lo âu sợ hãi như thế, người ta cần có một cái gì đó vững chắc để dựa vào.
Đối với kitô hữu, chỗ vững chắc nhất có thể dựa vào là Thiên Chúa. Bài đáp ca trong Thánh lễ hôm nay có câu: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ”. Còn trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tất cả những gì vững chắc mà chúng ta có, và tất cả những gì chúng ta cần là bấy nhiêu đó: ta an tâm vì biết rằng mọi sự đều nằm trong bàn tay Chúa, biết rằng chương trình Chúa vạch sẵn cho cuộc đời chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ thống trị. Thiên Chúa sẽ thống trị. Chúng ta sẽ cùng ngự trị với Thiên Chúa mãi mãi. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dịp cuối năm phụng vụ, Hội thánh nhắc ta nhớ ngày Đức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để xét xử toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy vui mừng và tin tưởng dâng lời cầu nguyện:
1. Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại để đem tất cả những người được cứu độ vào hưởng hạnh phúc Nước Trời với Người / Chúng ta hãy cầu xin cho Hòa Bình luôn vui mừng loan báo niềm hy vọng hạnh phúc ấy cho mọi người.
2. Trời đất và thế giới này sẽ qua đi như lời Chúa phán / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà lãnh đạo các dân tộc hiểu biết rằng quyền bính của họ cũng sẽ qua đi / để họ biết xây dựng công lý và hòa bình cho mọi người / là những việc sẽ không qua đi.
3. Thiên tai, chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, đã làm cho biết bao người đau khổ và phải chết / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người biết tin tưởng và hy vọng vào ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến / để không tuyệt vọng với những tình trạng bi đát đó.
4. Không ai biết ngày giờ Đức Giêsu sẽ đến / chúng ta hãy cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện / để sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con không biết ngày giờ nào Chúa trở lại, xin cho mỗi người chúng con luôn chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa, bằng một đời sống thật tình mến Chúa yêu người. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Về Ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa, trừ phi là Cha” (Mc 13:32).
Cách đây không lâu, một cuốn sách nhỏ do một người Việt tên TTĐ phát hành đã làm hoang mang không ít người. Cuốn sách nói về ngày tận thế sẽ xảy ra năm 2000. Tác giả trích dẫn nhiều tài liệu và nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới như chiến tranh, giặc giã, lụt lội, và ngay cả điều bí mật Fatima thứ ba (lúc đó chưa được Toà Thánh công bố) để khẳng định tận thế sắp xảy ra.
Đi giúp cho giáo dân đó đây, tôi cứ được nghe những câu hỏi có cùng một nội dung: “TTĐ nói có đúng không? Tận thế sẽ xảy ra trong năm 2000 chăng?”
Trước những câu hỏi đó, tôi tự nhủ: ngày tận thế hay năm tháng cuối cùng của nhân loại, không ai biết được. Ngay Chúa Giêsu ngày xưa cũng phán: “Về ngày giờ đó thì các thiên thần trên trời và cả Con cũng không biết được.” Đức Giêsu không thể nói ra ngày nào tận thế xảy đến, ấy thế mà TTĐ lại nói được thì quả là ông ta hay hơn Chúa Giêsu mất rồi. Mà nếu thế thì tại sao người ta không thờ TTĐ cho rồi?
Thêm một suy tư khác: thường đi đâu mà đi một mình, lẻ loi đơn độc, thì mới buồn, mới sợ. Ra đi mà để lại vợ chồng con cái, hay những người thân yêu, mới là đau khổ vì bị chia ly. Nếu như có tận thế, mọi người cùng đi chung với nhau thì đáng lẽ ta phải vui chứ cần gì phải lo.
Cho nên, lắm khi mình cứ “lo bò trắng răng.” Điều đáng lo thì lại không để ý, còn chuyện không đáng quan tâm thì lại cứ ngay ngáy, sống chết với nó.
Thiết tưởng điều đáng lưu ý nhất hiện nay không phải là ngày cánh chung của thế giới, nhưng là ngày cuối cùng của mỗi người trên cõi đời này. Đó chính là ngày tận thế của mỗi người. Đây là điều chắc chắn hơn bất cứ một lời tiên đoán nào.
Thánh Augustino đã từng nói: Một đứa bé sinh ra, sau này nó giàu hay nó nghèo, khoẻ mạnh hay đau yếu, chết non hay chết già, chẳng ai biết được. Chỉ có một điều chắc nhất là nó sẽ chết. Dù sang hay hèn, vua chúa hay bần dân, đàn ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, rồi cũng phải chết thôi.
Thánh Anphongsô cũng xác quyết: “Không biết ta có sống trên thế gian được 100 năm như lòng ước nguyện không. Nếu được thì cũng sẽ có một ngày, ngày đó sẽ có một giờ, giờ đó sẽ có một phút, phút đó sẽ có một giây. Đó là giây phút cuối cùng của đời ta.” Và từ lời xác quyết này thánh nhân đã nhắc nhở người ta hãy nhớ đến các bậc tiền nhân, dù họ có quyền cao chức trọng, tài giỏi thông thái, vợ đẹp con khôn đến đâu thì giờ đây cũng chỉ là nắm tro bụi trong lòng đất, trên đó được ghi dấu bởi một tấm bia mà thôi.
Cho nên thật là phù phiếm biết bao khi chỉ biết quan tâm đến sự sống ngắn ngủi của đời này mà quên mất rằng mình còn có một cuộc sống đời đời kiếp kiếp mai sau, cuộc sống bắt đầu ngay lúc chết. Dại dột biết bao khi chỉ nhắm đến cái có cùng mà quên đi cái vô cùng. Chỉ tìm cái tương đối mà quên đi cái tuyệt đối.
Trong cùng một ý nghĩa như thế mà kho tàng văn học của Ấn độ có kể về một ông vua được tiếng là thông minh khôn ngoan nhất thiên hạ nhưng cũng là người dại dột nhất trần gian.
Tại cung vua có một anh khờ chuyên làm trò cho nhà vua xem. Vua thích lắm vì thường có được những trận cười nắc nẻ do những lời nói ngớ ngẩn hay điệu bộ khờ khạo của chàng hề. Một hôm để pha thêm trò, vua gọi anh ta đến bên ngai vàng, trao cho một chiếc gậy và một vương miện rồi phán: “Ta phong cho ngươi làm thằng khờ hạng nhất. Ngươi sẽ giữ chức này cho đến khi có người khờ hơn ngươi. Lúc đó ngươi hãy trao gậy và vương miện lại cho nó.”
Ngày tháng trôi qua, nhà vua già cả và suy nhược theo tuổi tác. Lúc nằm trên giường hấp hối, cả gia đình, quần thần, vương hầu tề tựu chung quanh. Sau khi cố lấy chút hơi tàn, nhà vua thều thào: “Ta gọi các ngươi đến để nói lời từ biệt. Ta sắp xa các ngươi rồi. Ta sắp đi vào một cuộc hành trình mà không bao giờ có ngày gặp lại rồi.” Nghe vua nói thế, ai cũng sụt sùi. Bỗng thấy anh hề tiến đến bên long sàn và thưa: “Muôn tâu đức vua, tôi xin được hỏi ngài một câu trước lúc ngài ra đi… Hồi xưa mỗi lần đi đâu xa, dù đến các vùng hẻo lánh của nước nhà, hay đô thị phồn hoa của nước bạn, ngài đều cho sứ giả hoặc cảnh binh đi trước dọn đường. Còn cuộc hành trình xa xôi mà ngài sắp lên đường kia, thì xin hỏi, ngài đã chuẩn bị gì chưa?” Nghe hỏi thế, nhà vua mở mắt ra đáp: “Ừ, ta chẳng biết chuẩn bị gì cả.” “Thế thì xin nhà vua nhận lại chiếc gậy và chiếc vương miện này, vì tôi vừa tìm ra một kẻ khờ hơn tôi rồi.” Nói xong anh trả tất cả lại cho nhà vua.
Nếu chỉ biết vui chơi hưởng thụ hôm nay mà đánh mất tương lai cuộc đời, nếu chỉ nhìn đến những công danh, thế lực, tiền tài, quyền lợi của hôm nay mà quên đi hay không lo gì cho kiếp sống đời đời mai sau thì quả ta là những kẻ khờ dại vô cùng.
Trong Thánh kinh cũng có kể câu chuyện một phú ông kia, gặp năm may mắn được mùa, lúa thóc tràn trề. Ông suy tính làm cách nào để có thể cất giữ được thóc lúa. Thế rồi sau nhiều hôm suy nghĩ ông quyết định phá các kho cũ, xây một kho mới, to lớn hơn để chứa thóc. Khi hoàn tất công việc, ông ung dung sung sướng nói với lòng mình: “Hồn ta ơi, hãy ăn đi, uống đi, nghỉ ngơi đi, vì từ nay của cải đã dư tràn cho nhiều năm.” Nhưng Chúa phán với người ấy rằng: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn của ngươi, vậy tất cả những thứ kia sẽ về tay ai đây?” (x. Lc 12:16-21)
Do đó, chớ gì ta biết tỉnh thức. Thức tỉnh lại giữa những lo toan, khao khát, kiếm tìm để hỏi lòng mình “Tôi đang làm gì và tôi đang tìm gì?” Có thể với sự chủ quan tôi nghĩ mình đang làm việc này công kia cho Chúa đấy, nhưng lại chẳng phải là công việc của Chúa. Có thể tôi đang tìm tự do, danh dự, quyền lợi, vật chất, tình cảm, nghề nghiệp…, nhưng thử hỏi tôi có tìm kiếm Chúa không? Có Chúa trong những gì tôi đang có không?
Nếu mục tiêu của mọi sự tôi trăn trở kiếm tìm là một thứ gì đó rất hay, rất có lý, nhưng không phải là Chúa, thì tôi quả là một kẻ khờ dại vô cùng.
Nếu tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì đời vẫn mãi thiếu vắng khát khao. Bởi như lời Thánh Augustino nói: Tôi đã tìm nhiều thứ nhưng “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.”
Và rồi nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui và nguồn hy vọng duy nhất của đời, thì thật đáng lo biết bao. Vì như thế ngày tận thế của đời tôi đã xảy ra rồi-tôi đang chết và tôi đã chết.
Còn nếu như có Chúa trong mọi tâm tư, ước muốn, kiếm tìm, và cuộc sống của tôi, thì ngại ngùng gì mà không hát vang lời Ca Vịnh:
“Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi ai. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không lo thiếu gì.”
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.
Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.
Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Đn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.
Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có người sợ hãi và có kẻ vui mừng.
Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9).
Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Chúa!
Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12).
Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).
Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!
Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32).
Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá vô lý!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
NGÀY VÔ TẬN: CỬA KHÔNG ĐÓNG – ĐÊM KHÔNG VỀ
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng Niên được mở màn với Mùa Vọng, thời điểm Giáo Hội trông đợi Chúa Kitô đến, không phải đến lần thứ nhất, vì Người thực sự đã đến rồi, thì Lễ Chúa Kitô Vua ở Chúa Nhật kết thúc Phụng Niên của Giáo Hội hằng năm là mục tiêu ngưỡng vọng của Giáo Hội, là tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng đã Nhập Thể, Vượt Qua, Thăng Thiên và chắc chắn sẽ Tái Giáng. Nếu Chúa Kitô không phục sinh, đức tin Kitô giáo là đồ bỏ, là mê tín dị đoan, là điên cuồng ngu xuẩn (x. 1Cor 15:13-15), thì nếu Chúa Kitô không tái giáng, việc Người phục sinh quả thực, đúng như tin đồn trong dân Do Thái, chỉ là một câu chuyện giả tạo do thành phần môn đệ của Người lấy xác của Người đi vậy thôi, cho ứng nghiệm những gì Người phán khi còn sống (x Mt 28:11-15). Tuy nhiên, biến cố Phục Sinh lịch sử của Đấng Tử Giá còn có thể chứng minh bằng chứng từ là ngôi mồ trống cộng với các lời tiên tri (nhất là của chính Đấng Phục Sinh), còn biến cố Người tái giáng sẽ xẩy ra của Người, cũng trong lịch sử của loài người, lại hoàn toàn không có gì chứng thực cả, chỉ hoàn toàn phát xuất từ lòng tin tưởng được căn cứ vào mạc khải thần linh là những gì được ghi lại trong Phúc Âm vậy thôi, như được thấy trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này, Chúa Nhật ngay trước Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua kết phụng niên tuần tới.
Thật vậy, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 33, dù ở chu kỳ phụng vụ nào, bình thường cũng đều là bài Phúc Âm nói tới ngày tận thế hay tả cảnh tận thế, tức những gì xẩy ra trước khi Con Người đến trong vinh quang, trừ chu kỳ năm A, vì chu kỳ này có bài Phúc Âm thuật lại cảnh phán xét chung ở Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua rồi. Tuy nhiên, nếu liên kết ba bài Phúc Âm của cả ba chu kỳ A, B, C cho Chúa Nhật 33 lại với nhau, chúng ta thấy ý nghĩa về ngày thế mạt xẩy ra hay diễn tiến rất ăn khớp với nhau như sau: Chúa Kitô sẽ trở lại sau một thời gian vắng bóng là để tính sổ với bày tôi của mình (Phúc Âm năm A), và khi Người trở lại sẽ có những biến động trên không trung, những gì xẩy ra ngay trước khi Người xuất hiện (Phúc Âm năm B), cùng với những biến loạn xẩy ra nơi xã hội loài người, nhất là cảnh thành phần môn đệ của Người bị thử thách về đức tin (Phúc Âm năm C), thành phần phải thanh toán trách nhiệm với Người và trình nộp lợi nhuận cho Người khi Người đến (Phúc Âm năm A).
Riêng về bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này chúng ta thấy có bốn điểm chính theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, hiện tượng biến động trên không trung xẩy ra ngay trước khi Con Người đến; thứ hai, sự kiện Con Người tái xuất hiện là để triệu tập thành phần được tuyển chọn; thứ ba, biến cố thế mạt được Người khẳng định là chắc chắn sẽ xẩy ra; thứ bốn, biến cố này xẩy ra khi nào cũng được Người xác nhận là chỉ có một mình Cha biết mà thôi.
Bài suy niệm này vừa viết xong thì tin tức thiên văn cho biết Hiện Tượng Nguyệt Thực, Sao Băng và Nhật Thực trong Tháng 11/2003 như sau. Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu sẽ được thấy vầng trăng rằm trở thành một bầu tối hồng vào cuối tuần này Thứ Bảy ngày 8/11/2003, khi mặt trăng lướt qua vùng tối của trái đất trong biến chuyển mới nhất của bầu trời năm nay. Hiện tượng nguyệt thực này sẽ kéo dài trong vòng 24 phút và lên tới hết cỡ của nó vào lúc 8 giờ 6 phút EST, lúc mặt trăng, trái đất và mặt trời chập vào nhau và mặt trăng băng ngang qua vùng tối nhất của Trái Đất. Hiện tượng nguyệt thực không gây tác hại cho mắt trần của người coi, không giống như hiện tượng nhật thực. Hiện tượng nguyệt thực diễn ra với nhiều mầu sắc, từ nâu đậm và đỏ đến mầu cam sáng, vàng và nâu, tùy theo nhiều ít mây và bụi trong không khí của trái đất lúc ấy. Vào cổ thời hiện tượng nguyệt thực này được cho rằng bị gây ra bởi con quái vật nào đó làm cho mặt trăng đẫm máu, dấu hiệu tai họa xẩy ra. Nếu mây mù che khuất biến cố Thứ Bảy này, người ta sẽ không phải đợi chờ lâu để thấy được một trận mưa sao băng Leonid xẩy ra hằng năm. Ở Tây Á, Nam Dương và Úc Đại Lợi sẽ thấy trận mưa sao băng này vào sáng sớm ngày 14/11/2003. Còn ở vùng Tây Phi, Tây Âu, Bắc Mỹ và những phần đất phía tây của Nam Mỹ sẽ được thấy trận mưa sao băng này vào ngày 19/11/2003. Cảnh mưa sao băng này xẩy ra rất ngoạn mục với cả hằng trăm ngôi sao chuyển chỗ trên bầu trời trong một tiếng đồng hồ. Ngày 23/11 cũng sẽ diễn ra hiện tượng nhật thực mà chỉ thấy được ở Nam Cực Cầu thôi.
Ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề thiên văn mà là suy nghĩ và các vấn đề liên quan đến 4 câu của Lời Chúa phán trong bài Phúc Âm như sau: “Bấy giờ (tức sau biến động trên không trung), người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”; “Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”; “Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”; và “về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”. Nói chung, nếu hai lời đầu liên quan đến chính ngày tận thế thì hai lời sau liên quan đến đức tin đối với ngày tận thế này. Vậy chúng ta cần phải hiểu thế nào về 4 lời chân thật “sẽ không qua đi” này của Chúa Giêsu về ngày thế mạt.
“Bấy giờ, người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”:
Qua câu lời Chúa này chúng ta biết được, trước hết, ngày tận thế xẩy ra rồi Con Người mới đến, chứ không phải khi Người xuất hiện thì bấy giờ là ngày tận thế. Ngày tận thế là ngày không trung xẩy ra biến động, ở chỗ “mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ rơi rụng, và các cơ ngũ trên trời bị rung chuyển”. Và những biến động trên không trung đây, những biến động cuối cùng trong ngày tận thế và vào chính ngày tận thế đây, chỉ xẩy ra sau những biến loạn trên trái đất mà thôi: “Sau các cuộc thử thách đủ mọi thứ xẩy ra vào giai đoạn đó”, như được Thánh Ký Marcô thuật lại ở phần Phúc Âm, cùng đoạn 13, từ câu 5 đến câu 23 ngay trước bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, giai đoạn biến loạn trên trái đất, với hiện tượng tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, động đất đói khát và bách hại sát đạo. Cũng qua câu lời Chúa trên, chúng ta còn hiểu được rằng, sau ngày tận thế, thân xác con người ta sẽ được phục sinh, và bấy giờ, với con mắt của thân xác phục sinh, con người, dù lành hay dữ, mới có thể thấy được chính Đấng Phục Sinh đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời.
Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã khiến cho không trung bị biến loạn để thế gian phải đi đến ngày cùng tháng tận của mình vô cùng kinh hoàng như thế? Chính không trung chi phối trái đất, (trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất), chẳng lẽ lại bị tình trạng biến loạn trên trái đất xẩy ra trước đó chi phối đến bị biến động gây ra thế mạt hay sao? Thật ra, nếu tất cả mọi sự trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên vì loài người và cho loài người thì mọi sự quả thực lệ thuộc vào loài người, đến nỗi, như Thánh Phaolô nhận thức và diễn tả: “Tất cả mọi tạo vật ngong ngóng trông đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm tôi cho hư hoại, không phải tự chúng, mà là bởi Đấng bắt chúng phải chịu như thế, song không phải là không có hy vọng, vì chính thế gian sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại hầu được thông phần vào quyền tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19-21). Vậy có thể suy ra rằng, một khi lòng người hay xã hội loài người hoàn toàn băng hoại hay băng hoại hết cỡ, đến nỗi, đối với văn minh vô thần duy vật của họ, mặt trời công chính là Chúa Kitô đã trở nên tối tăm, mặt trăng Giáo Hội không còn chiếu sáng được ảnh hưởng của mình nữa, các người lành thánh như những vì tinh tú cũng sẽ rơi rụng vào thời kỳ chưa từng có từ tạo thiên lập địa ấy, một thời kỳ nếu không được rút vắn lại thì kẻ lành cũng sẽ bị hư đi (x Mk 13:19-20), và các cơ ngũ trên trời là tất cả mọi thứ lề luật tự nhiên cùng với các nguyên lý luân lý phổ quát bị rung chuyển, thì cũng là ngày cùng tháng tận của thế gian này, hay nói theo đức tin Kitô giáo, cũng là ngày thế gian cần phải được hay đến lúc được canh tân biến đổi, để trở thành một trời đất mới, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị (x 2Pt 3:13).
“Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”:
Câu lời Chúa này cho chúng ta thấy lời Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định quả là chí lý: “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi nữa mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28). “Những ai thiết tha trông đợi Người” đây không phải chỉ là những ai sống vào ngày cùng tháng tận, những ai bền đỗ đến cùng trong những ngày khủng khiếp vô tiền khoáng hậu ấy (x Mk 13:13), bởi vì, như trên đã nhận định, tận thế rồi Chúa Kitô mới xuất hiện, tức mọi người chết hết rồi và sống lại rồi bấy giờ Người mới tới, chứ không phải chỉ tới với những kẻ chưa chết nói chung, nhất là những kẻ thiết tha trông đợi Người nói riêng. Dụ ngôn 10 cô phù dâu đều thiếp ngủ như nhau, nhưng Chúa Kitô chỉ mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người là những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu hy vọng theo với cây đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến để ra nghênh đón Đấng bất chợt đến vào lúc nửa đêm mà thôi (x Mt 25:1-13).
Đúng thế, Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người, thành phần được Người cứu độ qua phép rửa, từ lúc Người thăng thiên (đi xa) cho tới khi Người lại đến (trở về), như ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 chu kỳ năm A cho thấy. Tuy nhiên, vì ơn cứu độ của Người là một ơn cứu độ phổ quát, ơn cứu độ được Thiên Chúa Hóa Công hứa cho tất cả loài người ngay sau nguyên tội (x Gen 3:15), mà tất cả những ai, dù sinh ra trước khi Lời hóa thành nhục thể, hay sau khi Chúa Kitô Vượt Qua song chưa được tái sinh bởi Giáo Hội Người qua Phép Rửa cứu rỗi (x Mk 16:16), một khi biết thiết tha trông đợi Người, được tỏ ra qua việc họ sống chân chính hợp với lương tâm ngay lành và lề luật luân lý phổ quát, cũng sẽ được Người giải cứu (x Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16). “Thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời” đây có thể được hiểu hay cần phải được hiểu theo nghĩa này.
“Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”:
Như trên vừa nhận định, chính vì Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho thành phần thiết tha trông đợi Người, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế, mà ba chữ “thế hệ này” ở đây không chỉ áp dụng cho những người đương thời với Chúa Kitô, với các tông đồ, thành phần dân Do Thái bấy giờ, mà là cho chung nhân loại. Qua lời Chúa Giêsu khẳng định trên đây, chúng ta thấy rằng tận thế là một sự thật chứ không phải chỉ là một lời đe dọa, một cái gì không thể nào xẩy ra hay không bao giờ xẩy ra. Triết lý và khoa học cũng không thể chối cãi được sự thật cùng tận này. Theo triết lý và luận lý, ai dám cho rằng tất cả mọi sự hữu hình và vật chất này sẽ kéo dài đến vô hạn, bằng không chính vật chất hữu hạn này là Thiên Chúa, là Hóa Công, vô thủy vô chung, vô cùng bất tận. Theo khoa học, ai có thể chứng minh được rằng mọi sự tự dưng mà có, hay chỉ có thể biết được, qua các giả thuyết, rằng thiên nhiên vạn vật ngay từ đầu từ từ được biến đổi mà thành hình; thế nhưng, không ai dám cả quyết một cách chắc chắn 100% như chân lý rằng trời đất này sẽ không bao giờ hoàn toàn qua đi, sẽ luân hồi không bao giờ cùng, tức sẽ muôn đời tồn tại thiên thu vạn đại, tức không có vĩnh hằng, không có đời sau, không có thiên đàng hỏa ngục…
Thực tế cho thấy, con người luôn khao khát và tìm kiếm chân thiện, tìm kiếm những gì vĩnh hằng bất biến. Kẻ gian dối nhất, đánh lừa cả thiên hạ, cũng vẫn không muốn bị đánh lừa, cũng vẫn muốn biết sự thật. Kẻ chán đời đến tự tử đi nữa, cũng vẫn, qua chính quyết định tử tử và việc tử tự của họ, cho thấy họ hết sức khao khát được sống hạnh phúc, một hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc thực sự, một thứ hạnh phúc họ không tìm được ở đời này. Vậy nếu con người chân nhận là có sự thật, và sự thật tối hậu là một thực tại bất biến, một thực tại toàn thiện, sự thật làm thỏa mãn tất cả mọi khát vọng của loài “nhân linh ư vạn vật”, một sự thật sẽ làm sáng tỏ tất cả mọi tranh chấp và phải trái của loài người, thì quả thực là thế gian này, vũ trụ này, lịch sử này sẽ có ngày cùng tháng tận, thời gian có thủy có chung tự nó không phải là vĩnh hằng và sẽ đi đến ngày cùng tháng tận. Chỉ có sự thật hay những gì là sự thật mới là thực tại duy nhất vĩnh hằng. Nếu tất cả những gì Chúa Giêsu đã truyền dạy về luân lý đều không bao giờ lỗi thời, đến nỗi những gì con người không làm theo như lời Người dạy sẽ không bao giờ được bằng an và phúc thật, thì những gì Người nói về ngày tận thế cũng là sự thật, chắc chắn sẽ xẩy ra. “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”, vì lời Thày là sự thật, là thực tại, một sự thật bao gồm tất cả mọi sự, cho thấy tất cả mọi sự; và mọi sự được tỏ hiện theo lời của Người và như lời của Người, cho thấy rằng lời Người quả là sự thật, vì mọi sự từ từ được hiện thực trong thời gian, được lịch sử ghi nhận. Nếu thời gian là tiến trình sáng tỏ sự thật thì lịch sử chính là chứng nhân cho sự thật. Vì thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật mà một khi sự thật hoàn toàn được sáng tỏ thì cũng là lúc năm cùng tháng tận. Vì lịch sử là chứng nhân ghi nhận sự thật mà tận cùng thời gian phải là một cảnh chung thẩm cho thấy tất cả sự thật.
