CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình. Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
“Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi.” Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói: “Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa.”
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?
Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.
2.Học hỏi Phúc âm: CN 5 Mùa Chay – Ga 8,1-11
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
CÂU HỎI
- Cho biết bối cảnh xảy ra câu chuyện ở bài Phúc âm này (ở đâu, khi nào). So sánh Ga 8,1-2 với Lc 21,37-38; 22,39. Bạn có nhận xét gì không?
- Đọc Ga 8,1-6a. Đâu là mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi họ đưa chị này đến với Đức Giêsu? Đâu là cái bẫy họ đang giăng ra cho Ngài?
- Đọc Lê-vi 20,10; Đệ nhị luật 22,22-24. Bạn biết gì về luật này?
- Đọc Ga 8,6. Đâu là cử chỉ và thái độ của Đức Giêsu trước câu hỏi của họ: “Thầy nghĩ sao?”
- Đọc Ga 8,7-8. Đức Giêsu có trả lời trực tiếp câu hỏi trên của họ không? Ngài đã làm gì sau đó?
- Đức Giêsu đã cúi xuống, viết trên đất, và ngẩng lên mấy lần? Ngài đã tạo ra không khí tĩnh lặng bằng cách nào?
- Đọc Ga 8, 10-11. Bạn nghĩ gì về cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ?
- Qua cách hành xử của Đức Giêsu, bạn thấy Ngài có coi nhẹ tội ngoại tình không? Bạn thích cách hành xử này ở những điểm nào?
- Câu chuyện đã được giải quyết cách êm đẹp không ngờ. Bạn có thấy như vậy không?
GỢI Ý SUY NIỆM: Theo bạn, khuôn mặt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm này có vừa nhân từ, vừa oai nghi không? Bạn rút được bài học nào từ đoạn Tin Mừng này?
PHẦN TRẢ LỜI
- Cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ với Đức Giêsu diễn ra vào lúc tảng sáng, ở Đền Thờ Giêrusalem (Ga 8,2). Đọc Lc 21,37-38; 22,39 ta thấy Đức Giêsu có thói quen đến núi Ô-liu (Cây Dầu) để cầu nguyện và ngủ lại đó vào ban đêm, rồi khi trời sáng, Ngài lại vào Đền Thờ để giảng dạy cho dân chúng. Gioan 8,1-2 cũng cho thấy điều đó.
- Mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi đưa người phụ nữ đến với Đức Giêsu là “để thử Người, nhằm có cớ tố cáo Người” (Ga 8,6). Họ giả bộ hỏi ý kiến của Đức Giêsu về chuyện có ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình hay không (Ga 8,5). Đây là một cái bẫy. Nếu Đức Giêsu trả lời không, thì Ngài đi ngược với Luật Môse. Nếu Ngài trả lời có, thì Ngài đi ngược với lòng thương xót nơi mình.
- Luật Môse đã truyền dạy nằm trong trong sách Lê-vi 20,10 và sách Đệ nhị luật 22,22. Theo luật này thì phải xử tử cả hai người nam nữ phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên, luật này lại không bảo phải xử tử bằng cách ném đá. Chỉ bị ném đá nếu người phụ nữ là một trinh nữ đã đính hôn mà lại quan hệ với một người đàn ông khác ở trong thành, khi đó cả hai sẽ bị ném đá (Đnl 22,23-24). Còn trong bài Tin mừng này, chúng ta không chắc người phụ nữ này là một trinh nữ đã đính hôn, và cũng không thấy mặt người đàn ông đã phạm tội với chị.
- Trước câu hỏi mà Đức Giêsu thừa biết là một cái bẫy, Ngài đã không trả lời. Vì đang ngồi giảng dạy đám đông (Ga 8,2) nên bây giờ Ngài “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8,6b). Đức Giêsu cứ viết và họ cứ tiếp tục hỏi cùng một câu hỏi. Chắc họ thích thú và đắc thắng vì thấy Ngài bị kẹt trong cái bẫy do họ giăng ra. Họ có thể nghĩ là Ngài muốn tránh câu hỏi này hay không biết cách trả lời.
- Cuối cùng, Đức Giêsu đã ngẩng lên trả lời. Ngài không trả lời đúng vào câu hỏi của họ, ném đá hay không ném đá, nhưng Ngài nói: người đầu tiên được phép ném đá chị này là người nào không có tội. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất (Ga 8,7-8). Nhiều tác giả phỏng đoán xem Ngài đã viết gì, nhưng thực ra Ngài viết gì, chúng ta không rõ. Chỉ biết Đức Giêsu viết bằng ngón tay, giống như ĐỨC CHÚA đã viết bằng ngón tay trên hai bia đá Mười Điều Răn (Xh 31,18). Hơn nữa, hai dạng động từ “viết” được dùng ở Ga 8,6b (katégraphen) và ở Ga 8,8 (égraphen) cũng là những động từ được bản LXX sử dụng khi dịch Xh 32,15. Câu này nói về việc ĐỨC CHÚA viết trên hai bia đá.
- Đức Giêsu cúi xuống, viết trên đất và ngẩng lên hai lần (Ga 8,6b-7; 8.10). Qua hành động cúi xuống viết và không nói gì, Ngài tạo ra được khoảng lặng cần thiết để làm dịu xuống sự hung hăng của những người tố cáo, và làm họ hồi tâm để xét lại chính mình. Hậu quả là có những người cao tuổi đã bỏ đi, vì thấy mình có tội (Ga 8,9a).
- Qua cuộc trò chuyện của Đức Giêsu với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,10-11), có vẻ như Ngài ngạc nhiên vì chỉ còn mình chị ấy đứng đó, và ngạc nhiên vì không ai kết án chị. Câu nói của Ngài ở Ga 8,7 đã cứu chị, dù câu ấy cho phép người ta ném đá chị với điều kiện.
- Đức Giêsu không là quan tòa kết án chị phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài cũng không coi nhẹ tội này: “Từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Ngài là người duy nhất vô tội, nhưng lại không tố cáo hay kết án. Ngài đã cứu mạng sống một phụ nữ có nguy cơ bị ném đá, nhưng Ngài cũng đòi chị ấy không được phạm tội nữa.
- Đúng là câu chuyện có một cái kết êm đẹp. Người ta dùng sức mạnh lôi người phụ nữ tới, còn Đức Giêsu cho chị về trong tự do và bình an. Người ta định giăng bẫy tố cáo Đức Giêsu (Ga 8,6a) bằng cách tố cáo chị ấy. Đức Giêsu không mắc bẫy và giải cứu chị, cả xác lẫn hồn. Hơn nữa, những đối thủ của Ngài còn học được một điều tích cực: họ nhận ra mình là tội nhân.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên con bà góa thành Na-in, Em bé con ông Giairô, và Ladarô. Nhưng việc Ladarô sống lại quan trọng hơn hết và mang nhiều ý nghĩa. Trình thuật này đặc biệt của Gioan.
Phép lạ này xảy ra trong một gia đình khá giả, gia đình của chị Matta, là một gia đình đã đón tiếp Chúa Giêsu mỗi khi Ngài giảng ở Bêtania. Theo trình thuật của thánh Gioan thì Chúa Giêsu xem các chị em của Ladarô như gia đình của mình. Cách đối xử của Ngài rất thân tình.
Ladarô lâm bệnh nặng khi Ngài đang đi giảng ở xa. Gia đình sai người cho Ngài hay, nhưng Ngài hình như không muốn can thiệp ngay lại nói một câu như không quan tâm cho lắm: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh”. Như thế chứng tỏ Ngài có một chương trình rõ rệt, Ngài biết phải làm gì.
Ngài tiếp tục rao giảng. Vài ngày sau, Ngài nhắc đến với những lời mà các môn đệ cũng không thể hiểu ngay: “Ladarô, bạn chúng ta đã yên giấc rồi. Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ không hiểu, Ngài phải nói rõ: “Ladarô chết rồi”.
Chúa Giêsu làm phép lạ luôn là để chứng tỏ một khía cạnh nào đó trong sứ mệnh của Ngài. Ngài dùng một hoàn cảnh thực tế và giúp mọi người đạt đến niềm tin. Ngài đã hóa nước lã thành rượu ngon tại Cana là “để các môn đệ tin Ngài”. Ở đây, cái chết của Ladarô cũng là một dịp để Ngài tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa cho dân và để “nhiều người tin Ngài”.
Đến nơi, Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Người Ngài gặp đầu tiên là chị Matta: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Chị Matta nói như thế có nghĩa là còn một niềm cậy trông nào đó, dù nó thật mong manh. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu ngắn: “Em con sẽ sống lại”. Matta thuộc giáo lý nên trả lời: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tất cả câu chuyện xoay quanh câu nói lạ lùng này. Trên trần gian, chỉ có một mình Ngài mới có thể nói câu đó mà không sợ mình nói dối. Mọi người đều chết và cho đến tận thế, không ai thoát khỏi cái chết. Chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống mà thôi. Điều này giúp chúng ta vững tin.
Chúa Giêsu còn hỏi chị Matta: “Con có tin thế không?” Matta tuyên xưng đức tin: “Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Đấng phải đến trong thế gian”. Chúng ta nhớ ngay đến Phêrô, ngày nào đó cũng đã tuyên xưng như thế: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúng ta có tin như thế không?
Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhìn lại đức tin củamình. Nếu chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa Hằng Sống, thì cuộc sống chúng ta phải như thế nào?
Có lẽ bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác, không giống những người không có đức tin. Chúng ta sẽ không bồn chồn lo lắng về tương lai, không sợ sệt dù phải gặp gian nan hay sự thù hằn của kẻ vô đạo. Chúng ta luôn an vui thanh thản, bình an, vì Chúa bảo đảm tất cả, cuộc sống chúng ta nằm trong tay Ngài. Tin là cảm thấy mình không sống một mình mà luôn với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta.
Sau khi gặp Thầy, Matta về báo tin cho em là Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”.
Maria đang ngồi trong nhà và đang khóc em với mấy cô bạn. Nghe Thầy đến Maria đứng phắc dậy và chạy. Ai cũng tưởng cô chạy ra mộ để khóc em.
Gặp Chúa Giêsu, cũng một lời như chị Matta: “Nếu Thầy có ở đây thì em con đâu có chết”. Một câu dường như trách móc. Cô òa lên khóc và những người chung quanh cũng khóc theo. Thánh Gioan ghi nhận: “Thấy Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.”
Khi đứng trước cửa mộ, Chúa Giêsu lại rơi lệ và thổn thức trong lòng. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài biết sẽ cho Ladarô sống lại, tại sao Ngài lại khóc? Những người Do Thái ở đó không hiểu và ngạc nhiên: “Kìa xem ông ấy thương Ladarô biết bao!”
Chúng ta không thể hiểu chính xác, nhưng chúng ta có thể đoán rằng Ngài khóc vì thấy mấy chị em Ladarô phải đau khổ và trải qua một cơn thử thách nặng nề. Ngài khóc không phải vì Ladarô đã nặng mùi trong mồ mà vì thế gian đang tan rửa và nặng mùi trong tội ác của mình. Ngài đã từng khóc trên thành Giêrusalem, vì con người đã từ chối hồng ân của Chúa. Ngài vẫn còn khóc cho đến tận thế vì thế gian đã từ chối tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống, bằng những hình ảnh gợi lên niềm tin. Cái chết của Ladarô là một sự kiện điển hình nhất.
Trong biến cố này, Ngài chứng tỏ một cách hùng hồn, Ngài là chủ của sự sống, Là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Những lần Ngài đã cho kẻ chết sống lại: Người thanh niên con bà góa thành Na-in, em bé con ông Giairô, người ta cũng kinh ngạc nhưng không gây một ấn tượng mãnh liệt như lần này.
Ngài ra mộ và truyền cất cửa mộ ra. (Theo tục lệ của người Do Thái, khi thân nhân nào về trễ, không thể dự đám tang, trong khi chưa nặng mùi thì người ta có thể yêu cầu giở cửa mộ cho người ta nhìn mặt người chết lần cuối). Tưởng Chúa Giêsu cũng yêu cầu như thế nên chị Matta ngăn lại: “Thưa Thầy, nặng mùi lắm rồi, Thầy”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhấn mạnh: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao? Vinh quang Thiên Chúa được nhắc lại lần thứ hai.
Cửa mộ đã mở ra, nhưng Chúa Giêsu không vội vàng, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng quanh đây, nên Con nói để họ tin rằng Cha đã sai con.” Qua lời cầu nguyện này, chúng ta thấy rõ ý định của Ngài là mạc khải sứ mệnh thiên sai của Ngài. Người Do Thái có thể hiểu ngay Ngài là ai.
Cầu nguyện xong Ngài kêu lớn tiếng: “Ladarô, ra khỏi mồ”. Người chết lập tức chui ra.
Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc bấy giờ, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta dám tin không? Thánh Gioan ghi lại: “Trong số những người Do Thái (có mặt tại đó) đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Đó là kết quả hiển nhiên. Chúng ta không chứng kiến những điều lạ lùng như thế, chúng ta vẫn có thể được chúc phúc: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trở thành tất cả của ngài. Ngài đã diễn tả niềm tin của ngài nhiều lần trong các bức thư của ngài. Hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe nhắc lại: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô. Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô”. Người là “Sự Sống lại và là Sự Sống”. Nhìn Ladarô sống lại, chúng ta có cảm thấy như thánh Phaolô đã nói: “anh em đã được chỗi dậy với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” không?
Nơi Ladarô, chúng ta nhìn thấy tương lai của chúng ta. Sự sống hôm nay mang hai chiều kích: chết cho thế gian và sống lại trong Đức Kitô. “Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”. Đó là hồng ân tuyệt diệu chúng ta đang nắm trong tay, đừng để nó suy tàn vì sự ham mê trần thế.
“Hãy nâng tâm hồn lên”. Giáo hội luôn nhắc chúng ta như thế. Chúa Giêsu muốn chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, và hơn nữa, chúng ta có sứ mệnh thánh hóa trần gian. Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách đặc biệt đến điểm này: Kitô hữu phải thánh hóa mọi thực tại trần gian, sử dụng trần gian để xây dựng Nước Chúa. Chúng ta đang sống cho sự sống lại. Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta quy mọi sự về với Chúa. Các tạo vật sẽ “không lệ thuộc vào cảnh hư nát mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng sự tự do và vinh quang”.
Sự sống đời đời mà chúng ta đang hướng đến đang ở đây, nơi bàn thờ hiến tế này. Để giúp chúng ta sống lại với Ngài, chính Chúa Giêsu chấp nhận đến với chúng ta bằng một tấm bánh. Ngài là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Ngài ngay hôm nay, chúng ta đã sống trong Ngài, chờ đợi vinh quang tỏ hiện: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
4.Tử hình hay cứu sống – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
5.Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 5 Mùa Chay
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
- Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
- Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
- Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
- Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
- Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
- Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
- Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
- Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
- Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
- Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
- Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
- Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
– “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
– “Thưa Ngài, không có ai cả”.
– “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình khơi dậy trong chúng ta tâm tình sám hối trước tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa.
Thực vậy, hôm ấy Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, thì bọn biệt phái dẫn đến trước mặt Ngài một người thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Và chiếu theo luật Maisen thì nàng sẽ bị ném đá cho chết. Chúa Giêsu xem ra không mấy chú ý tới lời tố cáo của họ. Người cúi xuống lấy tay viết trên cát. Đó là cử chỉ muốn từ chối xét đoán, muốn tránh né câu trả lời. Nhưng vì họ cứ một mực lên án, cho nên Ngài cảm thấy bắt buộc phải nói với họ đôi lời: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi. Câu trả lời của Chúa Giêsu vừa khôn ngoan, vừa công bằng, lại vừa nhân ái. Người đã dùng các thành ngữ của lề luật, bởi vì lề luật quy định chứng nhân phải ném đá kẻ có tội đầu tiên. Như vậy, Người cho thấy lề luật còn nhân từ và công bằng hơn họ đã tưởng. Hãy tìm kiếm tinh thần của luật, sau những hàng chữ khô khan của nó. Lề luật chỉ là phương tiện để thực thi ý định tình yêu của Thiên Chúa. Người không vi phạm luật Maisen nhưng dựa vào lề luật ấy, Người kêu gọi họ hãy trả bị cáo về cho toà án lương tâm của mỗi người. Như thế, lời mời gọi ấy tóm kết tất cả giáo thuyết của Chúa Giêsu: chỉ trích hạng người chuyên kết án kẻ khác, chỉ thấy những lầm lỗi của kẻ khác mà không đếm xỉa gì đến những tội lỗi của mình.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước ngực thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của chính bản thân. Vì thế, chúng ta chỉ nhìn thấy những sai lỗi của người khác mà chẳng bao giờ nhận ra những sai lỗi của mình. Chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, để trông thấy rõ và có thể lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em. Hãy đối xử khoan dung với người khác và nghiêm khắc với chính bản thân mình, chứ đừng khoan dung với bản thân mình và nghiêm khắc với người khác.
Trước thái độ của Chúa Giêsu họ bắt đầu rút lui từng người một, từ người cao tuổi nhất. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Thánh Augustinô đã nói: Chỉ còn lại tình thương và tội lỗi. Chúa Giêsu đứng trước tội lỗi. Lòng khoan dung đứng trước sự khốn cùng. Chúa Giêsu nhìn đến sự khốn cùng của tội nhân để rồi tha thứ và kiến tạo lại hình ảnh nguyên thuỷ của con người. Khi tha thứ cho người thiếu phụ, Chúa Giêsu đã không đồng hoá tội với kẻ có tội. Người ghét bỏ tội, nhưng lại khoan dung với kẻ có tội, nên Người đã phán với người thiếu phụ: Ta không kết án con. Còn chúng ta thì trái lại, nhiều khi chúng ta đã kết án kẻ khác, nhất là kẻ có tội, một cách nặng nề, vô lý và quá đáng.
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.
Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật Maisen.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.
Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân và một người cũng đang bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.
Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà quên cả việc đền tội, quên cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử như thế nào đối với những kẻ tội lỗi?
Chúa Nhật tuần trước, trên đường đi lễ về, chắc các bà cảm thấy vui vẻ, thoả mãn lắm vì bài Phúc âm kể lại câu chuyện đứa con trai hoang đàng, chỉ có đàn ông con trai mới sinh tật, hư đốn làm khổ cha mẹ, làm khổ vợ con. Và rồi Chúa Nhật hôm nay, khi thánh Gioan tông đồ kể lại câu chuyện người phụ nữa ngoại tình, chắc các bà cảm thấy ngại lắm vì chợt hiểu ra không chỉ có đàn ông con trai mới đi hoang mà cả chị em phụ nữ của mình cũng đi hoang nữa.
Kính Thưa OBACE! Chẳng biết người phụ nữ trong bài Phúc Âm hôm nay phạm tội ở đâu, với ai nhưng theo như thánh Gioan kể lại, sáng sớm, khi Chúa Giêsu giảng dạy cho dân chúng trong đền thờ, thì các kinh sư và Pharisiêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp quả tang phạm tội ngoại tình. Họ làm như thế để cố ý gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bảo rằng theo luật Môsê, phải ném đá chị này thì Chúa Giêsu cũng như những người bình thường khác thôi, đâu có gì đặc biệt, cũng đâu có lòng yêu thương người ta đâu. Còn nếu Chúa Giêsu bảo không ném đá thì rõ ràng Chúa đang làm trái với lề luật Do Thái. Các kinh sư nghĩ rằng, đàng nào Chúa Giêsu cũng bị mắc kẹt.
Thưa OBACE! Các kinh sư và Pharisêu đem người phụ nữ ngoại tình đến trước đám đông để Chúa Giêsu xử phạt, với ý đồ vừa muốn trừng trị người phụ nữ, vừa muốn gài bẫy kết tội Chúa Giêsu. Theo con nhận thấy, Chúa Giêsu thì khôn ngoan không thể mắc bẫy rồi, người phụ nữ ngoại tình biết lỗi đứng im lặng rất đáng thương, kẻ đáng trách tội nhất là mấy ông kinh sư và pharisêu, cả đám đàn ông lại đi ức hiếp một phụ nữ, cậy vào lề luật để muốn giết chết người ta. Cái chuyện các ông nói xấu, kết tội mấy bà giữa nhiều người, con cũng từng nghe, nhất là trong bữa nhậu: đi làm mệt, đói bụng trông tới bữa cơm mà vào bàn ăn gặp ngay nồi cơm sống, cá thì quá mặn, canh thì quá lạt; Chỉ có cái chuyện quét nhà, rửa chén, giặt đồ mà mỗi lần làm thì cằn nhằn, la con mắng cái; Xách cái giỏ đi chợ, ở nhà con khóc con la mà đi cả buổi mới chịu về; Cuối tuần, về nhà chưa hỏi anh làm có mệt không mà đã hỏi lương tuần này được bao nhiêu rồi, chỉ đưa thiếu 50, 100 ngàn mà cứ cằn nhằn hoài làm nhức cả đầu…. Dĩ nhiên các ông nói nhiều về những thiếu sót của các bà thì cũng có lý do và cũng mong muốn rằng qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu sẽ giúp giải quyết dùm. Và thật sự, bây giờ, Chúa Giêsu giúp các ông giải quyết nè.
Chúa Giêsu nói: “Ai trong các ông phạm tội hãy ném đá chị này đi”. Chúa Giêsu muốn nói với các ông rằng, các ông là chồng, là đấng nam nhi, là bậc trượng phu, muốn Chúa giải quyết dùm vấn đề bực bội với mấy bà, dễ lắm, trước tiên, hãy chứng tỏ mình là đàn ông, hãy can đảm nhận lỗi của mình trước đi. Đã nhiều lần chính các ông cũng làm cho vợ buồn, vợ khổ mà. Nhận lỗi trước đi rồi Chúa mới giải quyết tiếp. Không dám nhận lỗi mình mà cứ nhớ lỗi của mấy bà hoài thì sẽ chẳng bao giờ nhận ra những điều tốt đẹp, tình thương của vợ dành cho mình đâu.
