CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A
Lời Chúa: 1Sm 16,1b.6-7.10-13a; Ep 5,8-14; Ga 9,1-41
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc.
Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc.
Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.
Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go.
Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.
Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành.
Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận.
Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.
Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.
Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Mù không phải là một tội.
Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể.
Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.
Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt.
Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?
– Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn… theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?
Cầu Nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.
Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.
Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.
Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.
Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.
Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.
Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.
Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.
Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.
Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.
Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.
Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.
Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?
Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?
Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.
Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?
2. Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?
3. Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?
4. Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay, chu kỳ phụng vụ năm A đều có chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói.
Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được. Thế mới thấy những ảnh hưởng và hậu quả tai hại từ những thành kiến trong cuộc sống của chúng ta. Những thành kiến này đôi khi dìm sâu con người, không cho họ cơ hội làm lại cuộc đời để sống như một con người bình thường. Những người Do Thái kỳ thị không muốn thấy anh mù được chữa khỏi. Họ không muốn nhận ra anh, điều đó có nghĩa là họ muốn cho anh mãi mãi là anh mù.
Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm.
Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa.
Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại. Trong khi đó, những người anh em khác của Đavít xem ra đầy đủ điều kiện theo cái nhìn loài người, thì lại không được chọn. Thiên Chúa luôn luôn có cách nhìn của Ngài. Cách nhìn ấy không giống cách nhìn của chúng ta.
Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng.
Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).
Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.
4. Thầy là ánh sáng thế gian – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Helen Keller, người mù nổi tiếng thế giới, tác giả hàng chục cuốn sách có giá trị. Bà dậy đại học và đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Bà sinh năm 1880, 19 tháng sau, bà bị nóng sốt kịch liệt khiến bà điếc và mù. Khi nên năm tuổi, Keller được giáo sư Sullivan dạy đọc và viết bằng chữ nổi và đánh máy chữ đặc biệt. Cuộc đời bà đã được diễn tả thành cuốn phim rất cảm động (Encyclopedia, Funk & Wagnall).
Con người bất khuất đó vẫn không thắng nổi cái mù tăm tối, dù chỉ mù sau khi sinh. Còn loại mù trong lòng mẹ như anh mù trong Tin mừng hôm nay, thì dù khoa học hiện đại cũng phải bó tay. Thế mà Đức Giêsu đã chữa anh khỏi mù bằng phương pháp rất phản khoa học: “Người lấy nước miếng trộn với bùn và xức vào mắt anh” (Ga. 9, 7), cực kỳ lạ lùng! không tưởng tượng được! nhưng có thực trăm phần trăm, vì đã xẩy ra giữa chốn đông người trong ngày lễ Sabat. Chính vì thế nhóm biệt phái đã ra sức điều tra cẩn thận. Họ điều tra anh, cha mẹ anh, những người thấy anh ăn mày. Họ rất bối rối vừa phủ nhận phép lạ vừa kết án Đức Giêsu đã phạm luật lễ nghỉ. Họ kết án cả anh mù: “Mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu” vì theo thành kiến thời đó, bệnh tật là hình phạt kẻ tội lỗi. Nếu họ kết án anh là kẻ tội lỗi bị phạt mù mà bây giờ anh đang sáng mắt thì họ phải nhận có phép lạ và Người chữa anh sáng mắt phải là Đấng có quyền tha tội. Nhưng thật trớ trêu! họ đã tự mâu thuẫn, họ vừa kết án anh là kẻ tội lỗi vừa không tin Đức Giêsu đã chữa anh mù được sáng.
Biệt phái tự coi mình là thầy, là kẻ lãnh đạo tôn giáo. Thời Alexandria (năm 76-67 trước Công nguyên), họ còn lãnh đạo cả đời nữa. Ở địa vị đó họ không chịu thua ý kiến của kẻ mù hèn hạ. Tuy nhiên, ở trường hợp này rõ ràng anh mù lại sáng, còn họ lại trở nên mù, anh đã vạch rõ cái mù của họ: “Kể cũng lạ, các ông không biết ông ấy ở đâu đến, thế mà ông ấy lại là người mở mắt cho tôi!… Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ấy chẳng làm được gì” (Ga. 9, 30-33)
Thế mới rõ kẻ tự phụ mình sáng, mình có quyền, rất khó thấy lẽ phải. Kẻ đơn sơ chân thành khiêm tốn lại được mặc khải ánh sáng: “Tôi đến thế gian này để xét xử: cho người không xem thấy, được thấy, và kẻ tự phụ xem thấy lại hóa đui mù”. Nghe thế họ đã vênh vang cự lại “thế cả chúng tôi cũng đui mù sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui, các ông chẳng có tội, nhưng các ông tự phụ: chúng tôi thấy, nên tội các ông còn đó”.
Nhiều lần Đức Kitô đã cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã không mặc khải cho bậc khôn ngoan thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25-26). Đúng như thánh Phaolô giảng: “Thiên Chúa đã dùng sự thấp hèn để làm hạng khôn ngoan bị nhục nhã, đã dùng sự bất lực để làm kẻ kiêu hùng ra hèn hạ. Ngài đã chọn sự ti tiện, khinh bỉ, không không để phá hủi sự cao cả của thế gian để không ai dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1Cr. 1, 27-29).
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta tin theo Chúa là ánh sáng thế gian, đã ban ánh sáng cho con mắt thể xác cũng như tinh thần. Chúa ban ánh sáng thể xác cho con người tìm thấy nguồn tài nguyên phong phú như những đồng cỏ xanh tươi, những suối nước mát để bồi dưỡng cuộc sống hằng ngày (Tv. 22). Chúa ban ánh sáng tinh thần như soi sáng cho Samuel chọn Davit biết sống theo đường lối Chúa chỉ dậy để trở nên thánh vương cao cả dẫn dắt dân Chúa (Sm. 10, 1-13). Nhất là Chúa làm cho chúng ta nên con cái sự sáng nhờ phép Rửa tội như thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng… là lương thiện, công chính và chân thật” (Eph. 5, 8-9).
Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con nhận biết những tội lỗi con, để Chúa thương cứu con như anh mù, khi Chúa hỏi: “Con có tin Con Người không?” con biết mạnh dạn tuyên xưng: “Thưa Ngài, con tin”.
Lạy Chúa, xin cho con được sáng.
Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?
Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.
Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.
Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.
Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.
Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.
Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.
Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.
Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?
7. Thiên Chúa chăm sóc Dân Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Dù một người thuộc bất cứ dân tộc nào, Thiên Chúa vẫn là Đấng tạo dựng họ, vẫn là Đấng yêu thương họ đặc biệt. Thiên Chúa lo lắng chăm sóc tất cả mọi người. Ngài chăn dắt dân Ngài qua các vị lãnh đạo, Ngài nói với mỗi người qua lương tâm, và yêu thương con người đặc biệt qua Đức Yêsu.
1. Qua những vị lãnh đạo
Có hai quan niệm nơi người Do Thái trong buổi đầu thời đại quân chủ. Một quan niệm cho rằng, chấp nhận có vua là mặc nhiên từ chối Thiên Chúa cai quản hướng dẫn mình; quan niệm khác lại cho rằng Thiên Chúa muốn dùng một vị vua để hướng dẫn dân Ngài. Khi tiên tri Samuel xức dầu phong vương cho Saul và sau đó cho Davít, thì quan niệm vua là người Thiên Chúa dùng để cai trị dân đã được đa số người Do Thái chấp nhận.
Thời buổi này, không còn mấy nước theo chế độ quân chủ nữa, nhưng vẫn có những người tương tự, như tổng thống và chủ tịch nước. Những người này là những đại diện Chúa, nên chúng ta phải vâng phục họ. Tuy vậy, khi có những người lãnh đạo hành xử không theo luật Chúa, thì chúng ta không được vâng phục. Chẳng hạn khi họ cho phép hoặc khuyến khích phá thai, thì điều này không có nghĩa là Thiên Chúa muốn điều đó, nên chúng ta không được vâng phục; trái lại, nếu có thể, chúng ta không chỉ có thể mà còn phải phản đối nữa, vì khi đó họ đã dùng quyền hành Thiên Chúa ban để giết hại con người. Chúng ta chỉ không vâng phục trong những điều sai trái thôi, còn những điều khác thì vẫn phải vâng phục. Điều này áp dụng cả cho những bề trên đấng bậc trong Đạo: nếu một người “bề dưới” bị “bề trên” sai bảo làm điều tội hoặc trái lương tâm, thì người “bề dưới” không được vâng lời.
Kitô hữu là người có thể sống dưới mọi chế độ. Ơn gọi Kitô hữu cũng hàm chứa đòi hỏi góp phần xây dựng một xã hội công bình và tốt đẹp hơn. Vì mọi người đều được Thiên Chúa hướng dẫn, nên Kitô hữu cũng phải tin vào những người thành tâm thiện chí cho dù họ không cùng tôn giáo với chúng ta, để cùng họ xây dựng thế giới này. Sống theo điều thiện hảo, cũng là sống theo Chúa và vì Chúa. Khi vì một điều tốt đẹp mà phải hy sinh hay thiệt thòi, thì cũng là tử đạo theo một nghĩa nào đó. Chẳng hạn trường hợp Yoan Tẩy Giả chết vì lên tiếng cản ngăn không cho Hêrôđê lấy vợ anh mình. Yoan đã chết vì Chúa, cho dù ông chết vì đã nói sự thật, nói lên ý muốn của Chúa biểu lộ qua luật lệ hay nơi lương tâm con người.
- Qua tiếng lương tâm
Thiên Chúa tỏ lộ ý muốn của Ngài qua Kinh Thánh, qua luật lệ cả Đạo lẫn đời, và Ngài còn tỏ lộ ý muốn của Ngài cho mỗi người cách đặc biệt nơi lương tâm mỗi người. Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa qua “lý trí hướng về điều thiện hảo”. Chẳng hạn, phải làm điều tốt, phải tránh điều xấu, điều này xấu không được làm, điều kia tốt nên làm.
Không ai được làm ngược tiếng lương tâm của mình. Nếu tôi thấy điều nào không tốt, tôi không được làm theo. Lương tâm là “lý trí hướng về điều thiện”, không phải là lý trí biện minh cho hành động của mình. Có nhiều trường hợp, con người dùng lý trí để biện minh cho điều mình muốn làm, hoặc biện minh cho điều có lợi cho mình. Trường hợp này lý trí là công cụ của lòng tham muốn và cái tôi, chứ không là lương tâm, không là dụng cụ Thiên Chúa nói với con người. Trong cuộc sống, ở những trường hợp đặc biệt, lương tâm là tiêng nói cuối cùng mà mỗi người phải tuân theo.
Không hề có sự mâu thuẫn giữa luật Chúa và lương tâm, vì cả hai đều bởi Chúa. Nếu có mâu thuẫn, thì hoặc mình hiểu sai luật Chúa, hay mình ngộ nhận là tiếng lương tâm mà thực sự không phải.
- Qua Đức Yêsu Kitô
Thiên Chúa nói tiếng nói dứt khoát của tình yêu qua Ngôi Lời Nhập Thể- Đức Yêsu. Đức Yêsu là người trọn vẹn, là người như tất cả mọi người. Ngài chia sẻ thân phận con người, chịu đói chịu khát, có những khuynh chiều của thân xác như tất cả mọi người, bị cám dỗ mãnh liệt như tất cả những ai khác. Để rồi qua Ngài, con người biết làm sao để trở nên người tuyệt vời. Con người trở nên tuyệt vời, trong mức độ họ sống và suy nghĩ, chọn lựa, hành động như Đức Yêsu đã sống, suy nghĩ, chọn lựa và hành động.
Qua việc chữa người mù từ thuở mới sinh, Đức Yêsu mặc khải cho biết Ngài là ánh sáng. Ngài không chỉ là ánh sáng, hiểu theo nghĩa giúp người mù được thấy, nhưng Ngài là ánh sáng hiểu theo nghĩa, qua Ngài con người nhận biết sự thật uyên nguyên là chính Thiên Chúa, và cũng nhờ Ngài con người hiểu biết hơn về chính con người. Khi con người nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và cũng nhận biết con người là tạo vật tuyệt vời. Nếu con người không đáng quý và tuyệt vời, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Được làm người, đó là một ơn vô cùng lớn.
Chọn lựa trong cuộc sống hằng ngày, là chọn lựa Thiên Chúa hay không. Chẳng hạn, người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay không sẵn sàng đón nhận Đức Yêsu- một con người mà họ gặp trong cuộc sống, là họ không đón nhận Thiên Chúa. Chấp nhận tha nhân trong sự thật, là đón nhận Thiên Chúa. Anh mù, mù về thể lý, nhưng sáng trong việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa; trong khi những người biệt phái là những người có học và có tiếng là đạo đức, thì lại không nhận ra Đức Yêsu là người của Thiên Chúa. Có tật mù thể lý, nhưng cũng có tật mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật, đó có thể là thành kiến về tha nhân, hoặc chính cái tôi che khuất không cho mình thấy sự thật.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Xin liệt kê những nét xấu và nét đẹp của Đavít. Theo bạn, đâu là nét đẹp nhất của Davít?
- Đâu là tiêu chuẩn đánh giá con người, của bạn và của Đức Yêsu?
- Với ánh sáng “Đức Yêsu”, bạn nhận ra điều gì đặc biệt trong đời?
- Bạn có nhận ra Thiên Chúa can thiệp và hướng dẫn đời bạn không? Xin chia sẻ.
8. Cái làm người vô học tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đức Yêsu đã chữa người mù bằng cách, nhổ nước miếng trộn làm bùn xức vào mắt anh mù và nói anh đi rửa tại ao Siloam, anh đã đi rửa và đã thấy. Vào trường hợp của tôi, tôi có để Đức Yêsu làm như vậy không?
Anh mù được sáng mắt, khi người ta không biết có phải anh là người mù vẫn ngồi ăn xin không, anh đã can đảm nhận mình đã là người mù ngồi ăn xin tại đền thờ! Anh mù được sáng đã dám nhận quá khứ “ăn xin” của mình, còn tôi, tôi có can đảm chấp nhận quá khứ của đời mình không?
Anh mù dám tỏ quan điểm lập trường của mình về Đức Yêsu, và dám giữ lập trường này trước bao người có quyền thế chống lại Đức Yêsu, thậm chí cả trong trường hợp bị trục xuất khỏi hội đường! Tôi có can đảm như anh mù không?
Cái gì đã ngăn cản những người biệt phái nhận ra Đức Yêsu từ Thiên Chúa đến? Cái gì đã làm họ hiểu sai về Đức Yêsu khi cho rằng Ngài là người tội lỗi (Ga.9, 24)? Tại sao người vô học như anh mù lại có nhận định đúng về Đức Yêsu, còn những người học cao hiểu rộng như những người biệt phái và luật sĩ lại hiểu sai về Đức Yêsu?
Người biệt phái đã kết án Đức Yêsu là người tội lỗi, vì Đức Yêsu không giữ ngày sabbat! Với Đức Yêsu: làm sao để cứu con người; còn với người biệt phái: làm sao để giữ luật. Luật là tuyệt đối đối với người biệt phái; còn với Đức Yêsu, con người rất quan trọng! Trong cuộc sống, chúng ta có coi những luật lệ và nguyên tắc là tối cao không? Có bao giờ chúng ta nhân danh luật lệ và nguyên tắc để xúc phạm và hủy diệt con người không?
Cha mẹ người mù “quá khôn ngoan” nên đã từ chối câu trả lời về Đức Yêsu, để được yên thân! Trong cuộc sống, tôi có lấy “sự khôn ngoan” đó làm tiêu chuẩn sống của tôi không?
Xin Chúa mở mắt con,
– để con nhận ra những kỳ công Ngài thực hiện cho con người,
– để chúng con ca tụng Chúa, và yêu thương tôn trọng con người như Chúa đã yêu thương và tôn trọng.
9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta vừa nghe Thánh sử Gioan tường thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu thái độ của các nhân vật trong câu chuyện này.
- Thái độ của Đức Giêsu:
Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ để chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Có những phép lạ xảy ra do sự thỉnh cầu của con người. Nhưng cũng có những phép lạ xảy ra do chính Ngài chủ động đến với con người như phép lạ chữa cho người mù hôm nay. Câu chuyện phép lạ bắt đầu bằng sự thắc mắc của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” (Ga 9,2). Và Đức Giêsu cho biết: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh.” (Ga 9,3). Giải thích xong thắc mắc của các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hành động để chữa lành cho anh mù. Tin mừng kể: “Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.’ Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.” (Ga 9,6-7).
Như vậy, phép lạ đã xảy ra, anh mù đã sáng mắt. Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì đã khá hoàn hảo. Nhưng lòng thương xót của Đức Giêsu còn muốn đi xa hơn. Đó chỉ là phép lạ chữa lành con mắt phần xác. Đức Giêsu còn tiếp tục đồng hành với người mù, giúp người mù sáng cả con mắt đức tin. Như vậy, Đức Giêsu đã thực hiện nơi người mù hai phép lạ cùng một thời điểm: Phép lạ sáng con mắt thể lý và phép lạ sáng con mắt đức tin.
- Thái độ của người mù:
Bệnh mù lòa có thể do bẩm sinh, có thể do tai nạn hay một nguyên nhân nào đó. Người bị mù thì không thấy ánh sáng, không được nhìn ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người thân, không thấy đường đi, không thấy công việc để làm, giảm thiểu hạnh phúc của cuộc đời…Nên họ bị thiệt thòi về nhiều mặt. Ước mong lớn nhất của người mù là được sáng đôi mắt.
Người mù trong câu chuyện Tin mừng hôm nay đã mù từ thuở mới sinh. Chắc chắn anh ta ngày đêm mong muốn được sáng đôi mắt. Lòng mong muốn đó được đáp ứng khi anh gặp được Đức Giêsu. Hay nói đúng hơn là được Đức Giêsu gặp anh. Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với anh. Ngài hành động và mời gọi anh làm theo ý của Ngài. Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt anh và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa”. Đó là một lời mời gọi của đức tin. Tin mừng cho biết: “Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”
“Ra đi và rửa rồi trở lại.” Đây là thái độ của sự vâng phục trong niềm tin. Nhờ thế mà anh được sáng con mắt. Sau đó, anh đã công khai làm chứng về Đức Giêsu: “Ngài là một tiên tri”(x. Ga 9,17); “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy;”(Ga 9,25).
Khi những người biệt phái cho rằng Đức Giêsu “không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat,” thậm chí họ kết án “Đức Giêsu là một kẻ tội lỗi” thì người mù còn khẳng định rằng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25). Rồi anh tiếp tục làm chứng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (Ga 9,31). Lời khẳng định đó đưa đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,33).
Đức tin của người mù còn thể hiện một cách mạnh mẽ ngay cả khi anh bị cha mẹ bỏ rơi. Sau này gặp lại Đức Giêsu, anh còn xác tín rằng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).
Tấm gương của người mù đáng cho mỗi người chúng ta học tập: Một đức tin vững mạnh, một đức tin can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc sống.
- Thái độ của những người Biệt phái:
Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù, những người Biệt phái đã mở một cuộc điều tra nhằm lên án Đức Giêsu, phủ nhận phép lạ Ngài vừa làm. Đây là một thái độ kiêu căng, thể hiện một sự ghen tương không muốn chấp nhận sự thật, không nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa đang thể hiện trước mắt họ. Thậm chí, vì cái nhìn mù quáng nên họ còn muốn kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Họ ghét Đức Giêsu nên họ ghét luôn cả những người có liên hệ, cụ thể là họ ghét luôn cả người mù. Người mù đã trở thành nạn nhân của họ (x. Ga 9,34). Vì thế, họ tìm cách gây áp lực và làm khó dễ cho anh ta. Họ sáng con mắt phần xác nhưng lại mù quáng con mắt thiêng liêng. Mặc dầu vậy, họ còn tự hào là mình rằng “chúng tôi thấy.” Chính vì thế, lời quả quyết của Đức Giêsu thể hiện đúng bản chất của họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn đó” (Ga 9,41)
Trong cuộc sống hôm nay cũng có nhiều người giống như những người biệt phái này. Họ không làm việc lành, trái lại có ai đó làm việc lành thì họ lại ngăn cản hoặc tìm cách bóp méo sự thật, thậm chí còn bỏ vạ, cáo gian, kết án người vô tội.
- Thái độ của cha mẹ người mù:
Trước sự rắc rối mà chính con mình gặp phải đáng lý ra hai ông bà phải đứng ra bệnh vực cho con. Đằng này, hai ông bà lại lẫn trốn trách nhiệm không dám nói lên sự thật mà còn đùn đẩy cho con: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”(Ga 9,23). Chính Tin mừng đã cho chúng ta biết lý do vì sao cha mẹ anh ta lại nói như thế: “Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô.”(Ga 9,22). Đây là một thái độ cầu an nên thiếu trách nhiệm với con mình.
Trong cuộc sống hôm nay, cũng có rất nhiều người sống thiếu trách nhiệm không chỉ đối với con cái mà còn đối với Giáo hội và xã hội. Nhiều người cha người mẹ không dám nhận con cái mình vì sợ phải nuôi nấng chăm nom, vì thế chúng ta hiểu tại sao có nhiều người cha người mẹ đành bỏ rơi con cái, thậm chị giết hại con cái ngày từ trong lòng mẹ. Nhiều người con cái không dám nhận cha mẹ mình vì cha mẹ nghèo đói, bệnh tật. Nhiều người không dám đứng lên bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ liên lụy đến mình và gia đình mình, sợ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo.
Vì thế, cảnh bất công, người công chính bị trù dập, việc tốt việc lành bị bóp méo vẫn còn nhan nhãn trong xã hội chúng ta đang sống.
- Thái độ sống của chúng ta hôm nay?
Suy niệm về thái độ của Đức Giêsu, của người mù, của những người biệt phái và của cha mẹ anh mù, chúng ta thử đối chiếu với thái độ sống của chúng ta như thế nào?
Có khi nào chúng ta sẵn sàng đến để giúp đỡ những người xấu số như Đức Giêsu đã giúp đỡ cho người mù không? Chúng ta có bênh vực cho những người gặp rắc rối trong đức tin như Đức Giêsu bênh vực cho người mù không?
Có khi nào chúng ta can đảm bênh vực cho Chúa, cho Giáo Hội và cho niềm tin của mình giữa thử thách gian nan như người mù không?
Có khi nào chúng ta kiêu ngạo, ghen tuông nên tìm cách từ chối sự thật, thậm chí còn bỏ vạ cho người tốt không?
Có khi nào chúng ta sợ liên lụy đến mình, gia đình mình hay thiệt thòi về của cải vật chất…nên thiếu trách nhiệm với những người thân yêu của chúng ta như cha mẹ của người mù không?
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con không bị mù con mắt thể lý. Nhưng xét mình lại có lẽ nhiều lúc chúng con vẫn bị mù về con mắt tinh thần. Xin Chúa giúp chúng con biết làm theo lời Chúa dạy để chúng con được luôn sáng con mắt đức tin, con mắt tinh thần. Amen.
10. Chúa là nguyên nhân của niềm vui
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa nhật của Niệm Vui (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn hầu cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của Lễ Phục Sinh đã gần kề.
“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, ” Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Lời Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A: ” Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… ” (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, Chúa mở mắt anh ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa”, và trả lời câu hỏi Chúa đặt ra cho anh: “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là nguyên nhân của niềm vui lớn cho người mù từ khi mới sinh này, vì Chúa đã cho anh thấy được cảnh vật không chỉ về thể lý mà còn cả tinh thần nữa. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.
Người mù đã tin và đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Trái lại, những người Pharisêu thì tưởng rằng mình sáng, nên họ vẫn bị mù vì sự cứng lòng và tội lỗi của họ. Đúng vậy, “Người Do Thái không tin là trước đây anh bị mù mà bây giờ nhìn thấy được. Đó là lý do tại sao họ gọi cha mẹ anh ta đến” (x. Ga 9,18).
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: ” Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; ” Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình… anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: ” Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” (St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: ” Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt ” (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Chúng ta là con cái ánh sang
Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: ” Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.
Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành ” con của sự sáng ” (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành ” con cái Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh ” hoa trái của sự sáng
” (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.
Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian’ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.
Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.
Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Ðấng Cứu Thế. Amen.
Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.
Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.
Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.
Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.
Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết.
Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.
Bọn Biệt phái đã căm thù Chúa Giêsu và cuối cùng đã tìm cách thủ tiêu Ngài chỉ vì không chấp nhận để Ngài phá vỡ cái hàng rào này của họ. Chúng ta cũng sẽ chỉ có ánh sáng của lòng tin khi nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu rỗi mà thôi.
12. Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”. Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!”. Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.
Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:
- Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
- Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
- Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
- Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
- Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.
Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.
Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.
Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một mẩu đối thoại như sau:
Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.
Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa.
Ông A: – Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.
Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?
Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.
Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến ‘hỏi thăm’ thì khốn, trả cho yên chuyện.
Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.
Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi.
Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.
Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.
Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang…? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.
Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.
Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn…
Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.
Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:
Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu
Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.
Đôi mắt xanh non cha xin của con
Người đi trước xin của người sắp tới
Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới
Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn….
Xin Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.
Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.
Những người mù loà thể xác hầu hết rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ là những người đáng thương và đáng kính.
Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.
Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham lam
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)
Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)
Mùa quáng vì dục tình
Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua. Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)
Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.
Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.
Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:
- Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.
- Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.
Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Hoàn cảnh người mù từ lúc mới sinh được Chúa Giê-su chữa lành mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khiến người ta liên tưởng đến chứng mù khác đáng sợ hơn nhiều. Đó là chứng mù con mắt lương tri, mà tiêu biểu nhất là “mù-tội”, nghĩa là không thấy được những sai lầm và tội lỗi của mình.
Biểu hiện rõ nét nhất của chứng “mù-tội” là người ta không thấy được tội mình, do đó chẳng hối hận và cũng chẳng hề tự trách mình.
Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.
Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba đức độ của người Do-thái, cũng mắc phải chứng “mù-tội” này.
Vua mê đắm nhan sắc của bà Bát-sê-ba, bà này là vợ của U-ri-a. Vua chiếm đoạt bà, rồi mượn tay quân giặc giết chồng bà là U-ri-a ngoài mặt trận. Sau đó, vua đón bà về cung làm vợ chính thức của mình (II Sam 11 và 12).
Vua Đavít đã phạm một tội to như núi như thế mà vẫn ung dung như thể mình chẳng phạm tội gì.
Thế nhưng, khi nhà vua nghe ngôn sứ Na-tan cho biết có một ông nhà giàu có nhiều dê cừu, sai tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của một ông lão nghèo bên cạnh để làm tiệc đãi khách, thì vua bừng bừng nổi giận và lên án người đó cách gắt gao.
Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Vua lên án tội nhỏ của người khác mà bao che tội ác to lớn của mình.
Người đời như thế đấy, tội mình to như núi, mình không thấy; tội người ta chỉ bằng viên sỏi, thì thấy rõ ràng.
Đúng như lời Chúa nói: Các ngươi thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Mt 7,3).
Chứng “mù-tội” vô cùng tai hại
Chứng “mù-tội” gây ra hậu quả tai hại ngàn lần hơn là mù mắt, vì hầu hết những người mù mắt đều tốt lành thánh thiện, chẳng làm gì nên tội, trong khi đó, người “mù-tội” thường gây ra nhiều tội ác. Họ gây nhiều tội ác vì họ không thấy tội lỗi của mình và dù có thấy, họ cũng cho là chuyện nhỏ, chẳng lớn lao gì.
Chứng “mù-tội” rất khó chữa
Sở dĩ khó chữa là vì người ta không nhận ra sai lầm và tội lỗi của chính mình. Không thấy mặt minh dơ thì người ta không cần rửa mặt; không thấy áo quần bẩn thì chẳng cần phải đổi thay; không thấy bản thân mình lầm lỗi thì cần gì phải ăn năn hối cải. Thế là người ta đắm chìm trong tội suốt đời.. Vì thế, đây là một chứng bệnh rất khó chữa.
Như vậy, mù không thấy được tội lỗi và tính xấu của mình là một chứng mù đáng sợ và tai hại khôn lường, vì thế phải lo cứu chữa ngay đừng trì hoãn.
Lạy Chúa Giê-su,
Sứ mạng của Chúa khi đến trần gian là “làm cho người mù được sáng” (Lc 4,18) và Chúa đã thực thi sứ mạng này bằng cách mở mắt cho nhiều người mù từ lúc mới sinh, cũng như khai tâm cho nhiều người để họ nhận biết và sống theo giáo huấn của Chúa.
Xin dủ lòng thương xót, mở mắt tâm hồn, mở mắt lương tri cho chúng con, để chúng con nhận ra những sai lầm, những tội lỗi và những thói hư mà chúng con vấp phạm hằng ngày, đồng thời xin giúp chúng con kiên quyết ăn năn chừa tội hầu xứng đáng là con của Cha trên trời.
————————–
[1] “How to Win Friends and Influene people”. page 23
16. Con mắt là cửa sổ của linh hồn
(Suy niệm của Lm Phêrô Trần Minh Đức)
Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù loà, cụt tay, cụt chân! … Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ lúc mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!
“Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.
Bài Phúc âm cũng phản ảnh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy. Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây? Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù loà gấp ngày lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.
Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta. Qua bí tích Rửa tội Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.
17. Nhận ra lòng Chúa xót thương
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một số kiếp hẩm hưu nào khác, người ta dễ dàng đặt câu hỏi: ‘tại sao?’. Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất cứ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân – quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Càng suy nghĩ theo lối thông thường đó thì câu trả lời của Đức Giêsu càng gây cho chúng ta kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, đi ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) qui luật luận lý nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó ai chấp nhận nổi. Tuy nhiên chính lối nhìn và hiểu biết này mới là triết thuyết của Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ. Phải chăng đây chính là lô-gích mới mẻ đã được giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên thì ánh sáng chói lọi của nó thoạt đầu dễ làm cho con mắt chúng ta bị xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng là như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý siết bao!
Theo khẳng định của Đức Giêsu thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của biết bao sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất, sóng thần tàn phá Nhật Bản hay siêu bão hayan chỉ là nhưng ví dụ điển hình). Câu khảng định trên mới nghe ta tưởng như hoàn toàn phi lý, không thể chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Ngài. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở nơi khác… tội lỗi chẳng hạn; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe… Cách duy nhất để giải thích câu nói của Đức Giêsu là hiểu: ‘công trình của Thiên Chúa’ chính là lòng nhân ái xót thương mà Thiên Chúa đang ra công thực mạc khải và thực hiện, nhất là qua cuộc sống và cái chết thập giá của Giêsu Na-da-rét. Trong trường hợp cụ thể của người mù từ lúc mới sinh, thì chính nhờ việc anh được chữa lành mà anh, và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa nhân lành. “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giêsu; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn tại sao mình bị mù, cũng như tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng đối với anh là biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giêsu đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết Người là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái Ngài. Trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gich hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả đó nên không thể tìm ra giải đáp thỏa đáng, và như thế sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”
Như vậy niềm tin Kitô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố buồn vui đang xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giêsu chết treo trên thập giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin phải nhận ra ngay ‘công trình yêu thương’ Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi nhìn vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho chính tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng tiêu cực và vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi, để nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.
Là Kitô hữu như Phaolô, giữa muôn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống, tôi sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác. Hãy “không để bất cứ điều gì làm bạn xao xuyến!” (‘nada te turbe’ Tê-rê-xa Avila) vì “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn để được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình cứu độ của Thiên Chúa đang được tỏ hiện’ nơi con. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giêsu Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con. Amen
18. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng
BÀI 1
Mù là một chứng bệnh gây nhiều đau khổ thiệt thòi, buồn tủi và nguy hiểm cho bệnh nhân. Người mù suốt đời, ngày cũng như đêm ở trong tối tăm, không xem thấy ánh sáng, không thể nhìn ngắm cảnh đẹp thiên nhiên, màu sắc của vạn vật cũng như nét mặt xinh tươi của người thân yêu. Đó là những thiệt thòi rất lớn làm giảm thiểu sinh lực và hạnh phúc của cuộc đời.
Hơn nữa, người mù còn mặc cảm, coi mình là vô dụng, ăn bám và phải cậy nhờ người khác trong mọi sự, đi phải có người dắt, ăn phải có người đem đến tận tay, có khi liều mình gặp nguy hiểm sa lửa, sa nước, va chạm, vấp ngã thiệt đến tính mạng.
Mù là chứng bệnh gây đau khổ thiệt thòi cho bệnh nhân như vậy. Đàng khác, mù cũng là chứng bệnh nan y bất trị, ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều, người ta chữa được nhiều bệnh trước kia không thể điều trị, dù vậy, người ta chưa tìm được phương thuốc nào làm cho người mù sáng mắt.
Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu gặp một người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin, Chúa nhổ xuống đất, lấy nước miếng(nước dãi) trộn thành bùn xoa lên mát người đó, rồi bảo đi tới hồ Si-lô-ê mà rửa. Anh đi ra và rửa, đoạn trở lại thì trông thấy mọi sự rõ ràng”. Đây là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Theo công lệ tự nhiên, bùn chỉ có thể làm cho người ta đau mắt, nhưng trường hợp này bùn xoa vào mắt lại làm cho người mù được sáng. Như vậy, không phải do tính chất của nó mà do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.
Ta có thể nói, đây là hình ảnh các nhiệm tích mà Chúa sẽ lập, trong đó Chúa dùng những chất liệu bề ngoài để chữa tật bệnh linh hồn, thí dụ: nước trong phép Rửa tội, dầu thánh trong phép Xức dầu bệnh nhân. Sau nữa, phép lạ chữa người mù trong bài Phúc âm hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi mù phần linh hồn, biết mở mắt trí khôn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, nhìn nhân Đức Ki ô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người. Vì thế, sau khi người mù bẩm sinh, được Chúa cho sáng mắt, anh đã can đảm làm chứng về Chúa và bị người Do thái đuổi ra khỏi Đền thờ, Chúa đã đến gặp anh và hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?” – Anh nói: “Thưa Ngài, Con Thiên Chúa là ai để tôi tin”. – Chúa trả lời: “Ngươi đang nhìn thấy Ngài và Ngài đang nói với ngươi”.- Anh liền thưa: “Lạy Thày, con tin và anh sấp mình thờ lậy Chúa”. Từ đây, anh trở nên một tìn hữu nhiệt thành và một tông dồ can đảm. Đối với anh được khỏi mù phần xác là một sung sướng lớn lao, nhưng được khỏi mù phần linh hồn là một hạnh phúc lớn lao hơn nhiều, vì bệnh mù phần xác chỉ là một bất hạnh tương đối và tạm thời ở đời này, còn bệnh mù phần linh hồn làm mất hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, không thể lấy gì bù lại được. Do đó, những năm ở trần gian, Chúa gặp rất nhiều người mù, nhưng chỉ một số ít được Chúa chữa khỏi, khi về trời Chúa cũng không để lại phương thuốc gì để chữa người mù sáng mắt. Nhưng phần linh hồn, Chúa còn dùng những phương thế hữu hình để soi sáng cho người ta biết Chúa và những chân lý trong Đạo. Những phương thế hữu hình đó thể hiện nhiều cách khác nhau: có khi là một lời khuyên với dòng nước mắt của người mẹ gia đình như bà thánh Mônica đã làm cho thánh Auguttinô là con mình trở lại Đạo chính; có khi là một hiện tượng gây xúc động xẩy đến như đám tang và thi hài tàn rữa của bà hoàng xinh đẹp nhất nước đã làm cho thánh Phanxicô bỏ địa vị chức quyền để tận hiến cuộc đời cho Chúa; có khi là một thất bại trong ước mơ, như việc thua kiện bất ngờ đã làm thánh Anphongsô bỏ đường danh vọng để dâng mình phục vụ Giáo Hội; có khi là gương sáng của người chung quanh như cử chỉ tôn sùng thành kính của người Ả rập đã làm cho cha Sac-lơ Phu-cô lấy lại được Đức tin đã mất từ thời niên thiếu…Tất cả những sự kiện hữu hình trên đây, ta có thể nói là như chất liệu Chúa đã dùng để làm cho người ta sáng mắt linh hồn, nhìn nhân được Chúa và trở lại với Ngài, cũng như Chúa đã dùng chất bùn làm cho anh mù bẩm sinh được sáng mắt rồi sau đó được sáng trí khôn để tuyên xưng Chúa và tôn thờ Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: ánh sáng làm cho người có mắt lành mạnh được dễ chịu và xem thấy sự vật, nhưng cũng làm cho người đau mắt khó chịu và chói lòa. Đức Giêsu là ánh sáng soi trần gian, những ai có thiện chí và tâm hồn ngay lành mới nhận được Ngài, còn những ai thiếu thiện chí và có thành kiến sẽ không nhìn nhận Chúa mà còn phản đối Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chứng minh điều đó, đứng trước phép lạ hiển nhiên Chúa làm, người mù đã nhận Chúa và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, song những người biệt phái thì tìm mọi cách để chối bỏ phép lạ của Chúa và còn trục xuất những ai tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô. Trước sự ngoan cố của họ, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính vì để xét xử mà Ta đã xuống trần gian để những ai không xem thấy thì được xem thấy và những kẻ xem thấy sẽ hóa nên mù”.
Để kết luận, chúng ta hãy xin Chúa cho ta một thiện chí và một tấm lòng ngay lành để chúng ta đón nhận được Chúa khi Ngài dùng các dấu chỉ bề ngoài mà đến gặp ta và tỏ cho ta nhận biết Người. Amen
19. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng
BÀI 2
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng mắt.
Trước phép lạ hiển nhiên đó, ta thấy có bốn thái độ của những hạn người khác nhau:
– Trước hết là thái độ bàng quan của dân chúng. Họ đứng ngoài cuộc mà nhìn, không tham gia, coi như không liên hệ gì đến mình, do đó, họ phát biểu những ý kiến vu vơ trái ngược nhau. Kẻ thì đặt vấn đề “Phải chăng đây anh mù vẫn ngồi ăn xin?”, người thì nói: “Chính là hắn ta”; kẻ khác lại bảo: “Không phải, nhưng là một tên khác giống như hắn”.
– Sau là thái độ hèn nhát, trốn trách nhiệm của cha mẹ anh mù, ông bà ta biết rõ anh mù là con mình, và anh ta đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, nhưng ông bà không dám nói lên sự thật, không dám làm chứng cho Chúa, ông bà sợ liên can, bị phiền hà vì người Do thái đã bàn tính trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai công khai nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Bởi đó, ông bà đẩy trách nhiệm cho con mình và nói: “Chúng tôi nhận nó là con chúng tôi và bị mù từ mới sinh… nhưng ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự trả lời các ông”.
– Thứ ba là thía độ ngoan cố và ác cảm của người biệt phái, vì các cảm với Chúa Giêsu, họ không muốn nhận Ngài là Đức Kitô. Lại còn ngăn cấm những ai nhìn nhận và làm chứng cho Ngài. Vì ngoan cố họ nhắm mắt trước một sự thật quá hiển nhiên và tìm mọi cách cho người khác phủ nhận sự thật đó. Nhưng không may cho họ, những lập luận ngụy biện của họ không thuyết phục được anh mù mà còn bị anh phỉ báng những lời lẽ đanh thép khiến họ phát khùng đến nỗi dùng quyền lực đàn áp công lý truc xuất anh ra khỏi hội đường. Thái độ ác cảm và ngoan cố của họ bị Chúa lên án khi Ngài tuyên bố: “Ta đến trần gian để cho những kẻ không xem thấy được xem thấy, còn những kẻ xem thấy trở nên mù”.
– Sau cùng, thái độ của anh mù là phục thiện, thẳng thắn và kiên cường. Người phục thiện luôn sẵn sàng từ bỏ quan điểm riêng mình để lằng nghe lẽ phải, nhìn nhận sự thật. Người luôn sẵn sàng bệnh vực lẽ phải, làm chứng cho sự thật theo tiếng lương tâm. Không quanh co dấu diếm, không chiều đời cho yên phận. Thánh Phaolô một lần đã phản đối thánh Phêrô vì không thẳng thắn. Đó là, trước khi những người Do thái đến thì thánh Phêrô ăn uông với người dân ngoại tân tòng, nhưng khi người Do thái đến thì Phêrô lẩn tránh vì sợ họ phê bình, Trước thái độ mập mờ không hợp tinh thần Phúc âm như vậy, ông Phaolô đã nói với ông Phêrô: “Ông là người Do thái mà muốn sống theo kiểu dân ngoại, có lẽ gì ông bắt người dân ngoại sống theo kiểu Do thái?”(Gal 2, 12-13)
Trở lại người mù trong Phúc âm, chúng ta thấy anh ta rất phục thiện và thẳng thắn. Anh dám nhìn thẳng vào sự thật, mặc dù người khác cố tình phủ nhận. Khi người ta hỏi làm thế nào mà anh được sáng mắt, anh trả lời ngay: Ông mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi, bảo tôi đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi trông thấy. Vì không che dấu được phép lạ Chúa Giêsu đã làm, những người Do thái đổi chiến lược vào uy tín của Ngài. Họ nói với anh mù: “Chúng tôi biết Thiên Chúa đã phán với ông Maisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến. Anh mù thẳng thắn trả lời cái đó mới lạ chứ! Ông ấy đã mở mắt cho tôi mà các ngài không biết bởi đâu mà đến…” “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt cho người mù bẩm sinh, nếu người ấy không bởi Thiên Chúa. Qua cuộc rtanh luận đó, ta thấy anh mù rất phục thiện và thẳng thắn, hơn nữa anh còn tỏ ra kiên cường nghĩa là trung thành giữ vững lập trường không ngại khó khăn, không sợ đe dọa, sẵn sàng đón nhận hậu quả là bị trục xuất ra khỏi hội đường và bị coi như người ngoại giáo.
Ngày nay, Chúa đã về trời, Đạo Chúa đã được rao giảng khắp nơi và từ hai nghìn năm nay, thái độ của nhân loại đối với Đạo Chúa cũng như những người đồng thời với Chúa.
Trước hết, là những người bàng quan, không xét đến vấn đề tôn giáo, vì họ còn bận tâm làm những việc khác mà họ cho là thiết thực hơn.
Sau là những người tin Đạo, nhưng chỉ giữ Đạo tại tâm, không dám tuyên xưng Đạo ra trước mặt thiên hạ, không dám lên tiếng bệnh vực sự Đạo khi cần thiết, giống như bố mẹ anh mù trong bài Phúc âm hôm nay.
Thứ ba là những người ác cảm với Đạo và bách hại những ai tin Đạo, như những người biệt phái ác cảm với Chúa, cố tình phủ nhận phép lạ Chúa làm, và trục xuất những ai tuyên xưng Chúa là Đức Kitô.
Sau cùng là những người có tâm hồn trong sạch, ý chí ngay lành, đã tin theo Chúa và sẵn sàng chịu mọi khó khăn để trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo mà lịch sử Giáo Hội đã ghi lại những tấm gương anh hùng.
Xưa, khi Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền thờ, có cụ già Simêon ẵm Chúa trên tay, tuyên xưng Chúa là ánh sáng soi các dân tộc, cụ cũng nói tiên tri về tương lai của Chúa và thái độ người đời đối với Ngài. Cụ nói: “Trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người vấp phạm và nhiều người chỗi dậy”(Lc 2, 34). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm. Cũng một cái đèn sáng nhưng sinh hiệu quả khác nhau tùy thái độ mỗi người trước cái đèn đó, ai quay mặt về hướng đèn sẽ nhìn thấy ánh sáng và biết đường đi, ai quay lưng lại, thì bản thân họ sẽ tạo nên bóng tối, làm họ vấp ngã.
Trong Phúc âm, Chúa cũng xưng mình là ánh sáng thế gian, ai theo Ngài sẽ không bước đi trong tối tăm.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn trong sạch, một ý chí ngay lành, một niềm tin vững mạnh để bước theo Chúa cho đến cùng. Chúa là đường, là sự thật, là sự sống, bước theo Chúa chúng ta sẽ không lầm lạc, ở trung thành với Chúa ta sẽ được sống đời đời.
(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)
Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
- Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:
– Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
– Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
– Chưa đúng hẳn!
– Vậy cụ dạy thế nào ạ?
– Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.
- 2. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.
Nhật hoàng:
– Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.
– Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.
– Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!
– Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!
– Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?
– Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
- Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.
Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt “như cửa sổ tâm hồn”, chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người “thấy” được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.
Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày…. Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết “mở mắt” ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng thăm, tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.
Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã “Thấy” Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên “dấu chỉ” sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.
Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn… Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.
Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh “sáng mắt” chối bỏ những “dấu chỉ”. Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo “Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù” (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.
Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen.
22. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!
(Suy niệm của Lm. Phaolô Trương Hoàng Phong)
Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.
Nhưng anh mù từ chối và nói:
– Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!
Người bạn mới giải thích:
– Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!
Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:
– Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?
Người kia trả lời như sau:
– Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!
Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.
Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:
- Mù loà về bản thân
Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.
- Mù loà về tha nhân
Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.
- Mù loà về Thiên Chúa
Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.
23. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc
Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”
Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”
Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.
***
Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng thánh Gioan 9:1-41 quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt Đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh sáng của trần gian.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của Đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới Đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình Đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.
Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabát, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hoá ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hoá ra mù.
Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ. Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lỗi lầm. Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt. Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: “Đấng là ánh sáng thế gian”.
Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chai lì của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.
Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: “Sự thật sẽ giải thoát chúng con” (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.
***
Lạy Chúa, chỉ những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình. Xin đừng để chúng con ở lì trong bóng tối tội lỗi của mình, nhưng xin dẫn dắt chúng con bước đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuối thế kỷ 18 là thời kỳ được các triết gia gọi là Thời Kỳ Ánh Sáng, vì vào giai đoạn này nền triết học được hồi sinh và đem đến nhiều tư tưởng mới cho nhân loại, đồng thời đây cũng là thời kỳ khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều người cho rằng với sự phát triển của cả lý trí và khoa học như thế, thế giới và con người được khai sáng khỏi những u mê lạc hậu, và nhất là những người cực đoan còn cho rằng đây là thời kỳ con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của các tư tưởng tôn giáo, được giải thoát, được bay bổng trong bầu trời của ánh sáng tự do. Tuy nhiên những ước mơ và dự đoán đó không như con người dự tính, chính khoa học và cả triết học các thời kỳ sau đó đã để lại những khoảng trống tăm tối cho con người, và thay vì con người được khai sáng tự do, thì nó lại trói buộc con người vào những hình thức nô lệ mới của khoa học và công nghệ, nó mãi mãi cho thấy sự giới hạn và bất lực của con người.
Trong khi đó Lời Chúa của Chúa nhật thứ IV mùa chay lại giới thiệu cho chúng ta về Đức Giêsu là ánh sáng, Ngài đem ánh sáng đến thế gian để giải thoát con người khỏi sự mù tối của u mê lầm lạc, Ngài đem ánh sáng của Tin Mừng đến để giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối thế gian và vật chất, giúp con người sống đúng với địa vị phẩm giá mà Chúa trao ban.
Qua câu chuyện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh, Thánh Gioan cho thấy Chúa đã khai sáng không chỉ cho người mù, mà còn cho mọi người chung quanh anh nữa. Người Do Thái thời Đức Giêsu bị bao trùm bởi rất nhiều những quan niệm sai lạc, kể cả các tông đồ cũng thế, các ông vẫn nghĩ rằng người thanh niên kia bị mù là do tội của anh ta hoặc tội của cha mẹ anh ta, nên họ mới hỏi Chúa Giêsu: “Anh bị mù do tội của anh hay tội của cha mẹ anh?” Nhưng Chúa Giêsu đã thay đổi suy nghĩ cổ hủ của các tông đồ, khi Ngài khẳng định với các ông: “Anh bị mù không phải vì tội của anh, cũng không bởi cha mẹ anh, nhưng là để mọi người được thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”. Cùng một sự kiện, nhưng Chúa muốn các tông đồ nhìn theo chiều hướng tích cực và trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn mang tính kết án.
Đối với người mù, Chúa Giêsu đã chạm đến mắt anh, tức là động chạm đến cả con người của anh, không chỉ chạm bằng tay, mà còn là sự đụng chạm gặp gỡ của trái tim, của tình yêu của một vị Thiên Chúa làm Người, dành cho một con người bất hạnh, bị xã hội loại bỏ, bị gán cho muôn vàn thứ tội. Ngài không chỉ mở mắt thể xác cho anh, mà Ngài còn mở mắt linh hồn để anh nhìn thấy Đức Giêsu là một vị ngôn Sứ, trong khi những người Biệt Phái bị bao trùm bởi bóng tối của sự tự cao tự phụ, cho mình cái quyền kết án người khác, họ bị thành kiến che mờ mắt, khiến họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người vi phạm ngày Sabat. Sau khi được sáng mắt, thì người trước đây bị mù được khai sáng đã trở thành người hết sức bênh vực cho Đức Giêsu, anh khẳng định: “Ngài là một vị Ngôn Sứ”.