“Về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”:
Nếu thực sự có ngày tận thế thì những gì Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết, như được các Phúc Âm Nhất Lãm ghi lại, không phải phát xuất từ sự suy đoán của Người, như chúng ta vừa suy diễn trên đây về vấn đề có ngày tận thế hay chăng. Bởi vì, Chúa Giêsu chẳng những đã mạc khải cho chúng ta biết có ngày tận thế, một sự thật hợp với lập luận của triết lý cũng như khoa học, mà còn cho chúng ta biết ngày tận thế ấy sẽ xẩy ra hay sẽ diễn tiến trước sau ra sao nữa. Như thế, chẳng lẽ chính Người, như Người đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 Thường Niên tuần này, cũng không biết rõ được ngày giờ dứt khoát và nhất định xẩy ra sự thật về ngày cùng tháng tận này hay sao? Nếu Cha đã ban cho Con tất cả mọi sự, kể cả sự sống là những gì cao quí nhất (x Jn 3:35, 5:26), thì chẳng lẽ chi tiết về ngày cùng tháng tận của thế gian này lại quan trọng đến nỗi giấu cả Con của mình hay sao, Đấng phải biết trước ngày giờ Người sẽ vinh hiển đến trên mây trời, chứ không phải tới ngày giờ mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người rồi mà Người vẫn không biết, vẫn phải đợi cho đến khi Cha Người công khai ra lệnh thì Người mới biết! Nếu Chúa Giêsu quả thực biết đích xác ngày giờ như Cha Người biết thì chẳng lẽ lời Người khẳng định ở cuối bài Phúc Âm về việc chính Người cũng không biết là giả dối, đánh lừa thiên hạ sao, hay ít là Người cố ý nói thế để tránh né những câu hỏi cặn kẽ đầy tò mò của các tông đồ bấy giờ? Phải chăng Người biết hết mọi sự về ngày giờ thế mạt như Cha, song không phải để tỏ lộ cho bất cứ con người nào biết, nên những gì Người biết cũng kể như không biết? Tương tự trường hợp tôi giữ một đồ vật của người khác, và khi có ai thấy món đồ ấy thì xin tôi, tôi nói với họ rằng tôi không có vậy.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây, quan trọng không phải là biết được ngày cùng tháng tận, mà là biết sẵn sàng đón chờ ngày đó, thì ngày đó đến bất cứ lúc nào cũng được. Ngày đó ở ngay trong lòng của con người khao khát Chúa, luôn sống trước nhan Chúa, phó thác mọi sự trong tay Chúa. Ngày đó là chính sự thật họ đang sống. Những ai sống trong sự thật là sống một Ngày vô tận, cửa không đóng, đêm không về (x Rev 21:25).
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ trên một nhịp cầu. Người ta thòng sợi dây từ đỉnh cầu xuống và quấn vào cổ anh. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy ra lệnh, người ta sẽ kéo lên và sợi dây xiết vào cổ anh. Thế nhưng, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và anh rớt xuống dòng sông. Anh bắt đầu lặn, rồi bơi vào một đám lục bình. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những chiếc lá xanh và của những bông hoa tim tím. Một lúc sau, anh nhìn thấy chú nhện giăng tơ. Và một lần nữa, anh lại xúc động trước vẻ đẹp của chiếc màng nhện và những giọt nước bám vào đó, lấp lánh như những hạt kim cương. Bỗng nhiên, đám lính đứng trên cầu bắn xối xả. Anh cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn. Cuối cùng anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Khẽ mở mắt, anh trông thấy một cánh hoa dại. Anh thầm nghĩ: Mọi sự sao mà đẹp thế. Nhưng liền sau đó, anh nghe thấy tiếng đạn rít qua bụi rậm. Thế là anh đứng lên, cắm cổ chạy một mạch về đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ và nàng vội vã mở cởng và dang tay đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, thì nhà đạo diễn mang chúng ta trở lại với nhịp cầu. Và chúng ta không thể nào tin được vào mắt mình khi thấy xác anh ta đang đong đưa với sợi dây xiết chặt vào cổ. Thì ra anh đã chết. Chi tiết này làm cho mọi người sững sờ. Thế là mọi nỗ lực trốn chạy và mọi cơ may được sống sót của anh chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng mà thôi. Anh mơ thấy mình được sống lần thứ hai và anh cảm nhận sự sống ấy bằng đôi mắt hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên anh cảm thấy thế gới này quả là tuyệt hảo. Lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống là một món quà quý giá. Phải chi anh được sống sót thì chắc hẳn anh đã sống cuộc đời mới này một cách khác thường biết bao.
Thế nhưng đâu là chủ đích của nhà đạo diễn. Ông muốn nhắn gởi gì với chúng ta? Theo tôi nghĩ, người tử tội trong câu chuyện chính là mỗi người chúng ta, bởi vì một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên chúng ta lại không biết mình sẽ chết lúc nào? Cái chết thì chắc chắn nhưng giờ chết thì bấp bênh vô định, nhưng rồi một lúc nào đó nó sẽ đến với chúng ta, như đã đến với người tử tội.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức Kitô hứa ban cho những ai trung tín trong đức tin. Món quà hiện thực này Đức Kitô hứa ban khi Kitô hữu hoàn thành viên mãn cuộc lữ hành trần thế. Hoàn thành viên mãn khi Kitô hữu sống trung thành với đức tin, giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Món quà hằng sống có được không phải do sự khôn ngoan hay cố gắng của con người mà chính là kết quả của đời sống yêu Thiên Chúa, mến tha nhân và thiết tha với lời Đức Kitô giảng dậy. Thánh Mark cho biết món quà hằng sống được trao ban nhưng khi nào được lãnh nhận là điều không ai biết. Bởi không biết ngày giờ được trao ban nên Kitô hữu cần chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Thái độ đón nhận rất khác nhau nơi tâm hồn con người. Có người chuẩn bị hàng ngày đợi đến khi gọi thì đáp lại ngay. Kẻ khác thì lơ là, lúc sốt sắng, lúc thờ ơ. Họ cần thay đổi lối sống, thái độ sống đón nhận Lời Chúa với tất cả tâm tình, nếu không sẽ gặp rắc rối khi giờ chết ập đến. Kẻ khác đã không đón nhận còn chối bỏ món quà hằng sống. Bởi từ chối đón nhận quà hằng sống nên khi thời gian đến họ sống trong kinh hoàng, sợ hãi. Từ chối tin vào lời Đức Kitô khi gặp khốn khó không có nơi nương tựa, đau khổ. Khi biết sự khôn ngoan của con người bị giới hạn, con người không thể giúp hơn được nữa, lúc đó họ không còn lối thoát và sợ hãi xâm chiếm tâm hồn họ, đau khổ đè nén tâm can họ. Thất vọng ào tới tấn công tinh thần. Đau khổ, bất hạnh ào đến tứ phía. Họ phải trả giá rất đắt cho việc từ chối niềm tin. Tin vào Đức Kitô mất rất ít, lợi rất nhiều. Mất vì phải từ bỏ í riêng, mất vì phải tiêu diệt cái tôi. Lợi đầu tiên và quan trọng nhất chính là ơn cứu độ. Khi giờ chết đến có nơi nương tựa, không phải ra đi trong cô đơn nhưng có Đức Kitô đồng hành đó là điều lợi thứ hai. Đến giờ phán xét tránh được sợ hãi ngàn trùng vì có Chúa ở cùng ta, ai hãm hại được. Đó là điều lợi thứ ba. Được mọi người yêu mến khi còn sống đó là điều lợi thứ tư. Hàng năm có cả tháng cầu nguyện cho các linh hồn đó là điều lợi thứ năm. Quan trọng hơn cả là không phải sống mồ côi nhưng có Thiên Chúa là Cha hằng sống, yêu thương, bao bọc.
Bởi không biết ngày giờ phán xét nên Kitô hữu sống tinh thần chuẩn bị đón chào ngày Chúa đến và sống trong hy vọng. Đức Kitô còn cho biết trước khi ngày Chúa xuất hiện sẽ có dấu chỉ, làm rung chuyển tấm lòng con người và cả vũ trụ rên xiết. Cùng dấu chỉ nhưng điều đó gây kinh hoàng cho người không có niềm tin, cũng dấu chỉ đó lại mang lại an ủi, niềm hy vọng cho Kitô hữu vì họ nhận biết ngày giờ Đức Kitô đến đón họ vào thiên quốc. Sợ hãi, kinh hoàng thường đi chung với thần dữ vì thế có thể coi đây là sự vùng vẫy cuối cùng của thần dữ trước khi chúng buông tay đầu hàng để chui vào ngục tối của chúng. Đức Kitô sai thiên thần đón nhận kẻ trung tín trong đức tin và chân thành trong bác ái. Sợ hãi, lo lắng biến mất và Kitô hữu sống trong hào quang chiến thắng huy hoàng của Đức Kitô. Thánh Mark nhắc nhở chúng ta mỗi ngày luôn nhớ đến ơn hằng sống và coi đó là ưu tiên hàng đầu trong ngày. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai bởi món quà hằng sống được trao ban nhưng chưa lãnh nhận.
Kitô hữu tin vào sự chết thân xác và sự chết tâm linh. Người ta không thể chứng minh được tình yêu nhưng nhìn vào kết quả tình cảm con người dành cho nhau để nhận biết tình yêu. Qua hành động bác ái, yêu thương và sự hiện hữu của chính mình mà ta nhận biết tình yêu Chúa. Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa tạo dựng nên ta và cuối đời ta thuộc về Chúa bởi Ngài hứa không bỏ chúng ta mồ côi. Kẻ không tin vào Thiên Chúa không có câu trả lời đích thực về đời người. Với họ chết là hết, ngay cả câu trả lời này họ cũng bán tín, bán nghi, không hoàn toàn tin là sự thật.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Căn cứ vào Phúc Âm Mc 13, 24-32 chúng ta biết rõ Thiên Chúa yêu thương cho biết có những dấu chỉ báo hiệu việc trọng đại xảy đến cho cả nhân loại lẫn Con Người.
‘Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi’.
Dấu chỉ đó bao gồm:
‘mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trởi bị lay chuyển’.
Thiên Chúa yêu thương còn cho biết ngoại trừ Chúa Cha ra, không một ai dưới trần và không một ai trên thiên quốc biết rõ năm tháng ngày giờ các dấu chỉ kia sẽ xảy đến.
‘Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi’.
Chúng ta đã chứng kiến nhiều tiên đoán vô căn cứ. Bản nhạc với câu năm hai ngàn năm tôi còn lại gì đã sai. Dự đoán đệ tam thiên niên kỉ bắt đầu tận thế đã đi vào dĩ vãng. Những người tiên tri về ngày Cánh Chung và những người tin về những tiên đoán đó cho thấy họ đều hoặc là không đọc Phúc âm. Nếu đọc họ không tin điều Chúa Jesu dậy. Không tin Chúa Giêsu nhưng muốn làm công ciệc của Chúa Cha khi đưa ra lời tiên đoán. Kinh Thánh ghi rõ không ai biết trừ Chúa Cha.
Ngày cánh chung có dấu chỉ riêng, khác thường. Vũ trụ chúng ta sống có dấu chỉ riêng và mỗi người có dấu chỉ cá biệt. Mục đích của dấu chỉ là thông tri sự việc đang đến. Dấu chỉ mặt trời, mặt trăng ra tối tăm, các vì sao di chuyển bỏ quỹ đạo. Mục đích điềm lạ báo ngày Chúa quang lâm.
Dấu chỉ thuộc về vũ trụ
Không thể căn cứ vào chiến tranh, loạn lạc, hay thiên tai mà tiên đoán là ngày cánh chung gần kề. Những điều đó xảy ra đó đây liên tục. Lịch sử nhân loại mấy khi vắng bóng chiến tranh. Lịch sử vũ trụ năm nào thiếu thiên tai, động đất, cháy rừng, lũ lụt và bão gió. Những điều đó cho biết chúng ta đang sống trong một vũ trụ sống động, không phải một vũ trụ chết, nằm yên, bất động. Động đất, núi lửa, bão táp là bằng chứng cho thấy vũ trụ đang chuyển mình, đang lớn lên và rất có thể đang tự chữa những vết thương do bàn tay con người tàn phá. Cũng có thể là dấu chỉ báo nguy cho biết con người lạm dung thiên nhiên thái quá. Cần xét lại cách khai thác và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Thay đổi thời tiết theo mùa, mưa to, gió lớn với mây đen, sấm chớp cũng là những dấu chỉ bình thường của vũ trụ.
Dấu chỉ thuộc cá nhân
Cuộc sống cá nhân bao gồm những chuỗi dấu chỉ liên tục. Ăn không phải vì đến giờ nhưng vì đói. Uống không phải trời nắng mà là khát; không phải tối trời đi ngủ mà là báo hiệu của mắt. Cản thấy đói, khát, buồn ngủ, mệt mỏi là dấu chỉ cơ thể báo cho biết cần nhu cầu đó. Con người có bản năng nhận biết dấu chỉ cần thiết của cơ thể để sống còn. Ngoài ra còn những dấu chỉ tiềm ẩn, kín đáo hơn con người cần để ý mới nhận ra. Dấu chỉ về thể chất dễ nhận. Dấu chỉ tinh thần tiềm ẩn khó nhận hơn và dấu chỉ về tâm linh khó nhận nhất vì chìm sâu nhất nhưng cũng quan trọng nhất vì nó liên kết ta với Chúa.
Khi một người không đọc được dấu chỉ cho chính mình Thiên Chúa yêu thương ban những dấu chỉ khác rõ ràng hơn, lộ diện trên da thịt cho thân nhân, chuyên gia cảnh tỉnh giúp. Nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt, vàng vọt xanh xao của da, bạc nhược, bơ phờ râu tóc, thần sắc xấu trên người là những dấu chỉ bên ngoài cảnh giác sức khỏe, tình cảm nội tâm bên trong. Dấu chỉ phục vụ như lời mời gọi con người quan tâm đến nhau, hỗ trợ nâng đỡ, khuyến khích về ba phương diện: thể chất, tinh thần và tâm linh.
Dấu chỉ về tâm linh
Trong tôn giáo có nhiều dấu chỉ cho biết con người đó gần Chúa, thuộc về Chúa hay lưỡng lự trong chọn lựa yêu mến Chúa và ngay cả xa lánh Chúa. Dấu chỉ rõ ràng nhất là mức độ thánh thiện. Không thể đo lường mức độ thánh thiện nhưng cứ nhìn vào cách đối xử với tha nhân để biết mức độ thánh thiện một người.
Người có lòng đạo thật sự luôn cố gắng trở nên thánh thiện trong lời ăn, tiếng nói. Họ không dựa vào sức riêng nhưng dựa vào ơn thánh múc được nơi bí tích thánh, Lời Chúa và nhận ra Chúa nơi anh chị em khác. Dấu chỉ tâm linh chính là tiếng nói của lương tâm khuyến khích ta làm điều tốt lành mang bình an nội tâm. Ngăn cản ta làm điều thất đức tạo cho nội tâm bất an. Đay nghiến tâm hồn, tạo nên sợ sệt khi tiếng nói lương tâm bị chèn ép, đè bẹp. Dấu chỉ này thực hiện qua tiếp xúc, đón nhận và phục vụ anh chị em đồng loại.
Nhờ vào dấu chỉ tâm linh để tự sửa sai con đường đang đi, đổi hướng, xoay chiều hay tiến thêm trên đàng nhân đức. Sửa sai thứ nhất cần ơnChúa. Thứ hai cần thời gian. Thứ ba quan trọng nhất là nghị lực vì thiếu nghi lực người đó chối bỏ ơn thánh nên không thể nào sửa sai. Nghị lực đây không phải là sức mạnh cá nhân, hay sức mạnh của ý chí mà chính là sức mạnh nội tâm để nhận ơn Chúa hầu thay đổi hoàn cảnh.
Tóm lại dấu chỉ thể lí cho biết nhu cầu cần thiết để sống còn và sống hạnh phúc. Dấu chỉ tâm lí thỏa mãn tình cảm cần có trong cuộc sống và là vùng đất giúp chúng ta chu tòan luật yêu tha nhân. Dấu chỉ tâm linh giúp chúng ta chu toàn luật mến Chúa.
(Suy niệm của Jaime L. Waters)
CHUẨN BỊ CHO MÙA PHỤNG VỤ SẮP TỚI
Tin mừng Chúa nhật 33 thường niên cho chúng ta cái nhìn thấu đáo cách thức khéo léo mà các thánh sử đã viết nên những trình thuật về Đức Giêsu. Đoạn Tin mừng ngắn theo thánh Máccô thể hiện lối viết và nhãn quan của tác giả, giúp cho độc giả có sự hiểu biết Đức Giêsu cách đúng đắn. Quyền lực, sự hợp thời và mong đợi là những chủ đề nổi bật mà chúng ta muốn nghe khi đến gần Lễ Chúa Kitô Vua, mùa Vọng và Lễ Chúa Giáng Sinh.
Khi gần kết thúc sứ vụ của mình, Đức Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ về đau khổ, cái chết và phục sinh sắp đến của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh ngay trước những sự kiện xung quanh bữa tiệc ly của Đức Giêsu với các môn đệ và việc Ngài bị bắt giữ. Đức Giêsu nói rằng Con Người sẽ ngự giá mây trời mà đến trong quyền năng và vinh quang. Hình ảnh này dựa vào Đanien chương 7 của Bài đọc một Chúa nhật tới (Lễ Chúa Kitô Vua). Ngôn sứ Đanien mô tả một thị kiến: “tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời”. Đấng ấy có quyền năng thống trị đến muôn đời, và thánh sử Máccô thường đồng hóa Đức Giêsu chính là Con Người để khẳng định quyền năng và vương quyền của Ngài.
Phần thứ hai của bài Tin mừng đề cập đến một sự kiện trước đó: Đức Giêsu chúc dữ cây vả không có trái. Sau khi vinh thắng tiến vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu thấy đói và kiếm trái vả trên cây. Không tìm được gì, Ngài liền phán: “muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa” (Mc 11,14). Ngày hôm sau, Đức Giêsu và các môn đệ đi ngang qua cây vả, nó đã chết khô tận rễ, đúng như lời Ngài đã chúc dữ. Đức Giêsu đã biến sự việc đó thành cơ hội để dạy dỗ khi nhắc nhở các môn đệ về việc sử dụng uy quyền khi hành động và cầu nguyện nhân danh Ngài.
Qua việc Đức Giêsu gợi lại câu chuyện cây vả, Máccô muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sinh hoa trái đúng thời vụ. Đức Giêsu đã chúc dữ cây vả vì nó không sinh hoa trái. Mặt khác, khi cây vả đâm chồi thì có nghĩa là mùa hè đang tới gần. Cả hai thực tế này nhắc nhở các môn đệ phải năng động trong sứ vụ, tiếp tục phát triển cộng đoàn cả sau khi Đức Giêsu chết. Gợi lại tình tiết cây vả cũng nhắc nhở các môn đệ về quyền năng và thẩm quyền mà Đức Giêsu trao cho các ông. Hơn thế nữa, việc nhấn mạnh đến thời gian các mùa trong năm cũng nhắc các môn đệ hãy sẵn sàng cho thời kỳ mới sắp đến.
Vào những ngày cuối đời, Đức Giêsu dựa vào Kinh Thánh Do Thái cũng như những giáo huấn trong suốt sứ vụ của mình để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận điều sắp xảy đến. Cách thức thánh Máccô xây dựng Tin mừng làm nổi bật lời tiên báo về thập giá, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Khi gần kết thúc năm phụng vụ và chuẩn bị bước vào mùa Vọng, chúng ta nên lượng giá những hoạt động và sự dấn thân của mình đối với thế giới trong một năm vừa qua, cũng như suy ngẫm về những cách thức chuẩn bị cho một năm mới sắp đến.
————
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine
(Suy niệm của Jean Yves Garneau)
“CHÚNG CON CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN TRONG VINH QUANG”
Bí mật của Chúa Cha.
Chúa Kitô đã đến ở giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy và vinh quang lớn lao”. Biến cố đặc biệt này sẽ được đánh dấu bởi những hiện tượng trong vũ trụ. Nó sẽ trùng hợp với một cuộc biến đổi vũ trụ. “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng nữa, tinh tú sẽ rơi xuống…”. Những hiện tượng này –không nên hiểu theo mặt chữ- Không muốn ám chỉ về một thiên tai, nhưng là một thời điểm quyết định trong lịch sử nhân loại.
Khi nào chuyện đó sẽ xẩy ra? Người ta luôn luôn tự đặt câu hỏi này. Chúa Giêsu gạt qua tất cả các giả thiết. Không người nào biết được ngày đó! Bản thân Ngài cũng không biết! Chỉ mình Chúa Cha biết. Và đây là bí mật của Ngài.
Ngày của sự thật và công bình.
Vả lại điều quan trọng không phải biết lúc nào Chúa Giêsu quang lâm, nhưng là chú ý đến những gì sẽ xẩy ra lúc đó. Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Sự phong phú của thời gian đang trôi qua.
Không phải để làm cho người ta sợ mà Chúa Giêsu loan báo ngày Ngài quang lâm sẽ là ngày phán xét, nhưng để giúp mỗi người ý thức về tầm quan trọng của thời gian đang trôi qua.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Giá trị của sự trung thành.
Do đó những gì chúng ta làm hoặc không làm, những câu xin vâng hoặc những lời từ chối đối với Thiên Chúa hàng ngày đều có một tầm quan trọng lớn lao. Những sự trung thành của chúng ta –lớn và nhỏ, những cố gắng của chúng ta để sống lương thiện, công chính và ngay thẳng trong một thế giới thường bất công và gian tà, lòng kiên trì của chúng ta để giáo dục con cái cách tốt nhất có thể được, những khi chúng ta tha thứ cho những kẻ đã làm chúng ta bị tổn thương, những lần chúng ta đọc kinh sốt sắng, những khi chúng ta bố thí, khi chúng ta cố gắng chu toàn công việc hằng ngày, những khi chúng ta sẵn sàng quan tâm đến tha nhân, đón tiếp họ. Tất cả đều chuẩn bị chúng ta cho ngày Thiên Chúa phán xét.
“Chúng con mong chờ Chúa quang lâm…”.
Hơn chúng ta, các Kitô hữu sơ khởi đã biết sống hướng mắt và hướng lòng về ngày quang lâm của Chúa Kitô. Vì họ xác tín rằng ngày ấy sẽ đến nhanh, nên họ đã cố gắng sống mỗi giây phút trong sự trung thành tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Ý thức về ngày Chúa quang lâm và tâm quan trọng của nó đã mai một đi với thời gian. Bây giờ người ta sống ngày qua ngày mà không bận tâm lắm về ngày cuối cùng. Uổng thật! Nếu sống nhiều hơn trong sự mong chờ Chúa, người ta sẽ sống mãnh liệt hơn. Mỗi ngày sẽ có giá trị hơn đối với chúng ta.
Trong mỗi Thánh lễ, sau khi bánh và rượu được thánh hiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chúng con mong chờ Chúa trở lại. Ước gì đây không chỉ là những lời nói, nhưng là một thái độ sâu xa quyết định cách sống của chúng ta và mang ý nghĩa cho tất cả cuộc đời chúng ta.
CHÚNG TA SẼ NGHE VÀ NHÌN TRÊN THIÊN ĐÀNG.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình. Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Giêsu: Đấng cứu độ duy nhất quyền năng
Kính thưa quý anh chị em,
Ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa rộng, là sự giải phóng khỏi tình trạng nguy hiểm đang đe dọa sự an toàn của một người, một cộng đoàn, cũng như, hoàn thành mục đích cuộc đời họ. Hiểu như vậy, bất cứ ai làm điều tích cực cho tha nhân, đều là người cứu độ.
Còn ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa chặt, là sự giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết, là ơn phục hồi phẩm giá con Thiên Chúa, là ơn công chính hóa và sự sống đời đời, thì chỉ một mình Chúa Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất, mới thực hiện được mà thôi.
Sự phục sinh biểu lộ cách hùng hồn quyền năng duy nhất, tuyệt đối của Chúa, không chỉ trên thế lực sự dữ, mà còn ban tặng thế gian tình yêu và sự sống muôn đời.
Bài sách Daniel nhắc tên tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en, mà tên của ngài có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, như một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa quyền năng, xuyên suốt chiều dài lịch sử cứu độ.
Mạc khải thường nhắc cụm từ “Thiên Chúa quyền năng” như một điệp khúc, nhằm nuôi dưỡng lòng tin, cậy, mến cho dân Chúa lúc ngặt nghèo, bách hại, thất vọng. Chúa Giê-su cũng thường giáo huấn các môn đệ: “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn ; hãy sợ Đấng có thể giết cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải Thiên Chúa, Đấng quyền năng tuyệt đối hành động cốt vì ơn cứu độ và vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Daniel, nhắc tên thiên thần Mi-ca-en, có ý gợi lại cuộc chiến chống lại Lucifer, đầu mục quỷ dữ. Tên Mi-ca-en có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, mặc nhiên tuyên xưng quyền tối thượng tuyệt đối của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian.
Nội dung lời sách thánh nhấn mạnh trên chiến thắng trung cục của Thiên Chúa, cho dù hiện tại có vẻ như sự dữ đang thắng thế, bất công, bạo tàn, bách hại và mọi thứ hình khổ vây bủa người công chính, nhưng họ sẽ chiến thắng nhờ bàn tay uy quyền đầy dũng lực của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi dân Người.
Thiên Chúa sẽ định đoạt số phận của mỗi người tùy theo việc họ đã làm: người hiền sẽ sống lại để hưởng phúc trường sinh, còn kẻ gian ác cũng sẽ trỗi dậy để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.
Như vậy, lời sách thánh hướng chúng ta tới ngày cánh chung khi mọi sự đều phơi bày trước nhan Thiên Chúa đúng theo bản chất của loài đó. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như mặt trời rực rỡ và sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.
Lời khải huyền của sách Daniel được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su, Đấng là chính quyền năng của lòng thương xót Chúa Cha.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc là lối văn khải huyền nói về ngày tận thế, vua Kitô đầy quyền uy, ngự xuống trên mây trời, thực hiện cuộc xét xử công minh, muôn dân sẽ được tập họp, được tách biệt thành hai nhóm người lành/kẻ dữ. Người lành được hưởng hạnh phúc Nước Trời, kẻ dữ phải chịu luận phạt.
Quyền năng cứu độ của Giê-su đặt nền tảng trên tình yêu và sự sống, chắc chắc, Người không nhắm luận phạt thế gian, nhưng để muôn người được hưởng ơn cứu độ.
Giê-su, với tư cách là người mang và đầy tràn Thánh Thần, luôn tỏ ra dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn thật, luôn chạnh lòng xót thương hết thảy mọi người, nhất là những ai bé mọn, nghèo hèn: “Cây sậy dập gẫy, Ngài không nỡ bẻ, tim đèn còn khói, Ngài không nỡ tắt” (Mt 12, 20).
Giê-su sử dụng một thứ “quyền lực mềm”, nên khi ngự xuống trên mây trời, Người đã thiết lập một nền hòa bình viên mãn, bền lâu sáng ngang cùng tuế/nguyệt.
Bởi vậy, trong khi chờ đợi ngày trở lại của Chúa Giê-su, chúng ta phải dẫy tràn niềm vui tươi, phấn khởi. Chờ đợi Chúa đến trong niềm vui là tích cực sống Tin Mừng, là chu toàn bổn phận, là tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ trung tín, tốt lành và khôn ngoan.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đề cao vai trò thượng tế của Chúa Giê-su, như là cách thức Thiên Chúa biểu lộ quyền năng yêu thương để cứu độ muôn dân. Chúa Giê-su là thượng tế, là của lễ và là bàn thờ. Ngài không dùng lễ vật tượng trưng là máu con vật bị sát tế, nhưng là chính thân xác Người bị trao nộp vì tất cả chúng ta, máu ấy đổ ra do sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha, rửa sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi sự chết, mà phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi vâng phục tự hiến chính mình làm của lễ thơm tho tinh tuyền đẹp lòng Cha mọi đàng, nên được Cha tôn vinh, ngự bên hữu mình trên trời, làm Đấng trung gian cứu độ giữa Thiên Chúa và loài người.