Có đôi vợ chồng nọ chẳng hiểu vì chuyện gì mà mấy tuần nay, chồng không hề nói với vợ tiếng nào, gặp vợ thì mặt mày cau có. Chị vợ sang khóc với mẹ chồng: ” con có làm gì ảnh buồn thì ảnh chửi, ảnh đánh con cũng được, nhưng ảnh cứ làm thinh hoài như vậy con chịu không nổi mẹ ơi”. Một hôm, đi lễ Chúa Nhật về, không biết được ơn soi sáng thế nào, chị lấy hết can đảm mời chồng chị ra bàn để chị có điều muốn nói. Khi hai vợ chồng ngồi đối diện nhau, chị mở lời: Anh ơi, vợ chồng mình sống với nhau cả đời chứ đâu phải vài ngày, em có gì lầm lỗi thì anh cứ nói ra để em biết mà sửa chứ anh cứ làm thinh vậy thì làm sao em sống được, anh biết em vốn là phụ nữ sống với chồng bằng trái tim mà. Anh cũng phải nghĩ rằng cũng có lúc chính anh cũng làm em buồn lắm chứ, anh cũng có lỗi mà. Em đề nghị với anh thế này, hai vợ chồng mình, mỗi người cầm một tờ giấy ghi hết lỗi của người kia ra, rồi trao lại cho nhau đọc, từ đó, chúng ta huề nhau, không ai giận hờn ai nữa. Nghe vợ nói vậy, người chồng đồng ý và nói trong bụng phen này sẽ kể hết tội của vợ ra để bả biết. Sau khi ghi xong, hai vợ chồng trở lại trao giấy viết lỗi của nhau cho người kia. Người chồng nóng vội cầm lấy tờ giấy vợ mình ghi lỗi của mình, mở ra xem trước, anh ngồi như trời tròng và rơi nước mắt khi thấy chỉ một dòng chữ trên tờ giấy: “Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ”. Anh chạy lại ôm vội lấy vợ và cảm thấy chưa lần nào trong cuộc đời anh đón nhận được niềm hạnh phúc tràn trề trong nước mắt như bây giờ.
Kính thưa OBACE! Chúa Giêsu yêu người tội lỗi nên không hề nhớ lỗi, luôn tha thứ cho họ. Chúa nói với người nữ ngoại tình: “tôi không kết án chị đâu”. Người vợ trong câu chuyện trên còn yêu chồng nên không hề nhớ lỗi chồng: “Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ”. Tại sao trước đây khi đeo đuổi theo vợ, ông chồng hay nói cái câu: “trong chuyện này, lỗi tại anh, anh xin lỗi em”, dù rằng lỗi ấy là chính nàng đã gây ra. Còn bây giờ, đụng chuyện là giận hờn, nóng giận, đỗ lỗi. Phải chăng tình yêu dành cho vợ đã không còn như ban đầu. Thưa OBACE! Mấu chốt vấn đề nằm ở đây.Rõ ràng, vợ chồng không còn tha thứ cho nhau được nữa là do họ không còn yêu nhau như ban đầu. Để tha thứ cho nhau cho gia đình thuận hoà thì phải vun đắp lại tình yêu. Cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tế nhị trao cho người phụ nữ ngoại tình một bí quyết vun đắp tình yêu: “chị hãy đi, và đừng phạm tội nữa”.
Kính thưa OBACE, lát đây, dự lễ xong, OBACE ra về, Chúa Giêsu trao gởi cho mỗi người một bí quyết bảo vệ hạnh phúc gia đình: đừng phạm tội nữa. Khi hai vợ chồng mới quen nhau, cần phải có tình yêu tốc độ, tình yêu cháy bỏng qua những bông hồng, bằng những nụ hôn, cái nhìn nhau say đắm nhưng bây giờ đã sống với nhau mấy mặt con rồi thì phải làm sao để tình yêu vợ chồng có chiều sâu hơn, có giá trị hơn. Tình yêu chiều sâu đó là tình yêu tha thứ của Đức Kitô. Muốn sống với nhau bằng tình yêu của Đức Kitô, xin đề nghị với OBACE một việc thực hành cụ thể qua Lời Chúa hôm nay: ai chưa đi xưng tội Mùa Chay, hãy mau mắn nhận lãnh Bí tích Giải Tội, và đón nhận Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể, và quyết từ nay không phạm tội nữa để Đức Kitô luôn ngự trong lòng mình. Tâm hồn ai mà Đức Kitô hiện diện sẽ yêu người khác bằng một tình yêu tha thứ.
Kính thưa tất cả OBACE! Lời Chúa hôm nay không chỉ nhắc nhở những người trong bậc vợ chồng mà còn cho tất cả chúng ta. Hãy hoán bằng cách mau đến lãnh nhận Bí tích Giải Tội trong mùa chay thánh là điều Chúa Giêsu tha thiết mời gọi. Xin Chúa cho tất cả OBACE trong họ đạo biết thực hiện lời Chúa dạy để dọn tâm hồn sốt sắng chuẩn bị đón Chúa Phục Sinh. Amen.
Cái nhìn đúng đắn trước cuộc sống luôn được con người đề cao, tôn trọng. Cái nhìn đúng đắn sẽ dẫn đến hành động đúng đắn. Nếu ta có cái nhìn đúng đắn trước tội lỗi chắc hẳn tôị lỗi không phải là điều gì đáng ghê tởm như người ta thường nghĩ. Tuỳ vào cái nhìn của tôi mà số phận đời mình được biến đổi. Có cái nhìn đưa dẫn con người đến chỗ bất an, tủi hổ. Có cái nhìn đưa dẫn con người đạt đến niềm vui hạnh phúc khôn dò. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.
Cái nhìn kết án, khinh khi.
Các kinh sư và người Pharisêu cho mình là người công chính, có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Thế nhưng tính ngạo mạn của họ dần dần đã chiếm lấy luôn quyền của Thiên Chúa. họ đã đi qua giới hạn của mình trong tư cách là người nắm giữ lề luật. Bản chất của lề luật là để hướng dẫn và bảo vệ con người. Nhưng các Kinh sự và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác trước đám đông. Họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Lỗi thầm kín của thiếu phụ này rất cần sự chia sẻ và cảm thông, đàng này lại bị rêu rao bêu xấu. Chưa đủ, họ còn muốn có thêm nhiều đồng minh để ủng hộ việc làm của họ. Chắc chắn nhiều người qua đường sẽ có nhiều lời đàm tiếu khinh miệt. Họ ném những cái nhìn đầy khinh chê vào thiếu phụ này. Cảnh tượng đó chắc làm cho giới Kinh sư và Pharisêu hài lòng lắm, chỉ tội cho người phụ nữ chỉ biết lặng căm, không nói được một lời.
Cái nhìn xót xa, tủi hổ.
Trước những lời tố cáo, trước những cái nhìn khinh chê, người thiếu phụ không dám nhìn lên; bà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Bà rất đau khổ, mong ” bản án ” sớm được đưa ra. Điều lam bà đau khổ nhất chính là có sự hiện diện của những người thân của bà. Những người thân yêu đang nhìn bà như bao cặp mắt khinh bỉ khác. Những đứa con bà vừa trách bà, vừa xấu hổ với người khác vì có một ngươi mẹ như thế. Rồi đến chồng bà, người trước đây rất yêu bà giờ thì lạnh nhạt và tránh xa. Người thiếu phụ như cũng gớm ghét chính bản thân mình, phút lỗi lầm đã gây ra bao hậu quả. Bà không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa phận mình cho việc làm đã qua.
Cái nhìn thông cảm yêu thương.
Trong lúc mọi người đều rẫy bỏ, duy Chúa Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Ngài thấu suốt tâm tư của bà. Ngài không theo mọi người kết án bà. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Chúa không miệt thị bà như những người khác nhưng tỏ ra rất gần gũi và quan tâm đến bà: “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11b). Ta đừng vội hiểu rằng ở đây Chúa tha thứ cách quá dễ dàng như thể tội này chẳng đáng quan tâm. Chúa Giêsu không có ý nói “Đừng lo, tội này không sao đâu”. Nhưng Chúa Giêsu hoãn lại việc kết án để ban cho bà cơ hội chuộc lại lỗi lầm. “Con hãy đi, và hãy chứng minh rằng con có thể sống tốt lành hơn!”
Anh chị em thân mến, tội lỗi làm cho con người xa dần Thiên Chúa. Nó làm cho khả năng sống thiện hảo nơi con người cũng dần mất đi. Đứng trước tội lỗi ta phải có cái nhìn thể nào để cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và ích lợi?
* Ba thái độ chúng ta cần phải có:
Trông cậy vào Chúa: nhìn vào chính mình, mặc cảm tội lỗi dễ khiến ta mất trông cậy vào Chúa. Do đó ta không quá xấu hổ, tuyệt vọng khi phạm lỗi lầm. Điều cần nhất là ta phải tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của TC. Tình yêu TC vượt xa những lỗi lầm của ta. Chính tình yêu của ngài sẽ lấp đầy hố ngăn cách để ta có thể đến được với Ngài. Ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết giữa ta với Thiên Chúa. Ta càng gần Ngài thì ta càng thì sự thánh thiện ta càng toả sáng.
Cảm thông: Cảm nhận tội lỗi của bản thân ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm người khác. Ta không nên xem thường hay khinh miệt người nào một khi họ lỗi phạm. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của CG: Đó là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành
Tha thứ: Nhìn vào Chúa Giêsu ta thấy sự tha thứ của Ngài không có biên giới. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với Ngài để được đổi mới. Ngài không chấp tội của ta. Ngài nhìn ta không phải ở chỗ ta đã sống ra sao mà là ta có thể trở nên thế nào.
Chuyện kể về hai người bạn thân đi qua sa mạc, trong cơn đói khát, lã mệt vì bão cát và nắng cháy một người kia tát người bạn này “bốp”. Người bạn bị tát ngồi xuống lấy ngón tay viết lên cát “Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã tát tôi”. Hai người tiếp tục cuộc hành trình. Khi vừa nhìn thấy một ốc đảo, người bạn này vội chạy đến và bị trượt chân, vừa lúc đó có một bàn tay chạm đến và kéo anh lại. Anh ngồi xuống và viết lên đá “Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã cứu tôi”. Về sau có người hỏi anh bạn này. Tại sao khi người khác làm khổ anh thì anh lại viết lên cát, còn khi người ta giúp anh thì anh lại viết lên đá? Anh bình thản trả lời: “Khi người bạn làm ta đau, hãy viết lên cát để ngọn gió của sự tha thứ thổi qua và mang nó đi cùng. Còn khi điều tốt lành đến, hãy khắc nó lên đá như khắc thành kỷ niệm trong tim, không có cơn gió nào xoá đi được”. Thưa anh em, đứng trước lỗi lầm của người khác, ta hãy viết nó lên cát để ngọn gió tình yêu, tha thứ của Thiên Chúa thổi qua và mang nó đi cùng!
Cái nhìn đúng đắn quả là rất cần thiết cho cuộc sống. Xin Chúa cho cái nhìn của ta được hoà nhập cái nhìn của Chúa để cái nhìn ta được biến đổi, hầu cuộc sống ta không còn biểu hiện những khinh chê hay tủi hổ, nhưng luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.
10.Làm mới con người – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.
Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát”. Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.
“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức Giêsu Kitô.
Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời, tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Phục Sinh”. Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi. Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.
Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc. Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đức Giêsu Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an bình hạnh phúc.
Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và biệt phái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
- Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin chia sẻ nếu được.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác.
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và lề luật đã qui định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!”
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
– Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
– Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
– Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác…
Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy – Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên, hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng phần Đức Giêsu, Ngài, trái lại đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào lòng mình, và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, để lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
12.Ném hay tha? – Lm. Anmai, CSsR
Chúa Giêsu từ Cha mà xuống trần gian, không phải để tố cáo, để kết án tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ. Nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người ban tặng cho những người nhất là những người tội lỗi sự sống của Thiên Chúa. Trang Tin mừng hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại gợi lên hình ảnh, tấm lòng hết sức tuyệt vời của Chúa Giêsu về sự tha thứ, về sự cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người.
Câu chuyện xảy ra trong Tin mừng xác thực và rõ ràng. Ngoại tình là một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, với những con người vụ luật và khắc khe thì dễ dãi quá. Nhiều người trong số họ đã quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa”. Họ nghĩ rằng cách cư xử dễ dãi như thế của Chúa Giêsu sẽ đe dọa sự trung tín trong hôn nhân. Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Chúa Giêsu lên núi Ôlivê. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
Các kinh sư và những người Pharisêu từ lâu đã bất bình với Chúa Giêsu. Không chỉ dừng lại ở thái độ bất bình nhưng họ đã thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Chúa Giêsu làm đảo lộn tất cả. Với những lý do ấy họ quyết định tìm đủ mọi cách để trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa Người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ “bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào “giữa” đám đông đang tụ họp và nói với Chúa Giêsu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Chúa Giêsu không còn cách nào thoát khỏi cạm bẫy đã giăng của đám người xấu. Không thể bào Chúa Giêsu thoát khỏi cạm bẫy này! Nếu tha, Chúa Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Chúa Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Chúa Giêsu. Quá tệ! Đây không còn là một vấn nạn, một câu hỏi bình thường của cuộc sống, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người nữ phạm tội tày đình cũng như đối với chính Chúa Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Chúa Giêsu “cúi xuống” và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh rất quan tâm tìm hiểu xem Chúa Giêsu viết gì trên đất? Thánh Giêrônimô nghĩ rằng Chúa Giêsu vạch tội những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình còn nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia 17, l3: “tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất”. Tốt nhất chúng ta nên trung thành với cách diễn đạt của bản văn. Chúa Giêsu vạch trên đất để kéo đài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng. Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Chúa Giêsu “cúi xuống”, rồi “ngước lên”. Sao Thánh Gioan lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy, rồi trả lời. Tên núi Ôlviê được nhắc đền ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đền sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Chúa Giêsu sẽ hòa giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Chúa Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi. ” Đnl 13,9-10 và 11,7: “Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước. Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh minh mình công chính. Họ đứng đằng sau mặt chữ, đằng sau lề luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Chúa Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan tòa phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như “người phụ nữ kia”, người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất “.
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là “hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: “Này chị “. Hơn bất cứ ai khác, Chúa Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa “.
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Chúa Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện, người nghe thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình đã đi vào huyền thoại hơn 2000 năm rồi nhưng nhiều và nhiều câu chuyện người đàn bà ngoại tình khác vẫn còn diễn ra trước mắt mỗi người chúng ta, diễn ra mỗi ngày trong đời sống thường nhật. Và, với cái lý, cái lẽ hết sức bình thường của con người, người ta vẫn giơ tay ra và hùng hùng hổ hổ ném đá và ném thật mạnh vào người tội lỗi. Và, chắc có lẽ cái cảnh từng người bỏ đi cũng sẽ tái hiện bởi lẽ nhìn lại mình mình cũng quá nhiều tội như nhiều người ngày hôm ấy nên đã từ từ rút lui.
Thật sự ra mà nói những người rút lui hôm nay xem chừng không hay, không đạt được ý nguyện nhưng được một chuyện là lương tâm và sự thật đã thức tỉnh lòng dạ đen tối của họ. Chỉ sợ rằng vấn đề rõ ràng nơi đó mà họ còn cố tình chối tội, họ cố tình lấp liếm tấm lòng nham hiểm của họ.
Đứng trước những lầm lỗi, những khiếm khuyết của người khác, nên chăng con người cần phải khiêm tốn để nhìn nhận lại chính bản thân của mình. Nếu nhìn nhận chính bản thân mình thì con người sẽ thay đổi lối nhìn cũng như lối hành xử.
Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philip mà chúng ta vừa nghe cho ta bài học về sự khiêm tốn. Với Ngài, tất cả Ngài coi mọi sự đều là rơm rác. Ngay cả sự công chính của Ngài, Ngài cũng nại vào ơn Thiên Chúa ban cho Ngài chứ không phải do tự bản thân của Ngài. Ngài, dẫu đã trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu nhưng Ngài vẫn còn phải chạy và Ngài không nghĩ là Ngài thành toàn. Có lẽ nhờ vào lối sống, lối suy nghĩ của Ngài nên Ngài hành xử một cách khác người đó là Ngài không bao giờ lên án ai. Ngài vẫn tự nhận mình là môn đệ rốt hết, Ngài vẫn tự nhận Ngài là con người thấp hèn để rồi Ngài không bao giờ hạ nhục người khác.
Thường, con người vẫn và vẫn tìm cách để hạ nhục người khác dẫu chưa tìm ra chứng cứ. Nếu có chứng cứ như người phụ nữ ngoại tình hôm nay thì lại thêm phần bảo đảm, phần chắc chắn cho sự kết án của họ. Thế nhưng, dù thế nào đi chăng nữa, dù có chứng cứ, dù có bằng chứng nhưng chắc gì những người đưa ra chứng cứ lại là những người vô tội.
Một lần nữa, sự kết án, sự kết tội, sự ném đá với tội nhân vẫn mở ngõ ra cho con người. Con người hoàn toàn tự do sử dụng sự tự do của Thiên Chúa ban cho họ. Hoặc là họ ném đá, hoặc là họ kết án anh chị em đồng loại.
Vấn đề đặt ra là liệu rằng khi ném đá, họ – những người kết án – có thấy mình sạch tội để ném đá, để kết án anh chị em đồng loại hay không mà thôi.
13.Thiên Chúa đang làm điều mới.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào qúa khứ để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon; hôm nay, Đức Giêsu là điều mới Thiên Chúa đang làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để bắt qủa tang, và họ đã thành công, để chị không còn có thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không còn thái độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có trách nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của chị.
Không ai có thể cứu chị trừ phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị, có nghe tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội, để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức Giêsu, người hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Giêsu, nhưng để làm “cho ra lẽ” một giáo huấn “nhân từ” hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ đứng trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Giêsu- Đấng thương cảm và tha thứ
Đức Giêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể, nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả lời, Ngài đứng lên và nói: “ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”, rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để có thể vì tự ái họ “làm liều”. Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì chính khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ nữ. Đức Giêsu đã thành công. “Không có ai kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua hành vi “nhận biết chính mình”.
Phaolô trở thành con người mới nhờ biết Đức Giêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả, để được Đức Giêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với Phaolô: quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Giêsu. Đức Giêsu đã là tất cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Điều gì đánh động bạn nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại tình”?
- Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chi phối đời Phaolô đến thế?
- Đức Giêsu có chi phối đời bạn không? Tại sao? Đến độ nào?
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Ơn giải thoát.
“Tôi không kết án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11)
- Dẫn vào Thánh lễ
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng “Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Thiên Chúa thật là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Ngài trong Thánh lễ này với trọn tâm tình tin yêu phó thác.
- Gợi ý sám hối
Mặc dù chúng ta đầy dẫy khuyết điểm, nhưng chúng ta hay bắt bẻ khuyết điểm của người khác.
Mặc dù chúng ta tội lỗi rất nhiều, nhưng chúng ta hay lên án người khác.
Chúng ta không đối xử khoan dung với người khác như Chúa đã khoan dung với chúng ta.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 43,16-21)
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon.
Trước hết Isaia nhắc họ nhớ lại chuyện xuất hành ngày xưa: Thiên Chúa là Đấng giải thoát. Để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài đã rẻ đôi Biển đỏ, đã nhận chìm quân đội Pharaon trong Biển cả.
Tiếp đến, ngôn sứ hứa là Thiên Chúa sẽ thực hiện việc giải phóng đó một lần nữa, tức là giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày: “Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”
- Đáp ca (Tv 125)
Ca tụng việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”.
- Tin Mừng (Ga 8,1-11)
Câu chuyện về người phụ nữ này giống một bức tranh trong đó các hình ảnh đối chọi nhau nhưng lại làm nổi bật nhau lên:
Một bên là một con người tội lỗi rõ ràng vì bị bắt quả tang đang phạm tội đáng chết, bên kia là Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng.
Một bên là thái độ hung hăng của những người biệt phái đòi giết kẻ có tội, bên kia là thái độ nhân từ hiền hậu của Đấng cứu thế.
Bởi đó thánh Augustinô đã tóm ý nghĩa bức tranh này bằng một câu ngắn gọn rất súc tích: “Miseria et misericordia” (Sự cùng khốn và lòng thương xót).
- Bài đọc II (Pl 3,8-14)
Thánh Phaolô đề cao sự công chính mà Chúa Giêsu ban. Đây không phải là sự công chính do Luật Môsê đem lại (như các người biệt phái trong bài Tin Mừng) mà nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô (như người phụ nữ ngoại tình).
- Gợi ý giảng
* 1. Tình cảm thứ tám
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có 7 thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm 7 tình cảm, “thất tình”. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là Thương Xót.
Thương xót là gì? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và chúng ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”. Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33)
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!” Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt xấu, là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn (Mt 13,36-43). Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
* 2. Tội bắt quả tang
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp. Vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
– Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không?
Tổng Hoằng liền quì xuống tâu:
– Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.
***
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn được Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tột ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu diếm những hành vi tội lỗi để không bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ là để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
****
Lạy Chúa, chúng cơn rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ xét đoán anh em của mình. Amen. (Thiên Phúc – )
- Cái nhìn
“Tôi đứng dưới chân đồi,
Nhìn xa xa lên ngọn đồi, tôi thấy một cái bóng giống như một con vật.
Tiến lên nhìn gần hơn một chút, tôi nhận ra cái bóng ấy là một con người.
Tiến sát hơn nữa để nhìn cho thật kỹ, tôi nhận ra đó là người anh em của tôi.”
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá về cách nhìn người và nhìn việc: đứng trước một người vừa mới làm một việc gì đó lầm lỗi, ta đừng nhìn bằng cái nhìn của biệt phái mà hãy bằng cái nhìn của Chúa Giêsu:
a/ Đừng nhìn họ như nhìn một con vật mà hãy nhìn như nhìn một con người, hơn nữa, như người anh em của mình.
b/ Đừng chỉ nhìn những hoàn cảnh bên ngoài, mà hãy nhìn thấu những tình tiết, tâm trạng bên trong của người anh em đó.
c/ Và cũng nhìn đến sứ mạng của mình: sứ mạng đối xử nhân bản với một người anh em, sứ mạng cứu vớt người anh em đó.
- Chuyện minh họa
Có chuyện kể rằng người ta bắt được một tên trộm cắp đưa đến nhà vua, và nhà vua đã hạ lệnh giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ: “Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua”. Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói: “Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng”. Nhưng hắn nói thêm: “Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được”. Sau đó hắn thú nhận: “Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi”. Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua: “Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được”. Nhưng nhà vua đáp: “Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, Ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần”. Khi đó tên trộm nói: “Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác”. Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
- Chuyện minh họa
a/ Lòng thương xót
Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo luật thì con trai bà phải chết. Bà nói:
– Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng tho xót.
– Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận:
– Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận:
– Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng tương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí.
b/ Mù quáng
Từ xưa tới nay người ta vẫn coi vua Salomon là một người có tài xét xử khôn ngoan. Thế nhưng lại có một chuyện sau đây:
Vì đã xử nhiều vụ án quá nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Nói cách khác, nhà vua càng ngày càng khô khan và khe khắt khi xử án.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một chút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng nhà vua bực quá nói với nó: “Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế?” Chiếc vương miệng trả lời: “Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng: khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế”. Nói cách khác, khi đó người ta sẽ thành mù quáng.