Với đám đông người Do Thái cũng thế, họ bị trói buộc trong những tập tục của mình, khiến họ khó lòng đón nhận được ánh sáng mới từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, họ đến để gây áp lực với cha mẹ của anh mù: “Đây có phải là con ông bà không? Có phải nó bị mù từ khi mới sinh không? Tại sao bây giờ nó lại thấy?” Vì sợ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng, nên cha mẹ anh mù đã để cho bóng đêm của sự sợ hãi giam giữ khiến họ không dám tuyên xưng Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, mà họ đã nói tránh rằng: “Con tôi nó lớn rồi, các ông cứ hỏi nó.”
Còn đối với người mù đã được chữa lành, anh đã hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi cho dù người Do Thái đã nhiều lần chất vấn anh, lần này họ muốn anh nhân danh Thiên Chúa để vu cáo cho Đức Giêsu là người tội lỗi. Nhưng câu chuyện cho thấy anh đã bước một bước dài trong đời sống đức tin, anh không chỉ tin Đức Giêsu là một Ngôn sứ, mà giờ đây anh còn can đảm làm chứng và bênh vực Ngài, anh lặp lại việc Chúa Giêsu đã chữa anh và anh tuyên bố: “Trước đây tôi bị mù nhưng nay ông ấy đã chữa cho tôi được sáng.” Anh còn trở thành người giải thích về quyền năng của Thiên Chúa cho những người chung quanh:” Ai kính sợ Thiên Chúa, luôn làm theo ý Người thì Người nhậm lời kẻ ấy… nếu không phải bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ấy sẻ chẳng làm được gì.”
Trước một đức tin non nớt lại gặp thử thách bởi những thành kiến, quan niệm và tập tục của những người chung quanh, nên khi gặp lại anh, Chúa Giêsu đã dẫn anh lên một bước cao hơn, củng cố đức tin cho anh, khi Ngài mời gọi anh tuyên xưng đức tin: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh thưa: “Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu xác nhận với anh: “Chính Đấng ấy đang nói với anh đây”. Và anh đã tuyên xưng: “Thưa Ngài tôi tin và sấp mình xuống trước mặt Ngài”. Đó là thái độ thể hiện sự vâng phục của đức tin nơi anh mù, anh sấp mình để thờ lạy Ngài.
Như thế, ánh sáng của đức tin khác với ánh sáng của khoa học, của triết học và khác hẳn với ánh sáng của tự nhiên, để nhìn thấy được ánh sáng này đòi phải có một con mắt của linh hồn thật trong sáng, vì cái nhìn của con mắt loài người bên ngoài có thể lầm lẫn, có thể đánh lừa và dẫn đến sai lạc, còn ánh sáng của Tin Mừng của Đức Giêsu thì chiếu dọi vào trong tâm hồn, những ai mở cửa tâm hồn, thì đón nhận được ánh sáng này, và những ai khiêm nhường thì sẽ được ánh sáng này dẫn lối và đưa đến hạnh phúc. Sách Samuel cũng cho thấy sự khác biệt giữa cái nhìn của Thiên Chúa và cái nhìn của con người trong việc Samuel được sai đi xức dầu chọn Đavít làm vua Israel. Con người chỉ nhìn và đánh giá sự việc theo cái nhìn và tiêu chuẩn bên ngoài, còn Thiên Chúa lại nhìn thấu tâm hồn và Ngài đánh giá tuyển chọn một con người là tùy ở thái độ tâm hồn của người đó sẵn sáng đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Thưa quý OBACE, thánh Phaolô đã quả quyết rằng: “Nhờ ơn của Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã trở nên con cái của ánh sáng, con cái của Tin Mừng và vì thế, chúng ta phải ăn ở, phải sống cho xứng đáng là con cái của ánh sáng, tức là phải sống công chính, ngay thẳng lương thiện, và không bao giờ được tán đồng, làm ngơ hay cộng tác với sự dữ và bóng tối”.
Mặc dù đã là con cái sự sáng, nhưng chúng ta vẫn bị ma quỷ lôi kéo chúng ta vào bóng tối hoặc vì để mình sống trong tình trạng tội lỗi gian dối, nên chúng ta sợ ánh sáng, sợ những gì là minh bạch. Còn rất nhiều những bóng tối đang bao trùm trong các gia đình, đó là bóng tối của bất hạnh, cãi vã, đổ vỡ, của sự bạo hành, bóng tối của gian dối, của việc làm ăn lươn lẹo, bất công. Giống như những người Do Thái, nhiều người đã sống trong sự cố chấp, bảo thủ trong sự sai lầm của mình, không dám đón nhận ánh sáng sự thật của Đức Kitô và Tin Mừng và vì thế, họ dùng nhiều lý do để gạt bỏ Đức Giêsu ra khỏi tâm hồn, ra khỏi công việc và đời sống của gia đình. Chúa Giêsu là Đấng đem đến cho chúng ta ánh sáng cứu độ, chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu và sự săn sóc của Chúa, song nhiều người đã nhất định từ chối Ngài, và muốn tự mình bước đi trong bóng tối của thế gian, của ma quỷ và của dục vọng.
Trong xã hội ngày nay còn nhiều những bóng tối và sự mù lòa khác, sự mù lòa của những kẻ nhân danh khoa học để từ chối không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, xã hội ngày nay bị che phủ bởi bóng tối của sự gian dối, của bất công, khiến cho nhiều người bị lầm lạc và lẫn lộn không thể phân biệt đúng hay sai; sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng kéo theo nó bóng tối của sự ích kỷ, dửng dưng khiến cho nhiều người quên mất sự hiện diện của người bên cạnh. Bên cạnh đó còn bao nhiêu những triết lý, học thuyết sai lạc đang dẫn con người đi vào ngõ cụt, đang hủy hoại tâm hồn của nhiều thế hệ, biến nhiều tâm hồn trở nên khô cằn sỏi đá không còn nhạy bén trước lời mời gọi của Tin Mừng nữa.
Những loại bóng tối mù lòa này đang ảnh hưởng và bao trùm trên nhiều người trẻ, khiến cho nhiều bạn trẻ lạc đường mất hướng, sống một cuộc sống không có mục đích, không lý tưởng, hoặc biến nhiều người trẻ khác lao vào những hình bóng, ảo ảnh của danh vọng, địa vị, tiền bạc, và đoạn cuối của con đường này là sự bế tắc và trống rỗng. Chỉ có Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới là ánh sáng thật soi rọi cho chúng ta, giới răn và lề luật của Ngài sẽ chữa chúng ta khỏi sự mù lòa của thể xác và tâm hồn, tình yêu của Ngài sẽ dẫn lối chúng ta bước đi trong ánh sáng của tự do, của sự thật, của công lý.
Xin Chúa giúp chúng ta noi gương Mẹ Maria mạnh dạn mở tung mọi cánh cửa của tâm hồn để cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu dọi vào mọi góc khuất của cuộc đời, biến chúng ta nên con cái của ánh sáng, giúp chúng ta loại trừ bóng tối của chết chóc, giúp mỗi người sống và hành động như là con cái của ánh sáng. Amen.
Tuần qua Đức Kitô đàm đạo với chị phụ nữ tại giếng nước. Chị nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa và xin Ngài ban cho nước trường sinh. Nước rửa sạch tội đời để được sống muôn đời.
Tuần này câu chuyện người mù từ lúc mới sinh cho thấy lợi ích khác của nước. Nước rửa sạch bụi trần, lột trần tăm tối. Mang lại ánh sáng cho người mù giúp anh trở nên con người mới. Con người của niềm tin, nhân chứng trung kiên cho Đức Kitô.
Người ta thường nói mù dẫn mù cả hai sa xuống hố. Câu chuyện người mù hôm nay Chúa thực hiện trái ngược thói đời. Người mù chỉ đường cho kẻ tự nhận sáng mắt.
Bởi vì tự hào mình sáng nên không biết là sáng mắt thể lí có thể mù mắt tâm linh và mù mắt thể lí có thể sáng mắt tâm linh.
Có lẽ trong ánh sáng ngầm chứa mầm tối và trong tối ẩn dấu sự sáng. Mạnh sẽ khống chế yếu. Nếu ánh sáng mạnh hơn nó sẽ, đẩy lui làm lu mờ bóng tối. Nếu bóng tối mạnh hơn nó sẽ bao trùm, phủ kín ánh sáng.
Người mù từ lúc mới sanh từng sống trong tăm tối. Anh trở nên sáng vì anh khao khát ánh sáng. Khi ánh sáng đến anh vui mừng đón nhận. Anh trân trọng chào đón và mắt anh được sáng. Anh nhìn thấy vật mà trước đây chưa từng thấy. Anh còn nhìn rõ hơn cả những nhà lãnh đạo trong cộng đoàn. Chính vì nhìn rõ, tốt và chính xác hơn mà nhà lãnh đạo ghen, tức với anh. Họ xỉ vả và cuối cùng lạm quyền xua đuổi anh khỏi hội đường. Anh mù được sáng mắt thể lí. Quan trọng hơn anh còn sáng cả con mắt tâm linh, con mắt đức tin. Nhờ thế mà anh nhìn và nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ. Mắt anh từ từ được mở ra.
Đầu tiên anh không nhìn thấy Đức Kitô.
Anh nhận biết Ngài như thầy thuốc nhân hậu
Anh tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.
Chính nhận biết này mà anh gặp rắc rối, chống đối từ các người tự nhận là sáng mắt. Họ kết án anh là quân tội lỗi. Không phải tội thường mà tội ngập đầu. Có nghĩa là anh sinh ra trong đống tội.
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư. Rồi họ trục xuất anh c.34
Điều lạ
Điều lạ lùng là người mù bị hất hủi mà không giận hờn. Bị xua đuổi mà không tủi hổ. Bị coi thường mà vẫn kính trọng người. Bị đối xử bất công mà vẫn công tâm làm chứng. Bị áp bức không sờn lòng. Rất có thể anh đã quen với lối xã hội đối xử bất công với người tàn tật. Điều chắc chắn là ơn Chúa trong anh mạnh hơn mọi khốn khó. Ơn chúa ban cho anh an bình nội tâm nên anh bình tĩnh, trung kiên, trước sau như một, làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Một nhân chứng gây chia rẽ trong nội bộ nhà lãnh đạo. Phúc âm nhắc rất vắn gọn.
Thế là họ đâm ra chia rẽ c.16
Điều lạ khác là hàng xóm, láng giềng không nhận ra anh. Kẻ xác quyết chính anh. Kẻ khác cãi không phải. Kẻ nữa trung dung hơn giải thích, không phải anh mà là người nào đó trông giống anh. Tất cả đều tự nhận mình mắt sáng nhưng đều không biết mình mờ khi cần phải quan sát, nhận định. Càng không nhận ra nhận định của mình mù quáng.
Có lẽ giọng nói người mù vẫn như xưa, còn mọi sự đều mới. Mắt anh sáng. Cách xử thế trong sáng. Dáng đi thay đổi, không còn dò đường như xưa. Anh đứng thẳng mà không khòm lưng kiểu xin ăn. Anh thành con người mới trong Đức Kitô. Thay đổi tốt hơn nơi anh không mở mắt cho người mắt sáng. Trái lại làm cho họ mù mờ thêm.
Người ta mù mờ ngay cả với sự xác nhận của anh. Anh quả quyết chính anh là người mù, được Đức Kitô chữa làm cho sáng mắt. Anh còn kể mạch lạc đầu đuôi, diễn tiến sự việc, dẫu thế người ta vẫn mù loà trong lối suy nghĩ cứng nhắc của mình. Cứng ngắc trong phán đoán là một loại mù quáng ít ai chấp nhận. Người ta bảo anh
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu c.34
Với họ anh luôn là tội nhân. Tật mù loà bẩm sinh của anh trở thành một tội không thể tha thứ. Giờ đây anh sắng mắt. Người ta muốn anh chối bỏ chính con người anh. Nếu không chối bỏ, được sáng mắt anh vẫn mang kiếp tội nhân. Trong tâm trí nhà lãnh đạo anh luôn là tội nhân. Anh không được phép thay đổi. Sanh ra kiếp nào mang số đó đến ngàn đời. Đức Kitô đã thay đổi số kiếp cho anh. Biến anh thành chứng nhân Kitô cho dân tộc anh, cho thế giới.
Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người c.38
Anh sấp mình xuống trước mặt Ngài biểu tỏ lòng khiêm nhường nơi người mù. Anh sấp mình xuống, vì anh hạ mình xuống nên Đức Kitô nâng anh dậy và cho anh nhận biết sự sống trường sinh. Anh có một ước mong duy nhất, được mắt sáng và anh được toại nguyện. Sáng mắt, anh ước mong được trở thành môn đệ Đức Kitô và Ngài đón nhận anh. Nghe nói họ trục xuất anh. Đức Kitô tìm đến an ủi, tạo cho anh cơ hội tuyên xưng đức tin. Thưa Ngài, tôi tin.
Nhà lãnh đạo có mắt mà nhìn không thấy vì bản tính cao ngạo của họ. Chính bản tính cao ngạo này gây chia rẽ giữa họ. Làm cho họ ra mù mờ về Đức Kitô, cản trở họ nhận biết Đức Kitô và cản trở người khác đón nhận Chúa. Chúng ta cầu xin biết sống khiêm nhường bởi đây là lối sống dẫn đến sự sáng tâm hồn.
26. Đón nhận chân lý – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Câu chuyện hôm nay đặt ra trước mầu nhiệm khôn lường của sự từ khước ánh sáng. Phái Pharisêu không tự truy vấn mình, kiểm thảo mình, lại từ chối sự thật hiển nhiên bằng cách khai trừ người mù được chữa lành. Để hiểu rõ hai chi tiết trong bài, nên lưu ý điều này là, theo quan niệm thông thường, nước miếng có sức chữa lành. Ta hiểu tại sao Chúa Giêsu đã làm bùn xức vào mắt người mù. Đức Giêsu thường ghép hành động thần thiêng của Người vào trong các thực tại tự nhiên khiêm tốn nhất. Đàng khác, sở dĩ người Pharisêu tố cáo người mù đã sinh ra trong tội, là vì theo đạo lý họ, bệnh tật là hình phạt về một lỗi phạm –ở đây là lỗi phạm của cha mẹ- Đó là điều Chúa phản đối. Câu chuyện về người mù đặt ra một cách gay cấn vấn đề đón nhận chân lý như thấy hiện ra khắp nơi trong các bản văn của thánh Gioan. Ở đây ta đứng lên trên cả vấn đề phép lạ và hiệu năng của phép lạ xét như dấu hiệu; ta đứng trước một sự mù quáng tinh thần không chịu nhìn xem chính cái dấu hiệu nữa. Lòng thù ghét có sức tạo nên một trạng thái tâm lý làm cho con người nên đui mù. Khi tâm hồn bị đóng kín lại, nó không còn thấy điều hiển nhiên nữa. Cả đến sự thật bên ngoài khách quan về việc người mù đã lành bệnh, ai ai cũng biết hết, thế mà người Pharisêu vẫn từ chối, vẫn bài bác. Có lần Chúa Giêsu đã phải nói với người Do Thái rằng dù một phép lạ xảy ra trên trời (gây chấn động mạnh mẽ) cũng khó cho họ nhìn nhận.
Thái độ từ khước ánh sáng có nhiều đặc điểm. Sau đây là hai đặc điểm:
1) Người ta lấy một khía cạnh của sự thật, cô lập nó, dựng nó lên thành tuyệt đối, mà quên rằng nó tuỳ thuộc vào những yếu tố khác quan hệ hơn của sự thật ấy. Kiêng việc xác ngày lễ nghỉ là một điều luật. Giữ luật ấy là việc tốt. Nhưng nó lệ thuộc vào luật bác ái, luật này cao trọng hơn. Vậy mà người Do Thái xem nó là một điều tuyệt đối. Nhân danh ngày “lễ nghỉ”, họ từ khước lòng bác ái. Lối suy nghĩ này là đầu giây mối nhợ của bao nhiêu vụ tranh luận, cãi cọ mà họ kéo Chúa Giêsu vào. Trong Giáo Hội hiện nay cũng có nhiều hiện tượng thuộc loại này. Ví dụ: người ta tách riêng một ít trong Phúc Âm, coi đó là tuyệt đối, rồi sử dụng để biện minh cho bạo lực nhân danh Tin Mừng.
2) Người ta ngồi vào trong một hệ thống ý tưởng mà họ quyết đoán là đúng. Họ làm như thế có thể là vì trí không hướng nhiều về dường ấy, vì một lợi ích nào, vì tình liên đới với phe nhóm v.v… Nét tiêu biểu là ở chỗ họ coi mình là người biết, người sáng suốt, người hiểu rõ, Chúa Giêsu trách bọn Pharisêu vì họ nói: “Chúng tôi thấy”. Trước một não trạng như thế, khi chân lý xuất hiện một cách khác thường, nó sẽ không được nhìn nhận. Mà trong đời sống con người, chân lý của Chúa thường mặc những hình thức bất ngờ và gây khó chịu cho thói quen của ta. Chân lý ấy làm nổ tung mọi hệ thống tư tưởng và mọi chương trình hành động. Người Kitô hữu khi suy nghĩ cũng như lúc hành động phải chăm chú nhìn những dấu hiệu của Chúa.
Anh chị em thân mến.
Khi ánh hoàng hôn từ từ buông xuống, vạn vật cũng chuẫn bị khép mình để bước vào sự yên lặng của màn đêm, một sự yên lặng bất động.
Khi ánh bình minh từ từ ló dạng, mọi vật bắt đầu vươn mình đón chào một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt trong ánh sáng chan hoà của ngày mới. Mọi công việc đều được hoạt động dưới ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không thể làm gì được. Khi con người làm việc dưới ánh sáng dù cho là ánh sáng ban ngày hay ánh sáng nhân tạo đi nữa thì vẫn phải cố sức mà làm việc, có khi vì công việc mà con người phải vất vả mệt nhọc, nhưng vẫn phải cố gắng vượt qua tất cả. Ánh sáng được mang đến để cho con người có phương tiện thuận lợi mà làm việc. Nếu con người không biết tận dụng những lúc có ánh sáng thì thật là uổng phí, vì khi không còn ánh sáng, con người khó mà thực hiện công việc cho hoàn hảo. Nhưng khi có ánh sáng, không phải lúc nào công việc cũng thành công, cũng có những khó khăn của công việc cho dù với ánh sáng đòi buộc con người phải vượt qua với tất cả quyết tâm của mình.
Một người mù từ lúc mới sinh, nghĩa là anh ta được sinh ra trong bóng đêm của cuộc đời. Anh ta ngồi bất động bên vệ đường chờ người khác ban phát. Anh không hành động gì hết vì chung quanh anh chỉ là bóng tối, nên anh không lãnh trách nhiệm gì hết. Nhưng khi anh vừa sáng mắt, ánh bình minh chiếu vào cuộc đời, thì sự yên tĩnh của màn đêm không còn nữa, mà anh bắt đầu hoạt động, bắt đầu một ngày mới trong ánh sáng. Một ngày mới với tất cả trách nhiệm của cuộc đời. Anh phải đối diện với sự thật, anh phải chọn lựa để làm chứng cho những gì anh biết là sự thật, anh phải chịu trách nhiệm về mình và những việc làm của mình. Anh đã nhìn thấy ánh sáng, anh có trách nhiệm định hướng cho cuộc đời của chính anh, nghĩa là anh phải biết vượt qua những khó khăn trở ngại để bảo vệ hồng ân Chúa. Vừa mới được sáng mắt, anh bị khai trừ khỏi cộng đoàn, bị cha mẹ từ chối, nhưng anh nhất quyết bảo vệ cho ánh sáng mà anh vừa mới nhận được, cho dù phải đối diện với những khó khăn trở ngại.
Nhận được ánh sáng là một niềm vui, nhưng là niềm vui trong trách nhiệm. Có những người không dám nhận ánh sáng, không dám bước đi trong ánh sáng, mà chỉ thích màn đen của bóng đêm.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại cuộc sống của chính mình, xem đang bước đi trong bóng tối, hay đang bước đi trong ánh sáng. Chúng ta đã được lãnh Bí Tích Rửa Tội, đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô hướng dẫn, thế mà trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta muốn từ chối ánh sáng đó, để bước đi trong đêm tối của cuộc đời, để không ai biết, không ai nhìn thấy những hành động việc làm của chúng ta. Những lúc chúng ta muốn trốn chạy ánh sáng, để mọi người không nhìn thấy được con người thật của chúng ta. Đó là những lúc mình chỉ muốn ngồi hưởng những mối lợi không do công sức mình làm ra, những lúc chúng ta muốn cướp công lao cực khổ của người khác mà đem về làm của mình. Những lúc đó có phải chúng ta muốn mình như người mù ngồi bên vệ đường trông chờ vào những đồng tiền bố thí, có khi khó chịu vì người khác bố thí ít quá. Cũng có những lúc chúng ta chỉ muốn sống cho riêng mình chỉ biết hưởng thụ mà bất chấp đến những người chung quanh, không nhìn thấy được những giọt nước mắt phải chảy xuống vì hành động của chúng ta. Những lúc chúng ta không nhìn thấy được trách nhiệm phải làm, phải chu toàn: trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của một người trong xã hội, trách nhiệm làm cha, làm mẹ và cả trách nhiệm làm người. Như vậy chúng ta đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống này, với trách nhiệm của đời người và nhận thức cách chính đáng, để chu toàn thật tốt đẹp, cho dù có những sóng gió cũng không làm cho mình chùn bước. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc tốt đẹp cần phải làm và sẳn sàng hành động cho dù phải gặp những khó khăn trở ngại cũng không sờn lòng. Đó là chúng ta đang bước đi trong ánh sáng thật của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để nhìn thấy ánh sáng Chúa và luôn bước đi trong ánh sáng.
28. Suy niệm của Lm. Tađêô Lê Văn Ý
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy,ánh sáng của Chúa là cần thiết cho con người. Để giải quyết những vấn đề nhân sinh, trước hết phải có ánh sáng của Chúa soi rọi, và con người biết vâng nghe thực hiện lời của Chúa. Bài đọc thứ hai, thư Êphêsô thánh Phaolô nói “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.
Câu chuyện trong Tin Mừng càng chứng tỏ tính cách độc đáo ánh sáng của Chúa. Anh mù từ khi mới sinh, được Chúa Giê su nhìn thấy, Chúa động lòng thương và cứu chữa bằng cách mời gọi anh làm theo lời Ngài chỉ dẫn. phần anh Mù, đã thể hiện niềm tin vào Chúa Giê su, một cách thành tâm thiện chí, anh đã cẩn thận thực hiện lời chỉ bảo của Ngài, nhờ đó mà Anh được sáng mắt. Có thể nói ở đây chúng ta nhận ra, Thiên Chúa luôn là Đấng đi bước trước, ban bố lòng thương xót của Ngài để mang đến cho con người chúng ta ánh sáng thật, nhờ ánh sáng này là nguồn gốc để con người có hướng giải quyết những vấn đề nhân sinh. Cũng như anh Mù, con người cần có niềm tin thật sự vào chính tình yêu của Chúa bằng cách biết vâng nghe, thực hiện lời chỉ dẫn của Chúa nữa, cuộc sống con người mới trở nên trong sáng sáng, thoát khỏi những đau thương và có nhiều niềm vui hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện chữa bệnh cho anh Mù, Điều gây ấn tượng mạnh mẽ cho chúng ta nhận thấy; Anh Mù không những sáng đôi mắt thể xác, mà anh còn nhận ra chính danh Chúa Giê su. Lúc đầu anh chỉ biết một người đang đối thoại thân mật với anh tên là Giê su, rồi dần dần anh nhận ra Ngài là một ngôn sứ và cuối cùng Anh đã quỳ lạy nhìn nhận và tuyên xưng Ngài là một Thiên Chúa: “Lạy Chúa con tin”. Chúa Giê su cùng một lúc khai sáng con mắt thể xác và đôi mắt tâm hồn của anh Mù. Anh không những được hạnh phúc phần xác và còn đạt đến hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn vì anh đã biết tuyên xưng Chúa Giê su là Chúa của mình.
Trong Tin mừng hôm nay xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về nguyên nhân gây nên bệnh mù, về Người cứu chữa. Đó là cái nhìn của con người, còn Chúa Giê su thì trả lời cho các môn đệ “ Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội…..Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng…bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Chúa Giê su có một nhãn quan khác chúng ta, cái nhìn của Ngài hoàn toàn khác với chúng ta. Ngài quan tâm đến hoàn cảnh đau khổ hiện tại của anh mù, và nhiệm vụ Ngài được sai đến. Ngài muốn thi hành sứ mạng đặc biệt của Ngài để chứng tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho loài người, làm cho con người khỏi đau khổ đi đến hạnh phúc và đỉnh cao là giải phóng, cứu độ con người.
Cuôc sống con người ngày nay, người ta tưởng chừng như đạt đến nhiều tiến bộ đến tột cùng. Các nghành công nghệ phát triển một cách nhanh chóng vượt bậc, như công nghệ tin học, điện tử, các lãnh vực khác nữa của khoa học kỹ thuật làm cho con người lên tới tận mặt trăng, sao hỏa v.v. chính vì vậy mà con người ngày nay có vẻ tự hào về những thành quả đạt được. Tự hào đến độ cho rằng chỉ cần nhiều tiền, nhiều của cải vật chất phát triển khoa học là giải quyết được những vấn nạn nhân sinh, vì thế không ít người, suốt cuộc đời lao vào những lãnh vực tìm kiếm cho được nhiều tiền của. Dưới ảnh hưởng của sự tự mãn nơi con người trong xã hội hiện đại này, nhiều người đã có những ý tưởng tôn thờ chủ nghĩa duy vật chất, duy khoa học kỹ thuật, tôn thờ năng lực con người, và cũng từ đó nhiều hệ quả kéo theo là cuộc sống trở nên tục hóa trầm trọng, vô cảm và tinh thần hưởng thụ tràn ngập. Biết bao nhiêu điều đạo đức thánh thiên bị con người làm giảm xuống đến mức độ tệ hại, như nhân phẩm, phụ nữ, trẻ em, thai nhi, hôn nhân, con người, sự sống v. v và các vấn đề thiêng liêng khác nơi các tôn giáo cũng bị ảnh hưởng không kém: những nghi lễ bị biến dạng, đôi khi chỉ còn là những lễ hội vui chơi. Rồi một hiên tượng nữa cuộc sống đang diễn ra trước mắt chúng ta đó là tình trạng tha hóa, sa đọa, suy đồi về đạo đức, dối trá lan tràn cũng được bày ra không ít. Tinh thần tục hóa và chủ nghĩa tương đối ảnh hưởng không nhỏ đến cách sống đạo nơi người kitô hữu hiện nay.
Tự hào như thế, chủ nghĩa duy khoa học hay vật chất chủ nghĩa mang một tham vọng rất lớn, cũng không giải quyết nỗi những căng thẳng trong những vấn đề trung tâm của cuộc sống con người. Trên thế giới và tại nhiều miền khác vẫn còn đầy dẫy những đau khổ, bất hạnh, hố phân cách giữa giàu có và nghèo đói mỗi ngày một lớn hơn, nạn phá thai, ly dị, sự đổ vỡ hạnh phúc, gia đình ly tán, chiến tranh, loạn lạc, xung đột, môi trường sống ô nhiễm, hư hại, tính an toàn trong thức ăn thức uống, giao thông bị đe dọa cách trầm trọng.
Người ta dùng những hiểu biết khoa học kỹ thuật để giải quyết cuộc sống. Nhưng kết cục, cuôc sống con người ngay nay vẫn nằm trong vòng lẫn quẫn, chưa mang lại an bình và hạnh phúc thật sự. Thế giới tương tự như người mù, trong tối tăm, mất ánh sáng, loay hoay dò dẫm tìm hướng đi cho mình, nhưng chưa có lối thoát đích thực vì quá cậy dựa vào khả năng giới hạn của mình. Còn quá nhiều góc tối vẫn tồn tại trong thế giới hiện tại
“Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.” (trích sứ điệp truyền thông của ĐGH Phanxicô)
Mù tối giam giữ chúng ta trong tối tăm, lầm lạc, bức màn đen tối luôn phủ khắp không gian, chúng ta dường như lần mò trong đường hầm không chút ánh sáng, mọi hoạt động trở nên vất vả, hết sức khó khăn. Ánh sáng thật cần thiết cho chúng ta, nhờ nó chúng ta mới dễ dàng nhận thấy đường đi nước bước đời mình. Mù tối, mê muội cần phải được tháo gỡ khỏi cuộc sống con người chúng ta. Chúa Giê su đã thi hành sứ mệnh “mở dạy kẻ mê mụội”, giải thoát người mù tối, mang lại ánh sáng niềm tin cho con người chúng ta.
Để thoát khỏi tình trạng mù tối, lẫn quẫn, bế tắt, con người ngày nay hơn bao giờ hết, được các giáo huấn của Giáo Hội mời gọi đến gặp gỡ Chúa Giê su là ánh sáng khai mở của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, gặp Ngài trong đối thoại, người Kito hữu gặp Ngài trong cầu nguyện, kinh nguyện sáng tối, trong ân sủng các Bí tích và biết khiêm tốn vâng nghe thực hành những chỉ dẫn của Thiên Chúa là Cha qua Đấng trung gian duy nhất,Chúa Giê su Kito. Giáo lý của Ngài chính là những hướng dẫn đưa cuộc sống con người thoát ra khỏi mù tối.Chúa Giê Su, một Thiên Chúa làm người, chỉ Ngài mới đủ quyền năng để cứu chữa con người chúng ta. Ngài là ánh sáng từ Thiên Chúa đến soi rọi vào cảnh đời tăm tối, cứu chữa sự mù lòa nơi cuộc sống con người trần gian. Chỉ những ai, những cộng đồng xã hội nào, tiếp cận gặp được Ngài, thực hiện những gì Ngài chỉ giáo thì kể như gặp được ánh sáng nơi Ngài và có được cơ hội vượt khỏi sự tối tăm đau khổ.
Việc khai sáng của Chúa Giê su thực hiện cho anh mù, ngày nay cũng chính là công việc của người ki tô hữu chúng ta nữa. Với đời sống của mình, chúng ta được mời tham gia vào việc khai sáng cho người tối tăm lầm lạc, mang ánh sáng đến cho đời bằng những việc làm thiết thực, đạo đức thánh thiện, như những ngọn đèn luôn cháy sáng soi roi cho trần gian hôm nay.
(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù trong Tin Mừng hôm nay, khiến chúng ta phải suy gẫm về sự mù của chúng ta, cái mù trong tâm linh, như những người Pharisiêu.
Câu chuyện Tin Mừng cho thấy, sau khi được chữa lành thì người mù có được đức tin, còn những người Pharisiêu thì lại không tin. Anh mù sau khi được chữa lành thì nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sắp mình xuống trước mặt Người. Còn những người Pharisiêu, dù sau khi tra hỏi cặn kẻ người mù, ai đã chửa cho anh, chửa như thế nào… và họ cũng đã được người mù quả quyết rằng chính Chúa Giêsu đã chửa cho mình, nhưng cuối cùng họ vẫn không tin.
Vì sao những người Pharisiêu lại không tin?
Trước nhất, là vì họ biết được một điều. Điều này lại rất quan trọng đối với họ: Chúa Giêsu chửa bệnh trong ngày Sabat. Ngài đã thực hiện chửa bệnh như một thầy lang và làm trong ngày Sabat, ngày mà theo luật Do Thái là cấm không được làm việc, để dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sabát, nên một số người Pharisiêu kết luận ngay rằng Ngài là người tội lỗi. Một số khác lại thắc mắc: “Một người tội lỗi sao lại làm được những dấu lạ như vậy?” (Ga 9,16). Họ đâm ra chia rẻ.
Ở đây, việc nhìn thấy tội nơi người khác đã khiến cho những người Pharisiêu đã không nhận ra được sự thật. Cái tội, cái xấu của người khác như là một tấm chắn hay một cặp kính đen thui, mà nếu ta đặt trước mắt, thì khiến ta không thấy, không hiểu biết được những việc khác trước mắt.
Điều này càng rõ hơn, ở phần Tin Mừng kế tiếp. “Họ lại hỏi người mù: ‘Còn anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?’ Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”. Họ đối lại: ‘Mày sinh ra đã tội lỗi ngập đầu, thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9, 17,34).
“Mày sinh ra đã tội lội ngập đầu” là câu mà họ gán cho người mù từ mới sinh. Họ đã nhìn thấy sự bất hạnh, tật nguyền của kẻ khác là do tội lỗi. Nếu tật nguyền từ khi mới sinh thì đã tội lỗi ngập đầu từ lúc ấy! Quả thật, đây là cái nhìn về người khác một cách phi lý.
“… thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư”. Câu này biểu lộ sự khinh khi người khác và tỏ ra tự cao tự đại.
Như vậy, ở đây, có ba điều khiến làm cản trở con người chúng ta nhận ra sự thật hay cản trở cho đức tin:
Thứ nhất, khi thấy người khác phạm luật thì ta cho rằng người ấy tội lỗi. Nếu vi phạm điều luật nặng thì ta cho rằng là phạm tội nặng, bất kể tâm lòng hay lương tâm người ấy như thế nào. Ví dụ như: Người này đã ly dị tái hôn tức là phạm điều răn thứ sáu, người này có tội nặng; người kia nói dối lừa gạt, làm chứng gian, là kẻ đã phạm trọng tội nghịch điều răn thứ tám…
Thứ hai, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, có thân phận đầy bất hạnh thì ta cho họ là tội lỗi. Đây là cái mù do thành kiến, do những kiến thức lạc hậu mà ta vẫn cứ khư khư giữ trong tâm trí.
Thứ ba, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, thì khinh thường họ. Những người Pharisiêu khinh thường người mù, nói rằng: “…thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ (Ga 9,34). Đây là cái mù do tự cao tự đại, cho mình hiểu biết hơn người khác.
Những người Pharisiêu đã không ngờ, họ mới là người mù, còn kẻ mù lại được sáng. Họ có đôi mắt sáng nhưng tâm linh thì mù tối. Còn người mù vừa được chửa khỏi mù thân xác vừa được sáng đôi mắt tâm linh.
Trong cuộc đời chúng ta cũng dễ rơi vào những cái mù tâm linh mà ta không ngờ tới. Những người ta tưởng họ mù nhưng họ lại sáng suốt.
Như trước đây ở Nữu Ước, một thành phố lớn, đang lúc đêm, bổng dưng cúp điện. Một người đàn ông tên John cũng bị kẹt trong đêm đen đó. anh ta bị lạc, quờ quạng và sợ hãi. Anh đi đụng vào một người lạ. Anh xin lỗi, nói với người này vài câu. Không ngờ rằng người này lại là một người biết anh, gợi ý giúp dẫn đưa John về nhà. Người lạ có vẻ thông thạo đường đi và không e sợ. Điều này làm John ngạc nhiên: “Quái lạ tối đen như thế này mà anh ta vẫn đi được dễ dàng”. Cuối cùng họ về đến nhà và John nhận ra người lạ. Đó là người mù trong xóm của anh. Chỉ lúc đó anh mới nhận ra rằng người đã dẫn anh đi trong đêm đen chính là một người mù.
Như vậy, trong trường hợp này, kẻ có mắt lại không thấy, kẻ mù lại thấy. Suy nghĩ thêm về cái mù tâm linh, thì có thể kể như:
- Thành kiến là cái mù đối với sự thật.
- Sự kiêu hãnh là cái mù đối với những lỗi lầm của chúng ta.
- Tính ích kỷ là cái mù đối với nhu cầu của kẻ khác;
- Sự dửng dưng chai đá là cái mù đối với đau khổ ta gây ra cho kẻ khác;
- Duy vật là cái mù đối với những giá trị tâm linh.
Tất cả những cái trên đóng vai trò như một màng chắn cửa sổ. Nó không cho người ngồi trong nhà nhín thấy ra bên ngoài. Chúng ta có thể có đôi mắt tốt nhưng không thể thấy những gì là tốt, là đẹp, là chân lý.
Đức Giêsu đến là để mở mắt người mù. Ngài đã mở mắt cho ông Giakêu trưởng ban thu thuế, mở mắt cho người phụ nữ tội lỗi, cho người trộm lành, cho tất cả những ai muốn tìm thì tìm được con đường về nhà Cha.
Niềm tin vào Chúa Giêsu giúp chúng ta thấy trong bóng tối. Ngài như người bạn đường dẫn chúng ta đi trong đêm tối. Chúng ta hãy đi sát vào Ngài. Chúng ta hãy đặt hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, Đấng đã nói rằng: “Ta là Ánh sáng thế gian. Ai theo Ta không đi trong tối tăm nhưng luôn có ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
XIN CHO CON NHỮNG CON MẮT ĐỂ ĐƯỢC THẤY NGÀI
Đây là bài tường thuật một phép lạ hay sao? Không phải, Gioan nói lên điều này trong hai chi tiết trong câu 41. Ngài thuật lại bước đường đức tin với đầy đủ chi tiết. Đầu tiên, tất cả đều là những người mù. Cuối cùng, một người được sáng mắt và nhiều người bị mù. Chúng ta gặp gỡ với bóng đêm và với Giêsu – Ánh sáng.
Đó là bóng đêm sự dữ và tội lỗi. Đứng trước người mù từ khi mới sinh ra, các môn đệ muốn tìm hiểu.
– Làm sao người ta lại bị mù từ lúc mới sinh, lỗi tại ai?
Chúa Giêsu gạt bỏ một cách nhìn sai về sự vật: thiết lập quan hệ giữa người tàn tật và tội lỗi. Nhưng Ngài không đưa ra một lối giải thích khác, Ngài chỉ muốn là ánh sáng để chúng ta có thể sống điều chúng ta phải sống.
Điều ác kinh khủng nhất, màn đêm ghê gớm nhất, chính là thiếu vắng sự gặp gỡ này với ánh sáng: “Màn đêm tối, và Ta là ánh sáng”.
Phép lạ sẽ là dấu hiệu lớn lao này: Chúa Giêsu ban cho con mắt để được thấy. Nhưng từ chính dấu hiệu này, người mù hoàn toàn đạt được mục đích khi gặp gỡ Chúa Giêsu – Ánh sáng, và những “Người Do thái” (những người chống đối) thì bị thất bại. Người mù ra khỏi bóng đêm: “Lạy Chúa, tôi tin Ngài”. Còn người Do thái thì dấn mình vào bóng đêm: “Ông Giêsu này là người tội lỗi”.
Người mù tuyệt vời! Bổn mạng của những người tìm kiếm ánh sáng. Người mù một mực hướng tới mầu nhiệm Giêsu mà không để mình bị những “người thông thái” khủng bố, và thậm chí nói khôi hài khi mọi người run sợ. Ở đây Gioan viết một trang hết sức sống động, xen kẽ những câu hỏi và những thái độ tức giận: Người ấy là ai? Người ấy đã làm gì cho anh? Người ấy ở đâu? Người ấy là ai vậy? Và anh, anh bảo người ấy là ai? Người này không từ Thiên Chúa mà đến! Nhưng nếu thế thì làm sao người âý có thể làm được những điều như thế? Anh là môn đệ của người đó sao? Anh là kẻ sinh ra trong tội lỗi!
Họ nói “chúng tôi, chúng tôi là những người thông thài, thếmà họ không thấy gì. Người mù trả lời “tôi không biết gì hết”, và anh ta dần dần thấy ánh sáng. Anh nói: “người ấy”, rồi sau đó lại bảo “Ngài đến từ Thiên Chúa”, và cuối cùng là “Lạy Chúa!”.
Người ta có thể đọc đi đọc lại Phúc Âm mà vẫn không thấy Đức Giêsu. Ngay từ đầu, Gioan không ngừng lặp lại điều đó: “Ánh sáng chiếu soi đêm tối, nhưng đêm tối không hiểu được ánh sáng” (Ga 1,5). Đứng trước người mù “thấy” được Ngài và những người Pharisêu nhìn Ngài mà không thấy Ngài, Chúa Giêsu bắt buộc phải nhận xét điều xảy ra khi Ngài xuất hiện: “Người mù trở nên sáng mắt và người sáng mắt trở nên mù”.
Nhưng tôi biết, tôi thấy! Không, chúng ta đọc trang Phúc Âm này đến trang Phúc Âm khác, ngày này qua ngày khác, và chúng ta chỉ “ cố gắng” để thấy Ngài mà thôi. Chúng ta là những kẻ mù được Chúa Giêsu cho mắt hai lần: lần đầu để nhìn Ngài và lần sau để thấy Ngài. Chúng ta đừng ngần ngại lặp đi lặp lại lời cầu nguyện này cho tới giây phút cuối cuộc đời: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con những con mắt để được thấy Ngài”.
Mù lòa là một nỗi bất hạnh. Thà chết còn hơn bị mù. Người mù nhất là mù từ hồi bẩm sinh, không phải chỉ là một thiệt thòi cho đôi mắt, mà còn thiệt thòi cho toàn thể con người và cuộc đời. Thế giới xinh đẹp này đã chết đi trong lòng họ. Họ không có quan niệm gì về màu sắc, về hình dáng những người thân yêu. Ánh sáng và bóng tối cũng như văn minh tiến bộ cũng như không. Đã vậy, họ còn mang nặng mặc cảm tự ti, bất an, lệ thuộc và bị bỏ rơi.
Vì thế, chúng ta hiểu được nỗi khao khát được sáng, dù chỉ rất lờ mờ. Họ làm bất cứ chuyện gì để được sáng, như người mù bẩm sinh hôm nay đã vận dụng tới cả đức tin:
– Lạy Ngài con tin.
Đức tin của anh thật sáng giá. Anh tuyên xưng đức tin trước tòa án, trước công chúng và trước Chúa Giêsu, Đấng đã làm phép lạ cho anh. Vì tin vào Ngài mà anh bị cha mẹ tránh xa không bênh đỡ, bị hội đồng Do Thái trục xuất ra khỏi cộng đoàn, cắt đứt mọi liên hệ trong một thời gian dài vô hạn định. Người ta lên án anh:
– Toàn thân mày sinh ra trong đống tội lỗi.
Một mình anh cô đơn, đứng riêng một phe, tách biệt khỏi cộng đoàn chỉ vì đức tin. Đức tin làm cho chúng ta cũng phải “chia lìa” với cả những người thân yêu nhất trong gia đình, nhưng lại làm cho chúng ta gần gũi Thiên Chúa hơn cả.
Đức tin của người mù hôm nay cũng giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình.
Có người đời sống đức tin lên xuống như nhiệt độ của kẻ bị sốt. Nhất là đối với tuổi trẻ mới lớn, đang đứng trước những khúc quanh của muôn giòng thác tư tưởng.
Có người trưởng thành mà đời sống đức tin vẫn cứ lên xuống bất tử, chỉ vì họ sống theo cảm xúc, lệ thuộc vào ngoại cảnh hay vào những người chung quanh. Một đời sống đức tin lung lay như vậy nhất định sẽ không thể nào nhận biết Chúa, sẽ không thể nào nắm vững được Chúa, chưa tin nhận Chúa là Đấng phải tin cậy. Chúa phán:
– Phải thờ lạy Chúa trong tinh thần và chân lý.
Điều đó có nghĩa là phải thờ lạy Chúa với tất cả tấm lòng chân thành vì Chúa nhìn thấy tự bên trong. Nhưng đồng thời còn phải thờ lạy Chúa trong chân lý.
Trên thế giới này biết bao nhiêu người sùng kính và trung thành với giáo chủ của họ hơn chúng ta, nhưng họ không có chân lý hướng dẫn, còn chúng ta, chúng ta có chân lý hướng dẫn, nhưng chúng ta lại không chịu làm theo.
Thực vậy, có những người đời sống đức tin luôn thay đổi theo cảm xúc và tùy theo hứng. Đó là điều rất tệ hại. Họ không giúp ích gì cho ai được, vì chính họ cũng đang chao đảo, ngả nghiêng.
Ngoài ra, có những người cuộc sống trở nên quá êm ả bình thản, không một chút lo âu, không một sự phấn đấu, đức tin của họ cũng sẽ mau phai tàn. Vì cuộc đời quá bình thản, quá dư thừa, khiến họ không còn chiến đấu và cầu nguyện nữa. Trước mặt Chúa chúng ta không có một chiến tuyến nào rõ rệt để phải xử dụng đến đức tin. Đức tin lúc đó như một viên ngọc lu mờ vì không được mài dũa. Chúng ta xin Chúa đánh thức chúng ta dậy đừng để chúng ta sống trong cảnh êm xuôi ru ngủ để rồi xa lìa Chúa.
Sau cùng có những người đời sống đức tin đang vững chắc nhưng lại gặp nhiều thử thách nặng nề của hiểu lầm, của tai ương và bệnh tật. Trong trường hợp này, chúng ta hãy thận trọng. Đừng nhìn vào quá khứ hay hiện tại, nhưng hãy vươn tới tương lai. Phải nhắm tới mục đích của những khó khăn thử thách. Một người càng kiên vững, thì đức tin càng bị tôi luyên cho đến lúc gặp được chính Thiên Chúa.
Đừng để cho nghịch cảnh làm chủ đời sống đức tin. Nhưng hãy noi gương anh mù, can đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người vì đức tin đòi hỏi một lập trường công khai và quyết liệt.
32. Chúa vẫn trung thành mãi – Lm. Vũ Xuân Hạnh
Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà thôi. Đó là tâm tình của tôi khi suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bị mù mắt từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhận IV mùa Chay. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ có một đường lối đó là trung thành ngỏ lời với con người. Người sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa. Tắt một lời, Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Người không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.
Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa… Càng là những người kiêu ngạo, nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức bao nhiêu, có khi lại là kẻ chống đồi Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.
Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này đã mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa. Còn với các đạo sĩ, những người ngoại giáo, chỉ bằng một ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải. Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ đã hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.
Cũng là một cách tỏ mình, có lẽ còn thế giá hơn sự tỏ mình bằng một ánh sao cho ba nhà đạo sĩ, đó là việc hoàng triều Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem được các đạo sĩ đến với mình, mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời với Hêrôđê và cả Giêrusalem. Gọi là cách tỏ mình “thế giá”, bởi một ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là một ánh sao. Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng là những con người. Thiên Chúa đã dùng chính bản thân những nhà đạo sĩ để mời gọi cả hoàng triều Hêrôđê. Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.
Nhưng thật đáng tiếc cho Hêrôđê và tất cả những người thuộc về ông! Bởi tất cả đã không có một chút mảy may nào muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ lời với mình. Thật chua chát làm sao, bởi Hêrôđê và quần thần của ông không phải là những người ngoại giáo, không phải là những người ở xa xôi, hẻo lánh, tận trời Đông nào đó như các đạo sĩ, nhưng là ở rất gần nơi Thiên Chúa làm người vừa giáng sinh. Họ cũng không phải là những người nghèo dốt nát như các mục đồng, nhưng có đầy đủ mọi phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Thánh Kinh luôn luôn vây quanh để sẵn sàng giải thích Thánh Kinh; phương tiện vật chất có dư thừa…, lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.
Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương. Họ chỉ có mỗi bản thân của mình mà thôi. Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu. Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Ông đã đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần đã vậy, ông còn sợ Người tranh giành ngai vàng của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Người. Không có Thiên Chúa trong lòng mình, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Bởi vậy, dù không thể giết chết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê cũng đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa lành đôi mắt cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhật thứ IV hôm nay, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.
Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: “Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”, và nói về anh mù được chữa lành: “Mày sinh ra trong tội”. Còn chính bản thân họ thì sao? Khi khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái đã cố tình để lộ một khẳng định về chính họ: họ là kẻ trong sạch, là người thuộc về Thiên Chúa. Chính miệng họ nói lên điều đó: “Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Nhưng ngay trong chính lời khẳng định mình là “môn đệ của Môisen”, là kẻ thuộc về Thiên Chúa, đã cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!
Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn lao. Bởi người “tội lỗi” lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười. Còn “người sinh ra trong tội” lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém. Trong khi đó, những kẻ “vô tội” lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù là dấu lạ nhỏ nhất. Đó mới thực sự là điều mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta biết ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay từ bây giờ, sẽ luôn luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ và cảm thông.
Hóa ra người mù lại sáng, còn kẻ sáng lại mù. Anh mù được chữa lành có một đôi mắt tâm hồn sáng đến lạ thường. Đôi mắt ấy chính là đức tin mà anh đã đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù đã giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa lành cho mình: “Đó là một tiên tri”. Và khi đối diện với Chúa Giêsu, anh đã tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”.
Trong khi khẳnh định về Chúa như thế, anh cũng đã vạch trần cái đui mù của người biệt phái: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá, lý luận của anh chắc chắn quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận Người.
Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm như trên. Đứng trước quyền lực của tôn giáo và của xã hội thời ấy, chính đôi mắt đức tin đã cho anh lòng kiên trung không một chút sợ sệt. Anh khẳng khái để lên tiếng một cách dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình có thể gặp nguy hiểm, cuộc sống có thể mất bình an. Chẳng hạn anh đã nói: “Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”; “Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”…
Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi mà thôi. Chúa đâu có đòi hỏi điều gì cao xa, hay vượt quá sức mình. Người chỉ cần một chút thiện chí của ta thôi là đã có thể trở thành điều kiện tốt để Người đến với ta. Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ có con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta mới là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa. Chúa luôn luôn mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình, để khỏi đón nhận mạc khải của Người. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta là không ngừng phản bội.