Quyền năng của Đấng chịu đóng đinh đã làm nên một nhân loại mới được thần hóa, nên một trời mới đất mới luôn có công lý ngự trị.
Thật là, dưới gầm trời này, không thể có một danh nào khác có sức cứu độ trọn hảo như thế, ngoài danh Giê-su Kitô, Chúa chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy mạnh dạn, tin tưởng, cậy trông chạy đến với Chúa, mở rộng tâm hồn, để Chúa vào cư ngụ dưới mái nhà ta, để được dùng bữa tối hiệp thông với Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ và được giải thoát.
Kitô hữu cần tin tưởng vào quyền năng yêu thương của Chúa Giê-su, nhất là hành động nhân danh Ngài, để Chúa thực hiện công trình cứu độ thế gian qua chính con người chúng ta.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen!
HY VỌNG CÓ GIÚP CHÚNG TA THẤY ĐỨC KITÔ KHÔNG?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được những giới Do Thái nào đó ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những tập sách được lưu huỳnh, thường gồm những đoạn mô tả những tai họa thảm khốc, nhắm mục đích mạc thị về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc: Ngay chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải đó không trong những bài giảng về ngày tận thế? Trong chừng mực nào thánh Marco đã sử dụng loại văn thể đó? Điều ấy không quan hệ lắm ở đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những đoạn trong bài giảng của Chúa theo nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền nghĩ rằng Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng quan trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước một vấn đề. Thật vậy, nếu bài đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một thảm họa sẽ xảy đến lúc chung cục trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ Lời Chúa trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con Người quang lâm có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện với một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, các tinh tú từ trời sa xuống, tất cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung trong lĩnh vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán tương lai Giáo Hội như là một sự tiến dần của nhân loại đến ánh sáng. Như vậy, vào ngày tận cùng, tương lai đó sẽ kết liễu trong một thảm họa mịt mùng ư? Trong viễn tượng đó, làm thế nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt câu hỏi rõ hơn. Hy vọng của chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta phải có thái độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về sự hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con Người đến với quyền năng cao cả và vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra tối tăm sẽ bị khai trừ, không được hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại, những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ được thu họp từ bốn phương, từ tận cùng mặt đất đến tận cùng chân trời, để được hiển trị với Chúa. Do đó, bất kể những thăng trầm trong lịch sử loài người, và cả trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta trên sự kiện Đức Giêsu Kitô, Chúa tể vũ trụ. Người tác động để nhân loại nhìn nhận Người là tâm điểm vũ trụ. Ngày tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ hiển hiện trong khải hoàn, và sẽ là niềm hân hoan của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm chắc được phần nào của sự hy vọng? Chúng ta có trách nhiệm xây dựng tương lai nào? Chúng ta xây dựng tương lai chúng ta và tham dự tương lai Giáo Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên điều sau. Trong con người chúng ta, một thế giới phải cáo chung để Chúa hiện đến. Thế giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm nhiều lầm lạc, những ảo tưởng, những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta. Điều chúng ta cần quan tâm không phải là những việc lành phúc đức, những nhân đức, những chiến thắng trong việc tông đồ của chúng ta, nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện Chúa sẽ hiển hiện trong chúng ta, xuyên qua chúng ta, nhờ vào sức cường nhiệt của đức tin và đức ái chúng ta lúc này.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Theo truyền thống, Giáo Hội dành thời gian kết thúc Năm Phụng Vụ để nhắc nhở các tín hữu thời Cánh Chung, thời kết thúc vận mệnh con người, nhưng cũng là thời con người hội ngộ với Thiên Chúa của mình trong cuộc sống đời đời.
Đn 12: 1-3
Bài Đọc I, trích từ sách Đa-ni-en, khẳng định rõ nét cuộc phục sinh các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người được sống lại.
Dt 10: 11-14, 18
Thư gởi tín hữu Do thái nêu bật tính hiệu quả hy tế độc nhất của Đức Giê-su qua đó Ngài thông truyền cho nhân loại sự thánh thiện của Ngài. Trong vinh quang bên cạnh Chúa Cha, Ngài chờ đợi việc thiết lập Nước Trời vào lúc cuộc chiến thắng vĩnh viễn trên các thế lực của sự ác.
Mc 13: 24-32
Tin Mừng Mác-cô gợi lên thời gian nan, nhưng đó cũng là thời cứu độ, thời chuẩn bị cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô và cuộc tập hợp những người ưu tuyển vào thời chung cục.
BÀI ĐỌC I (Đn 12: 1-3)
Bản văn Cựu Ước này thuộc thế kỷ II trước Công Nguyên khẳng định cách rõ nét nhất cuộc phục sinh của các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người ưu tuyển trong cuộc sống đầy ánh sáng. Đây là lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh diễn ngữ: “phúc trường sinh”.
Thật ra, bản văn Đa-ni-en này rất gần với sấm ngôn của I-sai-a:
“Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên.
Này những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy chỗi dậy, hãy reo mừng!
Vì lạy Chúa, sương Ngài ban là sương ánh sáng,
và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19).
Tuy nhiên, như sấm ngôn của Ê-dê-ki-en về cuộc hồi sinh các bộ xương khô (37: 1-11), người ta không loại trừ sấm ngôn của I-sai-a này có liên hệ đến những người lưu đày tại Ba-by-lon, họ gởi nấm xương tàn của mình ở nơi đất khách quê người. Qua đó, vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát của họ và cuộc tái thiết đất nước của họ.
1. Niềm hy vọng lớn lao:
Dù thế nào, sấm ngôn của I-sai-a và sấm ngôn của Ê-dê-ki-en đã góp phần hướng tầm nhìn của con người về viễn cảnh cánh chung. Nhưng để Mặc Khải được phát triển và niềm hy vọng được rộng mở phải có một chấn động tâm lý sâu xa. Đó là cuộc bách hại mà người Do thái tại Pa-lét-tin phải chịu do vua Xy-ri-a là An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê tiến hành. Làm thế nào người ta có thể tưởng tượng rằng những người phải đối mặt với những nỗi khốn khổ cùng cực, ngay cả cái chết để nhất mực trung thành với Thiên Chúa, cũng vào cõi Âm Ty là nơi cư ngụ đời đời như bao người khác được chứ? Thánh vịnh gia đã hát ca rồi niềm hy vọng mà những người công chính được vui sống bên cạnh Thiên Chúa, trong khi bọn ác nhân bị ném vào nơi tối tăm, hay bị tiêu diệt.
Tác giả sách Đa-ni-en biên soạn tác phẩm của mình, trong những năm bách hại. Mục đích của ông là củng cố lòng trung tín của các tín hữu và đem lại cho họ, khi phải đối mặt với cuộc bách hại, những động lực cho sự can đảm và hy vọng. Ông mượn tên Đa-ni-el, một thiếu niên Do thái anh hùng xưa kia bị lưu đày tại Ba-by-lon đã dám cưỡng kháng lại vua ngoại giáo là Na-bu-cô-đô-nô-so. Trong phần thứ nhất của sách Đa-ni-en, tác giả xây dựng câu chuyện khuyến thiện và mẫu mực, đôi khi được phóng đại đến mức không thực: tác giả biến Đa-ni-en không chỉ một người Do thái trung thành cách mẫu mực, nhưng còn một nhà thấu thị giải mã lịch sử và phát hiện những ý định của Thiên Chúa trong lịch sử đó.
2. Thời chung cục:
Phần thứ hai của sách thuộc loại văn chương khải huyền mà tác giả khai mạc. Thể loại văn chương khải huyền sẽ nở rộ sau này (được vài bản văn của I-sai-a, Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a chuẩn bị trước). Bản văn hôm nay được trích dẫn từ đoạn cuối của phần thứ hai này. Nhà thấu thị vừa mới báo trước cái chết gần kề của kẻ bách hại là vua An-ti-ô-khô, đồng lúc cuộc giải thoát của Ít-ra-en. Từ cuộc giải thoát này, tác giả hình dung ơn cứu độ của Dân Thiên Chúa vào thời chung cục.
Đây là thời ngặt nghèo nhưng cũng là thời chan chứa hy vọng dưới quyền bảo trợ của “Mi-ca-en, ngài là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường hằng che chở dân Người” (12: 1). Vào thế kỷ II trước Công Nguyên, khoa thiên thần học rất phát triển trong Do thái giáo. Văn chương khải huyền ban cho mỗi quốc gia một thiên thần làm đấng bảo trợ. Có bốn tổng lãnh thiên thần: Mi-ca-en có nghĩa “ai sánh bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa “người của Thiên Chúa”, Ra-pha-en có nghĩa “Thiên Chúa cứu chữa” và Ou-ri-en có nghĩa “ánh sáng của Thiên Chúa”. Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en là đấng bảo trợ đặc biệt của Ít-ra-en, chính ngài, trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, chiến đấu chống lại Con Rồng.
Một đàng, vào lúc tiên báo cuộc phục sinh của các vong nhân, các người công chính Ít-ra-en đang chờ đợi hưởng phúc trường sinh. Xem ra, thị kiến của vị ngôn sứ chưa dự kiến toàn thể nhân loại, nhưng chỉ những người tử đạo thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, cũng như “các hiền sĩ”, tức những người đã hiểu sứ điệp tôn giáo của Ít-ra-en và đã trung thành với Đức Chúa, và “những thầy dạy đàng công chính”, tức là “những ai làm cho người người nên công chính”. Qua biểu tượng ánh sáng, ngôn sứ loan báo cuộc thay hình đổi dạng của những người hưởng phúc trường sinh.
Đàng khác, đây là lần đầu tiên Kinh Thánh gợi lên cuộc phục sinh của những kẻ tội lỗi để chịu xử án. Trước đây các ngôn sứ hay các hiền nhân nhắm đến việc tiêu diệt bọn ác nhân, chẳng hạn như lời cầu nguyện này:
“Lạy Đức Chúa, tay Ngài giơ lên, chúng chẳng thấy,
nhưng sẽ thấy Ngài yêu thương nồng nhiệt dân này,
khiến chúng phải thẹn thùng xấu hổ;
lửa dành cho thù địch của Ngài sẽ thiêu đốt chúng” (Is 26: 11).
Trong Tin Mừng Mác-cô hôm nay, khi tiên báo thời chung cục, Đức Giê-su định vị mình vào hàng của những lời tiên báo Cựu Ước: thời ngặt nghèo báo hiệu thời cứu độ. Tuy nhiên có những khác biệt lớn lao. Thời chung cục được đánh dấu bởi cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô. Vì thế, công trình cứu độ và cuộc phục sinh của Đức Ki-tô đã mở ra đến vô tận những viễn cảnh chan chứa hy vọng.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 11-14, 18)
Cùng với đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc hết các đoạn trích dẫn quan trọng trong Thư gởi tín hữu Do thái suốt bảy tuần qua.
1. Tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su:
Chương 10 được định vị vào phần kết của phân đoạn trung tâm được dâng hiến cho chức tư tế của Đức Giê-su. Tác giả tóm lược đề tài đã được khai triển dài: tính vô hiệu chức tư tế và các hy tế của Cựu Ước, các lễ tế này “chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi”, và tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su, Người vừa là tư tế vừa là tế vật, lễ tế này “vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”.
Trong sự gợi ý sau cùng này, tác giả nhắm đến không còn chỉ vị Thượng Tế, nhưng tất cả các tư tế trong việc phục vụ hằng ngày của họ, để bao gồm tính vô hiệu của tất cả hệ thống lễ tế và nghi lễ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Còn Đức Ki-tô, sau khi đã tự hiến để đền tội cho nhân loại, Người đã vào trong vinh quang, vinh quang này sẽ viên mãn khi mà thế lực của sự ác bị đánh bại vĩnh viễn vào thời chung cục. “Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân Người”, câu này xuất xứ từ Tv 110, thánh vịnh Mê-si-a vương đế mà tác giả đã nhiều lần trích dẫn.
Ở lòng vinh quang này, Đức Ki-tô theo đuổi công trình cứu độ của Người, vì lễ tế của Người luôn luôn hữu hiệu bên cạnh các tín hữu để thánh hóa họ và dẫn họ đến cùng một vinh quang này.
2. Thánh Lễ tái hiện hiến lễ của Đức Giê-su:
“Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”. Câu nói nổi tiếng này đã gây nên những tranh luận. Anh em Tin Lành dựa trên bản văn này để từ chối Thánh Lễ là hy tế, nhưng chỉ là tưởng niệm. Các tín hữu Công Giáo cho rằng Thánh Lễ là tái diễn hy tế duy nhất, hy tế Thập Giá, chứ không một hy tế mới; vì thế, Thánh Lễ không đơn thuần tưởng niệm, nhưng tái hiện hiến lễ duy nhất của Đức Giê-su trên đồi Sọ. Không ai chối cãi hy tế mà Đức Giê-su đã thực hiện trên Thập Giá một lần là đủ, nhưng hy tế ấy phải được tái hiện để đem ơn cứu độ đến với mọi người ở mọi thời cho đến ngày Người trở lại, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người vào một thời gian nhất định.
TIN MỪNG (Mc 13: 24-32)
Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều định vị diễn từ này của Đức Giê-su vào giờ phút được xác định đem lại ý nghĩa phong phú cho bài diễn từ: Đức Giê-su giảng dạy lần cuối cùng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem; Ngài sẽ không còn quay lại chỗ này nữa và Ngài báo cho các môn đệ biết Đền Thờ sẽ bị phá đổ thành bình địa “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (13: 2). Các môn đệ sửng sốt. Lúc đó, Đức Giê-su cho các ông biết rằng phải biết đọc ra trong những biến cố này một dấu chỉ: dấu chỉ của một thế giới mới mà Ngài đã đến thiết lập, và Ngài sẽ trở lại, vào thời chung cuộc, để hoàn tất công trình này. Cũng vậy, trước khi từ giả các ông, Đấng Phục Sinh đã long trọng hứa với các ông là Ngài sẽ trở lại.
Cuộc trở lại sẽ xảy ra chỉ khi thế giới đã trải qua thời gian nan. Đoạn, Đức Giê-su đề cập đến viễn cảnh chung cục; Ngài sử dụng những kiểu nói Kinh Thánh và từ vựng khải huyền, kiểu nói này dễ hiểu đối với các môn đệ của Ngài và các Ki-tô hữu tiên khởi, nhưng thật khó hiểu đối với chúng ta. Vì thế, bài diễn từ chứa đựng nhiều điều khó hiểu này.
1. Khúc dạo đầu cho một thế giới mới:
Trong Cựu Ước, những đảo lộn của vũ trụ là những hình ảnh ước lệ được dùng để giới thiệu cuộc can thiệp vĩnh viễn của Thiên Chúa, bày tỏ sự siêu việt của Ngài: quyền năng của Thiên Chúa trên các yếu tố là dấu chỉ quyền năng của Ngài trên mọi biến cố. Chính qua hình ảnh như vậy mà các ngôn sứ loan báo cuộc sụp đổ của các đế quốc, sự trừng phạt của các quốc gia ngoại giáo hay của dân bất trung. Giờ chung cục, giờ Thiên Chúa xử án, “ngày của Thiên Chúa” được mô tả theo cùng một cách thức như vậy: “Ngày của Đức Chúa đến rồi, ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, ngày mây mù tối đen…Mặt trời mặt trăng tối sầm lại, tinh tú không còn chiếu sáng nữa…Bấy giờ, hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được ơn cứu độ” (2: 2, 10; 3: 5). Bởi lẽ đó sẽ là ngày thịnh nộ.
Phải lưu ý rằng trong diễn từ của Đức Giê-su, như thánh Mác-cô trình thuật, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cũng như cuộc xử án không được nhắc đến, nhưng chỉ gợi lên viễn cảnh bình an và vinh quang của những người ưu tuyển tụ tập chung quanh Con Người. Từ những hình ảnh hoàn vũ truyền thống, thánh ký chỉ giữ lại ý nghĩa của chúng như khúc dạo đầu cho một thế giới mới sắp được khai sinh, sánh ví với một mùa hè sắp đến gần khi thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, những hình ảnh này xuất hiện như một thị kiến đảo ngược về một cuộc tạo dựng đầu tiên. Chuyện tích của sách Sáng Thế đã nhấn mạnh ánh sáng. Thiên Chúa đã sáng tạo ánh sáng trước mọi thụ tạo, đoạn những tinh tú được chỉ định vai trò của chúng. Nếu trật tự sáng tạo này bị đảo lộn, đó không phải là cuộc sáng tạo đang qua đi sao? (“Trời đất sẽ qua đi…”.
Thánh Mát-thêu sử dụng những ẩn dụ này trong bài trình thuật của mình về cuộc Tử Nạn, để nói rằng cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su thiết lập một sự thay đổi tận căn: “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín…Đất rung đá vỡ” (Mt 27: 45-52).
Mặt khác, chúng ta nên nhớ rằng trong từ vựng của các sách khải huyền kiểu nói “các tinh tú từ trời rơi xuống” là cách diễn tả cuộc sụp đổ của Xa-tan. Chắc chắn Đức Giê-su đã ám chỉ đến điều này khi nói: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10: 18). Nhưng phải chăng chúng ta có thể đưa thêm một lời giải thích tổng quát hơn về sự rung chuyển của những thế lực thiên giới báo hiệu một trật tự mới? Đây là một trong những khó khăn của bản văn. Dù thế nào, cuộc khải hoàn chung cục của Đức Ki-tô giả sử cuộc sụp đổ này của Xa-tan.
2. Cuộc tụ tập đoàn người ưu tuyển:
“Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Chắc chắn đoàn người ưu tuyển này thì rất đông, bởi vì không nói chi đến những người khác. Khi ngự đến lần thứ nhất, Đức Giê-su tự hạ mình thành một người giữa mọi người; khi ngự đến lần thứ hai, ngược lại, Người nâng con người lên cho đến Người để dẫn đưa nhân loại vào trong vinh quang của Người.
3. Ngày và giờ:
Ngay ở đầu câu chuyện, các môn đệ đã hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13: 4). Họ hỏi Ngài về ngày giờ và điềm báo cuộc sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Trong câu trả lời của Đức Giê-su, Ngài lập lại từ ngữ của họ: “Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra”, nhưng bao hàm ở đó văn mạch diễn từ của Ngài, nghĩa là cuộc Quang Lâm tương lai của Ngài: “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa”. Vả lại, trong hậu ý của các môn đệ, cuộc tàn phá Đền Thờ – Đền Thờ này quá thân thiết với các ông và các ông sẽ còn đến đó để cầu nguyện và rao giảng hằng ngày vào đầu sứ vụ tông đồ của mình – cuộc tàn phá này có thể được trộn lẫn với thời chung cục của thế giới, điều này xem ra khá nhạy cảm tại thánh Mát-thêu.
“Thế hệ này chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra”. Theo nghĩa hẹp, chúng ta có thể hiểu rằng chính các môn đệ và những người đương thời sẽ chứng kiến cuộc sụp đổ Đền Thờ; nhưng theo nghĩa rộng, cả toàn thể nhân loại. Ở đây chúng ta còn cảm thấy ảnh hưởng kiểu nói khải huyền. Những viễn cảnh được lồng vào nhau đến mức kỷ nguyên thiên sai và kỷ nguyên cánh chung trộn lẫn vào nhau.
“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Câu nói này làm tốn biết bao giấy mực. Trước tiên, chúng ta hãy nêu lên rằng từ “Con” được dùng ở đây cách tuyệt đối, điều này họa hiếm tại các Tin Mừng Nhất Lãm (hai lần tại Tin Mừng Mát-thêu trong bài trình thuật song đối ở 24: 30 và một lần khác ở 11: 27; một lần duy nhất tại Tin Mừng Lu-ca ở 10: 22): câu này bao gồm một lời Đức Giê-su khẳng định tính siêu việt của Ngài và mối liên hệ tròn đầy với Chúa Cha. Ấy vậy, lời khẳng định này xem ra mâu thuẫn khi Ngài thú nhận rằng chính Ngài cũng không biết ngày và giờ về thời chung cục của thế giới.
Về sự hiểu biết giới hạn của người Con, người ta đưa ra hai lời giải thích: lời giải thích thứ nhất cho rằng nhân tính mà Đức Giê-su đã đảm nhận giới hạn tầm nhìn của Ngài, chính nhân tính hữu hạn này đã có thể che khuất vài điểm về kế hoạch của Chúa Cha. Lời giải thích thứ hai đối chiếu với những lời công bố khác của Đức Giê-su theo cùng ý nghĩa. Đức Giê-su trả lời cho lời cầu xin của hai người con ông Dê-bê-đê được ngồi ở bên hữu bên tả của Ngài trong vương quốc: “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20: 23).
Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1: 7). Câu trả lời này rất gần với câu nói trong bài diễn từ cánh chung của Đức Giê-su và soi sáng cho chúng ta hiểu câu nói đó. Vả lại, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Đức Giê-su đã không ngừng nhấn mạnh sự phụ thuộc của Ngài đối với Chúa Cha: chính từ nơi Chúa Cha mà Đức Giê-su đã đón nhận mọi sự, chính Chúa Cha đã thông truyền trọn vẹn tình yêu của mình cho Ngài, chính Chúa Cha là nguồn mạch của mọi ân phúc: Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện bằng cách thân thưa: “Lạy Cha chúng con”. Tuy vậy, với vai trò là Con, Chúa Giê-su không thể truyền đạt cho con người những bí mật của Chúa Cha về thời chung cuộc.
Bản văn này của thánh Mác-cô dâng hiến một trong những bức tranh tích cực nhất của sách Tin Mừng. Thị kiến sáng tỏ về thời chung cục này, trong đó công trình của Đức Giê-su được hoàn tất và vận mệnh của con người được hoàn thành, được định vị trong hàng Mặc Khải: Đức Ki-tô đã đến, không để xử án thế giới, nhưng để cứu độ thế giới (Ga 3: 17). Thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại điều đó.
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niên trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường. Làm em trượt té trên sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng dọa đánh em, đâm em bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo: “Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”. Ít ngày sau, đám du côn thấy Jim đi trên phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao một mét tám trong bộ đồng phục nhà binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob. Bất thần Bob ra lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao”. Chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả tiền ăn cắp còn lại.
Chợt nhớ câu chuyện khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói về Người trong bài Phán Xét Chung: “Họ sẽ thấy Con Người đến trong mây trời với uy quyền và vinh quang”.
Thường thường ý tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay, tôi nghĩ rằng: “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa: một hy vọng lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của Jim: Anh của Jim sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Với chúng ta, những người theo Chúa Kitô: ý tưởng về ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh phúc, vui mừng.
Đó là đề tài của lời cầu nguyện sau kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ: “Trong lòng nhân từ của Cha, xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con”.
Rồi linh mục và giáo dân hô to: “Vì Nước Trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và mãi mãi”.
Lời kinh nguyện thứ ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.
Cũng trong lời kinh nguyện ấy, trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người trong vinh quang… Chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi nước mắt của chúng con được lau sạch”.
Chúng ta trông đợi trong niềm cậy tin và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: Đức Giêsu đầy quyền uy và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với các em nhỏ của Người là bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người; Những kẻ coi nhẹ Người và các kẻ theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và ngày mai.
Xin Chúa chúc lành bạn.
26.Con Người sẽ đến trên đám mây
(Suy niệm của Noel Quesson)
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng người biết khó sống và thường nói: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Vào ngày cuối cùng, vị thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài biến chuyển ra sao. Đức Gioan trả lời: – Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: – Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: – Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: – Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời. Kết thúc cuộc sống trần gian, cũng như ngày tận thế mà Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay, chính là lúc Chúa đến trong vinh quang. Dĩ nhiên diện kiến Chúa bao giờ cũng là một phần thưởng và muốn được thuởng thì phải qua thử thách, và cũng chắc chắn nếu ta cầu xin và cố gắng. Chúa sẽ ban ơn để ta thắng vượt cơn thử thách này.
Những thử thách trước tận thế thuộc ba loại: Trước hết là các ngôn sứ giả hiệu và cả Mêsia giả nữa, họ tìm cách lừa dối, lung lạc niềm tin các tín hữu. Rồi đến các tai nạn tự nhiên: đói khát, chiến tranh, thiên tai động đất… Sau cùng các Kitô hữu sẽ bị bách hại.
Những thử thách này cốt thanh luyện niềm tin các tín đồ, người nào trung kiên sẽ được vui mừng đón Chúa trong vinh quang. Đây là lần đầu tiên Chúa nói tới uy quyền của Người: Chúa sẽ ngự trên mây cao xét xử trần gian. Kiểu nói này vốn dành cho Thiên Chúa, và như vậy Chúa Giêsu đã xưng mình là Thiên Chúa.
Trong bài giảng này Chúa nói về hai biến cố một lúc: biến cố phá hủy thành đô Giêrusalem và việc tận thế. Người Do Thái coi việc phá hủy Giêrusalem là hình ảnh ngày thế mạt. Khi thánh Marcô viết Tin Mừng thì việc đó đã xảy ra rồi. Nhưng trong tư tưởng người Do Thái lúc đó, thì ngày thế mạt cũng sắp tới, và trong kinh nguyện các tín hữu, ta thường nghe nhắc lại lời cầu: Xin Chúa đến! Mọi người nóng lòng chờ ngày Chúa quang lâm như lịch sử đã ghi nhận Chúa xuống trần. Chúa đến lại lần thứ hai như người cha đi vắng trở về nhà, như ông chủ đã gieo vãi hạt giống Tin Mừng, bây giờ tới thu hoạch hoa lợi.
Chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Lạy Cha, xin giúp chúng con sẵn sàng chờ đón Chúa, với tâm hồn trong sạch và cuộc sống bác ái, như người tôi trung, như người con thảo, mong được Cha đón nhận vào vinh quang Chúa muôn đời.
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist)
1. Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 12, 1- 3
Bài đọc 1 cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc 2: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
“Con Người đã gần đến…”
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động, Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào”.
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa”.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10).
(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. OCist)
1. Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 12, 1- 3
Bài đọc một cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc 2: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541, người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi. Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế, lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong, ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không? Trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ hỏi chúng ta đã sống như thế nào?
Lúc bấy giờ sứ thần Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc về tôi?
Bởi đó, hãy thuộc về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử chúng ta.