- Mảnh suy tư
– Người nào càng thánh thiện thì càng ít xét đoán người khác.
– Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.
– “Chị về đi, và đừng phạm tội nữa”: Chúa Giêsu không phủ nhận chị này có tội, nhưng Ngài muốn cho chị này một cơ hội để sám hối và làm lại cuộc đời. Chúa Giêsu không muốn chị này chối tội, bàu chữa tại sao chị phạm tội, hay đổ tội cho người khác, những cách làm này quá dễ nhưng không ích lợi gì. Ngài muốn chị can đảm nhìn nhận sự thật, không tuyệt vọng và khuyến khích chị sửa đổi. Đó mới là ơn giải thoát.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là vị Thẩm phán công minh đầy lòng từ bi nhân hậu. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn nhắc nhở con cái mình hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / mau mắn thực hiện lời mời gọi tha thiết này.
- Trong đời sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích phê bình chỉ trích / thậm chí lên án người khác cho thỏa lòng ganh ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu hiểu rằng / chỉ một mình Thiên Chúa là vị Thẩm phán công bằng / không bao giờ kỳ thị thiên tư.
- Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: / Ai nói rằng mình không có tội / đó là người nói dối / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
- Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: / Tôi cũng vậy / tôi không lên án chị đâu / Thôi chị cứ về đi / và từ nay đừng phạm tội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết lắng nghe lời Chúa dạy / và thực hiện lệnh Chúa truyền.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con: Anh em đừng xét đoán người khác, vì anh em xét đoán thiên hạ làm sao, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán anh em làm vậy. Xin cho chúng con biết cố gắng sống lời Chúa để khỏi bị khiển trách khi ra trình diện trước tòa Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Nếu chúng ta thấy thái độ khắt khe của những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là sai trái, chúng ta hãy sốt sắng khi đọc câu “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
VII. Giải tán
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta: “Chúng con hãy về, và đừng phạm tội nữa”.
Trong cuộc sống, chúng ta có thể công nhận rằng cái nhìn ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Tuỳ vào cái nhìn của ta mà số phận đời mình được biến đổi. Vì thế, cái nhìn đúng đắn luôn được đề cao. Cái nhìn đúng sẽ giúp hành động đúng. Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.
Trước tiên là cái nhìn kết án, miệt thị. Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái mà trực tiếp là các người Pharisêu và kinh sư chú trọng đến hình thức lề luật. Đối với họ luật lệ là quan trọng. Họ càng không giống Chúa Giêsu: “luật vị nhân sinh”. Vì tinh thần nệ luật nên họ coi thường con người. Từ cái nhìn đó đưa họ đến những cách ứng xử thiếu tình người, thiếu tình bác ái, không còn thể hiện tình Chúa, tình anh em gì nữa cả. Từ cái nhìn chú trọng hình thức lề luật đưa họ đến chỗ dễ dàng đưa ra những quyết định tiêu cực, gây khó khăn cho con người, tệ hơn nữa đưa con người đến chỗ bế tắc. Vì chú trọng hình thức lề luật nên họ tự cho mình có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Bản chất của lề luật là hướng dẫn và bảo vệ con người nhưng các Kinh sư và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác. Vì thế, họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Đúng ra họ phải thông cảm và đối xử công bằng và có “tình người”. Tuy nhiên trong đoạn phúc âm mà chúng ta suy gẫm (Ga 8, 1 – 11), Thánh Gioan nói cho chúng ta biết các kinh sư và pharisêu dùng nó nhằm gài bẫy Đức Giêsu. Họ muốn đặt Ngài “bị kẹt” trong trình huống khó xử này để tìm cách tố cáo Người. Thời ấy, ai vướng vào một trong 3 thứ tội: thờ hình tượng, sát nhân, ngoại tình đều phải bị án tử. Trong sách Lêvi (Lv 10, 10) viết: ” Nếu người nam nào phạm tội tà dâm với vợ của người lân cận, cả hai phải bị xử tử.” Đây là một giới luật rất nghiêm khắc mà người Do thái phải vâng giữ cách triệt để. Các kinh sư và người Pharisêu đưa người phụ nữ ngoại tình trước Đức Giêsu, chủ đích của họ không phải là vấn đề lề luật nhưng là dùng mưu kế để bắt bẻ Ngài. Người phụ nữ ngoại tình chỉ là con bài để phục vụ cho ác tâm của họ. Nếu Ngài đồng ý cho ném đá thì sẽ bị kẹt vào hai điều: một là vi phạm luật của chính quyền Roma vì chỉ có chính quyền Roma mới được quyền xét xử tử hình mà thôi; hai là Ngài sẽ bị mất đi uy tín và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và một bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Môsen, không ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được? Thực ra, họ đâu cần Đức Giêsu làm quan toà. Họ muốn dùng dùng dịp này để khiêu khích, để đấu lý và có thể là để kết án Đức Giêsu. Các kinh sư và người Pharisêu đã sai lầm trong cách nhìn và đã tiếp tục sa lầy trong sai lầm khi muốn gài bẫy Đức Giêsu.
Kế đến là cái nhìn tủi hổ. Trước những lời tố cáo, người thiếu phụ không dám nhìn lên mà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Những ánh nhìn khinh bỉ, vừa xấu hổ vừa trách mắng của người thân yêu. Những người trước đây yêu thương giờ trở nên lạnh nhạt xa tránh chị. Có lẽ, chị như cũng gớm ghét chính bản thân mình vì lỗi lầm mình gây nên. Có thể, chị không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa cho phận mình, cho việc mình làm đã qua. Chị muốn bản án được kết thúc nhanh.
Cuối cùng là cái nhìn tha thứ và yêu thương. Trong lúc mọi người rẫy bỏ, chỉ có Đức Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Hơn ai hết Ngài hiểu rõ tâm trạng của người thiếu phụ. Ngài thấu suốt tâm tư của chị. Ngài im lặng vì không đồng tình với thái độ của những người kết án chị. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Ngài không miệt thị chị như những người khác nhưng tha thứ và yêu thương: “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Cái nhìn yêu thương giúp Ngài sẵn sàng tha thứ và tạo cho người thiếu phụ một lối đi, một con đường mới để làm lại cuộc đời, làm lại cho mình cuộc hành trình trong tình thương của Thiên Chúa.
Đức Giêsu tha thứ cho người tội lỗi. Chúng ta hãy chạy đến bí tích Hoà Giải để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: “Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa”. Chắc hẳn, mỗi người Kitô chúng ta, đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, hãy sám hối và biết tha thứ cho tội nhân. Chúng ta đừng kết án tha nhân nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ giúp họ trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Đức Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Điều này nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ này, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình này. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
Người Kitô hữu Công Giáo là người tin và bước theo Chúa Kitô. Bước theo nói lên từ bỏ lối sống cũ, sống cho hành trình mới, hành tình tin yêu và hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Trông cậy vào Chúa chúng ta nhìn vào chính mình, nhưng không mất trông cậy vào Chúa. Tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Ngài vượt xa những lỗi lầm của chúng ta. Chính tình yêu của Người sẽ lấp đầy hố ngăn cách để chúng ta có thể đến được với Người. Thiên Chúa lặng thinh với những sai phạm của chúng ta, không phải Ngài không nhìn thấy nhưng chờ đợi để chúng ta quay về. Chúng ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết với tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta càng gần Thiên Chúa thì sự thánh thiện và tình yêu của chúng ta càng toả sáng.Hơn nữa, khi cảm nhận tội lỗi của bản thân, chúng ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm và khuyết điểm của người khác. Không lên án, ghét bỏ tội nhân. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của Đức Giêsu là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành. Đồng thời bắt chước Đức Giêsu sống tha thứ. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với tình yêu của Người để được đổi mới. Lời phán xét của Người không tàn nhẫn nhưng nhân hậu. Ngài không chấp tội của chúng ta. Trong hành trình đức tin, chúng ta hãy bắt chước Chúa Kitô, biết nhìn về Chúa, sống yêu thương như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin chúng con biết nhìn và cư xử giống Chúa để chúng con luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.
16.Ai sạch tội? – Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
17.Chúa Giêsu với người tội lỗi – Lm. Damien, OFM
Tiếp theo dụ ngôn người cha nhân từ trong Chúa nhật IV Mùa chay vừa rồi, hôm nay lại một câu chuyện có thật, và Chuá Giêsu đã thực thi những gì Ngài đã dạy trong dụ ngôn ấy:thái độ thinh lặng, một sự thinh lặng đầy nhân từ và tha thứ, không lên án. Cuối cùng Chúa nói lời tha thứ: “Tôi không kết tội chị, chị hãy về bình an”. Một lời nói, một thái độ ngoài sự chờ đợi của người đàn bà khốn khổ kia, cũng như đối với phần đông chúng ta hôm nay.
Thái độ của Chúa Giêsu trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình nói với tôi rất nhiều. Là người tội lỗi, nhưng qua câu chuyện nầy thì tôi thấy Chúa vẫn thương tôi, không bỏ tôi. Đã từ lâu, Chúa đã làm thinh trước những tội lỗi của tôi, một sự thinh lặng đầy khoan dung và chờ đợi. Tôi cảm động và tạ ơn Chúa. Cũng vì Chuá cứ thinh lặng trước tội lỗi của tôi.Thế mà nhiều khi tôi cứ tưởng chẳng can gì và cứ tiếp tục sống bình an với tội lỗi đầy mình, làm như là chẳng có gì xảy ra cả. Chúa đã nhìn người đàn bà khốn khổ kia, và hôm nay Chúa cũng đang nhìn tôi với cặp mắt đầy nhân ái. Thái độ đó của Chuá còn đánh động lòng tôi hơn muôn vàn lời trách mắng hay cảnh cáo.
Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi.
Thánh Luca nói rõ, biệt phái và luật sĩ dẫn người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đến trước mặt Chúa để gài bẩy Người. Và ở đây kết cục của câu chuyện cho thấy câu thánh vịnh xưa thật đúng: “Chúng mắc bẫy chính chúng bày ra.” “Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và cứ theo luật Môsê, hạng phụ nữ nầy phải bị ném đá, còn Thầy, Thầy dạy sao?” Chúng ta cứ tưởng tượng, sau khi hỏi Chúa như thế xong, với những nụ cười hóm hỉnh và ranh mảnh trên mọi khuôn mặt, họ thì thầm với nhau cách thích thú rằng: Lần nầy thì có mà chạy đàng trời! Thật ra nếu Chúa bảo, ừ thì cứ ném đá đi, thì đó là một lời nói sẽ xóa đi tất cả những gì Chúa đã nói trước đây: “Tôi đến để cứu vớt chứ không phải để lên án”. Và những người tội lỗi và thu thuế từ trước đã chạy theo Chúa, đặt tất cả hy vọng vào Chúa, nay nghe lời lên án đó của Chúa thì họ sẽ hoàn toàn thất vọng và xa lánh. Thế là coi như Chúa đã thất bại. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì rõ ràng Chúa đã phạm một sai lầm lớn là cả dám chống lại luật Môsê. Chỉ ngần ấy thôi thì họ cũng dư bằng cớ để bắt và lên án Chúa rồi. Nhưng chúng mắc bẩy chính chúng bày ra: Sau khi nghe Chuá nói: “Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi”. Chúng ta cứ tưởng tượng, khi nghe xong câu nói bất ngờ đó, vẻ hí hửng trên mọi khuôn mặt bỗng chốc biến mất, thay vào đó là những khuôn mặt dài ra vì vừa bỡ ngỡ lại vừa lo lắng sợ hãi; thế là họ tìm cách rút lui có trật tự. Họ đến với vẻ tự đắc hí hửng bao nhiêu, thì nay lại rút lui im lìm bấy nhiêu.
Họ lên án người phụ nữ khốn khổ vì họ tự đắc, tưởng mình vô tội. Nhưng lời Chúa đã đưa họ về với sự thât của lòng mình. Ít ra cũng phải khen họ còn trung thực với chính mình nên tìm cách rút êm, vì nhận ra mình cũng tội lỗi.
Lời Chúa hôm nay cũng đưa con về với sự thật của lòng con. Xin cho con cũng biết trung thực với chính mình, để đừng bao giờ lên án ai, phê bình chỉ trích ai cả. Và nghĩ cho cùng, thì con đâu dám chê ngừơi biệt phái và luật sĩ xưa, vì nhiều khi con biết mình chẳng tốt lành gì hơn ai, thế mà con lại cứ nói xấu, chỉ trích và lên án kẻ khác. Chúa đã dùng dụ ngôn cái xà và cái rác trong mắt để cho con hiểu, thế mà nhiều khi con lại không muốn hiểu.
Tôi cũng không lên án chị.
Người đàn bà khốn khổ kia vừa mừng lại vừa sợ: mừng vì nhờ Chúa mà chị ta không bị người Do thái ném đá; sợ vì chị ta đang hồi hộp chờ đợi Chúa sẽ nói những gì với chị đây?! Và khi nghe Chúa nói: “Tôi cũng không lên án chị, chắc chị ta đi từ bỡ ngỡ, đến vui mầng, một lời nói ngoài sự chờ đợi của chị cũng như của những người đứng chung quanh Chúa hôm nay. Con người tội lỗi như chị mà lại không bị lên án sao? Chị cũng như mọi ngươi bỡ ngỡ khám phá ra một lòng nhân từ không thể có được nơi loài người. Và khi đó mọi người mới thấy được hết ý nghĩa của lời Chúa: “Tôi đến không phải lên án,nhưng để cứu vớt”; mới hiểu được tại sao Chúa lại thường ăn uống với những người tội lỗi. Và nhất là hôm nay tôi cũng hiểu ra rằng tại sao Chuá lại không phạt một người tội lỗi như tôi.
Lòng nhân hậu.
Hôm ấy là ngày Chúa nhật, một tai nạn xảy ra tại đường Tự Do, Sàigon. Người ta bu lại xem rất đông. Người bị tai nạn nằm chết, máu me vương vãi chung quanh. Đó là một người đàn bà nghèo đi bán chổi, khoảng 40 tuổi. Chị nằm ngửa phơi mình giữa nắng, hai mắt vẫn mở to. Chiếc xe tung chị đã bỏ chạy trốn. Xe hơi có, honda có, xe đạp có, người ta bu lại coi. Có nhiều người ăn mặc sang trọng. Cảnh sát thì chưa đến. Bổng trong đám đông, một chị bán xôi, rẽ đám đông bước tới bên nạn nhân, cởi chiếc áo ngoài và đắp lên mặt nạn nhân rồi lẳng lặng ra đi. Mọi người đều thinh lặng, nhìn theo chị. Một sự thinh lặng cảm phục và đầy hối hận.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi “Mừng Vui Lên” của Chúa nhật IV Mùa Chay. Nay bước vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ tượng trong nhà thờ được phủ khăn tím, chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nên việc cải đổi đời sống, ăn chay, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức càng khẩn thiết hơn. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật V Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là giai đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A, B trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Ánh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao tình thương của Thiên Chúa và kêu gọi con người đáp trả.
Đoạn Tin Mừng (Ga, 8, 1-11) với câu kết thật là đẹp “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Qua lời tuyên bố ấy, Chúa Giêsu đã làm nổi bật tình thương yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Tha thứ là bản chất của Thiên Chúa, Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, là Đấng hay tha thứ. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, chậm bất bình vả rất mực thứ tha. Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô “Đấng đầy tình thương xót” (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11). Đoạn Tin Mừng (Ga 8,1-11) là bằng chứng hùng hồn về tình tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và người Pha-ri-sêu để chị ta đứng ở giữa Chúa Giêsu và dân chúng (x. Ga 8, 3), nghĩa là đứng giữa lòng xót thương của Con Thiên Chúa và sự kết án của con người. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá.
Con người thường lên án nhau, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi bị án phải chết. bằng chứng khi Chúa Giêsu hỏi: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7), chẳng ai dám cầm đá ném mà lần lượt bỏ đi chỉ còn lại người phụ nữ và Ðức Giêsu: sự khốn khổ và lòng thương xót đối diện với nhau. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống.
Ðoạn Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời. Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao chúng ta không cảm nghiệm được một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Sao không nhìn thấy nơi đó một “Tin Vui” cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.
Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho tất cả chúng ta, những tội nhân. Cách nào đó, chúng ta cũng là những người ngoại tình trước mặt Thiên Chúa, là những kẻ phản bội lòng trung tín của Ngài. Kinh nghiệm của chị cũng tượng trưng cho ý định của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta: Thiên Chúa không kết án chúng ta nhưng cứu độ chúng ta nhờ Ðức Giêsu. Ðức Giêsu chính là ân sủng, cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết. Ngài đã lấy ngón tay viết trên đất, trên cái bụi mà từ đó con người được tạo dựng nên (x. St 2,7). Phán quyết của Thiên Chúa là: ‘Ta không muốn con phải chết, nhưng muốn con được sống.’ Chúa không cứ tội ta mà trách phạt, cũng chẳng đồng nhất ta với những lỗi lầm trót phạm. Chúa muốn giải thoát chúng ta. Chúa muốn ở với ta và muốn chúng ta cũng ở lại với Ngài. Chúa mong ước chúng ta đừng sử dụng tự do để làm điều xấu nhưng biết làm điều thiện. Và chúng ta có thể làm được điều ấy với ân sủng Chúa ban.
Chúng ta hãy nhìn lên Ðức Trinh Nữ Maria và khẩn cầu Mẹ là Mẹ từ bi để đến nép thân nơi lòng thương xót của Mẹ. Nơi Mẹ, tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Ðược Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến bước, và nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Người nói với mỗi người chúng ta rằng: “Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là đấng chỉ bảo đàng lành, xin giúp chúng ta biết cậy trong vào lòng tư bi của Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ được thứ tha. Amen.
19.Ghét tội, chứ không ghét kẻ có tội
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi Giáo hội tạm dừng để (Laetare), nghỉ ngơi và chúc mừng con cái mình đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh, nghỉ để cảm tạ và xin ơn Chúa để có thêm can đảm bước tiếp vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ Năm Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần lễ cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là gia đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo tuỳ theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi con người hoán cải heo Tin mừng thánh Luca. Tuy nhiên, bài đọc của Chúa nhật thứ V trích từ Tin mừng Gioan. Trong các bản văn của các Giáo phụ, trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình lúc được đặt trong Tin mừng thánh Luca lúc được đặt trong Tin mừng thánh Gioan, và mãi đến thế kỷ thứ II, tức khoảng năm 150 mới có được vị trí cố định như hiện nay.
* Lời Chúa Phụng vụ năm A
– Ez 37, 12-14: Dân đã chết sẽ được sống lại
– Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và rất giầu ơn cứu độ
– Rm 8, 8-11: Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ cho anh em được sống
– Ga 11, 1-45: Lagiarô chết và sống lại
* Lời Chúa Phụng vụ năm B
– Gr 31, 31-34: Thiên Chúa ký Giao Ước mới với Dân Ngài
– Tv 51, 3: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch!
– Dt 5, 7-9: Người đã học vâng phục, và trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời
– Ga 12, 20-33: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thôi đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt
* Lời Chúa Phụng vụ năm C
– Is 43, 16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống
– Tv 126, 1: Đức Chúa đã làm những điều kỳ diệu: ta thấy mình chứa chan niềm vui
– Phil 3, 8-14: Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt để trở nên giống Người
– Ga 8, 1-11: Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
Bước vào Tuần Thương Khó, nhiều nhà thờ hiện nay vẫn giữ lại hình thức lấy khăn tím che đậy Thánh giá và các ảnh tượng [ trừ Đàng Thánh giá]. Nếu Thánh giá và ảnh tượng thánh được che kín, là vì Giáo hội muốn tập trung vào mầu nhiệm được cử hành: Hy Lễ Thánh đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. “Lạy Chúa Trời, xin xử cho con, biện hộ cho con chống lại phường bất nghĩa; Xin cứu con thoát khỏi người xảo trá gian tà, chính Ngài là Thiên Chúa bảo vệ con” (Ca nhập lễ).
Đức Giêsu luôn thể hiện Ngài là Đấng nhân từ thương xót khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng xót thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ”, Gioan đưa ra dẫn chứng đầy sức thuyết phục “Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1,18)… Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Co 1,3). Đức Giêsu ghét tội và yêu thương kẻ có tội. Ngài không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân. Vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (Ez 33,11).
Bài Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay là một bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án người phụ nữ này, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ có một mình Chúa Giêsu Kitô mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Ngài mang lấy tội lỗi của con người và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đoạn Tin Mừng này cho thấy rõ ràng rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với một sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa, là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và Ngài dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống làm lại cuộc đời. Trong khi con người chúng ta có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Kitô chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Chúa Kitô đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao mà chúng ta không cảm nghiệm một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Làm sao mà không nhìn thấy nơi đó một “Tin Vui Mừng” cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ? Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng con người chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria mà cầu khẩn Mẹ như là Mẹ của lòng từ thương xót. Nơi Mẹ, Tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Được Đức Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến vào Tuần Thương Khó, và nhớ lại lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng: Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. (Ga 8,11). Xin Mẹ Maria giúp chúng ta tiếp nhận với niềm vui đã được canh tân, (tiếp nhận) hồng ân cứu rỗi, ngõ hầu chúng ta gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên con đường mới. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật 26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!
Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giêsu đến để rao giảng, và còn minh chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giêsu và các kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giêsu cũng dứt khoát không kém: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”
Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!
Đức Giêsu không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ… nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!
Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Kitô hữu phải là Tân ước của Tin Mừng Đức Kitô Giêsu; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám phá và đi sâu vào lòng từ bi – thương xót của Người trong Đức Giêsu Kitô. Còn trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều, nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu không làm điều này, ta sẽ không phải là một Kitô hữu đích thực, một môn đệ đích thực của Đức Kitô Giêsu. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Kitô thứ hai’ – alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giêsu, điều cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giêsu diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”
Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ, nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em.
Các tuần trước Phụng vụ Lời Chúa mời gọi hoán cải và giao hòa với Thiên Chúa. Sự hoán cải và giao hòa chỉ có thể được thực hiện tốt đẹp khi chúng ta vui nhận cải cách chính đời sống nội tâm của mình.
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!” Đó phải là tiếng khẩn cầu của mỗi người. Tiếng khẩn cầu được cụ thể hóa bằng nỗ lực canh tân đời sống nội tâm để con tim có khả năng mở ra thế giới của Thiên Chúa, thế giới của tình yêu.