Sau cùng, chúng ta hãy mượn lời thánh Augustinô, để cùng thánh nhân nguyện xin Chúa ban cho mình thoát khỏi tình trạng mù lòa của tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hảm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ hai điểm.
Điểm thứ nhất đó là thái độ của những người chung quanh đối với anh mù.
Nhìn thấy anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường, thay vì xót thương thì người ta lại cho là đáng kiếp. Kẻ thì bảo tình trạng mù lòa ấy là do tội lỗi của cha mẹ, bởi vì Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của cha mẹ nơi con cái. Kẻ thì bảo Thiên Chúa thấy trước những tội lỗi, nên đã trừng phạt anh ta từ lúc mới sinh. Tựu trung lại chính tội lỗi và sự vi phạm giới luật Thiên Chúa đã dẫn tới tình trạng bi đát ấy.
Cuộc tranh luận không phân thắng bại và các môn đệ bèn phải thỉnh ý Chúa Giêsu. Các ông hỏi:
– Thưa Thầy, vậy thì ai đã phạm tội, anh hay cha mẹ của anh, để rồi bản thân anh bị mù lòa.
Chúa Giêsu, lúc bấy giờ có lẽ đã nhìn anh bằng một cái nhìn cảm thông. Con người ta thường tỏ ra cay độc khi xét đoán, nhưng Chúa thì khác, Ngài đã trả lời như sau:
– Không phải vì anh hay cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta là những người đau khổ. Nào là đau khổ phần hồn, nào là đau khổ phần xác. Chẳng hạn như bệnh tật, nghèo túng, tang tóc. Đau khổ như một cái gì gắn liền với thân phận con người, như một đám mây đen che phủ cuộc đời chúng ta. Và nhiều khi, trong những giờ phút tăm tối ấy, chúng ta đã kêu lên:
– Tôi đã làm gì nên tội mà phải khổ thế này.
Chúng ta hãy bình tĩnh và suy nghĩ, đồng thời dưới ánh sáng đức tin, chúng ta thấy đau khổ không phải chỉ là hậu quả của tội lỗi, mà nó còn mang một ý nghĩa cao cả hơn nhiều, bởi vì những công việc của Chúa phải được thực hiện nơi bản thân chúng ta.
Thực vậy, nếu chúng ta biết can đảm chấp nhận những gian nguy thử thách, thì tình thương và ân sủng của Chúa sẽ được biểu lộ nơi chúng ta. Vì thế, đừng phàn nàn oán trách, đừng bực bội tức tối như những kẻ không có đức tin. Hãy mang lấy cây thập giá đời mình như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Điểm thứ hai chúng ta cùng nhau chia sẻ, đó là phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện.
Phúc âm kể lại rằng: Ngài lấy nước bọt trộn lẫn với đất rồi bôi lên mắt anh và bảo:
– Hãy đi rửa ở giếng Siloe thì anh sẽ được khỏi.
Anh đã làm theo lời căn dặn của Chúa Giêsu và mắt anh đã được sáng. Trước phép lạ quá hiển nhiên ấy, người ta đâm nghi ngờ không biết có phải là chính anh hay không? Để rồi anh đã phải lên tiếng xác nhận và kể lại những sự việc đã xảy đến với mình.
Chúng ta chia sẻ nỗi bất hạnh khi anh bị mù, cũng như niềm vui khi anh được sáng. Niềm tin tưởng và cậy trông của anh đã được ân thưởng một cách xứng đáng. Theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, anh đã đi rửa tại giếng Siloe và anh đã được khỏi. Từ đó chúng ta rút ra một kinh nghiệm sống, đó là ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm thấy một nơi nương tựa còn vững hơn cả núi đá.
Đôi khi chúng ta than phiền về gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa biết cây thập giá chúng ta đang vác và với những hy sinh gian khổ. Ngài không bao giờ đặt trên vai chúng ta một gánh nặng vượt quá sức của chúng ta.
Hãy chấp nhận với lòng tin yêu để những hy sinh gian khổ đem lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
34. Suy niệm của Nguyễn Văn Thành
NGUYỆN VỌNG CỦA NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH.
Tôi là một người mù từ thuở mới sinh. Sáng nay, Đức Kitô đã làm cho mắt của tôi được THẤY trở lại, như một người bình thường, không bao giờ mang tật nguyền gì…
1.- Bao nhiêu năm sống trong cô đơn và khổ đau, suốt ngày đi ăn xin từ xóm làng này qua xóm làng khác. Từ đây, trở lại với xã hội loài người, tôi chỉ ước mong được cư xử và đãi ngộ như một con người có giá trị bình thường như mọi người. Có lời ăn tiếng nói, khi tiếp xúc và trao đổi. Được lắng nghe và coi trọng, khi tôi cất lời phát biểu, trình bày ý kiến riêng tư của mình. Khi được mọi người xác nhận phẩm chất làm người như vậy, tự nhiên tôi ” vươn lên, hướng thượng “, cố gắng đóng góp phần mình, khi anh chị em bà con cần đến tôi.
2.- Ngoài ra, khi tôi có những hành động sai trái, lầm lỡ… ước vọng của tôi là được anh chị em hai bên cạnh trở nên cho tôi một ngọn đèn hướng dẫn và nâng đỡ, sẵn sàng chỉ bày cho tôi một cách cụ thể và rõ ràng tôi phải điều chỉnh thế nào hành động và ngôn ngữ của tôi. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là một sai lầm, trái lại đã trở nên cho tôi một bài học cao quí, khả dĩ xây dựng cuộc đời và làm đẹp bộ mặt của tâm hồn.
3.- Nhu cầu thứ ba của tôi là có người dạy bảo những bài học ĐÁNH GIÁ, bằng cách chia sẻ và giải bày những định chuẩn rõ ràng và khách quan. Dựa vào đó, tôi xác định vị trí hay là chỗ đứng của tôi, trong lòng xã hội hay là trong lãnh vực nghề nghiệp.Cuộc sống bình thường luôn luôn có trên có dưới, có trước có sau, có trong có ngoài. Không ai dạy cho tôi những bảng thang giá trị hay là những qui luật ấy, tôi chỉ là hạt cát phiêu lưu, bất định “vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo”.
Thay vì mang đến cho tôi ba quà tặng cao quí ấy – là xác nhận giá trị, hướng dẫn hành động và đánh giá cuộc sống – nhằm xây dựng bản thân và cuộc đời hằng ngày cho tôi… những người mà tôi gặp trên mọi nẻo đường đó đây chỉ tung ra “những lời tố cáo, phê bình, chỉ trích, mạ lị và chưởi bới”:
“Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?”
Với thái độ trịch thượng ấy, thay vì đón nhận và yêu thương tôi, họ đã trục xuất, khai trừ, loại thải tôi ra khỏi cung lòng của họ.
Hỡi ai là người Kitô-hữu – có nghĩa là Đức Kitô thứ hai, Alter Christus – thay vì xua đuổi tôi, hãy lấy một ít bùn đất, trộn với nước miếng của quí bạn, và đụng đến hai con mắt Đức Tin của tôi, để cho tôi có thể ” nhìn thấy Mặt Trời Công Chính “, trong tất cả cuộc đời còn lại của tôi. Hãy có gan ” làm phép lạ “, để cho tôi ngày ngày trở nên con cái của Thiên Chúa.
Khi William Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật, William đã tốt nghiệp đại học ở Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở nhà trường, anh đã yêu người con gái của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau. Không lâu trước đám cưới, William đã được giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những giải băng trên mặt cho đến ngày lễ cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ là cô dâu.
Ngày đám cưới đã đến. Rất nhiều quan khách được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các chính phủ, và nhiều vị thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ nhau lại để chứng kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể, William Hart Dyke và ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt vẫn còn bị băng kín. Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho từng bước chân hồi hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên bàn thờ. Ngay khi cô dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một cái kéo để cắt những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao trùm lấy nguyện đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy cô dâu đang đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu, những lời nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn anh tưởng tượng nhiều!”
Tác giả đã kết luận câu chuyện bằng những hàng chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng băng che phủ con mắt của chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng ngời của Ngài sẽ chiếu sáng rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng tưởng tượng ra trong cuộc đời này”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Tự bản chất, câu chuyện chữa lành anh mù là câu chuyện của đức tin. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa, “ánh sáng các dân tộc” như Công đồng Vatican II đã viết:
“Chúa Kitô là ánh sáng các dân tộc: vậy, hội họp nhau đây trong Thánh Thần, thánh Công đồng nồng nàn ước nguyện rằng, bằng cách loan báo Tin mừng của Phúc âm cho tất cả các tạo vật, mình sẽ tỏa xuống trên mọi người sự sáng của Chúa Kitô đang chiếu sáng trên khuôn mặt của Giáo Hội” (Lumen Gentium, đoạn 1).
Augustinô là một người ngoại giáo trước khi gia nhập đạo Công giáo, trong khi mẹ của ngài, bà Monica lại là một người Công giáo rất đạo đức. Bà không ngừng cầu nguyện cho ngài. Ngay từ khi còn bé, cậu đã gây ra đủ mọi thứ vấn đề. Càng lớn càng trở nên tệ hơn, Augustinô đã bị dằn vặt bởi những nghi ngờ và sợ hãi. Đối với ngài, Thánh Kinh có vẻ như điên khùng! Cuộc đời của Augustinô đã bắt đầu thay đổi từ khi kiếm được việc dạy học ở thành phố Milan, nước Ý. Ở đây, ngài có cơ hội nghe những bài giảng thu hút của thánh Ambrose, tổng giám mục Milan. Chính những bài giảng này đã lôi cuốn ngài đến nhà thờ thường xuyên. Và sau cùng, thánh Ambrose đã rửa tội và đưa Augustinô gia nhập Giáo Hội.
Sau khi trở lại, Augustinô đã viết: “Lạy Chúa, con đã yêu Chúa quá trễ. Tiếc thay sự đẹp đẽ của những ngày xa xưa… Con đã yêu Chúa quá trễ. Và kìa hãy xem Ngài đã ngự trị ở trong con, và con thì lại cứ kiếm tìm Ngài ở bên ngoài… Ngài đã ở với con, nhưng con lại không ở với Ngài… Ngài đã kêu gọi con, xuyên qua sự giả điếc làm ngơ của con. Ngài đã lóe sáng, chiếu soi và đánh tan sự mù lòa của con… Ngài đã đụng đến con và thiêu đốt con cháy lên trong sự an bình của Ngài”.
Có bao giờ bạn nghĩ mình bị mù lòa dù đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, dù mắt bạn vẫn bình thường không?
Lẽ ra chúng ta đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, đang sống trong thời đại mà nền văn minh con người phát triển đến đ ỉnh cao chưa từng thấy thì người ta được mở mang trí thức để có thể nhìn cuộc sống và con người d ưới nhiều khía cạnh. Thế nhưng người ta lại mù lòa, tầm nhìn bị giới hạn trước cuộc đời và tha nhân. Đây là vấn đề chính mà Chúa Giêsu đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta đang bị mù khi nhìn và đánh giá cuộc sống hôm nay. Mù vì chỉ nhìn cuộc sống này trong phạm vi vật chất và cuộ sống này là cùng đích. Trong khi đó còn có một cái vì vượt xa và trên cả vật chất và cuộc sống con người có quá khứ, hiện tại và cả tương lai ở đời sau. Nếu như cuộc sống này bị đóng khung trong phạm vi vật chất thì thử hỏi đời người còn có ý nghĩa gì?
Cũng từ cái nhìn hạn hẹp v ề cuộc sống như thế dẫn đến cái nhìn về tha nhân cũng bị giới hạn, bị đóng khung. Người ta không còn thấy được những giá trị thiêng thiêng, không còn thấy giá trị nhân phẩm đang hiện diện trong anh em mình. Người ta chỉ nhìn và đánh giá n ười khác theo tiêu chuẩn hoàn toàn vật chất. Hai chữ tình nghĩa ngày nay dường như chỉ còn trên môi những thi sĩ, những nhà văn trong thơ văn hay tiểu thuy ết. Cái mà người ta tôn trọng hôm nay là tiền, quyền và địa vị. Vì thế khi muốn kết bạn thân thiện với ai người ta luôn nhìn người bạn ấy theo tiêu chuẩn này. Đây quả thật là một thứ mù lòa đáng sợ. Bệnh mù này không thể chữa khỏi vì người ta không biết mình đang mù hay do cố ý mù.
Cái mù thể lý trong Tin Mừng đã là một nỗi bất hạnh nhưng cái mù tinh thần của chúng ta hôm nay còn đáng sợ và nguy hiểm hơn. Vì khi lương tâm người ta trở nên mù tối thì người ta có thể làm bất kỳ điều gì mà không cần nghĩ đến tha nhân, xã hội… miễn bản thân mình có lợi.
Lời Chúa hôm nay như một luồng ánh sáng thiêng liêng soi sáng tâm hồn giúp chúng ta loại bỏ sự mù lòa nơi sâu thẳm của lòng mình để chúng ta có cái nhìn mới mẻ và linh thánh về cuộc sống và tha nhân.
Chúng ta hãy xem cách Chúa chọn một người để đặt làm vua lãnh đạo dân Chúa. Chúa không nhìn người ấy theo tiêu chuẩn mà người đời hay tìm kiếm. Nhưng Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn, nhìn cái tấm lòng và cách thức đối xử của người đó với anh em. Để chọn một người lãnh đạo, Chúa không chọn một người tài ba lỗi lạc, nhưng lại chọn Đavít một người kém cỏi, yếu đuối…… nhưng nơi con người nhỏ bé ấy chứa đựng một con tim quảng đại biết sống vì người khác và dám chết cho anh em.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nghĩa là con cái của Ánh Sáng, chúng ta hãy thực thi những gì thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc 2: Chúng ta là con cái ánh sáng, hãy hành động như con cái sự sáng, hãy ăn ở như con cái sự sáng và hành động xứng với địa vị mà Đ ức Kitô đã mang lại cho chúng ta. Địa vị và nhân cách ấy là con Thiên Chúa. Chúng ta hãy sống xứng với ân ban cao trọng ấy!
Lạy Chúa! Như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
- Giữa m ột thế giới đầy những hình ảnh vẫn đục, xin gìn giữ mắt con.
- Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin giúp con biết trân trọng thân xác.
- Giữa một thế giới đang bị ám ảnh bởi dục tình, xin thanh lọc lòng trí con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tận hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí cuộc sống này chỉ vì những lợi ích thấp hèn.
Xin mở mắt tâm hồn con, để con thấy Chúa đang hiện hiện trong tha nhân.
Lạy Chúa, như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con trong sáng. Amen.
Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ câu chuyện của đời cô: “Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô. Đôi khi nhắc lại những câu Kinh thánh hay những lời linh mục giảng dạy. Tôi luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông.
Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự lễ Giáng sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: “Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?” Tôi im lặng… Khi chúng tôi vừa đặt chân tới cửa nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: “Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa”. Ông hỏi: “Cháu nói thế có nghĩa là gì?” “Nội biết không, những lời nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa”. Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp: “Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lớp giáo lý này”.
Sách Giáo lý Công giáo số 89 viết rằng: “Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa đời sống tinh thần của chúng ta và các tín điều. Các tín điều là những ánh sáng trên con đường đức tin của chúng ta, chúng soi sáng và làm cho con đường này được vững chắc. Ngược lại, nếu cuộc sống của chúng ta ngay thẳng, trí tuệ và tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở để đón nhận ánh sáng của các tín điều đức tin”.
Albert Stauderman đã dùng một ví dụ cụ thể để nói về sức mạnh của đức tin: “Đức tin tạo nên sức mạnh và ân sủng của Thiên Chúa có hiệu quả trong đời sống của chúng ta. Ở đâu không có đức tin, thì ngay chính Thiên Chúa cũng không thể làm gì được. Xin trích dẫn một ví dụ cho dễ hiểu. Xung quanh chúng ta có rất nhiều làn sóng vô tuyến truyền thanh được phát ra từ các tổng đài. Nó thấm nhập vào mọi nơi chốn, nhưng nếu không có máy radio để đón nhận những làn sóng này, và phát ra âm thanh cho bạn nghe, thì những làn sóng đó cũng vô ích và không được ai biết tới. Xin bạn hãy nhớ rằng ở một nơi trên đường mục vụ của Chúa Giêsu, chính Ngài cũng đã không làm một phép lạ nào vì sự thiếu lòng tin của họ. Nếu Thiên Chúa không có một chút quyền lực nào trong cuộc đời của bạn như là Ngài vẫn có, thì hãy nhìn vào chính bên trong con người của bạn. Có lẽ cái đài radio nhận làn sóng của bạn đã bị tắt rồi. Đức tin có thể làm cho bạn tràn ngập sức mạnh của Thiên Chúa; và ngược lại, vắng bóng đức tin sẽ làm cho bạn trở nên bất lực và thống khổ”. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng qua phép rửa tội, người Kitô hữu đã nhận được Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”. Họ trở nên “con của sự sáng”, và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Không có sự đui mù nào đáng sợ cho bằng sự đui mù tinh thần. Không yêu mến tha nhân, không sống theo giảng huấn của Chúa Giêsu, đó là mù lòa tinh thần. Không sống trung thành với những lời hứa khi chịu phép rửa tội, không thực hành đức tin Công giáo, chểnh mảng tham dự bàn tiệc Thánh thể, đó là mù lòa tinh thần. Mùa chay là thời gian thuận tiện giúp chúng ta ra khỏi bóng tối của sự mù lòa tinh thần để đến với ánh sáng cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.
Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào”. Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi”. Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy”. Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”.
Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa”.
Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi”. Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.
Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở An Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù từ bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng mắt, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hiu buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pharisêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pharisêu. Đôi mắt thân xác của người này mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pharisêu có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pharisêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.
Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa rất tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù lòa thì y khoa có thể dùng một loại ra đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.
Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pharisêu là những kẻ mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù”. Chúng ta thường nói về những người cố chấp: “Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe”, thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: “Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem”.
Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không?
Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.
Thi sĩ W. H. Auden hiện đại là người đầu tiên đã gọi lịch sử thời chúng ta là “Thời Lo Sợ”; và từ đó danh từ ấy được truyền tụng vì nó nói lên đặc tính trong thời gian chúng ta đang sống– cái cảm giác lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ và khó khăn về tương lai. Đó là những cảm giác đang ảnh hưởng trên văn hoá chúng ta. Tất cả những điều ấy được biểu lộ qua văn thơ, ca nhạc và những nghệ thuật khác nữa. Nếu các bạn có dịp đi tham quan Viện Nghệ Thuật Hiện Đại ở thành phố New York, các bạn sẽ thấy một bức tranh diễn tả một cô ca sĩ bụi đời đang nằm ngủ nơi trống trải với cây đàn nằm bên cạnh cô do họa sĩ Andre Rousseau vẽ (bức tranh này thường được gọi là “Cha Đẻ” của tranh họa hiện đại). Bức tranh diễn tả một khung cảnh phía trước và xung quanh cô ta rất an bình chỉ trừ mập mờ phía sau là một con sư tử đang nhe nanh giương móng sắc như đe dọa; thế nhưng bức tranh không một lời giải thích hay một dấu hiệu nào để có thể hiểu tại sao lại xuất hiện một con sư tử hung dữ trong bức tranh thơ mộng như vậy. Đó là ẩn ý của người hoạ sĩ muốn như thế. Cũng vậy, những mối lo sợ của chúng ta thường không có lời giải nghĩa thích hợp, nhưng chúng luôn hiện diện ở đó và trong chúng ta.
Sự lo lắng liên tục mà chúng ta mang theo suốt ngày đêm sẽ lấy đi mọi hoan lạc trong đời sống, những giấc ngủ an lành, làm phí sức và hao tổn tinh thần chúng ta, nó cũng là nguyên nhân hay ít ra là một trong những nguyên tố góp phần gây ra các bệnh hoạn trong cơ thể. Thật sự, lúc nào chúng ta cũng có đầy những lo lắng, sợ hãi bởi vì không biết đời sống rồi sẽ đưa chúng ta tới đâu. Nào là “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm hoặc không làm điều này, điều nọ?… Làm sao tôi biết chắc chứ?… Giả như anh ta hay chị ta làm điều ấy thì sao?…” Ôi! Đúng quá phải không?
Mỗi câu hỏi như một lời kêu cứu, thế mà trong cuộc sống hằng ngày, như chúng ta biết đó, nó chẳng được ai nghe đến. Đó cũng là điều xảy ra đối với những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người Pharisiêu đã làm phiền một anh thanh niên vì anh ta được Chúa Giêsu chữa cho khỏi mù trong ngày Sabbát. Họ muốn anh ta nói dối là Chúa Giêsu đã không chữa anh ta khỏi mù vì đối với họ ngay việc chữa lành trong ngày Sabbát cũng là phạm luật cấm. Theo cách giải thích luật gắt gao được áp dụng trên đời sống cũng như trong tôn giáo của họ thì việc làm của Chúa Giêsu không phải là dấu của quyền uy Thiên Chúa. Họ trói buộc Thiên Chúa vào luật điều tuân giữ ngày Sabbát của họ. Thiên Chúa được tự do nhận lời cầu xin của nhân loại từ Chúa Nhật đến ngày thứ Sáu, nhưng không được vào ngày thứ Bảy. Ngay cả Chúa cũng không được cho phép làm việc ngày Sabbát. Chúa Giêsu đã mang tin vui cho các bạn đó là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe lời kêu xin của nhân loại trong mọi lúc, bất kể ngày giờ nào. Ngài biết rất rõ các bạn đang bị đau ở đâu và từng vấn đề khó khăn của các bạn như thế nào. Ngài biết và lắng nghe từng nghi vấn hay lời kêu cứu ngay cả trước khi các bạn có thể nghĩ hay thốt ra. Ngài đã có sẵn từng câu trả lời cho mỗi nghi vấn và sẽ đến để cứu các bạn trong mọi nơi, mọi lúc nếu như các bạn để Ngài được tự do hành động.
Các bạn phải san bằng cái bức tường lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ mà vô tình cách nào đó các bạn đã dựng nên làm ngăn cách giữa Chúa và các bạn. Bức tường này có hai vấn đề chính. Thứ nhất là mối lo lắng về tương lai vĩnh cửu của chúng ta. Những điều chúng ta đã hay không làm trong quá khứ còn theo đuổi ám ảnh chúng ta về ảnh hưởng cánh chung của mình. Chúng ta lo lắng khi thấy đời sống hiện tại xem ra không mang đến ý nghĩa nào về vĩnh cửu. Chúng ta lo sợ về sự chết: chúng ta sẽ ra đi vào cõi bất diệt và mọi người thân yêu của chúng ta cũng sẽ theo chân, và dầu có những lời nói tư tưởng tốt lành hay ho về cái chết đấy, chúng ta vẫn luôn lo sợ về thực chất của sự chết. Điều thứ hai đó là nỗi lo lắng về cuộc sống hằng ngày của ta. Nào là ăn gì, mặc chi, giải trí ra sao và thậm chí cả đến vấn đề đổ xăng gì nữa. Tôi tin chắc rằng các bạn cũng đồng ý với tôi đó là những nỗi lo lắng sợ hãi đó thường vượt quá mức chúng ta cần phải lo toan cho đời mình.
Vậy phải làm sao đây? Chúa Giêsu đã nhiều lần lập đi lập lại trong Phúc Âm rằng chúng ta sẽ chỉ lướt thắng những lo lắng sợ hãi đó khi chúng ta đáp trả tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Mà cũng thật lạ lùng vì điều Chúa nói đó lại trở nên vấn đề khúc mắc cho chúng ta là những người hay đi nhà thờ, vậy mới buồn chứ. Chúng ta đã quá nhiều lần được nghe là hãy tin vào Chúa, tín thác nơi Ngài, đến độ nhiều khi chúng ta không còn muốn nghe nữa; và những lời đó đã trở nên như một sáo ngữ nhàm chán. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Giêsu dạy chúng ta không đơn giản chỉ là lời hay ý đẹp, cũng không phải là câu ngớ ngẩn hay chỉ là cách biểu lộ bề ngoài của đạo giáo, tuy nhiên nó chính là cách sống đích thực của người theo Chúa. Đó chính là cách sống mà các bạn phải dâng phó hoàn toàn những lo lắng sợ hãi của mình cho tình yêu Thiên Chúa Hiện Hữu trong từng giây phút. Xin nhớ cho rằng tôi nói “dâng phó” chứ không phải “vứt bỏ”, vì là thụ tạo hay chết nên chúng ta không thể dứt bỏ hết thảy những lo lắng sợ hãi đâu. Thế nhưng khi chúng ta tin vào tình thương và nâng đỡ của Thiên Chúa thì nó sẽ giúp chúng ta thoát được sự tiêu diệt của nỗi lo lắng, chính là cái cướp đi sự sống an bình của ta; đồng thời cũng giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen.
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.
Là bài thơ hay nhất.
Là lời ca không dứt.
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
“Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”.
Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.
Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
– Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.
Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.
– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”.
– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng “Ngài thật là vị tiên tri”.
– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.
– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.
Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Đức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
41. Đôi mắt mới – Lm. Nguyễn Hữu An
Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã suy niệm về đôi mắt mù loà của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đã chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức tin. Xin được mượn tư tưởng của Ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh.
“Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em…” (Lưu Trọng Lư)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4 – 7). (? Trích Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 – 71)
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra
– E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. (sđd. tr 72). “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin. Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa làtâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Đức Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Người mở mắt cho Da-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1 – 10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36 – 50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32 – 43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
42. Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 9: 1-41: Anh chị em thân mến, người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thật may mắn. Anh đã thóat khỏi sự mù lòa thể lý mà hơn nữa, anh còn được sáng mắt về mặt tâm linh nữa…
Tối ngày 02/01/1987, ông bà Richard Evensen bị xe hơi cán chết khi họ băng qua đại lộ Georgia, tiểu bang Maryland. Cả hai ông bà đều bị mù. Ông Evensen bị mù từ bé, nhưng sau nhiều năm cố gắng học hỏi, ông đã trở thành một chuyên gia quốc tế về hệ thống chữ Braille là chữ nổi dành cho người mù. Ông là người phụ trách về chương trình phát triển chữ Braille của thư viện quốc hội ở Washington. Công việc của họ là chuyên dịch các lọai sách Anh ngữ ra tiếng Braille cho các độc giả người mù. Còn bà Evensen thường xuyên tổ chức các lớp học cho những người khiếm thị ở tiểu bang Maryland.
Nhưng vào buổi tối ngày 02/01/1987, hai ông bà vừa từ bến xe điện ngầm đi lên và đang bước đi theo con chó hướng dẫn để băng qua đại lộ thì bị xe đụng. Theo cảnh sát cho biết thì chỗ họ băng qua không có đèn đỏ, cũng không có vạch sơn trắng dành riêng cho người đi bộ.
Một cách nào đó, hai ông bà đã thóat được cảnh tối tăm của kiến thức, nhưng vẫn chưa thóat khỏi cảnh mù lòa thể lý. Chính vì vậy hai ông bà đã bị xe cán chính vì sự mù lòa của mình.
Anh chị em thân mến,
Người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thật may mắn. Anh đã thóat khỏi sự mù lòa thể lý mà hơn nữa, anh còn được sáng mắt về mặt tâm linh nữa.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng hôm nay quả là một tấm gương sáng cho chúng ta. Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả, nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được một đức tin như thế. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisiêu. Cuộc hành trình đức tin của anh như bị khựng lại bởi những lời hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo Do Thái.
Cuối cùng thì anh cũng đã vượt qua được cuộc hành trình đầy cam go để đến với một đức tin ngời sáng như đôi mắt anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabat, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực Đức Giêsu và mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Ngài, thì Ngài nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không là người bởi Thiên Chúa, thì ông ta đã chẳng làm được điều đó” (Jn 9,31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do Thái, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được?
Hóa ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hóa ra mù.
- Họ mù vì họ cho rằng những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc.
- Họ mù vì tự cao tự đại, luôn cho mình là thông thái, đạo đức thánh thiện, nên không nhận ra những sai sót của mình.
- Họ mù vì lòng chai dạ đá, không cảm thông được những nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của kẻ đựơc sáng mắt.
- Và nhất là họ mù vì đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt là chính Đức Giêsu.
Lạy Chúa, chỉ có những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa, mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình và sẽ không được cứu độ.
43. Mừng vui lên hỡi khắp miền dương thế
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì ta đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, “ Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Lý do ấy là: “ Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… “ (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, sau cùng đôi mắt anh mở ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa” và trả lời câu hỏi Ngài đặt ra cho anh: “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: “ Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; “ Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình… anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” (St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: “ Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt “ (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Chúng ta là con cái ánh sáng
Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “ Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.
Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành “con của sự sáng“ (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành “con cái Thiên Chúa“ (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh “ hoa trái của sự sáng“ (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.
Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian’ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.
Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Đấng Cứu Thế. Amen.
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.
- Đời người có hai nỗi khổ
Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.
Ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.
Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.
- Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh
Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1-41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giêsu lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì ” (Ga 1, 32-33).
Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh ta: “Anh có tin vào Con Người không?” (Ga 1,35). Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 1, 38). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giêsu như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.
- Diễm phúc và bổn phận của ta
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. ” (Tv 23, 4-5)
Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đavít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.
Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong “Jésus, l? histoire vraie” (Cent. 1994, trang 364)để kết: “Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành “vấn đề” trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào “Con Người”, trong lúc đó, những kẻ “thấy”, những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: “Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: “Lạy Chúa, con tin”.
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Giáo Hội hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.
Nhờ đôi mắt, người ta sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Nhưng nếu họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Vì thế, ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Nếu thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu nhưng anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 1, 32 – 33). Bản thân anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 1, 38). Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Không những thế, Chúa Giêsu còn dẫn đưa nhân loại mới về Nước Trời. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa
Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin. Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu. Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh không nghi ngờ nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa Giêsu. Tin là một hành trình ngày càng gian khổ.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Giêsu nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn những người biệt phái thì họ không tin Chúa, mắt họ thấy Chúa nhưng lòng họ không tin nên họ không được biến đổi.
Nhìn lại chúng ta, chúng ta có tin Chúa không, chúng ta đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của mình? Chúng ta có can đảm phá tan những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi không? Mùa Chay chính là cơ hội cho chúng ta tăng thêm ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Đó là dầu của việc ăn chay, cầu nguyện, chia sẻ cho người túng thiếu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: “Lạy Chúa, con tin”.
Cách thị trấn Cầu Ngang 2km, có một thôn xóm người ta gọi là Cà-tum. Cái xóm quê mùa dân dã giống như tên gọi ấy đến nay vẫn chưa biết đến dòng điện. Khi màn đêm buông xuống, cả một vùng tối bao la chỉ ẩn hiện một vài ánh đèn dầu leo lét. Người dân ở đây hằng đêm nhìn về góc trời thị trấn sáng rực mà ước mơ có một ngày ánh sáng của những bóng đèn điện chiếu toả trong ngôi nhà của mình.
Khao khát của người dân Cà-tum tựa như người mù mơ thấy được ánh sáng mặt trời, thấy được những đổi thay từng ngày của thế giới vật chất. Hạnh phúc biết bao cho người dân Cà-tum khi dòng điện được đưa về! Hạnh phúc biết bao cho người mù khi họ nhìn thấy ánh sáng!
Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta đi từ biến cố Đức Giêsu chữa cho một người mù từ thuở mới sinh, đến một ý nghĩa siêu nhiên: tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Anh mù từ lúc mới sinh đã sống trong tăm tối, tối cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng, Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà cho anh được sáng mắt, đồng thời mời gọi anh tiến tới ánh sáng đức tin. Anh mù quảng đại đón nhận ánh sáng đức tin ấy: “Lạy Ngài, tôi tin”. Tâm hồn anh đã được chữa khỏi tật mù thiêng liêng và anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian.
Niềm vui được lành bệnh và sự nhận biết Đức Giêsu Kitô làm anh mù can trường, dũng cảm tuyên xưng đức tin và chấp nhận bị trục xuất từ nhóm người biệt phái. Quả thật, những người biệt phái là nạn nhân của tinh thần hẹp hòi, cố chấp. Họ không nhìn thấy hạnh phúc mà Đức Giêsu mang đến cho anh mù, họ chỉ nhìn thấy sự việc Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sa-bat khi chữa bệnh. Với cái nhìn hẹp hòi như thế, họ chỉ nhận ra Đức Giêsu là một người tội lỗi!
Thật là một định mệnh éo le: người mù từ lúc mới sinh đã được sáng cả thể xác lẫn tâm hồn; còn những người biệt phái vẫn tự hào sống trong ánh sáng lại hoá ra mù không nhìn thấy chân lý: “Ta là Ánh Sáng thế gian” (Gn 9,5).
Đức Giêsu là Ánh Sáng. Ánh Sáng đã đến, đang chờ đợi bạn tiếp nhận để chiếu soi, đổi mới cuộc đời bạn. Bạn quảng đại đón nhận hay từ chối để suốt đời sống trong u tối như những kẻ đui mù? Thật đáng tiếc cho những ai “chuộng bóng tối hơn ánh sáng” (Gn 3,19). Vậy bạn hãy chân thành đón nhận Ánh Sáng, nhất là ánh sáng lương tâm mà Chúa đang rọi chiếu cho bạn. Đừng kiêu ngạo chối từ, nhưng hãy khiêm tốn trông chờ ánh sáng chân lý. Đừng vị kỷ trước những đòi hỏi của Ánh Sáng, nhưng hãy sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Ánh sáng Lời Chúa. Có như thế, tâm hồn bạn sẽ trở nên trong sáng và Đức Kitô sẽ luôn chiếu sáng trên cuộc đời bạn (x. Ep 5,14).
(Suy niệm của Cao Nhất Huy)
Tin Mừng Ga 9:1- 38 Dân Do thái cũng như nhiều dân tộc khác, vẫn cho tai nạn, bệnh tật, đau khổ là do hình phạt bởi tội lỗi, hoặc do tội lỗi của đương sự (Ed 13, 20) hoặc do tội của cha mẹ (Xh 20, 5).
Anh chị em thân mến,
Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy khi trời còn sáng ; đêm đến không ai có thể làm được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là áng sáng thế gian”.
Dân Do thái cũng như nhiều dân tộc khác, vẫn cho tai nạn, bệnh tật, đau khổ là do hình phạt bởi tội lỗi, hoặc do tội lỗi của đương sự (Ed 13, 20) hoặc do tội của cha mẹ (Xh 20, 5). Có lẽ, câu hỏi của các môn đệ cũng không nằm ngoài quan niệm đó. Các môn đệ muốn đi tìm nguồn gốc phát sinh ra bệnh mù của anh chàng thanh niên. Tuy nhiên, Chúa Giêsu thì lại đưa ra một giải đáp khác. Chúa không giải thích bệnh tật theo quan niệm Cựu ước nói trên (Ga 9, 2 …) Người chỉ nhìn bệnh tật như một dấu chỉ của quyền lực Satan trói buộc con người mà ở nơi đó con người dễ dàng đồng ý với cám dỗ đó. Vì thế, với tình trạng của anh mù, Chúa Giêsu đến để giải thoát anh khỏi trói buộc của quyền lực Satan. Qua đó, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa vượt trên Satan và Ngài có khả năng tái tạo lại vết thương tội lỗi mà ma quỷ đã gây ra từ khởi đầu cho đến hiện tại.
Ta thấy, hình ảnh Chúa Giêsu “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Ga 9: 6-7). Hình ảnh này gợi lại cho chúng ta hình ảnh thuở ban đầu khi Thiên Chúa sáng tạo ra con người từ bụi đất, nhưng nơi đây con người đã bị “Mù Mắt” vì quyền lực và khát vọng mù quáng của bản thân, nên đã bị sa ngã trước lời mời gọi nghe êm tai của Satan. Ngay lúc này, con người đã bị Mù con mắt của tâm hồn, không phải chỉ vì phạm lỗi, nhưng còn vì không nhận ra lỗi lầm của mình: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn” (St 3, 12). Điều đó khiến cho con người phải bước đi trong đêm tối trước những đau khổ, những lỗi lầm gây ra cho chính mình cũng như cho người khác.
Với hình ảnh của Ađam và Eva, cũng như anh mù trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nhận ra rằng: Tội lỗi sẽ khiến cho chúng ta sống trong tình trạng của đêm tối.
Chúng ta hãy quay trở lại với câu hỏi của các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”.
Có lẽ câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta, của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta chỉ cố gắng đi tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9: 39). Các người Pharisêu luôn cho rằng họ sáng mắt, họ thông làu mọi thứ, nên khi Chúa Giêsu nói vậy họ liền khó chịu. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9: 41)
Thưa anh chị em,
Điều kiện tiên quyết cho những ai muốn bước đi trong ánh sáng, đó là phải nhận biết bóng tối mù lòa của chính mình. Chỉ những ai biết mình mù tối mới khát khao sự sáng và mới chân thành đón nhận ánh sáng. Chỉ những ai chịu nhận biết mình có nhiều lỗi lầm thì mới khao khát được sửa sai. Khi họ chịu nhận mình có nhiều lỗi lầm, cho dù lớn hay nhỏ, thì điều đó giúp cho họ mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây tìm cách ăn năn và cố gắng khắc phục những lỗi lầm đó, nhờ đó họ mới có khả năng trở nên hoàn thiện, và sự hoàn thiện đó giúp cho họ bước đi trong ánh sáng.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta điều đó khi ngài nói: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn là tối tăm. Nhưng ngày nay, qua Bí Tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy, chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục sinh chiếu soi”.(x.Ep 5,8-14).
Câu hỏi được đặt ra cho mỗi người chúng ta là: Có ai trong cuộc đời này mà không có lỗi lầm? Có ai trong cuộc đời này từ đầu tới cuối cuộc đời mà hoàn toàn trong trắng không? Có ai trong cuộc đời này là người trọn vẹn hoàn hảo không?
Chắc chắn câu trả lời sẽ là KHÔNG.
Chúng ta thấy có bao giờ tồn tại một tờ giấy trắng hoàn toàn trắng không? Trong bất kỳ một tờ giấy trắng nào trong vũ trụ này luôn luôn tồn tại những chỗ chưa thật trắng, những chỗ hơi ngả vàng, thậm chí là những chỗ trở nên ố vàng …. Thế nhưng, chúng ta lại không bao giờ vất nó đi, nhưng chúng ta vẫn sử dụng nó cho tất cả mọi việc. Khi viết những dòng chữ lên đó, thì người ta sẽ không để ý đến những chỗ khiếm khuyết đó nữa, mà người ta sẽ để ý đến nội dung của trang giấy trắng mà thôi. Điều đó cho chúng ta thấy nội dung của trang giấy trắng quan trọng hơn là những khiếm khuyết của trang giấy.
Đời người trải qua mỗi ngày cũng như lật từng trang giấy trắng, nên cũng có những khoảng thời gian, những ký ức đen tối, lầm lỗi, nhưng quan trọng là chúng ta ý thức được điều đó, ý thức được những sai lầm, những thiếu xót của mình, để rồi viết lên trên những ký ức lỗi lầm đó những nội dung mới tốt đẹp, thì có lẽ cuộc đời của mỗi người chúng ta sẽ trở nên sáng tươi trước những khiếm khuyết, những lỗi lầm đã qua. Và đặc biệt, khi chúng ta biết đón nhận những khiếm khuyết, những lỗi lầm trên trang giấy cuộc đời thì chính Chúa cũng giúp ta khoả lấp đi những khiếm khuyết đó, làm cho trang giấy cuộc đời của chúng ta trắng sáng trước những vết ố của lỗi lầm và tội lỗi.
Đặc biệt, trong Mùa Chay thánh năm nay, mỗi người chúng ta hãy lần lượt lật lại từng trang giấy cuộc đời của chính mình để làm 2 điều quan trọng:
– Thứ nhất: chúng ta hãy rà soát lại những khiếm khuyết, những vết ố của trang giấy cuộc đời. Để qua đó chúng ta nhìn thấy những lỗi lầm, những trót dại của chúng ta.
– Thứ hai: Qua những lỗi lầm và trót dại đó, chúng ta hãy soát lại xem chúng ta đã sửa chữa được bao nhiêu lần và bao nhiêu phần trăm.
Thiết nghĩ đó là điều cần phải làm trong mùa chay này, và không chỉ là trong mùa chay này mà là trong suốt cuộc hành trình của trang giấy cuộc đời chúng ta khi mỗi ngày chúng ta phải lật qua từng trang mới.
Mỗi khiếm khuyết trên trang giấy cuộc đời chúng ta là những cơ hội mà Chúa gửi trao chính chúng ta, nhờ đó chúng ta mỗi ngày trở nên hoàn thiện hơn trên đường trọn lành. Nhưng quan trọng là mỗi người chúng ta phải nhận ra và đón nhận những khiếm khuyết của trang giấy cuộc đời mình. Nhờ đó, chính Chúa sẽ giúp chúng ta bù đắp những khiếm khuyết đó. Amen.
48. Định kiến – Lm Nguyễn Minh Hùng
Vui mừng trước thất bại của người khác, khổ sở khi người khác thành công. Chuyện không lạ gì trong nhân gian. Sẵn một định kiến không hay về Chúa Giêsu, người Do thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do thái luôn luôn có sẵn một cái nhìn, một lối nghĩ, nặng nề hơn: một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giêsu, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả, dù đó là lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi, việc cứu sống…
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân ấy. Một người mù từ khi mới sinh, được Chúa Giêsu chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: “Mày sinh ra trong tội”. Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội, chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do thái. Thế là bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.
Dấu lạ sáng mắt của anh — điều mà từ thủơ mới sinh, anh không thể có được. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mang mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy. Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi ăn xin, và mạnh hơn nữa: những ai đã từng rút tiền cho anh. Lẽ ra dấu lạ kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không làm nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng. Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi mù, Đức Giêsu, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ (đã không chữa được cho anh), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu thế này: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa. Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”.
Chúng ta tự hỏi, tội lỗi có thể cho kết quả tốt không? Và hành vi tội lỗi của người này có thể bù đắp được khiếm khuyết của người kia sao? Chúa Giêsu trả lại hạnh phúc cho một người đau nỗi đau khiếm khuyết hạnh phúc ngay từ khi chưa biết nói, biết cười, đến khi bước vào tuổi trưởng thành, thì hành vi hoàn trả ấy lại là đứa con của tội lỗi sao?
Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thay vì Chúa Giêsu trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác. Đui mù tâm hồn đưa người ta đến chỗ kết án anh em mà quên kiểm tra mình. Đui mù tâm hồn làm cho người ta không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là nhất, còn mọi người xung quanh, dẫu có tốt đến đâu, cũng chỉ là sản phẩm của tội, của cái xấu.
Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Bởi khi gán cho anh chị em mình bản án tội lỗi, mặc nhiên họ nhìn nhận bản thân họ vô tội. Nhưng những người “vô tội” như họ sao không làm nổi một dấu lạ, dẫu là một dấu lạ nhỏ nhất, còn những người bị kết án là tội lỗi lại làm nên một dấu lạ phi thường và được thừa hưởng kết quả tuyệt vời của dấu lạ ấy? Đâu phải họ không nhận ra điều đó. Thánh Gioan cho biết: “họ bất đồng ý kiến” vì một câu hỏi được nảy sinh: “Làm sao người tội lỗi lại có thể làm được những phép lạ thể ấy?”. Giá mà họ tận dụng lời hỏi này như một lời tra vấn lương tâm, có lẽ họ đã thay đổi não trạng. Nhưng đáng thương và cũng đáng tiếc cho những người lãnh đạo Do thái thời đó, bởi điều ấy đã không xảy ra. Sẵn một định kiến xấu xa quá lớn về Chúa Giêsu, làm cho họ đui mù hoàn toàn. Một sự đui mù quá nguy hiểm.
Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho cả tôi và bạn, nếu chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình. Xã hội đã có quá nhiều những định kiến như thế. Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm. Một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt. Một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận. Một người lỡ sa vào nghiện ngập hay lỡ mắc bệnh AIDS, thay vì được thông cảm, suốt đời người ấy bị nhìn bằng ánh mắt tầm thường, khi dễ… Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn. Khi mang sẵn một định kiến xấu cho anh chị em, dẫu không ai mời ta làm quan án, ta trở thành quan án bất công.
Chúa Giêsu không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Giacop, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sámhối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Giacôbê và Gioan. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm giáo hoàng của Phêrô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giuda nặng nề: “Mày sinh ra trong tội”, như người Do thái lên án anh mù, dẫu Chúa Giêsu có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giuda phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: “Xin Cha tha cho họ…”. Và Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta. Trong đời bạn và tôi, có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quyên tội ta, quên tất!…
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta.
Bạn và tôi hãy nên giống Chúa Giêsu!.
Một trong những nỗi khổ của con người là không được nhìn thấy mọi sinh vật xung quanh. Có người từ khi mới sinh ra đã phải chịu sống trong cảnh tối tăm, mù mịt. Người khác thì trong quá trình sống do tai nạn hay căn bệnh gì đó làm cho họ mãi mãi không nhìn thấy nữa. Quả thật là một nỗi bất hạnh. Dầu vậy, nỗi bất hạnh đó rồi cũng có ngày qua đi. Cách riêng với với người công giáo thì chúng ta tin rằng căn bệnh mù đức tin mới thật là bất hạnh lớn nhất.
Nếu như tuần trước Chúa Giêsu mang đến cho ta nguồn nước hằng sống thì hôm nay Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải chính Người là Đấng mang đến cho chúng ta ánh sáng đức tin.
Nhờ có ánh sáng đức tin mà chúng ta sẽ có được cái nhìn đức tin. Chính cái nhìn đức tin đó sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn theo cái nhìn của Chúa. Cái nhìn của Chúa không theo dáng vẻ bên ngoài mà nhìn tận sâu thẳm đáy lòng người – cái nhìn của tình thương.
Bài đọc 1 cho thấy Thiên Chúa sai tiên tri Samuel đến chọn một người thay thế cho vua Saolê. Khi thấy Êliap với tướng người khôi ngô tuấn tú, tiên tri nghĩ đây chính là người Thiên Chúa chọn. Thế nhưng, Thiên Chúa phán cùng tiên tri: ” Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ nhìn thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa nhìn thấy tận đáy lòng “. (1Sm 16, 7). Kế đến, Thiên Chúa đã chỉ cho tiên tri chọn Đavit là người con út của ông Giêsê.
Bước sang bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đem đến anh mù từ thuở mới sinh ánh sáng. Từ ánh sáng tự nhiên Chúa Giêsu đã cho anh được ánh sáng quý báu hơn là ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy lòng anh. Đang khi đó người Do thái ngay cả các Tông đồ nghĩ rằng do tội của anh hay của cha mẹ mà anh nên mù lòa như thế. Sau khi đã chữa lành cho anh ” Chúa Giêsu hỏi: Anh có tin vào Con Người không? Anh đáp: Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin? Đức Giê-su trả lời: Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây. Anh nói: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người ” (Ga 9, 35b – 38).
Qua câu trả lời và cử chỉ sấp mình của anh, chúng ta thấy anh đã thật sự tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đem đến cho anh ơn cứu độ. Như thế, Thiên Chúa biết chúng ta cần thấy những gì. Đặc biệt là những gì đem đến ơn cứu độ cho ta.
” Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán “. Đó là thái độ của những người không biết mình và không chấp nhận sự thật về mình. Thái độ và cách sống ấy thật nguy hiểm hơn trong cái nhìn đức tin. Chỉ khi nào nhìn ra được mình là thụ tạo yếu đuối, mỏng dòn và tội lỗi trước mặt Chúa thì chúng ta mới thật sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Chúa. Cũng thế, khi đó chúng ta mới có thể thông cảm và khiêm tốn trước anh chị em mình.
50. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Ngày xưa ở Ấn Độ, có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù:
Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.
Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:
– Tâu bệ hạ! Con voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
– Voi giống như cái quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
– Voi giống như một khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
– Voi giống như một tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)
Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:
– Lâu nay hạ thần tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).
Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại…
Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.
Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.
Người mù quáng chỉ biết một phần mà cứ tưởng rằng mình biết toàn bộ, chỉ mới am tường một khía cạnh mà cho là mình đã quán triệt hoàn toàn… và cho rằng những ai không suy nghĩ như mình, không cùng quan điểm với mình, không phát biểu như mình là sai lạc. Họ không hề chấp nhận ý kiến người khác, hoặc tìm cách triệt hạ người bất đồng quan điểm với mình.
Đây là căn bệnh tinh thần rất phổ biến trong xã hội loài người suốt dòng lịch sử và đã gây nhiều đổ vỡ đau thương cho nhân loại.