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử bây giờ chỉ còn ít phút nữa bạn sẽ chết, bạn sẽ làm gì?” Thánh Louis dừng lại một chút rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Nhiều người ngày nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những điều đã được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn sứ giả (Mt 24:4…) Đó là những dấu chỉ của những ngày sau cùng và chúng liên hệ đến các biến cố trong thời đại của chúng ta. Đây không phải là một giả định. Với tư cách là những Kitô hữu, theo quan điểm của Giáo hội, niềm tin của chúng ta là chúng ta đã và đang sống những ngày sau cùng từ hai ngàn năm nay rồi. Bắt đầu từ ngày Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh, cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang, thời gian này được gọi là những ngày sau cùng.
Đối với những người Kitô hữu chúng ta, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất mà chúng ta đang sống, như một số nhà khoa học tin như thế, nhưng là việc Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải trình diện trước Chúa Kitô để chịu phán xét. Chúng ta gọi biến cố này là ngày của Chúa, bởi vì ngày đó chấm dứt sự hoành hành của Thần Dữ. Nó đã bị đánh bại.
Vì thế, bạn đừng lo lắng chuyện tận thế, nhưng vấn đề là ở chỗ bạn có giữ vững đức tin của mình không? Bạn có sống đúng là một Kitô hữu hay không? Thay vì phí mất thời giờ quí báu để lo lắng về chuyện tận thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô khuyên chúng ta hãy sống đúng tư cách là người Kitô hữu trong hiện tại. Vấn đề là ở chỗ này.
Theo Kinh Thánh, ngày phán xét chúng ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh chị em nhỏ mọn nhất của Ta?”
Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết của đời con.
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Lời Chúa trong những tuần cuối năm Phụng vụ thường đề cập đến Ngày cánh chung, ngày Chúa quang lâm. Khi được nghe về các dấu lạ, dấu chỉ như thế này, con người nói chung, người Công giáo nói riêng cũng không khỏi bồn chồn, lo âu! Tuy nhiên, nếu nhìn với đôi mắt đức tin, sống theo Chúa dạy mỗi ngày, thì chắc hẳn chưa đáng phải sợ!
Chuyện kể rằng: Một lần nọ, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô cùng với các bạn đang chơi đá banh trong khuôn viên cư xá, Thánh Gio-an Bos-cô bèn đến hỏi mỗi bạn khi giải lao: “Nếu bây giờ, Chúa ‘gọi’ các con về với Ngài, thì các con sẽ làm gì?”. Hầu hết, câu trả lời từ chúng bạn Sa-vi-ô đều giống nhau, người thì chạy về xin lỗi bố mẹ, người thì vội vã đi trả chiếc bút đã lấy cắp của bạn, người thì nhanh chóng làm hết những dự định của mình… Sau cùng, đến lượt Sa-vi-ô, cậu chỉ mỉm cười và đơn sơ thưa với Thánh nhân: “Nếu Chúa gọi con về với Ngài ngay bây giờ, thì con vẫn vui chơi đá banh với các bạn thôi ạ!”
Nghe câu trả lời ấy, Thánh Gio-an Bos-cô rất đỗi ngạc nhiên, nhưng lòng ngài cảm thấy hạnh phúc. Và như chúng ta biết, sau này, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô đã được Chúa gọi khi còn quá trẻ (14-15 tuổi) khi mang trong mình căn bệnh viêm màng phổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII phong hiển Thánh vào ngày 12 tháng 6 năm 1954. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đều thắc mắc: vì sao cậu bé Sa-vi-ô ấy lại không chút sợ hãi, chẳng chút hoảng hốt khi nói đến cái chết, khi nói đến giây phút được Chúa cất về? Chắc hẳn, vì ngài luôn tâm niệm nỗ lực sống tốt, sống trọn vẹn từng ngày, cho nên dù phải lìa đời đi chăng nữa, ngài cũng không nuối tiếc điều gì hoặc không phải vội vã như các bạn khác cùng lứa tuổi với ngài!
Đành rằng, ngày phán xét chung, ngày ân thưởng công minh ra sao đã được sách Tiên tri Đa-ni-en mô tả: “Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ trỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời” (Đn 12, 2), nhưng ít nhiều lòng chúng ta vẫn còn lo lắng, bồn chồn vì phải chờ đợi. Tuy nhiên, trước ngày đó, các dấu lạ sẽ xuất hiện: “…mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất…” (x. Mc 13, 24-27). Ngày Chúa Giê-su quang lâm chắc chắn sẽ đến, nhưng trong khi trông chờ ngày ấy, thì không một ai biết ngoài Chúa Cha, và “trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Do đó, khi chờ đợi ngày quang lâm, ngày cánh chung, chúng ta phải làm gì? Phải chăng đây là vấn đề căn bản cốt lõi?
Bất kể nơi đâu, mỗi người mỗi ý khác nhau, vì thế, nhiều người cho rằng: ngày đó còn lâu mới tới, nên cứ hưởng thụ như câu nói của triết gia A-ris-tốt-tô: “Ăn uống no nê, rồi ngày mai vui vẻ vĩnh viễn chia ly”. Trong khi đó, người người nghĩ tưởng: ngày này đang cận kề, nên cuốn theo cách sống vội, sống nhanh, hòng thực hiện hết những dự định, kế hoạch của riêng mình…Ngoài ra, số đông khác theo tư tưởng: làm gì có cánh cánh chung, làm gì có ngày Chúa quang lâm, cứ sống và làm những điều mình nghĩ và mình muốn!!!! Còn chúng ta, là con cái Chúa, là người Công giáo, chúng ta nên thế nào để đẹp lòng Chúa đây?
Quả thật, chúng ta phải bám chặt vào Đức Giê-su, tiến lại gần Ngài, học nơi Ngài cách sống trọn vẹn từng ngày. Vì chưng, nhờ lễ dâng duy nhất và một lần của Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta được cứu độ, được thánh hoá (x. Dt 10, 11-12.14) Ngài hằng chuyển cầu, đồng hành, nâng đỡ chúng ta liên lỉ từng giây phút trong cuộc sống. Còn chúng ta, “nhìn vào cây vả khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến” (x. Mc 13, 28). Qua các dấu chỉ thời đại mà nhận biết Thánh ý Chúa; qua giáo huấn của Giáo hội mà đón nhận chương trình của Ngài. Qua mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại, hân hoan hay khổ đau, v.v…luôn tìm ra Thánh ý Chúa và nhanh nhẹn đón nhận, sống trọn vẹn mỗi ngày với Lời Chúa là kim chỉ nam cuộc đời, với Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác, với ân sủng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (“Đấng Bầu Cử khác”, mà Đức Giê-su đã hứa ban), đồng thời, hiệp hành với nhau trên cùng hành trình đức tin, với gia đình, với cộng đoàn, với Giáo hội và xã hội. Tất cả những điều trên sẽ là hành trang vững chắc cho chúng ta trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm. Mọi thứ có thể thay hình đổi dạng, sẽ đổi thay, biến chuyển hoặc mất đi, nhưng những gì Đức Giê-su giảng dạy-hành động sẽ tồn tại mãi, như thể chiếc la bàn tuyệt hảo chỉ đường dẫn lối cho chúng ta khỏi lạc hướng giữa đại dương rộng lớn bao la, khỏi bị lạc bước trên chặng đường dài thế gian xa tắp, khỏi bị lạc lối trong đêm tăm tối mịt mờ nơi trần gian: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Ngoài ra, chúng ta luôn biết sống tín thác, cậy trông, đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vào Giáo hội của Ngài, chứ đừng như ‘cây cỏ lung lay đổi chiều theo gió’; cũng đừng chạy theo trào lưu, triết thuyết tận thế, trở thành fan cuồng của những kẻ tự cho mình biết ngày tận cùng. Vì chưng, lời Đức Giê-su đã chứng thực: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi” (Mc 13, 32). Vậy mà, trên thực tế, không ít người vẫn nghi ngờ, vẫn mau chóng tin theo, hoặc chạy theo những gì trái ngược với lời khẳng định của Đức Giê-su! Chúng ta vẫn dồn hết sức lực, tâm trí cho điều đó khi tiếp xúc-đọc-xem trên mạng, rồi nhắm mắt tin theo hơn là tin vào Lời Chúa, và tin vào giáo huấn của Giáo hội Chúa!
Ước gì mỗi người Công giáo chúng ta luôn biết sống trọn vẹn từng ngày như Lời Chúa dạy và như lòng Chúa mong, qua các giáo huấn của Giáo hội, trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, với cả lòng tín thác – cậy trông – yêu mến!
Ngày Chúa lại đến trong vinh quang
Chẳng phải xa, cũng không phải gần
Nào ai biết ngoài mình Chúa Cha
Xin cho con sống trọn Lời Ngài
Hằng ngày kiên vững, cậy – mến – tin. Amen!
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi thì các hành khách được báo là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.
Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài mấy hàng chữ vội vàng trong giây phút cuối cùng trước khi chết. Thí dụ như, “Chúng tôi không thể thoát được rồi… tôi buồn quá!”
Hàng chữ khác thì cho gia đình của ông ta, “Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau.”
Hàng chữ khác ghi cho ba người con của ông, “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con.”
Những hàng chữ viết vội vàng là những hàng chữ của một người sắp chết. Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả ngày để báo trước cho ông biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt giống như tên trộm cắp trong đêm.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người về những tin tức xấu. Ngài nói với họ rằng một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ. Hơn nữa, nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.
Theo như lịch sử thì cái tai ương mà Chúa Giêsu nói đến đây là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra sau 40 năm từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.
Điều này cũng nhắc nhở cho chúng ta đến cái ngày mà toàn thể thế giới phải đến: đó là ngày tận thế. Cái ngày này là cái ngày mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.
Không một ai trên thế gian này có thể biết được ngày nào hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có Chúa Cha.
Tuy nhiên, sẽ có những điềm báo trước ngày tận thế. Một số người cho rằng những điềm báo trước đã xảy ra cho nên ngày tận thế sắp đến.
Một trong những điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một số quốc gia đang gặp chiến tranh. Thí dụ như trên thế giới ngày nay có đến cả hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ nguyên tử có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm. Chỉ cần một lầm lỗi hoặc một người nào đó tức giận thì cả hàng triệu người, thậm chí cả thế giới, có thể sẽ biến mất. Không một người khôn ngoan nào có thể gây ra những điều điên khùng như vậy.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề. Thứ nhất, cuộc sống của chúng ta có thể kết thúc bất chợt, và thứ hai, sự chuẩn bị cho kết cuộc đó.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này vào cuối năm Phụng Vụ.
Hai chủ đề trên nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài trước khi Ngài rời bỏ thế gian, rằng cuộc sống ngắn ngủi ở thế gian này chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu sau này.
Vì thế, chúng ta không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này mà đánh mất đi cái nhìn về cuộc sống mai sau.
Không một ai biết được lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh thức chuẩn bị để đón chờ giây phút tận cùng đó. Nó sẽ đến khi chúng ta không ngờ. Nó sẽ đến cách bất chợt mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không có thời gian để chuẩn bị.
Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Không một ai trong chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.
Trong những ngày cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem và ngày Con Người trở lại trong vinh quang.
Trước hết là về sự tàn phá Giêrusalem.
Thành phố này đã giết Đấng Cứu Thế để chạy theo những thần tượng giả trá cũng như có những lời nói lộng ngôn phạm thượng. Thảm cảnh bắt đầu từ việc họ chống lại binh đội La mã, để rồi tướng Titus đã đem quân vây hãm thành vào năm 70. Cùng với cuộc vây hãm này là một nạn đói thê thảm xảy ra trong thành vì mọi con đường tiếp tế đều bị cắt đứt khiến cho những người mẹ có khi phải ăn thịt chính đứa con của mình.
Khi đoàn quân của Titus đã làm chủ tình hình và thành phố hoàn toàn thất thủ thì có đến gần một triệu người bị giết, hơn một trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ, đến nỗi một sử gia đã ghi lại: Không có đủ thập giá để hành quyết và không có đủ chỗ để dựng thập giá lên.
Tiếp đến là ngày tận cùng của vũ tru, ngày Con người ngự đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đưa ra hai loại dấu chỉ. Loại thứ nhất là những dấu chỉ trong phạm vi luân lý: Sẽ có những tiên tri giả, họ là những dụng cụ của ma quỉ nhưng lên tiếng nói về Thiên Chúa. Sẽ có những Kitô giả, nhờ quyền phép ma quỉ để làm những việc lạ lùng hầu lung lạc đức tin của những môn đệ Chúa. Họ là loài lang sói mặc lốt chiên để rồi cắn xé đoàn chiên.
Loại thứ hai là những dấu chỉ trong phạm vi vật chất: Mặt trời sẽ trở nên tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng. Các vì sao sẽ rơi xuống và sức mạnh của trời đất sẽ rung chuyển.
Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ ngự đến trên đám mây với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài. Những người chết sẽ sống lại để chịu phán xét. Cuộc phán xét này bổ túc cho cuộc phán xét riêng tư khi cùng với cái chết chúng ta giã từ cuộc sống. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ đứng bên trái. Tất cả đều lắng nghe phán quyết của Đấng Tối Cao. Hạnh phúc muôn đời hay khổ đau mãi mãi. Tại sao lại có cuộc phán xét chung xảy ra như thế?
Lý do thứ nhất là để Chúa Giêsu tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã khiêm nhường chịu đựng mọi khổ đau, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhiều người tưởng rằng Ngài đã thất bại. Rồi từ đó đến nay, Ngài không ngừng bị xua đuổi, bị bách hại và cấm cách, thì giờ đây Ngài xuất hiện trước mặt mọi người như là vua muôn vua với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài.
Lý do thứ hai là để vạch mặt những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, sống trên trần gian họ đã khéo léo che dấu những tội lỗi của mình và không chừng còn được người đời tung hô. Giờ đây những chiếc mặt nạ ấy sẽ bị rơi xuống, để con người thực của họ được phô bày. Họ sẽ xấu hổ và tuyệt vọng mà kêu lên:
– Tôi đã lạc đường và ánh sáng công lý không còn chiếu tỏa cho tôi. Tiền bạc và địa vị trần gian ích gì cho tôi trong giây phút đớn đau này.
Và sau cùng là để ân thưởng vinh quang cho những người lành thánh.
Rất có thể trong cuộc sống họ đã bị khinh bỉ, bị chèn ép, bị bóc lột. Tội ác đã chiến thắng, những chiến thắng của nó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Giờ đây họ được vinh hiển trước mặt những kẻ mà xưa kia đã từng khinh bỉ, chn ép và bóc lột họ. Họ sẽ chiến thắng cho đến muôn ngàn đời vì Chúa Giêsu đã phán với họ:
– Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời…
Đừng để đến ngày mai vì e rằng ngày mai thì đã quá muộn nhưng ngay từ hôm nay, hãy chọn cho mình con đường dẫn tới Chúa và hãy can đảm bước theo Ngài.
Theo lịch phụng vụ, Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật 33 Thường niên. Chúa nhật tới là Chúa nhật 34 Thường niên, là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, được dành đặc biệt để mừng kính Chúa Kitô Vua. Vì thế, phụng vụ lời Chúa hôm nay, được coi như là Chúa nhật cuối cùng, nên Giáo Hội muốn hướng tâm trí chúng ta về ngày cuối cùng, ngày tận thế, ngày cánh chung, ngày chấm dứt lịch sử nhân loại.
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng: bất cứ cái gì ở trần gian, nếu đã có lúc khởi đầu thì chắc chắn sẽ có lúc chấm dứt, và như vậy tức là có lịch sử. Đối với chúng ta là những người sống trong trần gian và là những người tin theo Chúa Kitô, chúng ta có hai lịch sử: lịch sử trần thế và lịch sử cứu rỗi. Hai lịch sử này song hành với nhau. Hay nói đúng hơn, lịch sử có hai mặt chìm và nổi khác nhau. Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các hoạt động kinh tế, các tiến bộ khoa học kỹ thuật… Đây là mặt nổi ai cũng có thể thấy được hay quan sát được. Còn lịch sử cứu rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần, xây dựng nước Thiên Chúa trong lòng người. Lịch sử này đang khai triển âm thầm dưới chiều sâu, trong các tâm hồn, theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ những ai có đức tin mới nhận ra.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra rằng: có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có ý nghĩa. Lịch sử loài người có giới hạn. Chúng ta không thể biết bao giờ lịch sử sẽ chấm dứt, nhưng chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đúng vậy, theo Kinh Thánh, cục diện trái đất này sẽ qua đi, nghĩa là thế giới vật chất này sẽ tan biến đi để nhường chỗ cho một thế giới mới. Và khi lịch sử chấm dứt là lúc Chúa Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ, để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.
Chúng ta nói “Chúa Giêsu trở lại”. Đó chỉ là một kiểu nói mà thôi. Thực ra Ngài không trở lại, vì Ngài luôn hiện diện trong trần thế và trong lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay Ngài hiện diện một cách vô hình, che giấu, chúng ta không thể thấy Ngài bằng giác quan. Ngài chưa bộc lộ quyền năng và vinh quang của Ngài. Vương quyền của Ngài còn âm thầm kín đáo. Vì thế, Chúa Giêsu trở lại có nghĩa là Chúa Giêsu biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Tình trạng ẩn danh của Ngài trong lịch sử chấm dứt.
Ngày Chúa Giêsu trở lại hay quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều cách: ngày cuối cùng, ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày của Đức Kitô, ngày viếng thăm, ngày xét xử…Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ngày tái lâm này. Ngày đó được mô tả như ngày đổ vỡ của thế giới vật chất. Tuy nhiên, không ai biết bao giờ sẽ đến ngày đó, kể cả Chúa Giêsu về mặt nhân tính, tức là với tư cách là người, Chúa Giêsu cũng không biết được. Ngày đó sẽ xảy đến bất ngờ. Theo nhiều dụ ngôn, Thiên Chúa sẽ đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. Dầu vậy, chúng ta có thể nói rằng: ngày cánh chung đối với cả nhân loại có lẽ còn lâu mới tới. Trong khi chờ đợi, mỗi người phải nỗ lực xây dựng nước Thiên Chúa dưới trần. Mặt khác, đối với riêng mình, mỗi người phải coi như ngày của Chúa đang tới gần.
Như vậy, để trả lời câu hỏi của các môn đệ cũng là câu hỏi của mọi thế hệ, Chúa Giêsu đã chẳng làm thỏa mãn sự tò mò của con người sống trong lịch sử, nhưng Ngài chỉ muốn dạy một thái độ sống trong lịch sử. Nghĩa là thay vì tò mò băn khoăn vô ích về ngày lịch sử kết thúc, hãy sống cho tròn đầy tất cả những gì lịch sử cho mình. Nói khác đi, đứng trước những vấn đề tương lai, con người tò mò muốn biết trước, Chúa Giêsu đã khước từ không cho biết trước, nhưng bảo cho biết thái độ phải có, đó là đừng bận tâm khi nào tận thế, nhưng hãy lo sống cho đàng hoàng trong hiện tại và hãy kiên trì. Cũng đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa, và làm thế nào để mỗi ngày sống, mỗi hành động của chúng ta đều chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm.
Tóm lại, tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc bảo cho chúng ta biết: lịch sử luôn đưa chúng ta về phía trước. Nhưng nó không phải là một khoảng không, nó là con đường chúng ta phải đi để tiến về phía trước. Vì thế, chúng ta luôn hướng về tương lai, chờ đợi lời hứa cứu rỗi đã được thực hiện trong lịch sử sẽ được hoàn tất. Chờ đợi, hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng là yếu tố giúp cho chúng ta sống và phấn đấu trong tin tưởng. Hy vọng luôn gắn liền với niềm tin. Hy vọng là phần thưởng của lòng tin. Lòng tin là nền tảng cho hy vọng. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi. Ai thấy trước tương lai tốt đẹp đang chờ đợi mình, thì càng nóng lòng góp phần làm cho thế giới này chóng tốt đẹp hơn. Con đường ấy chúng ta phải bước đi bằng cách sống cho thật tích cực, sống cho thật tròn đầy mọi trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa, đối với anh em, đối với loài người, đối với thế giới vật chất đãđược Thiên Chúa trao vào tay chúng ta.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay.
Trong một cuộc đời, chúng ta nghe rất nhiều lời, và cũng nói nhiều lời. Dù chúng ta có thể quên phần lớn những lời chúng ta nghe, có những lời chúng ta cần giữ lại mãi. Thật vậy, một số lời tan biến trong ký ức của chúng ta, mà cho đến ngày chúng ta chết, chúng ta chưa chắc đã nhớ lại. Có những lời làm chúng ta bị tổn thương vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Những lời khác là những lời an ủi vẫn tạo cảm hứng cho chúng ta.
Lời nói có thể rất xúc phạm, và làm đau buồn sâu sắc, vết thương đó còn nhức nhối lâu dài. Tuy nhiên, đôi khi không phải chính lời nói, mà là cách chúng được nói ra gây thương tổn.
Một phụ nữ nhớ lại: “Khi chúng tôi còn trẻ, có những lúc mẹ chúng tôi nói những lời rất xúc phạm đến chúng tôi, những lời mỉa mai, phê bình, lên án. Và bà cũng không bao giờ xin lỗi vì những lời đó. Nhiều năm sau, khi chúng tôi nêu vấn đề ấy ra, bà xin lỗi và nói: “Nhưng mẹ không bao giờ muốn nói những lời ấy”. Và chúng tôi kinh ngạc: “Thôi được, nếu mẹ không muốn nói những lời ấy, vậy tại sao mẹ đã nói ra?”
Những lời nói có thể luôn tạo cảm hứng cho chúng ta. Một nữ tu đã tham dự một lớp học thần học nhớ lại:
“Trong suốt khóa học về các bài giảng thần học, tôi đã nghe được nhiều điều. Với thời gian tôi đã quên phần lớn những lời ấy. Dĩ nhiên, tôi đã quên nhiều điều. Nhưng có một lời mà một giáo sư đã nói tôi sẽ không bao giờ quên. Ông nói: “Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp. Tôi biết rằng điều này có vẻ là một điều đơn giản, tuy nhiên nó đi thẳng vào tâm hồn tôi và từ đó ở lại mãi mãi”. Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp.
Lời nói rất quan trọng và rất mạnh mẽ. Một khi được nói ra, nó có một đời sống của riêng nó, tốt hoặc xấu. Chúng có thể đem lại một lời chúc lành hoặc một lời nguyền rủa, một sự chữa lành hay làm tổn thương, sự sống hay sự chết. Lời nói có thể tiếp tục làm hại chúng ta hoặc giúp đỡ chúng ta trong nhiều năm sau khi đã được nói ra. Vì thế chúng ta phải cẩn thận trong cách sử dụng lời nói.
Khi chúng ta tức giận, tốt hơn nên giữ im lặng. Lời được nói ra là sự giận dữ có thể gây ra thương tổn sâu xa và làm cho sự hòa giải rất khó khăn. Khi chọn sự sống thay vì cái chết, sự chúc lành thay vì nguyền rủa – thường người ta phải bắt đầu bằng việc giữ im lặng, hoặc bằng việc lựa lời để mở ra con đường chữa lành. Như có người đã nói: “Đôi khi yêu thương người khác có nghĩa là giữ im lặng và để họ là họ”.
Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Những lời của Đức Giêsu được duy trì đến ngày nay, an ủi, hướng dẫn và thách đố chúng ta. Lời Chúa làm đảo lộn những giá trị của chúng ta. Một khi đã nghe, thì người ta sẽ không bao giờ quên được.
Nhưng vì thế, nếu chúng ta hành động theo Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ sinh lợi ích cho chúng ta. Lời Chúa là những hạt giống quí giá. Nếu cất giữ ở trong kho, lời ấy vẫn cứ thế như bao nhiêu hạt giống khác. Nhưng được đưa ra ngoài để gieo trồng, chúng sẽ trổ sinh mùa gặt bội thu.
Không có gì chắc chắn hay trường tồn trong thế gian này khi so sánh với đức tin. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những vẻ bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không thay đổi và qua đi. Chúng ta phải xây dựng ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ NGÀY SAU HẾT MÀ KHÔNG AI BIẾT
Vào cuối năm Phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc Thánh kinh đề cập đến những tai hoạ xẩy ra trong vũ trụ, khiến người nghe liên tưởng đến ngày tận thế. Hôm nay là Chúa nhật áp cuối cùng của năm phụng vụ. Chúa nhật tới là lễ Chúa Kitô Vua. Chúa nhật sau nữa là Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, đánh dấu ngày đầu năm của Giáo hội trong niên lịch phụng vụ mới. Tuy nhiên chủ đề của ba Chúa nhật này đều có những điểm tương đồng: Chúa Kitô là trung tâm điểm của lịch sử loài người. Chúa đến để khởi sự kỷ nguyên Kitô giáo và người sẽ trở lại để kết thúc lịch sử loài người, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi dùng ngày sinh nhật của Chúa cứu thế đẻ tính niên hiệu, người ta nói năm nọ trước Chúa giáng sinh hay năm kia sau Chúa giáng sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dùng ngôn ngữ khải huyền, một loại ngôn ngữ biểu tượng đặc biệt. Đó là loại ngôn ngữ mà ngôn sứ Đanien dùng để nói về thời gian thử thách sẽ qua, và Thiên Chúa sẽ đến cho người công chính được chiếu sáng muôn đời như những vì sao (Đn 12:3). Phúc âm thánh Mác-cô hôm nay cũng dùng ngôn ngữ và tư tưởng khải huyền trong sách Đanien. Bài Phúc âm cũng bàn bàn về ngày sau hết: Trong những ngày ấy sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao không còn chiếu sáng, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (Mc 13:24-25). Rồi bài Phúc âm kết luận: Còn về ngày đó và giờ đó, thì không ai biết được (c. 32).
Khi bàn về ngày sau hết, tác gỉả Thánh kinh thường nại đến loại ngôn ngữ khải huyền, nghĩa là ngôn ngữ hay mẫu tư tưởng biểu tượng khó hiểu về ngày sau hết, gợi lại những tai hoạ với những hình ảnh tàn phá xẩy ra trong vũ trụ như chiến tranh, động đất, bão tố, lụt lội và chết chóc. Những hình ảnh tàn phá mà tác giả Thánh kinh dùng để nói về ngày sau hết đã có thể xẩy ra trong quá khứ ở đâu đó trên thế giới rồi, chứ không hẳn được tiên đoán sẽ xẩy ra trong tương lai. Văn chương khải huyền được giả sử viết vào thời quá khứ trước khi tai hoạ xẩy ra, nhưng thực sự được viết sau khi tai hoạ đã xảy ra để cảnh giác người đọc. Như vậy những hình ảnh tàn phá trong ngôn ngữ khải huyền, không hẳn nói về những biến cố sẽ xẩy ra trong tương lai. Ý nghĩa của ngôn ngữ khải huyền chỉ có dụng ý là cảnh giác người đọc rằng sẽ có ngày sau hết và Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Đó là điều ngày sau hết sẽ xẩy ra và là điều người tín hữu phải tin. Còn ngày sau hết xẩy ra như thế nào thì không hẳn xẩy ra như được diễn ta trong ngôn ngữ khải huyển. Việc dùng ngôn ngữ khải huyền chỉ nhằm mục đích để cảnh tỉnh những tâm hồn lơ là hay ham mê sự đời mà thôi..