- Tìm Hiểu lời Chúa
- Bài đọc I: Is 43, 16-21
Một Cuộc Xuất Hành Tuyệt Vời
Dân Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Thật là một bi kịch dài hàng năm trời! Isaia loan báo cuộc lưu đày đau khổ này sẽ chấm dứt, Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người: một cuộc xuất hành mới dẫn đưa dân về Giêrusalem, một sự đồng hành kỳ diệu ngạc nhiên hơn nữa.
Tiên tri Isaia khởi đầu bằng việc gợi lại kỷ niệm về những sự can thiệp của Thiên Chúa dành cho dân Người trong thời kỳ vượt qua sa mạc thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Luôn luôn trung thành, Thiên Chúa sẽ dẫn đưa dân của Người khỏi sự cầm giữ của Babylon. Người sẽ làm hơn những gì Người đã làm trong qua khứ.
Bản văn Kinh Thánh này là một bài học về niềm hy vọng. Bị giam hãm trong tội lỗi, chúng ta sống lưu đày xa Thiên Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ chê bỏ chúng ta nhưng luôn dẫn đưa chúng ta về quê hương đích thực của mình, nơi đó chính là Nước Trời, Giêrusalem mới.
- Bài đọc II: Pl 3, 8 –14
Hành Trình Chạy đến Đức Kitô
Trong đoạn thư gửi tín hữu Philipphê này, Thánh Phaolô nói với chúng ta cách ngắn gọn, Ngài đã thực hiện ra sao hành trình thiêng liêng của mình: Kể từ ngày nhận biết Đức Kitô, với Ngài tất cả đã hoàn toàn biến đổi. Biết Đức Kitô là mối lợi lớn lao hơn cả.
Dưới con mắt của Phaolô không có gì có gía trị hơn là việc nhận biết Đức Kitô. Thà chấp nhận thua thiệt tất cả để được Người chiếm hữu, để được Người hướng dẫn và để được trở nên giống Người.
Có một sự đòi hỏi phải thông phần vào cuộc thương khó và sự chết của Đức Kitô để rồi được phục sinh với Người. Thông phần cuộc thương khó là chấp nhận những thua thiệt, coi mọi sự như phân bón. Được Người chiếm hữu thì chắc chắn tương lai sẽ chiếm được phần thưởng từ trời cao trong Người.
Những lời của Thánh Phaolô hàm chứa một niềm hy vọng lớn lao, mở ra một tương lai tốt đẹp cho những ai tin vào Đức Kitô. Cuộc đời là một hành trình tin và chạy đến cùng Đức Kitô. Trên hành trình đó, hãy quên đi chặng đường quá khứ đã qua để chỉ biết nhắm tới đích điểm là Đức Kitô.
- Tin mừng: Ga 8, 1-11
Người Đàn Bà Ngoại Tình
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em. Người là Đấng Cứu Độ.
Theo luật Môsê, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình phải bị nén đá đến chết. Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ này.
Trước sự gài bẫy, thái độ khiêu khích của những người Biệt phái và Luật sĩ, Chúa Giêsu bình tĩnh đưa ra phán quyết: ai vô tội thì hãy ném đá người đàn bà tội lỗi trước đi. Không một nguyên cáo nào dám cho mình là vô tội, tất cả lặng lẽ rút lui, bắt đầu là những người lớn tuổi. Không ai có quyền kết án người khác, vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét xử, mà án xử của Thiên Chúa là lòng khoan dung tha thứ.
“Ta không kết án chị, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.” Tất nhiên khi tha thứ cho người đàn bà phạm tội bị bắt quả tang, không phải Chúa Giêsu dung thứ cho tội, để mạc cho người ta phạm tội. Chắc chắn Thiên Chúa không thỏa hiệp với tội lỗi, với ma quỉ. Người có sứ mạng đến để tiêu diệt chúng, nhưng lại cứu với người tội lỗi và mở ra cho họ một con đường mới. Con đường này đòi hỏi tội nhân phải từ bỏ con đường tội lỗi, làm lại cuộc đời để sống thánh thiện.
- Gợi Ý Suy Niệm
- Canh tân cuộc sống, một biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa: Chúa Giêsu trước mặt người phụ nữ không hiện diện như một quan tòa, nhưng là một vị Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Tình yêu đã đưa Người thoát khỏi các dục vọng bè phái, thúc đẩy Người tha thứ nhưng không cho người phụ nữ. Và với tình yêu ấy cũng chắc chắn sẽ thúc đẩy người phụ nữ hoán cải và canh tân cuọc sống mình. Thiên Chúa không kết án nhưng lại thứ tha và mở ra một vận hội mới để hối nhân có thời cơ, điều kiện làm lại cuộc đời. Như thế, canh tân cuộc sống trước hết đó chính là một cơ hội Thiên Chúa ban cho con người. Ân hụê này Thiên Chúa ban vì Ngài là tình yêu, Ngài không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Canh tân cuộc sống được hiểu như một biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại để thấy rằng, nỗ lực canh tân không chỉ là chuyện cá nhân mà là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Việc canh tân không chỉ là việc riêng của mỗi người mà là việc của cả Thiên Chúa lẫn con người. Do đó, sẽ thêm hy vọng, thêm niềm tin để thực thi canh tân. Cuộc sống của tôi dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn có Chúa đồng hành cùng tôi để dẫn tôi vượt qua khổ lụy tội đời tiến tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thánh Thần Thiên Chúa chính là tác nhân canh tân của thế giới, của Giáo Hội và của mỗi người. Lời khẩn cầu xin Ngài đến canh tân bộ mặt địa cầu phải là lời tha thiết từ cõi lòng mỗi người tước hết xin Ngài canh tân chính mình. “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!”
- Canh tân cuộc sống, một khát vọng đổi đời: Trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, con người trải qua biết bao thảm cảnh khổ đau: nghèo đói, thất học, bần cùng đến chiến tranh, tệ nạn xã hội. Con người như bị chôn vùi dưới đáy vực thẳm. Ai ai cũng khao khát vươn lên, ai ai cũng mang một khát vọng đổi đời. Đấy là một ước mơ chính đáng, một khao khát đúng đắn. Thiên Chúa luôn sẵn lòng thoả mãn ước mơ đó của nhân loại. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy nguyên nhân của thảm cảnh cuộc đời là vì con người tội lỗi và muốn giam hãm nhau trong tội lỗi, trong đau khổ. Những người Biệt Phái và Luật sĩ và cả đám đông dân chúng đều là những người tội lỗi, vậy mà họ lại không biết cảm thông tha thứ cho người phụ nữ. Đau buồn hơn họ còn lợi dụng tình trạng của chị ta để gài bẫy bắt tội Chúa Giêsu. Đối với họ không bao giờ có khát vọng đổi đời và ngay cả khát vọng của người khác họ cũng dập tắt. Họ luôn chìm ngập trong u mê, trong lầm lạc tọi lỗi của mình. Từ kinh nghiệm ấy, cho thấy rằng để có thể canh tân cuộc sống cần phải có khát vọng đổi đời. Khát vọng đổi đời chỉ đến khi biết nhận ra thảm cảnh cuộc đời của mình, của tha nhân.
- Canh tân cuộc sống, một từ bỏ quá khứ tội lỗi để khởi sự tương lai tươi sáng: Với lời tha thứ: ‘chị hãy về và đừng phạm tội nữa’, Chúa Giêsu đã mở ra một tương lai mới cho người phụ nữ. Chị vẫn trở về với đời sống thường nhật của mình, nhưng không phải trong tình trạng tội lỗi cũ nữa mà đã sang trang mới, một cuộc sống mới không phạm tội. Như thế, có nghĩa là một đời sống dứt bỏ qua khứ tội lỗi và những hệ luỵ của nó, để rồi từ đây là một đời sống thánh thiện, hoàn lương chu toàn nghĩa vụ của mình đối với gia đình cách tốt đẹp. Canh tân cuộc sống đòi hỏi một điều tất yếu là phải dứt khoát từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những đam mê bất chính và xây dựng một cách sống mới phù hợp Tin mừng. Đổi mới cuộc đời, làm lại cuộc đời tất cả chỉ là ngôn từ, là khẩu hiệu môi miệng nếu ngay từ trong tâm khảm không có một nỗ lực quyết tâm từ bỏ quá khứ sai lầm. Canh tân là một hành trình dài xuyên suất cuộc đời chứ không phải là một hành vi nhất thời, một cảm xúc tự phát hay một thái độ vào hùa theo phong trào. Từ bỏ luôn luôn là một mất mát, một chọn lựa mà Kitô hữu phải thực thi cả đời. Măc lấy con người mới trong Đức Kitô sống theo Thần Khí của Người luôn là một nỗ lực không ngừng. Vì con người vốn dĩ là yếu đuối, cuộc đời vốn dĩ luôn có cạn bẫy của ma quỉ.
Với Kitô hữu cuộc sống chúng ta hôm nay như thế nào? Có thực sự khao khát đổi đời? Ước muốn canh tân hay không? Hay chỉ là sự chậm chạp ngại thay đổi thích ở lỳ trong đam mê tội lỗi của mình?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa qua Chúa Giêsu đã yêu thương tha thứ tội lỗi và kêu gọi đồng thời ban ơn để chúng ta sống đời sống mới. Với lòng biết ơn và tin tưởng vào tình yêu của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
- Sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh không ngừng canh tân đời sống của mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc canh tân của Hội Thánh ngày càng phát triển hơn trong thời đại chúng ta.
- Xã hội và con người trong thế giới hôm nay không ngừng phát triển trên mọi lãnh vực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia có được một tinh thần đổi mới triệt để trong cách nhìn và trong hành động để đưa dân nước mỗi ngày một đi lên hơn.
- Canh tân cuộc sống theo ánh sáng Tin mừng luôn là một đòi hỏi của Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta đây luôn đón nhận được ơn Chúa để hàng luôn đổi mới cuộc sống của mình làm cho bản thân và gia đình cũng như cộng đoàn ngày càng thấm đượm những gia trị Tin mừng và tình yêu Thiên Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương Chúa đã đến để cứu độ chúng con khỏi vòng tội lỗi và mở ra cho chúng con cơ hội làm lại cuộc đời. Xin Chúa thương ban ơn Thánh của Chúa xuống trên mọi người để chúng con đủ sức, đủ ý chí mà canh tân cuộc sống theo ý Chúa muốn. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
22.Đổi mới – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình. Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.
Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.
Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.
Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếng: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! “(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.
Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi.
Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay. Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!
Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.
Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.
Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Chuyện đời không thiếu việc con người kết án lẫn nhau.
Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của người đời.
Trình thuật Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng: Chúa kết án tội chứ không kết án người tội lỗi.
- ĐÁM ĐÔNG VÀO HÙA
Một buổi sáng nọ, một đám đông các kinh sư và người Pha-ri-siêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình đến trước mặt Đức Giêsu. (Ga 8, 3). Họ đã chất vấn Đức Giêsu về việc xét xử bà này. “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mô-sê truyền dạy chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 5).
Mới thoáng qua thì đàm đông này xem ra có lý lẽ, nhưng sâu xa, họ đang cố tình gài bẫy Đức Giêsu hầu có cớ bắt Người. Mặt khác, dường như họ đang toa rập với nhau, âm mưu tìm cách “giết người diệt khẩu” càng sớm càng tốt để ngầm bao che cho kẻ tòng phạm, vì theo luật thì người đàn ông tòng phạm với bà ta cũng phải bị ném đá (x Ed 16, 38-40).
Đức Giêsu biết rõ tâm địa gian manh của họ. Bằng thái độ lặng thinh viết trên đất, xem ra Người không chú ý đến những người xung quanh và dường như muốn từ chối nói chuyện với họ.
Vì sự cố chấp của đám đông “họ cứ hỏi mãi” (Ga 8, 7), Đức Giêsu đã trả lời: “Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi” (Ga 8, 7). Lời Đức Giêsu đã xoáy vào tim đen của đám đông khiến họ phải suy nghĩ và đã rút êm “lần lượt bỏ đi, bắt đầu là những người lớn tuổi” (Ga 8, 9). Hẳn những viến đá mà đám đông lăm le ném người đàn bà ngoại tình nay đã ném thẳng vào lương tâm những kẻ sống hùa và buộc họ phải suy nghĩ mà thay đổi hành vi của mình.
- CON NGƯỜI YẾU HÈN
Phần người phụ nữ, chị đã bị bắt quả tang đang ngoại tình. Tội chứng ràng rành, không còn gì để nói nên chị ta chỉ thinh lặng và cũng không thiết nghĩ đến chuyện tố cáo kẻ tòng phạm. Chị ta chỉ còn biết phó mình cho sự định đoạt của đám đông và người ta đã buộc chị phải đứng giữa đám đông để chịu xét xử.
Lẽ tự nhiên, Thiên Chúa ban cho con người khả năng giới tính để truyền sinh. Hoạt động giới tính tự nó thật tốt đẹp và phù hợp với sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên một khi người ta lạm dụng hoạt động này, cụ thể là thực hiện ngoài hôn nhân và trái tự nhiên thì sẽ sinh hậu quả tai hại làm hủy hoại thuần phong mỹ tục.
Ấy vậy mà, Kinh Thánh đã từng thuật những chuyện hủ hoại: Vua Đa-vít đã từng phạm tội cướp vợ (bà Bát-sa-ve) mà còn giết luôn người chồng (tướng U-ri-a) (x. 2S 11, 2 tt); hai ông thủ lãnh cùng âm mưu hành động đồi bại với bà Su-san-na vợ của ông Giô-gia-kim nhưng âm mưu không thành (x. Đn 13, 1tt); người con hoang đàng mang tiền phung phí với bọn điếm (x. Lc 15, 30); thánh Phao-lô từng than khóc vì dân thành Cô-rin-tô sống gian dâm phóng đãng (x. 2Cr 12, 21)…
Chuyện Kinh thánh đã vậy, trong gian dân những chuyện ngoại tình cũng không ít nên ngày nay, tình trạng hôn nhân thiếu chung thủy và gia đình đổ vỡ đang ngày càng gia tăng. Thế mới biết, thân phận con người yếu hèn: điều thiện muốn thì không làm nhưng điều ác không muốn thì lại làm (x. Rm 7, 19).
Bởi thế, ý thức phận người yếu hèn, người tín hữu phải luôn trông cậy ơn Chúa giải thoát “Tôi thật là một người khốn khổ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Rm 7, 24).
III. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT
Đám đông đã rút đi. Nơi xét xử chỉ còn lại hai người: Thiên Chúa xót thương và con người yếu hèn.
Trước đám đông gào thét đến cuồng loạn kết án tử người đàn bà ngoại tình, Đức Giêsu đã thinh lặng và không đồng tình với đám đông la ó đang gây thêm đau khổ cho người tội lỗi.
Khi bị chất vất gay gắt, Đức Giêsu mới lên tiếng. Người không nói: Đừng ném đá chị ta. Nếu nói thế chẳng khác nào Người đã không thi hành lề luật. Đức Giêsu cũng không nói: Cứ việc ném đá chị ta. Bởi nói thế, Người đã đánh mất con chiên lạc đang đối diện với Người. Đức Giêsu đã nói: “Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi” (Ga 8, 7). Vậy là, chỉ có người vô tội mới có quyền xét xử người đàn bà ngoại tình. Nói cách khác, ở đây chỉ có Thiên Chúa làm người Đức Giêsu Kitô mới có quyền xét xử.
Đức Giêsu đã xét xử vụ án này ra sao? Người đã không kết án mà chỉ thương xót và khuyên bảo người đàn bà bỏ đường tội lỗi: “Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11).
Nếu thế, phải chăng Đức Giêsu dung túng cho kẻ có tội?
Thực ra, Đức Giêsu chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người đã cho người đàn bà phạm tội một con đường sống với điều kiện ” Chị về đi; từ nay, đừng phạm tội nữa!”.
Thiên Chúa đã đoái thương người tội lỗi. Có thể nói được: Thiên Chúa ghét tội chứ không ghét người có tội.
Chúa đã đối xử bao dung. Nếu người thẳng tay như người ta thường đối xử với nhau thì không có các vị thánh: Phê-rô, Mát-thêu, Phao-lô, Au-gút-ti-nô, Ma-ri-a Mác-đa-la… Nếu Người đối xử thẳng tay với con người như họ đáng tội thì mỗi người chúng ta chắc gì còn hiện diện trên đời.
Trước tình thương của Chúa, người tín hữu được mời gọi: tin tưởng vào lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa; sống lòng bao dung ấy bằng cách đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác; quyết tâm sửa đổi đời sống: “Đừng phạm tội nữa!”.
KẾT
Người đời dễ lâm vào tình trạng xét đoán và muốn xét xử người khác, trong khi bản thân mình tội lỗi chất đầy.
Bao lâu còn trong thân xác con người, chẳng ai dám quả quyết mình trong sạch. Thế nên người tín hữu được mời gọi cố gắng hoàn thiện bản thân và ứng xử bao dung.
Thiên Chúa thấu suốt tâm can từng gang tấc. Chỉ mình Người mới có quyền xét xử. Dầu vậy, Thiên Chúa chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người không cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng chỉ muốn họ bỏ đường tà để được sống.
24.Khuất tất trong một vụ án “bất thường”
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân sử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật!!! Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “Phải ném đá”, thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Ngài lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn” (x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không trống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm… Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”, và, giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “Còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lời tuyên trắng án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là: Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau; đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm, hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống, biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.
Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.
Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình. Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình. Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là người đàn bà và chính họ nữa.
Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để phải dùng đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát. Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án. Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một sự thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.
Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.
Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh…
26.Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
- Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
- Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
- Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
Chuyện kể rằng, ngày kia người ta bắt được một tên trộm cắp giải tới nhà vua. Nhà vua hạ lệnh xử tử hắn. Tên trộm nói với đao phủ: “Tôi có một bí mật này rấy hay, nếu tôi chết thì bí mật này sẽ theo tôi xuống mồ. Như thế thì thật tiếc. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua”.
Người ta liền đưa hắn tới gặp nhà vua. Hắn nói “Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, khi được gieo xuống đất thì nội trong một đêm sẽ mọc thành cây và trổ sinh hoa trái bằng vàng”. Hắn nói tiếp: “Nhưng có điều này, người gieo hạt giống này phải là người chưa từng lấy cắp của ai thứ gì, nếu không hạt giống sẽ không nẩy mầm”. Sau đó hắn thú nhận: “Tôi không thể trồng được, vì trong đời, tôi là tên trộm cướp”.
Nhà vua đề nghị các quan trong triều đình lo việc gieo hạt giống này. Lần lượt tất cả họ đều từ chối. Cuối cùng các quan đề nghị nhà vua gieo hạt. Nhưng không thành, tất cả mọi người đều hơn một lần đã từng lấy cắp của ai thứ gì đó. Khi hiểu rõ câu chuyện, nhà vua đã tha cho tên trộm cắp khỏi bị giết.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy được điều gì? Thưa đó là tất cả mọi người ai cũng có tội, ai cũng có tật xấu, kẻ ít người nhiều.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ 3 nhân vật: Chúa Giêsu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình và nhóm Pharisêu – Luật sĩ: những người Pharisêu – Luật sĩ này có ý định đen tối muốn đưa người phụ nữ này đến chỗ chết theo như luật Môsê. Và đồng thời họ còn “có ý gài bẫy Chúa Giêsu để có thể tố cáo Người”. Nếu Chúa Giêsu nói theo luật mà xử tử thì Chúa tự mâu thuẫn với lời giảng dạy của mình. Nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà thì Chúa đã phá luật Môsê, Ngài sẽ bị án tử.
Một lần nữa Ngài cho họ trở về với chính mình, tự xét mình: “Nếu ai trong các ông thấy mình sạch tội thì ném đá chị này trước đi”. Và từ người lớn tới trẻ nhỏ, tất cả họ đều rút lui. Trong giây phút này, Chúa Giêsu thể hiện lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho con người. Ngài khép lại quá khứ tội lỗi và mở ra một tương lai mới: “Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Chị hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “Chân mình thì l?m bê bê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người”. Con người thường không thấy tội lỗi của mình, mà chỉ nhìn thấy tội của người khác rồi kết án. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy nhìn ra tội của mình. Đừng xét đoán, đừng nghĩ xấu, đừng tố cáo người khác. Tại sao vậy? Vì dẫu chúng ta không phạm tội như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, nhưng chúng ta phạm vào những thứ tội khác.
Vậy mỗi người chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu. Đó là biết khoan dung tha thứ cho người khác, không kết án người khác. Và chúng ta cũng có thể học bài học của những người Pharisêu và luật sĩ, đó là biết nhìn nhận mình có tội khi được người khác nhắc nhở, sửa dạy. Đây cũng là điều mà Giáo Hội mời gọi chúng ta trong mùa chay này: Aên năn, sám hối. Sám hối là thú nhận mình có tội và kêu xin Thiên Chúa thứ tha. Trong Kinh Sám Hối đầu lễ chung ta đã đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót… Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…” Vậy thì lỗi tại tôi, chứ không phải lỗi tại ông, lỗi tại bà, lỗi tại anh hay lỗi tại chị…mọi đàng. Nghĩa là chúng ta xét mình chứ đừng xét người khác. Nhận ra tội của mình chứ đừng nhìn tội của người khác.
Nhận ra tội của mình để sám hối. Sám hối bằng việc đi xưng tội, bằng cách không nghĩ xấu cho người khác, không lên án người khác. Sám hối cũng bằng việc tha thứ cho nhau. Chúng ta nhớ lại kinh Lạy Cha. Điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là chúng ta phải biết tha thứ cho nhau: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúa Giêsu không kết tội người phụ nữ ngoại tình, không phải vì Chúa chấp nhận cho chị tiếp tục phạm tội, mà vì Chúa muốn chị thành người tốt “từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúng ta hãy trở về với Chúa, Chúa không kết án chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta mỗi ngày sám hối để được tốt hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”….
Các Kinh Sư Do Thái gài bẫy Chúa Giêsu. Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy Chúa Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không ném đá người phụ nữ thì Ngài đã không tuân hành luật Môsê vì sách Môsê viết: «nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang ăn nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Chúa Giêsu chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy một cách tài tình, mà còn làm bẽ mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Sau khi trả lời, Người im lặng, cúi xuống và viết trên đất.