Những người biệt phái được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thuộc hạng người mù quáng. Mắt các ông tuy sáng nhưng tâm hồn hoàn toàn mù tối. Các ông đã từng nghe lời Chúa Giêsu dạy, từng thấy phép lạ Chúa Giêsu làm và một trong các phép lạ ấy là việc chữa lành người mù bẩm sinh đang xảy ra sờ sờ trước mắt. Vậy mà các ông vẫn không nhìn nhận Ngài do Thiên Chúa mà đến, lại còn nhẫn tâm trục xuất người mù vừa được Chúa Giêsu chữa lành ra khỏi cộng đồng chỉ vì người nầy không cùng quan điểm với các ông, không chối bỏ sự thật như các ông…
Đọc Kinh Thánh, ta thấy lòng ghen tị của Ca-in đã làm cho anh trở nên mù quáng, mù quáng đến độ ra tay giết hại A-ben là đứa em hoàn toàn vô tội chỉ vì lễ vật của A-ben đẹp lòng Thiên Chúa.
Lòng ghen tị cũng đã làm cho vua Sao-lê trở thành mù quáng. Ban đầu vua rất yêu thương Đavít, xem Đavít như con. Nhưng khi Đavít giết được tướng giặc khổng lồ Gô-li-át, dân chúng hoan hô ca ngợi Đavít còn hơn vua, nên vua đâm ra ghen tức, lòng trí hoá ra mù quáng khiến vua săn lùng Đavít như một ác thú tận thâm sơn cùng cốc, tìm mọi cách giết hại vị anh hùng tài ba dũng cảm nầy.
Đến lượt Đavít, khi được lên ngôi vua, cũng trở nên mù quáng vì tình dục. Do say đắm sắc đẹp của bà Bát-sa-bê, vợ của U-ri-a, nhà vua đã sa ngã phạm tội với bà, sau đó lại tìm cách giết U-ri-a chồng bà và rồi chính thức cưới bà ấy làm vợ. Mù quáng đến thế thì thật là khủng khiếp!
Như thế, người mù quáng tự làm cho mình bị suy thoái nghiêm trọng, trở thành người xấu xa và gây thiệt hại khôn lường cho người khác.
Ngoài ra, điều tệ hại nhất là người mù quáng ít khi tự thấy được sự mù quáng của mình, không nhận ra lầm lỗi của mình, kể cả những tội tày trời, nên ngày càng lún sâu trong tội, vô phương cứu chữa!
***
Lạy Chúa Giêsu, như những người biệt phái xưa, con là người mù quáng cần được Chúa xót thương.
Xin thương mở mắt tâm hồn con như Chúa đã mở mắt người mù bẩm sinh được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay để con được thoát khỏi tối tăm lầm lạc và được hoan hỉ bước đi trong ánh sáng Tin Mừng.
51. Ai mù? Ai sáng? – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tập truyện có tựa đề: “Một trăm lẻ một giai thoại về Thiền”, tác giả Xen-da-ki có ghi lại câu chuyện sau đây:
Thời xa xưa, mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật Bản thường dùng những chiếc lồng đèn. Một đêm kia, một người mù đến thăm một người bạn. Lúc ra về thấy người mù đi hai tay không người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh ta. Nhưng người mù từ chối và hỏi:
– Đối với một người mù như tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì? Bóng đêm hay ánh sáng đối với tôi đều như nhau cả.
Người bạn trả lời:
– Tôi vẫn biết rằng anh không cần lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm trong tay thì kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy có thể sẽ đụng vào anh.
Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về. Đi được một đoạn đường, người mù bị một kẻ đi đường tông vào mình. Không tự chế được, người mù quát tháo inh ỏi:
– Bộ đui sao? Không thầy chiếc lồng đèn tôi đang cầm đây sao?
Người kia bình tĩnh phân trần:
– Này ông bạn, ông bạn đang cầm lồng đèn. Nhưng ngọn đèn bên trong đã tắt rồi.
Thế là người mù cầm đèn cũng không thấy đường. Còn người sáng mắt lại không thấy đèn của người mù. Vậy ai mới thật là người mù?
Thưa anh chị em,
Người mù là người đáng thương nhất. Người ấy sáng trong tăm tối và như bị giam trong tù ngục: không thấy đường đi, nơi ở, không thấy trời cao, cảnh đẹp, không thấy người mình yêu thương… Nhưng khổ hơn nữa là mù tinh thần: Sống mà không biết cuộc sống sẽ đi về đâu? Tại sao phải sống? Sống cho ai và sống để làm gì?
Chúa Giêsu đã nói, sau khi người mù được thấy “Tôi đến thế gian để cho người không xem thấy được thấy và kẻ thấy lại nên đui mù”. Chúa Giêsu đã làm cho người mù được thấy. Ngài không chỉ tái lập người mù trong thế giới của giác quan mà còn đưa anh ta vào thế giới của niềm tin. Anh không chỉ thấy bằng mắt mà còn thấy bằng cặp mắt đức tin. Đức tin là một giác quan mới mà Thiên Chúa ban cho con người, nhờ đó con người có thể thấy được những thực tại vô hình, thấy được Thiên Chúa trong Đức Giêsu, thấy được sự sống, ánh sáng bên kia những mất mát, thất bại, khổ đau trong cuộc sống.
Chúa Kitô là ánh sáng cho trần gian. Ngài đến để soi sáng cho mọi người được nhận biết Thiên Chúa là tình thương cứu độ. Ngài đem ánh sáng đến cho đôi mắt của anh mù, đem ánh sáng đức tin đến cho anh để anh vừa được thấy Chúa và nhận được Ngài là Đức Kitô, là Chúa Cứu Thế. Ngược lại, những người Biệt Phái Pharisiêu, mắt vẫn mở và trông thấy Chúa Giêsu tỏ tường, nhưng lòng họ vẫn đóng kín, không nhận ra Chúa trong tình thương cứu chữa. Họ đã từ khước ánh sáng, không tin nhận Đức Kitô. Thì ra họ mở mắt mà không thấy. Thầy mà như mù. Được nghe lời Chúa giảng dạy, được chứng kiến các việc Chúa làm mà vẫn cố chấp không tin Ngài, đó là một tình trạng mù tinh thần, chính Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn!”.
Thưa anh chị em,
Điều kiện tiên quyết cho những ai muốn bước đi trong ánh sáng, đó là phải nhận biết bóng tối mùa lòa của chính mình. Chỉ những ai biết mình mù tối mới khát khao sự sáng và mới chân thành đón nhận ánh sáng. Ai đã thấy Chúa Kitô, đã biết Ngài mà không đón nhận và hiệp thông với Ngài, thì thực sự là chưa thấy, chưa biết Ngài. Do đó, vẫn đi trong tối tăm. Ngược lại, ai đã tin, đã đón nhận và hiệp thông với Chúa Kitô là đã đi trong ánh sáng.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta điều đó khi ngài nói: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn tối tăm. Nhưng ngày nay, qua bí tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh chiếu soi” (x. Ep 5,8-14).
Như thế, sống tinh thần Mùa Chay là bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô, là làm bừng sáng lên ánh sáng của Tin Mừng trong cuộc đời chúng ta bằng những hành động cụ thể thiết thực, như Ngôn sứ Isaia đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu Mùa Chay: “Hãy xóa bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi thứ gông cùm, chia cơm bánh cho người đó, tiếp rước kẻ phiêu bạt không nhà, cung cấp áo quần cho ai rách nát, không né tránh trước đồng bào cốt nhục… Lúc đó, ánh sáng của anh em sẽ bừng lên như hừng đông” (Is 58,6-8).
Bởi vì, thưa anh chị em,
Tin vào Chúa Giêsu, như anh mù được chữa lành trong Tin Mừng hôm nay là phải gắn liền đời mình với việc làm chứng cho Ngài, là phải đồng số phận với Ngài. Anh mù bị lôi ra để điều tra xét hỏi, bị xỉ vả, nhục mạ, nhưng anh đã đứng về phía Chúa Giêsu và trở thành người làm chứng cho Ngài, kể cả bị loại bỏ khỏi Hội đường Do Thái giáo. Bằng mọi giá, anh luôn trung thực với lời chứng của anh, đó là: “Đức Giêsu là người bởi Thiên Chúa mà đến”.
Cho thấy, anh mù là người đã được thấy sự thật và làm chứng cho sự thật. Còn những người Biệt Phái Pharisiêu là những người có mắt mà không thấy. Họ mới thật là những người mù.
Anh chị em thân mến,
Hãy cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường chúng ta phải đi và những việc chúng ta phải làm để đạt đến hạnh phúc thật. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12).
52. Chúa chữa người mù – Lm. Trần Tân
Những bài đọc và nội dung của Thánh kinh Chúa Nhật thứ 4 mùa Chay chu kỳ năm A quá phong phú và chuyển tải nhiều thông điệp. Chúng ta chỉ khai triển vài khía cạnh của các thông điệp ấy. Những bài đọc này được Giáo hội Mỹ ưa chuộng và khai thác đặc biệt trong các giáo án dành cho các lớp dự tòng.
Nếu chỉ đọc thoáng qua, ta không thấy những móc xích liền lạc như cầu nối, nối kết nội dung cả 3 bài đọc lại với nhau. Nội dung chính là về ánh sáng. Ánh sáng là yếu tố cần thiết để các sinh vật tồn tại và phát triển. Ánh sáng cần thiết để ta nhìn rõ sự việc, để thẩm định chính xác vấn đề, để đạt tới quyết định đúng đắn, và qua đó sinh hiệu qủa phong phú.
Qua bài sách thánh tiên tri Samuel, tất cả chúng ta cảm thấy được rất an ủi vì Chúa là đấng thấu rõ tâm can con người. Ai cũng có nhiều ít khuyết điểm hay những mặc cảm trong cuộc sống. Có người buồn vì kém thông minh. Có người buồn vì cánh cửa cuộc đởi mình đóng lại, thiếu vắng cơ hội tốt. Có người buồn vì vóc dáng không sáng sủa. Có người buồn vì nhìn đã sáng sủa nhưng chiều cao lại khiêm tốn. Rất nhiều nỗi niềm và rất nhiều mặc cảm khác… Qua bài đọc này tại sao ta được an ủi? Vì Chúa là Đấng có cái nhìn thấu suốt. Chúa đọc được tâm can con người và thấu suốt nỗi lòng cũng như thiện chí của ta. Câu truyện Chúa thúc giục và hướng dẫn Samuel lựa chọn xức dầu phong vương 1 trong các con của Jesse là bằng chứng. Cả vị tiên tri cũng lầm tưởng khi được sai đến xức dầu ngưòi Chúa tuyển chọn. Ông đã tự nghĩ và phán quyết theo lối nhìn tự nhiên…chọn người có tướng tá, chọn nhân vật ra vẻ vóc dáng. Chúa đâ giáo huấn chính vị tiên tri và các người khác rằng đường lối của Chúa khác của người ta. Chúa không nhìn theo sự thẩm định hời hợt ngoại diện, theo vỏ bề ngoài, nhưng đạt thấu tâm can, đi vào đúng nội tâm con người. Chúa chính là nguồn sáng và là Đấng ban phát ánh sáng hiểu biết.
Trong giáo huấn cho giáo đoàn Ê phê sô, thánh Phaolô đã nhắn nhủ, đào sâu khía cạnh ánh sáng và bóng tối. Khi chưa nhận biết Chúa, chúng ta là con cái sự tối tăm và buớc đi trong bóng tối; một khi đã nhận biết, và có Thiên Chúa trong cuộc đời rồi, ta phải sống và hành xử như con cái sự sáng. Ở đây có một chi tiết liên quan đến tu đức của bí tích giải tội. Thánh Phaolô nói ta phải moi móc, phơi bày những việc làm cũ của sự tăm tối ra. Cũng như ánh nắng tia sáng mặt trời sẽ biến đổi và sàng lọc nước thải đá bị ô uế (sanitary field/pool) để biến thành lành mạnh tốt đẹp, ta cũng phải mạnh dạn phô bày những việc làm của tăm tối và tội lỗi để được ơn Chúa và Nguồn Sáng thanh lọc. Phaolô hiểu rõ tâm lý ngại ngùng và khó khăn của vấn đề: dù có ngại, có xấu hổ để ôn lại ký ức, để duyệt xét lại tội lỗi tâm linh, thì đó là việc làm rất cần thiết. Mọi việc khi đưọc phơi bày sẽ hiển lộ; khi đã hiển lộ sẽ là chính ánh sáng, là thiện hảo.
Câu truyện dài với nhiều chi tiết ly kỳ về việc Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, là trọng điểm Thánh kinh hôm nay. Nói đến ngũ giác con người, ta phải đồng ý rằng giác quan nào cũng quan trọng và đặc biệt, để giúp chúng ta sống phong phú đúng đời sống con người. Thính giác và thị giác còn là những giác quan đặc biệt hơn của sinh vật cao cấp. Ngoài công dụng thiết yếu cho nhu cầu bảo tồn đời sống, “thính & thị” còn cho ta cơ hội học hỏi, thưởng thúc sự phong phú của nghệ thuật, làm con người trổi vượt và tiến bộ vô cùng giữa muôn ngàn sinh vật. Thời nay chúng ta nghe nhiều về phương pháp thính thị (audio & video). Audio và Video là 2 động từ Latinh nghĩa đen là “tôi nghe”, “tôi thấy”
Bị mù lòa là sự thiệt hại và mất mát vô cùng to lớn. Theo quan niệm người xưa trong thánh kinh, mù loà cũng như nhiều bệnh hoạn ghê gớm khác được gán cho là hậu qủa bị Trời phạt, do chính mình phạm tội hoặc gia đình, tổ tiên phạm tội. Không lạ gì, các môn đệ Chúa hỏi Ngài rằng anh thanh niên bị mù là do tội của anh ta hay của gia đình cha mẹ. Chúa xác định không phải do anh mà cũng không bởi cha mẹ anh, mà chỉ là “cơ hội” cho thiên hạ chung quanh được “xem thấy”. Chúa muốn những người có mặt chứng kiến phép lạ sẽ nhìn thấy sự hiện diện và bàn tay Thiên Chúa và mong họ sẽ được mở mắt đức tin.
Sự mù loà thể xác chỉ là diễn tả của một thực tại khác còn khốc liệt hơn, đó là sự mù loà tâm linh. Thị giác con người quá quí hóa. Mất thị giác, con người mất phương tiện lớn lao để học hỏi, để tiến bộ, để thưởng thức, để tồn tại. Cho tới bây giờ khoa học và y học chỉ có thể giúp điều chỉnh thị giác, nếu bị những khuyết điểm như: loà, cận, viễn, loạn…chứ không thể chữa một người mù bẩm sinh để có ánh sáng được. Anh thanh niên mù trong Phúc âm qủa là qúa hạnh phúc. Từ mù lòa tăm tối nay anh được Chúa chạm đến chữa lành và cho được xem thấy. Anh ta qúa đỗi vui mừng tới độ khẳng khái quyết liệt tuyên xưng lòng yêu mến và nể phục tuyệt đối với nhân vật Giêsu. Anh ta không hề sơ sệt e dè những người Do Thái đầy ghen tương và thâm hiểm. Cha mẹ anh ta thì sợ lắm, sợ chuyện “cái miệng vạ cái thân”. Vì thế để trả lời người Do thái đang ngang ngược ép cung, cha mẹ anh khéo léo nói rằng: “Cháu nó lớn rồi, các bác cứ nó mà hỏi đi…”
Phúc âm Chúa nhật này đã bắt đầu dàn dựng bối cành cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta sê cử hành trong vài tuần nữa. Các trưởng tế, biệt phái, và viên chức Do thái mưu tính giết luôn cả Chúa Giêsu và người mù đuợc chữa lành này. Vị trí và ảnh hường của các nhóm người này thực sự bị đe dọa. Sự chữa lành người mù là cực kỳ siêu phàm, kéo theo sự thán phục và tin tưởng mãnh liệt nơi quần chúng! Quả thật chưa hề có mà cũng chẳng bao giờ có, dù ở giữa thế kỷ 21 với sự ra đời của computer cao cấp, như một ngã rẽ ngoạn mục của đời sống con người ngày hôm nay.
Mù lòa thể xác chỉ là phản ảnh một thực tại của mù lòa tâm linh. Khi ta không nhìn thấy sự thật khách quan nơi vấn đề hàng ngày là ta đã mù loà hiểu biết, mù lòa tri thức. Khi ta không nhận biết và đánh giá những thực tại tâm linh, là ta đã mù loà đức tin, mù lòa tâm linh. Chúa Giêsu đến để làm chứng về Thiên Chúa Cha và mong cho người ta qua Ngài nhận biết Cha. Chúa Giêsu không cần ta nài xin vẫn tự nguyện chữa lành ta, giúp ta được thấy. Trong nhiều câu truyện chữa lành trong Phúc âm, người ta phải xin rồi Chúa mới chữa cho. Trong trường hợp người mù này, Chúa chủ động đến với người mù và chữa anh ta. Đọc kỹ đoạn Thánh kinh này, ta thấy Ngài muốn chữa để những người khác được “thấy”. Nghe thì thật tức cười: chữa mắt mù người này mà có mục đích cho những người khác được “thấy”.
Oan nghiệt thay: trước dấu lạ, phép lạ nhãn tiền như vậy, nhóm biệt phái và đầu mục Do Thái lại quyết tâm chối bỏ, cố gây khó dễ, và âm mưu giết cả Giêsu lẫn người mù đã được chữa lành. Đó là chiêu giết người bịt miệng, diệt đối thủ, diệt luôn nhân chứng. Chấp nhận phép lạ này nhóm viên chức Do thái này hiển nhiên chấp nhận tầm ảnh hưỏng quan trọng của ngôi sao đang lên Giêsu (a rising star); là chấp nhận mình bị yếu vai vế, bị mất đặc quyền đặc lợi… Ngược lại, người mù được chữa lành và dân chúng đơn thành thì hết lòng tin vào ông Giêsu. Đối chiếu trong cuộc đời, trong cuộc sống đức tin, có những điều nhãn tiền nhưng ta vẫn không thấy. Có những dấu chỉ của Chúa rất rõ ràng nhưng vì tác động và áp lực của đam mê, của tội lỗi ta vẫn cố tìm cách chối bỏ Chúa và tiếng Chúa.
Mù lòa thể xác chỉ phản ánh phần nào sự mù lòa tâm linh là thứ mù loà tàn hại và thê thảm hơn. Xin Chúa ban sức mạnh để con vượt qua đam mê và tội lỗi, để được sáng và được thấy. Xin ân sủng mùa Chay thánh giúp con đến gần Chúa và được thấy!
Giữa cõi u minh, cặp mắt loà.
Ngài thương chạm mở, thấy ngàn hoa.
Tâm linh mù tối, dọi nguồn sáng.
Chúa chữa tim con, lòng bão hòa.
Des Moines, IOWA
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Câu chuyện anh mù từ khi mới sinh được thánh Gioan thuật lại, là một câu chuyện thật ly kỳ vừa khôi hài. Ly kỳ vì không ai có thể làm một việc lạ lùng như thế. Mở mắt một người mù bẩm sinh bằng cách xức cho anh ta một chút bùn pha nước miếng rồi bảo anh đi rửa mắt ở một cái hồ nước, và anh ta được sáng mắt, không phải ai cũng làm được. Các bác sĩ nhãn khoa cũng không làm được dù kỹ thuật hôm nay rất tân tiến. Khôi hài vì sự ngớ ngẩng của mấy ông Pharisêu.
Các ông này không thể tin được và vì thế họ gạn hỏi anh mù đủ thứ và đòi hỏi cha mẹ anh phải xác nhận là con của mình, mù từ khi mới sinh. Họ vẫn không tin được. Nhất là việc này được thực hiện trong ngày sabat là ngày không được chữa bệnh. Họ nghiến răng tức tối.
Thánh Gioan tường thuật câu chuyện rất tỉ mỉ và cũng pha vào đó một chút mỉa mai. Nhưng điều thánh Gioan muốn cho thấy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian như Ngài đã nói; “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống”. Ánh sáng đó không như ánh sáng mặt trời chỉ thấy bằng mắt phàm trần. Ánh sáng của Ngài phải nhận bằng niềm tin.
Anh mù không thấy ánh sáng mặt trời, nhưng đã thấy được ánh sáng đức tin. Những ông Pharisêu thấy rõ mọi sự trần gian, nhưng không đạt đến ánh sáng đức tin. Chính Chúa Giêsu đã nói với các ông: “Nếu các ông mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn”.
Cuộc hỏi cung anh mù thật buồn cười, là một trò hề mang tính chất khoa học, pháp lý và đạo đức giả.
“Ngươi hãy tôn vinh Thiên Chúa”, họ bảo anh mù như thế, và anh mù đã làm. Anh đã tôn vinh Thiên Chúa bằng sự chân thành và bằng sự thẳng thắn của anh, đang lúc những ông Pharisêu lại cố tình không nhìn nhận sự thật hiển nhiên rành rạnh trước mắt các ông, và lại muốn phủ nhận dấu lạ không thể chối cải đó.
Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến nỗi không nhận ra anh. Người thì nói đó là tên ăn xin, người lại bảo không phải, vì họ không thể tin được rằng anh mù bẩm sinh kia, anh ăn mày kia lại được sáng mắt. Họ lao xao bàn tán, không hiểu việc gì đã xảy ra. Anh mù xác nhận: “Chính tôi đây, tôi là tên ăn xin đui mù đây”. “Nhưng nhờ đâu mà sáng mắt?” “Người tên là Giêsu đã trộn chút bùn, xức vào mắt tôi, bảo tôi đến hồ Xilôác mà rửa. Tôi đi, tôi rửa mắt và tôi được thấy”. Chỉ có thế thôi. Những việc hết sức đơn thường đã mang một kết quả không thể ngờ được. Thế nhưng mấy ông Pharisêu không nhìn thấy. Anh đã tường thuật việc này cho mấy ông, mấy ông cũng không nhìn thấy. Họ chỉ khư khư rằng, ông Giêsu kia đã lỗi phạm luật sabat, là một người tội lỗi. Thật đáng buồn cười! Sự cố chấp của các ông này thật khó hiểu!
Chúng ta tưởng rằng chúng ta sáng mắt hơn mấy ông Pharisêu chăng? Biết bao nhiêu bằng chứng Chúa tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài, chúng ta có thấy không? Chúng ta được yêu thương đến tận cùng, chúng ta có thấy không? Chúng ta tưởng rằng chúng ta đã yêu mến Chúa hết mình rồi, nhưng trong thực tế không như chúng ta tưởng. Chúng ta tự dối mình thôi. Hãy nhìn nhận rằng chúng ta vẫn đui mù. Hãy cầu xin Chúa mở mắt chúng ta ra để chúng ta thấy được hạnh phúc Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta vang lời ngợi khen hơn là cứ đòi hỏi, thắc mắc.
Như đối với người phụ nữ Samari, Chúa Giêsu đi từng giai đoạn, từ vật chất Ngài dẫn anh mù đến nguồn suối đức tin. Khi được hỏi: “Ai đã làm cho anh sáng mắt?” Anh trả lời: “Người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi…” Anh chưa biết Ngài vì anh mù, chỉ nghe nói thôi.
Khi các ông Pharisêu hỏi, anh lại tuyên xưng: “Ông ấy là một ngôn sứ”. Anh đã nhận ra nhưng cũng chưa rõ. Và anh chỉ dựa vào thực tế để xác tín hơn: “Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được… Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy… Nếu không phải là người của Thiên Chúa, thì ông ta đã chẳng làm được gì”.
Anh đã tiến tới một bước mới là nhìn nhận Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa.
Vào giai đoạn cuối cùng, sau khi đã bị trục xuất khỏi Hội Đường, anh đã gặp lại Chúa Giêsu và khi Ngài hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đã tin: “Anh sấp mình xuống trước mặt Người”. Niềm tin của anh đã vững chắc. Anh đã đi từ bóng tối đến ánh sáng và đã chấp nhận ánh sáng, đang lúc các ông Pharisêu lại từ chối ánh sáng.
Chúng ta có từ chối ánh sáng không? Chúng ta có cố chấp trong sự đui mù của chúng ta không? Trong các cộng đoàn giáo xứ, thường xảy ra những trường hợp tương tự. Người ta cứ lên án người này, nói xấu người kia, không thương xót, chà đạp tất cả những người thiện chí hay những người yếu đuối. Dòng giống Pharisêu vẫn còn sống rất mãnh liệt. Nhiều người tưởng mình đạo đức lại chuyên nghề vạch lá tìm sâu, loại trừ những người đạo đức, làm nhục chí những người thành tâm. Đó phải chăng là đui mù hơn người mù? Đó phải chăng là từ chối ánh sáng? Và như thế, họ tưởng rằng họ làm sáng danh Chúa và độc quyền làm sáng danh Chúa. Pharisêu của thời đại mới!
Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường, nhọc mệt đi tìm những người thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật, những người biết khiêm tốn phục vụ trong âm thầm, không đòi hỏi được một chỗ đứng nào. Ngài đã căn dặn một cách rõ ràng: “Đừng phô trương công đức, chỉ để Cha trên trời chứng kiến và thưởng công cho các ngươi”.
Mùa chay là thời điểm thuận tiện để chúng ta trở về với sự thật của chính mình, nhìn nhận sự đui mù tăm tối của mình và chấp nhận ánh sáng đến từ nguồn duy nhất là Người Con Một đầy ân sủng và chân lý, là ánh sáng thật, ánh sáng ban sự sống. Chúng ta chỉ đi đúng hướng khi chúng ta chấp nhận để ánh sáng Chúa soi dẫn. Chúng ta chỉ có một Thầy là Đức Kitô, một người hướng dẫn duy nhất đó mà thôi vì Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống”. “Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
Chúng ta đã nhận ánh sáng ấy từ nơi giếng rửa tội. Thánh Gioan tường thuật phép lạ chữa anh mù bẩm sinh là để khơi lại trong chúng ta nguồn ánh sáng của Bí tích Rửa Tội. Nước hồ Xilôác, việc rửa sạch vết bùn trên mắt, sự chan hòa ánh sáng, đôi mắt được mở ra, đó là những dấu hiệu của một cuộc tái sinh mà chỉ bắt nguồn từ Đấng là ánh sáng ban sự sống. Bám vào Ngài, lắng nghe lời Ngài và hơn nữa ăn lấy Ngài, chúng ta mới được tái sinh, được trở nên con cái sự sáng, trở nên ánh sáng cho trần gian: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh lại bởi ơn trên”… Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sự sống muôn đời”.
54. Tôi phải làm việc của Đấng đã sai Tôi
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Chương 9 thuật lại việc thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh và những bàn luận liên quan đến Người. Có thể chia chương nầy thành hai phần chính: – Người mù và việc chữa lành (9,1-7); – Các tranh luận và thái độ của những người liên quan đến việc chữa lành nầy (9,8-41). Chương nầy được kết cấu theo các cuộc tranh luận liên tiếp nhau. Người tham gia tranh luận thay đổi khác nhau trong mỗi tranh luận. Chủ đề của mỗi tranh luận cũng thay đổi ít nhiều. Chương 9 phân chia như sau:
- Chúa Giêsu, người mù và việc chữa lành (9,1-7)
- Những người láng giềng và cha mẹ người mù được chữa lành (9,8-12)
- Các Pharisêô và người được chữa lành (9,13-17)
- Các người do thái và cha mẹ người được chữa lành (9,18-23)
- Các người do thái và người được chữa lành (9,24-34)
- Chúa Giêsu và người được chữa lành (9,35-38)
- Chúa Giêsu và các Pharisêô (9,39-41)
Theo Johannes Beutler (xem Gesù a Gierusalemme (Gv 9-12), Lezione al Pontificio Istituto Biblico, Roma 2001-2002, p. 27) có thể nhận ra một cấu trúc đối đảo trong chương 9 nầy, trong đó các cảnh tương ứng với nhau như sau:
A 9,1-7; B 9,8-12; C 9,13- 17; D 9,18-23; C’ 9,24-34; B’ 9,35-38; A’ 9,39-41
Chúa Giêsu chữa lành người mù (9,1-7). Bối cảnh không gian và thời gian của đoạn bắt đầu từ câu 8,59b “Nhưng Chúa Giêsu ẩn mình, và đi ra khỏi đến thờ”, và trong câu 9,1 thêm yếu tố nhân vật: Chúa Giêsu và người mù bẩm sinh, “Người đi ngang qua đó và gặp một người mù từ lúc mới sinh”. Hành động chữa lành chủ yếu của Chúa Giêsu được mô tả trong các câu 6 và 7. Những câu còn lại đề cập đến nguồn gốc/nguyên nhân của sự mù loà, trong đó cho thấy quan niệm của người thời đó và Chúa Giêsu (cc. 2 và 3), và căn tính của Người (c. 5). Sứ điệp chính yếu nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu ở câu 4: “Bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào việc của Ðấng đã sai Tôi; rồi đêm đến, bấy giờ không ai còn có thể làm công việc gì”. Hai phần 9,1-7 và 9,8-41 liên kết rất chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau; do đó những sự kiện và lời nói trong đoạn 9,1-7 sẽ được bàn rộng trong các cuộc tranh luận trong 9,8-41.
Cảnh chữa lành (9,1.6-7) và đoạn liên hệ 9,39-41. Chủ đề trong phần nầy là “mù” (cc. 1 và 41), và “thấy” (7 và 40-41). Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh và cho người nầy được thấy. Trong khi đó, các Pharisêô là những người đang thấy, lại trở nên mù lòa. Lời kết luận của Chúa Giêsu: “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!” (c. 41).
Căn tính của Chúa Giêsu và người được chữa lành (9,2 và 6) và đoạn liên hệ (9,8-12 và 35-38). Chủ đề trong phần nầy: Người chữa lành cho người mù là ai? “Người gọi là Giêsu” (c. 11); “Người Con của Nhân Loại” (c. 35). Thoạt đầu người được chữa lành chỉ biết người đã chữa lành ông có tên là “Giêsu”; tên nầy được lập lại thêm hai lần với ý nhấn mạnh trong các câu 35 và 37. Trong gặp gỡ khác, Chúa Giêsu cho ông biết Người là ai qua tước hiệu “Người Con của Nhân Loại”. Ông đã tin và “sấp mình thờ lạy Người” (c. 38). Tin vào Người là cao điểm của việc chữa lành cho người mù bẩm sinh, vì Người đòi hỏi điều nầy (c. 35).
Những câu hỏi về nguồn gốc (9,3 và 5) và đoạn liên hệ (9,13-17 và 24-34). Chủ đề trong phần nầy: nguồn gốc của sự mù loà (cc. 2-3) và nguồn gốc của Chúa Giêsu (c. 5). Các môn đệ đặt vấn đề là có phải người nầy bị mù loà bẩm sinh là do tội lỗi của chính người nầy hay của cha mẹ anh (c. 2). Đó là suy nghĩ của người thời ấy. Chúa Giêsu không theo hướng nầy. Người khẳng định tội, của người nầy hay cha mẹ anh, không phải là nguồn gốc của sự mù loà (c. 3). Về nguồn gốc của Chúa Giêsu, Người khẳng định “Tôi ở trong thế gian, Tôi là ánh sáng thế gian” (c. 5). Là “Ánh sáng”, phōs, Chúa Giêsu muốn nói Người đến từ Thiên Chúa, và sứ mạng của Người là soi sáng cho thế gian (1,4.5.9; 3,19; 8,12). Về phần những người chống đối Chúa Giêsu, các Pharisêô quả quyết Người không đến từ Thiên Chúa, vì Người đã chẳng giữ luật ngày hưu lễ (c. 16). Cũng thế, người do thái quả quyết Chúa Giêsu là một “người tội lỗi” (c. 24) và họ không biết Người từ đâu mà đến (c. 29). Họ chỉ lắng nghe Môsê mà thôi (c. 29). Phần người được chữa lành, anh tuyên xưng công khai Chúa Giêsu là một “ngôn sứ” (c. 17) và làm chứng là Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, và Người đã chữa lành anh với quyền năng của Thiên Chúa (cc. 30-33). Anh hành động như là một môn đệ làm chứng cho Thầy mình (c. 28).
Làm việc của Thiên Chúa (9,4) và đoạn liên hệ 9,18-23. Câu 4 nằm ở trung tâm của đoạn 9,1-7, và đoạn 9,18-23 ở trung tâm của chương 9. Sứ điệp chính của chương nằm ở đây. Chúa Giêsu cho biết nội dung sứ mạng của Người khi đến trần gian là làm việc của Cha Người. Gioan nói nhiều về “việc của Thiên Chúa” (4,34; 5,36) mà Chúa Giêsu phải thực hiện. Việc ấy có thể là phép lạ. Phép lạ có mục đích là làm cho người ta tin vào Chúa Giêsu (x. 10,25.32). Ngay cả nếu không tin vào Người, ít là tin vào phép lạ để nhận biết và hiểu là Chúa Cha ở trong Người và Người ở trong Chúa Cha” (19,38). Lời tuyên bố của Chúa Giêsu là Người làm việc của Thiên Chúa muốn nói là Người có Chúa Cha ở trong Người (x. 14,10-11). Bởi đó, “làm việc của Thiên Chúa” là làm cho con người tin vào Đấng được sai đến (x. 6,29). Trong đoạn 9,18-23, Gioan cho thấy cách tiêu biểu thái độ của hai hạng người. Người do thái không tin ngay cả phép lạ người mù bẩm sinh được sáng mắt (c. 18); qua đó họ không tin vào Chúa Giêsu. Cha mẹ của người được chữa lành thì sợ, không dám mạnh dạn tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu (c. 22); trong khi đó bởi nhận biết Thiên Chúa ở và hành động trong Chúa Giêsu người được chữa lành đã tin vào Người. Vậy “việc của Thiên Chúa” là làm cho người ta phải chọn một thái độ đối với Người. Nếu tin, thuộc về ánh sáng. Nếu không tin, thuộc về bóng tối.
Chúa Giêsu là trung tâm của trình thuật về người mù bẩm sinh. Người để trần gian để làm công việc của Thiên Chúa. Là ánh sáng, Người mở mắt cho con người thấy để có thể tin vào Người. Những người tự cho mình sáng mắt, không thể nhìn thấy và tin vào Người. Như thế, việc Người xuất hiện trên trần gian như là ánh sáng đã là một sự phán xét cho trần gian.
(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay này giúp chúng ta hiểu bí tích Thánh Tẩy, mà các tân tòng chuẩn bị để lãnh nhận vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.
1Sm 16: 1, 6-7, 10-13
Bài Đọc I thuật lại việc Đa-vít được xức dầu phong vương thay thế vua Sa-un, vị vua tiên khởi của dân Ít-ra-en, vì tội bất trung. Từ đây, vua Đa-vít là người được Chúa chọn, mặc một tính chất thánh thiêng và tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Vua Đa-vít là hình ảnh của Đức Ki-tô, Đa-vít của thời đại mới.
Ep 5: 8-14
Trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyên những Ki-tô hữu sống sao cho phù hợp với cách ăn nếp ở của “con cái ánh sáng”.
Ga 9: 1-41
Tin Mừng Gioan tường thuật việc người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Bài trình thuật này thuộc giáo lý bí tích Thánh Tẩy, vì sau khi rửa trong hồ Si-lô-ác, mắt anh mù liền thấy ánh sáng, anh là tiền thân của người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong ánh sáng của đức tin, người Ki-tô hữu thấy và hiểu được những mầu nhiệm mà người khác không thể thấy và hiểu được.
BÀI ĐỌC I (1Sm 16: 1, 6-7, 10-13)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm tháng đầu tiên của thể chế vương quyền Ít-ra-en (1020-1010 BC). Sau một thời gian dài do dự (không phải Đức Chúa là vua duy nhất của dân Ít-ra-en đó sao?) và vì những hoàn cảnh đòi buộc, dân Ít-ra-en thử nghiệm thể chế quân chủ. Kinh nghiệm đầu tiên này không thuận buồm xuôi gió: vì vua Sa-un bất tuân, Thiên Chúa đã quyết định truất phế vua. Ông Sa-mu-en, người của Đức Chúa, lại nhận sứ mạng đi tìm kiếm một vị vua mới.
- Cách thức tuyển chọn lạ lùng của Thiên Chúa
Câu chuyện xảy ra ở Bê-lem. Tình tiết của câu chuyện mặc khải cách đặc biệt cách thức Thiên Chúa chọn lựa những tôi trung ưu ái của Ngài: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Quả thật, Bê-lem là một vùng quê nhỏ bé không tên tuổi đến nỗi ngôn sứ Mi-kha nói “ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (Mk 5: 1); hơn nữa, Đa-vít là con út trong gia đình đông con của ông Gie-sê.
Sự chọn lựa của Thiên Chúa luôn luôn gây kinh ngạc. Để bày tỏ niềm ưu ái đối với những kẻ bé mọn và khiêm hạ, Ngài chọn con út hơn là con cả. Xưa kia, Thiên Chúa đã chọn ông Ghít-on để giải phóng Ít-ra-en khỏi sự áp bức của người Ma-đi-an. Ấy vậy, ông là cậu con trai út trong gia đình thuộc bộ tộc “nhỏ bé nhất ở Mơ-na-se”. Ông Mô-sê cũng được nhìn nhận là “người khiêm tốn nhất trong số con cái loài người”. Lịch sử đã cho chúng ta biết bao ví dụ như thế.
- Đa-vít, cậu bé chăn chiên
Vua Đa-vít xuất thân từ một cậu bé chăn của miền Bê-lêm nhỏ bé nghèo hèn, nơi mà ngàn năm sau đó Đức Giê-su sẽ chào đời. Sự kiện Đấng Mê-si-a giáng sinh ở nơi hẻo lánh này sẽ là một trong những dấu hiệu về Đấng Mê-si-a thuộc “dòng dõi Đa-vít”. Những người chăn chiên Bê-lem sẽ là những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su.
- Khung cảnh phong vương Đa-vít
Khi đến Bê-lem, ngôn sứ Sa-mu-en hiến tế một con bò cái tơ lên Đức Chúa để “thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ” (1Sm 16: 5b). Trước khi ngồi vào bàn, ngôn sứ Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi Đa-vít tới đây”. Vị ngôn sứ đã hiểu rằng chính cậu út Đa-vít là người Thiên Chúa chọn. Chính trong bữa ăn thánh thiêng này mà Đa-vít được xức dầu phong vương.
- Tước hiệu “Xức dầu tấn phong”
Xức dầu là nghi thức thánh hiến, thường nhất là nghi thức phong vương. Được “người của Thiên Chúa” xức dầu tấn phong, vị tân vương trở thành một con người thánh thiêng. Dầu tăng sức lực cho thân thể là biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa, thần lực này đến ở với vua: “vua đầy tràn Thần Khí Thiên Chúa”. Tước hiệu: “Đấng được xức dầu” theo tiếng Do thái là “Đấng Mê-si-a” và được dịch sang tiếng Hy lạp là “Đấng Ki-tô” (“Christos”). Như vậy, những lời loan báo về Đấng Cứu Thế trước hết là Đấng Mê-si-a vương đế.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 8-14)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô từ Rô-ma, trong cảnh lao tù, giữa những năm 61-63. Thư này được gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, chủ yếu là những Kitô hữu gốc lương dân. Bức thư gồm hai phần: trong phần thứ nhất thuộc đạo lý (1: 3-3: 21), thánh Phao-lô giải thích mầu nhiệm cứu độ phổ quát được ban cho dân Do thái cũng như dân ngoại ở nơi Đức Ki-tô. Trong phần thứ hai thuộc luân lý (4: 1-6: 20), thánh nhân khuyên các tín hữu sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai này.
Thánh nhân vừa mới nêu lên nhiều chủ đề khác nhau và nhiều hình ảnh đa dạng, rất quen thuộc với khoa giáo lý bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, như là “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát… và phải mặc lấy con người mới, đó là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân tập trung sự chú ý vào chủ đề ánh sáng.
- Người Ki-tô hữu là ánh sáng
“Xưa kia anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh em lại là ánh sáng”. Ở nơi câu này, bí tích Thánh Tẩy được mặc nhiên đề cập đến. Bí tích Thánh Tẩy được gọi là “ơn thần khải”, người chịu phép Thánh Tẩy là “người được ơn thần khải” và giếng Thánh Tẩy được gọi rất ý nghĩa: “nơi lãnh nhận ơn thần khải”. Ngược lại là bóng tối. Việc đối lập ánh sáng và bóng tối, một chủ đề Kinh Thánh rất xưa và rất phổ biến như gặp thấy trong những bản văn của cộng đoàn Qum-rân, được thánh Phao-lô và đặc biệt thánh Gioan lấy lại.
Qua cặp tương phản ánh sáng và bóng tối này, thánh Phao-lô kêu gọi những Ki-tô hữu gốc lương dân ý thức rằng cuộc sống của họ đã được biến đổi sâu xa biết bao, họ đã trở nên khác biệt biết mấy; vì thế, cuộc sống của họ phải làm chứng điều này: “Hãy vạch trần những công việc của bóng tối”. Chắc chắn câu này phải được hiểu rằng cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu có thể khiến cho những tội nhân thay đổi cách sống, bởi vì ánh sáng chiếu soi vào bóng tối và làm cho bóng tối biến tan: “Tất cả những gì đã bị vạch trần, đều lộ ra ánh sáng; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng” .
- Người Ki-tô hữu chỗi dậy từ bóng tối sự chết
Qua bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu “chỗi dậy” từ bóng tối sự chết. Chắc hẳn thánh Phao-lô trích dẫn vài câu từ một bài thánh thi về bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, và phải là khá phổ biến. Chúng ta gặp thấy bài thánh thi này, khá đầy đủ hơn, trong tác phẩm của Giáo Phụ Cơ-lê-men-tê thành A-lê-xan-ri-a vào cuối thế kỷ thứ hai:
“Hãy tỉnh giấc đi, hỡi người đang ngủ.
Hãy chỗi dậy đi từ những vong nhân.
Và Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi.
Ngài là ánh sáng Phục Sinh,
được sinh ra trước khi sao mai xuất hiện;
Ngài ban sự sống bởi ánh quang rạng ngời của Ngài” (Protriptique 9, 84, 2)
Bài thánh thi này minh chứng hùng hồn đạo lý Thánh Tẩy mà thánh Phao-lô không ngừng nhắc đi nhắc lại: chết cho tội lỗi và tái sinh trong Đức Ki-tô Phục Sinh. Hơn nữa, bài thánh thi đậm đà hương vị Kinh Thánh gợi nhớ vài hình ảnh của các ngôn sứ như:
“Này những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy trỗi dậy, hãy reo mừng!
Vì lạy Chúa, sương Người ban là sương ánh sáng,
và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19)
Hay:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của Người đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60: 1-2)
Đoạn thư này giúp chúng ta hiểu rõ hơn địa vị Ki-tô hữu của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị Ki-tô giáo. Đành rằng ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa, nhưng chỉ trở nên hiệu lực khi nào chúng ta mở rộng lòng mình cho Đấng chúng ta tin.
TIN MỪNG (Ga 9: 1-41)
Bài trình thuật này gợi lên nhiều điểm tương đồng với bài trình thuật về việc Đức Giê-su chữa lành người bại liệt (Ga 5 : 9-11). Quả thật, cả hai bài trình thuật đều ghi nhận rằng Đức Giê-su chỉ xuất hiện vào lúc bắt đầu câu chuyện để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của nó (9 : 1-7 và 5: 1-8), và vào lúc kết thúc câu chuyện để long trọng tuyên bố bản án (9 : 35-41 và 5: 14-18)). Giữa thời gian ấy, Đức Giê-su rút lui vào hậu trường để hoàn toàn nhường sân khấu cho một bài trình thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động về những phản ứng khác nhau từ phía những hạng người khác nhau trước dấu lạ của Ngài (9: 8-34 và 5: 9-13). Tuy nhiên, với tính hồn nhiên, cởi mở, thông hiểu và dũng cảm: ăn miếng trả miếng của mình, anh mù đã cho thấy trổi vượt hơn người bại liệt thụ động và kém linh hoạt.
- Dẫn nhập (9 : 1-7)
A- Vấn đề tội lỗi
“Vấn đề tội” đóng chức năng đóng khung toàn bộ câu chuyện: ở đầu câu chuyện, chính các môn đệ nêu lên: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (9 : 2) và ở cuối câu chuyện, chính Đức Giê-su nói với các người Pha-ri-sêu: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội của các ông vẫn còn đó” (9 : 41).
Câu hỏi mà các môn đệ nêu lên về quan hệ nhân quả của tội dường như chỉ nhằm tạo cơ hội để Đức Giê-su thực hiện dấu lạ và ban giáo huấn. Tuy nhiên, câu hỏi này nói lên tâm thức của người đương thời. Vào thời đó, người Do thái tin rằng nguyên nhân của những bất hạnh như tai ương hay bệnh tật là án phạt của tội, kể cả tội trước khi sinh ra hay còn trong bào thai. Vì thế, cảnh đời bất hạnh mà người mù từ lúc mới sinh phải chịu là án phạt vì tội của cha mẹ mình. Tuy nhiên, sách Gióp đã nêu lên tại sao người công chính phải chịu đau khổ, nhưng không đưa ra một câu trả lời thỏa đáng nào, ngoài trừ ý định khôn dò của Thiên Chúa. Sau này, sách Tô-bi-a đã bước thêm một bước nữa: thiên sứ đã mặc khải cho ông Tô-bi-a cha, một người công chính thực thi những việc lành phúc đức, rằng Thiên Chúa để cho ông bị cảnh mù lòa là để thứ thách ông (Tb 12: 13).
Đức Giê-su bác bỏ quan niệm nhân quả của tội. Ngài tách biệt rõ ràng điều bất hạnh và án phạt, sự đau khổ và tội. Cảnh đời bất hạnh của anh mù không do tội của anh hay tội của cha mẹ anh, nhưng là cơ hội để Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài qua việc cho anh mù được sáng mắt. Từ đó, Đức Giê-su sẽ công bố Ngài là “ánh sáng thế gian”. Như vậy, giả sử trước ở đây, sự mù lòa duy nhất cấu thành tội chính là sự mù lòa của sự cố chấp không chịu tin.
B- Một ngày của Đức Giê-su
Đức Giê-su sánh ví sứ vụ của Ngài với một ngày. Thời điểm đánh dấu việc kết thúc sứ vụ của Ngài được sánh ví với thời điểm “đêm đến”, nghĩa là giờ của bóng tối, giờ của những kẻ chống đối Ngài. Trong khi chờ đợi giờ của bóng tối, Ngài phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Ngài khi trời còn sáng, bởi vì bao lâu Ngài còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Để minh chứng Ngài “là ánh sáng thế gian”, Chúa Giê-su sẽ cho người mù từ lúc mới sinh được thấy ánh sáng, cả ánh sáng thể lý lẫn ánh sáng tâm linh (x. Is 42: 6-7).
C- Dấu lạ
Dấu lạ được mô tả chỉ trong hai câu (9: 6-7), bởi vì người kể chuyện chú trọng hơn đến những cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và những hậu quả mà anh mù được sáng mắt phải gánh chịu.
“Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù”. Theo niềm tin dân gian phổ biến vào thời đó, nước miếng có hiệu lực chữa bệnh. Trước đây rồi, Đức Giê-su đã dùng nước miếng của Ngài để chữa lành người câm điếc (Mc 7: 32) và người mù ở Bết-xai-đa (Mc 8: 23). Nhưng ở đây, Đức Giê-su trộn nước miếng với đất thành bùn và xức vào mắt người mù. Phải chăng Đức Giê-su muốn họa lại cử chỉ sáng tạo, qua đó muốn nói rằng Ngài sẽ làm cho người mù thành một con người hoàn toàn mới? Hay đơn giản hơn, phải chăng sự kiện xức bùn vào mắt và đòi hỏi anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác là một hành vi đức tin, một yếu tố cần thiết để đón nhận dấu lạ? Quả thật, hiệu quả chỉ xuất hiện sau khi người mù đến rửa trong nước hồ Si-lô-ác.
Nước hồ này được xem là thánh thiêng. Vào lễ Lều, vị tư tế phải đến múc nước ở đây để dùng cho các nghi thức thanh tẩy. Nước này bắt nguồn từ suối Gi-bon và được dẫn đến hồ Si-lô-ác qua một lạch ngầm dưới đất (2V 20: 20; 2Sb 32: 30; Hc 48: 17). Ngay cả tên của hồ này cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai đi”. Dường như thánh Gioan muốn nhắc lại ý nghĩa của tên Si-lô-ác này, vì thánh nhân muốn quy chiếu đến tác giả đích thực của việc chữa lành chính là Đức Giê-su, “Đấng được Chúa Cha sai đi”. Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su thường dùng tước hiệu “Đấng được sai đi” để chỉ về chính mình.
- Hai thái độ tương phản: (9: 8-34)
Trong phần này, Đức Giê-su vắng mặt, tuy nhiên Ngài vẫn là tác nhân chính yếu gây nên những phản ứng từ phía những hạng người khác nhau. Việc người mù được sáng mắt sẽ nêu bật hai thái độ tương phản mà sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đòi hỏi con người phải chọn lựa.