Do đó không phải hễ có chiến tranh, động đất và tai hoạ xẩy ra là ngày sau hết sắp đến. Tuy nhiên nếu hiểu cái chết của cá nhân mỗi người là ngày sau hết của người đó thì khi những thiên tai hoặc tai hoạ xẩy ra có thể giúp cảnh tỉnh, báo hiệu cho cá nhân liệu mà sửa soạn tâm hồn. Như vậy ngày sau hết được hiểu theo nghĩa của ngày kết thúc đời sống cá nhân của mỗi người tại thế, hoặc ngày kết thúc lịch sử loài người nói chung. Việc phán xét trong ngày tận thế dựa trên căn bản là người ta có chấp nhận và sống lời Chúa không? Theo khuynh hướng tự nhiên của loài người, người ta thường sống thờ ơ, lãnh đạm, nghĩ rằng người ta có nhiều giờ để sửa soạn tâm hồn. Sự thực thì người ta không biết ngày nào, giờ nào Thiên Chúa sẽ gọi họ ra khỏi thế gian, lại càng không biết ngày kết thúc lịch sử loài người, quen gọi là ngày tận thế.
Đối với người Kitô giáo, khi nào ngày giờ đó đến và đến như thế nào, thì không phải là điều quan trọng. Người ta không thể làm gì được về thời giờ và cách thế xẩy ra trong ngày tận thế, hay ngày người ta lìa bỏ thế gian. Điều quan trọng là người ta phải kiên nhẫn chờ đợi ngày đó. Việc kiên nhẫn chờ đợi này sẽ giúp người tín hữu khỏi nản lòng thoái chí trước những cám dỗ thử thách.
Vậy thì ta phải có thái độ nào đối với ngày sau hết? Có những người nghĩ rằng ngày sau hết sẽ đến nay mai. Họ nghĩ rằng ngày tận thế sắp xẩy đến cho nên lúc nào họ cũng lo âu, sợ hãi, yếm thế. Một số giáo phái Kitô giáo cũng chủ trương như vậy. Có một vài giáo phái kia tiên đoán ngày tận thế đến vào năm nọ năm kia trong đời họ. Và khi năm đó qua đi mà không có gì xẩy ra, họ lại đề nghị thời điểm khác cho ngày tận thế. Việc tiên đoán ngày tận thế mà người ta đồn gần đây là vào năm hai ngàn, ngay trước khi bước sang thiên niên kỉ thứ ba. Trước ngưỡng cửa năm hai ngàn, có những người tích trữ nhiều đèn nến để sửa soạn đốt cho những ngày đen tối. Những người khác lại xin nước thánh, nhiều nước thánh để rảy, sợ rằng qủi dữ sẽ xuất hiện trong ngày sau hết. Lại có những người nghĩ rằng ngày sau hết không bao giờ đến, và đời sống họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vì thế họ cứ ăn uống, vui chơi buông thả. Dĩ nhiên cả hai quan điểm này đều vô trách nhiệm và không thực tế.
Như vậy ý tưởng hàm chứa trong Phúc âm là mỗi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Và nếu là người khôn ngoan, ta phải hoà giải tâm hồn với Chúa vì mỗi ngày tháng trôi qua là mỗi lúc ta tới gần cuối đời. Nghề bói toán đã xuất hiện trên địa cầu hàng chục thế kỉ – một nghề khá ăn khách bởi vì khuynh hướng loài người là tò mò, muốn biết về tương lai thế nào, duyên số và sự nghiệp ra sao? Tuy nhiên xét về phương diện gặp gỡ Chúa trong ngày sau hết thì không ai biết được ngày giờ nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà linh hồn. Vì thế mà có những người tập thành thói quen như mỗi khi đi máy bay đều xin hoà giải với Chúa qua bí tích giải tội.
Tư tưởng cũng như văn chương của loài người chứa đầy những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc. Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Không nên bỏ phí thời giờ. Đùng đợi tới ngày mai điều mà bạn có thể làm hôm nay. Thường khi ta nhìn đi thì thấy lâu, nhất là khi ta đang mong đợi một điều gì đó. Khi nhìn lại, ta lại cảm thất thời giờ đi rất mau lẹ, nhất là khi phải gò bó vào công việc làm trong xã hội kỹ nghệ hoá. Ta không thể đi trước thời gian, cũng không thể kéo dài thời giờ vì thời giờ là của Chúa. Do đó kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng, hi vọng và cậy trông phải là tâm niệm của mỗi người tín hữu.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn kiên nhẫn chờ đợi ngày sau hết:
Lạy Thiên Chúa là Đấng con thờ!
Chúa là hi vọng, là cùng đích
và là lẽ sống của mọi loài, mọi vật.
Con xin phó tác toàn thân trong tay Chúa:
thân xác, trí khôn, linh hồn cùng các quan năng.
Xin dạy con biết sống mỗi ngày
như là ngày cuối hết của đời con
để con sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa. Amen.
Mỗi ngày Chúa nhật, trong ngôi nhà thờ này, chúng ta lắng nghe Lời của Đức Giêsu, những lời mà các Kitô hữu tiên khởi đã ghi chép lại và được Hội thánh giữ gìn cho chúng ta trải qua bao thế kỷ. Vậy, lời hứa của Đức Kitô đã trở thành sự thật: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tin Mừng bao gồm một loạt các câu chuyện, tất cả được liên kết lại để tạo thành một câu chuyện lớn – câu chuyện của Đức Giêsu. Chúng ta thích nghe những câu chuyện nhưng chúng ta sẽ chán nếu nghe kể đi, kể lại cùng một câu chuyện. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ tắt đài ngay. Sự việc như thế có thể xảy ra với câu chuyện Tin Mừng. Nó có thể trở nên cũ kỹ, nhạt nhẽo và không sự sống.
Chúng ta làm thế nào để cho sự quen thuộc không còn mang ý nghĩa cũ kỹ, chán ngắt? Chúng ta phải cố gắng nghe câu chuyện cao cả nhất được kể lại qua mọi thời đại. Và chúng ta cần nắm bắt lại sự kỳ diệu của nó. Chúng ta cần giải phóng năng lượng chứa trong đó, nếu chúng ta muốn cảm nghiệm sức mạnh lôi cuốn, làm ngạc nhiên, gây xúc cảm, thách đố và tạo cảm hứng của Tin Mừng.
Chúng ta cần lắng nghe Tin Mừng theo cách chúng ta được chiếu sáng và như nghe chính câu chuyện của chúng ta khi điều đó xảy ra, những câu chuyện của chúng ta kết hợp với câu chuyện của Tin Mừng và được Tin Mừng chiếu sáng.
Mọi việc chúng ta cần đều chứa đựng trong Tin Mừng. Ở đó, chúng ta có lời của chính Đức Giêsu. Những người chép lại cuốn sách này của Thầy xác nhận những điều họ viết không bao giờ lầm lạc.
Trở lại Tin Mừng trong những khi bất hạnh chưa đủ. Trở lại Tin Mừng như một đối tượng để tôn thờ (như cuốn sách của Kells) cũng chưa đủ. Chúng ta phải xem xét đời sống chúng ta đối chiếu với những lời trong cuốn sách ấy. Những lời này thắp lên một ngọn lửa trong tâm hồn chúng ta và người khác cũng cảm thấy sự ấm cúng của ngọn lửa đó.
Tin Mừng chỉ chứa đựng những điều tốt nhất và sâu xa nhất trong đời sống. “Những người khác băn khoăn lo lắng những phần Kinh Thánh mà họ không hiểu được. Còn tôi băn khoăn lo lắng về những phần mà tôi hiểu được” (Mark Twain).
Có một vị thánh luôn tự hỏi mình bất cứ lúc nào ông đối diện với một quyết định khó khăn: Sách thánh sẽ khuyên bảo điều gì? Lời đáp đến từ nội tâm sâu thẳm của ông: bạn phải làm điều gì đúng và tốt nhất. Vì thế Sách thánh có một ảnh hưởng to lớn trên ông. Nó làm cho ông mạnh mẽ trong những lúc yếu đuối. Nó tạo cảm hứng cho ông trong những lúc quảng đại. Nó làm cho ông hổ thẹn trong những lúc hèn nhát. Nhưng qua mọi việc ấy, ông đã nắm chắc điều chủ yếu là Tin Mừng phải được sống.
Tin Mừng là sách chỉ nam cho mỗi người Kitô hữu. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những cái bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không qua đi. Chúng ta sẽ xây dựng vững chắc ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát hiện một anh chàng giương cao một tấm bảng có ghi: Ngày Tận Thế Đã Đến Gần. Cô đến gặp anh chàng và nói: “Anh nói ngày tận thế đã đến gần”. – “Đúng thế, thưa cô”, anh ta đáp.
“Nhưng anh có chắc chắn không?” – “Hoàn toàn chắc chắn, thưa cô”
Và anh nói: “đã gần rồi” – “Vâng, thưa cô”
“Gần làm sao?” – “Ồ, rất gần”
“Anh có thể nói chính xác hơn không?” – “Ngay đêm nay, thưa cô”
Cô ngừng lại một lúc để suy nghĩ về điều đó. Rồi với một giọng đầy lo lắng, cô hỏi: “Này cậu, hãy nói cho tôi rõ. Tận thế sẽ xảy ra trước hay sau bữa dạ tiệc?”
Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bất ổn. Dường như nó chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác. Một cách mơ hồ, điều này có thể gây ra những nỗi sợ hãi và lo lắng to lớn. Ở giữa thế giới bất ổn và thay đổi ấy, chúng ta cần có một sự gì vững chắc để trông cậy phó thác. Đối với người Kitô hữu, điều đó chỉ có nghĩa là tin vào Thiên Chúa. Thánh vịnh trong thánh lễ hôm nay cũng nói về điều đó: “Tôi luôn luôn nhìn lên Đức Chúa còn Người ở bên tay phải của tôi. Tôi sẽ đứng vững vàng”. Và dĩ nhiên chúng ta có Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta cần. Sự bảo đảm là tất cả những điều ấy đều ở trong bàn tay Thiên Chúa. Vả lại kế hoạch của Người cho chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ trị vì. Thiên Chúa sẽ trị vì. Chúng ta sẽ trị vì với Người trong đời sống vĩnh cửu. Nhiều người đã yêu cầu muốn biết khi nào tận thế sẽ đến. (Yêu cầu này xem ra đã trở nên liều lĩnh khi chúng ta vừa kết thúc một thiên niên kỷ để bắt đầu một thiên niên kỷ mới). Một số người yêu cầu Thiên Chúa hoặc Đức Maria ban cho họ một mạc khải đặc biệt, một số người khác lấy Kinh Thánh ra để tính toán ngày tận thế. Tất cả những yêu cầu ấy quả là dốt nát. Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta một sứ điệp đúng lúc về ngày tận thế. Đức Giêsu nói với chúng ta rằng không một ai biết được khi nào tận thế trừ Chúa Cha trên trời. Và hướng về ngày tận thế, chúng ta phải hy vọng mà đừng sợ hãi. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để cứu chuộc chứ không phải để kết án chúng ta. Đức tin cho chúng ta niềm xác tín rằng thế giới này không hướng về sự chấm dứt, một tai họa không thể thay đổi được. Nó cũng không hướng về một chung cuộc nào đó, mà nó hướng về một sự thành tựu viên mãn. Bởi vinh quang Phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Chúng ta nên lo lắng nhiều hơn về chung cuộc đời mình khi chết đó là một điều chắc chắn thay vì lo lắng về ngày tận thế là một điều ở ngoài tầm tay.
40.Cuộc quang lâm của Con Người
(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
1.- Ngữ cảnh
Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường thuật cuộc Khổ Nạn (Mc 14–16), chúng ta gặp bài Diễn từ cánh chung (Mc 13). Bài này khởi đi từ lời Đức Giêsu loan báo rằng Đền Thờ Giêrusalem huy hoàng tráng lệ như thế đó sẽ bị tàn phá và từ câu hỏi bao giờ sẽ xảy ra chuyện ấy. Bài Diễn từ này được ngỏ với bốn môn đệ Đức Giêsu đã gọi đầu tiên (x. 13,3 và 1,16-20), nhưng có một giá trị tổng quát (13,37). Bài không chỉ liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, nhưng còn nhìn tổng quát về tương lai. Đức Giêsu phác ra những đường nét lớn cho các môn đệ thấy tương lai sẽ mang lại cho họ điều gì (13,5-27) và họ sẽ phải ứng xử thế nào (13,5.21-23.28-37). Chúng ta có thể chia bài diễn từ này thành ba phần:
1) Khi nào (cc. 5b-8.9-13.14-23);
2) Dấu chỉ: Cuộc quang lâm (cc. 24-27);
3) Giờ chính xác (cc. 28-32.33-37).
2.- Bố cục
Bản văn đọc hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc Quang Lâm (13,24-27);
2) Thời gian (13,28-32).
3.- Vài điểm chú giải
– Nhưng trong những ngày đó, … các ngôi sao từ trời sa xuống (24-25): Với liên từ “nhưng”, tác giả đưa độc giả tới khúc quanh quan trọng. Ngài mở ra một viễn tượng phổ quát bằng cách dùng những hình ảnh thuộc Cựu Ước nói về Ngày của Yhwh (Đức Chúa) (Is 13,10; 34,4; Ge 2,10–3,4; 4,15t.). Trong Cựu Ước, các hiện tượng này là những hoàn cảnh đi theo cuộc xét xử trong thịnh nộ, “ngày của Yhwh”. Theo những bản văn Isaia, việc phán xét nhắm đến Babylon và Êđôm. Trên cái nền Kinh Thánh này, các hình ảnh được vận dụng để minh họa cuộc phán xét trên các kẻ gian ác.
– Con Người (26): Trên tấm phông là một vũ trụ bị rung chuyển, Con Người xuất hiện, được mô tả bằng những từ ngữ của Đn 7,13tt. Các đám mây cho hiểu là Người thuộc về thiên giới, thuộc về Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tỏ bày năng và vinh quang của Người ra, mọi người sẽ được thấy: không mơ hồ như những tiếng đồn được lưu ý ở 13,22 (x. Mt 24,27t). Quyền lực lớn lao và vinh quang của Người bao quanh Người, nêu bật vẻ uy nghiêm của Người, khiến Người nổi lên rõ ràng trên bóng tối và tình trạng hỗn độn của vũ trụ. Mục tiêu Người nhắm khi đến thì chưa rõ. Hình thái của bài Diễn từ không liên quan đến ai rõ ràng khiến phải kết luận rằng ở chỗ này, bài được ngỏ với các đối thủ, các kẻ gian ác và tội lỗi. Đối với họ, Con Người đến là để phán xét.
– tập họp của những kẻ được tuyển chọn (c. 27): Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa quy tụ (Đnl 30,3-4 [LXX]; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) nhờ các thiên thần (Tv 17/18,11; 103/104,4; Đn 7,10): Ngài quy tụ về Thánh Địa tất cả những người Do Thái đang bị phân tán, đưa về cho hiệp thông với Ngài. Ở đây, Con Người được giới thiệu là Đấng thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái (x. Ga 14,3).
– từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: dịch sát: “từ bốn gió, từ mút cùng đất đến mút cùng trời”. Các hình ảnh này là cách cổ điển mà Kinh Thánh và người Hy Lạp dùng để nói về thế giới.
– thí dụ cây vả (28): Trong Cựu Ước, mùa hè và cuộc thu hoạch là những hình ảnh diễn tả sự cùng tận, cuộc giải phóng và phán xét chung cuộc (x. Ge 4,17; Am 8,1tt; Is 28,4; Gr 8,20). Những gì xảy ra với cây vả được dùng để ví những dấu chỉ xảy ra nhằm báo cho biết Đức Kitô đã đến gần (c. 29).
– thế hệ này (30): “Thế hệ này”, dù là “thế hệ gian ác” (Mc 8,38; 9,19; Mt 12,39.45) gồm những người không tin Đức Kitô hoặc sứ điệp của Giáo Hội, thì cũng là thế hệ đương thời với tác giả Mc. Khi nghe đọc đoạn văn này, các tín hữu càng được củng cố trong nỗi niềm chờ mong Đức Chúa của mình ngự đến.
– mọi điều ấy: Dựa trên câu hỏi của các môn đệ ở c. 4b và cùng với tauta (“các điều ấy”) được lấy lại từ c. 29, có thể quy về toàn thể các biến cố được mô tả trong bài Diễn từ cho đến điểm này, tức cũng quy về cuộc Quang Lâm của Con Người. Dựa theo câu nói này, ta nhận ra một sự chờ đợi nôn nóng trong một thời gian ngắn.
– những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31): Đức Giêsu xác định những lời Người nói có cùng một sự chắc chắn và một uy tín như những lời của Yhwh trong Cựu Ước (Is 40,8; 51,6; 54,10; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
– không ai biết được, ngay cả Người Con …, chỉ có Chúa Cha mới biết (32): Câu này là một crux interpretum (thập giá của các nhà chú giải). Lời này dường như mâu thuẫn minh nhiên với Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con…”. Người ta thường giải quyết bản văn khó này như sau. Mt 11 nói về sứ mạng mạc khải của Đức Giêsu để cứu độ thế gian: để đạt được mục tiêu này, Người đã được Thiên Chúa ban cho toàn quyền mạc khải và mọi hiểu biết cần thiết. “Nhưng Người đã có thể không biết một số điểm thuộc về chương trình sau này của Thiên Chúa, như Ngài khẳng định ở đây một cách rõ ràng” (P. Benoît). Phải hiểu Đức Giêsu không biết đây là không biết trong bối cảnh mầu nhiệm nhập thể, khi đó Chúa Con đã từ khước nhiều đặc quyền thần linh của mình (x. 2 Cr 8,9; Pl 2,6tt) để chia sẻ thân phận con người sâu xa hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc Quang Lâm (24-27)
Tiếng nói cuối cùng trên toàn thể lịch sử nhân loại và trên tất cả các tình huống là biến cố Con Người ngự đến trong vinh quang Thiên Chúa (Mc 13,26; x. 8,38; 14,62). Người đã đi qua đau khổ và cái chết; sau khi sống lại, Người đã chỉ tỏ mình ra với các môn đệ tuyển chọn; nhưng trong tương lai, Người sẽ xuất hiện trước mắt tất cả mọi người trong phẩm tước đích thực của Người. Cuộc tỏ mình của Người cũng như quyền chúa tể hữu hình của Người, duy nhất và vô biên, là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại.
* Thời gian (28-32)
Cho câu hỏi “khi nào?”, Đức Giêsu trả lời trước tiên bằng một dụ ngôn rõ ràng. Cần phải học bài học từ việc quan sát cây vả. “Khi nó trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần” (cc. 28-29). Tác giả muốn nói đến các biến cố ở cc. 6-13, cc. 6-23 hay cc. 14-23? Bởi vì công thức “khi anh em thấy” (hotan idête) nhắc lại c. 14, chúng ta nên coi các biến cố thuộc phân đoạn cc. 14-23.
Cuối cùng, có ba câu nói về thời gian (cc. 30-32): “thế hệ này”; “những lời Thầy nói”; “chỉ có Chúa Cha biết”. Tất cả được mở đầu bằng giọng long trọng: “Thầy bảo thật (amên) anh em”. Sự hiểu biết về lịch sử loài người và mọi câu hỏi liên quan đến tương lai dường như dễ đưa tới sự lừa dối và sai lầm: đây là vùng hoạt động của các ngôn sứ giả. Lời khuyến cáo của Đức Giêsu vẫn còn có giá trị cho mọi thời đại: “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Các lời Người nói sẽ có giá trị mãi mãi (c. 31). Và với giọng rõ ràng chắc chắn, Người khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa biết ngày hoàn tất những điều đã được loan báo (c. 32).
+ Kết luận
Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ: khi nào xảy ra những điều ấy? Câu trả lời của Đức Giêsu vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Người ta sẽ không còn coi Đền Thờ là nơi quy tụ nữa. Đền Thờ sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền Thờ, Người sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi tà thần: Người là Đức Chúa phục sinh quang vinh.
Toàn bài Diễn từ cánh chung muốn thổi một làn gió lạc quan trên thế giới. Đồng ý là có những thời trong đó sự dữ thắng thế, nhưng nó không thể khai sinh một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Đức Kitô và nhờ Thánh Thần, một mầm sống mãnh liệt mới khai sinh một vũ trụ mới. Với lại, kiểu hành văn “cánh chung” bao giờ cũng chất chồng các hình ảnh tai hoạ u ám để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong người tín hữu không bối rối khi đọc thấy sự dữ lan tràn, nhưng nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang được triển khai.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tương lai của nhân loại có đen tối đến đâu và nhìn bề ngoài thì dường như đang đi đến chỗ hoàn toàn diệt vong, nhưng cuối cùng, vẫn còn có Con Người, Đấng đã chia sẻ tất cả định mệnh con người, nay đang ở trong sự hiệp thông xán lạn và vinh hiển với Chúa Cha toàn năng. Các môn đệ của Đức Giêsu có bị bách hại, bị ghét bỏ và bị giết tàn bạo đến mức nào đi nữa, Đấng mà họ bước theo sau và cũng là Đấng mà họ đã chia sẻ cùng một số phận, đang chờ họ và sẽ bênh vực họ (x. 8,34-38). Đức Giêsu là Đấng trung thành và quyền năng. Người sẽ tìm được họ dù họ lang bạt đến tận đâu và sẽ quy tụ họ lại.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu phải tránh những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ không được trông mong vào một thiên đàng hạ giới chan hòa bình an. Trái đất vẫn là một thung lũng đầy nước mắt, nên họ phải sẵn sàng chấp nhận gian lao vất vả, bị từ khước và bị bách hại. Họ không được chạy theo ảo tưởng và cũng không được buông theo thất vọng. Họ phải tin cậy vững vàng vào lời nói của Đức Giêsu và tương lai mà Người phác họa ra.
3. Điều nói trên không có nghĩa là các môn đệ không được bận tâm đến tương lai và không được để cho tương lai ảnh hưởng trên lối sống hiện tại của mình. Như khi thấy các lá non của cây vả, chúng ta biết mùa hè đã đến gần, chúng ta cũng không được bám cứng vào những gì đang xảy ra, nhưng phải quay hướng về biến cố kết thúc đang đến (13,28t).
4. “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Đức Giêsu như đang nói: Anh em đừng để cho mình bị lạc đường vì tò mò và sợ hãi! Thầy đã chỉ cho anh em thấy rõ ràng thực tại chung kết. Hãy bám vững vào đó và hãy bằng lòng với điều đó! Điều đó hoàn toàn đủ cho anh em rồi! Vì về ngày đó, chỉ Chúa Cha biết; tất cả mọi tính toán về ngày cuối cùng đó chỉ là chuyện tưởng tượng bừa bãi, đi ngược lại với lời nói rõ ràng của Đức Giêsu.
(Suy niệm của JKN.)
NGÀY CÙNG TẬN CỦA MỖI CÁ NHÂN VÀ CỦA TOÀN THẾ GIỚI
Câu hỏi gợi ý:
1. Chết có phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm hết hoàn toàn không? Nếu không thì có gì đáng ta lo ngại?
2. Đời ta chắc chắn có ngày tận cùng. Còn đời sống của thế giới thì sao? Có tận cùng không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày tận cùng đó?
3. Thiên Chúa có thường xuyên nhắc nhở để ta ý thức và chuẩn bị cho cái chết của mình không? Ngài nhắc nhở ta thế nào? bằng những dấu hiệu nào?
4. Cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Chúa là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Một chân lý chắc chắn nhất trong cuộc đời: ta sẽ chết
Có một điều mà ta có thể quả quyết chắc chắn hơn tất cả mọi điều, đó là sẽ có ngày ta phải chết, phải từ giã cõi đời, lìa bỏ mọi người kể cả những người thân yêu nhất mà ta không bao giờ muốn rời xa. Đây là một chân lý mà ta vẫn thường xuyên chứng nghiệm mỗi khi gặp đám ma hay dự lễ an táng của một ai đó. Đó là một chân lý chắc chắn nhất trên đời, nhưng nhiều khi ta sống như thể không hề có chân lý ấy, như thể chúng ta sẽ không bao giờ chết, mà cứ sống mãi sống hoài cùng với trời đất. Mỗi lần thấy có ai qua đời, thiết tưởng ta nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ tới phiên chúng ta. Và ngày ấy không ai có thể xác định được: có thể là 30,40 năm nữa, nhưng cũng có thể là 10,5 hay 1 năm nữa, và cũng rất có thể là tháng sau, tuần sau, ngày mai, hay chút xíu nữa. Nhiều người đã chết bất đắc kỳ tử, những người này thường không ngờ được mình lại chết sớm và nhanh như vậy! Còn ta, ta không thể quả quyết rằng mình không thuộc số những người này! Và ngày ta chết chính là ngày cùng tận của riêng ta!
Nếu cá nhân mỗi người đều có ngày cùng tận, thì toàn thế giới hay toàn nhân loại này cũng có ngày cùng tận của nó. Và đó cũng là một chân lý chắc chắn không kém gì sự chết cá nhân. Vì trong thế giới hiện tượng, cái gì có sinh thì cũng có diệt theo định luật “thành, trụ, hoại, không”. Và bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở ta về chân lý bất di dịch này, đồng thời cho ta biết những dấu hiệu báo trước ngày tận diệt ấy.
2. Những dấu hiệu báo trước
a) Ngày tận cùng của cá nhân
Theo niềm tin Kitô giáo, chết là bắt đầu một đời sống khác, và đời sống mai hậu ấy là một đời sống vĩnh cửu. Điều hết sức nghiêm trọng là đời sống mai hậu ấy nếu hạnh phúc thì là hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu đau khổ thì cũng là đau khổ vĩnh cửu. Mà hạnh phúc hay đau khổ trong đời sống ấy hoàn toàn tùy thuộc vào cách ta sống, cách ta tin, cách ta hành xử trong đời sống hiện tại. Vì thế, cách ta sống trong đời sống hiện tại này thật quan trọng, nó quyết định số phận vĩnh cửu của ta. Chính vì đời sống hiện tại có tính quyết định vĩnh cửu như thế, nên vì yêu thương ta, Thiên Chúa thường xuyên gửi đến ta những sứ điệp cảnh báo ngày chết của ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta coi thường những sứ điệp ấy để rồi cuối cùng phải lâm vào tình trạng đau khổ vĩnh cửu.