Chúa Giêsu đã viết gì trên đất… Chúa Giêsu chẳng viết gì cả. Xem ra, đây có thể chỉ là cách nói lên rằng Chúa Giêsu chẳng thèm để ý tới sự thách thức của họ. Ngài chuẩn bị cho họ một huấn thị quan trọng. Quả thực bản văn không nói rõ nên người ta chẳng biết Chúa Giêsu đã “viết” gì lên mặt đất, mà có cố đoán cũng chẳng được. Tốt nhất nên tập trung tìm hiểu những dữ kiện mà Lời Chúa đã hé mở, hơn là ngồi đoán mò những điều mà Chúa không mặc khải rõ ràng. Đồng thời cũng có thể hiểu đây là cách Chúa muốn tạo ra một bầu khí thinh lặng. Bởi vì chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng mình. Người ta ồn ào và hung hăng bao nhiêu khi lôi người phụ nữ ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình bấy nhiêu. Người ta càng mạnh bạo kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
“Ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Câu trả lời của Ngài bắt mỗi người phải đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Có bao tội bất trung nặng nề chẳng kém tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Biệt Phái đã thực sự nhìn vào cõi lòng của mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Họ ra đi, để lại một mình Chúa Giêsu với người phụ nữ. Chúa Giêsu hỏi người phụ nữ: “này chị, không ai kết án chị sao?” Người phụ nữ đáp: “thưa ngài, không có ai cả.”
Không ai kết án chị, bởi vì mọi người đều có tội như cha McCathy có kể một câu chuyện như sau: ngày xưa, có một người bị bắt vì tội ăn trộm, và nhà vua đã ra lệnh treo cổ. Nhưng trên đường bị giải đến pháp trường, người đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta có một điều bí mật, do người cha truyền lại. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Viên cai ngục quá bị ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trả lại cho nhà vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người mà chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”.
Thế rồi anh ta quay sang một viên quan của nhà vua và nói “ngài có thể trồng hạt giống này được chứ”, nhưng vị quan này từ chối ngay, nói rằng “khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?” Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối và nhiều viên quan khác cũng từ chối như thế.
Cuối cùng quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “tâu bệ hạ, có lẽ chỉ có bệ hạ mới có thể trồng được hạt giống này”, nhưng nhà vua đáp lại ngay “ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần trong đời ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “tất cả các ngài đều là những người có địa vị và có quyền thế, tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi ăn cắp, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.”
Đây cũng là điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: không ai vô tội cả nên không có quyền kết án người khác. Chỉ có một người có thể kết án đó là Chúa Giêsu, nhưng Ngài lại nói: “Tôi cũng vậy, Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa.”
Chúa Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ. Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các Kinh Sư và Biệt Phái. Amen.
29.Tình thương và tội lỗi – Cố Lm Hồng Phúc
Phụng vụ đặt bài Phúc Âm của Gioan ở đây để khơi động tinh thần sám hối Mùa Chay, trước tình thương bao la của Chúa.
Chúa Giêsu đang giảng dạy ở tiền đường Đền thờ, có dân chúng bao quanh thì nhóm Pharisêu và luật sĩ kéo sành sạch một phụ nữ đến trước mặt Chúa. Họ đứng thẳng đó và nói: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, theo Luật Moisê hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?”
Thật ra luật Moisê có khoản trừng phạt những người dâm phụ hoặc các kẻ đã hứa hôn như vậy, nhưng từ lâu rồi, khoản ấy không được áp dụng khắc khe nữa, nhất là người Lamã cai trị có lệnh cấm ném đá giết người. Tuy nhiên, đây là cái cớ để bắt bẻ Chúa. Câu trả lời khôn ngoan đến đâu cũng có kẽ hở, không lỗi luật Moisê thì cũng phạm đến lịnh của chính quyền.
Chúa Giêsu có vẻ không mấy chú ý đến cáo trạng và thái độ đắc thắng của nhóm Biệt phái. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên nền đất. Thời gian trôi qua trong im lặng nặng nề, như mời gọi mọi người nhìn vào chính nội tâm của mình.
Rồi Chúa đứng thẳng lên, nhìn vào đối thủ và từ từ nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người lại ngồi xuống và viết trên đất. Bầu khí im lặng lại càng nặng nề hơn.
Đã nhiều lần, vị Rabbi trẻ chứng minh rằng Ngài có quyền đọc tận thâm tâm, biết cả những việc thầm kín nhất. Họ biết như vậy, nên khôn ngoan hơn cả là lẫn đi-dĩ đào vi thượng sách! Giữa người thiếu phụ lỡ lầm và những người được tiếng đạo đức đó, chưa hẳn ai tội lỗi hơn ai.
Vì thế, Phúc Âm nói: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những người nhiều tuổi nhất”. Nhiều tuổi thì khôn ngoan hơn, chuồn lẹ hơn là phải.
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và thiếu phụ. Thánh Augustinô nói: “Chỉ còn lại Tình thương và tội lỗi”.
Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Trên đoạn Phúc Âm này, trải qua bao thế hệ, có bao nhiêu dòng nước mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Vì qua người thiếu phụ đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh chúng ta. Chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng rồi, trong tòa cáo giải, lời Chúa còn vang vọng lên: “Cha tha tội cho con. Con hãy đi và đừng phạm tội nữa”.
“Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm và tẩy tôi sạch lâng tội ác” (T.v 50).
30.Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
“Be who God meant you to be, and you will set the world on fire.” – St. Catherine of Sienna.
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
– Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:
– Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì lời bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném đá trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”.
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!”.
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
– Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
– Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
– Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác… Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy-Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
32.Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R. Veritas.
Người ta kể lại dưới thời các hoàng đế trị vì xưa kia. Cứ sau thánh lễ Phục sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy sáng, hoàng đế cho thắp thêm một cây đèn lớn khác gọi là “Cây đèn ân xá Phục sinh”. Cho tới khi nào ánh đèn còn cháy, tất cả mọi người có tội nặng đáng xử tử mà đến đặt tay trên cây đèn ấy xưng thú tội lỗi mình thì được ân xá, không phải chịu án phát. Từ một phía cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng dài. Nào là những người cướp của giết người, ngoại tình, phá thai, gian dối, lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi đặt tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng thú lỗi lầm, công khai trước mặt hoàng đế và đông đảo tín hữu tò mò đến xem, họ sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi và nhận chứng thư tha tội, trong đó có những lời khuyên phải cải tà qui chánh.
Người sau cùng tiến đến Cây đèn ân xá Phục sinh là một phụ nữ trong sắc phục sám hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng xem có cả ông chồng, tay cầm tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng đế đừng khoan hồng đối với bà. Trong nhà thờ im lặng như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm đến Cây đèn ân xá Phục sinh, bà lớn tiếng thú tội: “Tôi đã phạm tội ngoại tình với tất cả những người đàn ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được khoan hồng”. Nói xong, bà thổi Cây đèn ân xá Phục sinh tắt ngấm. Rồi bà nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận: “Tội tôi thì quá lớn không đáng được tha thứ”. Bà mở mắt ra. Thì ô kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó đã dùng tờ đơn tố cáo bà, đốt trở lại Cây đèn ân xá Phục sinh mà chính bà đã thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế nghiêm mặt hỏi: “Ngươi là ai mà dám tự tiện thắp Cây đèn ân xá Phục sinh?” Ông ta thưa: “Tâu hoàng đế, hạ thần là chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn tố cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy lại ánh sáng cho Cây đèn ân xá Phục sinh đã tắt”. Nghe vậy hoàng đế nghiêng mình trước người chồng và nói: “Ngươi đã hành động rất đúng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô”.
Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài đọc hôm nay.
Người đàn bà bị bắt quả tang đang lúc phạm tội ngoại tình như kể trong Phúc Âm theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng minh cho chúng ta thấy cung cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối với những người có tội. Chiếu theo luật Do Thái, như ghi trong sách Lêvi chương 20 câu 10 và sách Đệ Nhị Luật chương 22 câu 22: “Phụ nữ có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình phải bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông đang phạm tội ngoại tình với bà”. Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc sống hoang dâm khỏi cộng đoàn. Theo bài Phúc Âm, các biệt phái và những luật sĩ chỉ dẫn đến cho Chúa Giêsu người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn kết tội hai người: người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu, mà họ đang tìm mọi dịp để lên án.
Tuy nhiên, cung cách hành xử của Chúa Giêsu theo cái lôgíc của Thiên Chúa, không theo tâm địa hẹp hòi gian ác và giả hình của con người, lại cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một lối thoát, lối thoát của cuộc đời hoán cải. Qua cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi là còn nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ và ơn cứu độ cho họ. Không ai biết Chúa Giêsu đã viết trên cát điều gì hay Ngài đang cần phải qui chiếu theo một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu không chối bỏ những cái nặng nề và những hệ lụy do cuộc ái tình trong cuộc sống con người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một sợi dây của lòng trông cậy. Bởi vì đối với Thiên Chúa, quá khứ tội lỗi của con người không quan trọng, điều quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng, thơ ngây, vô tội trong tâm hồn từ giây phút này trở lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên Chúa điều quan trọng duy nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng cuộc sống của chúng ta.
Kiểu cách giải quyết vấn đề của Chúa là một tiếng sét cách mạng quật ngã mọi người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật 17,7: “Những ai đã bắt được quả tang người phạm tội ngoại tình, nghĩa là đã chứng kiến tận mắt, thì hãy ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có tội”. Nhưng đây Chúa Giêsu nói: “Ai không có tội, hãy ném đá trước đi”, mà có ai trong gia đình nhân loại là người vô tội đâu? Bởi vì ai trong chúng ta cũng có tội cả. Và phạm tội mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi thì lại càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ cỡ, đủ cách: tội lớn, tội nhỏ, tội kín, tội hở. Tâm lòng và thân xác chúng ta rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè lớp dưới.
Say giây phút im lặng làm choáng váng mặt mày, mọi người tố cáo người đàn bà ngoại tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống đất và rút lui có trật tự, già trước trẻ sau. Được phép dạy phải sửa chữa tội lỗi, nhưng mỗi một người phải bắt đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở ra cho người đàn bà ngoại tình con đường mới của cuộc sống hoán cải thánh thiện: “Tôi cũng không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa”. Thì Ngài cũng chỉ cho tất cả mọi người đã hăng hái tố cáo và đòi ném đá xử tử chị ta một con đường mới, con đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình là người có tội.
Hãy cảnh giác với lương tâm mình để tìm thấy cái mặt lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình. Hãy cầm lấy cục đá, không phải để ném người khác mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu ăn năn sám hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó một cách công khai trước mặt mọi người. Nói cách khác, lời nói và cách giải quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm hồn bệnh hoạn, phong cùi của mỗi người hiện diện rơi xuống đất cùng với viên đá trong tay họ. Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta ý thức được tội lỗi yếu hèn của chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu sống trong sạch, vì không còn phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai trò của chúng ta để khỏi mất mặt nữa. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái nhìn mới để hiểu rằng, một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa đến đâu đi nữa, cũng vẫn còn một góc nhỏ xíu tinh tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết thương mến họ, và con đường duy nhất giúp tiến vào đó là con đường của lòng kính trọng, cảm thông, chấp nhận và yêu thương.
Đó là phương thế duy nhất giúp con người biến đổi từ bên trong, để bắt đầu một cuộc xuất hành mới ra khỏi tình trạng sống tội lỗi và tiến bước trên con đường công chính, thánh thiện. Cuộc xuất hành mới ấy cũng được tiên tri Isaia nói đến trong chương 43, tình yêu thương mà Thiên Chúa dành để cho dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn thương.
Trong lịch sử cứu độ, nước và sa mạc có ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu hiệu cho chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do Thái, biểu tượng cho mọi sức mạnh chống đối với Thiên Chúa và với con người. Còn sa mạc khô cằn không cây cối, không nước uống, biểu tượng cho sự chết. Nhưng cũng như xưa kia trong lần xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên Chúa dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp nước Biển Đỏ thế nào, thì giờ đây trong lần xuất hành thứ hai khỏi Babylon, Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như vậy. Nói cách khác, tiên tri Isaia muốn khẳng định với dân Israel rằng, các biến cố lịch sử cho thấy Thiên Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu, mọi sa mạc mà loài người đã tạo ra với cuộc sống tội lỗi của mình. Nhưng trong lịch sử cứu rỗi, tình yêu thương nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với con người khi tạo dựng lên loài người sẽ chiến thắng sự dữ và tội lỗi.
Chương trình cứu độ đó Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của từng người trong chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy trong thư gởi tín hữu Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô Phụcsinh đã trao ban cho thánh nhân trong cuộc gặp gỡ trên đường đến thành Đamas xưa kia. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta phải giúp chúng ta sống theo một tâm thức mới, với một cái nhìn mới. Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài phải trở thành trung tâm điểm và là điểm qui chiếu duy nhất, hướng dẫn kiểu cách sống và hành xử của chúng ta. Tâm thức mới ấy phát xuất từ cuộc cách mạng mà lòng tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong tâm lòng chúng ta, nó giúp chúng ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và biết đánh giá mọi sự dưới ánh sáng Tin Mừng mà thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi gương Ngài. Cố gắng chạy, nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không nghi ngờ tình yêu của Chúa Giêsu và lời Ngài, không hối hận vì đã từ bỏ cuộc sống và kiểu cách suy tư cũ, không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi ngược lại giáo huấn Tin Mừng của Chúa.
33.Phiên tòa của Lòng Thương xót
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi”. Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình. Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên:“ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn”.
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”.
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi.
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ, trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ. Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử. Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự ‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với phiên tòa thứ 2: tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn. “Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng” (Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải.
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông: “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá đi”. Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để ‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội. Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợm giống như vậy. Nơi các phiên tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông. Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình. Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng ra lề luật vàxét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng, nhiều khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãymạnh dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
Anh chị em thân mến.
Một lần đang đi trên đường, bỗng nhiên bầu trời không còn chút ánh nắng, mây đen kéo đến và cơn mưa đổ xuống. Tôi chạy vội vào một ngôi nhà bên đường để trú. Mừng rở vì tìm được nơi trú thân cho đở lạnh. Chủ nhà cũng lịch sự chào khách, nhưng anh ta xin lỗi vì đang bận công việc. Anh ta đang cố gắng làm cho mái nhà của mình bớt nước chảy, vì mái nhà đã quá yếu, những chiếc lá mục nát không còn che kín được mưa nắng cho những người trong nhà. Anh ta tươi cười vui vẽ nói: “Chắc cũng chịu được qua mùa mưa nầy”. Cơn mưa nhẹ hạt dần rồi cũng dứt hẵn, tôi cám ơn chủ nhà và tiếp tục trên con đường của mình. Trên đường đi, tôi chợt suy nghĩ: Nếu như chủ nhà nhìn thấy mái lá mục nát, ông không chấp nhận nó mà đem vứt nó đi, thì anh ta sẽ không có gì để che cho cả gia đình trong những lúc mưa nắng thất thường như thế nầy, và tôi cũng không có nơi để trú nhờ. Nhưng anh ta đã cố gắng sữa chữa những chỗ hư, mặc dù không còn tốt lắm, nhưng nó vẫn còn có ích lợi đối với anh, vì anh đã biết cách xử dụng nó.
Chúng ta vừa chứng kiến những người muốn phá đi, không phải chỉ một ngôi nhà vô tri, nhưng một ngôi nhà có cảm giác và có cả một linh hồn bất tử do Thiên Chúa tạo dựng. Chẵng những họ muốn phá bỏ, nhưng còn dùng nó như một phương tiện để hại người khác. Họ mừng rở đem người đàn bà đến trước mặt Chúa Giêsu, họ hớn hở nói rằng:”Theo luật Môisen thì ném đá, còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ vui mừng, nôn nóng. Chúa Giêsu bình thản như không có gì xảy ra. Họ chờ đợi, hối thúc, nên Ngài trả lời.” Ai trong các ngươi vô tội, thì lấy đá ném trước đi”. Họ đã bỏ đi hết. Chúa Giêsu đã chữa lành một ngôi nhà dột nát mà bao nhiêu người muốn bỏ đi.” Tôi không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Ngôi nhà vẫn còn có thể hữu dụng nếu biết cách dùng nó.
Còn những người tố cáo, họ cũng còn một chút lương tâm ngay chính, cũng còn được một chút lòng thành, họ vẫn còn biết lắng nghe và nhìn thấy được chính mình, nên họ mới từ từ rút lui mà không phạm thêm sai lầm nữa.
Chúa Giêsu không bao che cho tội ác, nhưng Ngài muốn dùng Tình Yêu để hoán cải, để sữa chữa những gì còn có thể.
Con người thường muốn phá bỏ đi những gì của người khác, còn của chính mình thì không.
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và chờ đợi con người. Thiên Chúa lặng thinh với những sai phạm của chúng ta, không phải Ngài không nhìn thấy, nhưng chờ đợi để chúng ta quay về. Chúng ta cũng như những người Do Thái khi xưa. Mãi vội nôn nóng kết án người khác, muốn phá bỏ đi những gì chúng ta cho là không đúng, vì nó không hạp với ý muốn của mình. Đó là những lần chúng ta giận dữ vì quyền lợi bị xăm phạm. Những lần chúng ta nói xấu người khác, phê bình chỉ trích, không phải vì người ta xấu, nhưng vì họ dám nói lên sự thật, dám chỉ vào những sai lỗi của chúng ta. Cũng có những lúc chúng ta không từ một thủ đoạn nào, miễn sao chúng ta có thể hại được người mà mình không thích.
Những lúc đó, chúng ta có lắng nghe được tiếng chúa nói: “Nếu ngươi vô tội “; Chúng ta có còn được chút liêm sĩ như những người Do Thái khi xưa, nhìn thấy được tội lỗi của mình để biết rút lui khỏi sự ác, mở cho người khác một con đường sống. Hay chúng ta đã trở nên quá tệ, không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy đâu là đúng, đâu là sai, thì làm sao có thể quay trở lại được. Như vậy, lương tâm của chúng ta, nó có còn nhạy bén, hay nó đã chay lì khô cứng. Nếu như thế, Thiên chúa có thể nói với chúng ta như nói với người đàn bà tội lỗi khi xưa được không? ” Ta không lên án con đâu, con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để có được một tâm hồn quảng đại, biết yêu thương và tha thứ như Chúa đã YÊU THƯƠNG và THA THỨ cho chúng ta.
35.Suy niệm của Radio Veritas Asia
THIÊN CHÚA BÊNH VỰC NGƯỜI YẾU ĐUỐI VÀ PHÂN TRẦN SỰ BẤT CÔNG
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Theo luật người Do Thái như được trình bày trong sách Lêvi 2,10 thì bất cứ ai phạm tội ngoại tình với một người phụ nữ đã có chồng và bất cứ ai phạm tội ngoại tình với vợ của người khác, thì cả người đàn bà ngoại tình và người đàn ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau trong chiều hướng kỳ thị phụ nữ, người ta bóp méo luật pháp và chỉ ném đá trước người đàn bà ngoại tình, còn người nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả hoặc chỉ bị phạt một số tiền tượng trưng.
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong trường hợp Phúc Âm trên đây gọi là cách mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh vực người yếu và phân trần sự bất công của người phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi. Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc Âm này vẫn giữ được tính cách đặc biệt thời sự ngày nay.
Cũng vì thế, trong Tông thư “Mullieris dignitatem” (Về phẩm giá người phụ nữ), công bố nhân dịp năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú giải về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ, Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của những kẻ muốn ném đá người phụ nữ ngoại tình, ý thức về chính tội lỗi của họ. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn đánh mạnh vào lương tâm và các hành động của con người, đồng thời dường như Ngài muốn nói với những người tố cáo rằng: Phụ nữ này với tất cả tội lỗi của nàng, đã chẳng cho thấy những vi phạm của chính các ông, những bất công nam giới và những lạm dụng của các ông hay sao? Đức Thánh Cha viết: “Đây là một sự thật có giá trị cho tất cả mọi người. Câu chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã kể lại: người đàn bị bỏ một mình, bị phơi bày trước dư luận quần chúng với tội lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi nữa đồng chịu trách nhiệm về tội lỗi đó. Vậy mà tội lỗi của người đàn ông thì không lôi kéo chú ý. Được trôi qua trong im lặng như thế, người đàn ông không có trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại tình ấy. Đôi khi người đàn ông còn nhắm mắt trước tội lỗi của chính mình và đã trở thành người tố cáo người khác như Phúc Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ đã phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và phải đền tội một mình, mặc dầu tội cả hai người phạm chung. Biết bao nhiêu lần người phụ nữ bị bỏ rơi với bào thai trong bụng, vì người cha của thai nhi không muốn chấp nhận trách nhiệm làm cha của mình. Và bên cạnh nhiều bà mẹ độc thân trong xã hội ngày nay, chúng ta còn phải nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất bào thai của mình rất nhiều, khi vì những áp lực khác nhau kể cả áp lực của người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm nhiều cách để xóa bỏ cách thức xấu xa của cuộc phá thai đó, nhưng nhiều khi lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng mình đã tước đoạt sự sống của đứa con mình”.
Trong phần kế tiếp, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự bình đẳng của nam giới và nữ giới, theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, khi tạo dựng loài người và Ngài kết luận rằng: “Mọi người nam phải nhìn nhận người nữ như một người chị em của mình và không bao giờ được coi người nữ như đối tượng cho mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối tượng của tội ngoại tình trong tâm hồn của mình hay qua hành động bên ngoài”.
36.Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Cách đây khá lâu, tình cờ tôi đã đọc được một mẩu tin từ hãng tin quốc tế AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung Quốc. Và hãng tin quốc tế này lấy tin từ tờ nhật báo Trung Quốc, nói rằng chính phủ mới ra lệnh tử hình cho một người cha vì đã can tội giết đứa con gái của mình mới ba tuổi. Và lý do, vì ông ta muốn có con trai.
Theo luật của Nhà Nước Trung Quốc được thiết lập từ năm 1978, thì mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con mà thôi. Vì thế người cha này là một công chức của nhà nước làm việc trong ngành lâm sản, đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có được một đứa con trai. Việc làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước kết án tử hình vào tháng 11 năm 1988, và hôm mùng 10 tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi hành.
Đọc qua bản tin vừa kể, tôi không khỏi bồi hồi xúc động và thấy đây là một thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ nơi nào khác trên thế giới này. Thử hỏi ai là người có trách nhiệm trong thảm trạng này? Dĩ nhiên người cha đã vô tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng thử hỏi, còn ai khác có trách nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn tâm hành động như vậy không? Những kẻ có trách nhiệm ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải chăng họ không đáng tội chết hơn người cha đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi hay sao? Tại sao họ lên án những kẻ khác mà quên lên án chính mình? Phải chăng đây là một thái độ sống giả hình. Thái độ sống giả hình của thời đại mới chúng ta hôm nay không khác gì với thái độ giả hình của những người biệt phái vào thời Chúa Giêsu.
Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta: những người biệt phái có quyền thế trong dân Do Thái, họ là những kẻ nắm giữ luật lệ hay đặt thêm những luật lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và muốn Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ trêu là chính những người biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi, nhưng họ không kết án chính mình trước mà đi kết án kẻ khác.
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: “Ta không kết án con”. Đó là lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. “Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa”. Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Các vị thánh trong mọi thời đại đã thực hiện điều này. Cầu nguyện cho chính mình và cầu nguyện cho anh chị em xung quanh được ơn ăn năn trở lại, đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa. Cầu nguyện với những hy sinh, cầu nguyện với những đánh tội, hãm mình.
Và trong bài đọc thứ hai hôm nay mà chúng ta vừa nghe qua, trích thơ của thánh Phaolô cũng đề ra cho chúng ta một bí quyết, có thể nói được là bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, và kể từ nay ngài không nhìn về quá khứ tội lỗi của ngài cũng như của những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai. “Chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳng đằng sau, quên đi quá khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía trước hướng về tương lai. Tôi cứ nhắm đích đuổi theo để được đoạt giải ơn kêu gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ trời cao trong Đức Giâsu”. Đó cũng là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta, quên đi quá khứ tội lỗi của mình, quên đi quá khứ tội lỗi của anh chị em xung quanh. Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng ta và sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô. “Vì Chúa tôi đành chịu thua thiệt mà coi mọi sự như phân bón để được lợi Đức Kitô và được ở trong Người”.
Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta được luôn luôn sống kết hiệp với Chúa, và từ nay không nhìn về quá khứ của mình nữa nhưng nhìn đến tương lai, để có những dốc quyết mới canh tân đời sống của mình, từ bỏ những tội lỗi, để giữ vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
37.Hãy về và đừng phạm tội nữa – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
“Tin Mừng sự sống”. Đó là tựa đề một thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25 tháng 3 năm 1995.
Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích, đây là một bài suy niệm của ngài về sự sống. Đứng trước nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên thế giới ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật và ý thức mỗi ngày một gia tăng về nhân quyền, về bình đẳng, về liên đới huynh đệ… Nhân loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa khủng khiếp nhất, đó là đe dọa của sự tự hủy. Mối đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến tranh, từ khoa học, vũ khí hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý thức, về sự thánh thiêng của sự sống con người.
Một cách cụ thể chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Hai hành động giết người này đã được luật pháp của không biết bao nhiêu quốc gia nhìn nhận và hợp thức hóa. Cái mâu thuẫn lớn nhất của nhân loại ngày nay chính là, trong khi mạng sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự sống của những thai nhi và những người vô phương tự vệ lại càng ngày càng bị khinh rẻ. Điều khủng khiếp nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được hợp thức hóa. Hành động xúc phạm đến mạng sống con người được đưa vào pháp luật. Từ nay nhân danh luật pháp do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền sinh sát trên người khác. Con người dựa vào luật pháp do chính mình làm ra để chối bỏ lẫn nhau, đó là thảm trạng của nhân loại ngày nay.
“Tin Mừng sự sống”. Chọn lấy đề tài này cho thông điệp của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban cho con người thời đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang lại cho nhân loại là Tin Mừng của sự sống, Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua sự tiếp cận thiết thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với những người tàn tật bệnh hoạn, với những cô gái điếm, với những người thu thuế tội lỗi, với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội muốn cho chúng ta lắng nghe hôm nay là một trong những trang cảm động nhất của Tin Mừng sự sống ấy.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Đám đông đã từ từ kéo nhau về sau khi đã nhìn sâu vào trong tâm hồn tội lỗi yếu hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với một ý thức mới, không phải ý thức về sức mạnh của luật pháp do con người làm ra, mà về chính thân phận tội lỗi của mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự sám hối. Riêng người đàn bà cũng ra về, nhưng ra về với lời vỗ về yêu thương, tha thứ và cổ vũ của Chúa Giêsu: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Đó cũng là lời vỗ về mà Chúa Giêsu đang nói với mỗi người chúng ta. Đó là Tin Mừng của sự sống.
Người đàn bà đang đứng bên bờ vực thẳm của chết chóc và thất vọng, đã được Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống mới, một niềm hy vọng mới. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Tin Mừng sự sống này cần phải được chúng ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng ta được sai đi để loan báo, làm chứng và chia sẻ tình yêu ấy với mọi người. Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt đầu lại, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ không ngừng và mang lại một cơ may mới cho người khác. Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
38.Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hãy dứt khoát giở qua trang lịch sử đời mình, quên đi những ngày đã qua của tội lỗi, của âu sầu, của đau khổ, của bất hạnh. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng, trong tình yêu của Chúa, thể hiện qua đời sống vui tươi và an bình.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia loan báo cho dân Chúa thời lưu đày ở Babylon sắp chấm dứt. Ngài nhắc lại cho họ thấy trong quá khứ, Chúa đã thương họ, đã cứu họ ra khỏi Ai Cập bằng cuộc vượt qua Biển Đỏ lạ lùng. Dầu hành động uy hùng đó đã xảy ra, nhưng Chúa phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng và đừng để ý tới việc thời xa xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”. Những cái mới đó là mở đường trong hoang địa, đồng hoang khô cằn trở thành vùng đất phì nhiêu mầu mỡ, có đường đi lại tấp nập, có sông thấm nhuần tươi mát. Và với tư cách là tiên tri, Isaia cũng loan báo tất cả những sự cứu thoát kia vẫn chưa lạ lùng bằng sự cứu thoát khỏi làm nô lệ tội lỗi, trở thành con cái Chúa.
Vậy hãy quên đi quá khứ vì Chúa đang làm những việc mới lạ phi thường, không biến cố, không sự kiện nào so sánh được. Từ cõi lòng tội lỗi chai đá, khô khan của con người, ơn Chúa như dòng sông tươi mát tình yêu, Chúa mở lối đi vào để xâm nhập, để hoán cải. Còn gì lạ lùng bằng và bỡ ngỡ bằng những việc kỳ diệu đó của Thiên Chúa, đến nỗi con người chỉ còn biết thốt lên với thánh vịnh 125 dùng làm đáp ca: “Chúa đã đối xử đại lượng với tôi, nên tôi mừng rỡ hân hoan”.
Nơi bài đọc thứ hai, thánh Phaolô tâm sự cùng các tín hữu thành Philipphê rằng: Từ khi biết được Chúa Giêsu Kitô người coi mọi sự ở đời này không còn giá trị đích thực gì cả, nhưng giá trị đích thực của đời sống chính là làm sao được ở trong Chúa Kitô và sinh lợi ích cho đời sống ân sủng. Thánh Phaolô còn dạy chân lý đó một cách thật rõ ràng và cụ thể. Đó là dầu những ngày còn sống trên trần gian chúng ta đã sống trong Chúa, nhưng không phải là đã đạt đến mục đích đuổi theo để chiếm lấy, và ngài so sánh công việc tiến đến cùng Thiên Chúa đó như một cuộc chạy đua nước rút. Đừng bao giờ nhìn lại phía sau, hãy quên đi từng khoảng đường bước chân mình đang bỏ lại, chỉ biết hướng về phía trước mắt, đăm đăm nhìn về mục đích, vận dụng cả sức lực từng bắp thịt, từng hơi thở để băng mình tiến tới, để đạt được mục đích Chúa hứa ban từ trời cao. Dưới nét họa của Phaolô, chúng ta thấy mỗi tín hữu là một lực sĩ đang tham dự cuộc chạy đua, nhưng khác ở điểm là phần thưởng không phải chỉ dành riêng cho người đến trước mà cho tất cả những người trung thành bền chí chạy theo đến cùng. Đến trước đến sau không thành vấn đề, miễn đừng bỏ, cũng đừng thất vọng ngã lòng là được, là chắc chắn rồi sẽ đến nơi. Tóm lại thánh Phaolô dặn: Có được đức tin là chúng ta dang chạy đúng đường. Muốn đến nơi đừng bận tâm đến dĩ vảng, hãy hướng mắt về tương lai nhắm đến mục đích và kiên tâm tiến bước.
Trong bài Phúc Âm, ý tưởng từ bỏ quên đi dĩ vãng đau buồn, tội lỗi bắt đầu lại cuộc sống mới được chỉ dạy thật một cách rõ ràng với câu Chúa Giêsu nói với người đàn bà phạm tội ngoại tình bị dân chúng định ném đá. “Ta không kết tội chị, vậy hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một sự sống lại trong đời sống thứ hai của người đàn bà tội lỗi đó. Không phải sống lại vì những người muốn ném đá bà còn có lương tri là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi không dám cầm viên đá để ném vào đầu bà, nhưng sống lại vì sự tha thứ của Đấng Cứu Thế và lời dặn: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Chắc chắn người đàn bà đó sẽ không phạm tội nữa, sẽ ăn năn sám hối không phải vì được tha chết, nhưng vì được chính Đấng Cứu Thế tha tội “Ta tha tội cho chị, vậy chị hãy về bình an và từ nay nhớ đừng phạm tội nữa”. Dĩ vảng đau buồn tối tăm tội lỗi kia ra sao? Đừng nhìn lại nữa, đừng bận tâm nữa, đừng lo âu nữa. Từ nay hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình yêu, trong an bình, trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời. Tất cả những ân lành đó chỉ những ai dứt khoát được với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa mới cảm nghiệm được. Hạnh phúc thiên đàng không phải chỉ được hưởng ở đời sau nhưng ngay cả ở đời này khi con người biết sống và nếm thử. “Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng thế gian, xin cho con bước theo Chúa để được hưởng ánh sáng ban sự sống”.
Để có việc làm cụ thể trong tuần, tôi sẽ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Phục sinh bằng cách tưởng tượng rằng: đời tôi là một trang giấy, những ngày qua tôi đã tự tay viết đủ thứ vào đó. Hôm nay nhìn lại thấy đủ thứ lem luốc bẩn thỉu, tôi hãy giở qua trang và một trang giấy mới trắng tinh sạch sẽ đang trải ra trước mắt tôi. Tôi hãy ngước nhìn lên Chúa, xin Người cầm tay tôi, soi sáng cho tôi, chỉ dẫn cho tôi để viết lên đó những dòng vàng son tươi đẹp làm vui lòng Chúa, làm hài lòng những người cùng chung sống với tôi.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Cuối năm 1894, đại úy quân đội Pháp Alfred Dreyfus, cựu sinh viên Trường Bách Khoa Paris, một người gốc Alsace Do Thái giáo, bị buộc tội đã để lộ cho người Đức một số tài liệu bí mật, bị kết án tù khổ sai chung thân về tội phản quốc và đày đi Đảo Quỷ thuộc Guyane. Vào lúc đó, các quan điểm của giới chính trị Pháp là hoàn toàn ác cảm với Dreyfus. Một ít người không tán đồng bản án, trước hết là người anh trai Mathieu, rồi đến gia đình Dreyfus, đã cố gắng chứng minh sự vô tội của ông, sau được hưởng ứng bởi nhà báo Bernard Lazare. Đồng thời, trung tá Georges Picquart, người chỉ đạo vụ phản gián, khẳng định vào tháng 3 năm 1896 rằng kẻ phản bội thực sự phải là thiếu tá Ferdinand Walsin Esterházy. Tuy nhiên, bộ tham mưu từ chối xem xét lại quyết định của mình và thuyên chuyển Picquart tới Bắc Phi.
Để thu hút sự chú ý về sự yếu ớt trong các bằng chứng chống lại Dreyfus, tháng 7 năm 1897 gia đình ông đã liên hệ với chủ tịch danh dự của Thượng viện Auguste Scheurer-Kestner, người đã thông cáo, sau đó ba tháng, ông đã chịu thuyết phục rằng Dreyfus vô tội, và cũng đã đồng thời thuyết phục Georges Clemenceau , một cựu nghị viên và nhà báo. Cùng tháng đó, Mathieu Dreyfus khiếu nại chống Walsin-Esterházy lên Bộ Chiến tranh. Khi phạm vi những người ủng hộ Dreyfus bắt đầu mở rộng, hai sự kiện xảy ra vào tháng Giêng năm 1898 làm cho vụ việc trở nên có quy mô quốc gia: Esterházy được tha bổng, dưới sự ủng hộ của những người bảo thủ và những người dân tộc chủ nghĩa; và Émile Zola đăng bài “Tôi buộc tội…!”(J’Accuse…!) biện hộ cho phe ủng hộ Dreyfus (dreyfusard) đã lôi kéo được rất nhiều nhà trí thức. Một quá trình chia cắt nước Pháp bắt đầu, điều còn kéo dài cho đến hết thế kỷ. Các cuộc bạo độngbài Do Thái bùng phát ở trên 20 thành phố nước Pháp, và người ta ghi nhận nhiều người đã thiệt mạng ở tỉnh Alger. Nền Cộng hòa bị chấn động, một số người thậm chí tin rằng nó đang lâm nguy và nỗ lực tìm cách chấm dứt vụ Dreyfus để vãn hồi sự ổn định.
Bất chấp mưu mô của quân đội muốn làm sự việc chìm xuống, bản án kết tội Dreyfus đầu tiên bị hủy bỏ bởi Tòa Thượng thẩm sau một cuộc điều tra kỹ lưỡng và một tòa án binh mới được thành lập ở Rennes năm 1899. Trái với mọi mong đợi, Dreyfus bị kết án một lần nữa, mười năm lao động khổ sai, dù sao, với những tình tiết giảm nhẹ. Kiệt sức với đợt đi đày 4 năm trời, Dreyfus đã chấp nhận lệnh đặc xá của Tổng thống Émile Loubet .
Phải đến năm 1906 sự vô tội của ông mới được thừa nhận chính thức thông qua một án quyết không chiếu xét của Tối cao Pháp viện. Được phục hồi danh dự, đại úy Dreyfus trở lại quân ngũ với quân hàm thiếu tá và tham gia vào Thế chiến I. Ông mất năm 1935. Những hậu quả của vụ bê bối này là không kể hết và động chạm tới mọi khía cạnh trong đời sống công chúng Pháp: chính trị (nó cống hiến thắng lợi cho nền cộng hòa và trở thành một thứ huyền thoại lập quốc (mythe fondateur) khi làm sống dậy chủ nghĩa dân tộc, quân sự, tôn giáo (nó đã kéo chậm lại cuộc cải cách Công giáo ở Pháp, cũng như sự dung hợp vào nền cộng hòa của những người Công giáo), xã hội, tư pháp, truyền thông, ngoại giao và văn hóa. Chính trong thời kỳ này mà thuật ngữ giới trí thức (intellectuel) đã ra đời. Vụ việc cũng có tác động tới quốc tế với phong trào phục quốc Do Thái thông qua một trong những người sáng lập, Théodore Herzl, và bởi những cảm xúc do những cuộc biểu tình bài Do Thái gây nên trong cộng đồng người Do Thái ở Tây và Trung Âu. (Wikipedia)
Cuộc xét xử đại uý Alfred Dreyfus bị khuynh đảo bởi chính trị, dân tộc và tôn giáo, nên cán cân công lý sai lệch, thay trắng đổi đen. Đến nay vẫn còn tiếp diễn biết bao vụ án oan sai khắp nơi, vì vị thẩm phản thiếu sáng suốt, hoặc bị động do áp lực của nhà cầm quyền, hay phe phái quyền lực nào đó.
Chúa nhật V Mùa Chay hôm nay, Tin Mừng thánh Gioan giới thiệu Đức Giêsu như một thẩm phán siêu phàm. Cương trực, tự chủ, sáng suốt, Người thoát khỏi áp lực quần chúng, sức ép của lãnh đạo tôn giáo, các kinh sư và biệt phái, để xét xử công minh, chính trực và nhân ái. Mặc dù các kinh sư và biệt phái cố tình gài bẫy Người vào cuộc xét xử tiến thoái lưỡng nan, nhưng Người đã khéo léo, dễ dàng hoá giải theo đạo yêu thương của Thiên Chúa. Hơn nữa, Người vốn từ bi, nhân hậu, tràn đầy Lòng Thương Xót.
Tình thương khoan dung
Trước câu hỏi khá sỗ sàng, không cần giấu diếm dã tâm: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy,Thầy dạy sao?” Lòng Thương Xót của Đức Giêsu được dịp công khai biểu lộ. “Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.” Không muốn tỏ ra bất bình, phẫn nộ khi nhìn thấy những gương mặt đểu cáng, giả hình, xảo trá, đang hoan hỉ, đắc thắng, cũng chẳng muốn biểu lộ nỗi xót xa người thiếu phụ đang lẩy bẩy, run rẩy, khiếp hãi, hổ thẹn, tủi nhục. Người trầm ngâm cúi đầu, thinh lặng, với tấm lòng rộng rãi chan chứa bao dung, âm thầm thông cảm, nâng đỡ và che chở tội nhân. Người cũng khoan dung, nhẫn nhục buông xả thái độ hằn học, khiêu khích, sinh sự của nguyên cáo.
Không cần thẩm tra thiếu phụ, cũng chẳng vội trả lời các kinh sư biệt phái, đang đốc thúc dồn Người vào cái bẫy quá ư lộ liễu. Người bình thản làm nguội đi những cái đầu cao ngạo, nôn nóng, quá khích của “bên thắng cuộc.” Người im lặng để chia sẻ nỗi đau đớn, nhục nhã, lo sợ, hối cải muộn màng của tội nhân. Người nín thinh, vì xót xa thấu hiểu lòng dạ rắn độc của các kinh sư và biệt phái, đang mượn tội nhân làm bình phong hòng đấu tố Người. Lòng bao dung vĩ đại đã hoá giải tất cả mưu mô ám muội của họ.
Tình thương thức tỉnh
Thay vì đối chất làm cho ra lẽ sự đối xử bất công, phiến diện, thành kiến với phụ nữ phạm tội, tại sao không bắt cả bị cáo nam đồng phạm, tại sao không tố giác với Hội đồng kỳ mục, với thượng tế, hay với công quyền, Người vẫn cúi đầu im lặng cho mọi người cùng noi theo, cúi đầu nhìn xuống, nhìn vào tâm can, nhìn vào tận đáy lòng hoen ố, để chân thành tự kiểm và tự vấn.
“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Biết bao lần chính họ cũng đã lén lút gian dâm, hủ hoá, ngoại tình, mà còn may chưa bị lộ, cùng bao nhiêu lần ham muốn dâm tà mà chưa thành. “Ðồ giả hình, hãy liệu lấy cái xà khỏi mắt ngươi trước đã, đoạn ngươi sẽ trông rõ mà kéo cái dằm khỏi mắt anh em ngươi.” (Mt 7, 5)
Đức Giêsu còn gay gắt cảnh báo, không được kết án tha nhân vì hậu quả khôn lường: “Đứng xét đoán, đề khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào thì sẽ bị đoán xét cách ấy, và các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu ấy.” (Mt 7, 1-2)
Tình thương tha thứ
Đức Giêsu lại cúi đầu, hí hoáy vẽ dưới đất. Bỗng dưng sự lạ nhỡn tiền xảy ra. “Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.” Các nguyên cáo mới hớn hở, hùng hổ, vênh váo, tự đắc, bất ngờ trở thành bị cáo, cúi đầu hổ thẹn, đành buông rơi hòn đá, lẳng lặng ra về. Bấy giờ Đức Giêsu mới hỏi đến tội nhân: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai.” Đức Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Các kinh sư và biệt phái đều cực lực, đồng loạt đứng dậy kết án thiếu phụ phạm tội, thì Đức Giêsu khoan dung, ngồi xuống, thinh lặng, bỏ ngoài tai. Họ đòi ném đá chị, thì Đức Giêsu thản nhiên vẽ trên đất cát, coi như vết nhơ tội lỗi sẽ bị xoá nhoà vì tình thương thứ tha. Họ vẫn chưa buông tha chị, thì Đức Giêsu chẳng phản bác, cũng chẳng đồng tình, chỉ kêu gọi họ thức tỉnh, tự vấn lương tâm, yêu cầu ai trong sạch hãy ra tay. Vị Thẩm Phán siêu phàm xét xử công khai, nghiêm minh, đạt lý thấu tình, kết thúc phiên toà hoàn toàn bất ngờ và có hậu. Tội nhân không phải chết, nhưng được tái sinh nhờ vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađelêna “được tha nhiều vì đã yêu nhiều”; phải làm như thánh Gioan: trốn bỏ Chúa trong vuờn Giêtsimani, nhưng trở lại đứng bên thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” (Đường Hy Vọng, số 890)
Lạy Chúa Giêsu, sau bao nhiêu năm bon chen, đua đòi với đời, chúng con cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đánh mất niềm tin, lương tâm trong sáng, tâm hồn trong sạch, trở nên chai lỳ với tội lỗi. Kính xin Chúa khoan dung thương xót, thức tỉnh chúng con ăn năn, sám hối, để được Chúa thương yêu thứ tha, được bình an và hạnh phúc trở về xum vầy trong nhà Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con khoan dung với mọi người, để được Chúa thương yêu. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống khiêm nhường, để nhận thức được bản thân phàm hèn, tội lỗi, yếu đuối mỏng dòn, hầu thông cảm với tha nhân sai phạm, mà nâng đỡ, giúp nhau đổi mới, cùng trông cậy vào Lòng Thương Xót Chúa thứ tha, an ủi và chúc lành. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Tại một hòn đảo thuộc nước Ý, dân làng có một quy định rất khắt khe đối với phụ nữ nào ngoại tình. Đó là: Nếu một người phụ nữ đã lập gia đình mà ngoại tình bị bắt quả tang, người ta sẽ buộc vào cổ người phụ nữ đó một tảng đá lớn và xô xuống biển cho chết chìm, dưới sự chứng kiến của người chồng.
Ngày kia có một người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình và sẽ bị xử tử theo quy định. Nhưng đến ngày xử tử, người chồng của bà vẫn đánh cá ngoài khơi, nên dân làng phải gia hạn thêm vài ngày nữa. Người ta đã gia hạn nhiều lần, mà vẫn không thấy người chồng trở về.
Cuối cùng, dân làng không thể chờ thêm được nữa, họ đưa người đàn bà đó đến một vùng biển sâu, cột tảng đá lớn vào cổ rồi đẩy bà xuống nước. Nhưng lạ thay, mấy hôm sau mọi người đều thấy người đàn bà đó xuất hiện ở trong làng.