A- Thái độ của người mù được sáng mắt
Anh mù được sáng mắt là một con người có lương tri ngay thẳng, vẫn một mực trung thành với sự thật, biết sử dụng lối nói mĩa mai, thậm chí châm biếm, lại còn biết phi bác sự thông thái của những người Pha-ri-sêu: “Chúng tôi biết rằng…” (9: 29) bằng cách viện dẫn nguyên tắc thông thường: “Như mọi người điều biết…” (9 : 31-32; x. Is 1: 15; Tv 66: 18; 109: 7; Cn 15: 29, vân vân) và cuối cùng bày tỏ tấm lòng rộng mở trước ánh sáng khác, ánh sáng đức tin.
Con đường đức tin của người mù là con đường tiệm tiến: từ những lời tra hỏi từ phía những người láng giềng cho đến những lời chất vấn của những người Pha-ri-sêu, chân tính của Đức Giê-su càng lúc càng sáng tỏ hơn ở nơi anh. Khởi đầu, anh bày tỏ một sự hiểu biết mơ hồ về một người đã thi ân giáng phúc cho mình: “một người tên là Giê-su” (9: 11), đoạn, anh bắt đầu nhận ra ở nơi người ấy: “một ngôn sứ” (9: 17) và tiếp đó: “Đấng được Thiên Chúa sai đến” (9: 33). Cuối cùng, khi đối diện với Đức Giê-su, Đấng tự tỏ mình ra cho anh, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Ngài, tôi tin” (9: 38) và thờ lạy Ngài.
B- Thái độ của những người Pha-ri-sêu
Trong khi sự kiện dần dần được chứng thực từ phía những người láng giềng, cha mẹ của người mù được sáng mắt và chính đương sự, thì thái độ của những người Biệt phái càng lún sâu vào những tà ý, cố chấp, từ chối ánh sáng và để lộ mình là những người mù đích thật.
Trong câu chuyện này, hai chi tiết đáng chú ý do hậu cảnh lịch sử của chúng. Trước hết, những người Pha-ri-sêu bất đồng với nhau về vấn đề Đức Giê-su: “Thế là họ đâm ra chia rẽ”. Về sự kiện này, các sách Tin Mừng và sách Công Vụ cung cấp nhiều ví dụ khác nữa: trong số những người Pha-ri-sêu có vài người có tinh thần rộng mở, họ âm thầm gắn bó với Đức Ki-tô. Trong câu chuyện này, chính thành phần cố chấp nhất mực nhắm mắt trước sự thật. Trong con mắt của những con người ngoan cố này, Đức Giê-su đã vi phạm ngày sa-bát, vì vậy là một con người tội lỗi, mà đã là một con người tội lỗi thì không thể nào thực hiện dấu lạ như thế. Vì thế, họ không chỉ từ chối từ dấu lạ và chân tính của Đức Giê-su, nhưng còn buộc người mù phải thú nhận là mình sai lầm vì đã tuyên xưng ông Giê-su này là một ngôn sứ.
Ngoài ra, đối với đọc giả Tin Mừng Gioan, việc anh mù được sáng mắt bị trục xuất ra khỏi hội đường vang dội tính thời sự của cộng đoàn Gioan. Các tông đồ và các môn đệ của thế hệ thứ nhất đã giảng dạy trong các hội đường, nhưng sau đó bị trục xuất khỏi hội đường. Những người Do thái nào tin Đức Giê-su là Đấng Ki-tô cũng bị trục xuất khỏi hội đường và trở thành đối tượng của những quấy nhiễu, hạch sách và bắt bớ. Việc người mù được sáng mắt bị trục xuất ở đây báo trước hoàn cảnh của Giáo Hội sau này.
- Phần kết (9 : 35-41)
Đức Giê-su lại xuất hiện và bày tỏ thái độ của Ngài đối với người mù được sáng mắt và đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp.
A- Thái độ của Đức Giê-su đối với người mù được sáng mắt
“Sau khi nghe nói họ đã trục xuất anh, Đức Giê-su đến gặp anh”. Đối với những ai chịu đau khổ vì làm chứng cho Ngài, dù không nhận biết Ngài, Ngài sẽ mặc khải chân tính của Ngài, như anh mù được sáng mắt hôm nay. Sau khi đã mở đôi mắt xác thịt của anh để anh thấy ánh sáng, Ngài mở đôi mắt tâm hồn anh để anh khám phá Mặc Khải.
B- Thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp
“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại đui mù”. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho những ai mở rộng tâm trí sẵn sàng đón nhận ánh sáng của Ngài. Còn những ai tin tưởng vào ánh sáng của riêng mình mà tìm cách ngăn chận những kẻ khác tin vào Ngài, thì những người đó trở nên đui mù.
Đối với những người Pha-ri-sêu, những người chất vấn Ngài phải chăng họ đều đui mù hết cả sao, Chúa Giê-su đưa ra một bài học thâm thúy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó”. Những lời này nêu bật thần học xét xử của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su không xét xử ai cả, chính mỗi người tự xét xử chính mình, hoặc mở mắt ra mà tin nhận Đức Giê-su hoặc khép mắt lại mà khỏi phải thấy những việc Ngài làm để khỏi tin vào Ngài. Đó chính là tội cố chấp và bản án đã có sẵn ở đây rồi, và ngay bây giờ chứ không phải đợi đến ngày chung thẩm.
Câu chuyện mở ra với lời công bố rằng sự mù lòa thể lý không có tội và đóng lại với lời công bố rằng sự mù lòa tâm linh mới có tội.
(Chú giải và Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay thuộc về “Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái)” (Ga 5,1–10,42) với bố cục như sau:
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù nhờ ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến)
Việc chữa lành anh mù bẩm sinh được tác giả TM IV ghi nhận như là mộttrong những “dấu lạ” quan trọng “để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20,31).
Tác giả trung thành với cách viết của ngài: trình bày biến cố (= bình diện thực hành) và diễn từ giải nghĩa (= bình diện nhận thức). Phân tích kỹ hơn, ta thấy truyện được trình bày như một phiên tòa xử Đức Giêsu xuyên qua những cuộc gặp gỡ của anh mù với nhiều hạng người, để rồi cuối cùng lại chính Đức Giêsu là người đứng ra kết án. Tấn bi kịch đã được báo trước trong hai chương 7 và 8. Khi các thuộc hạ trở về mà không bắt Đức Giêsu, các thượng tế và người Pharisêu đã kêu lên: “Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa” (7,49). Đấy là như tiền đề cho việc họ nổi giận với người mù, vì anh ta “sinh ra trong tội”, mà lại dám lên mặt sửa dạy các “môn đệ của ông Môsê” (9,28-34). Câu truyện người đàn bà ngoại tình là mộtlý do thứ hai, bởi vì trong sự cố này, cũng vẫn là Đức Giêsu đã “tước vũ khí” của họ khi nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7). Rồi sau đó là những câu nói đầy thách thức: 8,21.24.35-44.46.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (9,1-5);
2) Đức Giêsu chữa lành anh mù (9,6-7);
3) Cuộc xử án (9,8-33):
- a) Láng giềng anh mù (9,8-12),
- b) Người Pharisêu (9,13-17),
- c) Cha mẹ anh mù (9,18-23),
- d) Người Pharisêu (9,24-34a);
4) Tuyên án (9,34b-41):
- a) Anh mù bị người Pharisêu tống ra ngoài (9,34b),
- b) Anh mù được Đức Giêsu đón tiếp và anh tin nhận Người (9,35-38),
- c) Đức Giêsu kết án người Pharisêu (9,39-41).
Chúng ta có thể nhận ra bảy cuộc gặp gỡ trong truyện này:
1- Đức Giêsu và anh mù (chữa mắt: c. 6);
2- Anh mù và láng giềng (c. 8);
3- Anh mù và người Pharisêu (c. 13);
4- Anh mù và người Do Thái và cha mẹ (c. 18);
5- Anh mù và người Do Thái (c. 24);
6- Đức Giêsu và anh mù (tin: c. 35);
7- Đức Giêsu và người Pharisêu (c. 40).
3.- Vài điểm chú giải
– ai đã phạm tội (2): Mặc dù có sách Gióp, lý thuyết cổ truyền vẫn tồn tại: người ta nghĩ rằng có mộtquan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội và bệnh tật. Về trường hợp một em bé mới sinh đã mắc bệnh tật, xem Xh 20,5.
– như vậy là để công trình của Thiên Chúa nơi anh được tỏ hiện (3): Các kinh sư nói đến việc Thiên Chúa ban cho loài người “những hình phạt tình yêu”, nghĩa là những sửa dạy mà nếu người ta quảng đại chấp nhận, sẽ đưa đến cho họ đời sống dài lâu và những phần thưởng. Nhưng hình như tư tưởng của Đức Giêsu ở đây hoăc ở Ga 11,4 không phải là như thế; Đức Giêsu lại cho thấy rằng Thiên Chúa vận hành lịch sử để tôn vinh Danh Người. Chúng ta có mộtví dụ rõ ràng ở Xh 9,16, được trích dẫn trong Rm 9,17.
– Thầy là ánh sáng cho trần gian (5): Rất có thể lời này được rút từ Is 49,6, trong đó Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như là mộtánh sáng cho muôn dân. Chính là trong dịp Lễ Lều mà Đức Giêsu đã tuyên bố lần đầu: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian” (8,12).
– nhổ nước miếng (6): Chỉ có Ga và Mc (7,33; 8,23) ghi lại rằng Đức Giêsu nhổ nước miếng. Người xưa coi nước miếng như là mộtthứ thuốc chữa mắt và cả những phần khác trên thân thể (Tacite, Historiae IV, 81). Dường như sức chữa bệnh của nước miếng sẽ gia tăng nếu trộn với đất hay đất sét. Đức Giêsu đã làm cử chỉ nhổ nước miếng mà trộn bùn không phải vì các thứ này cần để có thể làm phép lạ, nhưng là để “gây chuyện” với người Pharisêu.
– hồ Silôác (7): Hôm nay, ta còn thấy cái hồ này ở phía đông nam Giêrusalem, ở cuối thung lũng Tyrôpêôn. Con suối Gihôn đã cung cấp nước cho hồ này nhờ con kênh vua Xítkigia (Ézéchias) đã cho đào trong đá (x. 2 V 20,20; 2 Sb 32,30; Hc 48,17). Silôác có nghĩa là “người sai phái” (= người gửi [nước]). Tác giả Ga ghi nhận tên này, nhưng lại dịch như mộttừ ngữ ở thụ động cách: “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7). Rõ ràng ngài dùng từ ngữ như mộtbiểu tượng. Trong TM IV, hơn 40 lần Đức Giêsu được gọi là “Đấng được sai phái”, và Người cũng vừa nói với các môn đệ là Người phải “thực hiện công trình của Đấng đã sai phái Thầy” (c. 4). Vậy tác giả muốn nói rằng hồ Silôác, cũng như Đền Thờ, như lễ Vượt Qua, như ngày sa-bát, như mọi sự trong Israel, đều được quy hướng về Đức Giêsu và rút ra từ Người ý nghĩa vĩnh viễn và chân thật. Chính tên của cái hồ loan báo rằng Đấng Mêsia sẽ đến múc nước và thông ban cho nước hồ mộtsức mạnh thần linh.
Ngoài ra cái hồ này còn có mộtý nghĩa thiêng liêng. Ngôn sứ Is (8,6) đã coi cái hồ có dòng nước chảy êm ả này như mộtbiểu tượng về đời sống an bình của Israel dưới sự che chở của Thiên Chúa. Nhưng vị ngôn sứ cũng nhân danh Đức Chúa mà than thở rằng “dân này khinh dể nước mương Silôác chảy lững lờ”. Có lẽ tác giả coi sự từ khước này như mộtlời loan báo sự cứng lòng của người Do Thái thời Đức Giêsu.
Ngoài ra, nước hồ còn được dùng trong Lễ Lều. Mỗi ngày trong tuần Lễ Lều, người ta đi rước xuống hồ. Một tư tế long trọng múc nước, rồi đi rước lên Đền Thờ. Vị tư tế ấy vừa đổ nước trên bàn thờ vừa đọc những lời kinh theo nghi thức: họ xin Thiên Chúa ban mưa xuống cho mùa sắp tới; họ đọc những bài đọc Kinh Thánh tưởng niệm phép lạ nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc và loan báo việc canh tân thiêng liêng Sion vào thời Đấng Mêsia. Nhiều liên hệ giữa truyện anh mù và những biến cố dịp Lễ Lều trong TM IV (ch. 7 và 8) mời ta đọc phép lạ này dưới ánh sáng của lễ nghi Lễ Lều. Điều này càng có lý khi ta biết rằng lễ nước, Lễ Lều cũng là lễ ánh sáng. Mỗi buổi chiều, người ta đốt đèn đuốc trong Đền Thờ. Và ngôn sứ Dacaria đã mô tả Ngày của Đức Chúa như là mở đầu cho việc muôn dân cử hành Lễ Lều thật hùng vĩ (x. Dcr 14,7). Đây là khung cảnh rất phù hợp với lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng cho trần gian” và với “dấu lạ” anh mù: có lễ ánh sáng, có việc rưới nước hồ Silôác và có những niềm hy vọng vào Đấng Mêsia.
Những dây liên hệ này soi sáng cho thấy ý nghĩa của biểu tượng “Đức Giêsu-Ánh-sáng-cho-trần-gian”, cũng như “dấu lạ” diễn tả biểu tượng này. Những phúc lành và việc tuôn đổ Thánh Thần, được tượng trưng trong dịp Lễ Lều bằng nước Silôác, sẽ được Đức Giêsu ban cho trần gian: trong tay Người, “nước mương Silôác chảy lững lờ” sẽ chan hòa ánh sáng và sức sống.
– những người Pharisêu (13): Những người phỏng vấn được gọi là Pharisêu trong cc. 13.15.16 (cả c. 40); ở cc. 18 và 22, thì được gọi là “người Do Thái”, là từ ngữ quen thuộc hơn với Ga.
– vì không giữ ngày sa-bát (16): Trong TM IV, từ ngữ sabbaton được dùng 13 lần (Ga 5,9.10.16.18; 7,22.23[2x]; 9,14.16; 19,31[2x]; 20,1.19). Những bản văn quan trọng nhất là các tranh luận về ngày sa-bát trong Ga 5,1-18; 7,19-24 và 9,14-16. Về việc chữa người mù, có những nhận định sau: Thứ nhất, bởi vì mạng sống của anh mù không bị đe dọa, lẽ ra Đức Giêsu nên chờ đến mộtngày khác mà chữa anh. Thứ hai, trong số ba mươi chín việc bị cấm làm trong ngày sa-bát (Mishna, Shabbath 7,2), có việc nhào trộn bột. Thứ ba, thể theo truyền thống sau này của Do Thái giáo (TalBab, Abodah Zarah 28b), có mộtý kiến nói rằng không được phép xức dầu vào mắt ngày sa-bát. Thứ tư, truyền thống (TalJer, Shabbath 14d và 17f) cũng cấm nhổ nước miếng lên mắt ngày sa-bát.
– một vị ngôn sứ (17): Hai vị ngôn sứ nổi tiếng với việc làm phép lạ chữa bệnh là Êlia và Êlisa (x. cả Is 38,21). Có lẽ anh này đang nghĩ đến việc ngôn sứ Êlisa bảo Naaman đi tắm trong sông Giođan. Ít ra có lẽ anh mù tin rằng Đức Giêsu có quyền lực thần linh và “ngôn sứ” là hạng người như thế.
– trục xuất khỏi hội đường (22): Dịch sát câu 22 là: “… kẻ nào tuyên xưng Người là Đấng Kitô, sẽ trở thành người-bị-trục-xuất-khỏi-hội-đường (aposynagôgos, do apo và synagôgê)”. Có lẽ tác giả đang nghĩ đến việc giới chức Do Thái loại các Kitô hữu gốc Do Thái khỏi hội đường (= dứt phép thông công) vào cuối thế kỷ i, sau khi Đền Thờ bị phá hủy.
– Chúng ta (24): Nicôđêmô đã dùng chủ ngữ này (3,2) để nói về uy tín của người Do Thái có học thức.
– Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa (24): Đây là mộtcông thức để thề trước khi làm chứng hoặc thú nhận mộtlỗi lầm (x. Gs 7,19). Nhưng cũng rất có thể tác giả muốn chơi chữ, bởi vì anh mù sẽ tôn vinh Thiên Chúa.
– Thiên Chúa đã nói với ông Môsê (29): Xem Xh 33,11; Ds 12,2-8.
– Chúng ta biết (30): Anh mù dùng chủ ngữ “chúng ta” của người Pharisêu (c. 24), y như Đức Giêsu ở 3,11 đã lấy lại chủ ngữ “chúng ta/tôi” của Nicôđêmô. Rõ ràng những đoạn này được dùng trong những cuộc bút chiến giữa người Do Thái và các Kitô hữu.
– Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi (31): Đây là mộtnguyên tắc Kinh Thánh quen thuộc (x. Is 1,15; 1 Ga 3,21).
– họ tống anh ra ngoài (34): Đây không phải là mộtviệc dứt phép thông công đúng nghĩa, nhưng chỉ là việc đuổi anh cho khuất mắt họ.
– Khi gặp lại anh (35): Hành vi này ngược lại với hành vi của người Pharisêu khi đuổi anh ra ngoài, và minh họa cho lời hứa của Đức Giêsu ở 6,37: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong TM IV, truyện anh mù được chữa lành có mộtvị trí trung tâm. Truyện này giống như mộttổng hợp về sứ mạng làm ánh sáng của Đức Giêsu trong thế gian và về cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối xảy ra giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Bản văn đã được trình bày như mộtcuộc xử án, nhưng Đức Giêsu không trực tiếp đối đầu với các đối thủ. Bản án của Người chỉ được xác định qua việc kết án anh mù; Đức Giêsu chỉ xuất hiện lúc đầu để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của “dấu lạ”, rồi xuất hiện ở cuối để uy nghi công bố bản án.
* Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (1-5)
Không ai xin Đức Giêsu chữa cho anh mù: chính Người bột phát chữa lành anh (9,1-7). Nghĩ đến số phận đáng thương của anh mù, các môn đệ nại đến mộtluận điểm quen thuộc trong dân Do Thái: Tại sao anh bị như thế? Do lỗi của ai? Các ông tìm cách quy kết trách nhiệm. Các ông nghĩ đến mộtlỗi chống lại Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu loại bỏ lối suy luận này. Sau này bản văn sẽ cho thấy tội lỗi thật chống lại Thiên Chúa là tội lỗi gì và nó đưa đến sự đui mù nào. Còn đối với người mù bẩm sinh, Đức Giêsu không nhìn lại đàng sau, Người nhìn tới trước: nhờ anh, Người có thể tỏ mình ra rõ ràng là ánh sáng thế gian. Cho ai đang ngạc nhiên về sự thiếu may mắn của anh mù, lòng thương xót và quyền lực của Thiên Chúa lại được tỏ lộ. Như thế, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của những việc Người làm.
* Đức Giêsu chữa lành anh mù (6-7)
Khác với những hành vi quyền lực khác của Người, ở đây Đức Giêsu không chỉ hành động bằng lời nói của Người. Tác giả mô tả chi tiết những gì Người làm cho anh mù (9,6.11.14.15). Và cả anh này cũng phải làm mộtviệc: Tin vào lời Đức Giêsu, anh đi đến hồ nước rửa mắt và thấy được. “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7): Đức Giêsu chính là Đấng được Chúa Cha sai phái; chính là nước của Người, thứ nước đã hứa ban cho người phụ nữ Samari, mới chữa khỏi đui mù. Đức Giêsu không có mặt trong bốn cuộc gặp gỡ sau đó, nhưng tất cả đều xoay quanh những gì Người đã làm cho anh mù và về tương quan của Người với Thiên Chúa. Chính là qua các cuộc tranh luận này mà người lành bệnh được dẫn từng bước mộtđến chỗ thấy ai là người đã chữa lành anh. Các con mắt mà Đức Giêsu đã mở cho anh để anh thấy ánh nắng mặt trời, bây giờ lại mở ra để thấy “ánh sáng cho trần gian”.
* Cuộc xử án (8-34a)
Trong cuộc gặp gỡ với những người láng giềng (cc. 8-12), có một toan tính đầu tiên là giữ khoảng cách với sự thật quá hiển nhiên về cuộc chữa lành và tránh lấy lập trường đối với chuyện này. Người ta nghi ngờ về căn cước của người được chữa lành: không chắc chắn kẻ đang thấy đây là người mù từ lúc mới sinh lâu nay vẫn phải sống bằng việc hành khất, mà ai cũng biết. Tuy nhiên, anh khẳng định căn cước của anh và nói rõ ràng về những gì Đức Giêsu đã làm cho anh.
Khi ra trình diện người Pharisêu, anh lại phải mô tả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh và cách thức anh lại thấy được (cc. 13-17). Họ tỏ ra khó chịu vì Đức Giêsu đã làm việc ấy trong ngày sa-bát, và thế là nêu lên câu hỏi, từ bây giờ sẽ là vấn đề nổi bật, về tương quan của Người với Thiên Chúa. Có những người coi quan niệm của họ về ngày sa-bát là tiêu chuẩn đánh giá duy nhất, nên cho rằng Đức Giêsu không thể đến từ Thiên Chúa. Những người khác nhìn nhận rằng việc chữa lành này là đặc biệt và không thể cho rằng Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi. Bây giờ chính người được lành cũng bị buộc phải lấy lập trường: anh nhìn nhận Đức Giêsu là mộtngôn sứ, mộtngười được Thiên Chúa sai phái.
Mẩu đối thoại giữa người Do Thái và cha mẹ anh (cc. 18-23) đưa vào mộttoan tính khác nhằm giữ khoảng cách đối với sự thật. Bây giờ người ta nghi ngờ về tình trạng mù lòa trước đây của anh. Cha mẹ anh công nhận căn cước của anh và tình trạng mù lòa của anh từ khi mới chào đời, nhưng không muốn biết gì về việc chữa lành. Họ cúi đầu sợ hãi trước áp lực của quyền bính. Họ không muốn bị cô lập về mặt xã hội; do đó họ nhắm mắt lại trước ánh sáng.
Cuộc đối diện thứ hai của anh được lành với người Pharisêu (cc. 24-34a) đã phân rẽ các tâm trí. Sau khi mọi lý do đã bị loại bỏ và việc chữa lành đã được xác nhận, người ta không thể tránh khỏi việc lấy lập trường đối với người đã làm việc này. Người Pharisêu chỉ quan tâm tới “cách thức” chữa lành (x. cc. 15.19.26). Và bởi vì cách thức này vi phạm quan niệm của họ về ngày sa-bát, họ biết chắc chắn rằng Đức Giêsu là mộtkẻ tội lỗi. Lỗi mà Đức Giêsu đã phạm không phải là một lệnh truyền cho người được chữa lành, nhưng là hành động chính Người đã làm: “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” vào ngày sa-bát (c. 6). Một trường hợp như thế đã được minh nhiên tranh luận trong sách Talmud Babylon (x. Strack-Billerbeck II 533t). Thật ra, các kinh sư cho phép, trong ngày sa-bát, được chữa con mắt bị bệnh trong trường hợp cấp tính, chứ không cho phép trong trường hợp mãn tính, như trường hợp anh mù bẩm sinh này. Ở đây “sự kiện” là việc chữa lành đã thực sự xảy ra không hề có tầm quan trọng nào đối với người Pharisêu. Nhưng đây lại chính là điểm mà anh mù bám vững, nhất định không nao núng (x. cc. 25.30.32). Khởi đi từ hành vi Đức Giêsu đã làm, anh nhận ra càng lúc càng rõ tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Đối lại với sự hiểu biết mà người Pharisêu cho rằng họ có về Đức Giêsu (cc. 24.29), anh đề ra sự hiểu biết của anh về Thiên Chúa, mà cả người Pharisêu cũng phải công nhận: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (c. 31). Do không chấp nhận Đức Giêsu, người Pharisêu cứ thắc mắc, nên đã phải nghe giọng mỉa mai của anh mù: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông lại còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy sao?” (c. 27). Từ hành vi phi thường Đức Giêsu đã làm và từ sự hiểu biết này về Thiên Chúa, anh rút ra hệ luận là Đức Giêsu không phải là mộtkẻ tội lỗi, nhưng là mộtngười làm theo ý muốn của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta có một ví dụ tiêu biểu về thái độ tích cực và tiêu cực khi đứng trước mộthành vi quyền lực Đức Giêsu đã thực hiện. Anh mù được lành không chỉ xử sự như mộtngười sung sướng vì có thể thấy và không quan tâm gì đến người đã chữa anh lành. Ngược lại, đối với anh, việc chữa lành thật sự đã trở thành mộtdấu chỉ đưa anh đến chỗ nhận biết dây liên kết giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Người Pharisêu vẫn ở lại trong thái độ không muốn thấy và cứng lòng lại trong việc từ khước Đức Giêsu. Đối với những sự kiện cụ thể được anh mù nêu ra, họ chỉ có thể chống lại bằng cử chỉ bạo lực là tống anh ra ngoài. Tình thế của họ có nét mỉa mai đầy kịch tính (x. cc. 24 và 40): Trong c. 24, khi mời anh mù nói lên sự thật dưới cái nhìn của Thiên Chúa (“Hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây biết rằng ông ấy là kẻ tội lỗi”), người Pharisêu hẳn lại phải bảo vệ điều ngược lại với những gì họ biết: chữa lành một người mù không phải là dấu chỉ tội lỗi. Trong c. 40 (“Cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”), họ phải thú nhận cách bi đát điều hiển nhiên: loại trừ kẻ đã chữa người mù chứng tỏ chính họ đang mù.
* Tuyên án (34b-41)
Cuộc gặp gỡ thứ hai giữa anh được lành và Đức Giêsu (cc. 35-38) xảy ra lần nữa vẫn do sáng kiến của Người. Đức Giêsu quan tâm đến người đã bị tống ra ngoài và giúp anh có thể thấy thêm nữa, bằng cách đưa anh đến chỗ tin vào Con Thiên Chúa. Nhờ cuộc tranh luận trước đó, càng ngày anh càng đến gần Đức Giêsu hơn và ngày càng mở ra hơn với tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Bây giờ Người tự mạc khải ra cho anh là người bị loại trừ biết Người là Con Thiên Chúa nhập thể, Người không đến thế gian trong ánh vinh quang huy hoàng, nhưng trong tình trạng đơn giản của thân phận con người và đi đến chỗ sẽ được giương cao trên thập giá (3,14; 6,35; 12,23.34). Anh mù được lành đã tin và quỳ xuống trước mặt Người, tức là làm mộtcử chỉ thờ phượng Thiên Chúa. Anh đã có thể thấy trọn vẹn phẩm cách và tầm quan trọng của Đức Giêsu. Khi chữa lành anh và hướng dẫn anh, Đức Giêsu đã ngày càng trở thành ánh sáng cho anh.
Cuối cùng, xảy ra cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và người Pharisêu (cc. 39-41). Các ông này đã phản ứng lại với mộtkhẳng định của Người về mộtphương diện quan trọng trong sứ mạng của Người: Người đã đến để cứu độ thế giới (3,17; 12,47); Người ở trong thế gian như là ánh sáng ban sự sống. Do Đức Giêsu không xuất hiện với mộtquyền lực to lớn, sự hiện diện của Người làm cho loài người chia rẽ nhau. Có những người đón nhận Người và chấp nhận sự trợ giúp của Người, được Người mở mắt và đi đến chỗ nhận biết thực tại trọn vẹn. Có những người khác lại loại trừ Người, nghĩ rằng họ đã biết mọi sự không cần Người và thế là họ thành đui mù thật sự. Khi mà thực tại đã trở nên ngày càng thấy rõ được, sự đui mù của những người ấy càng trầm trọng. Người Pharisêu muốn biết phải chăng điều này cũng đúng đối với họ. Họ đã xác định Đức Giêsu là một “kẻ tội lỗi” (9,24); bây giờ lại chính là Người đang mô tả lối xử sự của họ, mà gọi là “tội lỗi”, là thiếu sót đối với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Đức Giêsu là ánh sáng cho trần gian trong tư cách là bao lâu Người còn ở trần gian, Người thực hiện những việc Chúa Cha giao phó cho Người (9,4-5). Người không phải là mộtánh sáng được áp đặt cho bất cứ ai không phân biệt. Điều ghi nhận được với người mù từ thuở mới sinh là nhờ Người, có những người trở thành thấy được và có những người lại trở nên đui mù (c. 39). Qua bảy cuộc gặp gỡ, trong đó Đức Giêsu chỉ có mặt ở lần đầu và hai lần cuối, ta thấy diễn ra mộttình huống đầy kịch tính và phong phú hậu quả. Từ việc chữa lành anh mù, từ những cuộc tranh luận với những người xung quanh Đức Giêsu và từ lời mạc khải về Đức Giêsu, người mù được dẫn đến chỗ thấy được hoàn toàn, tin và thờ phượng Đức Giêsu. Các đối thủ chỉ thấy Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi, đã vi phạm Lề Luật và chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những gì Đức Giêsu đã làm và qua đó lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày ra, đối với họ, lại là mộtcông trình chống lại Thiên Chúa. Ánh sáng làm cho người ta thấy Thiên Chúa, thấy Đấng Thiên Chúa sai phái và lễ dâng của Đấng ấy để cứu độ thế giới, lại làm cho mọi sự ra tối tăm đối với họ. Chỉ ai mở ra, ai chấp nhận được giáo huấn và hướng dẫn, mới có thể gặp Đức Giêsu và nhận được ánh sáng ban ơn cứu độ.
Như thế, chẳng phải là anh mù bẩm sinh hay cha mẹ anh ta là những người tội lỗi (x. c. 2t), nhưng những kẻ từ chối tin Đức Giêsu mới có tội (c. 40t). Một lần nữa, TM IV vượt xa hơn những tranh luận halakha (Midrash halakha là những lời giải thích các bản văn Kinh Thánh liên quan đến các bản văn luật pháp. Các Rabbi giải thích các khoản Luật ghi chép trong Kinh Thánh để dân chúng có thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Mỗi thời đại có hoàn cảnh sống khác nhau, vì thế các khoản luật cần được giải thích và thích nghi với hoàn cảnh mới) liên hệ đến luật sa-bát, để đưa độc giả đến chỗ chọn đứng về phía Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, hay là chống lại Người.
5.- Gợi ý suy niệm
- Hôm nay chúng ta có thể tự hỏi về thái độ của chúng ta khi đứng trước đau khổ của người khác. Chúng ta có tự hỏi là vì sao và do đâu mà có đau khổ này, hoặc mục đích của nỗi đau khổ này là gì chăng? Nhất là chúng ta có biết nhìn sự đau khổ của người khác như Đức Giêsu đã nhìn chăng? Không nên kết luận rằng những người phải khốn khổ là nạn nhân của mộtsố phận mù quáng. Một Kitô hữu chân chính không được nghĩ rằng Thiên Chúa trừng phạt người ta. Sớm hay muộn, Thiên Chúa sẽ làm rạng tỏ nơi họ quyền năng và lòng thương xót của Ngài (x. Rm 8,28).
- Con đường anh mù đã rảo qua cho chúng ta hiểu cách thức Đức Giêsu hành động trong tư cách là “ánh sáng cho trần gian”. Người không chỉ hiện diện trên mặt đất, Người còn đi gặp loài người, chữa lành họ và dẫn họ đi tới, để họ thấy càng ngày càng rõ hơn là Người từ đâu đến và Người là ai. Dù sao, chúng ta cũng biết rằng không phải chính chúng ta sẽ bảo cho Đức Giêsu biết phải sống thế nào và phải làm gì. Chúng ta cần phải để cho Người chỉ cho biết Người là ai và Người muốn mang đến cho chúng ta điều gì.
- Anh mù đã càng lúc càng hiểu rõ hơn việc anh được lành. Hôm nay tôi có thể tìm hiểu xem kinh nghiệm nào đã là khởi điểm để tôi hiểu Đức Giêsu ngày càng sâu xa hơn. Cần phải nhớ lại kinh nghiệm anh mù đã trải qua. Vì nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai phái, anh bị tống ra ngoài cộng đoàn; người ta đuổi anh như đuổi mộtkẻ tội lỗi. Cả cha mẹ anh cũng từ chối bảo vệ anh. Khi đó, niềm tin đưa đến hậu quả là sự cô đơn. Phải vượt lên trên nỗi sợ hãi, sự cả nể, mối bận tâm đến ý kiến của người đời, để có thể sống độc lập, và đi đến tự do chân chính.
- Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Con người có khả năng tự làm mình ra đui mù, đưa ra những lý do để khỏi thấy, tạo ra cho mình những xác tín giả trá, từ chối mở mắt ra, mà lại nói là mình “đang thấy”. Ánh sáng rất đòi hỏi: nó bắt ta xét lại nhiều chuyện, từ bỏ nhiều thói quen, đôi khi phải đoạn tuyệt với cả mộtmôi trường. Bị đui mù mà biết nhìn nhận mình thiếu ánh sáng và không thấy, thì không phải là mộttội; nhưng tự hào là mình biết tất cả về Thiên Chúa và về thế giới và từ chối ánh sáng đến từ Thiên Chúa, điều này đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, nên là một tội.
57. Chú giải của Alain Marchabour.
CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH
Sau cuộc tranh luận dữ dội và sự nghiêm khắc của các chương 7 và 8 với các diễn tiến tập trung vào Chúa Kitô, thì đây là bài trần thuật đầy vẻ sống động, phân vân và đầy sinh lực. Tác giả khéo léo đan xen các bi kịch đầy đạo lý, với một vài trần thuật giàu tưởng tượng và kể chuyện nhiều hơn, làm nên một câu chuyện về Chúa Giêsu, người mù từ thuở mới sinh và nhiều nhân vật đối thoại khác. Trong số các bài trần thuật của Gioan thì bài này trổi vượt vì giọng điệu linh hoạt, ít khai triển thần học và vì bề dày của nhân thân người mù.
Phần dẫn (cc. 1-5)
Cách dẫn nhập vào bài trần thuật này (“đi ngang qua”) thường thấy trong sách Nhất Lãm (Mc 1,16; Mt 9,27) lại bất thường nơi Gioan. Cảnh tượng được trình thuật, có thể diễn ra bất cứ lúc nào vào một trong những ngày Chúa Giêsu ở Giêrusalem. Tuy nhiên bài trần thuật này nối khớp chặt chẽ với bài trần thuật trước đó: sự chống đối Chúa Giêsu được khai triển trong các chương 7 và 8 được tập trung ở đây trên một con người, bởi vì người này đang trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Nước ở hồ Silôê quan trọng đối với lễ Lều lại đón nhận ở đây con người mù lòa. Chúa Giêsu, “ánh sáng thế gian” trong 8, 12, phải đối đầu với sự đui mù của người Do Thái đang khép kín trước ánh sáng này. Ở đây, Đấng là “ánh sáng thế gian” (c.5) mở mắt cho người mù và, qua dấu lạ này, vạch trần cách minh bạch hơn sự đui mù của các lãnh tụ Do Thái.
Năm câu đầu tiên dẫn nhập các nhân vật và các chủ đề của bài trần thuật. Chúa Giêsu là nhân vật trung tâm, Đấng nhìn thấy người mù, đoán giải trước cảnh huống (dấu lạ như biểu hiện vinh quang), kết hợp các môn đệ (tái xuất hiện lần đầu tiên kể từ chương 6) vào công việc của Người (chúng ta phải làm việc) qua lời mặc khải mầu nhiệm (cc. 3-5). Vấn nạn mà các môn đệ nêu lên, phù hợp với lòng tin khá phổ biến trong đạo lý Do Thái theo đó đứa bé có thể phạm tội ngay trong bụng mẹ! Năm câu đầu tiên này tập trung vào Chúa Giêsu và lời mặc khải của Người sau đó nhường chỗ lại cho một bài trần thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động.
Việc chữa lành (c. 6-7)
Phép lạ chỉ chiếm có hai câu: người kể chuyện chú trọng được cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và các hậu quả người mù phải chịu: Chúa Giêsu không thoa ngay nước miếng vào mắt người mù, mà trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. Cảnh tượng này nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã khởi sự một công việc mà hiệu quả tượng trưng chỉ xuất hiện sau khi người mù đi đến hồ Silôê. Thánh Âutinh nói: “Người mù đến rửa ở hồ và đã chịu phép rửa trong Chúa Kitô”. Nguyên ngữ Silôê có nghĩa là “người được sai phái”, biến người mù thành một sứ giả vâng phục và chuẩn bị làm chứng tá sau này. Khác với Naaman (2V 5,10), người mù đã tin vào hiệu quả lời nói của Chúa Giêsu. Phần tiếp theo của bài trần thuật xác định sự thông hiểu kỳ lạ, sự sốt sắng với điều mới mẻ và khả năng tranh biện của anh ta. Người bại liệt ở chương 5 và người mù từ thuở mới sinh được chữa lành trong những hoàn cảnh khá giống nhau. Thế nhưng, bởi tính hồn nhiên, sự cởi mở, sự thông hiểu và tính dũng cảm của mình, người mù để lại đằng sau mình sự bại liệt không thể nhận ra được và cuối cùng càng thụ động hơn.
Trong các cảnh tiếp theo, Chúa Giêsu biến mất về thể chất. Thế nhưng Người vẫn chiếm vị trí tgm trong các câu tiếp sau các câu hỏi đáp giữa những người đối thoại và người mù.
Người mù và các người láng giềng (cc. 8-12)
Người mù được lành bệnh trở thành đối tượng của ba vấn nạn mà hai vấn nạn đầu thuộc về việc đã xảy ra trước: Có phải hắn không? Và làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? Anh ta trả lời: Anh ta thuật lại từng chi tiết của dấu lạ bằng những từ ngữ gần như lặp lại từng chữ các câu 6 và 7. Chỉ có vấn nạn thứ ba khiến anh ta không thể trả lời: anh ta không biết Chúa Giêsu ở đâu. Anh ta còn cần phải trải qua một con đường dài trước khi xác định đức tin của mình vào Chúa Giêsu, trước khi đi từ dấu lạ đón tiếp nhận Chúa Giêsu, ánh sáng thế gian. Trong lúc này đây, Chúa Giêsu đối với anh ta là người chữa bệnh đơn thuần. Đấng mà người ta gọi là ông Giêsu mà anh ta đến ánh sáng đức tin. Thế nhưng việc Chúa Giêsu đi vào trong đời sống của người mù và ở giữa loài người bắt đầu làm phát sinh hậu quả công hiệu, có thể phân chia loài người thành những kẻ đón nhận dấu lạ và những kẻ từ khước Chúa Giêsu.
Người mù và những người Pharisêu (c. 13-17)
Việc tra hỏi của các lãnh tụ tôn giáo khiến người kể chuyện đưa vào một đề tài mới mẻ mang tính cách tôn giáo: dấu lạ được thực hiện vào ngày Sabat. Từ đó việc làm của Chúa Giêsu vào ngày lễ nghỉ khiến Người đối nghịch với Lề Luật và những đòi buộc của Lề Luật. Cả hai bài đều đối nghịch ở đây, để lộ hai cách giải thích về con người của Chúa Giêsu: có người cho rằng việc chữa lành bệnh tật vào ngày Sabat là vi phạm Lề Luật và như vậy là có tội. Đối với một số người khác thì hoàn thành một dấu lạ không thể là có tội được. Sự chia rẽ giữa các nhóm người về vấn đề Chúa Giêsu càng trở nên sâu xa. Sự đối lập giữa việc vi phạm ngày Sabat (công trình của Thiên Chúa) và việc chữa lành người mù không thể giải quyết được trong lúc này. Thế nhưng một cuộc tranh luận trở nên rõ ràng giữa luật pháp (đối nghịch với Chúa Giêsu) và sự việc chữa lành người mù (là ân huệ của Chúa). Không thể không khôi hài, người mù trở nên như vị trọng tài và hơn nữa tỏ rõ lập trường của mình: “Đó là một vị ngôn sứ”. Chắc chắn điều người mù quả quyết căn cứ vào Kinh Thánh, theo đó Đấng Mêsia được giao cho sứ mạng nên như ánh sáng thiên hạ và mở mắt người mù (Is 42,6-7; xem thêm Is 29,18; 32,3; 35,5).
Người Do Thái và cha mẹ người mù (cc. 18-23)
Cho đến lúc này đây, cha mẹ người mù chỉ mới được nhắc đến như những người chịu trách nhiệm về việc mù lòa của anh ta (c. 2). Bây giờ đây họ được mời đến. Các người Pharisêu ở đây được gọi thành “người Do Thái”: ghi nhận này cho thấy tác giả cũng như độc giả đều giữ một khoảng cách với đạo lý Do Thái. Câu trả lời của cha mẹ người mù dựa vào hai điều biết và hai điều không biết:
Chúng tôi biết nó là con chúng tôi,
và nó bị mù từ khi mới sinh.
Chúng tôi không biết làm sao nó thấy được
Chúng tôi cũng chẳng hay ai đã mở mắt cho nó.
Hai điều biết đối nhau. Một điều theo xác thịt; một điều theo Thần Khí. Điều này thuộc về mầu nhiệm của Chúa Kitô mà họ không thể hiểu được. Việc họ từ chối có thể hiểu được theo sự hợp lý của bài trần thuật. Người kể chuyện giải thích việc này như sợ bị trục xuất khỏi hội đường. Có thể thánh sử ghi nhận ở đây những nguy cơ dành cho những ai tin vào Chúa Giêsu bị phạt vạ tuyệt thông vào cuối thế kỷ I, điều chưa được biết đến vào thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên trên bình diện bài trần thuật, việc người mù bị cô lập nhấn mạnh rằng tin vào Chúa Giêsu luôn luôn là một sự tự nguyện dấn thân mà cha mẹ không thể quyết định thay thế cho người môn đệ. Việc chọn lựa này không thể không nguy hiểm bởi vì nó có thể dẫn đến sự đoạn giao với tôn giáo của mình.
Hỏi cung người mù lần thứ hai (c. 24-34)
Sự can dự của cha mẹ người mù kết thúc bằng: “Nó khôn lớn rồi: Xin các ông cứ hỏi nó”. Từ nay người mù rơi vào tình trạng cô đơn, một mình dũng cảm đối diện với những người xét xử mình. Bài trần thuật hình như đối chiếu hai điều hiểu biết mà những người trong cuộc đang hiện diện không thể hiểu nổi: đối lại với lời “chúng ta biết” của nhóm người Pharisêu (c. 24), là lời “chúng ta biết” (c. 31) của người mù và của Giáo Hội mà anh ta đại diện nơi đây. Quả vậy đó là hai dạng hiểu biết đối kháng ở đây: điều hiểu biết thứ nhất (của người Pharisêu, từ nay đồng hóa với người Do Thái), cho rằng quá khứ vẫn còn có giá trị để hiểu được biến cố Giêsu (“chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê”). Họ đem niềm xác tín này đối lại với sự không hiểu biết về nguồn gốc của Chúa Giêsu: “Còn ông ấy, chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến”. Dấu lạ được sử dụng cho hai cách giải thích: nhóm người Pharisêu chỉ chú ý đến việc vi phạm luật pháp (ông ấy là người tội lỗi bởi vì đã làm việc vào ngày Sabat) và tiếp tục cố chấp trước sự kiện kỳ lạ (một người mù nhìn thấy được).
Điều hiểu biết thứ hai cũng quả quyết như điều hiểu biết thứ nhất: người mù và qua anh ta Giáo Hội sơ khai tuyên bố: Chúng ta biết. Điều hiểu biết này ăn rễ sâu trong sự kiện: “trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được”. Ở đây các tiêu chuẩn thuộc về quá khứ đều vô hiệu: bởi vì điều đang diễn ra, nơi Chúa Giêsu, là chưa từng nghe thấy theo nghĩa đen của từ: “Xưa nay chưa hề nghe nói” –Sự hiểu biết của Giáo Hội dành ưu thế cho điều mới lạ tỏ hiện nơi Chúa Giêsu.
Hành trình của người mù kết thúc: anh ta đã đạt được cùng đích và đã đối chiếu hiểu biết của những kẻ đón nhận dấu lạ Thiên Chúa trao ban nơi Chúa Giêsu với điều hiểu biết của những kẻ đã dùng ông Môsê chống lại Thiên Chúa. Lời phát biểu của người Do Thái trong cách nói bóng gió riêng biệt của Gioan lặp lại phán quyết của các môn đệ về người mù từ thuở mới sinh: “một người tội lỗi”. Như vậy, bởi sự bao hàm này, người Do Thái chứng tỏ rằng họ đã không thay đổi ngay từ đầu. Họ đã không “thấy” dấu lạ có khả năng phá tan sự đui mù của họ.
Việc trục xuất người mù ra khỏi hội đường kết thúc bài trần thuật. Xem ra có sự liên lạc mật thiết giữa sự trục xuất này với thân phận của Chúa Giêsu trong mặc khải. Đối với người này người nọ, Chúa Giêsu là người tội lỗi, kẻ vi phạm Lề Luật. Đối với người mù, Người lại là vị ngôn sứ đặc biệt của Thiên Chúa. cho đến lúc ấy, người mù vẫn còn trong phạm vi đức tin theo Do Thái giáo; việc anh bị trục xuất ra khỏi hội đường khiến anh trở thành người bị khai trừ, nhưng chưa phải là một người tin vào Chúa Giêsu. Để tin theo Chúa, nhất thiết Người phải tái xuất hiện để giúp anh ta thực hiện bước tiến này.
Gia nhập cộng đoàn (c. 35-38)
Chúa Giêsu trở lại đón nhận con người bị trục xuất. Để làm điều đó, Người đã khiến có một bước chuyển biến quyết định từ “Chúa Giêsu ngôn sứ” đến “Chúa Giêsu Con Người”. Đấng Cứu Độ dẫn đưa vào trong cộng đoàn của thời cuối cùng. Trong cuộc tranh luận khiến anh ta đối đầu với các lãnh tụ Do Thái giáo và sau cùng “với người Do Thái”, người mù từ thuở mới sinh được lành bệnh đã chứng tỏ sự thông hiểu, sự sáng suốt để giải thích biến cố Giêsu. Ở đây Chúa Giêsu tỏ cho anh ta thấy sự xuất hiện của một di chuyển mới mẻ dưới sự dìu dắt của “Con Người”. Người mù sấp mình xuống trước mặt “Con Người”, nhận biết thiên tính của Người, bởi vì trong Tin Mừng Gioan, việc thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa (Ga 4,20-24; 12-20), và tước hiệu “Chúa” là dấu chỉ căn tính thần linh của Chúa Giêsu. Thờ phượng Chúa Giêsu, nhận biết Người như Đấng mặc khải sau cùng của Thiên Chúa, là chóp đỉnh cuộc hành trình của người mù.
Chú giải (cc. 39-41).
Các người Pharisêu trở nên đối lập với người mù. Chúa Giêsu tự đặt mình vào tâm điểm của ngày Sabat, xác định sự đoạn giao giữa người Do Thái và các Kitô hữu trước hết và trên hết là một sự đoạn giao có liên quan đến Chúa Kitô. việc xét xử mà Người khơi dậy là sự chia cách. Tùy vào thái độ với Ngôi Lời nhập thể mà loài người hoặc ở trong bóng tối, hoặc ở trong ánh sáng.
58. Chú giải của Noel Quession
Đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh
Khác với nhiều phép lạ, phép lạ này được làm không phải do một lời cầu xin. Chính Đức Giêsu chủ động đưa ra sáng kiến: “Đức Giêsu trông thấy một người mù”. Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy một người mù”. Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy những thử thách của tôi.
Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.
Câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta. Của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Những người xưa chỉ bằng lòng với một lý thuyết cổ xưa hơi quá đơn sơ một chút; sự xấu do bởi một tội lỗi. Nhưng chính Đức Giêsu lại không đặt vấn đề như vậy. Hơn nữa người không đề ra một giải đáp nào: cái xấu vẫn không chấp nhận được, không thể biện minh được. Chỉ có một phản ứng bình thường, có tính nhân bản nhất về nền tảng, đó là cố mà loại bỏ cái xấu xa này chẳng nào chúng ta có thể làm được. Và cuộc chiến đấu chống lại đau khổ không phải vô ích, hay cuối cùng chịu thất bại, bởi vì Đức Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng đấy là cuộc chiến đấu của chính Thiên Chúa: hành động rõ rệt mà vì thế Đức Giêsu tự xưng mình “là người được sai đi”. Được sai đi? Bởi ai? Thế thì, Đức Giêsu này. Người từ đâu mà đến?
Vấn đề về nguồn gốc của Người này lại còn quan trọng hơn thế, vì hẳn là Người trông thấy toàn bộ việc thế gian chấm hết: Người biết Người sắp chết, đêm đã tới, và Người phải hành động bao lâu Người còn ở thế gian.
Cái chết mà Người thấy trước qua nỗi thù hận của các đối phương của Người (Ga 7,19-32.44; 8,59), đó sẽ là chiến thắng bề ngoài của sự xấu, chiến thắng của bóng đêm (Ga 13,30).
Nhưng bóng tối không chặn được ánh sáng” (Ga 1,5-9). Cám ơn Người, lạy Đức Giêsu. Vinh quang thuộc về Người, vì Người đã soi chiếu đêm tối của chúng con!
Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
Một mô tả cụ thể để lộ người chứng tận mắt, Gioan. Nước bọt của một số người, theo những người xưa, có một giá trị dược liệu. Nhưng nhất là, chúng ta khám phá ở đó, thêm một lân nữa, cái thiên tài của Gioan, nhà thần học biểu tượng chủ nghĩa… và nhà thần học nhiệm tích… Vâng, người đàn ông mù từ thuở mới sinh này, bên kia trượng hợp cá nhân đầy xúc cảm, thực sự là một biếu tượng của nhân loại bị nhận chìm trong đêm tối, khi họ không biết Đức Giêsu, khi những đau khổ của loài người có vẻ như không có ý nghĩa. Và cái giếng Si-lo-ê này, bên kia vùng nước có thật của nó trong khu vực thấp trũng của Giêrusalem, thực sự là một biểu tượng của phép rửa thanh tẩy và chiếu sáng.
Điều làm cho Gioan, nhà thần học, chú ý, đó trước hết không phải là con người kỳ diệu lạ lùng, được kể ngắn gọn chỉ bằng ba dòng, đó chính là dấu hiệu biểu trưng mà Đức Giêsu đưa ra về chính mình và được biểu lộ qua cái tên huyền nhiệm của cái giếng “Si-lô-ê có nghĩa trong tiếng Do Thái là “Shilloah” Người được sai đi”. Được sai đi? Do ai?
Cái bản vị Giêsu, Đấng được sai đi, nêu ra nhiều vấn đề hoài nghi xác định lập trường, tranh cãi, Người là ai? Không người nào đã từng bao giờ đặt nhiều câu hỏi như thế. Tại sao? Định mệnh của Người là gì? Phép lạ của người mù được chữa khỏi mới xong khi Đức Giêsu dường như vừa đi khỏi hiện trường. Nhưng vấn đề chính là về Người trong quá trình một vụ án kỳ lạ tập tục, thông qua bản thân của người đã được hưởng lòng tốt của Đức Giêsu. Chúng ta sắp dự vào bốn cuộc hỏi cung liên tiếp, ngày càng bắt nhân. Nhưng cuối cùng, chính Đức Giêsu can thiệp lại để kiện lại những đối phương của Người.
VỤ KIỆN I: Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” có người nói: “Chính hắn đó!”. Kẻ khác lại rằng: ‘không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giồng hắn đó thôi!”. Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”. Người ta liền hỏi: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”. Anh ta trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ê mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được” Họ lại hỏi anh: “ông ấy ở đâu?”. Anh ta đáp: “Tôi không biết”.
Đó là những người làng xóm đã làm cuộc điều tra ưu tiên: Cái gì đã diễn ra? Nó đã diễn ra như thế nào? ai đã làm chuyện đó? Lúc này chúng ta chỉ nghĩ tới một động tác tự nhiên vì có thiện cảm nên tò mò. Ngày nay vẫn còn. Có một số đông người cùng thời với chúng ta chỉ chú ý đến Đức Giêsu tới chỗ đó: người ta nhận xét một sự kiện… nhưng người ta không muốn rắc rối cuộc đời và người ta không đi xa hơn. Còn về anh mù được chữa lành, chính anh ta trở về từ rất xa. Chúng ta lưu ý là anh ta chưa biết gì về Đức Giêsu cả, anh ta chỉ biết người ta gọi ông ấy là Giêsu.
VỤ KIỆN II: Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”
Đứng trước Đức Giêsu, ý kiến bị phân rẽ: người này thì ủng hộ… người kia thì chống đối… Người, con người có thiện chí, bắt đầu từ từ mà tiến lên. Ngoài ra đó là những điều phiền nhiễu của những người điều tra muốn đây anh ta đi xa hơn. Bây giờ anh ta khẳng định: Đó là một ngôn sứ. Lạy Chúa. xin giúp chúng con tiến đi trong đức tin.
VỤ KIỆN III: Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.
Thế là một thái độ khác đối diện với Đức Giêsu đó là một sự trốn chạy. Nhưng người ta chối từ, không muốn tự đặt cho mình một số vấn đề có thể gây ra liên lụy. Không thể tôi thường thuộc vào loại này ư? Người ta có thể đừng nên làm gì để khỏi có nhiều chuyện!
VỤ KIỆN IV: Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.
Những người Pharisêu, bị lún sâu vào trong hệ thống của họ: Họ “biết”! Đó tà tiếng họ lặp lại và tỏ rõ lòng tự mãn của họ. Họ chối từ, biến đổi, trong khi dựa vào truyền thống. Chấp nhận cái mới của một người vi phạm. Ngày Sa-bát sẽ làm cho hệ thống giáo điều của họ lâm nguy. Như vậy họ chối từ bằng chứng hiển nhiên. Và như thế họ phạm tội duy nhất có trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: chối từ lòng tin… muốn là một người không tin…bịt mắt trước huyền nhiệm Đức Giêsu. Ta hãy chú ý đến cách sử dụng tinh vi của động từ “biết” nhờ đó, người ta thấy rõ các cửa mở vào đức tin hay lối chặn cho sự không tin. 1. Cha mẹ “biết” đó chính là con trai họ… nhưng họ không muốn “biết” ai đã mở mắt cho con họ, để không bị liên lụy (9,20-21). 2. Những người Pharisêu “biết” Đức Giêsu đã từ đâu đến (9,24-29). 3. Anh mù chính anh ta không “biết” Đức Giêsu đi đâu, không “biết” đó có phải là một người tội lỗi không… nhưng anh ta “biết rằng anh ta đã được chữa khỏi và “biết” rằng Thiên Chúa không đoái nghe những người tội lỗi (9,12-25-31). Còn chúng ta, chúng ta có đi tìm chân lý không? Chúng ta có bị chặn trước những hiểu biết của chúng ta không? Chúng ta có ham hiểu biết nhiều hơn không, mở con mắt đui mù của chúng ta ra không?
Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Trong khi những người Pharisêu bị giam hãm trong sự vô tín của họ, thì anh mù, chính anh lại không ngừng tiến lên trong lòng tin, và chúng ta chú ý là lòng tin này chỉ đạt tới đỉnh cao theo sáng kiến và vấn đề bản vị của chính Đức Giêsu. Tất cả những câu hỏi mà các đối thủ đặt ra cho anh ta, đâu làm cho anh tiến lên, nhưng sự tuyên xưng đức tin của anh ta chỉ thành tựu nhờ cuộc gặp gỡ bản thân của Đức Giêsu. Còn chúng ta, đức tin cửa chúng ta có tiến lên, theo gương của người mù này, người dần dần mở mắt trước huyền nhiệm, một cách tiệm tiến không? ban đầu người ta chỉ đứng trước “người mà người ta gọi là Giêsu (9,11). Và rồi người ta phát hiện “một ngôn sứ “(9,17)… một người nào đến từ “Thiên Chúa” (9,88)… và sau cùng “Con Người” (9,35) và “Chúa (9,38). Đây là sự trả miếng của Thiên Chúa. Người bất hạnh đáng thương đã tìm thấy hạnh phúc đích thực duy nhất. Mù từ thuở mới sinh, không được những người hàng xóm giúp đỡ nhiều lắm, không được cha mẹ nâng đỡ bị đuổi ra khỏi giáo đường như một tên bị bệnh ôn dịch… Nhưng mềm vui tin tưởng to lớn biết bao!
Đức Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: `Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”
Đó là sự lật ngược hoàn hoàn các tình huống: “tội lỗi không ở chỗ những người Pharisêu đã đặt nó, chính họ là những người khinh miệt người tội lỗi bẩn thỉu này bị đánh dấu từ thuở mới sinh… và coi sự đui mù đích thực không hề ở chỗ mà họ đặt ra. Chính họ là những người mù, chỉ mình họ chối từ, không trông thấy cái đập thẳng vào mắt họ.
Ta hãy chú ý đến điều Đức Giêsu khẳng định: không phải Thiên Chúa lên án họ theo bề ngoài,… chính họ là những người tự lên án mình.
Cuộc Phán xét chỉ đến chuẩn nhận cái mà người ta đã quyết đinh một cách tự do. Đó chính là sự phi lý tự sát của việc chối bỏ đức tin. Với Ni-cô-đê-mô, Đức Giêsu đã nói: Ai chối bỏ lòng tin thì đã bị lên án rồi… phán đoán là như thế này đây: những người ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng (Ga 8,18-19). Bản thân Đức Giêsu buộc phải có một chọn lựa: phải chọn lựa! Trong Thánh Gian, có một tác dụng thường xuyên giữa hai động từ “thấy” và “tin”…Người ta trông thấy những dấu chỉ muốn mời gọi tin tưởng (Ga 1,50; 3,86; 4,48; 6,26-36.40; 9,39-41; 11,45; 20,8; 20,29). Và Chúa Giêsu, ở đây, khẳng định mạnh mẽ rằng những người Pharisêu không thể dung tha vì không tin, bởi vì họ đã trông thấy dấu chỉ, bởi vì các ông trông thấy… tội các ông vẫn còn.
59. Chú giải của Fiches Dominicales
DỊP LỄ ÁNH SÁNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Cũng như cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria gần giếng Giacob, Tin Mừng về người mù từ lúc mới sinh là một trong những bản văn lớn của Gioan mà Giáo Hội ở thế kỷ đầu dành cho việc nhập môn của các tân tòng.
Nếu sự việc xảy ra trong một ngày Sabbat ở cửa ra vào Đền thờ, sự việc ấy diễn ra trong khung cảnh lễ Lều. Trong lễ này, ngoài nghi lễ rảy nước từ chính giếng Siloê còn nghi lễ ánh sáng buổi chiều tối, với cuộc rước đuốc, diễn tả sự chờ đợi ánh sáng tràn đầy đã hứa cho Israel trong ngày của Đấng Messia. Cũng trong khung cảnh này, Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian”.
Chúng ta ở trung tâm cuộc luận chiến. Suốt hai chương trên, Đức Giêsu luôn là mục tiêu cho đối phương quấy rầy. Ở đây sự chống đối của người Pharisêu tập trung trên việc kẻ mù được lành và đang trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
- Hành trình để nhận biết.
Cũng như Chúa nhật vừa rồi, nay Gioan đang đưa ta đến sự nhận biết.
Sự ra vào của các nhân vật ăn nhịp với các giai đoạn và kết cấu của câu chuyện.
Lúc đầu có mặt, sau đó Đức Giêsu vắng mặt ở sân khấu cho đến lúc tìm thấy lại người mù, Ngài đặt cho anh ta một câu hỏi căn bản: “Anh có tin Con Người không”.
Giữa khởi đầu và kết thúc của câu chuyện, người mù được lành chỉ trơ trọi một mình, mặc cho các người “thân cận” và “người quen” tự đặt câu hỏi về anh, người Pharisêu thì quấy rầy anh ta bằng những câu hỏi, với cha mẹ ruột đang tìm cách tránh né vì sợ bị liên luỵ, người Pharisêu đòi anh ta đến lần thứ hai, và sau một cuộc đối thoại gay gắt, họ “tống anh ra ngoài”.
Sự thay đổi danh xưng của Đức Giêsu, một sự tiến bộ trong sự nhận biết: trước hết Chúa được chỉ như là “người mà người ta gọi là Giêsu, sau đó một “tiên tri” và như kẻ từ Thiên Chúa mà đến, cuối cùng anh mù tuyên xưng Ngài như là “Con Người”.
Những từ chính (mots clés) được dùng nơi đây với ý nghĩa sâu xa trong vai trò của chúng:
Trong suốt hành trình, từ “bị mù” (cụm từ được lặp lại 15 lần) đối lại với “thấy” (13 lần).
Ở mỗi một giai đoạn, cùng một công thức được lặp lại “Ngài đã mở mắt cho tôi”. Tất cả đến 7 lần, con số ấy là hoàn hảo, chỉ ý nghĩa tượng trưng rằng người được lành hoàn toàn.
Đúng vậy cuộc gặp gỡ lần thứ hai với Đức Giêsu cho ta thấy rõ sự chữa lành thể xác chỉ là một dấu chỉ một sự chữa lành sâu xa hơn, cho phép từ nay anh “thấy” trong việc “tin”. Anh hỏi: “Ai là Con Người để tôi tin?”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh đang thấy đấy, chính Ngài đang nói với anh”.
- Dồn về một tuyên xưng đức tin.
Tất cả bắt đầu bằng cái nhìn của Đức Giêsu khi Ngài ra khỏi đền thờ. Ngài “thấy trên đường đi một người mù từ thuở mới sinh”. Theo niềm tin dân gian, bệnh hoạn là kết quả của tội lỗi, vì thế các môn đệ liền hỏi Ngài: “Thưa Thầy, tại sao người này mù từ lúc mới sinh? Tại tội lỗi của anh ta hay tội lỗi của cha mẹ của anh?” “Không phải do tội lỗi của anh ta, cũng không do của cha mẹ anh”, Đức Giêsu trả lời, nhưng nhờ sự dữ mà con người khốn khổ này đang chịu, “hành động của Thiên Chúa” được biểu lộ, và việc anh ta được tỏ ra như dấu chỉ “ánh sáng trần gian” nhờ dấu lạ buộc mỗi người phải có thái độ đối với anh ta.
Đức Giêsu lấy bùn trộn với nước miếng. Từ thế kỷ thứ II thánh Irênê de Lyon đã thấy trong cử chỉ của Đức Giêsu đắp mắt người mù, chính là sự hoàn thiện cử chỉ của Thiên Chúa đắp nên thân xác của Adam. Bôi bùn lên mắt người tàn tật, Đức Giêsu ra lệnh cho anh ta đứng dậy đi rửa mắt tại giếng Siloê” (Siloê có nghĩa là được sai đi). “người mù liền đi và rửa mắt, khi anh trở lại anh thấy được”. Phép lạ này được kể lại cách đơn sơ vỏn vẹn trong hai câu, vì thánh sử có ý dẫn ta từ dấu chỉ đến Đấng mà dấu chỉ mặc khải! Đấng được sai đến “.
Anh đã được lành. Đức Giêsu đã bỏ đi khỏi nơi xảy ra sự kiện. Từ nay anh chỉ một mình ở giữa cuộc tranh luận về việc anh đã được lành và về lai lịch của người đã chữa anh lành.
Trước hết là những “kẻ lân cận” và những người “quen” anh ta. Cái nhìn của họ chỉ ở trên bề mặt của biến cố. Họ sinh ra chia rẽ trên chính thực tế của việc được chữa lành (Người thì nói: phải chăng chính là người thường đứng ăn mày ở đó? Kẻ khác nói: chính anh ta, kẻ khác nữa lại bảo không phải anh ta, đó là kẻ giống anh ta thôi). Họ tỏ ra lưu ý đặc biệt đến việc “tại sao” được lành, và đến tung tích của người đã thực hiện: “và ông ta, ông ta đâu rồi?”.
Câu hỏi cuối cùng làm cho anh mù ngày xưa không biết trả lời sao: “Tôi không biết. A. Marchadour quảng diễn: Anh phải trải qua một hành trình dài trước khi khẳng định đức tin mình vào Đức Giêsu, đi từ dấu chỉ đến việc tiếp nhận Đức Giêsu, ánh sáng thế gian… Nhưng việc Đức Kitô đi qua trong đời của anh mù và giữa mọi người đã có một hậu quả chắc chắn là chia người ta ra làm hai phe: “những người chấp nhận dấu chỉ và những người từ chối Đức Giêsu” (Tin Mừng thánh Gioan, Centurin, 1992, trang 135).
Sau là những người “Pharisêu” với ánh mắt đầy vẻ nghi ngờ, vì việc làm trên diễn ra trong ngày Sabbat. Họ cũng hỏi. Họ cũng chia rẽ. Và người Pharisêu nói.: “Ông này không từ Thiên Chúa mà đến vì không giữ luật nghỉ ngày Sabbat”, kẻ khác đáp lại: “Làm sao người tội lỗi lại làm được những phép lạ như thế?”
Nực cười là chính anh mù lại trở thành một trọng tài: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh trả lời: “Là một tiên tri”.
Sau cùng là “cha mẹ ruột anh mù”. Người Do Thái đòi họ đến, họ xác nhận anh ta là con của họ thật, và mù từ thuở mới sinh. Nhưng né tránh để khỏi liên luỵ cuộc tranh cãi, họ đề nghị một cách giễu cợt: “Các ông hãy hỏi nó, nó đã đủ khôn lớn để trả lời”.
Đề cập đến nguy hiểm bị người Do Thái trục xuất khỏi hội đường, A. Marchadour viết: “Có lẽ thánh sử diễn dịch ra đây những nguy hiểm bị dứt phép thông công ở cuối thế kỷ thứ nhất đối với những ai tin vào Đức Giêsu. Thời Đức Giêsu chưa có chuyện này. Nhưng trên bình diện câu chuyện, sự tách biệt đối với người mù nói lên rằng, tin vào Đức Giêsu luôn luôn là một hành động cá nhân, trong đó cha mẹ đâu có thể định đoạt thay cho người môn đệ được. Sự chọn lựa này không phải không nguy hiểm vì có thể dẫn tới sự gẫy đổ với tôn giáo của anh ta? (O.C. trang 137).
Từ đó sự căng thẳng giữa người mừ xưa và người Pharisêu bị mù mắt bởi đam mê của họ lên đến tột độ. Họ đòi anh đến lần thứ hai và yêu cầu anh một lần nữa phải nói Đức Giêsu đã làm thế nào để mở mắt anh, anh bạo dạn đáp lại cách mỉa mai: “Sao các ông lại muốn nghe tôi nói lần nữa? Hay các ông cũng muốn làm Môn đệ của Ngài?”. Và việc hỏi cung thành dịp nguyền rủa. Anh tuyên bố với họ: “Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến thì không làm được chuyện gì đâu. Quá quắt lắm rồi, người Pharisêu đuổi anh ra ngoài và đứt phép thông công anh.
Đức Giêsu tái xuất hiện với một sáng kiến mới: “Biết họ đã trục xuất anh, Ngài liền giúp anh”. Và cuộc đối thoại với anh mù đã được lành, dẫn anh tới việc tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu là “Con Người”: “Lạy Thầy con tin” anh tuyên xưng và “sấp mình xuống trước mặt Ngài “.
- Marchadour giải thích: Đức Giêsu đã đưa anh qua một giai đoạn quyết định, từ một “Giêsu tiên tri” đến một Giêsu là Con Người”, Đấng Cứu Thế đưa anh vào cộng đồng của thời kỳ cuối cùng. Người mù sấp mình xuống trước con Người”, nhận ra thiên tính của Ngài, bởi vì theo thánh Gioan, sự thờ lạy chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa; và danh xưng Chúa (Seigneur) nói lên căn tính thần linh của Đức Giêsu. Nhận ra Đức Giêsu như là Đấng mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa việc thờ lạy Ngài là đỉnh cao của cuộc hành trình của anh mù” (O.C. trang 139).
Giai thoại được kết thúc với một lời tuyên bố của Đức Giêsu dưới hình thức một lời phán xét. Nó bộc lộ những gì diễn ra trong thầm kín của tâm hồn: “Tôi đến thế gian này để đặt lại vấn đề: cho những ai không thấy được thấy và ai thấy lại không được thấy”. Từ “để cho”, cha Guillet cắt nghĩa, ở đây không chỉ mục đích, nhưng là hậu quả.
Đối với mọi người, anh mù trước Đền thờ không có của cải: anh ăn xin, một người không quyền thế: anh mất hút trong đám người cùng khổ đến chung quanh nơi thánh, một người không hiểu biết: sinh ra mù, không không đọc được sách luật, người ta cho anh là suốt đời tội lỗi.
Nhưng thật ra con người này đã trải qua một hành trình tuyệt diệu, con đường từ tối tăm đến nhận ra “Đấng là ánh sáng”.
Về phần người Pharisêu, họ theo một hành trình ngược lại. Họ là những con người danh giá, những con người được coi như là điểm tựa của xã hội thời đó, họ cho họ “biết” và tưởng mình “thấy”, nhưng họ lại đi sâu vào trong sự mù tối (câu 15-18; 29,34). Họ tố cáo Đức Giêsu là “người tội lỗi và người mù thì trầm mình trong tội lổi từ lúc mới sinh”, họ “ở trong tội lỗi của mình. Lời tố cáo họ định gán cho Đức Giêsu, quay trở lại gán người đi kiện trở thành người bị cáo.
- Potin kết luận; “Trong lúc người mù được thấy, người Do thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng: Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Môsê và lúc Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sabbat. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành “vấn đề” trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào “Con Người”, trong lúc đó, những kẻ “thấy”, những người Do Thái lại trở nên mù tối, bị loá mắt vì những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: “Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ (“Jésus, l’histoire vraie” Cent. 1994, trang 364)
BÀI ĐỌC THÊM:
Hành trình của người mù từ lúc mới sinh, đường dẫn tới Phép Rửa của chúng ta. (H. Denis, trong “100 mots pour dire la foi” Déchée Brouwer, trang 123-124).
Dĩ nhiên người ta nói nhiều về Phép Rửa trong khi hướng về Phục Sinh. Đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà chúng ta gợi chuyện anh mù từ thuở mới sinh, nhờ vào câu chuyện rất sống động ấy, mà thánh Gioan đã viết cho chúng ta. Tại sao lại người mù từ thuở mới sinh? Vì đó là bước di của một tân tòng, là đường nhập môn của Phép Rửa. Trước hết phép Rửa là một sự toả sáng. Điều đó không có nghĩa là mọi người chịu phép rửa đều chìm trong trạng thái thiên cảm (illuminisme), cũng không phải là một hành động ma thuật, bởi vì người mù phải đi tới giếng Siloê. Nhưng điều đó có nghĩa là có một bước đường mầu nhiệm, từ tối tăm đến ánh sáng, từ một nhân loại còn đóng kín trong vô nghĩa và trong lầm lạc, tới một nhân loại mở ra đón ánh sáng Đức Giêsu, một nhân loại được đánh thức trước một sự sống viên mãn.
Nhưng chúng ta biết anh mù được chữa lành phải đối đầu vôi biết bao nhiêu là cản trở, cũng vì anh được lành. Người tín hữu mới cũng phải trải qua thử thách, nhất là khi so sánh đức tin mình với sự không tin hay dửng dưng của gia đình (đức tin không di truyền), hơn nữa còn phải đụng chạm với những thế lực khác biệt về chính kiến hay về tôn giáo, coi người chịu phép rửa là kẻ phải loại trừ hay đáng nghi ngờ (Phép rửa không lẫn lộn với sự thừa nhận của xã hội, quốc gia, chính trị hay tôn giáo).
Sau hết, đến ngày người mù được lành sẽ thừa nhận Đấng Cứu chuộc mình chứ không phải chỉ được lành mà thôi. Mọi Kitô hữu, mọi người chịu phép ngày nào đó cũng được mời gọi, rất sớm hay muộn màng hơn, sống một cuộc gặp gỡ có tính quyết định, bởi vì Đức Giêsu đã không tìm thấy họ đó sao? Ngày ấy các bạn sẽ hỏi: Ai là “Con Người”. Và Ngài sẽ trả lời bạn: “Chính tôi, người đang nói với anh đây. Lúc ấy sấp mình xuống, bạn sẽ nói: “Lạy Chúa, con tin”. Đó là ngày phục sinh của bạn.
Hãy chỗi dậy từ cõi chết,
Ngày đã bừng sáng,
Hãy thức dậy đi từ cõi chết.
Hãy toả sáng (cf. Eph 5,14).
60. Chữa lành người mù từ thuở mới sinh
(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
“Ai dã phạm tội để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?”. Theo một quan niệm khá phổ biến trong thế giới cổ thời, thì có mọi liên hệ mật thiết giữa tội lỗi và bệnh tật thể lý (Xh 9, 1-12; Tv 38, 2-6; Ed 18, 20). Trong trường hợp các kẻ tàn tật bẩm sinh, một số giáo sĩ Do thái cho rằng là tại cha mẹ, kẻ khác bảo do chính đứa bé mà chứng tật đã phát sinh trong thời kỳ mang thai (Strack-bill. t.II, tr.528).
“Ta là ánh sáng thế gian”: ở đây còn rõ ràng hơn ở 8,12. “ánh sáng” không phải là một định nghĩa siêu hình về con người Chúa Giêsu, nhưng là một cách mô tả ảnh hưởng của Người trên vũ trụ; Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rối trần gian.
“Người Do thái đồng lòng trục xuất anh ta khỏi hội đường”. Vào thời biên soạn Tin Mừng, chắc chắn biện pháp trục xuất còn được thi hành trong dân Do thái. Có 3 loại. Nhẹ nhất là khiển trách (nozlpha) và phạm nhân bị tách biệt khoảng một tuần, hay hơn nữa là một tháng. Bậc thứ hai là loại trừ (nddui): trong vòng một tháng, phạm nhân phải ngồi bệt dưới đất mặc tang chế, để râu tóc mọc dài, không tắm rứa, đứng “ở nơi riêng biệt trong giờ cầu nguyện chung. Bậc thứ ba là trục xuất (herem), hình phạt đáng sợ nhất: nó kéo dài vô hạn định; đương sự có thể bị tịch thu tài sản; mọi liên lạc, dù là riêng tư, với tội nhân đều bất hợp pháp (Strack-bill. IV, 292-333). Hình như các đầu mục nhân dân đã áp đụng hình phạt này đối với những người theo Chúa Giêsu.
“Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi”. Đó là một chân lý phổ thông trong thế giới Thánh kinh (Is 1,15; Tv 66,18; 109,7; Cn 15,29; G 7,9; 5,13; Ga 16,23-27; 1Ga 3, 21-22).
“Để kẻ thấy được lại đui mù”: Dù ý nghĩa văn phạm của phân từ được dùng ở đây là thế nào chăng nữa (ngay cả người Hy Lạp, đặc biệt thánh Gioan Kim khẩu, cũng thú nhận trong: chữ ‘hin’ không luôn luôn chỉ mục đích, mà thỉnh thoảng chỉ một hậu quả), thì sự đui mù của các kẻ cứng lòng tm không phải là mục đích Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm tiền định, nhưng chỉ là một trong các hậu kết của thái độ họ đối với Chúa Kitô.
KẾT LUẬN
Trường hợp anh mù soi chiếu một cách sỗ sàng cảnh ngộ cụ thể của đức tin trong thế gian này: một cảnh ngộ bi đát. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô và lòng trung thành với ánh sáng đòi hỏi người đó một sự đoạn tuyệt anh hùng; anh phải vượt thắng tất cả các áp lực và sợ hãi. Đức tin của anh bị thế gian truy nã, vì đức tin là chọn lựa theo Con Người trong cuộc chiến giữa ánh sáng và tối tăm. Nhưng trong cuộc tranh chấp này, đức tin là chiến thắng của sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu chuyện người mù chiếu dọi một luồng sáng gay gắt trên hành trình của ánh sáng trong thẳm sâu tâm hồn con người, trên các chướng ngại vật mà ánh sáng gặp phải và trên cuộc tranh chấp của nó với quyền lực tối tăm. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Họ mang trong mình khả năng trở thành mù lòa, khả năng tự viện ra nhiều lý do chính đáng để khỏi nhìn xem, khả năng tự tạo cho mình nhiều xác tín sai lạc, khả năng từ chối mở mắt khi bảo mình trông thấy. Nhưng ánh sáng trong họ cũng không kém đòi hỏi. Nó bắt buộc phải xét lại biết bao vấn đề, phải từ bỏ biết bao thói quen, phải đoạn tuyệt đôi khi với môi trường sống. Vì những thứ ấy dễ làm cho cái nhìn của con người bị sai lạc. Con người phải tìm lại cho được lòng trong trắng của tuổi ấu thơ vậy. Đó là tất cả những gì mà câu chuyện người mừ bẩm sinh muốn nói. Câu chuyện ấy đã diễn tả thành bi kịch lời Chúa Giêsu sau đây: đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt người lành lặn thì toàn thân người sẽ sáng láng. Nhưng nếu mắt người đau yếu, toàn thân ngươi sẽ ở trong tối tăm. Vậy nếu ánh sáng trong ngươi trở nên tối tăm, thì sẽ tối tăm biết mấy” (Mt 6, 22-23).
2) Câu chuyện người mù từ thuở mới sinh cho thấy cảnh ngộ của người tín hữu có thể bi thảm đến chừng nào (ngược với ý kiến của một số nhà hiện sinh vô thần xem đức tin như là một sự đào thoát an thân). Đức tin có thể đòi buộc ta phải đoạn vệ dữ dội với thế gian và phải anh hùng tuyên xưng chân lý. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu như là Đấng được Thiên Chúa sai đã khiến anh mù bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người ta đuổi anh như đuổi một tội nhân. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh nữa. Đức tin bấy giờ có vẻ cô đơn. Nó bị tầm nã. Nhưng nó cần phải lượt thắng sự sợ hãi, lòng kính trọng của thế nhân, nỗi lo âu về dư luận người đời và phải cố gắng độc lập để đạt đến sự tự do đích thực, dù phải chịu muôn ngàn đau đớn.
3) Cử chỉ chúa Giêsu lấy bùn hòa với nước miếng xem ra kỳ dị; tuy nhiên có thể đoan chắc rằng người không để sự gì xảy ra cách ngẫu nhiên. Trước tiên, việc đó gợi cho ta nhớ đến câu chuyện trong Sáng Thế Ký mô tả Thiên Chúa lấy bùn đất tạo dựng con người đầu tiên (St 2,7). Khi bảo anh chàng kia bị mù là để công việc Thiên Chúa được tỏ hiện trong anh nhờ trung gian Đấng Ngài sai đến, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình như là kẻ có sứ mệnh tiếp tục công việc tạo dựng đã khởi đầu song chưa hoàn tất. Ngay từ những câu đầu tiên, Người tỏ ra như là Đấng được Tạo Hóa sai đến, làm lại cũng một cử chỉ để chữa lành con người mà tật nguyền là dấu chỉ của một sự thiếu thốn sâu xa hơn.
4) Giữa loài người chúng ta, có những kẻ không nhìn xem được; họ biết điều đó nhưng cảm thấy không thể chữa mình lành. Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng là biểu tượng, là đại diện của họ: Và cũng như Chúa Giêsu đã làm cho bệnh nhân đó được lại mọi quan năng của con người, thì Người cũng mang đến cho những ai ý thức rõ sự ngu dốt và tối tăm của mình, ánh sáng nội tâm để làm tri thức đích thực; Người ban cho họ khả năng hiểu biết, phân biệt cái gì là thật và cái gì chỉ được bộ mã bên ngoài. Ngược lại, có nhiều kẻ chẳng ý thức tí nào về sự đui mù của mình; họ tự mãn về điều họ biết và không ao ước gì khác nữa. Những người đó bị đóng kín trong sự hiểu biết riêng tư, họ sẽ chẳng bao giờ đi xa hơn, và sẽ không tài nào đón nhận được những gì mà Chúa có thể cho họ khám phá một ngày nào đó.
5) Tại sao có nhiều đau khổ trong trần gian, mà ta không biết được nguyên do, mục đích. Đừng vội kết luận rằng những kẻ bất hạnh đang gánh chịu chúng là nạn nhân của một định mệnh mù quáng nào đó. Sớm muộn gì rồi Thiên Chúa cũng sẽ làm rạng rỡ nơi họ sức mạnh và lòng nhân ái của Ngài (Rm 8,28). Chính vì mục đích ấy mà Tobia đã bị đui mù, Gióp rơi vào cảnh cùng khốn và Ladarô phải bị chôn vùi trong nấm mộ.
61. Nhận định về tường thuật Ga 9, 1-41
(Theo Chú Giải Tin Mừng Gioan)
1) Tường thuật này trình bày hai tiến trình: tiến trình từ mù tới sáng của người mù bẩm sinh, và tiến trình từ sáng tới mù của các người biệt phái:
TIẾN TRÌNH MÙ THÀNH SÁNG:
– Khởi điểm: anh hoàn toàn mù (c 1)
– Bước 1: Sau khi được Đức Giêsu ra tay can thiệp, ban đầu anh chỉ thấy Đức Giêsu là “một người” (c.11)
– Bước 2: Anh nhìn nhận Ngài là ”một vị ngôn sứ” (c.17)
– Bước 3: Ngài là “một người thánh thiện”, vì “Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi” (c.31).
– Buớc 4: Ngài là Kẻ do Thiên Chúa sai đến, vì “nếu người ấy không do Thiên Chúa sai đến mà không thể làm nên sự gì” (c.33).
– Điểm tới: Đức tin hoàn toàn: “Anh thưa, Lạy Chúa, con tin, rồi anh phục xuống lạy Ngài” (c.38)
TIẾN TRÌNH TỪ SÁNG THÀNH MÙ:
– Khởi điểm: một thái độ tự mãn tự kiêu. Họ luôn miệng nói “Chúng ta biết” (cc. 24.19), “Chúng ta thấy” (cc 39.41), “Bộ chúng ta cũng mù ư” (c.40).
– Bước 1: Ngạc nhiên khi thấy anh mù được sáng, và tìm hiểu “làm sao mà anh thấy được?” (c.10), “Ông ấy đâu?” (c.12).
– Bước 2: Khi biết kẻ làm phép lạ là Đức Giêsu, họ phân vân: kẻ thì nói “người ấy không phải bởi Thiên Chúa”, kẻ khác bảo “Lẽ nào người có thội có thể làm những dấu lạ lùng như thế?” (c.16).
– Bước 3: Ngoan cố chỉ nhìn nhận Môsê và tiên thiên loại bỏ bất cứ ai khác: “Còn người ấy, chúng ta không biết bởi đâu mà có” (c.29).
– Điểm tới: hoàn toàn mù về mặt thiêng liêng (cc 40.41). Sự mù này còn nguy hiểm hơn sự mù thể xác: “Nhưng các ngươi lại nói “Chúng tôi sáng mắt” nên các ngươi vẫn mắc tội”.
2) Tường thuật này cũng cho ta thấy được một cách sống động đường đi của ánh sáng vào lòng con người, những chướng ngại vật mà ánh sáng đã gặp trên con đường đó, và trận chiến mà ánh sáng đang phải giao tranh với quyền lực của tối tăm. Bởi vì con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nơi con người đã có sẵn khả năng để mù quáng: đó là khả năng tự đặt cho mình những lý do rất tốt để khỏi nhìn thấy, tự tạo cho mình những điều hiển nhiên giả tạo và từ chối mở mắt vì bảo rằng mình “trông thấy”. Ấy là bởi vì ánh sáng rất đòi hỏi. Ánh sáng bó buộc con người phải xét lại biết bao điều, từ bỏ biết bao thói quen và đôi khi phải đoạn tuyệt với cả một môi trường sống. Cái nhìn của con người đã bị rối loạn vì tất cả những điều đó. Cho nên con người cần phải tìm lại sự trong trắng của thời thơ ấu. Đó là ý nghĩa của hoạt cảnh chữa lành người mù bẩm sinh. Hoạt cảnh này chẳng khác gì một vỡ kịch diễn lại một lời nói của Đức Giêsu: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt ngươi lành lặn thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi hư hỏng thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối. Vậy nếu ánh sáng nơi ngươi mà đã tối tăm thì sẽ tối tăm chừng nào!” (Mt 6,22-23).
3) Hoạt cảnh người mù bẩm sinh còn cho ta thấy rõ tình cảnh của người tín hữu bi đát đến mức nào: đức tin có thể đòi ta phải mạnh mẽ đoạn tuyệt với thế gian và phải can đảm tuyên xưng sự thật. Người mù đã bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã nhìn nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Người ta xua đuổi anh như xua đuổi một con người tội lỗi. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh. Những lúc đó đức tin xuất hiện như một nỗi cô đơn, đức tin bị đuổi bắt. Người mù phải vượt qua sự sợ hãi, lòng vị nễ người khác, mối quan tâm quá mức đến dư luận, và phải kiên trì chinh phục độc lập, bất chấp khổ đau để đến với tự do đích thực, tự do vì Thiên Chúa.
62. Lời thách đố cho cuộc sống hôm nay
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Ga 9:1- 38 Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2).
Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2). Ông bối rối vì sợ mất ngai vàng, mặc dầu là vua kế nghiệp David, nhưng ông không đọc Kinh Thánh để hiểu sự xuất hiện của Chúa là để thực hiện lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, chứ không để tranh giành ngai vàng của ông. Quyền lực thế trần đã làm ông mờ mắt và không còn nhìn thấy ánh sáng của lời hứa cứu độ, vàông đã quyết định tìm Chúa Giêsu để giết.
Chứng kiến người mù từ khi mới sinh được Chúa chữa lành, những người Pharisiêu, một tầng lớp lãnh đạo trong dân Do Thái, thay vì chia vui với người mù được chữa lành, họ hoảng hốt lo sợ. Cho dầu là những người hướng dẫn Dân chúa, nhưng họ không chịu nghiên cứu Thánh Kinh để khám phá sự xuất hiện của lời hứa cứu độ. Mải mê với quyền lực và chỗ đứng trong xã hội, họ hăng say đi tìm cho được người đã dám chữa lành cho người mù trong ngày Sabat. Phải chăng họ yêu mến lề luật? Thưa không, họ yêu mến quyền lực mà họ đang chiếm gữ, và quyền lực đó đang đứng trước nguy cơ phá sản, vì có người mạnh thế hơn họ, quyền năng hơn họ, bởi người đó đã có thể chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Rồi đây dân chúng sẽ quay lưng với họ để chạy theo con người có quyền năng đó. Vì quyền lợi thế trần họ quyết loại trừ Chúa, mặc dầu có thể họ cũng nhận ra rằng Đấng đã chữa lành cho người mù phải là Đấng đến từ Thiên Chúa, điều mà ngừoi mù đã minh định: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”
Việc loại trừ Đức Kitô không dừng lại ở giai đoạn Người hiện diện hữu hình trog lịch sử Dân Do Thái, việc đó còn được tiếp tục cho đến ngày hôm nay, cho dẫu Tin Mừng Chúa Giêsu được loan báo mang lại bào là vui mừng và hy vọng. Đức Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng đã diễn đạt niềm vui của những con người gặp gỡ được Đức Kitô: Các môn đệ “vui mừng” (Ga 20:20) khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các Kitô hữu tiên khởi “dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (2:46). Bất kể các môn đệ đi đến đâu, “ở đó, người ta rất vui mừng” (8:8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “ngập tràn niềm vui” (13:52). Viên quan thái giám vừa mới được rửa tội “tiếp tục lên đường, lòng đầy hoan hỉ” (8:39), trong khi người cai ngục của Phaolô “và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa” (16:34). (Số 5). Thế mà tại sao nhân loại luôn tìm cách loại trừ Tin Mừng?
Cũng như Hêrôđê, hay các người Pharisiêu, người ta đã cố tình bắt bớ các Kitô hữu, giết chết những người tin vào Chúa Kitô vì Tin Mừng Chúa Kitô đụng chạm tới quyền lợi vật chất của họ. Họ không thể chấp nhận Tin Mừng khi Chúa Giêsu dạy yêu thường và tha thứ cho kẻ thù, người ta không thể đón nhận Tin Mừng khi Chúa Giêsu dạy bán của cải mình có để chăm lo cho người nghèo. Người ta không thể chấp nhận ánh sáng Tin Mừng, bởi vì ánh sáng đó đã tỏ cho họ thấy những thủ đoạn hèn hạ, lòng tham lam vô đáy và những đam mê ăn chơi vô độ đã giết chết sự sống đích thật, cần phải từ bỏ, sám hối và trở về. Không chỉ họ từ chối lời mời gọi trở về, nhưng còn tìm cách để huỷ diệt ánh sáng đó. Họ muốn mãi bước đi trong bóng đêm của sự chết vì sự giả dối của thế trần đã làm cho họ ra u mê. Vâng, Tin Mừng của Chúa Kitô luôn là lời thách đố cho người thời đại hôm nay, một thời đại đang bị tục hoá, và chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ đang nở rộ trong xã hội hôm nay, để người đương đại đắm chìm trong một lối sống ích kỷ, vô cảm và tha nhân trở thành kẻ thù của nhau.
Lạy Chúa, Chúa đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh, xin cho ánh sáng Đức tin luôn soi dẫn cuộc sống chúng con , để chúng con nhận ra những hiểm nguy làm tổn hại đến cuộc sống đức tin của chúng con để chúng con can đảm xa tránh, và mạnh dạn làm chứng cho Tin Mừng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trong cuộc sống, chúng ta thường coi thường nhau bởi thái độ định kiến. Vì có thái độ định kiến này, mà chúng ta không phám phá điều mới mẻ tốt đẹp và tích cực của nhau. Vì thái độ định kiến này, chúng ta coi thường người khác, quen quá biết rõ nhau quá mà, chẳng xa lạ gì cho nên dể dàng vui mừng trước thất bại của người khác, khó chịu khi người khác thành công. Vì vậy, chẳng lạ gì, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân này. Cụ thể, người Do thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do thái luôn luôn có sẵn một định kiến không hay về Chúa Giêsu. Từ đó họ luôn một cái nhìn, một lối nghĩ, một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giêsu, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả mọi người, dù đó là ai, có lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi cho sự sống, họ cũng cho là quân tội lỗi… Chẳng hạn, một người bị khiếm thị từ khi mới sinh, được Chúa Giêsu chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: “Mày sinh ra trong tội”. Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội vì anh khiếm thị bẩm sinh chứ anh có tội gì, và hôm nay anh được Chúa chữa lành vậy anh chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do thái. Thế mà Chúa Giêsu và anh bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.
Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh khiếm thị đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy. Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi lang thang khắp đó đây … Lẽ ra dấu lạ sáng mắt kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không ai làm được nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng. Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi khiếm thị, Đức Giêsu, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ (đã không chữa được cho anh), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ còn nói Chúa Giêsu thế này: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa. Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”.
Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thay vì Chúa Giêsu trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù nhân cách, lương tâm và con tim. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác, đưa người ta đến chỗ kết án mà quên kiểm tra mình, làm cho mình không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là tốt nhất, thiện nhất và vô tội còn mọi người xung quanh không làm được gì, chẳng tốt gì mà có tốt chỉ là một việc nào đó, còn toàn là tội thôi…
Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho tất cả chúng ta, chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình: Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm dù đã thi hành án xong hoàn lương, một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt dù đã cải tạo tốt; một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận; một người lỡ mắc bệnh dịch COVID 19 thay vì được thông cảm, chúng ta nhìn người ấy bằng ánh mắt khi dễ… Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn.
Chúa Giêsu không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Giacop, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sám hối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Giacôbê và Gioan. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm giáo hoàng của Phêrô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giuda nặng nề: “Mày sinh ra trong tội”, như người Do thái lên án anh khiếm thị hôm nay, dẫu Chúa Giêsu có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giuda phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: “Xin Cha tha cho họ…”. Và hôm nay, Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta dù có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quên tội ta, quên tất! còn chúng ta thì cứ tái phạm…
Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta để mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Amen.
64. Xin Chúa cho được thấy Chúa trong cuộc đời
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chắc nhiều người trong chúng ta biết người đàn bà phi thường Helen Keller, người Mỹ là một nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội và giảng viên đại học vừa khiếm thị vừa khiếm thính. Bà là người khiếm thị khiếm thính đầu tiên trên thế giới nhận bằng thạch sĩ nghệ thuật. Bà Hellen Keller sinh ra là một bé gái bình thường, nhưng chỉ sau một trận sốt bại não, cô bé đã không nhìn thấy và không nghe thấy âm thanh. Sau đó, mẹ cô Hellen đưa con gái của mình tới học tại trường dành cho người khiếm thị. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne và với tình yêu kiên nhẫn, cô giáo đã giúp cho bé Helen vượt lên số phận cách kiên cường: Bà Helen đã không chỉ biết đọc biết viết và nghe được và trở thành nhà văn huyền thoại đi vào lịch sử nhân loại hôm nay. Thật khó có thể kể hết những gian nan vất vả của bà Helen trên hành trình tìm đến với ánh sáng và âm thanh. Đành rằng Helen may mắn gặp được cô giáo Anne có trái tim nhân hậu và nhiệt huyết song nếu cô bé Helen chẳng chịu hợp tác với cô giáo, chấp nhận buông trôi cuộc đời mình vĩnh viễn trong tăm tối thì cô giáo Anne cũng đành phải bó tay. Nhưng Helen đã không chịu đầu hàng số phận, đã nhẫn nại, kiên trì và đầy nghị lực để chứng mình cho mọi người biết rằng mình tàn nhưng không phế.
Vâng, người khiếm thị trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa là chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người bởi Thiên Chúa mà đến, là Con Thiên Chúa, là Ánh sáng của trần gian. Nhưng điếu đáng chú ý ở đây là đâu phải một sớm một chiều mà anh có được con mắt thể xác và đức tin ngời sáng như thế. Anh đã phải mò mẫm đi đến với Chúa dù bị người ta khinh chê, xua đổi vì cho anh là kẻ có tội. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của của những người Pharisêu sáng mắt hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ nhưng anh một mực chứng minh rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người khiếm thị từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33). Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Chúa và được lòng thương xót Chúa chữa lành đôi mắt thể xác và đức tin cho anh.
Nơi con người có rất nhiều loại khuyết tật, nhưng khuyết tật khiếm thị là một trong những khuyết tật khổ sở nhất, bất hạnh nhất vì người ta nói rằng: “. ”. Như thế, đã là người có mắt mà không nhìn thấy gì cả, chỉ là một màn đen thui, thì có phải là bất hạnh không! Thưa quý ông bà anh chị em. Chúng ta thật hạnh phúc khi chúng ta không khiếm thị thể lý cũng như tinh thần nhưng trong cuộc sống mắt chúng ta mờ vì lỗi phạm những điều bất chính: tham sân si, ham muốn xác thịt, lòng ghen ghét, giận hờn… Mình biết rõ những hành động đó không đúng nhưng vẫn làm như thường. Có khi mình biết nhưng biết lơ mơ, không có khả năng giúp mình nhận rõ vấn đề không chỉ nhìn bằng mắt mà còn bằng trái tim và đức tin. Rõ ràng chúng ta thiếu ánh sáng Lời Chúa. Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời của Thiên Chúa. Tin vào sự thật là Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Tin vào Chúa Giêsu, chính Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi khiếm thị thiêng liêng. Tin như thế chúng ta sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Chúa Giêsu và Người sẽ giúp cho ta “ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8).
Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời Chúa. Chúng ta cũng vậy, Lời Chúa đến không chỉ qua các Giám mục, linh mục mà còn là những người trong gia đình, người bạn mà mình gặp gỡ trong cuộc đời. Lời Chúa còn đến với chúng ta qua chính kinh nghiệm của cuộc sống, thường là những kinh nghiệm đau thương, nghèo nàn, cô đơn… làm chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có mặt trong cuộc đời chúng ta làm chúng ta bình an vượt khó vượt khổ như bà Halen. Cho nên, chàng niên thoát ra cảnh khiếm thị là ánh sáng của Lời Chúa và chỉ trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta nhìn thấy ánh sáng là bình an và thánh thiện. Để Lời Chúa trở thành ánh sáng bình an và thánh thiện cho đời ta thì chúng ta phải chấp nhận trả giá. Anh thanh niên đã trả giá là phải chịu bao nhiêu gian khổ, dù người đời xua đủa nhưng anh đã đến được với Chúa để anh có đức tin, có Chúa trong đời anh làm cho đời anh tươi sáng và rạng ngời như anh mong muốn.
Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn tối tăm. Nhưng ngày nay, qua bí tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh chiếu soi” (x. Ep 5,8-14). Vì thế, sống tinh thần Mùa Chay là bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô, là làm bừng sáng lên ánh sáng của Tin Mừng trong cuộc đời chúng ta bằng những hành động cụ thể thiết thực như Ngôn sứ Isaia đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu Mùa Chay: “Hãy xóa bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi thứ gông cùm, chia cơm bánh cho người nghèo đói, tiếp rước kẻ phiêu bạt không nhà, cung cấp áo quần cho ai rách nát, không né tránh trước đồng bào cốt nhục” (Is 58,6-8).
Vì vậy, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường chúng ta phải đi và những việc chúng ta phải làm để đạt đến hạnh phúc thật là được phục sinh với Chúa muôn đời. Amen.
65. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Người đàn ông mù đã “sáng” ra nhiều hơn nữa khi anh ta bị tra hỏi. Sau khi được chữa lành anh vẫn nói “tôi không biết”. Nhưng sau một lúc tranh luận, anh ta cho rằng Đức Giêsu là “một vị ngôn sứ”. Sau khi bị tra hỏi, anh ta tuyên xưng thêm rằng Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến”. Cuối cùng, khi thừa nhận mình dốt nát (hay là mù lòa) và được chính Đức Giêsu dạy bảo, anh ta thú nhận “Thưa Ngài, tôi tin.”