Sau đây là những sứ điệp của Thiên Chúa nhắc nhở ngày tận số của ta:
a) Những đám ma, những lễ an táng mà ta gặp hay tham dự là những dấu hiệu nhắc nhở ta rằng chắc chắn một ngày nào đó sẽ tới phiên ta từ giã cuộc đời như người trong đám ma ấy.
b) Những dấu hiệu của cơ thể suy thoái như tóc bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay những biến cố đến từ bên ngoài như tai nạn, dịch tễ… đến với chính ta hay người khác đều là những sứ điệp của Thiên Chúa gửi đến để cảnh báo ta.
Liệu khi Thiên Chúa gọi ta ra khỏi cuộc đời, ta sẽ xuất hiện trước Thiên Chúa trong tình trạng nào? tốt lành thánh thiện hay xấu xa tội lỗi? đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay đáng chịu trầm luân mãi mãi? Tự hỏi như thế thì còn quá xa vời. Hãy tự hỏi: nếu ngay bây giờ Chúa gọi tôi đi thì tôi sẽ ra đi trong tình trạng nào? tôi đã sẵn sàng mọi sự để xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu chưa? Cách tốt nhất để bảo đảm là ta sẽ ra đi trong tình trạng tốt đẹp là luôn tỉnh thức để luôn luôn trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Mc 13,33; Lc 21,36). Hãy luôn luôn tự nhủ: bất kỳ một tư tưởng xấu, một hành động xấu nào trong đời ta cũng đều ảnh hưởng tai hại đến tình trạng cuối cùng của cuộc đời ta, là tình trạng lúc ta ra khỏi thế gian này. Tình trạng này quyết định số phận cuộc đời mai hậu của ta. Người ta vẫn nói: “Cây xiêu đằng nào, đổ đằng nấy”. Vết mực một khi đã dính vào áo thì dù có giặt kỹ đến đâu cũng không tránh khỏi làm áo bị cũ, bị hoen ố, bị kém giá trị đi.
b) Ngày tận cùng của thế giới
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Điều đáng lo ngại cho thế giới này chính là sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo – kể cả Kitô giáo – có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong. Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp để sinh sống… Đó là những điều khiến Đức Giêsu đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).
3. Thái độ cần phải có
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện “chân lý, công lý và tình thương” (x. Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, “những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ai cũng chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai chắc chắn được chút nào về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, thậm chí không mấy ai ngờ trước được. Vì thế, con muốn chuẩn bị thật chu đáo ngày con ra trước tòa Cha. Con muốn ngày ấy phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Cha bất cứ giây phút nào. Xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị đó.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Công Chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước Thiên Chúa Giáng sinh, nhưng người sinh sống cùng thời với bà có một niềm tin là xác bà sẽ nguyên vẹn trường cửu vì bà được liệm xác trong một quan tài bằng Ngọc Thạch. Chồng bà cũng đã lìa đời 9 năm trước đó và cũng được liệm xác trong một quan tài tương tự như của bà.
Hai vợ chồng đều được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong một vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969, người ta mới khám phá ra và cả thế giới đều ngạc nhiên về sự giầu sang của thời đại ấy được biểu lộ bằng 2800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng. Đặc biệt hơn nữa là hai cỗ quan tài, mỗi cái gồm 2000 hạt Ngọc Thạch nhỏ dát quang quan tài và kết chung với nhau bằng một sợi chỉ vàng ròng 24 cà rá.
Những người sống đồng thời trong thời đại của Công Chúa đều tin rằng Vàng và Ngọc Thạch là hai loại quí nhất vì không bị thời gian làm hư hại. Vì thế chúng được coi là bảo chứng an toàn giữ cho thân xác được nguyên vẹn trường cửu, không bao giờ bị phải rữa và như thế bà sẽ sống muôn kiếp sau cái chết ở trần gian.
Không phải chỉ có con người ngày xưa mới khiếp cái chết, mà con người ngày nay cũng không thích gì chết. Họ không thích quan niệm “sinh ký tử qui – sống gửi thác về”. Họ không muốn nghe đến tiếng “chết chóc, bệnh nạn, yếu đau”. Họ muốn có liều thuốc tiên “sống khỏe không già” và nếu có chết người ta phải trang điểm cho khác hẳn sự chết, để người nhìn vào khỏi sợ sự thật của chính mình… Bởi thế Thiên Chúa luôn phải nhắc nhở chúng ta về “cái chết của chúng ta” để sửa soạn và canh chừng cuộc sống.
Trên ba vòng hoa bán nguyệt của khung cửa sổ nhà thờ Milanô bên nước Ý có khắc ba dòng chữ: – Phía dươi vòng bán nguyệt của vòng hoa hồng có chử “Mọi hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát”. – Bên vòng bán nguyệt của cửa thứ hai, dưới hình thánh giá có khác chữ “Mọi đau khổ, cực hình trần gian, chẳng mấy chốc sẽ qua”. – Vòng thứ ba của khung cửa giữa dẫn vào Vương cung Thánh đường có khắc chữ:”Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng”.
Người thời xưa quan niệm dùng ngọc thạch để ướp cho được trường sinh.
Người sống vật chất ngày nay quan niệm cuộc đời chấm dựt bằng cái chết. Còn người theo Chúa Trời quan niệm chết là ngưỡng cửa đi về cuộc sống vĩnh cửu và chính cuộc sống này mới thật sự quan trọng. Bởi thế chúng ta xây dựng cuộc sống vĩnh cử ấy bằng những giây phút sống tốt, sống thật ở hiện tại. Bằng cách áp dụng hai đạo luật vàng: “Phụng sự Chúa hết tâm hồn và yêu thương mọi người như yêu chính mình”. Thực thế, chỉ có những gì được làm bằng tình yêu thương mới có giá trị vĩnh cửu mà thôi.
Hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát. Đau khổ, cực hình trần gian chẳng mấy chốc sẽ qua. Và chỉ có hy sinh vì Chúa và phục vụ vì yêu thương mới trường tồn vĩnh cửu. (11.2003).
43.Cuộc quang lâm của Con Người
(Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Xét trên hình thức, phải chăng đây là bản lược tóm một trần thuật của Chúa Giêsu? Thử tìm văn mạch của nó?
2. Phải hiểu ra sao cái cảnh tượng được mô tả ở cc. 24-25? Cảnh tượng muốn nói lên điều gì?
3. Hình ảnh Con người với các hình ảnh đi theo được vay mượn từ đâu?
4. Dụ ngôn cây vả muốn trả lời cho câu hỏi nào trước đó?
5. Trong ba lời tuyên phán (cc.3ó-32), chữ “thế hệ này” chỉ ai? Tại sao Chúa Con cũng chẳng biết ngày giờ cùng tận?
6. Bản văn này là giáo huấn của Chúa Giê-su hay của thánh sử ?
7. Phải chăng Mc đã lầm lẫn, vì cùng tận chưa đến như ông đã dự đoán?
Khi chú giải chương 13 của Mát-cô, nhà chú giải công giáo J.Schmid có viết: “Cái mà người ta gọi là “Diễn từ về Quang lâm” hay “Khải huyền Nhất lãm” là một trong những đoạn khó hiểu nhất của Tân ước, và vì thế là một trong những đoạn bị tranh luận nhiều nhất của truyền thống, Nhất lãm”. Các bản văn nói về sự ghê tởm hoang tàn và việc con Người đến trong mây xem ra chất chứa một nội dung khó hiểu. Điều đó không chỉ do sự kiện Ki-tô hữu thời nay cảm thấy xa lạ với thế giới các ý tưởng mà những bản văn này sử dụng, nhưng còn do chỗ khó đặt vào trong vũ trụ tâm trí của ta hình ảnh Con Người được một triều đình thiên thần bao quanh hay hình ảnh những hiện tượng vũ trụ và thiên giải đi theo cuộc quang lâm của Người.
Vì thế, các nhà chú giải chuyên môn về Tân ước do dự trong cách hiểu các bản văn ấy. Vì nhiều lý do. Trước tiên ngôn ngữ Khải huyền luôn luôn khó quán triệt. Rồi người ta đôi lúc cũng thấy là không chắc hòa hợp được Mc 13 với phần còn lại của giáo huấn Chúa Giê-su; Chúa Giêsu đã chẳng thốt lên diễn từ này, nhưng là Mátcô đã phóng tác một bản văn Khải huyền nào đó của Do thái để đặt trên miệng của Thầy, đồng thời bổ túc bằng một vài lời của chính Chúa Giê-su. Dù sao, toàn chương mang nhiều dấu vết rõ rệt cho thấy nhiều học giả của Giáo Hội sơ khai đã lưu tâm đến đề tài. Điều này cũng lộ ra nơi cách thức Mt và Lc sử dụng các chất liệu. Các thánh sử này cũng như nhiều học giả khác, hình như đã nghĩ rằng những truyền thống của Chúa khá phong phú, còn có thể tiết lộ thêm nhiều kho tàng dấu ẩn, và đặc biệt là có thể giải quyết những vấn đề riêng của họ. Các ý tưởng này đã để lại khá nhiều dấu vết trong chi tiết của các bản văn, nên cho phép chúng ta đoán rằng truyền thống đã được thích nghi với hoàn cảnh lúc ấy.
Hình thức bản văn
Theo hình thức hiện nay của nó, bản văn không phải là toát yếu của một trần thuật của Chúa Giêsu. Đa số các nhà thần học Thánh Kinh đồng ý như vậy, dù họ có nhiều ý kiến rất khác nhau về nguồn gốc các yếu tố của bản văn. Chúng tôi thiết nghĩ người ta có lý để công nhận rằng bản văn căn cứ trên giáo huấn về cánh chung của chính Chúa Giêsu, một giáo huấn muốn cảnh giác các môn đồ về những nguy hiểm sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (Xin xem tiểu luận của chúng tôi: Prophecy interproted (The formation of so me Jewish Apocalyptic Lexts and of the Eschatologica Discourse Mark 13. par. Conjectanea Biblica, NT series 1, Lund 1966): Tuy nhiên, dù “nền tảng” của bản văn phải được tìm trong một huấn lệnh của Chúa Giê-su, thì Mc 13, dưới hình thức hiện thời, vẫn phản ảnh hoàn cảnh của Giáo Hội sơ khai, với những vấn đề mà Giáo Hội đã đặt ra cho truyền thống của Chúa Giê-su vàđã giải quyết bằng cách giải thích và tái giải thích truyền thống này.
Như bao học giả Do thái khác đương thời. Chúa Giê-su xem ra đi từ Cựu ước để triển khai giáo huấn của Người cùng tận. Thật thế, các đoạn của Đanien về cánh chung chiếm một chỗ đứng trung tâm trong chương 13 của chúng ta. Chúng ta cũng thấy trong chương này nhiều âm hưởng của nhiều bản văn Cựu ước khác mà nội dung cũng là về cánh chung.
Người ta đã chứng minh rằng vào thời đó, khi trích dẫn các câu Cựu ước, người ta đã hiểu ngầm luôn toàn thể văn mạch của chúng, và nhờ liên tưởng, người ta đi từ một bản văn sang một bản văn khác có cùng một nội dung. Các văn mạch và các đoạn được liên kết này, cùng với những lời giải thích về chúng, đã làm giàu ý nghĩa cho các bản văn được đặt trong tương quan với Cựu ước như thế. Thành thử khi tìm cách quán triệt ý nghĩa này, chúng ta phải cố tái dựng lại các dây liên kết nói trên.
Văn mạch.
Bài Tin Mừng hôm nay là thành phần của Diễn từ cánh chung. Diễn từ này bắt đầu từ c.5, nhưng được liên kết trực tiếp với một lời tuyên phán về sự phá hủy Đền thờ. Trong cách kết cấu của thánh sử, diễn từ làm lành lời Chúa Giê-su giải đáp cho vấn nạn ở c.4: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy (sự phá hủy) sẽ xảy ra và sự gì sẽ là điềm báo mọi điều ấy sắp hoàn tất”. Mối liên lạc giữa câu hỏi này với Diễn từ đã được một tác giả xưa chú giải như sau: “Họ hỏi một điều và người đáp lại một điều khác”.
Các câu 5-13 bàn đến các nguy hiểm khác nhau: kẻ rao giảng có khả năng mê hoặc, chiến tranh và thảm họa trong toàn thế giới, ngược đãi và phân ly trong gia đình. Chúng kết thúc bằng một lời khích lệ: “Ai kiên nhẫn tới cùng (hoặc: cho đến tận cùng) kẻ ấy sẽ được cứu”.
Các câu 14-23 mô tả một thử thách tột đỉnh của các kẻ tin. Câu 19 nói lên ý nghĩa cuộc thử thách này: những ngày ấy sẽ là một sự khốn quẫn như chưa từng thấy xảy ra và sẽ không hề xảy ra nữa. Đây là nỗi khổ mà Đanien 12,1 đã tiên báo sẽ xảy ra trong thời gian đi trước cùng tận. Nỗi khốn quẫn này sẽ tỏ hiện không chợt qua sự “ghê tởm hoang tàn” mà người ta phải chạy trốn cho mau, nhưng còn qua sự xuất hiện của nhiều Kitô giả và ngôn sứ giả. Các quyền lực của Satan sẽ tấn công tín hữu một cách hung tợn đến nỗi Thiên Chúa phải can thiệp kẻo tất cả gục ngã trong cuộc thử thách này.
Trên cái nền u tối đó, nổi bật lên đoạn văn của chúng ta, đoạn văn diễn tả cuộc chiến thắng cuối cùng và trở lại câu hỏi đã đặt ở c.4: khi nào điều đó sẽ xảy ra?”. Cách đáp câu hỏi này tự nhiên khiến thánh sử kết thúc đoạn văn bằng những lời khích lệ được lặp lại: “Coi chừng, hãy tỉnh thức” (cc.33-36). Một chủ đề đã có mặt trong tất cả phần nhất của những từ (cc 5 .6.9.21 .23).
I. CUỘC QUANG LÂM (13, 24-27)
Tiếp theo sau những biến động khủng khiếp của các câu trước, bài Tin Mừng chúng ta mô tả biến cố vượt lên trên tất cả chương. Bức tranh này vay mượn màu sắc của Cựu ước mà nó cắt nghĩa theo một cách thức rất là Kitô giáo. Thật vậy, chính từ Đanien mà người ta rút ra câu trích dẫn trung tâm của đoạn văn. Thế mà lời tiên tri của ông về các nỗi ưu phiền trực tiếp nhảy qua vấn đề tôn vinh các tín hữu, ở 12,1-2 cũng như ở 7,8tt, nơi “Con người” được đồng hóa với “các thánh của Đấng tối cao đang chiếm hữu vương quốc” (7,8.22.27). Ngược lại, đối với Mc, Con người không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu sẽ đến. Hơn nữa, ông diễn tả việc mặc khải Chúa Kitô con Người, với nhiều nét mà trong Cựu ước vẫn thường đặc trưng mặc khải thần linh về “Ngày của Giavê”. Đây là một bằng chứng mới cho thấy có lối giải thích Kitô giáo.
1. Cảnh tượng (cc.24-25)
Thành thử trong các câu này, người ta khai mở một diễn ảnh phổ quát, bằng cách dùng những hình ảnh của các bản văn Cựu ước nói về Ngày Giavê (Is 13,10; 3-4 ; Ge 2, 10; 15). Trước uy nghiêm của Chúa Giêsu, cũng chính là uy nghiêm của Gia-vê, vũ trụ rung chuyển, cuộc sáng tạo xưa (x. St 2,1) và các thời đại cũ bị tiêu diệt, Vương quốc của Thiên Chúa tỏ hiện trong tất cả vẻ vinh quang. Chắc chắn trình bày “tinh tú từ trời sa xuống” giả thiết quan niệm cổ điển về vũ trụ; trong ngôn ngữ thánh kinh, “các quyền năng tầng trời” xem ra chỉ những thiên thể (x. St 1 ,17tt).
Có lẽ như một số nhà chú giải đã nghĩ chúng ta cũng phải nhớ tới sự kiện là trong các cuộc Khải huyền theo Do thái và Kitô giáo, khởi nguyên tương ứng với tận cùng. Thành thử toàn văn này đưa chúng ta về lại bóng tối và cảnh hỗn mang đã từng thống trị trước khi sáng tạo, cảnh hỗn mang mà lần này sẽ đi trước cuộc sáng tạo mới (x. Kh 21,1).
Ngoài ra, cảnh tượng cũng được đặt trong tương quan nơi sự khốn quẫn tột cùng của các tín hữu, sự khốn quẫn đã được diễn từ nói đến trong phần trước. Về vấn đề này, xem ra đọạn văn vừa nói “đúng” vừa nói “không”. “Đúng” cho câu
nói “Thời gian khốn quẫn đó phải chăng có nghĩa là Cùng tận gần kề?”. Nhưng những ai cứ hỏi: ngày mà chúng tôi chịu cảnh khốn quẫn đó, chúng tôi có thể ngóng đợi Tận cùng lập tức không?” thì sẽ được trả lời là “Không, còn lâu nữa”. Có lẽ tiếng “đúng” và tiếng “không” này ngỏ cho Giáo Hội sơ khai vốn đã cảm thấy sự khốn quẫn và đã tự hỏi bao giờ Chúa lại đến. Cũng có thể là Mc đã phối hợp nỗi khốn quẫn này với các biến cố liên hệ đến việc phá hủy Giêrusalem năm 70. Các nhận xét này gây nên nhiều vấn đề quan trọng. Phải nghĩ thế nào về tương quan giữa giáo huấn của Thầy và cách thức Giáo Hội sơ khởi giải thích giáo huấn dù bản văn đây còn có giá trị đối với chúng ta không? Chúng ta sẽ trở lại với những vấn nạn này khi bàn đến các câu 30-31
2. Con Người (c.26)
Trên bối cảnh một vũ trụ rung chuyển như thế, nổi lên khuôn mặt Con Người, được mô tả với những hạn từ Đn 7.13tt. Những đám “mây” không chỉ một phương tiện di chuyển cho bằng chỉ sự hiện diện thần linh giữa loài người, như Kinh Thánh vẫn thường biểu thị (ví dụ Xh 13,21 ; 19,9; 2Sk 5, 13; 17,5): Khi Chúa Giê-su tỏ hiện sức mạnh và vinh quang của Người thì tất cả thế gian sẽ trông thấy. Việc Người đến một cách hiển nhiên tương phản với nhúng tiếng đồn sai lạc được nói ở 13,22 (x. Mt 24,27tt).
Hình ảnh Con Người, với các hình ảnh đi theo vay mượn từ Đn và nhiều đoạn khác của Cựu ước, xem ra gói ghém hai dữ kiện nền tảng đối với Kitô học. Trước tiên, khi những đường nét của các trình thuật trước về Ngày Giavê được áp dụng để mô tả việc Con Người đến, thì điều đó những muốn nói rằng Thiên Chúa chẳng còn hiện diện trong bức tranh về Cùng tận, nhưng đúng hơn có nghĩa là việc Chúa Kitô đến nói lên chính sự can thiệp của Thiên Chúa trong Ngày Giavê. Chính Vương Quốc Thiên Chúa xuất hiện, quyền lực Thiên Chúa tỏ ra và công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện bởi Con Người. Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.
Mặt khác trong Đn 7, Con Người tượng trưng cho dân thánh. Trái lại, theo Chúa Giêsu giải thích, thì Con người đúng là một cá nhân (chính Chúa Giêsu). Nhưng Người thí mạng sống làm giá chuộc nhiều kẻ (Mt 10,45) và tự đồng hóa với những kẻ bé mọn nhất trong anh em Người (Mt 25,40.45). Thành ra quan niệm này về Con Người phù hợp với các kiểu diễn tả của Gio-an “hãy ở lại trong Ta như Ta trong các ngươi” (Ga 15,4) và “Con trong chúng” (Ga 17,23) cũng như với thành ngữ của Phaolô “trong Chúa Ki-tô”. Vị Thiên Chúa mà không gì dưới trần gian có thể chống lại được, sẽ chẳng phải là một Thiên Chúa trừu tượng, một Thiên Chúa tự tại, nhưng là Đấng hưởng về chúng ta như Ngài đã tự mặc khải trong Con người, Chúa Giêsu Nadarét” (E.Schweiser “Trong Người”, cây cầu đã được bắc qua vực thẳm phân cách nhân loại với Thiên Chúa. Người xuất hiện như là nhân vật chính của cảnh này.
3. Thâu họp những kẻ được chọn (c.27)
Theo ý kiến chúng tôi, chính để tôn trọng chiều hướng và mục đích của diễn từ cánh chung mà Mátcô ở đây không nói đến việc hủy diệt sự ác và cuộc phán xét thế gian, mặc dầu những đoạn Cựu ước được dùng trong cc.24-25 để mô tả cảnh Quang lâm đều nói đến cuộc phán xét của Thiên Chúa. Giọng điệu đầy khuyến khích và an ủi đặc trưng giáo huấn này cũng cho thấy việc thâu họp những kẻ được chọn như là chính mục đích của cuộc Quang lâm.
Trong Cựu ước, chính Thiên Chúa thâu họp họ (Đnl 30,3t; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) và điều khiển các thiên thần Tv 18, 11 ; 104,4; đến 7, 10). Nhưng trong khi theo sự mong chờ của người Do thái, Thiên Chúa sẽ thu họp tại thánh địa mọi người Do thái tha hương, thì ở đây chính các Ki-tô hữu phần tử của Israel mới, thấy mình được thu họp từ muôn nơi để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Và chính Chúa của họ là Con Người, hoàn thành điều đã hứa với họ: “Ta sẽ đến lại mà đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi cũng ở đó (Ga 14,3).
4. Một ngôn ngữ bóng bẩy
Chúng ta đã bảo rằng khi đọc một bản văn như đây, Kitô hữu ngày nay cảm thấy rất lúng lúng. Các tinh tú sẽ rơi rụng thế nào? Con người có thực sự đến với chúng ta trên mây chăng? Phải chăng người sẽ quy tụ các tín hữu từ khắp nơi và từ mọi thời đại?
Tưởng nên nhắc lại rằng vào thời Tân ước, các chủ đề và bản văn Cựu ước, thuộc loại mà đoạn văn của chúng ta trích dẫn, không được giải thích theo bản nghĩa cho bằng theo nghĩa “thần học” và thiêng liêng của chúng. Vì vậy rất có thể là Mátcô và các độc giả đầu tiên của ông đã không hiểu các chi tiết này theo mặt chữ. Thành ra vấn đề thực sự là chọc thủng ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh đó. nhưng chúng ta đừng hy vọng phá ra những ý nghĩa hoàn toàn dứt khoát và rõ ràng; trái lại ta thì có, vì đây là một lãnh vực thuộc trực giác hơn là thuộc ý niệm.
Với tính cách chỉ dẫn, chúng ta đã cố gắng diễn tả trên kia những biến động của vũ trụ trong ngôn ngữ của việc mặc khải Vương Quốc Thiên Chúa và tận sáng tạo: Quang lâm là biểu lộ quyền lực và vinh quang thần linh của Chúa Kitô cho loài người và là sự tháp nhập trong Người” nhũng ai được cứu; việc thâu họp các kẻ được chọn là sự hiệp thông tràn đầy là vĩnh cứu với Thiên Chúa “trong Chúa Ki-tô”.
II. KHI NÀO? (13,28-32)
Trong câu hỏi của bốn môn đồ dẫn nhập cho diễn từ này: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy sẽ xảy ra và sẽ là điềm báo tất cả các điều ấy sắp hoàn tất”. (c.4), tiếng “tất cả các điều ấy” trước tiên chỉ ngày tàn của Đền thờ là Chúa Giêsu đã loan báo (c.2), nhưng cũng quy về Thế mạt là cuộc Quang lâm, như chính nội dung của diễn từ và âm vang của Đn 12,65 trong câu hỏi biểu lộ. Trong kết cấu của Mátcô rõ ràng là cc.28-32 tương ứng với câu hỏi đầu tiên ấy. Nhưng chúng ta chỉ nên chú ý đến cách chọn lựa các từ ngữ, đặc biệt nơi c.30 (“cho đến khi mọi điều ấy xảy tới”).
Chúng ta sẽ khảo sát một cách riêng rẽ dụ ngôn cây vả (cc 28-29) và ba lời tuyên phán tiếp theo sau (cc.30.31.32). Tuy nhiên, hãy lưu ý kỹ sự liên kết trong toàn bộ nhỏ bé này. Câu 30 được nối kết với c.29 bằng thành ngữ “điều ấy xảy đến” là tiếng được dùng trong cả hai câu. Cũng vậy, c.31 lấy lại hai lần động từ “qua đi” của c.30. Cái kiểu lặp lại những hạn từ như thế cho thấy nội dung của các câu đó không phải là không tưởng quan với nhau. Thành thử không nên gán nhiều ý nghĩa quá khác nhau cho tiếng “tất cả điều đó” của c.30 là “điều đó, của c.29 (x. câu 4).
1. Dụ ngôn cây vả (cc.28-29)
Việc lựa chọn hình ảnh dùng trong dụ ngôn nhỏ bé này không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ngay từ Cựu ước, các hình ảnh mùa hè và mùa gặt đã được liên kết với lời loan báo sự tận cùng, sự giải thoát chung cục và sự phán xét (vd Ge 4,17;
Am 8,1; Is 28,4; Gr 8,20). Cái xảy đến nơi cây vả từ mùa xuân được so sánh vai những dấu chỉ liệt kê trong phần dầu của diễn từ. Khi các tín hữu thấy xuất hiện những ngôn sứ giả, nạn đói sự ghê tởm hoang tàn v.v… thì họ phải biết rằng Tận cùng gần bên.
Câu 29 không nói là biến cố nhưng là Con người đang ở bên. Thật vậy, bản văn phải được dịch sát chữ như thế này “Hãy biết rằng Người đã kề bên cửa”. Hình ảnh Chúa đứng bên cửa như thế cũng gặp lại trong Ge 5,9 và Kh 3,20, chỗ bàn về cuộc Quang lâm.