Thì ra người chồng đã hay biết tất cả những gì đã xảy ra cho vợ mình, thay vì trở về để chứng kiến bản án khắc nghiệt dành cho vợ, ông ta tìm mọi cách để ở lại ngoài khơi, với hy vọng kéo dài cuộc sống cho vợ. Và khi biết được ngày xử án, ông đã đến vùng biển, núp dưới một gềnh đá lớn. Khi người ta đẩy vợ ông xuống biển, ông đã bơi đến đón lấy bà, tháo gỡ tảng đá và đưa về nhà. Người vợ, khi nhận ra tình yêu của chồng đã hết lòng trung thành và phục vụ chồng. Và gia đình họ lại sống thật hạnh phúc bên nhau. Đúng là “Tình yêu không thể nào bị đánh bại”. “Có yêu thương là có tha thứ”. (Tuyển Tập các Truyện Hay)
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại vụ xử án bất đắc dĩ của Chúa Giêsu, với nguyên cáo là nhóm kinh sư và Pharisiêu và bị cáo là người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang. Dĩ nhiên, dân chúng háo hức kéo đến thật đông để chứng kiến quan tòa Đức Giêsu xử thế nào. Nhưng quan tòa đã làm cử tọa não nề buồn bã ra về, không còn hăng say cuồng nhiệt như khi khai tòa.
Những phút im lặng
Nhóm nguyên cáo hồ hới, hí hửng, xung khiên nộ khí, hủng hổ tố giác người đàn bà sa ngã. Không vành móng ngựa phân cách, bị cáo ủ rũ đứng trực diện với Chúa Giêsu. Người vẫn đang còn ngồi từ lúc giảng dạy. Lặng lẽ cúi xuống, Người chẳng xoi mói nhìn lên, hay hỏi han, thẩm vấn điều gì, chỉ chăm chú nguệch ngoạc vẽ trên đất. Giây phút thinh lặng tưởng chừng vô tận với cả đôi bên, lẫn công chúng, đang nín thở theo dõi phiên tòa đặc biệt.
Tất cả mọi người đều trông ngóng chờ đợi câu phán quyết. Tha hay buộc tội? Tiến thoái lưỡng nan, hành xử thế nào cũng sập mưu ma chước quỷ. Tha bổng thì lỗi luật Môsê, buộc tội thì vấp luật Roma, cấm dân Israel tự xử án tử hình, và nhất là trái ngược hoàn toàn với lòng thương xót vô biên, mà chính Người đang chuyên tâm giảng dạy.
Bên nguyên cáo còn sốt ruột trích luật Môsê, nhắc nhủ quan tòa thẳng tay áp dụng. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thinh lặng, vẫn vẽ vời dưới đất. Người im lặng như sau này im lặng, không trả lời Thượng Hội Đồng, quan Philatô, cũng như không một lời khi chịu khổ nạn.
“Chúa Giêsu là Ngôi Lời, nhưng để thực hiện việc tông đồ theo ý Đức Chúa Cha, trong 33 năm, Ngài thinh lặng 30 năm và nhất là trong giờ tử nạn, Ngài đã thinh lặng.” (Đường Hy Vọng, 523)
Người thinh lặng, xót xa, dằn lòng cơn bất bình trước lòng lang dạ sói của những nhà lãnh đạo tinh thần. Người im lặng, đắm mình vào lời cầu nguyện, xin cùng Đức Chúa Cha xua tan đi những cám dỗ sát nhân trong họ.
Trong thinh lặng, Người mong muốn các kinh sư, các người Pharisiêu dịu cơn thịnh nộ, dịu lòng nham hiểm, thù oán, mà hồi tâm, suy xét thấu đáo. Đề lương tâm mạnh dạn lên tiếng, để tình người thức giấc kết nụ, đơm hoa. Để xóa tan đi cái tâm lý bầy đàn, hùa nhau chạy theo cái ác, mù lòa bất nhân.
Người cũng thinh lặng, mong chờ tội nhân, người đàn bà yếu đuối, xét mình, hoán cải, ăn năn, sám hối. Đó là giây phút định mệnh. Quay về nẻo ngay, đường chính, hay còn mãi tiêc nuối đam mê u tối, sa đọa. Nhục nhã ê chề, người phụ nữ thẫn thờ thất vọng, chờ nhận những viên đá sắc cạnh, kết liễu cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng trước thái độ khoan nhân, điềm tĩnh của quan tòa Giêsu, chị cảm nhận được nỗi xót xa của Người, cảm thấy ánh mắt hiền lành từ bi ấm áp của Người.
Nguyên cáo thành bị cáo
Sau nhiều lời yêu cầu phán xử, Người ngẩng lên bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. (Ga 8, 7-8)
Lúc đầu họ hùng hổ bao nhiêu, thì bây giờ họ len lén, rón rén bỏ đi như kẻ trộm. Đang vênh váo làm nguyên cáo, bỗng chốc biến thành bị cáo, chẳng hơn gì người đàn bà ngoại tình kia. Một chi tiết rất lý thú, đó là “bắt đầu từ những người lớn tuổi.” Không gian tĩnh lặng càng giúp họ nhìn lại bản thân nhơ nhớp tội lỗi, Những người càng lớn tuổi càng xấu hổ mắc cở với người trẻ.
Người đàn bà cảm thấy được an ủi phần nào, bớt cô đơn, dù vẫn còn là bị cáo. Tâm hồn chị lóe lên tia hy vọng cứu thoát án phạt thảm khốc. “Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữa thì đứng ở giữa.” (Ga 8, 9)
Vào ngày 28/2/2013 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI về hưu, truyền thông thế giới đều rất quan tâm. Tin lành thì ít, tin dữ thì nhiều, báo chí quốc tế đào xới những khiếm khuyết về cơ cấu hoạt động của Vatican, cũng như phao những đồn đoán bất thân thiện với Giáo Hội. Nhà báo mặc nhiên biến thành nguyên cáo cuồng nhiệt, hùa nhau ném đá vào Vatican, không khác gì kinh sư và Pharisiêu ngày xưa. Phải chăng họ nói theo lương tri, theo sự thật, hay chỉ là lính đánh thuê cho những tập đoàn phản Kitô giấu mặt? Lúc nào đó, cảnh tỉnh họ sẽ nhận ra mình cũng đích thị chỉ là bị cáo.
Tình Yêu chiến thắng
Giờ phút này, sự im lặng không còn căng thẳng, mà rộn rã vui mừng hy vọng. “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 10-11)
Đức Giêsu đã khéo léo xua bầy kên kên dữ tợn biến đi, để cứu thoát chị khỏi cái chết ê chề nhục nhã. Chính sức mạnh Tình Yêu đã giái thoát chị. Lòng Thương Xót vô ngần của Người đã kịp thời giải cứu. Thấy chị đã chân thành ăn năn, sám hối, Người Quan Tòa, chí công, chí ái đã từ chối luận tội chị. Còn ưu ái dặn dò: “Thôi chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11)
Anh em hãy giàu lòng thương xót, như Cha anh em là Đấng giàu lòng xót thương. (Lc 11, 36)
Lậy Chúa Giêsu vô cùng nhân ái, Chúa biết con yếu đuối, xin dạy con ăn năn sám hối cho trọn, biết chạy đến Lòng Thương Xót của Chúa, qua tòa hòa giải, để con được tha thứ, và phục hồi tấm áo linh hồn tươm tất sạch sẽ.
Lạy Mẹ Maria, xin chỉ cho con nhận thấy và lãnh nhận được những ân huệ diệu kỳ, mà con không đáng nhận được từ lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhà hiền triết Socrates (470–399 TCN) là một triết gia Hy Lạp, có một lời khuyên vàng ngọc, được xem là châm ngôn tối thượng để giáo dục con người, đó là câu: “Hỡi người, hãy tự biết mình.” Đây là di ngôn quan trọng nhất mà Socrates để lại cho đời.
Không dễ biết mình
Tự biết mình là điều hết sức quan trọng, nhưng đây cũng là điều không dễ, bởi vì con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Một nốt ruồi nhỏ trên khuôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán, để lên án người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân.
Chúa Giê-su giúp ta tự biết mình
Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau như cổ nhân thường nói: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”
Rồi Ngài lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lộp bộp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc, ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Tự biết mình là điều rất cần thiết
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hy vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình. Nếu không thấy được lầm lỗi và những sai sót của mình, chúng ta sẽ không bao giờ cải thiện đời sống được.
Lạy Chúa Giê-su,
Trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được mấy người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người yêu mến.
42.Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội mình
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi nhìn vào nội giới, nhìn vào nội tâm mình. Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính chúng ta. Thế nên một nốt ruồi nhỏ trên mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác thì mình thấy rõ ràng, còn lỗi lầm to lớn nặng nề của mình thì lại không hay. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng bao giờ biết phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ phạm tội ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của mình. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của mình. Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn nhân cơ hội để dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách phạt mình trước rồi lo trách phạt người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy ta như vậy: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”
Khi các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu, họ hối thúc Chúa Giêsu ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Thế nhưng Chúa Giêsu không vội phán xét ai. Trước hết, Ngài muốn cho những người tưởng mình vô tội hãy xét lại chính mình.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giêsu lặng thinh không nói một lời.
Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí vắng lặng để cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết, viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giêsu lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.
Rồi Ngài ngồi xuống trong thinh lặng. Ngài cứ viết, viết trên đất để tạo bầu khí thinh lặng cho mọi người hồi tâm.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Nhìn lại mình để thấy được tội lỗi của mình là điều hết sức quan trọng để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được là mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi thấy được mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc không chần chừ. Còn nếu không thì chẳng có gì thay đổi.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm mình, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
Nhìn lại mình, nhìn vào mình để thấy được những tội lỗi của mình là khởi điểm, là bước đầu cho việc cải thiện đời sống. Không có bước nầy, chẳng thể có bước thứ hai, chẳng có gì được cải thiện.
Lạy Chúa Giêsu, nhìn lại mình để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó mà cũng là việc không mấy ai muốn làm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con.
Xin cho Lời Chúa trở nên gương soi cho chúng con, giúp chúng con nhận ra những vết nhơ trong tâm hồn chúng con, những nết xấu trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia, Chúa Giêsu đã giúp đám người Do Thái nhận ra tội lỗi của họ thì nay xin Ngài cũng giúp chúng con nhận ra lầm lỗi của mình để sửa đổi ăn năn.
43.Ném đá – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Bài Đọc I (Isaia 43:16-21) đem lại niềm hy vọng trong Mùa Chay: “Hãy quên đi những việc đã qua và đừng quan tâm đến các việc xa xưa nữa…Thiên Chúa hứa sẽ đổi mới mọi sự, khai mở đường đi và cho dân Chúa có nước uống…”
Trong Bài Đọc II (Philiphê 3:8-14) Thánh Phaolô cũng nói Ngài quên hẳn những gì ở đàng sau và chỉ hướng về phía trước “để chạy đến đích cuối cùng là phần thưởng Nước Trời, trong sự hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu và sự Phục Sinh của Người.”
Bài Phúc Âm (Gioan 8:1-11) ghi lại một câu chuyện rất cảm động về người phụ nữ bị kết án là phạm tội ngoại tình đáng phải ném đá cho đến chết theo luật Môise (Thứ Luật 22:23-24); nhưng chẳng ai dám ném đá chị, vì Chúa bảo “ai hoàn toàn sạch tội hãy ném đá chị đó đi!” Mọi người đều sợ hãi bỏ đi, vì nhận thấy chính mình cũng đầy tội lỗi. Đứng lại ném đá, sợ Chúa Giêsu là “Đấng thấu suốt mọi sự, đã có thể làm cho người chết sống lại, người bệnh được chữa khỏi,” sẽ vạch tội họ ra chăng. Chưa kể còn có những người có đời sống xấu xa mà ai cũng biết! Chúa Giêsu đã tha thứ cho người phạm tội ngoại tình và bảo: “Cha cũng không kết án con. Con hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp đọc và suy niệm về Dụ Ngôn rất cảm động “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:1-3,11-32). Chúa Giêsu kể dụ ngôn đó để trả lời những nguời Biệt Phái và Luật Sĩ cứ tự cho mình là người công chính, giữ luật đầy đủ và phàn nàn là Chúa Giêsu cứ “đón tiếp những người tội lỗi và còn ngồi ăn uống với họ…” Qua Dụ Ngôn “Người Cha Nhân Hậu” và thái độ tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi những người trót “sa ngã phạm tội vì yếu đuối” hãy ăn năm sám hối, chừa bỏ đời sống tội lỗi, cải thiện đời mình , để trở nên những con người mà Chúa “đã dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Khởi Nguyên 1:27). Vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. (Matthêu 9:13).
Thực sự, Chúa Giêsu không bao che tỗi lỗi. “Tội vẫn là tội,” vẫn đáng bị kết án (Matthêu 5:27-30); người đàn bà ngoại tình hôm nay, thực sự vẫn là một tội nhân. Nhưng Chúa Giêsu đã phải chịu khổ nhục và chết trên Thánh Gía để chuộc tội chúng ta. Ngài luôn muốn cho tội nhân có một cơ hội để “làm lại cuộc đời!” Ngay trước khi chết trên Thánh Gía Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chính những kẻ đã lên án bất công, hành hạ và giết Ngài:“ Xin Cha tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Luca 23:34).
Tội luôn là điều xấu phải xa tránh. Nhưng trên trần gian này, ai dám tự vỗ ngực mình và tuyên bố “ Tôi hoàn toàn sạch tội” để mà lên án người khác, để mà “ném đá người khác!”
Mùa Chay là “thời gian rất thuận tiện” (2 Côrintô 6:2)) để chúng ta ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy lo ăn năn sám hối và “đấm ngực mình, đừng lo đấm ngực người khác” để xin Chúa thứ tha tội lỗi và giúp chúng ta chừa bỏ tội lỗi.
Xin cùng cầu nguyện chung cho nhau để trong những ngày trọng đại này, chúng ta biết hy sinh dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện, dự các cuộc Tĩnh Tâm Mùa Chay, hy sinh hãm mình thắng vượt những đam mê tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn qua Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và dành dụm tiền bạc giúp người nghèo khó trên thế giới. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta được chết đi với tội lỗi, cải thiện đời sống để được cùng sống lại thật với Chúa trong đời sống trong sạch, hòa hợp yêu thương và nhiệt thành phụng sụ Chúa và mọi người trong cuộc sống hàng ngày.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nếu có lúc nào đó chúng ta sa ngã vì yếu đuối, vì lầm lỡ, chúng ta cần điều gì nơi tha nhân? Cần trừng trị cho thích đáng hay cần khoan dung tha thứ? Cần những lời kết án cay nghiệt hay cần những lời cảm thông nâng đỡ? Có lẽ ai cũng cần được khoan dung để có cơ hội làm lại cuộc đời. Có lẽ ai cũng cần sự cảm thông để tìm lại sự bình an tâm hồn. Thế nhưng, giòng đời thường không đối xử tốt với chúng ta như vậy. Người đời thường dễ kết án hơn tha thứ. Người đời thường tìm cách xa lánh kẻ phạm tội hơn gần gũi để cảm thông. Có biết bao nhiêu lý do để người ta luận tội và kết án lẫn nhau, và chắc chắn cũng có rất nhiều lý do để họ xa tránh kẻ phạm tội để khỏi lụy vào thân.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một quang cảnh rất đời thường. Có một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chị đã phạm phải trọng tội mà theo luật Do Thái phải chịu ném đá tử hình. Các luật sĩ và biệt phái đã dẫn người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Kẻ đã từng tòng phạm với chị cũng đã được tẩu thoát. Vì phúc âm nói rằng: “người ta dẫn tới trước mặt Chúa một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Ngoại tình phải là hai người. Quả tang tức là bắt tại chỗ. Thế mà chỉ có một mình chị bị dẫn ra trước đám đông, còn kẻ đồng phạm với chị đâu? Có thể anh ta là người có thế lực và giầu có nên đã mua chuộc các hương chức trong làng? Có thể anh ta là loại người “vừa ăn cướp vừa la làng” chăng? Và như thế, có thể anh ta cũng cùng đứng chung với nhóm người đang chờ đợi ném đá người phụ nữ tội lỗi này. Chị cúi đầu chẳng dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã làm nên chẳng thốt lên lời van xin. Chị đã sẵn sàng cho một cái chết dành cho một người phụ nữ lăng loàn.
Nhưng phúc đức cho chị, những kẻ chủ mưu ném đá chị lại muốn “mượn gió bẻ măng”. Họ muốn dùng một mũi tên mà “bắn chết hai con nhạn”. Họ đòi Chúa Giêsu làm trọng tài để nhân cơ hội này, hãm hại chính Chúa Giêsu. Nếu Chúa bảo tha, là chối bỏ luật của tiền nhân. Nếu Ngài bảo phải chết, lại vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái.
Chúa Giêsu đã không kết án, nhưng cũng không dung túng sự xấu mà chị ta đã phạm. Ngài đã im lặng lấy tay viết trên cát. Có nhiều người cho rằng Ngài đã viết lên những tội lỗi của con người đã từng phạm. Ngài đã viết trên cát chứ không ghi khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát sẽ bị xoá nhoà. Tội lỗi con người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được, nhưng Chúa luôn rộng lượng thứ tha”. Có nhiều ngừơi cũng cho rằng: Ngài muốn trì hoãn thời gian, để mỗi người tự vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời người mà thanh danh đã bị bôi nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình hay không? Ngài muốn có một khoảng thời gian tĩnh lặng để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố được lắng dịu hầu có thể đối xử công bằng với nhau hơn. Cuối cùng, Ngài đã nói với đám đông rằng: “ai trong các ông trong sạch, thì hãy ném đá người này đi”. Sự trong sạch không chỉ là không làm những điều xấu, mà còn đòi hỏi sự trong sạch trong tâm hồn chưa một lần ước muốn phạm tội. Sự trong sạch không chỉ là không phạm tội mà còn là không làm gương mù gương xấu cho người khác. Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ người lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là người trong sạch đủ để có thể thi hành một lề thói dã man này. Họ đã bỏ đi hết. Một quang cảnh thanh bình đã đến với chị. Chân trời mới đã mở ra với chị. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một con đường sống, bằng một giọng nói dịu dàng nhưng chứa đựng một nguyên tắc sống cho cả cuôc đời của chị: “Ta cũng không kết án chị phải chết đâu! chị hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một làn gió của yêu thương đã xoá bỏ quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu thương đã mang lại cho chị một niềm hy vọng những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của chị.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em, Có bao giờ chúng ta đã từng nói điều đó với anh em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng ta đã đối xử khoan hồng với nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá bỏ đi những thành kiến xấu về người anh em hay chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy tập để đối xử tốt với nhau hơn. Nhiều người vẫn biết rằng “nhân vô thập toàn”, thế nhưng vẫn để “bụng” và cố chấp về những lầm lỗi của anh em. Nhiều người vẫn đầy rẫy khuyết điểm nhưng lại dễ dàng la rầy, kết án anh em. Nhiều người đã quên cái đà trong mắt mình, mà lại chỉ thích tìm kiếm bới móc, bêu xấu, những cái rác của tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: “đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hãy sống độ lượng với nhau để xây dựng một thế giới thanh bình. Và hãy nhớ rằng: “điều gì anh em không muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta như vậy”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Trong bộ phim của Liên Xô trước đây được mang tựa đề khá thi vị “Sân ga chỉ có hai người,” kể về chuyện trễ tàu của một ông kia và một bà nọ, xa lạ, nhưng rồi vì sân ga chỉ còn hai người, nên đi dần đến thân nhau.
Hôm nay bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng có thể đặt cho cái tựa đề như thế. Sân ga chỉ có hai người – hay “Phiên toà chỉ còn lại hai”
Người có công nghĩ ra tựa đề này là thánh Augustino. Và chính thánh nhân đã chơi chữ thật kỳ diệu: Chỉ còn lại hai: Miseria và Misericordia. Dịch là “sự khốn cùng” và “lòng xót thương.” Miseria, thêm cor, cordis là trái tim, ở giữa, sẽ có misericordia. Dịch thoát ý là, chỉ còn lại hai: “người đáng thương” và “Chúa xót thương.”
Do đâu mà đưa đến phiên toà rốt cuộc chỉ còn 2 người. Và 2 người đó là ai? Ta sẽ tìm hiểu.
Do đâu mà chỉ còn hai. Ta rảo qua phiên toà.
Đức Giêsu đang giảng giữa đám đông, thì các thầy Thông giáo và Biệt phái dẫn một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đem đến gài bẫy Chúa. Hẳn là người phụ nữ này phải run bắn lên vì vừa xấu hổ vừa sợ chết. Mà không phải sợ chết nữa mà là sẽ chết thật, vì chiếu luật Mosê Đnl 22,22 và Levi 20,10: Sẽ phải bị ném đá cho chết cả gian phu lẫn dâm phụ. Không cần xét xử gì.
Đây là cơ hội bằng vàng để gài bẫy Chúa. Và đây cũng là câu hỏi sinh tử mà Chúa gặp phải trong cuộc đời rao giảng.
Nếu không cho ném đá: Đức Giêsu sẽ bị cáo là lỗi lề luật, vi phạm luật pháp.
Nếu cứ cho ném đá: lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài rao giảng sẽ vô nghĩa. Lòng nhân ở trên mây! Ở đây ta thấy, họ vừa khiêu khích Chúa lỗi luật Môsê, vừa gián tiếp công nhận giáo lý về lòng nhân từ mà Chúa rao giảng, chứ nếu không công nhận, thì họ chẳng thử thách Chúa làm gì: Còn Thầy, Thầy dạy sao?
Chúa đã trả lời bằng một hành động và bằng một lời nói. Bằng hành động là lấy tay viết viết, vạch vạch trên đất hai lần.
Chúa viết gì? Ta không cần biết, mặc dầu đã có nhiều người đoán già đoán non Chúa viết điều này điều nọ (như thánh Jêrôme nghĩ: viết tội những người tố cáo…), nhưng cái chính là Chúa tránh trả lời, Chúa từ chối xét đoán – nghĩa Sêmít: xét đoán là lên án.