Ngược laị với anh mù là những vị không những sáng mắt mà còn thông luật cuả Môsê và luật giáo hội nữa. Đầu tiên họ nhìn thấy phép lạ nhưng không biết do quyền của ai. Sau đó họ thắc mắc không biết ông có bị mù thực sự không. Cuối cùng họ kết luận là người đàn ông kia là một kẻ có tội và trục xuất anh (và cả Đức Giêsu nữa). Thế là họ đã bị đui mù hoàn toàn.
“Ta đến trong thế gian để gây chia rẽ”, “chia rẽ” đây ngụ ý là ngày phán xét Chúa sẽ phân chia kẻ lành khỏi người dữ.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu là ánh sáng cho thế gian.
Một người mù lòa tầm thường được thấy vì tin vào Đức Giêsu. Những người có chức vị cao trọng đầy quyền thế thì lại không nhìn ra ánh sáng chân lý. Kinh thánh hay nêu ra những mâu thuẫn như vậy. Một lần nữa, Đức Giêsu lại đảo lộn cả xã hội.
Suy Niệm
Tôi có nhận ra tình trạng mù lòa của tôi, và xin Chúa Giêsu ban cho ánh sáng không? Ngài có mở mắt cho tôi không?
Có khi nào lòng tự hào về kiến thức và khả năng tự lực làm cho tôi trở nên mù lòa không? Tôi đã làm gì để bị lâm vào tình trạng tăm tối đó?
Câu hỏi gợi ý:
- Luật Mô-sê – do Thiên Chúa ban hành – kết án rất nặng những người lỗi luật sa-bát. Tại sao Đức Giêsu lại dám chữa bệnh trong ngày lề luật cấm làm việc? Ngài không tuân hành luật lệ chính Chúa Cha ban hành sao? Ngài làm gương xấu chăng? Ngài hành động theo nguyên tắc nào?
- Lề luật có phải là mục đích của con người không? Mục đích của lề luật là gì? Giữa mục đích của lề luật và chính lề luật, cái nào trọng hơn? Con người phải thực hiện cái nào?
Suy tư gợi ý:
- Đức Giêsu xem ra không nghiêm chỉnh giữ luật Mô-sê
Một trong những lý do khiến cho người ta không nhận ra các vị ngôn sứ trong thời đại của mình là các ngôn sứ ấy có vẻ như không sống đúng theo quan niệm triết học, thần học hay đạo đức của người đương thời. Người ta có lý của người ta. Lý của họ căn cứ trên sách vở đàng hoàng, họ cũng «nói có sách, mách có chứng» chứ không phải vô căn cứ. Thật vậy, một trong những điều khiến các kinh sư Do Thái không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ, vì họ lý luận: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát».
Luật Mô-sê chỉ định rõ ràng phải thi hành thật nghiêm chỉnh luật nghỉ ngày sa-bát: «Ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi» (Xh 20,10). Vi phạm ngày sa-bát là một trọng tội đáng tử hình: «Các ngươi phải giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó» (Xh 31,14; xem 35,2; Đnl 5,14). Như vậy, theo quan niệm của các kinh sư Do Thái, một người xuất phát từ Thiên Chúa ắt phải tuân giữ luật sa-bát thậm chí nghiêm chỉnh hơn họ. Nghĩ như thế xem ra rất hợp lý.
Thế mà Đức Giêsu lại chữa bệnh trong ngày sa-bát, là điều không được phép làm trong ngày ấy, mà câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Dưới mắt các kinh sư Do Thái, Ngài đã vi phạm luật này không phải chỉ có lần này, mà đã rất nhiều lần (xem Mt 12,1-2; 12,12-13; Lc 13,13; 14,3-4; Ga 5,8-11; 9,14). Nếu chiếu theo luật Mô-sê, Ngài đáng bị tử hình. Vì thế, rất nhiều lần họ tìm cách hãm hại và giết Ngài là để thi hành luật Mô-sê (xem Mt 12,14; Mc 3,6; 11,8; 12; v. v…). Để tránh hành động theo kiểu các kinh sư Do Thái, nhất là đối với những ngôn sứ của thời đại, chúng ta cần hiểu rõ hơn về lề luật.
- Vai trò và giới hạn của lề luật
Trong xã hội cũng như Giáo Hội, không thể không có lề luật. Lề luật làm cho xã hội có tôn ti trật tự, nhờ đó có an ninh, tính mạng, của cải của mọi người được tôn trọng và bảo đảm. Trong tôn giáo, lề luật giúp mọi người thực hiện được lý tưởng của tôn giáo, là bản đồ chỉ dẫn con người tiến bộ trong lãnh vực tâm linh. Nói chung, trong xã hội con người, dù nhỏ bé như gia đình, hội đoàn, hay lớn lao như quốc gia, thế giới, xã hội nào cũng cần có luật lệ.
Tuy nhiên, luật lệ không phải là một cái gì tuyệt đối mà tất cả mọi người phải tuân theo trong tất cả mọi trường hợp. Có những điều còn cao trọng hơn lề luật: đó là tình yêu được phản ánh nơi lương tâm. Theo luân lý Kitô giáo, người Kitô hữu phải coi mệnh lệnh của lương tâm đã được giáo dục của mình hơn cả luật của chính Giáo Hội, và đương nhiên cả luật đời nữa. Luật tối thượng là luật của Thiên Chúa, là Tình Yêu, được biểu hiện nơi lương tâm ngay thẳng của con người. Đối với cá nhân, lương tâm ngay thẳng là tiêu chuẩn cuối cùng mà con người phải theo khi có những xung đột giữa các tiêu chuẩn phải theo, trong đó có lề luật. Sách Giáo lý chung viết: «Con người luôn luôn phải vâng theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình» (số 1800).
- Luật lệ vì con người, chứ không phải con người vì lề luật
Trong Kitô giáo, luật lệ không phải là những nguyên lý tuyệt đối phải tuân theo, nó chỉ là một phương tiện bất toàn, vì trong nhiều trường hợp, phương tiện này lại đi ngược lại với mục đích. Xin đan cử một trường hợp mà tôi đã từng gặp: Một buổi chiều Chúa nhật, một lương y ở một vùng quê rất hiếm thầy thuốc nọ đang chuẩn bị đi lễ vì sáng chưa đi, thì có một bệnh nhân sốt rét đến năn nỉ hết lời xin ông ta chữa bệnh, vì bệnh thì nặng mà nhà thì quá xa, vả lại trời sắp tối. Nhưng nghĩ tới luật Giáo Hội buộc nặng phải đi dự lễ, ông ta đã quyết liệt từ chối mặc cho người bệnh ra sao thì ra, sau khi đã giải thích rõ lý do. Trường hợp này, ông thầy thuốc tuy giữ đúng luật Giáo Hội, nhưng lại hành động ngược lại với cốt tủy và mục đích của lề luật là tinh thần yêu thương (mến Chúa và yêu người). Một trường hợp khác: luật Chúa đòi hỏi người Kitô hữu phải luôn luôn nói sự thật, vì sự dối trá thường gây thiệt hại cho tha nhân hoặc cho chính mình. Mục đích của luật này là thực hiện đức ái. Nhưng trong một số trường hợp cá biệt (chẳng hạn bí mật quốc gia, hay khi bị kẻ địch điều tra về đồng bạn cùng chiến đấu cho lý tưởng, hay thầy thuốc với bệnh nhân ung thư), lời nói thật có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội, cho ích lợi chung, hay cho người vô tội, thì riêng trong trường hợp đó, việc nói sự thật đi ngược lại với mục đích của luật buộc nói sự thật. Những trường hợp tương tự như thế, người Kitô hữu không nên câu chấp vào lề luật: «Ngày sabát (hay lề luật) được làm ra vì con người, chứ không phải là con người được dựng nên vì ngày sabát (hay lề luật)» (Mc 2,27).
Theo Phaolô «Lề Luật là thánh và điều răn cũng là thánh, đều đúng và tốt» (Rm 7,12; 1Tm 1,8) vì nó diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng cũng theo Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính», mà cho những người còn yếu đuối, non nớt về trí huệ, về tâm linh (1Tm 1,9). Vì thế, không thể căn cứ vào việc giữ lề luật nghiêm chỉnh của một người mà cho rằng người ấy là công chính: «Sự công chính không hệ tại việc giữ luật pháp, vì nếu như vậy thì cái chết của Đức Kitô trở nên vô ích» (Gl 2,21). Sự công chính đòi hỏi một cái gì cao hơn nữa. Về vấn đề này, thánh Phao-lô nói rất rõ và rất nhiều: «Không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính sống bởi đức tin» (Gl 3,11); «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội» (Rm 3,20); «Người ta được nên công chính vì tin chứ không phải vì làm những gì luật dạy» (Rm 3,28), v.v…
- Sự lợi hại của lề luật
Lề luật có thể là một con dao hai lưỡi: một đằng rất cần thiết và có lợi cho tâm linh, nhưng đằng khác có những bất lợi. Chẳng hạn khi người ta giữ luật một cách hoàn hảo thì họ lại dễ ỷ vào đó để tự hào, kiêu căng, tự cho mình là công chính, như trường hợp người Pharisiêu vào đền thờ cầu nguyện cùng với người thu thuế (xem Lc 18,9-14). Chính sự tự hào đó đã phá đổ tất cả mọi công trình giữ luật của ông. Một nhược điểm khác của lề luật là: tuy soi sáng cho tâm trí, nhưng lại không đem lại sức mạnh nội tâm để sống theo sự soi sáng đó. Người ta có thể biết rất rõ lề luật dạy phải làm thế này thế kia, nhưng không vì biết rõ luật mà người ta có động lực thúc đẩy để làm những điều luật đòi buộc, mà lắm khi lại bị thúc đẩy làm những điều trái với Lề Luật: «Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm» (Rm 7,14). Chính vì thế mà người Do Thái, tuy có Lề Luật của Thiên Chúa – tức Luật Môsê – nhưng họ cũng tội lỗi không kém gì dân ngoại (xem Rm 2,17-18.21-24).
Điều quan trọng mà người Kitô hữu phải củng cố chính là tình yêu. Trong Kitô giáo, tình yêu chính là mục đích của lề luật: lề luật giúp người ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu làm cho người ta nên giống Thiên Chúa, hay nên công chính. Do đó, lề luật chỉ là phương tiện, còn tình yêu mới chính là mục đích. Đang khi lề luật không phải là một động lực thúc đẩy người ta làm điều thiện, thì tình yêu chính là một động lực rất mạnh. Nếu theo như Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính» (1Tm 1,9), điều đó có nghĩa là lề luật không được lập nên cho những người có tình yêu đích thực. Người có tình yêu đích thực – đối với Thiên Chúa và mọi người – thì chỉ cần hành động theo sự đòi hỏi hay thúc đẩy của tình yêu. Chính Đức Giêsu hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu chứ không theo sự soi sáng của lề luật (xem Mt 12,11-12). Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis). Người có tình yêu đích thực tự nhiên sẽ làm đúng với lề luật. Và nếu họ có làm gì khác với lề luật, thì trường hợp đó, họ đã làm đúng hơn và cao hơn mức lề luật đòi hỏi.
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế giới đầy bất công. Tình yêu thúc đẩy chúng con phải làm một cái gì. Nhưng có biết bao nhiêu nguyên tắc của luân lý, của xã hội, của Giáo Hội ngăn cản chúng con: nào là không được bạo động, không nên dùng sức mạnh, không nên làm chính trị, v.v… Nhưng người cha hay người mẹ sẽ làm gì khi đứa con nhỏ của mình gặp nguy hiểm, đang bị hãm hiếp? Họ sẽ làm theo tình yêu thúc đẩy, hay sẽ theo luật lệ của xã hội? Lạy Cha, chúng con phải làm theo cái gì, theo sự thúc đẩy của tình yêu, của lương tâm, hay theo những nguyên tắc của con người, của xã hội, thậm chí của Giáo Hội đặt ra? Xin Cha hãy soi sáng cho chúng con. Ý Cha muốn thế nào?
Câu hỏi gợi ý:
- Luật Môsê – cũng là luật của Thiên Chúa – buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?
- Luật mới của Đức Giêsu – luật yêu thương – đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
- Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: «Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. – Nếu Ngài tuyên bó6 phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
- Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
- Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.
- Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm 5,12): «Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì «vô liêm sỉ» ở trong đó.
Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.
Trên đường đi mua nước a-xít đậm đặc trở về để pha chế làm bình ắc-qui, anh Hiếu, thợ làm bình ắcqui, cố tránh một con chó chạy ngang qua đường, nên anh bị té xe. Những giọt a-xít từ chiếc bình bị vỡ đã bắn tung toé khắp người anh. Khủng khiếp nhất là một vài giọt đã văng trúng vào mắt anh và vĩnh viễn cướp đi đôi mắt của anh. Gặp lại anh trong cảnh mù loà, anh tâm sự: “sống trong cảnh mù loà và tối tăm này thật là khủng khiếp.” Anh nói trong sự thất vọng và chán chường những lời như thế. Tôi hiểu được nỗi đau khổ quá lớn của anh và thầm cầu mong cho anh có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng cơn đau đớn và buồn khổ mà anh đang gánh chịu. Nhưng khi đó, tôi lại suy nghĩ về một sư mù loà lớn lao hơn là sự mù loà về mặt tinh thần. Sống trong cảnh mù loà thể xác đã đau khổ như thế, thì sống trong sự mù loà về mặt thiêng liêng chắc chắn sẽ còn đau khổ hơn gấp nhiều lần. Vì những ai sống trong cảnh mù loà thiêng liêng sẽ không nhìn thấy được sự thật, không nhìn thấy ánh sáng thật mang lại sự sống đời đời cho họ. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới sinh. Anh mù này đã gặp được chính nguồn sáng là chính Đức Giêsu. Ngài đã mở mắt cho anh và cứu chữa anh. Từ việc được sáng mắt thể xác, anh đã tiến đến việc sáng mắt tâm tâm hồn: nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa trợ giúp anh. Đức Giêsu chính là Ánh sáng, Ánh sáng phát xuất từ Nguồn Sáng là Thiên Chúa, Ngài là Ánh sáng ban sự sống vĩnh cửu cho con người.
Thấu hiểu sự đau khổ của anh mù, Đức Giêsu đã cảm thương anh và tự nguyện đến cứu chữa anh. Ngài đã giải thoát anh khỏi đau khổ nơi thân xác như dấu chỉ của Sa tan đang đè nặng trên con người của anh. Việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ, trên sự tối tăm và sự chết. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người, đặc biệt là cho những ai biết nhận ra Ngài. Câu chuyện của người mù cũng chính là câu chuyện của chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tuy không bị mù về thể xác, nhưng rất có thế chúng ta đang bị mù về tinh thần.
- Mù vì không nhận ra sự thật.
Sự thật đó là:
- Thiên Chúa là Đấng Tạo hoá muôn loài và là Cha của tất cả chúng ta; còn tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.
- Con người là hồn và xác được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài
- Đức Giêsu là Con một duy nhất của Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chịu muôn vàn đau khổ và sỉ nhục chỉ vì yêu chúng ta.
- Tất cả những gì chúng ta đang có đều là hồng ân của Chúa ban.
- Ơn Chúa chính là sự sống của chúng ta.
- Hội thánh Công Giáo do Chúa Giêsu sáng lập chính là người mẹ dịu hiền của tất cả chúng ta.
Những sự thật đó rất nhiều khi chúng ta không nhìn thấy. Như vậy, có thể nói là chúng ta đang sống trong cảnh mù loà về mặt tinh thần và thiêng liêng.
- Mù vì không sống theo những giá trị Tin Mừng đòi hỏi:
Lời Chúa là sự thật, là ánh sáng soi đường con người tìm về Chân Thiện Mỹ, dẫn đưa con người về sự sống vĩnh cửu. Nhưng nhiều khi vì muốn sống và làm theo ý riêng, vì lười biếng, vì nhát sợ, vì lợi lộc thấp hèn và những thú vui chóng qua ở đời này mà chúng ta đã bỏ qua Lời của Thiên Chúa.
Chấp nhận sống theo Lời Chúa là chấp nhận lội ngược dòng, chấp nhận bước trên con đường chẳng mấy ai đi. Nhưng chắc chắn ở phía cuối của con đường ấy là một tương lai huy hoàng dành cho những ai can đảm và trung tín đến cùng.
Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa chữa cho mắt tâm hồn chúng ta khỏi cảnh mù tối thiêng liêng, để chúng ta biết nhìn ra sự thật, hiểu được giá trị lớn lao của Tin mừng và can đảm sống theo những giá trị đích thực đó. Đừng bao giờ tìm cách huỷ diệt ánh sáng chân lý vì kiêu ngạo hay vì thành kiến như những Biệt phái trong Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người. Hãy hân hoan tìm đến với Ngài để được sống và sống muôn đời.
(Suy niệm của FX Phạm Đình Phước)
Thật là một hồng ân lớn khi “đôi mắt” chúng ta chiêm ngưỡng được vẻ đẹp chung quanh, chẳng hạn thấy được những người thân và những người mình yêu mến, chiêm ngắm ánh sáng lấp lánh của mặt trời lúc rạng đông, nếm hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú và chứng kiến muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với với chúng ta.
Chúng ta thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” nghĩa là đôi mắt phản ánh tâm hồn và tấm lòng con người. Tục ngữ dân gian có câu: “Người khôn con mắt dịu hiền”, “Trán cao mắt sáng phân minh, là người học rộng, công danh tuyệt vời”. Người có tâm hồn thánh thiện thì đôi mắt bao giờ cũng đẹp; nhìn vào đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều này. Mắt là cửa sổ để qua đó con người chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ vạn vật; để nhìn thấy những tấm gương những ngọn đèn soi sáng trong cuộc lữ hành trần thế.
Như thế, khi đôi mắt của ai đó không còn nhìn được nữa, thì lúc đó cảnh vật hết lung linh, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, xung quanh họ tất cả chỉ còn lại một màu đen tối. Đó là nỗi bất hạnh của một con người với đôi mắt không nhìn thấy. Người mù về thể xác là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Chúng ta có thể liên tưởng đến sự “mù lòa” về tinh thần do cặp mắt đức tin đã bị che khuất, hay do tự cao tự đại, luôn cho mình là người thông suốt nhìn rõ mọi vấn đề, cho là thánh thiện đức độ hơn người, không nhìn thấy những sai sót của mình.
Tin mừng chủ nhật IV mùa chay năm A thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt cho anh mù từ lúc mới sinh (Ga 9, 1–41). Chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là Thiên Chúa, là Ánh Sáng cho trần gian. Được chữa lành đôi mắt thể xác, đôi mắt đức tin của anh ngời sáng: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 33). Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Chúa Giêsu qua bí tích thánh tẩy, chúng ta “sống như con cái của sự sáng” theo lời dạy của thánh Phaolô, vì “hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật” (Ep 5,8).
“Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”, câu thành ngữ đã diễn tả tầm quan trọng đặc biệt của đôi mắt. Như thế, cầu xin có được đôi mắt sáng là điều cần thiết, nhưng có được một tâm hồn đẹp và sáng ngời còn là điều cần thiết hơn. Xin cho mọi người biết mở mắt và mở lòng ra để thấy được nghĩa vụ mình phải làm cho người khác hạnh phúc, hơn là chỉ thấy quyền lợi và nhu cầu của mình. Mở mắt mở lòng để nhìn thấy cái đẹp, cái tốt nơi người khác; mở mắt mở lòng để sống yêu thương nhau.
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,
Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi
Con mù lòa, bên vệ đường hành khất.
Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.
Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,
Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà.
Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,
Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ.
Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con,
Đừng nắm lại giữ khư khư tất cả.
Trước cửa nhà có người nghèo đói lả,
Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng.
Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,
Để tiến lên dẫu đường sá hiểm nguy.
Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,
Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.
(Thánh thi Kinh Sách, thứ năm tuần II)
70. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện
(Suy niệm của Giuse Phạm Duy Thạch)
Tin Mừng ghi lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng thứ tư ghi lại. là một tình trạng khốn cùng trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? ” (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh đều là hậu quả của tội lỗi của chính đương sự hay của cha mẹ đương sự.
Quan niệm này được trình bày rất rõ trong câu chuyện của ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số trường hợp bệnh tật là do chính những lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình trạng của Anh mù là do hậu quả của tội. Ngài không chấp nhận bất cứ một phương án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn đệ về đúng với quỹ đạo của nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người đời.
Từ đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là phương tiện cho công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. Từ một người tưởng chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng được khoác lên vinh dự được cộng tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.
Công việc đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc chắn là một công việc hết sức khẩn thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm. Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt đẹp vì nó không phải của việc riêng của Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa thực hiện công việc của Chúa Cha chính là lương thực của Đức Giêsu: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Tất cả những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.
Đến đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt của Ngài và đất để xức vào mắt anh để anh có thể nhìn thấy lại.
Trong dấu lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù, Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người được sai phái”. Người được sai phái chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế, đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu, người được Chúa Cha sai đến. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.
Dĩ nhiên, dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành động của chính anh mù: đi rửa ở hồ Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.
Sau khi Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như biến mất để lại một mình anh mù đối diện với cuộc sống mới thường ngày của anh. Từ một người không ai để ý đến, hoặc chỉ để ý đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh đã phải đối diện và trả lời rất nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau về việc anh nhìn thấy được. Từ những người đi đường, những người xóm giềng, đến những chức sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy được, cuộc đời anh đâm ra rắc rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi phải đối diện với nhiều nhóm người và phải trả lời nhiều câu hỏi như thế.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố hết sức cần thiết để anh từ từ “rửa trong người được sai phái” để rồi đạt được kết quả tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô tả hết sức tài tình từng bước khám phá Đức Giêsu của Anh mù.
Bước thứ 1: Trước những chất vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và “những người khác” cũng như “những người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết “Người đó tên là Giêsu”.
Bước thứ 2: Trước những chất vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa hơn một bước khi nói: “Người ấy là một ngôn sứ” (Ga 9,17).
Bước thứ 3: Một loạt những biện luận rất hợp lý của Anh để chứng minh cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm được dấu lạ chưa từng thấy: “mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga 9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh được chữa lành mà chỉ xác nhận là trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên nhân của thái độ này là vì họ “sợ những người Do thái”. Quả thế, những người Do thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành “người bị khai trừ khỏi hội đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó cũng chính là cơ hội để cho anh đi đến bước cuối cùng trên chặng đường khám phá Đức Giêsu.
Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không? Khi đã biết Con Người chính là “người đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).
Hành trình tìm kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu” “Người ấy là một ngôn sứ” “Người ấy đến từ Thiên Chúa” “Thưa Ngài, tôi tin” “bái lạy Người”.
Tin vào Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó sẽ là yếu tố quyết định cho sự sống còn hay hư mất của một con người: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).
Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.
Tạm kết
Dấu lạ chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích cực của Đức Giêsu trước những đau khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có thể “viết thẳng trên những đường cong”; Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị thật cao vời. Đau khổ mà con người đang mang có thể trở nên một cơ hội tốt để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy. Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước đưa anh từ trong đau khổ tối tăm bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.
Lương thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” Tất cả những ai đang chịu gánh nặng của những đau khổ thể xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên xưng niềm tin vào Ngài để được sự sống đời đời.
Dấu lạ chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44) là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giêsu qua việc thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh sáng thế gian và là sự sống của thế gian. Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, bất hạnh, khổ đau, không ít người đã kêu trách: “Thiên Chúa đâu rồi? Nếu có Thiên Chúa, tại sao Ngài lại để cho sự ác hoành hành trên chúng tôi?”
Trước một thảm kịch trong cuộc sống, có những người tức giận chối từ Thiên Chúa, nhưng cũng không ít tâm hồn vươn lên đứng vững trong niềm tin.
Tôi ngạc nhiên vô cùng về thái độ của dân Hoa Kỳ sau biến cố tang thương tại New Yord do bọn khủng bố cuồng tín gây ra trong năm vừa qua. Trước nhưng đổ nát hoang tàn và không khí tang thương bao trùm khắp nước, ấy thế mà người ta, từ già đến trẻ, từ cao sang quan quyền đến nghèo hèn thấp kém, đều cất vang tiếng hát: “God bless America” (Thượng Đế ban phúc lành cho Hoa Kỳ). Tôi tự hỏi: tại sao trước những đống gạch vụn và những xác người bấy nát mà họ lại cất lên được lời ca đó? Họ thấy được gì trong nỗi bất hạnh tột cùng của đất nước? Phải chăng vinh quang Thượng Đế đang tỏa sáng?
Khi sự bất hạnh xảy đến, nhiều người sẽ mau đi tìm nguyên nhân gây ra nó. Cũng như khi thấy người mù từ thuở mới sinh phải lao đao khốn đốn trong bóng tối triền miên cuộc đời, các môn đệ liền thắc mắc với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như thế?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải nó cũng chẵng phải cha mẹ nó, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ rạng nơi y”.
Song để vinh quang Thiên Chúa được rạng tỏ nơi mình, tức là để được thấy ánh sáng tự nhiên và ánh sáng siêu nhiên, người mù đã trải qua một hành trình thử thách gian nan. Sau bao tra vấn, khủng bố, khước từ của nhóm Pharisêu Biệt phái, anh đã dần dần nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Lúc đầu anh chỉ xem Giêsu như một con người đặc biệt. Có lẽ từ xưa đến nay, anh chưa bao giờ gặp một nhân vật tốt lành như thế. Cho nên khi bị chất vấn “ai đã chữa lành anh?”, anh chỉ biết trả lời: “Một người có tên Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo tôi đi rửa ở hồ Silôe. Tôi rửa và thấy được”.
Rồi khi được hỏi ý kiến: “Còn anh, anh nói sao về con người Giêsu đó?” Anh liền thưa: “Ngài là một tiên tri”. Như thế trong nhận thức của anh mù mới được chữa lành, Đức Giêsu không chỉ là một con người thuần túy, nhưng còn là một con người được Thiên Chúa sai mang sứ điệp đến cho nhân loại.
Vì lời tuyên xưng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa mà anh mù đã bị tống xuất ra khỏi hội đường Do thái. Thế nhưng khi người ta loại bỏ anh thì Đức Giêsu lại đón nhận anh, và mạc khải cho anh trọn vẹn hơn dung mạo của Ngài: “Khi nghe họ trục xuất anh mù, Chúa Giêsu gặp anh và nói: ngươi có tin Con Thiên Chúa không? Anh ta thưa: Thưa Ngài, đó là ai để tôi tin Người? Chúa Giêsu đáp: Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh. Anh liền thưa: Lạy Ngài, tôi tin. Nói xong anh liền sấp mình xuống bái lạy Ngài” (Gn 9:35-38).
Trên hành trình tiến đến ánh sáng tự nhiên, người mù đã trải qua ba giai đoạn: được sức bùn, đi rửa mắt, và mắt sáng. Riêng hành trình tiếp cận ánh sáng siêu nhiên, anh mù cũng đã trải qua ba bước nhảy trong việc khám phá chân dung đích thực của Chúa Giêsu: con người, Tiên tri, Thiên Chúa.
Những bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi hành vi quỳ xuống bái lạy. Đây là cao điểm của phép lạ “Chúa Chữa Người Mù”: qua việc phục hồi thị giác tự nhiên, Đức Giêsu trao ban ánh sáng đức tin. Chính ánh sáng này sẽ mang lại niềm vui và sự sống trọn vẹn cho người ta.
Đi trong ánh sáng đức tin gọi là “thấy rõ đường đi nước bước”, còn ngoài đó, mọi sự chỉ là tăm tối mịt mù. Có niềm tin vào Thiên Chúa, kẻ mù lòa thể lý khốn khó đường đời, hay lao đao cuộc sống, vẫn thấy rõ hướng đi hạnh phúc, tràn đầy hy vọng, và an vui tâm hồn.
Đối với người có đức tin vững mạnh vào Đức Giêsu, mọi tai họa, gian nguy, khốn khó sẽ là dịp giúp họ thấy rõ hơn dung nhan tươi sáng của Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời.
Tin vào Đức Giêsu, người ta sẽ nhận thấy rằng Ngài là Vị Tôn Sư trên tất cả tôn sư. Tin tưởng nơi Ngài, thì dù gian nguy có xảy đến, đối phương có quần thảo tan hoang, ta vẫn sẽ gặp được vinh quang chiến thắng trên mãnh lực của sự ác và sự tội. Bởi như lời thánh Phaolô xác quyết: “Đối với những ai yêu mến Thiên Chúa thì Ngài sẽ đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành” (Rm 8:28).
Bài Thánh thư và bài Tin Mừng cho phép ta nếu muốn, có thể gọi Chúa nhật hôm nay là Chúa Nhật Ánh Sáng; nhưng như vậy phải tách riêng bài sách Samuel. Và cũng là dịp để ta thấy: không tất nhiên các bài đọc bao giờ cũng phải chung một đề tài. Tuy nhiên Phụng vụ luôn có chủ ý khi chọn những bài đọc khác nhau. Như hôm nay, đang Mùa Chay, cần giáo huấn tân tòng và tín hữu, Phụng vụ có thể đề xuất nhiều đề tài khác nhau để tiến hành việc giáo huấn mau lẹ và đầy đủ hơn. Chúng ta thử nắm hết các lời giáo huấn trong Chúa nhật này.
- Bài Sách Samuel
Samuel được sai đi xức dầu phong vương cho Đavít. Câu truyện đơn sơ, dễ hiểu và có vẻ thuộc loại văn lịch sử. Nhưng trong Kinh Thánh, nhất là trong Kinh Thánh Cựu Ước, nhiều khi “vẻ” văn lịch sử chưa chắc đã là văn sử. Người xưa thích kể chuyện khi dạy dỗ. Ở đây có lẽ cũng thế. Tác giả kể việc xức dầu phong vương cho Đavít thật rõ ràng. Cả nhà Đavít đều chứng kiến. Thế mà ở đoạn sau đó, tức chương 17,28 sách 1Samuel lại cho ta thấy Eliab, người anh cả của Đavít, lại cư xử với em như với một đứa nhỏ chẳng có giá trị gì. Rồi trong 2Samuel đoạn 2,4 và 5,3 lại nói đến việc xức dầu cho Đavít làm vua Yuđa và Israel như đã không biết gì về việc Samuel đã xức dầu cho Đavít. Như vậy nếu coi bài đọc chúng ta vừa nghe như một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện lịch sử, mượn câu chuyện lịch sử Đavít đã được xức dầu làm vua một lần nào đó (và việc này có thật) để đưa ra một lời dạy dỗ, thì ý của tác giả thánh thế nào?
Ông muốn nói rằng: Đavít đã được một tiên tri xức dầu làm vua. Vương quyền Đavít nhận được có ơn tiên tri. Uy quyền của ông bởi Thiên Chúa. Vua Israel là người được Thiên Chúa chọn, là đấng xức dầu của Người, là người được Thần trí Chúa hướng dẫn. Như vậy, trong lịch sử Dân Chúa sẽ có một sự tiếp nối liên tục giữa thời các Thẩm phán và thời các Hoàng đế. Các hoàng đế tuy làm vua nhưng cũng được như các thẩm phán, là những bậc được Chúa chọn để ban Thần trí hầu cứu dân trong một hoàn cảnh rất đặc biệt của lịch sử. Nói tóm lại, Đavít được nhà tiên tri xức dầu làm vua, thì vua Đavít sẽ có Thần trí của Thiên Chúa hướng dẫn và ngài sẽ cứu thế, cứu dân.
Do đó Phụng vụ Mùa Chay thật có lý để dùng bài Cựu Ước này. Đức Kitô Con Vua Đavít, là Đấng đã được xức dầu, thì cũng là Đấng Cứu Thế. Và nếu được phép suy nghĩ tỉ mỉ hơn nữa, dường như Phụng vụ còn muốn nói thêm: như Đavít là em út trong nhà, có bộ mặt khôi ngô sáng sủa đã được chọn một cách chẳng ai ngờ, thì Đức Kitô cũng sẽ cứu thế theo phương thức chẳng ai đoán được. Người sẽ sống khiêm nhu, bé nhỏ và sẽ chết trên Thập giá. Nhưng nhìn vào sự thánh thiện trong sáng của Người, muôn dân đã thấy bừng lên ơn cứu độ.
Một bài học như thế đáng cho chúng ta, tín hữu cũng như tân tòng, suy nghĩ trong Mùa Chay và suốt cả cuộc đời. Chúng ta tin Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên Tri và là Cứu Thế. Và chúng ta hãy xem trong bài Tin Mừng hôm nay Người đã cứu thế cách nào?
- Bài Tin Mừng
Người là Đấng, như Chúa nhật trước đã cho ta biết, lấy công việc làm theo Ý Đấng đã sai Người, làm lương thực hàng ngày. Hôm nay Người cũng khẳng định như thế, và nói bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào các việc của Đấng đã sai chúng ta (c.4). Hiện giờ thì còn là ngày, vì “khi Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian” (c.5).
Và sự sáng thì phải soi sáng. Vậy có một người mù từ thuở mới sinh đang đứng đó. Môn đồ không hiểu vì sao có sự kiện ấy. Còn Đức Kitô ý thức mình là sự sáng, nên thấy ngay đây là công việc Chúa Cha gửi đến cho mình. Người chữa anh ta khỏi.
Câu truyện có thể đến đó là xong. Nó đã đủ để chứng minh: Đức Kitô là sự sáng. Nhưng khốn nỗi, không những Người là sự sáng nhưng còn là sự sáng thế gian, sự sáng đến trong thế gian; khiến Yoan phải viết thêm: thế gian đón nhận sự sáng ấy như thế nào? Và đó là ý nghĩa của phần còn khá dài trong bài Tin Mừng hôm nay.
Phần này quảng diễn một khẳng định mà Yoan đã viết ngay ở đầu cuốn Tin Mừng của người: sự sáng rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được sáng (1,5). Quả thật, việc Đức Yêsu mở mắt người mù đã như ánh sáng bùng lên trước mặt mọi người. Ai ai cũng bàn tán hỏi nhau (c.8), chẳng làm sao hiểu được. Người ta phải đưa vấn đề trình lên các Biệt phái. Tòa làm việc nhộn nhịp, hỏi cung người mù, đòi chứng của cha mẹ anh ta, hỏi lại anh ta một lần nữa, nỗ lực vùi dập vụ này đi… nhưng đã không triệt được sự sáng. Rõ ràng Yoan muốn ám chỉ: Biệt phái đang mưu mô hại Chúa, nhưng họ sẽ thua. Cuộc tử nạn mà họ muốn Người phải chịu sẽ làm cho họ phải bẽ bàng vì biến cố Phục sinh. Bài Tin Mừng hôm nay, như thế, còn nói lên mầu nhiệm Chúa sống lại của Phụng vụ ngày Chúa nhật và của đích điểm Mùa Chay Thánh.
Chưa hết! Tác giả Yoan còn tiếp tục. Người mù bị các Biệt phái tống cổ ra ngoài. Đức Yêsu được tin. Người đi tìm anh ta, ban cho anh ta được ơn nhận ra Người và thờ lạy Người. Còn các Biệt phái vì tự phụ là người sáng mắt, nên tội lỗi còn nguyên. Đúng như lời Chúa nói: “Ta đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù”.
Tác giả Yoan muốn cảnh tỉnh chúng ta đó. Công việc của Thiên Chúa đã hiện tỏ (c.3); mầu nhiệm Phục sinh đã sáng rực. Ai khiêm cung sẽ được soi sáng; còn ai tự phụ sẽ lại đui mù.
Như thế bài Tin Mừng cũng là một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện. Đoạn văn trong sách 1 Samuel đã cho chúng ta thấy Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên tri, là Cứu thế. Bản Tin Mừng Yoan nói thêm: Người đã đến trong thế gian như sự sáng, mà tối tăm không triệt được, để ai mù được thấy, ai sáng sẽ mù; để ai tin Con Người thì được rỗi (c.35) và ai không tin sẽ còn nguyên tội lỗi.
Riêng chúng ta đã tin Chúa rồi thì thế nào?
- Bài Thánh Thư
Thánh Phaolô đáp: “Xưa kia anh em là tối tăm nhưng nay, trong Chúa, anh em là sự sáng; anh em hãy đi đứng như con cái sự sáng. Mà hoa quả của sự sáng là mọi việc nhân lành, công chính và chân thật”.
Những lời ấy đủ để đưa hết thảy chúng ta đi vào con đường của sự sáng. Nhưng không biết chúng ta có nên khiêm tốn hơn không và thú nhận có lẽ mình cũng còn cần phải được soi sáng? Câu cuối cùng trong bài thư Phaolô có vẻ gợi lên điều đó. Và tác giả khuyên chúng ta hãy đứng lên để được Đức Kitô chiếu soi.
Kìa xem người mù, sau khi được Chúa mở mắt cho, đã dần dần trở thành con người có giá trị đến nỗi xứng đáng được Chúa đi tìm để ban thêm ơn đức tin. Anh ta đã biết nói sự thật với tất cả mọi người, và dần dần biết biện phân phải trái, khiến các Biệt phái phải bực tức thốt ra lời thú nhận tự ti mặc cảm.
Chúng ta cũng sẽ tăng thêm giá trị cho chúng ta khi chúng ta để Người chiếu soi. Mà Người thường làm công việc này qua Sách Thánh, qua giáo huấn của Hội Thánh, qua cả việc học tập và suy nghĩ trong yên lặng vì con người có học mới sáng, và có sáng mới làm được những công việc nhân lành, công chính và chân thật.
Như vậy, chúng ta hãy đến xin Đức Kitô soi sáng cho chúng ta không những trong Thánh lễ này, mà còn trong mọi lúc chúng ta suy nghĩ, học hành, đọc sách vở và nhất là Sách Thánh.
73. Suy niệm của Lm. Nguyễn Tiến Huân
Anh đã đi rửa rồi trở lại và được sáng
Phép lạ Chúa Giêsu lấy bùn chữa một người mù từ mới sinh cho anh ta xem thấy được trong bài Phúc âm hôm nay có hai hậu quả đối nghịch:
Với bọn Biệt phái thì đó là một phép lạ làm họ điên đầu và dồn họ vào ngõ bí. Vì sự cố chấp mù quáng và thiếu bác ái bọn Biệt phái đã võ đoán:”Chúa Giêsu không phải bởi Thiên Chúa vì không giữ ngày Sabat”(Ga 9:16). Hơn thế nữa họ còn kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: “Phần chúng ta, chúng ta biết đó là một người tội lỗi” (Ga 9:24). Nhưng “làm sao một người tội lỗi mà lại làm được những phép lạ thể ấy?” (Ga 9:16). Họ chia rẽ nhau và đã bí lại càng bí thêm, bí đến độ thành ngu xuẩn vì thành kiến, khiến họ bị người mù mới được khỏi đó, một người ăn xin quê mùa thất học, dạy cho một bài học: “Đó mới thật là lạ: Người đã mở mắt tôi thế mà các ông không biết Người bởi đâu đến! Nhưng chúng tôi biết chắc rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi. Chỉ những ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Người thì kẻ đó mới được Thiên Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì” (Ga 9:30-33). Thật là một bài học hùng hồn, chí lý và hoàn toàn hợp sự thật khiến bọn Biệt phái cắn răng chịu thua không dám nghe phải vội đuổi anh ta ra ngoài (Ga 9:34). Họ là những kẻ có mắt mà mù đúng như lời họ nói: “Thế ra chúng tôi mù cả ư?” (Ga 9:10). Đối với bọn Biệt phái cố chấp và kiêu căng thì như thế.
Nhưng đối với người ăn mày mù đơn sơ và thành tâm này, phép lạ trên lại có một hậu quả khác hẳn. Trước hết đối với mọi người đang hồ nghi và bàn tán, anh tự nhận chính mình đã được Chúa Giêsu làm phép lạ lấy bùn chữa mắt: “Chính là tôi đây..(đã được) Người mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi và bảo hãy đi rửa ở ao Siôe. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy” (Ga 9:9-11). Anh nói lên sự thật để ca ngợi Thiên Chúa. Lại nữa tuy chưa biết Chúa Giêsu là ai, nhưng lòng anh đã rộng mở nên đã nhận ra rằng “Nếu Người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì” (Ga 9:33). Vì thế khi gặp lại Chúa Giêsu và được Người hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?” thì anh ta mau mắn thưa lại ngay: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Và khi được Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh đây” thì anh ta liền nói: “Lạy Thầy, tôi tin”. Đức tin chân thành ấy còn được chứng minh bằng việc “anh sấp mình thờ lạy Người” (Ga 9:33-38). Chính đức tin ấy đã làm cho anh được sáng cả mắt xác thịt lẫn mắt linh hồn.
Để linh hồn chúng ta được Chúa chữa cho khỏi mù vì tội lỗi, chúng ta cũng hãy bắt chước người mù này vâng lời Chúa mau mắn đi rửa Linh hồn ở ao Silôe tức là nơi tòa Giải tội. Sau đó khi linh hồn được sáng rồi chúng ta hãy “ăn ở như con cái sự sáng” mà “hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành công chính và chân thật” (Eph 5:8-9). Đó cũng chính là tinh thần cải thiện đời sống của mùa Chay.
Lạy Chúa, tuần này con quyết đi tẩy rửa nơi tòa Giải tội để Linh hồn con được sáng.
(Suy niệm của Lm Bùi Mạnh Tín)
Theo quan niệm chung, người mù là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Từ quan niệm này, chúng ta liên tưởng đến chứng mù khác, đó là sự mù lòa tinh thần, như chúng ta thường diễn tả: “nạn mù chữ”, “tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề đó”, “cặp mắt đức tin đã bị che khuất”.
Hiểu như vậy, có những cặp mắt hoàn toàn hư hỏng, nhưng tinh thần lại rất lanh lợi, lương tâm rất bén nhậy và đức tin rất sáng suốt. Và ngược lại, có những cặp mắt không bao giờ phải mang kiếng, nhưng lại mù lòa, ít khi hay không bao giờ nhìn ra những chân lý mà mọi người đã chấp nhận. Điều này được minh chứng qua câu chuyện hôm nay: các anh em Biệt phái luôn tự hào là mình sáng suốt, chỉ có mình mới biết về Đấng Cứu Thế – và như thế, mới có thể hướng dẫn người khác đến với Thiên Chúa. Hơn thế, họ còn coi những người mù về thể lý là người đã mất cặp mắt đức tin do tội lỗi.
Trong khi đó, người mù từ khi mới sinh lại có cặp mắt thật sáng suốt, giúp anh nhận ra người thanh niên thành Nagiarét giữa đám đông là Đấng Cứu Thế, là con Vua Đavít… Thật vậy, khi những anh em Biệt phái nói: “người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến”, anh mù đã trả lời: “Đó mới là điều lạ. Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết người đó bởi đâu”. Nói thế, anh muốn quả quyết rằng: một người có đầy quyền năng làm phép lạ, có đầy lòng xót thương để cứu vớt kẻ đau khổ, có chan hoà ánh sáng, chính là người đến từ Thiên Chúa. Các ông bảo các ông sáng, vậy mà các ông không nhận ra người đó là ai. Rồi anh tiếp: “Xưa nay chưa từng nghe nói ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa, thì đã không làm được gì”.
Những lời lẽ của anh chứng minh: anh không mù lòa chút nào – trái lại, rất sáng suốt. Trong khi đó, anh em Biệt phái vẫn cho mình là sáng suốt – ít nhất trong trường hợp này, lại mù lòa tới mức độ khó đối diện với Chúa Giêsu và chứng kiến phép lạ của Ngài, vẫn không nhận ra Ngài là ai. Đã thế, họ vẫn không chịu nhận ra mình mù lòa. Đây chính là một chứng mù bất trị, như Chúa Giêsu đã diễn tả: “Vì các ông không nhận mình là mù, cứ nói là mình vẫn xem thấy, nên tội các ông vẫn còn đó”.
Cặp mắt đức tin của chúng ta đã được Chúa Giêsu đích thân mở cho, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Và rồi từ đó, Chúa luôn tiếp tục ban ân sủng, để cặp mắt đó trong sáng hơn, nhìn rõ hơn. Tuy nhiên, khuynh hướng tội lỗi và các hoàn cảnh xấu, như một sự ô nhiễm môi trường, thường tạo nên những bất lợi cho cặp mắt đó, khiến hình ảnh Chúa bị lu mờ dần hoặc biến mất hoàn toàn trong tâm hồn mình, trong tha nhân – và nhiều khi trong cả những sinh hoạt đạo đức nữa. Đã vậy, nhiều khi chúng ta vẫn cứ “an tâm” với những hình thức đạo đức bên ngoài, coi đó là những dấu chỉ tốt, và luôn hãnh diện về những dấu chỉ đó… Nhưng thực ra, cặp mắt đức tin có thể đã yếu kém trầm trọng hoặc đang mang một thương tích nào đó.
Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Kitô, vị bác sĩ nhân khoa tuyệt vời. Chính Ngài sẽ chăm sóc, trị liệu và cho các toa thuốc cần thiết. Nhờ thế, cặp mắt đức tin của mỗi người chúng ta mới luôn trong sáng và nhìn ra gì Chúa muốn chúng ta nhìn.
75. Ánh sáng đức tin – Lm. Bùi Mạnh Tín
Câu chuyện về một người mù được Chúa cho sáng mắt đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề. Một vấn đề cần suy nghĩ ở đây, đó là tính kiêu căng cố hữu nơi con người, một sự kiêu căng đã mang đến bao tai hại cho cá nhân, gia đình và xã hội về nhiều phương diện.
– Có tội, nhưng không bao giờ nhận mình có tội.
– Bất lực nhưng vẫn tưởng mình có đầy khả năng.
– Tối tăm mù lòa nhưng lại cho mình sáng suốt thông minh.
Khi chúng ta không thành thật khiêm nhượng và can đảm nhận ra sự bất lực, tối tăm và tội lỗi của kiếp người, thì không ai có thể giải thoát chúng ta được, kể cả Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta đọc thấy trong câu truyện hôm nay. Người ăn xin, mù mắt nhưng tâm trí anh ta lại sáng suốt. Anh ý thức được thân phận cùng khốn của mình và nhận ra Đức Kitô là Đấng toàn năng và từ bi, nên anh đã chấp nhận sự can thiệp của Chúa. Nhờ bàn tay Chúa, không những cặp mắt thể xác của anh có thể nhìn rõ mọi sự vật, mà tâm trí của anh càng sáng chói thêm. Nhờ tâm trí này, anh đã tin rằng người chữa mắt cho anh “là một tiên tri”, bởi vì “nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm gì được.” Trái lại, những anh em Biệt Phái, dù có cặp mắt sáng để đọc và nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đã không nhận ra Đấng vừa thực hiện phép lạ đó là ai. Thái độ tiêu cực này chính là một thứ mù lòa tinh thần. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã nói với những anh em đó: “Nếu anh em mù thì anh em không mắc tội; nhưng anh em nói: chúng tôi xem thấy, nên tội anh em còn đó.”
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta cũng gặp những người, tuy không sáng suốt và hiểu biết trong nhiều lãnh vực, nhưng lại có thể trở thành những ngọn đèn sáng dẫn chúng ta đến với Chúa.
Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ với mọi người câu truyện của đời cô:
Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, đôi khi nhắc lại những câu Kinh Thánh hay những lời Linh mục giảng dạy. Tôi luôn luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông. Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự Lễ Giáng Sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: “Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?”, tôi im lặng… Khi chúng tôi vừa đặt chân tới của nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: “Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa.” Ông hỏi: “Cháu nói thế có nghĩa là gì?” “Nội biết không, những lời Nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa Nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa.”
Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp:
– Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lơp Giáo lý này.
76. Mù và Sáng – Trầm Thiên Thu
Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.
Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa.
Mắt cũng biết khóc, biết cười. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẻo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nổi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp quá!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (*) hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” chúng ta cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.
Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Tức là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Thánh Phaolô giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.
Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo…). Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám “phán câu xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta:
“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngày: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17).
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ canh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”.
Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!
Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhác” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ!
Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở mắt đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
77. Bây giờ tôi đã thấy – Mark Link
“Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa Giêsu.”
Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.
Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau: “Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”
Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.
Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai. Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là “Chúa”. Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này. Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc. Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác. Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: “Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt. Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liềân được trông thấy.”
Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người. Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: “Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?” anh ta liền đáp: “Ông ấy là một tiên tri”. Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước. Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri. Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.
Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa. Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: “Anh có tin vào CON NGƯỜI” không? Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh”. Anh đáp ngay: “Lạy Chúa, con tin!” vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.
Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước. Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà “muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối” (Pl 2: 10). Ân sủng đức tin, hay “ánh sáng tâm linh” mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.
Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.
Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị “đui mù tâm linh” như anh mù trong Phúc âm hôm nay. Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta. Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.
Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay. Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy. Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường. Đến lúc lớn lên. Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn. Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa. Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta. Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy. Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế. Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.
Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu. Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai. Schweizer viết: “Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thủơ xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển. Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: “Hãy theo Ta!”. Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ. Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được “NGÀI là ai?”.
78. Bài đọc thêm: Về “cái biết”
Trong Tin Mừng Ga đoạn 9, mười câu từ 24-34, thấy diễn ra một cuộc đối chọi giữa hai ‘cái biết’: một của nhóm chức quyền Do thái, một của anh mù.