Như đã nói, có thể tin rằng bản văn chúng ta đã được chính thánh sử biên soạn. Thành thử chính ông giải thích ở ở đây truyền thống ông đã nhận lãnh, chính ông liên kết định mệnh của Giêrusalem (cc. 1 .2. 14tt) với Tận cùng, chính ông đặt trên miệng các sứ đồ câu hỏi “khi nào” và trên miệng Chúa Giêsu lời giải đáp. Nhưng để làm thế, ông đã sử dụng các chất liệu do truyền thống cung cấp cho. Ông đã muốn nói với các Kitô hữu thời ông rằng: hãy phòng bị, vì ngay từ bây giờ chúng ta đã cảm nhận được các dấu chỉ cho thấy Chúa đang kề bên”. Do đấy, chúng ta đương nhiên phải tự hỏi mình một lần nữa: Vậy đâu là tương quan giữa Thầy và thánh sử? Chúa Giêsu đã muốn nói gì? Chúng ta sẽ trở lại những vấn đề này xa hơn.
2. Ba lời tuyên phán về vấn đề “Khi nào” (cc.30-32)
a) Lời tuyên phán về “thế hệ này” (c.30). Câu này đã gây nên nhiều cuộc tranh luận gây cấn và phức tạp giữa các nhà chú giải. Người ta đã bàn cãi về nguồn gốc của nó: Nó phát xuất từ thánh sử, từ cộng đoàn sơ khai hay từ Chúa Giêsu? Nếu là từ Chúa Giêsu thì đâu là bối cảnh nguyên thủy của nó? Theo ý kiến chúng tôi, chính thánh sử đã soạn thảo câu này trong hoàn cảnh ông đang trước tác, nhưng bằng cách dùng nhiều truyền thống mà nguồn gốc lên đến Chúa Giêsu (x Mc 9, 1; Mt 23,36).
Tuy nhiên, người ta đã đặc biệt tranh luận về nội dung của câu nói. Tiếng “tất cả điều ấy” có nghĩa là gì? và chữ “thế hệ này” phải giải thích ra sao? chúng tôi thấy hình như phải chấp nhận rằng tiếng “‘tất cả điều ấy”: chỉ sự kiện Đền thờ bị phá hủy và những tai họa sẽ đi trước đó, cũng như chỉ cùng tận, nếu người ta lưu ý đến câu dẫn nhập của diễn từ (cc.2-4) và chính diễn từ. Thánh sử công bố: trong “thế hệ này”, tất cả điều ấy sẽ xảy ra.
Một vài nhà chú giải đã bênh vực ý kiến cho rằng từ ngữ “thế hệ này” chỉ mang một ý nghĩa thuần túy định hình (“thế hệ xấu xa và bất trung”: Mt 12,38.45; 17,17; Mc 8,38; Lc 9,41 ; Cv.2,40; Pl 2, 15). Nhưng nếu “thế hệ này” hàm chứa một nghĩa xấu xét như vì gồm những người Do thái không tin vào Chúa Kitô hay vào sứ điệp của Người, thì xem ra ở đây cần phải cho nó một ý nghĩa thời gian hơn: chính là thế hệ đương thời với thánh sử.
Khi đọc chương Mc đây, các Kitô hữu của Giáo Hội sơ khai có thể cảm thấy mình đương thời với “thế hệ này” và như thế cảm thấy được kiên vững trong sự chờ mong Chúa đến. Nhưng cùng lúc, bản văn dừng lại ở hạn từ khá mơ hồ “thế hệ”, một ý niệm được liên kết với Do thái giáo mà người ta nghĩ là bị phán xét trong việc Đền thờ bị phá hủy. Như thế, câu 30 vừa cổ vũ nỗi mong chờ cánh chung, nhưng đồng thời cũng kiềm giữ nỗi mong chờ đó, vì ngăn cấm mọi toan tính xác định rõ rệt ngày giờ Cùng tận. Chúng ta sẽ gặp lại cùng nhị tính này nơi câu 32.
b) Sự chắc chắn của những lời Chúa Giêsu (c.31). Để nhấn mạnh tầm quan trọng của toàn thể bản văn, thánh sử chèn vào đây một lời tuyên phán lấy lại từ truyền thống, theo đó Chúa Giêsu mặc cho những lời nói của Ngài cùng một uy tín như uy tín mà Cựu ước đã mặc cho các lời của Giavê (Is 40,8; 51,6; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
Thiên Chúa đã dùng lời Ngài để tạo dựng trời đất, nghĩa là toàn thể vũ trụ (St 1; Tv 33,6; Ga 1,3…) và nhờ chính lời đó mà mang và nâng đỡ vũ trụ. Đối với các tác giả Thánh Kinh, trong thế gian này không có gì vững chắc hơn các nền móng của trái đất (Tv 93,1; 104,5). Nếu có một vài kẻ trong số họ tiên báo sự rung chuyển và tan biến của chúng (Tv 102,27; Is 24, l8tt), thì họ cũng xác quyết rằng lời Thiên Chúa luôn vững bền qua tất cả. Cũng vậy, bản văn chúng ta loan báo sự tan biến của vũ trụ (cc.24-25) nhưng các lời của Chúa tỏ ra càng vững bền hơn (c.31); vì chúng đặt nền tảng trên uy quyền không hề lay chuyển của Thiên Chúa.
Qua sự xếp đặt bản văn của ông, thánh sử nhấn mạnh rằng sự chắc chắn ấy gắn chặt với giáo huấn của Chúa Giêsu về Cùng tận, với lời Người tuyên bố Cùng tận này gần bên (c 30) và với lời tuyên phán của c.32, lời bảo rằng chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ chính xác của Cùng tận.
c) “Chẳng ai biết được… trừ phi là Cha” (c.32). Trong kết cấu của Mátcô, câu này đóng một vai trò rõ rệt. Vì một trong những vấn đề mà diễn từ chúng ta khơi lên là câu hỏi “khi nào”. Khi nào Cùng tận sẽ đến? Khi nào sự giải thoát sẽ hiện ra? Bao giờ Chúa sẽ trở lại Những ai muốn tìm biết chính xác hơn giờ giấc của những chuyện này thì sẽ không được thỏa mãn, vì ở đây từ chối mọi xác định về vấn đề đó. Mách bảo với họ: chính Chúa Giê-su cũng không biết cả ngày lẫn giờ, thế mà anh em lại muốn tính toán trước sao.
Cần lưu ý một vài chi tiết trong câu này. các thành ngữ “giờ” và “ngày ấy” song song với nhau, nghĩa là ước chừng có cùng một ý nghĩa (x. Mt 24, 50 ; 25, 13). “Ngày ấy” là tiếng chuyển vị của hạn từ “Ngày Giavê” (vd Dcr 14,6; Is 2,1 1-17), mà nay trở nên “Ngày của Con Người” (x . 2Tx 1 , 10). Giờ giấc của Ngày này, các thiên thần cũng không biết. Chắc hẳn người ta vẫn công nhận rằng các vị này làm nên hội đồng của Đấng Tối Cao, và như danh nghĩa đó mà được hưởng một nhận thức đặc biệt về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng Do thái giáo và các tác giả Kitô giáo đương thời nghĩ rằng dẫu sao Thiên Chúa cũng dành riêng cho Ngài một vài bí mật quan trọng (x. Ep 3,10; 1Pr 1,12). Theo bản văn chúng la, ngày giờ của Cùng tận thuộc về loại bí ẩn đó.
Tuy nhiên câu 32 này đã tỏ ra là một crux intèrpretum thật sự, vì nó bảo Con của Thiên Chúa cũng không hay biết ngày giờ Cùng tận: ngày giờ này vẫn là bí mật của Chúa Cha. Mâu thuẫn xem ra hiển nhiên giữa bản văn chúng ta với Mt 11,27 trong đó Chúa Giêsu xác quyết rằng: “Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta… không ai biết được Cha trừ phi có Con”. Vậy thì Cha đã không trao phó cho Người tất cả sao? người ta thường giải quyết khó khăn Kitô học này cách như sau: Mt 11 nói đến sứ mệnh mặc khải của Chúa Giêsu nhằm cứu độ thế gian: trong mục đích này, Người đã nhận nơi Thiên Chúa trọn vẹn uy quyền và toàn thể mặc khải cần thiết. “Nhưng Người đã có thể vô tri một vài điểm trong chương trình hậu lai của Thiên Chúa, như Người quả quyết ở đây một cách rõ rệt” (P. Benoi). Sự vô tận này phải dược hiểu trong bối cảnh Nhập thể, mầu nhiệm mà vì đó Chúa Giêsu đã khước từ nhiều đặc quyền thần linh của Người (x. 2Cr 8, 9 ; Pl 2, 6tt) hầu chia sẻ phận con người một cách sâu xa hơn.
3. Giáo huấn của Chúa Giêsu hay của thánh sử?
Chúng ta đã hơn một lần phân biệt truyền thống của Chúa Giêsu và bản soạn thảo mới của thánh sử. Tựu trung chúng ta nên tự hỏi: đâu là tương quan giữa giáo huấn Chúa Giêsu và lời giải thích của thánh sử phải chăng thánh sử đã bóp méo sứ điệp của Chúa Giêsu?
Trước tiên hãy lưu ý rằng các nhà chú giải thường gặp rất nhiều khó khăn khi muốn xác quyết chắc chắn về lịch sử tính của những lời Chúa Giêsu nói: các chất liệu, trong hình thức thấu đến chúng ta, không cho phép đưa ra nhiều các quyết vững chãi.
Như đã nói, theo thiển ý chúng tôi, diễn từ cánh chung đặt nền tảng trên một giáo huấn của Chúa Giêsu mà các học giả của Giáo Hội sơ khai và Mátcô đã giải thích, sửa chữa cùng thích ứng với các nhu cầu của Giáo Hội (Nhưng nhiều nhà chú giải, trong đó có cả công giáo, nghĩ rằng phần lớn diễn từ không hề phát xuất từ Chúa Giêsu). Nền tảng này của diễn từ, bắt nguồn từ Chúa Giêsu, gồm có nhiều lời tiên tri về các mối ưu phiền và bách hại, về chuyện phạm thánh cũng như về Quang lâm. Giáo huấn này mỗi lần cũng bao gồm nhiều lời cảnh giác và khuyến khích nhằm chuẩn bị tín hữu đối đầu với những nguy hiểm sẽ đe dọa họ trong trận chiến cuối cùng và để củng cố họ cho cái lúc nhà các mãnh lực Satan tấn công Vương Quốc Thiên Chúa một cách dữ đội hơn bao giờ hết.
Thành ra cái “nền tảng” này đã được các học giả của Giáo Hội, và nhất là Mátcô sửa đổi (chúng tôi nghĩ rằng Phao- lô cũng đã dùng các truyền thống này trong 1Tx 4,13-5,4 và 2Tx 2,1-17). Chúng ta có thể quan niệm các lối tái giải thích và thích ứng truyền thống này như sau. Trong Giáo Hội sơ khai, người ta đã tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mặc khải thần linh và chung quyết, đến nỗi giáo huấn của Người và những truyền thống của Người đầy sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà một số người, được ban Thần khí khôn ngoan, cũng có thể tìm ra trong đó nhiều ý nghĩa mới áp dụng được cho nhiều vấn đề hiệu tại.
Chúng tôi thấy một lối giải thích như thế đã hướng dẫn bản văn chúng ta đến chỗ phối hợp hai yếu tố: sự hủy diệt của Đền thờ Giêrusalem và cánh chung. Chắc chắn Chúa Giêsu đã tiên báo sự hủy diệt này, và đã giải thích nó như là một sự phán xét của Thiên Chúa. Nhưng dường như việc phối hợp minh nhiên với cánh chung là công trình của thánh sử (hay có thể là của một truyền thống từ trước). Ông đã muốn áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu cho những người đương thời để khuyến cáo và chuẩn bị họ theo cách của Chúa Giêsu. Ông đã thấy hai mối nguy hiểm. Thật vậy, một đàng ông xem ra ngỏ lời với những hạng người, vì nản lòng mong đợi, không còn sống trong viễn cảnh cánh chung nữa và có lẽ quá chìu theo thế gian. Đàng khác, ông chống đối những kẻ xem ra tưởng rằng Cùng tận-đã đến. Đối với hạng thứ nhất, ông bảo: “Hãy tỉnh thức, hãy coi chừng! Vì các biến cố và các thái độ đương thời cho thấy là các biến chuyển cánh chung đang xảy tới”. Nhưng ông cũng bảo hạng người thứ hai: “Chưa đến Cùng tận đâu Chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ của nó”.
Thành thử ta dám bảo rằng bài Tin Mừng của chúng ta minh họa rất đúng cách thức mà Mc đã dùng để giải thích giáo huấn của Chúa Giêsu “theo hoàn cảnh của các Giáo Hội”
(Vat. II, Verbum Dei, số 19).
4. Phải chăng Mc đã lầm lẫn
Trên đây chúng ta đã giả thiết là thánh sử đã đưa về cùng tận nhiều thái độ và nhiều biến cố đương thời. Thế mà Giêrusalem đã bị chiếm năm 70 và trong thực tế, cùng tận vẫn chưa xảy đến? Vậy phải chăng nên bản rằng Mc đã thực sự lầm lẫn? hình như là thế, vì qua lời giải thích và lối trình bày của ông, ông đã xác quyết là Cùng tận của thế gian đã gần kề rồi.
Tuy nhiên sự việc không đơn giản như mới thoạt nhìn đâu, chúng ta đã nhận xét rằng chương này dùng một ngôn ngữ bóng bẩy mà ý nghĩa thường ít chính xác. Vì thế Mc 13. Cũng như nhiều bản văn Khải huyền khác củal thời Tân ước có thể mặc nhiều ý nghĩa.
Ngôn ngữ biểu tượng này lưu ý đến tính chất của một thời đại hơn là sự kéo đài của thời đại đó. Mátcô đã muốn đặc trưng thời ông sống như là thời cánh chung: Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy là một dấu chỉ, các cuộc bách hại là một dấu chỉ khác của thời này. Vào thời đó, ông nghĩ là nên khuyến khích các cá nhân: “Anh em đang sống ở biên giới của vĩnh cửu. Đừng quên điều này, mặc dầu đang bị áp bức hay bị cám dỗ đồng hóa với thế gian. Hãy biết rằng anh em chẳng có an ninh ở trần thế và cũng chẳng chắc chắn được về ngày giờ mà anh em sẽ đối chất dứt khoát với vĩuh cửu”. Những lời khuyến khích này, vốn ngỏ cho Ki-tô hữu xưa, vẫn luôn thích thời trong Giáo Hội.
Nhưng sứ điệp của bài Tin Mừng chúng ta không chỉ liên hệ tới cánh chung cá nhân đâu; nó cũng nhắm đến các đặc tính chung của lịch sử nhân loại. Có thể nói lịch sử này luôn mở ra vĩnh cửu, mở ra Thiên Chúa, Chúa của lịch sử. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến nó. Tuy nhiên, lịch sử không phải là vĩnh cửu, và so sánh với cùng đích của nó, nó chỉ mang một tầm quan trọng tương đối thôi. Ngày mà nó đạt tới chung cuộc, đích điểm của nó, lịch sử này sẽ gặp gỡ cách dứt khoát con người, Đấng hiện đã sống trong nó.
Lars Hartman, Assemblées du Seigneur 64, tr.47~57.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô đã không bóp méo những vấn đề đích thực. Người biết rằng các nỗi bận tâm nhân loại về định mệnh riêng của chúng ta cũng như định mệnh của thế giới, trước hết và trên hết nhắm vào chuyện (khi nào?” và “ra sao?”. Người không khinh bỉ các câu hỏi này, nhưng kêu mời chúng ta hãy chú tâm vào điển cốt yếu. Khi đề cập đến cái chết cá nhân, Người sẽ nói ở chỗ khác: “đối với kẻ sẵn sàng, thì đó luôn luôn là giây phút thuận tiện”. Cái chết, xét như biến cố. Được kẻ này người nọ sống cách khác nhau, những “người tôi tớ tốt lành, trung thực và khôn ngoan không sợ sự trở về của Chủ…”
2. Khi nói về tận cùng của thế giới vũ trụ, Chúa Ki-tô đề cập đến vấn đề trong tất cả chiều sâu của nó? Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái chúng ta làm? Những cái này dẫn chúng ta tới đâu? Đâu là mục đích, cứu cánh của thế giới “Cùng đích” của thế giới là việc quy tụ tất cả nhân loại làm một. Trong mức độ có tình yêu giữa mọi người, thì nỗi sợ hãi bị xua đuổi, và đó luôn luôn là giây phút tận thế!
3. Chúng ta đang ở trong cái “đã” và “chưa”. Chúa Ki-tô đã đến quy tụ mọi người. Giáo Hội là dấu chỉ của sự tập hợp đó Vương Quốc đang xây dựng. Người sẽ trở lại để đưa công cuộc đã khởi sự đến chỗ hoàn tất. Người đã ban cho chúng ta sự sống và, như sự sống lại của Người, ban cho chúng ta, trong hy vọng, một sự sống triển nở hoàn toàn mà trong đó mọi giới hạn sau cùng sẽ bị hủy bỏ.
4. Người đã quy tụ nhân loại. Người để cho chúng ta thoáng thấy cuộc tập họp vĩ đại mà trong đó sự duy nhất, rất khó xây dựng, sau cùng sẽ được thực hiện hoàn toàn. Khi chúng ta yêu trong sự thật, thì vương Quốc đã phần nào có đó “Nó” đang ở gần ý nghĩa sau cùng của cuộc đời tôi, ý nghĩa cuối cùng của vũ trụ, nằm trong niềm tin vào Chúa Kitô Người nói chỗ khác: “Ta là sự thật và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ Sống”. Ở đây người nhấn mạnh: “Tất cả sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ chẳng qua đi”.
5. Chúng ta có chấp nhận tin tưởng vào Người không Chúng ta có chấp nhận theo Người cho đến cùng, nghĩa là đến chỗ tự hiến hoàn toàn và cách quảng đại không? Đoạn Tin Mừng này, ngỏ cho các môn đồ, không xa đoạn nói về việc bắt giết Chúa Giêsu mấy. Nó có mục đích khơi lại đức tin các ông nhưng cũng là để chất vấn các ông.
6. Và nó cũng chất vấn chúng ta hôm nay nữa. Nhìn các dấu chỉ thời đại, không phải là nhận ra trong vũ trụ, trong lịch sử loài người các lời kêu gọi hướng về vĩnh cửu ư. Người ta có thể nhìn các tai họa và đọc chúng như là những lời tiên báo một thế giới có thể bị hủy diệt. Nhưng đó chẳng phải là một tôn giáo của sợ hãi ư? Tại sao không nhìn chúng như là cái chết cần thiết để đưa vào một sự sống viên mãn?
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
CON NGƯỜI SẼ ĐẾN (13,24-37)
“Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn…” (c.24a), những chữ này đánh dấu sự liên tục cũng như đứt đoạn với những điều đã nói trước đó. Từ trước tới đây, diễn từ của Chúa Giêsu chỉ chú tâm nhiều nhất đến các dấu chỉ phải xảy tới “trước khi” tận thế. Ngài lưu ý đến “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại” sẽ đến. Và nếu muốn, ta có thể gọi nó là “phản Kitô” (13,14-24). Bây giờ vấn đề là: điều gì sẽ xảy ra “sau” các biến cố đó? Từ ngữ “bấy giờ”, dù mơ hồ, vẫn chỉ về những ngày giờ cuối hết: thời giờ đã hết rồi. Ta cũng không ngỡ ngàng khi thấy thời ấy khởi đầu bằng một loại tai họa (c. 24b-25). Đó chính là một cuộc đảo lộn mang tính vũ trụ. Mặt trăng và mặt trời tắt lụi đi. Tinh tú quay cuồng rối loạn. Nhưng độc giả ngày nay phải đặt mình vào tâm trạng người Do Thái sống ở thế kỷ 1 mới hiểu thấu đáo được các điều ấy.
Vào thời đó, trong các vững bền đề cập đến tận thế, sự hỗn loạn như thế trong thiên nhiên không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đấy là thứ ngôn ngữ truyền thống thường dùng để loan báo rằng Con Thiên Chúa sẽ can thiệp, Ngài sẽ chiến thắng các thế lực sự dữ (x. Is 13,10; 34,4). Thực vậy, chớ quên rằng đối với các dân tộc cổ đại Đông phương (trừ dân Israel) thì tinh tú là các vị thần chủ chốt của vũ trụ. Do đó nếu cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng tắt lụi đi, các tinh tú bị sa xuống có nghĩa là xác nhận sự chiến thắng của Thiên Chúa độc tôn đối với các ngẫu thần ngoại giáo. Thế giới cũ kỹ phải biến đi hầu nhường chỗ cho thế giới mới. Tin Mừng loan báo việc “Con Người” đến trong vinh quang, sau khi thế giới tội lỗi đã bị triệt hạ. Hình ảnh này được lấy từ sách tiên tri Daniel, ở đó ta thấy hình ảnh bí ẩn của “Con Người” –một người-vinh quang tiến gần Thiên Chúa (Đnl 7,13-14). Đặc tính huyền nhiệm của vị này khiến ta phải nghĩ đến lối nhìn theo sách khải huyền. “Con Người” được mây trời che phủ và xuất hiện trong khung cảnh thiên giới. Thiên Chúa đã ban cho Ngài một uy quyền tối thượng hầu đánh bại hoàn toàn các thế lực gian tà. Ở bước ngoặt thời đại chúng ta, hình ảnh con người được phác họa thành Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã giao phó nhiệm vụ phải thiết lập Vương Quốc của Ngài trên thế gian này. Ta thấy rằng Chúa Giêsu đã tự nhận tước hiệu này hơn mọi tước hiệu khác (2, 10.28; 8,31; 9,31; 10,33,45). Ở đây Ngài công bố việc Ngài sẽ đến trong khải hoàn để xét xử và cứu chuộc vào thời cuối cùng. Trong thực tế, hành động cứu độ của Ngài được vạch ra tức khắc (c. 27). Sự cứu chuộc thường được coi là sự quy tụ các tín hữu trên toàn trên toàn thế giới quanh Đấng Mêsia quang vinh. Đó chính là sự thực hiện cách triệt để lời đã hứa với dân Israel trong Cựu ước, sau khi họ bị phân tán đi khắp nơi (x, Dt 30,3-5; Dcr 2,10-17).
Lời công bố Con Người sẽ đến trong khải hoàn để cứu chuộc vũ trụ chính là một nốt nhạc chủ đạo của bài ca bắt đầu từ câu 5 chương 13. Cho dù các tín hữu có chịu thử thách nặng nề tới đâu chăng nữa – kể cả bị đem ra trước Tòa án Tối cao (14-20) – thì tất cả những điều tệ hại đó đều phải quy hướng hoàn toàn về mục đích hạnh phúc này là: Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang để cứu độ loài người. Nhưng “khi nào” thì việc đó xảy ra? Câu hỏi này vẫn hằng ám ảnh mọi người. Và đây là lần đầu tiên các bài diễn từ Chúa mới trả lời họ (c. 28-37).
Dụ ngôn ngắn gọn về cây vả nói lên nhiều điều (c. 28). Cây vả này ra trái trễ (11,13). Nhưng không ai có thể lầm nó cả, chồi lá xuất hiện là dấu chỉ chắc chắn rằng mùa hè đã đến gần. Mùa hè là mùa nóng bức và là mùa hoa trái. Dụ ngôn này như thế là quá rõ ràng: thời gian tiếp tục trôi đi, tiến về phía chung cuộc. Nhưng thật khó mà áp dụng (c. 29). Những chữ “những điều đó” rất mơ hồ. Trong tiếng Hy Lạp, chúng ở hình thức số nhiều. Có thể nó thay cho “những biến cố” vừa kể đến trên đây. Hoặc là về sự phá hủy đền thờ? Hoặc những đảo lộn khác nhau mà cốt đinh là sự bắt bớ khốc liệt? (c. 14-23). Tất cả những biến cố đó đều có thể so sánh được với sự đâm chồi của cây và trong mùa xuân. Dưới vẻ lộn xộn bề ngoài, chúng hẳn loan báo một thời kỳ mới.
Một lần nữa, ta thấy văn bản Phúc Âm này gạt bỏ lối chú giải “về các tai họa” dành cho Tin Mừng loan báo. Con Người đang đến, sự cứu độ của Ngài đã “gần kề, trong tầm tay”. Ngay đến Chúa Giêsu cũng trịnh trọng xác nhận điều này (c. 30). Sự gần kề của ơn cứu độ còn được quả quyết chính xác hơn: sẽ xảy ra ngay trong “thế hệ này” đã qua rồi mà vẫn chưa có gì xảy đến. Người ta cũng đã thấy có một lần khác (x. 9,1). Chúa Giêsu nói như thể là thời buổi tận cùng sắp xảy đến tới nơi rồi. Có lẽ Chúa Giêsu nói thêm công thức khái quát này để xua tan sự mong chờ đó (c. 31).
Ý niệm về trời đất phải qua đi là một ý niệm chung cho mọi văn bản nói về “tận thế” (x. Kh 21,1). Nhưng niềm mong chờ một thế giới mới, Nước Chúa, được dựa trên lời Chúa Giêsu: ở đây Ngài đã nói nhân danh uy quyền của Thiên Chúa chí thánh (Is 40,8). Tuy có xác định thời điểm cận kề của việc kết thúc lịch sử nhưng Chúa Giêsu không bỏ quên thời điểm lúc bấy giờ (c. 32). Luca đã bỏ câu gây nhiều rắc rối này đi, còn Mathêu lại xóa đi. Chỉ riêng Maccô giữ lại. Nó nói rõ ràng không ai biết chính xác được ngày giờ tận thế. Ngay cả “Chúa Con” cũng không biết. Chính sự “bất tri” của “Con” làm các nhà thần học cũng phải lúng túng. Đó là xét về mặt nhân tính của Chúa Giêsu. Theo Maccô thì đó chính là lý lẽ hỗ trợ cho việc chấm dứt các tính toán vô bổ, các thắc mắc vô ích về “thời điểm tận thế”. Ngày giờ tận thế mãi mãi là một bí mật tuyệt đối của Chúa Cha, còn người phàm trần không thể biết trước được.
Đó chính là lý do Chúa Giêsu kêu gọi, phải tỉnh thức (c. 33). Không nên vì sự trễ nải mà bỏ qua việc này. Trái lại càng phải tỉnh táo hơn. Kiểu nói “coi chừng” trong tiếng Hy Lạp mang một ý nghĩa cụ thể hơn: “Hãy mở mắt ra” (13,5.9.23). Chính vì không có sự xác định chính xác thời điểm mà ta càng phải tỉnh thức hơn. Chúa Giêsu kể thêm một dụ ngôn ngắn để nói rõ hơn về việc tỉnh thức ấy (c. 34). Lối so sánh này của Maccô rất gần gũi với Luca (12,36-40). “Hãy bắt chước những tôi tớ đợi chờ chủ đi dự tiệc cưới về hầu ra mở cửa ngay khi nghe tiếng gõ cửa… bởi vì Con Người sẽ đến vào ngày giờ không ngờ”. Còn Tin Mừng Maccô thì lại nói ông chủ trẩy đi xa (chắc là đi ra nước ngoài). Người ta hiểu trước rằng ông sẽ vắng mặt lâu dài. Nhưng không nên lơ là tỉnh thức. Bởi lẽ ông có thể trở về thình lình, không báo trước. Dụ ngôn vừa mới được kể sơ sơ, lại bị ngắt quãng một lúc để nhắn nhủ độc giả (c. 35-36). Phải tỉnh thức luôn, bởi vì ông chủ sẽ trở về vào lúc không ngờ đến. Maccô nhắc đến bốn thời điểm: chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, tảng sáng. Như thế đêm đó người ta chẳng chợp mắt được tí nào. Người ta phải thức trắng đêm không phải để chờ đợi một biến cố đơn giản, mà chờ đợi một Đấng nào đó, kể từ 13,24-25, Đấng ấy ám chỉ cho chính Chúa Giêsu, Ngài là Con Người chắc chắn sẽ quang lâm.
Thánh sử kết luận bằng cách trích dẫn lời khuyến dụ của Chúa Giêsu “Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải canh thức!” (c. 37). Diễn từ trước đó là dành riêng cho các môn đệ (13,3-4), Ngài muốn thông tri cho một ít người thôi. Đó là cách thức hoàn toàn mang tính “cánh chung”, được mã hóa và cố tình sử dụng kiểu nói bí ẩn. Chỉ những người bị bắt bớ mới hiểu được, còn kẻ ra tay áp bức thì không! Nhưng ở đây, lúc kết thúc, lời khẩn cấp kêu gọi phải tỉnh thức lại nói với “tất cả mọi người”, bởi vì nó liên quan đến nhiều thế hệ sau nữa.
Đã đến lúc phải kết thúc chương 13 của Maccô. Khi nhìn lại một lượt, ta sẽ thấy rõ hơn những điểm chính trong bài diễn từ của Chúa Giêsu. Trong thực tế, hầu như ta không thể nào không lẫn lộn giữa lời do Chúa Giêsu đã nói với những suy tư nảy sinh trong cộng đoàn Kitô hữu của Maccô. Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ về sự phá hủy đền thờ: khi nào xảy ra chuyện đó? Câu trả lời vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Tóm lại, người ta không còn xem Đền thờ là nơi quy tụ nữa. Nó sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền thờ, Ngài sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự Ác: Ngài là Chúa Kitô Quang Vinh Phục SInh.
Cách nhìn đầy hạnh phúc này không cho phép người ta loại đi được mối ám ảnh về ngày “tận thế”, là một đại họa cho vũ trụ, cho toàn thể thế giới. Bí nhiệm của sự dữ và những tai họa xấu xa do nó đem lại đã là một phần không thể tách khỏi lịch sử. Nếu đọc “các dấu chỉ thời đại” và xem chúng là những biến cố “tiên báo” cho ngày tận thế thì thật là vô bổ. Rất nhiều người đã phạm sai lầm này trong những lúc lịch sử khủng hoảng trầm trọng (sự hoảng sợ năm 1000 chẳng hạn). Và rất có thể nó lại sắp sửa xảy ra khi nhân loại đang tiến gần đến thiên niên kỷ thứ 3 này. Tuy nhiên ta thấy đó, việc Chúa Kitô quang lâm là hoàn toàn nằm trong bàn tay Thiên Chúa, chỉ phụ thuộc độc nhất vào quyền tự do của Ngài. Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối của lịch sử. Chỉ duy một mình Ngài biết được ngày giờ.
Toàn bộ diễn từ về ngày tận thế nói lên một cách dứt khoát bản chất lạc quan của nó. Dĩ nhiên có những thời lỳ sự Ác thắng thế. Nhưng nó không thể tạo mầm mống khai sinh ra một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Chúa Kitô và nhờ Thánh Thần ban cho, một mầm mống mãnh liệt sẽ khai sinh một vũ trụ mới. Ta cũng đừng quên rằng kiểu văn chương “cánh chung” bao giờ cũng kể về các tai họa u ám chồng chất để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước gì độc giả đừng bối rối khi đọc thấy sự Ác lan tràn dữ dội. Mà nên nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang triển nở.
(Chú giải của Noel Quesson)
Chúng ta sắp kết thúc năm Phụng vụ. Từng Chúa nhật một ta đã đi theo Đức Giêsu, dựa theo Tin Mừng Thánh Máccô. Chúa đã nói qua dụ ngôn, đã chữa lành nhiều người bệnh, giải thoát những người bị quy ám, trả lời những kinh sư, huấn luyện các môn đệ. Chúng ta có thể có cảm thông biết rõ người. Nhưng chỉ hôm nay, Người mới mạc khải cho ta biết tất cả tầm vóc con người của Chúa. Chỉ còn vài ngày nữa là Người sẽ chết. Người ra khỏi Đền Thánh Giêrusalem, để không bao giờ trở lại đó nữa. Một trong các môn đệ của Người đã lưu ý Người về vẻ đẹp của tòa nhà này, “Thưa Thầy, xin Thầy nhìn xem, những phiến đá đẹp làm sao! Kiến trúc lộng lẫy biết bao” (Mc 13, 1). Để trả lời Chúa chỉ nói; Tất cả sẽ bị phá hủy sẽ không còn viên đá nào trên viên đá nào “. Lúc bấy giờ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi Người khi nào thì chuyện ấy sẽ xảy đến. Để trả lời câu hỏi đó, Đức Giêsu, đã công bố một diễn từ cuối cùng rất quan trọng thường gọi là diễn từ cánh chung” hay là diễn từ về thời gian cuối cùng”
Bài đọc hôm nay là phần giữa của diễn từ đó.
Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn.
Phải đọc phần trước để hiểu chữ “tai họa”. Trước khi Đền Thánh bị phá hủy, Đức Giêsu đã tiên báo ba tai họa như những điềm báo trước.
1. Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6).
2. Những tai ương, chiến tranh động đất, đói kém (Mc 13,7-8).
3. Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13). Lúc bấy giờ sẽ xảy ra tai họa ghê gớm là sự tàn phá Đền Thánh, nỗi đau buồn kinh khủng (Mc 13,14) đã được các ngôn sứ báo trước (Đn 9,27). Theo lịch sử chúng ta biết rằng Đền Thánh đã bị tục hóa và phá hủy, bởi những đoàn quân ngoại đạo của Titus, vào năm 70. Chúng ta đừng quên rằng Máccô đã viết trình thuật này gần thời gian đó, lúc mà mọi sự đều có vẻ sụp đổ. Sự bách hại của Hoàng đế Nêron suýt làm tan biến Giáo Hội phôi thai: Vị giáo hoàng đầu tiên, tông đồ Phêrô đã bị đóng đinh đầu ngược xuống đất… Phao lô cũng bị chặt đầu… Các Kitô hữu ở Rôma đã bị thiêu sống trong vườn Vatican. Và cũng chính đế quốc La Mã phá hủy nơi linh thiêng Thiên Chúa luôn hiện diện, đó là Đền Thánh Giêrusalem. Sự lo âu của các tín hữu lên đến tột độ: Đức tin của chúng ta không phải là vô ích sao? Những lời hứa của Thiên Chúa phải chăng chỉ là một giấc mộng đẹp những không hiện thực? Có phải đó là nước Thiên Chúa không?
Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng các ngôi sao từ trời sa xuống và các tinh tứ bầu trời bị lay chuyển.
Đức Giêsu dùng kiểu nói “khải huyền” theo truyền thống, những hình ảnh phóng đại được khuôn đúc sắn, kiểu nói biểu tượng rất thông dụng trong Kinh thánh (Is 13,10 – 34,4; Ge 2,10 – 4,15; Ed 32,1- v.v…).
Trong những khải huyền của thời đó, những hình ảnh còn mạnh bạo hơn: “Mặt trời sẽ chiếu sáng ban đêm, mặt trăng chiếu sáng ban ngày, máu sẽ từ cây cối chảy ra và những hòn đá sẽ kêu la” (Esdras 5,4).
Ta không nên hiểu những miêu tả trên theo nghĩa vật chất, chúng chỉ muốn nói lên một thực trạng không thể tả được. Đó là sự trở về với tình trạng “hỗn mang” nguyên thủy: Sẽ có một sáng’ tạo mới, một khai sinh mới, một thế giới mới. “Thế giới cũ đã qua đi, và một thế giới mới đã được hình thành”. Thánh Phaolô đã nói thế (2 Cr 5, 17).
Quả thực, những hình ảnh trên rất ý nghĩa. Con người luôn có khuynh hướng “tự biến mình thành thượng đế”, và thích dùng những từ vĩ đại: “xây dựng thế giới”, “thống trị vũ trụ chinh phục không gian”… nhưng một ngày nào đó tất cả những gì chúng ta cho là vững chắc sẽ trở nên vô nghĩa. Trước những sự xáo trộn của vũ trụ hay các nền văn minh, chúng ta mới khám phá ra rằng chúng ta là những cá nhân nhỏ tí. Nên chúng ta ngước cao hơn chân trời trái đất chúng ta một chút, chúng ta sẽ trở lại đúng chiều kích của mình. Chúng ta là gì với mặt trời và các tinh tú? Với một vài câu nói, Đức Giêsu đã mở rộng chân trời của chúng ta. Có biết bao điều không tùy thuộc chúng ta, ở ngoài tầm tay chúng ta. Có hàng tỷ mặt trời trên kia, mà ở đó chúng ta đâu có chút quyền lực nào, đang nói cho ta biết sự nhỏ bé của mình. Chỉ có Chúa mới có thể lay chuyển vũ trụ tinh tú! Các bạn cứ thử xem!
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến.
Chưa bao giờ, từ lúc Người sinh ra một cách nghèo nàn trong chuồng bò ở Bê lem cho đến hôm nay, Đức Giêsu đã nói về Người như thế. Bỗng nhiên, Người trở nên cao cả vĩ đại, vinh hiển, từ trên cõi trời! Người tự nói Người là thẩm phán ngày cánh chung, mà vai trò này chỉ dành cho Thiên Chúa. Rõ ràng là thế, Người sẽ lặp lại điều này trước Thượng Hội đồng, vài ngày nứa (Mc 14,62).
Cho đến đây, Người đã làm chúng ta quen dần với tước vị Con Người nhưng luôn luôn trong bối cảnh loan báo cái chết của Người (Mc 8,31 – 9,31 – 10,33-35). Qua tước vị này, Đức Giêsu ứng dụng cho mình lời sấm nổi tiếng của Đanien (7,13-14). Đây là tác phẩm của một người “kháng chiến” dưới thời bách hại của Vua Antiochus 4 Ephiphane sách này khẳng định sự chiến thắng của Thiên Chúa, nhờ một “con người từ trên mây trời xuống”. Vâng những lực lượng của sự ác, những kẻ áp bức người nghèo, những kẻ dữ sẽ không thể chiến thắng được trong lịch sử.
Tất cả ngôn ngữ khải huyền mà chúng ta vừa nghe chỉ được dùng để làm nổi bật tiếng kêu hy vọng này: Đức Giêsu đến… Như một Đấng chiến thắng, những giáo phái đủ loại những kẻ “cuồng tưởng” trong những thời kỳ có khủng hoảng lớn, cứ lảm nhảm bên tai chúng ta những lời ngăm đe”, những “lời sấm giáng họa” và những “câu lên án” của họ. Đối với Đức Giêsu, sự phá hủy Đền Thánh biểu tượng cho sự phá hủy thế giới, là một “Tin mừng” nghịch lý như trong bài tụng ca ngày nay.
Bầu trời đối với chúng con đã tối sầm lại, không còn một ngôi sao nào trong đêm nhưng chúng con biết rằng ngày đã đến nó rất gần.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến Maranatha! Xin hãy đến!”
Những Kitô hữu đầu tiên đã mong ước mãnh liệt ngày “trở lại của Chúa” tiếng Hý Lạp là “parousie”. Trong Tân ước người ta gặp nhiều lần từ huyền nhiệm này. Maranatha (I Cr 16,22; Kh 22,20). Đó là một kiểu nói Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, đã được đưa vào phụng vụ ban đầu, và có nghĩa là “Lạy Chúa, xin hãy đến”. Từ Công đồng Vatican II, mỗi Thánh lễ của chúng ta đã lặp lại lời cầu xin, mong đợi trên, trong câu tung hô sau phần truyền phép: “Chúng con mong đợi ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Chúng con mong đợi Chúa đến.”
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Tại sao chúng ta lại không hát với những Kitô hữu đầu tiên trong cùng một âm tiếng của Đức Giêsu “Maranatha!”
Người sẽ sai các thiên sứ tập hợp những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ bốn phương về từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Có một vài tác giả hiện nay muốn giảm thiểu Đức Giêsu Na-za-rét chỉ còn là một người Na-za-rét bình thường mà thôi! Chúa có những “thiên thần” những kẻ thuộc về người, sẵn sàng phục vụ Người. Người muốn tập hợp tất cả mọi người trên toàn trái đất lại. Thế mà nhân vật nhỏ bé này lại chưa hề rời khỏi đất nước Palettin. Trong những khải huyền cổ truyền mà Đức Giêsu đã dùng lại những hình ảnh thì những xáo trộn vũ trụ báo trước cho sự trừng phạt vĩ đại của Thiên Chúa giáng trên những kẻ phản đạo. Nhưng ở đây, không có những lời như thế trên môi miệng Đức Giêsu. Người chỉ nói đến việc tập họp những người được tuyển chọn. Việc tái lâm của Chúa Giêsu trong vinh quang, vào ngày thế mạt, đó là để tập họp những người thuộc về Chúa từ bốn phương trời, đó sẽ là một đại lễ thế giới, toàn vũ. Đức Giêsu nhìn thấy Người thật cao cả vĩ đại, thần thánh, thế mà Người sẽ phải chịu chết trong vài hôm nữa.
Ở cùng với Đức Giêsu.
Đó là tận thế, những chiến tranh tai ương, bách hại, diệt chủng, sự tàn phá ghê gớm, sự phá hủy đền thánh, sự phạm thường những nơi thánh bởi bọn phản đạo vô luân… tất cả những điều đó chỉ chuẩn bị cho việc tập hợp kể trên. Đây là tiếng kêu hy vọng kỳ diệu nhất mà con người có thể nghe được, ngay cả khi mọi sự sụp đổ quanh mình, ngay cả khi cái chết đến gần kề và có vẻ chiến thắng.
Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi nó đâm chồi nảy lộc thì anh- em biết là gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần.
Người ta thực sự không hiểu gì về tư tưởng của Đức Giêsu, khi người ta tỏ ra mình là “ngôn sứ báo động tai họa”. Rõ ràng, Đức Giêsu muốn mở ra cho nhân loại niềm trông cậy vào một thế giới mới.
Đó là mùa hè đang đến. Đó là “mùa tươi đẹp” tới gần khi cây cỏ xanh tươi trở lại. ÔI, đó là một dụ ngôn thật đẹp dụ ngôn cuối cùng trước khi Người chết. Trong cơn nguy nan và sợ hãi, vâng, tất cả mọi sự đều qua đi và chết hết. Nhưng chúng con biết mùa hè sắp đến, trên những cành lá xanh tươi của cây vả.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! Maranatha!
Thầy bảo thật anh em; thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Chân dung Đức Giêsu thật là vĩ đại! Đây là một cao vọng quá cỡ đối với một người hay chết như chúng ta. Chúng ta chớ quên, vài ngày nữa Người sẽ chết. “Tất cả đều qua đi” Người đã nói thế… Chúng Ta vẫn tồn tại, Ta hiện hữu; và các ngươi sẽ ở với Ta. Bên kia cái chết của Người, sự Phục sinh đang ló dạng, như bình mình sau đêm mù tối.
Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả người Con đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi.
Người vẫn là một “con người”. Người không biết bí mật của Chúa Cha, Đấng vượt lên trên tất cả. Đáng kinh ngạc thay! Thế mà cũng con người đó quả quyết sẽ đến từ mây trời để “tập hợp tất cả những người được tuyển chọn”. Đây là một nhân vật phi thường, ngoài quan niệm thường tình của chúng ta.
(Chú giải mục vụ của William Barclay)
SỰ TÁI LÂM (13,7-8.24-27)
Tại đây chắc chắn là Chúa Giêsu đang đề cập sự tái lâm của Ngài. Điểm quan trọng là Ngài khoác lên ý niệm của Ngài ba hình ảnh vốn là những phần của cơ cấu liên hệ với Ngày Của Chúa.
1/ Ngày của Chúa sẽ đến sau một thời gian chiến tranh. Trước ngày của Chúa sẽ có: “Động đất nhiều nơi, các dân tộc náo loạn. Các nước mưu đồ, các lãnh tụ bối rối, các vua chúa lo âu”.
“Vào giữa số dân chúng sống trên mặt đất, sẽ có sự kinh ngạc sửng sốt. Họ âm mưu gây chiến tranh với nhau, thành phố này chống lại thành phố nọ, địa điểm này chống địa điểm khác, dân nọ chống dân kia, vương quốc chống với vương quốc”.
Sách Các Sấm ký của Sybille thấy trước: “vua này cướp đất và bắt vua kia làm tù binh, dân tộc này cướp phá dân tộc khác và áp bức nhân dân, các nhà cầm quyền trên đất xông vào xứ của nhau, và đất nước biến thành người và một đế quốc dã man sẽ tàn phá Hellas và lấy đi sự giàu có của vùng đất phì nhiêu của nó, và người ta sẽ đối mặt để tranh chiến nhau” (3,633-647).
Sách Barúc 27,5-13 kể ra 12 việc sẽ đến trước kỷ nguyên mới “Trước hết sẽ có sự náo động khởi đầu, thứ hai sẽ có các nhân vật quan trọng bị giết. Thứ ba sẽ có nhiều người chết và thứ tư, gươm sẽ được gửi đi khắp nơi. Thứ năm sẽ có đói kém, hạn hán. Thứ sáu sẽ có động đất và nhiều chuyện kinh hoàng (trong bản thảo có một khoảng để trống), thứ tám sẽ có một đám đông vô số những bóng ma và sự tấn công của ma quỷ. Thứ chín, sẽ có lửa sa xuống. Thứ mười sẽ có cướp bóc và nhiều áp bức. Thứ mười một sẽ có sự gian ác và loạn dâm. Thứ mười hai sẽ có hỗn loạn vì tất cả những gì đã được nói trên đây đều hòa lẫn vào nhau”.
“Toàn dân trên đất đều bị thúc đẩy để chống nghịch lẫn nhau” (48,31). Và họ sẽ thù ghét nhau, gây chiến với nhau… Và ai thoát được chiến tranh thì lại chết vì động đất. Ai thoát khỏi động đất sẽ bị lửa thiêu rụi. Và ai thoát được lửa sẽ bị đói kém tiêu diệt”.
Rõ ràng khi Chúa Giêsu đề cập chiến tranh và tiếng ồn ào của chiến tranh là Ngài dùng các hình ảnh từng là những phần về các viễn ảnh tương lai của dân Do Thái.
2/ Trước ngày của Chúa, mặt trời, mặt trăng sẽ tối tăm. Chính Cựu Ước cũng đầy dẫy những câu như thế (Am 8,9; 2,10; 3,15; Is 13,10; 34,4).
Một lần nữa rõ ràng Chúa Giêsu đã sử dụng phần ngôn ngữ phổ thông mà ai cũng biết.
3/ Một phần của hình ảnh vẫn thường xuất hiện, là dân Do Thái từ bốn phương trời sẽ được thâu gọn về Palestine. Cựu Ước vốn đầy những ý niệm như vậy (Is 27,13; 35,8-10; Mk 7,10; Dcr 10,6-11). Nền văn chương đại chúng cũng rất thích ý niệm đó “Hãy thổi kèn trong Siđôn để kêu gọi các thánh, hãy làm cho trong cả Siđôn, người ta đều nghe tiếng Đấng đem Tin Mừng đến, bởi Thiên Chúa đã thương xót dân Israel và thăm viếng họ. Hãy đứng trên đỉnh núi, hỡi Giêrusalem và nhìn xem con cái Người từ phương Đông và phương Tây được Đức Chúa tập họp lại (Tv 11,1-3).
Khi đọc những lời lẽ đầy hình ảnh của Chúa Giêsu về sự tái lâm, chúng ta phải nhớ Ngài không hề ban cho chúng ta một bản đồ về cõi đời đời hay một thời biểu cho tương lai, nhưng Ngài chỉ dùng ngôn ngữ và các hình ảnh người Do Thái đã từng biết và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước Ngài.
Nhưng điều vô cùng lý thú là những điều Chúa Giêsu tiên báo đã thật sự xảy ra. Ngài nói tiên tri về chiến tranh và trên thực tế, đạo quân đáng sợ của dân Batthê đang gây áp lực tại các biên giới của đế quốc Roma. Ngài đã nói tiên tri về động đất thì trong vòng bốn mươi năm, thế giới thuộc đế quốc Roma đã phải kinh hoàng vì cơn động đất tàn phá Laodikia và vụ núi Vesuvius phun lửa và phun thạch chôn vùi thành phố Pompeii. Ngài nói tiên tri về đói kém, thì dưới thời Claudius, thành phố Roma đã bị nạn đói. Thật đó là một thời kỳ đầy kinh hoàng, đến nỗi lúc Tacitus bắt đầu viết sử, ông đã bảo dường như mọi chuyện sắp xảy ra đều chứng tỏ các thần đang tìm cách báo thù chứ không phải cứu vớt đế quốc Roma.
Trong đoạn này, điều duy nhất chúng ta phải giữ là sự kiện Chúa Giêsu đã nói trước rằng Ngài sẽ tái lâm.
HÃY TỈNH THỨC (13,28-37)
Trong đoạn này có hai điểm cần đặc biệt cần ghi nhận.
1/ Thỉnh thoảng có người nghĩ rằng Chúa Giêsu bảo các việc này xảy ra trong vòng một thế hệ là Ngài nói sai. Nhưng Chúa nói đúng, vì câu này không hề ám chỉ tái lâm. Câu này không thể nói như thế vì ngay câu tiếp theo đó, Ngài bảo không có ai biết ngày giờ nào việc ấy sẽ xảy ra. Nó ám chỉ về những lời tiên tri của Chúa Giêsu và việc thành Giêrusalem thất thủ và Đền Thờ sẽ bị tàn phá, là những việc đã ứng nghiệm.
2/ Chúa Giêsu bảo rằng Ngài không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ tái lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không thắc mắc. Không có lời cảnh cáo và quở trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chúa tái lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tìm, tra vấn cho ra điều mà chính Chúa bằng lòng không tìm biết, thì tội đó quả là tội phạm thượng.
3/ Cho nên Chúa Giêsu rút ra một kết luận thực tiễn. Chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng tối của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi hoặc suốt ruột chờ trông. Điều có ý nghĩa nhất là hàng ngày chúng ta chu toàn bổn phận của mình, chúng ta phải sống, coi việc Ngài tái lâm lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc để Ngài sẽ xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp Vua!
Khi mở Phúc Âm Maccô 13, chúng tôi nói ngay đây là chương sách khó hiểu, nhưng cuối cùng một chân lý để lại cho chúng ta, vài điểm của chân lý đó là:
1/ Nó cho chúng ta biết chỉ có người của Chúa mới nhìn vào những bí mật của lịch sử. Chúa Giêsu đã thấy số phận của Giêrusalem mặc dù những người khác mù quáng, chẳng thấy gì. Một chính khách thật sự phải là người của Chúa. Một người muốn hướng dẫn xứ sở thì chính mình phải được Chúa hướng dẫn. Chỉ có người biết Chúa, mới có thể tham gia phần nào trong kế hoạch của Chúa.
2/ Nó cho ta biết hai điều về giáo lý Chúa tái lâm. (a) Đoạn này cho biết nó hàm chứa một sự kiện mà nếu ta quên hoặc xem thường, sẽ vô cùng nguy hiểm. (b) Nó cho biết bức tranh chứa đựng là hình ảnh của thời Chúa Giêsu, cho nên suy đoán về nó là điều vô ích, khi chính Chúa Giêsu cũng bằng lòng với sự không biết. Điều ta có thể chắc chắn là lịch sử phải đi về một điểm nào đó, phải có một kết thúc xảy ra.
3/ Nó cho ta biết trong mọi sự, việc làm điên dại hơn hết là quên Chúa mà đắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên rằng mình phải sẵn sàng để nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cục sẽ không kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 13:24-32: Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này.
Trái đất này một ngày nào đó cũng phải kết thúc vì đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc chấm hết. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Ngày ấy, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, «các quyền lực trên trời bị lay chuyển»… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tm 4, 8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2, 13).
Ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2,13).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
Vào ngày Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: «Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện «chân lý, công lý và tình thương» (Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (Mt 25, 31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, «những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao» (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Tin mừng Mc 13:24-32: Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su”. Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế.
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.
CHÚ THÍCH:
– C 24-25:
+ Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa.
+ sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế.
+ Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Giavê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Ki-tô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.
– C 26-27:
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đanien, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đavít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13…): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Giavê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13).
+ “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5) + Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Ki-tô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.
– C 28-29:
+ Lấy thí dụ cây vả… khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).
– C 30-31:
+ Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giê-su giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm.
+ Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giê-su sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
– C 32:
+ Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra.
+ chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).
CÂU HỎI:
1) Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giê-su muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?
2) “Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giê-su dùng để di chưyển?
3) Đức Giê-su có biết rõ ngày cùng tận của thế giới là ngày nào không? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Dọn mình chết lành:
Khi Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gio-an trả lời: – Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: – Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: – Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: – Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời.
2) Tránh nghe những tin đồn nhảm về ngày tận thế:
Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giê-su tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ: ”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra. Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.
Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo Lời Chúa Giê-su dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến viếng thăm trong giờ chết của mỗi người.
3. THẢO LUẬN:
1) Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế?
2) Chết là gì?
3) Bạn làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai?
4. SUY NIỆM:
1) Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:
Tin mừng Mác-cô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Đền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giêrusalem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.
Đức Giê-su đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giêrusalem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giê-su được các thánh sử ghi lại sau khi Đền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Mác-cô muốn trình bày các điều sau: Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế. Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện. Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Đức Giê-su Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy “ngày của Chúa” sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong” và “nhờ” Con Người là Đức Giê-su. Bốn là Vua Ki-tô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.
2) khi nào điều ấy xảy ra?
Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Mác-cô: Đức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).
Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Đền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v… cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.
Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha” (Mc 13,32).
Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.
3) Chúng ta phải làm gì?
– Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến:
Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
– Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai:
Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
– Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:
Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3).
– Ma-ra-na-tha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến:
Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Ma-ra-na-tha – Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… trở nên công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến trần gian trở thành một “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.