- a) “Chúng ta biết rằng tên đó (Chúa Giêsu) là một đứa tội lỗi” (c.24).
- aa) “Ông ấy là người tội lỗi ư? Tôi không biết. Một điều tôi biết được là: tôi đã mù, và rày tôi thấy được” (c.25).
- b) “Chúng ta biết Thiên Chúa đã phán với Môsê (và truyền giữ luật Hưu lễ), còn hắn, chúng ta chẳng biết hắn tự đâu ra?” (c.29).
- bb) “Chúng tôi biết Thiên Chúa không nhận lời hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm theo ý Người, thì Người nhận lời kẻ ấy (bằng chứng là phép lạ chữa bệnh mù của tôi đây)… Nếu ông ấy đã không bởi Thiên Chúa mà đến, thì đã chẳng làm gì được” (c.31-33)
Ta có thể nhờ lời cổ nhân mà phân tích đoạn này. Tuân Tử (330TCN-227TCN) cho rằng: Điều mà ai cũng biết là: tri thức nào cũng đều bắt đầu từ ngũ quan, tiếp nhận ấn tượng; còn cái tâm thì suy xét, phân biệt các ấn tượng ấy mà biết. Tai, mắt, mũi, miệng… thì tiếp xúc với bên ngoài, nhận các ấn tượng, nhưng không có cái nào làm chủ sai khiến cái nào. Còn tâm đứng giữa, thì làm chủ để cai trị các ngũ quan, thâu gom tất cả về nó. Nó có cái năng lực suy xét, phân biệt; cho nên mới có câu: “Nhờ đâu mà biết? Đáp: Nhờ Tâm” (thiên: Giải tế). “Tâm không (hoạt) động, thì trắng đen ở ngay trước mắt mà không nom thấy, trống khua lớn ở bên cạnh mà tai không nghe” (Giải tế).
Đó là nói về cái biết đối với các vật có hình tượng…
Đối với đạo lý, muốn biết, thì tâm phải ở trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”: “Hư” là trống không, ý nói đừng có sẵn thành kiến trước, mà làm tổn hại đến điều gì sắp tới. – “Nhất” là một, nghĩa là thường tâm ôm đồm nhiều quá, nên muốn biết một điều gì, thì phải chọn một điều thôi, tập trung vào đó, để cho cái biết được tinh vi. – “Tĩnh” là yên lặng. Bản chất tâm là luôn hoạt động, nhưng khi để ý vào một việc gì, tâm phải giữ cho bình tĩnh, đừng để cho huyễn mộng, tưởng tượng vẩn vơ… và những buồn phiền giao động mà làm rối loạn (Giải tế). Hồi xưa, Đức Khổng Tử cũng đã tâm niệm 4 điều quyết: không ức đoán, không võ đoán, không cố chấp, không chủ quan” (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. – Tử Hãn).
Muốn cho tâm được hư nhất nhi tĩnh, thì phải “tri dã cung” là nghĩ một cách kính cẩn, ngoài ra phải “tri dã lạc”, tâm phải ở trong một trạng thái hòa đồng làm một với thiên đạo, tức là phải thành: vừa trong sáng, vừa ngay thẳng, thành tâm, thiện chí (lấy theo Giản Chi…,sđd, t.I, 488tt, 606tt). Bây giờ áp dụng vào hai cái biết của đoạn trên, thì thấy:
Về a): Cái tâm của nhóm Biệt phái không ‘hư’ (trống rỗng), nhưng đã bị nhiều thành kiến chiếm cứ, và không ‘tĩnh’, tức là đã để cho nhiều đố kỵ bè phái, thiên kiến đối với Đức Giêsu (x. Ga 5, 15-18) làm giao động và làm lú lấp mà quên thiên đạo. Họ không xét đến cái tốt (chữa lành bệnh mù) mà chỉ bo bo nhìn vào việc không giữ Hưu lễ (mà họ đã chẻ tóc làm tư cho thành một luật nặng nề, cứng ngắc, nghẹt thở), và nhất là tưởng rằng đó là tất cả đạo.
Về aa): Anh mù đã dựa vào giác quan kinh nghiệm sự vật mà suy xét: đã mù (một sự kiện hữu hình), nay được sáng mắt (một sự kiện nữa). Và từ đó, anh để tâm suy xét phân biệt người chữa anh có là kẻ tội lỗi hay ngược lại, và đó là điều anh nói ra ở bb).
Về b): Cái tâm của họ không trống rỗng (‘hư’), đầy thành kiến; thêm vào đó không giữ cho ‘hòa đồng với thiên đạo’, và không thành thực, ngay thẳng, trong sáng. Họ chỉ biết luật Môsê (toàn mặt cấm kỵ) mà không thấy toàn bộ thiên đạo chép trong Kinh Thánh: Thiên Chúa yêu thương, dạy người ta yêu thương, và coi đó là điều quan trọng hơn hết, hơn cả muôn ngàn hy lễ, và yêu thương là giới luật trọng nhất gồm thâu mọi giới luật (x. Mc 12, 32-33). Nói nôm na, cái tâm của họ đã không được nỗ lực ‘trừ dục’, ‘thắng tà’ mà nên trong sáng, thành thực.
Về bb): Chính anh mù (được lành) lại sáng cái tâm ra mà nhìn nhận được cái thiên đạo ấy: “Ai thờ Chúa và làm theo ý Người” (mà ở đây ý Người là yêu thương, giúp đỡ nhau…), “thì Thiên Chúa nhận lời người ấy”. Nhận lời là làm phép lạ theo ý người ấy xin. Đang khi nhóm Biệt phái mù tịt không biết “hắn tự đâu ra” (mà họ là những người thông thái), vì cái tâm không ‘hư’, không ‘dã cung’, ‘dã lạc’, nên đâm mù quáng, chỉ dán mắt vào một bộ luật và khư khư giữ từng nét…; thì anh mù lại sáng mắt ra và chỉ cho họ biết nguồn gốc của Đức Giêsu là “bởi Thiên Chúa mà đến”, dựa theo thiên đạo này, tức quy luật chung, tự nhiên, mọi người nhìn nhận: Vì ai làm lành, ai gây phúc đức (ai phục vụ anh em mình), thì chỉ có thể từ Thiên Chúa mà ra, chứ không từ sự ác, từ ma quỷ, từ tội lỗi.
Lời dạy của triết gia Tuân Tử không phải là đã lỗi thời đâu!
79. “Ngài là ai để tôi tin Ngài?”
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Như tuần trước đã chia sẻ, trong ba tuần giữa (III, IV, V) của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phụng Vụ Lời Chúa (ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, chứ không phải theo Thánh Mathêu) cho thấy tiến trình Mạc Khải tam đoạn về Con Người Giêsu là Đường Lối, là Sự Thật và là Sự Sống. Thật vậy, ở Chúa Nhật thứ III tuần trước, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Đường Lối, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho phụ nữ tội lỗi ở miền đất Samaritanô ngoại lai, và làm cho chị nhận biết Người quả thực là Đức Kitô Thiên Sai, Vị sẽ dẫn con người đến cùng “Thiên Chúa là Thần Linh”, Đấng muốn những ai tôn thờ Ngài phải “tôn thờ trong tinh thần và chân lý” (Jn 4:24), là tất cả những gì Người sẽ ban cho những ai tin vào Người, để từ họ sẽ vọt lên mạch nước sự sống đời đời là Thánh Thần (xem Jn 4:14, 7:38-39). Ở Chúa Nhật thứ IV tuần này, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Sự Thật, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền đất chính giáo Giuđêa. Bởi vì, trong đoạn trình thuật đây, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu đã nói đến thực tại “Thày là ánh sáng thế gian” trước khi phục quang cho người mù này, cũng như nói đến tác dụng nơi việc hiện diện và hành động của Người: “Tôi đến để làm cho kẻ mù được thấy và kẻ thấy bị mù”, sau khi đã chữa lành cho người mù ấy.
Tiến trình Mạc Khải của Chúa Giêsu trong cả ba trường hợp (Đường Lối, Sự Thật và Sự Sống) đều giống nhau, chẳng những theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan (“Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối” – Jn 1:5) mà còn theo đúng đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu thuộc Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A nữa (“Cải thiện đời sống! Nước Trời đã đến” – Mt 4:17). Thật thế, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan, vì là “ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người” mà Chúa Giêsu, như Phúc Âm hôm nay cho thấy, đã tự động, (chứ không cần hay không phải do yêu cầu hay kêu xin của đối tượng, vốn thường xẩy ra nơi bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm), đến với người mù từ lúc mới sinh và chữa lành cho anh ta. Để làm gì? Nếu không phải để anh ta có thể nhìn thấy Người mà tin vào Người hay mới có thể tin vào Người. Phải, tuyệt đỉnh của việc Chúa Giêsu tỏ mình cho người mù từ lúc mới sinh này là ở chỗ đó. Ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay cho biết: “Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, Người tìm gặp anh mà hỏi: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh đáp: “Thưa ông, Ngài là ai để tôi tin Ngài?” Chúa Giêsu phán: “Anh đã nhìn thấy Ngài, Đấng đang nói với anh đây”. Anh ta liền nói: “Lạy Chúa, tôi tin” rồi sấp mình xuống thờ lạy Người”.
Tuy nhiên, trình thuật Mạc Khải này của Chúa Giêsu cũng hợp với đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu nữa. Nếu yếu tố nhân sinh (cải thiện đời sống) được đặt trước yếu tố Thần Linh (Nước Trời đã đến) thế nào, trong trình thuật Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay chúng ta cũng thấy rõ điều đó. Thật vậy, ngay trước khi được Chúa Giêsu hoàn toàn tỏ mình ra cho mình, nghĩa là trước khi người mù từ lúc mới sinh chẳng những tuyên xưng đức tin mà còn tỏ cử chỉ phục xuống tôn thờ Người, anh ta đã phải tỏ lòng khát khao mong muốn biết Người là ai: “Thưa ông Ngài là ai để tôi tin Ngài?”. Như thế, nếu anh ta không tỏ ra yếu tố nhân sinh quyết liệt này trước, thì thử hỏi anh ta có được thấy “Nước Trời đã đến” ngay trước đôi mắt vừa được chữa lành của anh ta hay chăng? Hoặc anh ta lại rơi vào trường hợp của chín trong mười người tật phong, sau khi được chữa lành, đã không hề quay trở lại để nhận biết Đấng đã chữa lành cho mình bằng việc tạ ơn Người, như một người ngoại lai trong họ đã làm (xem Lk 17:11-19). Thật ra, qua những đối đáp của anh ta với nhóm Pharisiêu, anh ta chẳng những đã tỏ ra niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh ta, mà còn hiên ngang làm chứng cho một Đấng anh ta chưa hề được trực diện, chưa hề được diện kiến dung nhan để có dịp dâng lời tạ ơn Người. Vì trước khi thấy đã tin rồi, (tin trước biết sau là như thế), nên khi anh ta vừa được hỏi “Anh có tin Con Thiên Chúa không?”, anh liền tỏ ước muốn tin tưởng của mình ngay, nhờ đó, và cũng chỉ nhờ đó, anh mới được và đã được hoàn toàn thấy “Sự Thật”, thấy được “Con Thiên Chúa” Làm Người.
Thế nhưng, tại sao Giáo Hội lại đặt trình thuật của Phúc Âm Thánh Gioan về việc Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh này vào Mùa Chay, trước trình thuật về người phụ nữ Samaritanô và sau trình thuật về Lazarô được hồi sinh? Hay nói cách khác, đâu là ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay trong Mùa Chay?
Như đã đề cập đến ở hai bài chia sẻ, tuần về biến cố biến hình hai tuần trước và tuần về biến cố bên bờ giếng Giacóp vừa rồi, Mùa Chay là thời gian hướng về và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Kitô Giáo. Thế nhưng, con người không thể chấp nhận và nhờ đó mới có thể thông phần vào Biến Cố Vượt Qua này, một biến cố đã làm rung chuyển tận gốc rễ nền tảng đức tin của Nhóm 12 bấy giờ, nếu con người không chịu bỏ mình và nhờ đó mới có thể tin tưởng, nghĩa là mới có thể cùng Người Vượt Qua: “Tôi nói thật cho quí vị biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đã sai Tôi thì có sự sống trường sinh. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết mà vào sự sống” (Jn 5:24). Ngay trong biến cố biến hình, ba môn đệ đã chẳng nghe thấy có tiếng phán ra từ đám mây hay sao: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người. Hãy nghe lời Người” (Mt 17:5). Như thế, chính Cha trên trời cũng làm chứng về Con mình, để con người có thể tin tưởng Đấng Ngài sai.
Đó là lý do, hai tuần đầu của Mùa Chay, Giáo Hội đã khôn ngoan đặt bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trước biến cố Chúa Giêsu biến hình, với mục đích để củng cố đức tin Kitô hữu, tức để Kitô hữu thấy được ý nghĩa và mục đích sâu xa của bỏ mình và chịu đựng khổ đau. Ngay trong biến cố biến hình của mình, Chúa Giêsu cũng có ý hướng muốn củng cố đức tin của ba người môn đệ thân tín nhất của Người nữa. Bởi thế, cuối trình thuật về biến cố biến hình này, Người mới hướng các vị về biến cố Phục Sinh của Người: “Đừng nói với bất cứ ai những gì các con thấy cho đến khi Con Người từ trong cõi chết sống lại” (Mt 17:9). Về phía con người, cho dù đức tin của Nhóm 12, nhất là của cả 3 vị thân tín nhất đã được tận mắt chứng kiến vinh hiển của Con Thiên Chúa qua biến cố biến hình, có bị choáng váng tối tăm đến chối bỏ “Sự Thật”, nhưng, nhờ những gì Thày đã làm trước hay báo trước về Người (xem Jn 13:19), cuối cùng họ cũng đã tin vào Người: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 20:28).
Như thế, nếu chứng từ là yếu tố thuộc về Mùa Phục Sinh thế nào, thì đức tin là yếu tố làm nên Mùa Chay như vậy. Đó là lý do Phụng Vụ Lời Chúa theo Phúc Âm Thánh Gioan cho ba tuần giữa (III, IV, V) của Chu Kỳ Phụng Niên Năm A nói chung, cũng như của Chúa Nhật Thứ III Mùa Chay hôm nay nói riêng, mới trình thuật về việc Chúa Giêsu tỏ mình ra để làm cho con người tin vào Người mà được sự sống đời đời. Bởi nguyên tội, con người đều là những người mù từ lúc mới sinh, không thể nào nhận biết “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), nếu không được Ngài mở mắt tâm linh ra cho. Thật ra, Thiên Chúa luôn ở bên con người và tỏ mình cho con người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô trong bài Phúc Âm tuần trước, hay của người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm tuần này: “Ta chính là Đấng đang nói với chị/anh” (Jn 4:26; 9:37), với chúng ta.
Tuy nhiên, muốn nhận ra Người, như hai nhân vật trong hai bài Phúc Âm tuần trước và tuần này, chúng ta phải chân thành và khao khát tìm kiếm chân lý. Có thế, tới giây phút hội ngộ thần linh, giây phút cảm nghiệm thần linh, chúng ta mới nghe được tiếng của Người, nhận ra những gì Người đã nói với chúng ta, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô, hay những gì Người đã làm cho chúng ta, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Và từ cuộc hội ngộ thần linh này, chúng ta mới có thể loan báo về Người, như trường hợp của người đàn bà Samaritanô, hay mới có thể phục xuống thờ lạy Người, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Riêng trong trường hợp của Người mù từ lúc mới sinh, ngay trước khi gặp được Đấng phục quang cho mình, anh đã làm chứng về Người rồi, chứ không cần đợi đến sau khi nhận ra Người, như trường hợp của chị phụ nữ Samaritanô. Một con người sống theo lương tâm chân chính có thể làm chứng cho chân lý là thế: “Ai tìm kiếm chân lý sẽ nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37) là thế; “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27) là như vậy. Nếu trong Biến Cố Vượt Qua, Chúa Giêsu muốn “làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) Người là Đấng Thiên Sai và Cha là Đấng đã sai Người, thì người mù từ lúc mới sinh hôm nay, qua những minh chứng hùng hồn theo lý lẽ tự nhiên cùng với cảm nghiệm thần linh của anh trước nhóm Pharisiêu thông luật, quả thực đã tin tưởng đúng như những gì Chúa Giêsu muốn đến để làm chứng: “Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến thì không thể nào làm được một việc như vậy” (Jn 9:33).
Vấn đề thực hành sống đạo: Mùa Chay là thời điểm hướng về Biến Cố Vượt Qua và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, bằng những việc củng cố Đức Tin, những tác động làm cho Kitô hữu nhờ đó có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục Sinh hơn. Bởi vậy, Mùa Chay sẽ chẳng có nghĩa gì, thậm chí những việc hy sinh hãm mình, chay tịnh phạt xác, ăn năn thống hối cũng chẳng có nghĩa lý gì, nếu con người không nhờ đó mà tin tưởng hơn, gắn bó với Chúa Kitô hơn, theo sát Người hơn, cảm thấy vinh dự vì thập giá của Người hơn. Đúng thế, chỉ có đức tin trưởng thành và mãnh liệt như thế, con người môn đệ Chúa Kitô mới thực sự là những chứng nhân sống động của Người và cho Người đến tận cùng trái đất mà thôi (xem Lk 24:48).
80. Chúa Giêsu mở mắt cho người mù lòa
(Suy niệm của Lm. Augustine SJ.)
Để cảm thông được cảnh khổ của những người mù, hẵy thử hình dung xem bặn sẽ xử sự ra sao khi ánh đèn trong khu phố bạn vụt tắt.
Một buổi tối mùa đông, vào giờ tan sở, thủ đô Pari hoa lệ bị dìm vào bóng đêm do cúp điện đột xuất. Mọi người đều hốt hoảng vì không quen với bóng tối, nhất là những ai bị kẹt trong thang máy, hoặc trong các xe điện ngầm. Mới đến định cư ở Pari từ hai tháng nay, Maily cũng bị kẹt trên hè phố tối tăm của một thành phố mà cô chưa thông tỏ đường đi lối về. Cô cảm thấy lo âu, bất lực, sợ hãi. Bỗng nhiên cô vấp phải một người đi bộ phía trước vì không nhận ra người đó. Sau khi ngỏ lời xin lỗi, cô biết được chàng thanh niên đó sống gần khu phố của cô, nhưng hai người chưa từng có dịp làm quen. Cầm lấy bàn tay ấm áp của anh, cô yên tâm vì anh cứ rẽ đám đông mà đi và đưa cô về đến con ngõ trước nhà. Chính khi chia tay, Maily mới biết tại sao anh ta thuộc đường như vậy: Đó là chàng trai ấy bị mù: vì luôn sống trong tối tăm, anh ta đã quen “nhìn” sự vật hầu như nhờ “giác quan thứ sáu”. Thế mới hay rằng lắm khi người mù lại tỏ ra hơn kẻ sáng mắt.
SỰ MÙ TỐI CỦA TÂM HỒN
Phúc Âm hôm nay không chỉ thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa anh mù về mặt thể lý; nhưng còn cho thấy việc Chúa mở mắt Đức tin để anh ta TIN VÀO NGÀI. Anh mù được chữa lành vì anh đã tin và làm theo lời Chúa dạy là đi rửa mắt ở hồ Silôác. Điều trái ngược trong câu chuyện này là anh mù, tuy bị mù loà, nhưng lại nhìn thấy những điều mà các người Pharisêu không thấy được: anh đă nhận ra lòng nhân lành của Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa, khác hẳn thái độ của người Pharisêu mù loà, vì họ từ chối nhìn nhận phép lạ của Chúa và khước từ tin vào Người.
Để có thể nhìn rõ mọi sự, có được một đôi mắt tinh anh thôi chưa đủ. Bởi lẽ ngoài bệnh mù loà của thân xác còn có rất nhiều dạng mù loà khác, không cho phép chúng ta tiếp nhận ánh sáng của Chúa. Đó là lòng ích kỷ ngăn cản ta nhìn thấy nhu cầu của những anh em nghèo khổ; đó là sự kiêu căng không cho phép ta nhận ra những lỗi phạm của mình; đó là những thành kiến khiến ta bị bưng bít đối với sự thật; đó là lòng ham muốn vật chất khiến linh hồn ta không còn thấy được những giá trị thiêng liêng.
Bằng đôi mắt của tâm trí và của linh hồn, ta có thể nhìn ra những điều mà đôi mắt xác thịt không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, chỉ với đôi mắt đức tin, ta mới có thể nhìn thấy được những thực tại về Thiên Chúa và về ơn cứu độ. Phúc Âm hôm nay chính yếu là chuyện kể về đức tin. Thật vậy, cao điểm của câu chuyện này là ở việc anh mù tuyên xưng niềm tin của anh vào Đức Kitô khi nói: “Lạy Ngài tôi tin!” Nhờ tin, anh đã được chữa lành cả về thể xác lẫn tâm hồn.
CHÚA GIÊSU MỞ MẮT CHO NHỮNG NGƯỜI MÙ LÒA
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ chữa tật mù loà về thể lý, mà còn chữa tình trạng mù loà tâm hồn. Loạt người thứ hai này gồm những kẻ lầm lạc, thiếu khả năng nhìn thấy đường về nhà Cha. Người đã mở mắt cho ông Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi của ông (Lc 19,1-10); Người đã mở mắt cho một cô gái lỡ đường để cô dứt bỏ với quá khứ không mấy tốt đẹp của mình (Lc 7,36-50); Người cũng đã mở mắt cho người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Người trên đồi Gôn-gô-tha, để anh ta nhận ra ánh sáng của lòng Chúa thương xót (Lc 23,32-43). Chính nhờ Chúa Giêsu, những người này đã tìm lại được ánh sáng dẫn đưa tới Nước Thiên Chúa. Ngược lại, những người Pharisêu vì cố chấp, cứng tin, nên đã bị bỏ lại trong bóng tối. Họ đã không tin nhận Chúa Giêsu, cũng không đón nhận ơn cải hoá được khơi dậy nơi lòng họ (Ga 9,41)
Cũng vậy, bằng cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đều vương phải những chứng mù loà bẩm sinh. Đó là những thói xấu và tội lỗi. Vậy chúng ta cần được Chúa Giêsu soi sáng, cứu chữa đôi mắt tâm hồn của chúng ta, từng bị mù loà do từ khước ánh sáng của Người. Chúa Giêsu luôn đến với mọi người đau yếu, tật bệnh, tội lỗi để kêu mời và giúp họ hoán cải và được chữa lành. Chúng ta hãy can đảm đến với Chúa, để Người chạm đến chỗ kín ẩn, thâm sâu nhất của lòng ta; đồng thời hãy vâng lời Người, chấp nhận đi gột rửa tâm hồn ta ở hồ Silôác thiêng liêng là Lời Chúa, trút lại đó cái mù loà của tâm hồn ta, để mặc lấy ánh sáng của Lời Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một người kia sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào”. Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi”. Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy”. Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”.
Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa”.
Thấy anh tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng:”Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi”. Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.
Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở Ấn Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hui buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pha-ri-sêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pha-ri-sêu. Đôi mắt thân xác của người mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pha-ri-sêu có đôi mắt thân xác không mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pha-ri-sêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.
Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù loà thì y khoa có thể dùng một loại ra-đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.
Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pha-ri-sêu là những người mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù”. Chúng ta thường nói về những người cố chấp: “Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe”, thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: “Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem”.
Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không?
Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh ta mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Ánh sáng là món quà quí giá nhất cho con người, nhất là cho người mù không nhìn thấy. Người ta thường nói: “Chính bóng tối đã kêu gọi (cần có) ánh sáng”. Người mù, một khi được sáng mắt, sẽ thấy ánh sáng quí giá như thế nào. Chỉ khi nào người ta mù, không có ánh sáng, người ta mới hiểu được ánh sáng cần cho sự sống. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa cho một anh mù từ khi mới sinh. Chính Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”. Chính Chúa và Lời Chúa là ánh sáng, là của ăn tinh thần cho con người đang sống trong mù tối, vì không nhận ra Thiên Chúa. Đây là chủ đề mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Trước hết, có một vài câu cần tìm hiểu:
“Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến anh này sinh ra bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Quan niệm xưa cho rằng người bị mù, hay bệnh tật chính là do tội lỗi của mình hay của người thân mình gây ra. Chúa Giêsu trong câu chuyện này đánh đổ quan niệm đó, Người nói: “không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta, nhưng để cho mọi người thấy được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa.”
Thầy là ánh sáng cho thế gian: lời tự xưng của Chúa Giêsu, cũng là sự thật. Chúa chính là ánh sáng, và ai đến với Người sẽ có được ánh sáng như câu chuyện anh mù được chữa lành trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, thoa vào mắt người mù: người xưa tin nước miếng có sức chữa bệnh. Có lẽ Chúa muốn dùng cử chỉ tượng trưng để anh mù tin.
Có 3 thái độ cản trở con người đến để được Chúa Giêsu chữa lành:
- của người Do Thái: mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… Họ cho người bị bệnh mù bẩm sinh, là do tội của mình. Thật là đáng sợ khi nghĩ Thiên Chúa đã để anh mù bị bệnh, để trừng phạt anh ta. Hiểu như thế về Thiên Chúa là hoàn toàn sai lạc. Chúa nói: có người cha nào, con xin bánh lại cho con rắn hay con bò cạp? Cha trần gian mà còn đối xử với con cái mình như thế, huống chi Cha trên trời.
- là thái độ của những người lân cận, cha mẹ của anh mù: lúc đầu họ ngạc nhiên vì anh mù được sáng mắt, sau cùng là sợ hãi, vì sợ bị vạ lây, đến nỗi tỏ ra hèn nhát và dửng dưng.
- cách riêng là thái độ của nhóm Pharisêu, tư tế: họ ngoan cố phủ nhận Chúa Giêsu là ánh sáng là sự sống, dù họ thấy cả phép lạ Chúa cho người chết sống lại…Họ không đủ khiêm tốn để nhìn nhận sự thật. Họ là những con người đui mù thiêng liêng, họ không cần và cũng không muốn được Chúa chữa lành…
b/. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tiến trình Chúa Giêsu chữa lành tâm hồn cho anh mù: Trong câu chuyện chữa lành hôm nay, ta không thấy người mù cầu xin Chúa chữa bệnh cho mình. Cho dù nếu có mà Phúc Âm không ghi, ta cũng thấy rõ thái độ của Chúa Giêsu, muốn tự mình đi đến cứu chữa cho anh ta: Người lấy nước miếng trộn với đất xức mắt anh ta, rồi bảo anh đi đến hồ Siloê mà rửa. Anh đi đến đó rửa, và được khỏi. Sau khi anh được chữa bệnh phần xác, những người chứng kiến bị “sốc” và cứng lòng tin. Họ chất vấn anh mù. Anh công khai nói lên sự thật; chính thái độ này đã dẫn anh đi xa hơn trong niềm tin của mình. Sau đó, những người Pharisêu chất vấn nữa, nhất là khi họ biết anh được chữa lành trong ngày sabbat. Họ còn cho mời cả cha mẹ anh đến, cốt để tìm ra lý lẽ chối bỏ việc Chúa Giêsu chữa lành. Sau đó, Chúa hay biết anh bị “tấn công”, Người đến gặp anh ta, tỏ mình cho anh ta biết Người là ai. Chính Chúa mời anh đi đến niềm tin. Anh mù đã không cưỡng lại, nên đã quì xuống thưa: “lạy Chúa, con tin.” Anh đã được chữa lành đôi mắt tâm hồn…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua câu chuyện anh mù được chữa sáng mắt, ta là hạng người nào trong những hạng người trên? Có phải ta ở trong hạng của anh mù, và ta thấy mình cần được Chúa chữa cho lành, để ta được sáng mắt tâm hồn không?
83. Hai cách nhìn và hai lối sống
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác… vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu trọng Lư); hay đối với những nhà nhân tướng học thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp[…]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được…”
Vì thế, con mắt được gọi là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.
Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.
- Hai cách nhìn và hai lối sống
Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Do thái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”(Is 55, 8).
Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (Ga 9,2). Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có “chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!
Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện…
Trước mặt những người Pharisêu và người Do thái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi… (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Do thái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: “Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát” (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.
- Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:
Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?
Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?
Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật…;
Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Do thái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ…
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:
Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi cướp” thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm… thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích… những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.v.v…
Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì “vẽ đường cho voi chạy”; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1, 8).
Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!
Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: “…giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.
Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.
Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!
Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô… và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo…! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho họ…”. Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.
Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.
84. Đức Giêsu: Ánh sáng cứu độ trần gian
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng hôm nay cho thấy: Người chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng đức tin ấy. Còn những kẻ tự mãn mình sáng mắt như các người đàu mục dân Do thái lại bị mù tối về đức tin vào Đức Giê-su.
CHÚ THÍCH:
– C 1-5: + Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù: Cựu Ước thường cho rằng: tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của chính tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Ở đây Đức Giê-su cũng đồng quan điểm ấy khi nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14). + Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh: Đức Giê-su coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Người có sứ mạng đến để giải thoát họ (x. Lc 13,16).
– C 6-9: + Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù: Về phạm vi khoa học thì chất bùn này sẽ làm cho bệnh nhân bị mù. Nhưng về mặt biểu tượng thì theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Khi làm như vậy là Người muốn thử thách đức tin của người mù và của những kẻ chứng kiến. + Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa: Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh xem thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng đức tin mặc khải cho những ai đang ở trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.
– C 35-41: +Anh có tin vào Con Người không?: Sau khi mở mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin vào Người giống như Người đã làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: Xét xử không phải lên án (x. Ga 3,17), nhưng là chiếu soi ánh sáng để cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù: Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25).
CÂU HỎI:
- Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không?
- Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào mắt người mù để chữa bệnh có ý nghĩa biểu tượng thế nào?
- Tại sao Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến rửa mắt tại hồ Si-lô-ác?
- Tại sao Đức Giê-su lại nói: “Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù”?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9,39).
- CÂU CHUYỆN:
1) Xin được sáng mắt nếu có ích cho phần rỗi đời đời:
Có một anh chàng nọ bị mù từ khi mới sinh. Anh rất có lòng đạo nên năng cầu nguyện tự phát và thường kết thúc lời nguyên bằng kết thúc lời cầu của mình bằng câu: ”Xin Chúa ban cho con được sáng mắt « Nếu điều đó hữu ích cho phần rỗi của con”. Một hôm, người ta dẫn ông mù đến trước mộ của thánh Tô-ma Can-tô-be-ry để xin Người làm phép lạ chữa lành cho cặp mắt của ông. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận và mắt của ông đã mở ra được để nhìn xem cảnh vật chung quanh và ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Khi niềm vui khỏi bệnh trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc quen thuộc: ”Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”.
Lập tức ông liền quay trở lại viếng mộ thánh nhân để xin được mù trở lại « Nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn con ». Sau lời cầu này, mắt ông đã bị mù như trước. Tuy nhiên từ ngày đó ông mù đã bằng lòng với sống an vui và không bao giờ còn muốn được sáng mắt nữa.
2) Đâu là lúc trời sắp sáng?
Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: “Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến?” Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu… Cuối cùng đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy như sau: “Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta”.
- SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được sáng mắt:
Khi đi ngang qua, Đức Giê-su đã nhìn thấy một ngừời mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Các môn đệ nêu thắc mắc theo quan điểm của người Do thái đương thời về tội lỗi như sau: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giê-su không trực tiếp trả lời, mà Người chỉ nói:”Chuyện đó xẩy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.
Tiếp đến Tin Mừng thuật lại việc chữa bệnh mù của Đức Giê-su bằng nghĩa là ững cử chỉ mang tính biểu tượng như sau: ”Đức Giêsu nghĩa là ỏ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đi đến suối Si-lo-ê mà rửa (Si-lo-ê có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được” (Ga 9,6-7).
2) Cuộc điều tra của các đầu mục Do thái:
Nghĩa là ững người Biệt phái không chấp nghĩa là ận Đức Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người bệnh mù nên họ đã mở một cuộc điều tra rộng rãi: Trước hết họ mời người bị mù đã được Đức Giê-su chữa lành đến tra vấn về nghĩa là ững gì đã xảy ra cho anh, rồi cả nghĩa là ững người láng giềng và cha mẹ của người mù cùng được mời đến để điều tra thực hư. Trước phép lạ hiển nhiên không thể phủ nghĩa là ận được, các người Biệt phái đã tìm cách gây khó dễ cho người mù. Tuy nhiên anh mù này do đã có một đức tin kiên cường vào Đức Giê-su, nên anh không dễ dàng khuất phục trước cường quyền, anh đã thuật lại rành rẽ các việc Đức Gie-su đã làm để chữa bệnh cho anh và anh còn nói lên suy tư của anh về nguồn gốc thần linh của Người như sau: ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,30-33).
3) Về tiến trình anh mù được sáng lòng để từng bước tin vào Đức Giê-su:
Trong suốt cuộc gặp gỡ đối thoại với Đức Giê-su, anh mù đã được Người soi sáng để từng bước khám phá sự thật về vai trò cứu độ của Người: Từ “một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ!” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Sau cùng khi đã được Đức Giê-su mặc khải mình là Con Người (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin” và anh thể hiện lòng tin bằng việc khiêm hạ sấp mình thờ lạy Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn đi tìm Chúa mới được Người cho gặp và mới nghĩa là ận được ơn Chúa chiếu soi ánh sáng để đạt được đức tin. Trái lại, nghĩa là ững ai tự kiêu lại tưởng mình sáng mắt, có sự hiểu biết sự vật bề ngoài lại trở nên mù tối về đức tin, như Người đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (39).
4) Sám hối canh tân trong Mùa Chay thánh:
– Nghĩa là ững nguyên nhân của bệnh mù tinh thần: Thói ích kỷ làm chúng ta ra mù tối không nhìn thấy nhu cầu của tha nhân bên cạnh mà chỉ tìm kiếm thỏa mẫn các quyền lợi của mình như người giàu trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khổ. Thói vô cảm làm chúng ta bị mù tình thương nên dễ làm ngơ trước nghĩa là ững anh chị em đang cần được trợ giúp; Thói tự kiêu làm chúng ta bị mù không nhìn thấy thói hư bản thân mà chỉ thấy nghĩa là ững điều xấu nơi tha nhân mình không thích. Mỗi người chúng ta đều đeo hai cái túi: Túi trước mặt là các ưu điểm và thành tích của mình, còn túi sau lưng đựng những thói hư tật xấu. Thường chúng ta chỉ thấy ưu điểm của mình và khuyết điểm của tha nhân. Để biết mình ra sao, chúng ta cần phải biết hồi tâm sám hối. Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để nghĩa là ận biết thói hư của mình và quyết tâm tu sửa nên hoàn thiện hơn.
– Cần xét đoán dưới ánh sáng của Lời Chúa: Ngày xưa Đức Chúa đã hướng dẫn ngôn sứ Sa-mu-en chọn một trong các con của Giét-sê để xức dầu tấn phong làm vua như sau: “Đừng xét theo hình dáng và voc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (Sm 16,7). Hãy năng tham dự các buổi tĩnh tâm, hiệp sống Tin Mừng và chọn đọc nghĩa là ững câu Lời Chúa phù hợp tinh thần sám hối trong các giờ kinh tối gia đình hằng ngày.
– Cần tập hành xử khiêm tốn: Trong bất cứ việc gì, cần ý thức mình chỉ thấy chỉ biết một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng nổi lên trên mặt biển. Còn những điều chưa biết thì to lớn và chìm sâu bên dưới mặt nước. Do đó, thay vì tranh cãi nhau như năm anh mù đi xem voi cãi nhau về nghĩa là ững điều mình không biết rõ, chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe tha nhân. Hãy chấp nhận sự giới hạn của mình, chấp nghĩa là ận nghĩa là ững điều mình biết là chưa đầy đủ, chưa phải là chân lý để tiếp thu thêm kiến thức của tha nhân; Cần ý thức các ưu điểm của mình cũng chỉ có giới hạn như người xưa đã dạy: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người giỏi chắc chắn sẽ có người khác giỏi hơn đánh bại). Do đó chúng ta cần hành xử khiêm tốn để luôn tôn trọng tha nhân, biết lắng nghe ý kiến của người khác và sẵn sàng tiếp thu các góp ý để nghĩa là ận ra con người thật của mình, vì “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!” và đó là phương thế giúp thành công trong mọi việc: “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng”. Cần biết lắng nghe tha nhân: Nghe không nghĩa là ững lời khen mà cả nghĩa là ững lời phê bình chê trách, và tránh xa nghĩa là ững lời nịnh hót như người xưa dạy: “Ai khen ta mà khen phải thì là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Còn ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy”.
- THẢO LUẬN:
Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để có thể nhận biết về con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu: Xin đừng để sự ác cảm và thành kiến che mắt, làm cho chúng con không nhìn thấy những ưu điểm của người khác. Xin cho chúng con luôn khiêm tốn nhận ra khuyết điểm lầm lỗi của mình để sửa sai. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, nơi bản thân con và nhất là nơi anh em con để sẵn sàng yêu mến và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hầu xứng đáng nên môn đệ thực sự của Người.
– Lạy Chúa: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang bịt tai nhắm mắt vì sự cứng lòng tin như nghĩa là ững người Pha-ri-sêu khi xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên giống Chúa hơn.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
85. Hãy tin để được sáng – Huệ Minh
Tin mừng Ga 9: 1-41: Tin Mừng kể lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh, và kế tiếp là cuộc tranh luận giữa những người Pharisiêu và người mù…
Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
Tin Mừng kể lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh, và kế tiếp là cuộc tranh luận giữa những người Pharisiêu và người mù từ lúc mới sinh nhìn thấy được.
Bởi nguyên tội, mỗi con người chúng ta cũng đều là những người mù từ lúc mới sinh ngụp lặn trong bóng đêm tội lỗi và sự chết, không thể nào nhận biết Thiên Chúa là Ánh Sáng, nếu không được Ngài mở mắt tâm linh cho. Qua bí tích Rửa tội, mỗi Kitô hữu cũng đều được trao ban ánh sáng của Tin Mừng Phục Sinh, ánh sáng của sự sống vĩnh cửu, và trở nên con cái của Thiên Chúa, con cái của sự sáng. Ấy thế nhưng, ánh sáng đó nơi ta sẽ lặng tắt nếu không có sự canh tân đời sống đức tin.
Tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn.
Qua việc chữa lành này, thánh Gioan muốn làm nổi bật đức tin của người mù. Bởi vì, mặc dù người mù không thể nhìn thấy gì với đôi mắt thể lý, nhưng với đôi mắt đức tin anh ta đã “nhìn thấy” Đức Giêsu Kitô. Trong khi đó, những người Pharisiêu tưởng là mình sáng mắt, nhưng lại là những kẻ mù loà.
Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.
Chúa Giêsu đã ban ánh sáng cho người mù bẩm sinh. Đó là một thứ ánh sáng kép: ánh sáng của đôi mắt thoát khỏi cảnh mù loà, ánh sáng của niềm tin đưa tâm hồn thoát ra khỏi cảnh tù đày của tội lỗi. Như vậy, nơi người mù này, một sự biến đổi đã thực sự diễn ra. Đôi mắt mù trở nên sáng. Tâm hồn u tối trở nên sáng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng thật là Ánh Sáng cho trần gian (Ga 1,9). Hoán cải tâm hồn là điều Giáo Hội vẫn đang mời gọi chúng ta thực hiện, nhất là khi đại lễ Phục Sinh đang tới gần.
Sau khi người mù được Chúa Giêsu làm cho nhìn thấy được, những người Pharisêu đã rất đỗi ngạc nhiên tranh luận: “Làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”. Họ đã không nhận ra được rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đang hiện diện. Người mù đã nhìn thấy được là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Vì tin nên người mù “nhìn thấy” và nhìn thấy được. Trong khi đó, những người Pharisêu tuởng là mình nhìn thấy nhưng lại trở nên mù vì không tin. Chúng ta không kết án những người Pharisêu.
Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.
Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi.
Tốt hơn, xin hãy nhìn vào đời sống chúng ta và tâm hồn chúng ta, để xem đâu thực sự là niềm tin của chúng ta, là ánh sáng của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta. Phải chăng từng ngày qua đi, cuộc đời chúng ta cũng đang trở nên mù tối hơn? Khi xưa Đức Giêsu đã mang lại ánh sáng cho người mù, ngày nay Ngài cũng vẫn đang thực hiện điều đó cho ta, bởi lẽ Ngài vẫn luôn làm việc (Ga 5,17). Hãy cất đi những nghi ngại của cõi lòng khô cứng cùng với những nhịp điệu buồn tẻ của đời sống để thế chỗ cho ánh sáng dịu êm của niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh.
Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi.
Mùa Chay chính là cơ hội cho ta khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.
86. Sáng mắt sáng lòng – Như Hạ
Ánh sáng và bóng tối vẫn giao tranh ác liệt. Bóng tối không ngừng gieo rắc tai họa khắp nơi. Nhưng ánh sáng đã thắng lớn khi Đức Giêsu ra tay “để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa” (Ga 9,3) nơi “một người mù từ thuở mới sinh.” (Ga 9,1)
Thui ra mới biết béo gầy
Mặt trận chia làm hai phe rõ rệt. Một bên là “môn đệ của ông Môsê” (Ga 9,28). Bên kia là “môn đệ của ông ấy” (Ga 9,28) tức là Đức Giêsu. “Các môn đệ của ông Môsê” lớn tiếng kết án Đức Giêsu “là người tội lỗi.” (Ga 9,24) Cả anh mù cũng bị lên án: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu.” (Ga 9,34) Tất cả “không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát.” (Ga 9,16) Đó là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá con người. Cả một màn đêm bao phủ tinh thần nệ luật. Bóng tối đã làm tê liệt khả năng đối thoại và nhìn nhận sự thật. Đúng như Chúa nói: “đêm đến, không ai có thẻ làm việc được.” (Ga 9,4).
Không chỉ lên án Đức Giêsu, họ còn “đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” (Ga 9,22) Anh mù bẩm sinh đã trở thành nạn nhân của lối nhìn khắt khe đó (x. Ga 9,34) Mặc dù biết rõ sẽ bị lên án, anh vẫn can đảm nói lên sự thật: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi ; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.” (Ga 9,31) Lập luận đanh thép đó đương nhiên dẫn đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến.” (Ga 9,33) Ý Thiên Chúa là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá và phân hạng con người.
Cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về ánh sáng. Quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đã đưa anh mù vào vùng ánh sáng. Phép lạ lớn lao đó không thể không tác động đến toàn thể con người và cuộc đời anh. Khi còn chìm ngập trong đêm tối, anh như mất tất cả. Sau khi “đến hồ Silôac mà rửa”, anh đã “nhìn thấy được.” (Ga 9,6-7) Ánh sáng đã thay đổi toàn diện con người anh. Anh rất bén nhậy trước nguồn ánh sáng đang ùa tràn vào con mắt và tâm hồn. Anh không thể không nói lên sự thật. Trước mặt những người Pharisêu anh dõng dạc làm chứng. Sau khi đã được mạc khải rõ về Con Người, anh còn tuyên xưng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người,” (Ga 9,38) với tất cả niềm tri ân cảm tạ hồng ân giải thoát anh khỏi vùng tối tăm. “Người mù đã được sáng mắt, giờ đây độ sáng tinh thần đang tăng lên nhờ nhận ra Đức Giêsu.” (Faley 1994,258) Anh đã sáng mắt sáng lòng.
Người mù bẩm sinh đã đón nhận được ánh sáng và nguồn ân sủng đó, nên đã thành một chứng nhân phi thường cho Đức Giêsu trước quyền bính. Tại sao anh có một sức mạnh lớn lao đó? Còn ai cảm nghiệm được bề dầy của đêm tối bằng người mù bẩm sinh? Phá sập bức tường tăm tối đó, Đức Giêsu đã chinh phục được trọn vẹn tâm hồn anh mù từ bẩm sinh. Mặc dù không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu (x. Ga 9,12), nhưng anh mù vẫn mạnh mẽ tuyên xưng “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9,17) và “tin vào Con Người,” (Ga 9,35) Đấng từng hứa: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12,32,34)
Phép lạ đã trở thành dấu chỉ rõ nét nhất về nguồn ân sủng đó. “Các môn đệ của ông Môsê” có dư phương tiện để tìm hiểu sự thật. Thế nhưng, dù nắm đầy đủ bằng chứng, họ vẫn không nhích được một bước. Không hi vọng có một chút thay đổi nào nơi những não trạng duy luật đó. Họ mất hết bén nhậy trước những thực tại tươi rói của Tin Mừng. Những đầu óc chai cứng đó không thể mở ra đón nhận bất cứ chân lý mới mẻ nào nữa. Đó là những người chỉ đọc một sách. Trái lại, người mù bẩm sinh chưa hề đọc cuốn sách nào lại dễ mở lòng đón nhận chân lý là Đức Giêsu. Trước luận điệu những người Pharisêu khăng khăng buộc tội Đức Giêsu, anh cương quyết bênh vực: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25) Nói thế có khác gì thánh Phaolô, đấng từng quả quyết: “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.” (1 Cr 2,2) Một chứng từ quá đủ để cho anh tìm ra sự thật giải thoát. Trái lại, vì không tìm ra sự thật đó, nên các người Pharisêu vẫn cứ luẩn quẩn tìm cách kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Càng tìm cách củng cố lập luận, càng bị sa lầy. Sau bốn lần hội kiến với các nhân chứng, họ vẫn không tìm ra sự thật. Đúng hơn, họ đã cố tình bẻ cong và cô lập sự thật. Không ai điếc bằng người không muốn nghe. Họ bắt buộc phải nghe một sự thật từ miệng Đức Giêsu: ‘Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.'”(Ga 9,39) Bởi đấy, nguy cơ lớn nhất đã đến, khi Đức Giêsu phán quyết: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó.” (Ga 9,41) Cuối cùng mới rõ trắng đen.
Ánh sáng trần gian
Sau khi bị lên án như thế, chắc chắn người Pharisêu vẫn chưa sáng mắt sáng lòng để nhận ra Đức Giêsu “là ánh sáng thế gian.” (Ga 9,5) Họ đồng lõa với bóng tối. Ngày nay, bóng tối đó vẫn phủ ngập trân gian và lăm le triệt hạ ánh sáng. Thế nhưng, “bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1,5) Chẳng hạn, bóng tối tràn ngập xã hội Ấn độ khi một nhóm Ấn độ giáo cực đoan tấn công các tu sĩ Công giáo và thí điểm truyền giáo tại Sanjeli, vào ngày 2/3/2002 vừa qua (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002). Giáo Hội vẫn không tìm cách trả thù. Nhưng một đàng các người Kitô hữu Ấn độ kêu gọi những người thiện chí đoàn kết để cô lập nhóm quá khích cuồng tín và tái lập hòa bình. Đàng khác, Giáo Hội vẫn tin tưởng rằng “việc chung sống nhân danh tôn giáo là con đường dẫn tới hòa bình, chứ không phải là dịp tạo ra chiến tranh. Thập điều Assisi hiện nay gây ấn tượng mạnh vì hòa bình trở thành một cam kết chung, chứ không phải chỉ là lời kêu gọi vượt qua những đối đầu kiểu chiến tranh.” (Riccardi: ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Hơn lúc nào, nhân loại cần đến “ánh sáng trần gian” để nhìn ra sự thật và chung sống hòa bình. ĐGH Gioan Phaolô II quả quyết Giáo Hội Công giáo “sẽ tiếp tục cam kết thập điều Assisi chân chính, sự tha thứ cho nhau và đồng tâm nhất trí với nhau sẽ hướng dẫn nhịp sống nhân loại trong đệ tam thiên niên kỷ này.” (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Người còn cho biết “tinh thần và sự cam kết ở Assisi sẽ hướng dẫn mọi người thiện chí đi tìm chân lý, công lý, tự do, tình yêu để mỗi người có thể hưởng những quyền lợi bất khả nhượng và mỗi quốc gia được hòa bình.” (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Điều 3 trong thập điều Assisi nói rõ: “Chúng tôi cam kết cổ võ một nền văn hóa đối thoại để sự hiểu biết và tin tưởng có thể phát triển giữa cá nhân và các dân tộc như những điều kiện để đạt đến một nền hòa bình đích thực.” (CWNews 4/0/2002) Quả thực, khi con người chấp nhận đối thoại, vấn đề nào cũng có thể giải quyết được. Tôn trọng những khác biệt của nhau là điều kiện cần cho cuộc chung sống. Bởi thế, điều 5 trong thập điều Assisi quả quyết: “Chúng tôi cam kết thành tâm và kiên nhẫn dấn thân vào cuộc đối thoại, bất chấp những khác biệt, chúng tôi nhận thức rằng đối diện với những khác biệt đó có thể là một cơ hội lớn để hiểu biết nhau hơn.” (CWNews 4/0/2002) Nhưng nếu không có “ánh sáng trần gian”, chúng ta không thể thấy những nét kỳ diệu trong các tôn giáo và văn hóa. Bởi thế, Đức Giêsu mới bảo đảm cho muôn dân một cuộc sống phong phú và một nền hòa bình lâu dài.