Cho đến khi họ cứ hỏi đi hỏi lại thầy nghĩ sao, thầy dạy thế nào về trường hợp này, Đức Giêsu đã trả lời một câu. Một câu mà ai cũng cảm phục là cực kỳ khôn ngoan. Vừa theo luật (công bình) vừa nhân từ (tha thứ). Luật Đnl 13,9-10; 17,7 dạy: Chính chứng nhân sẽ tra tay trước. Toàn dân sẽ ra tay sau. Vậy nếu không ai tra tay trước, không ai ném viên đá đầu tiên thì cũng sẽ chẳng có những hòn đá khác ném đi…
Vậy thì Chúa Giêsu đã dựa vào Luật Môse, chứ không lỗi luật, để trả lời họ. Ai xét mình là kẻ vô tội, thì hãy ném viên đá đầu tiên. Lời này vừa thốt ra –cũng khen là lương tâm của đám đông vẫn còn trong sáng, chưa chai lì– nên ai cũng tự xét mình và rút lui. Cảnh rút lui là một cảnh cười ra nước mắt: bởi bắt đầu là những kẻ cao niên –càng thêm tuổi càng thêm tội. Phải chăng vì kẻ cao niên thay vì càng dày tháng năm càng tăng công đức, thì ngược lại; hay là phải chăng vì kẻ cao niên thì khôn ngoan biết là không bắt bẻ được Chúa, nên lẩn đi cho sớm kẻo lại được dự một buổi lên lớp mất mặt nữa dành cho những ai tự coi mình là đạo đức, có trách nhiệm bắt người khác giữ luật: Khốn cho các ngươi, hỡi luật sĩ và biệt phái! (x. Lc 11,27-54)
Chỉ còn lại hai.
Dầu lý do nào đi nữa, thì rồi rốt cuộc sân sa chỉ còn hai người. Phiên toà chỉ còn lại hai: Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Miseria và Misericordia.
Thánh Augustino cũng mạnh dạn nói: Đó là tóm tắt toàn bộ Tin Mừng. Đấng xót thương đứng trước kẻ đáng thương. Lòng nhân hậu đối diện với điều khốn cùng. Ta đến để cứu người tội lỗi. Đó là tóm tắt sứ mạng của Chúa, là tóm tắt toàn bộ Phúc Âm.
Câu hỏi của Chúa giúp người phụ nữ có thể nói được ít là một câu, vì từ đầu đến giờ chị đã cúi gầm mặt, xấu hổ, lặng thinh.
Chúa không hỏi: Sao chị lại phạm tội? Sao chị dại dột thế? hay, Chị phạm tội trong hoàn cảnh nào? Nếu hỏi như vậy, chắc chị cũng lặng thinh. Và cũng không có đối đáp. Sân ga hai người mà vẫn độc thoại. Nên Chúa hỏi: Này chị, họ ở đâu cả rồi, không ai lên án chị sao?
Chị trả lời được ngay: không ai cả, thưa ông.
Không ai cả, vì không ai vô tội cả, cho nên chẳng ai dám ném viên đá đầu tiên.
Đây là một đoạn Tin Mừng nhiều người rất thích. Thích vì nó rất phù hợp trong việc ngăn cản kết án người khác. Nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới. Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giê-su: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’, thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm cho một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn…
Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi tan hết sự bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.
Trong phiên toà thông thường, trước khi tuyên án, quan toà cho đòi nhân chứng, cho đòi nguyên cáo. Nếu nhân chứng không có mà nguyên cáo thì lại bỏ cuộc, hoặc bãi nại thì phiên toà dừng lại. Cũng có lúc bên nguyên bãi nại mà toà vẫn xử thì công tố viên đứng ra đóng vai nguyên cáo. Vai trò này trong sách Khải Huyền dành cho Satan: “Vì Satan kẻ tố cáo anh em của Ta, ngay đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nhờ máu của Con Chiên nay đã bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Vậy là cũng chỉ còn lại có hai. Người có tội và Đấng tha tội. Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Kẻ khốn khó bần cùng và lòng nhân hậu vô cùng. Khi nhìn nhận mình là kẻ có tội, tức người khốn khó đáng thương, ta sẽ gặp ngay Đấng xót thương, Đấng tha tội.
Có hai tội nhân vào sa mạc ăn chay đền tội trước khi được xét xem có đáng nhận vào tu viện hay không? Sau một năm thử thách, có khác biệt ở hai người: một kẻ ốm o buồn phiền, một người vui tươi khoẻ mạnh. Họ được dẫn tới bề trên để chờ sự phán quyết xem có được nhận vào tu không. Trả lời câu hỏi “làm gì trong năm qua,” người ốm o nói: Suốt năm tôi suy nghĩ về tội của tôi, tôi nghĩ tới hình phạt, tôi sợ hãi đến quên ăn mất ngủ.
Còn người vui tươi đáp: Suốt năm qua, tôi nghĩ đến ơn lành Chúa ban, tôi nghĩ tới lòng nhân hậu tha thứ của Chúa. Tôi ca tụng Ngài –lòng sám hối biến thành lời tụng ca. Anh được nhận vào tu viện.
Nhưng … người ốm o cũng được nhận vào cộng đoàn.
Đấng xót thương luôn thương xót kẻ đáng thương. Sân ga chỉ còn 2 người. Ai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi đáng thương (miseria) liền gặp ngay lập tức Đấng nhân hậu xót thương (Misericordia). Dại gì mà không nhận đi! Phiên toà chỉ còn lại hai thôi.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
Suy niệm:
Theo luật pháp Do Thái, người ta sẽ phải bị xử tử khi phạm vào ba tội này: thờ ngẫu tượng, sát nhân và ngoại tình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, các Luật sĩ và Biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đã bắt quả tang thì phải có hai người nam nữ phạm tội. Thế nhưng, việc trọng nam khinh nữ trong xã hội lúc bấy giờ đã khiến người nữ này như một một phương tiện họ dùng để gày bẫy kết án Chúa Giêsu.
Giờ đây, Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: nếu Người kết tội người phụ nữ này phải bị ném đá cho đến chết theo luật thì rõ ràng là những lời dạy trước nay của người sẽ bị sụp đổ: nào là đến cứu chữa kẻ tội lỗi, đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi để nâng đỡ họ dậy không phải là cử chỉ yêu thương và nhân từ mà chỉ là đánh bóng thương hiệu. Và việc tuyên bố tội đó đáng bị xử tử, Chúa Giêsu sẽ đối diện với việc vi phạm luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn ngược lại, nếu Chúa Giêsu bảo tha cho người phụ nữ ấy thì Người sẽ bị tố cáo là dạy cho người ta phá bỏ luật pháp Môisen, dung túng trước tội ngoại tình. Biệt phái và Luật sĩ Do Thái dùng cái bẫy hết sức tinh vi và bằng mọi thủ đoạn để kết tội Chúa Giêsu, để có trả lời đàng nào đi nữa, Người cũng sẽ bị dân chúng chống đối và kết tội. Như vậy, sau việc xử án họ dành cho người phụ nữ là việc họ đang toan tính một cuộc xử án dành cho Chúa Giêsu, mà đã có bản án sẵn đó là tử hình Người bằng hình thức đóng đinh.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lại bằng một phản ứng rất gây ngạc nhiên. Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Sau đó tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu là một sự tế nhị của một Đấng Phán Xét dành cho tội nhân. Từ bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không tìm ra nội dung Chúa Giêsu viết gì trên đất. Đối với thánh Gioan, việc ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Người. “Cử chỉ không lời” của Chúa Giêsu lại là một sứ điệp muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy và cả với người phụ nữ. Chỉ trong thinh lặng, con người ta được mời gọi trở về với cõi lòng mới có thể nghe được tiếng Chúa trong lương tâm mình.
Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Đoạn Tin mừng dùng những từ rất hay: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”. Họ rụt rè xấu hổ, và nhận ra mình cũng đáng tội như ai nên mới có thể bao dung cho người khác và âm thầm rút lui.
Chúa Giêsu không nỡ lột mặt nạ tội lỗi của từng người ở chỗ công khai, thì Chúa cũng muốn họ đừng làm như thế đối với người anh chị em mình. Chúa không đưa con người ta ra xét xử dưới ánh sáng của Luật nhưng đưa người ta về lại với lương tâm. Chỉ khi đối diện với lương tâm, đối diện với lòng mình, thì mình mới có thể thay đổi được. Vì “người ta có thể lừa dối cả thế giới nhưng không thể lừa dối được chính mình”. Có những người phạm tội hình sự, trốn chui trốn nhủi, thay tên đổi họ. Nhưng mười hay hai mươi năm sau, họ cũng bước ra đầu thú vì tiếng nói lương tâm cắn rứt. Vâng, dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ. Như có lần Chúa bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc 6,36-38).
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Chúa Giêsu phục hồi nhân phẩm cho người phụ nữ: “Này chị”, một lời nói nhẹ nhàng, thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai: “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Quan tòa xét xử hữu hiệu không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Giống như lương y không chê sự bẩn thỉu hay nhiễm trùng của bệnh nhân, nhưng là cứu giúp người bệnh bằng mọi giá.
Sách tiên tri Isaia mời gọi: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông”. (Is 1,16-18) Vậy trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy chạy với tòa Giải tội, thú nhận sai lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm sửa đổi. Lòng thương xót của Chúa sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta và mời gọi ta đứng lên làm lại cuộc đời mới trong tình thương của Chúa để được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
47.Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
48.Can đảm nhìn mình, đừng lên án người
(Suy niệm của Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho ta.
Hãy nhớ rằng, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực hoán cải đời sống mình, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân khi quyết tâm trở về cùng Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy dựa vào lời Chúa Giêsu nói với những người lên án chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Trong các ngươi, ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”, để thấy trách nhiệm của từng người chúng ta là: Hãy can đảm nhìn vào chính bản thân mình, chứ đừng lên án người khác.
Tin Mừng kể, người ta mang đến trước Chúa một phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm trọnh tài. Nhưng thật nham hiểm! Họ lại dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kính nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Chúa, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa. Độc ác hơn, họ muốn tìm chứng cớ, để nhân cơ hội này, hãm hại Chúa. Vì nếu Chúa tuyên bố tha thứ cho chị, Chúa sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo. Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế, Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Người cũng độc ác như những gì luật đã quy định. Cả hai trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.
Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người.
“Ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Có ai sạch tội đâu, nên có ai dám cầm cục đá nào mà ném vào chị đâu, dù là một cục đá nhỏ nhất. Không những không dám ném mà còn bẻ mặt. Nói theo kiểu bình dân mà các bạn trẻ bây giờ hay nói: “quê độ”. Bẻ mặt, “quê độ” đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần. Sau cùng chẳng còn ai, dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.
Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia. Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ. Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, vẫn tỉnh bơ, lên án chị, làm như mình vô tội lắm.
Còn chúng ta, anh chị em và tôi thì sao? chắc cũng không khác gì những người Dothái khi xưa. Nhiều lần mình đã xét đoán, đã lên án anh chị em xung quanh, trong khi bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em xung quanh.
Hãy nhìn vào chính bản thân mình trước, đừng kết án anh chị em của mình. Nhìn vào chính mình để mà ăn năn hối cải, để khám phá những lỗi lầm mà chừa bỏ và trở về với Chúa.
Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là can đảm, là nghị lực, là ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy luôn luôn đinh ninh trong lòng điều này: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!
Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng, suốt mùa Chay, chúng ta đã cùng nhau ăn năn tội lỗi, thì tuần Thánh sẽ là cơ hội để chúng ta chấp nhận đi vào mầu nhiệm thánh giá của Chúa cách sốt sắng hơn, thấm thía hơn. Nhận ra Chúa chết cho mình, ta càng phải khẳng định rằng, tội lỗi là kẻ thù số một của cuộc đời mà ta phải cố sức từng giây phút để tránh né, để chiến đấu chống trả, để chữa trị và để không bao giờ tái phạm.
49.Khuất tất trong một vụ án “bất thường”
(Trích trong website của Tổng Giáo Phận Hà Nội)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “phải ném đá” thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm…Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lời tuyên án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
50.Người phụ nữ ngoại tình – McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?”.
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?”. Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi”.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này”. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ”.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của mình phía sau, và có một bước khởi đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi. Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức Người đối xử với người phụ nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình. Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế mình, trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại. Không người nào có lòng thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này, trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với người câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử dụng người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của Người giống như của một bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án. Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi. Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi, thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót đối với người đồng loại.
“Hãy cứ để cho ai không phạm tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để có được câu nói đó” (Oscar Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh ta, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại ra trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói: Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng: Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói: Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ? Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối. Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói: Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói: Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Xem ra mọi người đều có tội ít nhiều. Thế nhưng, những kẻ có tội lại hay kết án nhau. Nhiều vụ án bất công, kẻ xử án cấu kết với kẻ có tội và xử cho tại ngoại, còn kẻ vô tội lại phải chịu tội đau đớn. Nhiều kẻ ác lợi dụng địa vị và thế lực gây khổ cho người hiền, ức hiếp người vô tội. Luật sĩ và biệt phái lợi dụng quyền hạn của mình xử án bất công. Họ bắt người thiếu phụ phạm tội ngoại tình và định ném đá còn kẻ tòng phạm thì được tại ngoại. Hơn nữa, họ còn dùng chị làm con chốt thí để gài bẫy âm mưu hại Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài: theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy , Thầy dạy sao? Nếu Ngài nói tha thì họ nói Ngài làm trái luật Môsê, nếu nói không tha thì Ngài đã làm ngược lại điều Ngài dạy: phải có lòng nhân từ, khoan dung, tha thứ. Chúa Giêsu biết rõ sự nham hiểm của họ, nhưng Ngài không kết án họ mà giúp cho họ suy nghĩ, đánh động lương tâm mọi người: Ai không có tội thì ném đá chị này trước đi. Không một ai dám cầm hòn đá nữa, họ buông tay bỏ hòn đá rơi xuống chân mình rồi lặng lẽ bỏ đi từng người một, từ người luống tuổi đến kẻ nhỏ nhất. Chỉ còn lại một người vô tội còn đứng đó nhưng không bao giờ cầm hòn đá ném vào ai. Ngài nói với chị phụ nữ: tội con đã được tha, con về bình an và đừng phạm tội nữa. Đấng tốt lành vô cùng lại không muốn kết án ai, còn những người tội lỗi lại hay muốn kết án anh em để che đậy sự nham hiểm xấu xa của mình.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ một điều: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội ta phạm không có nghĩa là Người dung túng cho tội lỗi, nhưng Người muốn cho chúng ta có cơ hội đứng dậy, sửa đổi bản thân mình. Không có ai ghét tội lỗi cho bằng Thiên Chúa, nhưng Chúa không vì thế mà ghét bỏ con người tội lỗi. Ngài phân biệt rõ ràng giữa tội lỗi và con người. Tội lỗi thì đáng ghét nhưng con người thì đáng thương. Chính tội lỗi làm con người mất tự do, khổ sở, nhưng con người vì yếu đuối và thiển cận nên nhiều khi bị ma quỷ lừa gạt. Vì vậy, Chúa Giêsu đã không tiếc mạng sống mình, liều mình cứu con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.
Ai lỡ phạm tội mà có lòng thống hối trong niềm trông cậy nơi Chúa Giêsu sẽ được tha thứ, được miễn cho hình phạt đời đời. Chúa Giêsu đã không kết án chị phụ nữ ngoại tình nhưng cứu chị thoát khỏi cái chết trong gang tấc, rồi Ngài tỏ lòng khoan dung: không ai kết án chị ư, tôi cũng vậy. Chị hãy về và “từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay đừng phạm tội nữa là điều quan trọng nhất. Có lẽ chị phụ nữ đã thấm thía hậu quả của tội lỗi mình. hậu quả của tội là cái chết nhục nhã đau đớn, không mấy ai thương tiếc, bởi vì những kẻ giết chị nhân danh luật mà làm. Thế nhưng vận mạng chị đã đổi khác nhờ vào ơn cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa. Chị đã biết trông cậy và tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa và được ơn giải cứu.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu luôn đối xử nhân từ và tỏ lòng xót thương. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho kẻ biết ăn năn và ban ơn cứu độ. Vậy trong mùa chay này, chúng ta hãy chạy đến Người, thú nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết sửa đổi. Chắc chắn Chúa sẽ không kết án nhưng nói lời tha thứ, tạo cơ hội cho chúng ta được đứng lên làm lại cuộc đời, quyết sống cuộc đời mới trong tình thương của Chúa và mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy: “Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát nhân và ngoại tình”. Ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi tiếng là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
- Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa trình vấn đề lên Thiên Chúa.
- Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu: “Như thể Ngài không nghe họ nói gì”. Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của họ.
- Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông, sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi mắt của Ngài”.
- Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ viết trên đất”. Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái như sau: “Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá trước!”. Chữ vô tội chẳng những có một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn làm như bà này đã làm”. Mọi người đều im lặng, và những người tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: “Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: “thưa không”. Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.
- Quan niệm của họ về thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định. Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó”.
Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người khác.
- Biến cố này cho thấy cách sống động thái độ thô bạo của họ đối với dân chúng.
Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm tính của con người thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục đích.
Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về Chúa Giêsu.
- Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành đủ để đoán xét người khác.
- Một nguyên tắc khác không kém quan trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh thoảng chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và luôn luôn an ủi”. Khi một bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên hệ” nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể làm gì để hoà giải những hậu quả của lỗi lầm?”. Nói cách đơn giản, ta phải dành cho người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho, khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.
- Điều quan trọng chúng ta phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Trong một cách Chúa Giêsu đã không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: “Đừng lo, không sao đâu!”. Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái độ của Chúa Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:
- Một dịp thuận tiện thứ hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, như thể Người đến bảo người đàn bà ấy rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc lấy mình”. Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến một người, không những đã sống như thế nào, mà còn có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.
- Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
- Một niềm tin vào bản tính con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa”. Điều lạ lùng và phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện với một người từng làm ác, Ngài không bảo “ngươi thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa”. Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành thánh nhân.
- Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh tẩy?
Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc ăn mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.
Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà cáo giải, bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà già. Đúng thế, thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt, người ấy đã đập bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết được truyền thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung. Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy, với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
Mùa chay là thời điểm thuận tiện để mỗi người chúng ta làm một cuộc trở về. Trở về với Chúa, với anh em và với chính mình.
Tin mừng của Chúa nhật 4 Mùa Chay tuần qua là lời mời gọi tha thiết chúng ta trở về với Chúa và với anh em của mình qua dụ ngôn “người cha nhân hậu”. Trong Tin mừng hôm nay, qua việc các kinh sư và người Pharisêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu trong việc xét xử người đàn bà bị bắp quả tang phạm tôi ngoại tình, Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy trở về với cõi lòng mình trước khi thực hiện hành động xét xử người khác. Nói cách khác, đó là lời mời gọi từng người chúng ta hãy trở về với chính mình. Đây là việc làm khôn ngoan, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Trở về với chính mình là một một việc làm thật quan trọng. Nhờ biết trở về với chính mình, biết nhìn vào tận cõi lòng mình mà những Kinh sư và những người Biệt Phái lần đầu tiên nhìn nhận mình là những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi họ quay trở về với chính mình cách hết sức tế nhị và độc đáo: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”. Lời nói chân tình ấy là bảng chỉ đường tuyệt vời cho những kinh sư và Biệt Phái trở về với chính mình. Trước khi gặp Chúa Giêsu, khi chưa trở về với chính mình, các Kinh sư và Biệt Phái không hề nhìn nhận mình là kẻ có tội. Các ông luôn chọn cho mình thế đứng cao hơn mọi người “Lỗi lầm là của ai đó chứ không bao giờ phải là của tôi”. Và cho đến khi gặp được Chúa Giêsu, được Ngài chỉ đường cho họ trở về với chính mình thì họ đã nhận ra mình cũng là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, cũng cùng trong tình trạng tội lỗi như người phụ nữ kia thôi, có khác chăng là chưa bị ai “bắt gặp quả tang”. Nhưng trước toàn án lương tâm, họ đã thú nhận tình trạng đích thực của mình. Chúa Giêsu nhắc nhớ họ: “Ai trong các ngươisạch tội , thì cứ việc lấy đá ném đi”. Và khi nghe những lời đó, những Luật sĩ và Biệt Phái rút lui hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất.
Có lẽ đây là bài giảng ngắn nhất nhưng mang lại hiệu quả nhất của Chúa Giêsu. Bởi vì trước đây, những người Biệt Phái và luật sĩ chẳng bao giờ đủ khiêm tốn để nhìn nhận mình là kẻ có tội dù là trước Thiên Chúa hay trước mặt ai khác. Từ hệ quả này, chúng ta thấy rằng: Việc kêu gọi con người trở về với chính mình, nhìn vào tận cõi lòng mình quan trọng biết là ngần nào! Một trong những chuyện nguy hiểm nhất là trong đời sống đức tin là ảo tưởng về chính mình, tưởng mình là vô tội, là thánh thiện và trong sạch hơn mọi người. Chúa Giêsu đã giúp cho những Biệt Phái và Luật sĩ nhận ra sai lầm chết người ấy để họ kịp sửa chữa lầm lạc của mình. Đó cũng là lời mời gọi và là bảng chỉ đường yêu thương cho chính chúng ta nữa: Hãy trở về với cõi lòng mình, với chính mình. Một mình mình đối diện với toà án lương tâm ngay thẳng của chính mình để thấy, để nhìn nhận thân phận đích thực của mình là gì? Là tội nhân trước mặt Thiên Chúa!
Qua cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với những luật sĩ, biệt phái và dân chúng hôm nay, chúng ta khám phá ra rằng: Chúa Giêsu chính là con đường dẫn đưa con người tới sự sống trong hạnh phúc và tình yêu. Ngài luôn luôn mở ra những con đường sống cho mọi người. Trong khi đó, con người ta rất thường hay đặt dấu chấm hết cho người khác; thích đẩy người khác đi vào ngõ cụt và coi đó như là thành công của mình! Con người thích làm quan toà xét xử người khác nhưng lại quá dễ dãi với chính mình và thường rất mù loà trước tội lỗi của mình. Người ta sánh ví như sau: “Con người ta thường đeo 2 cái túi: một cái để sau lưng và một cái đeo trước bụng. Cái để ở sau lưng thì chứa tội của mình; Cái đeo trước ngực thì chứa tội của người khác. Vì thế, chúng ta rất dễ thấy lỗi lầm của người khác mà hay quên đi thiếu sót của mình, nên thường chỉ lo kết án người khác thôi. Chúng ta đừng ảo tưởng về chính mình là người trong sạch!
Khôn ngoan là hãy để cho Chúa xét xử vì Ngài hiểu thấu tâm tư và cõi lòng của mọi người, còn nhiệm vụ và quyền lợi của chúng ta hãy biết cảm thông thật nhiều, tha thứ thật nhiều và yêu thương mọi người thật nhiều như Chúa đòi hỏi, “yêu như Thầy đã yêu”. Amen.
Trong cuộc đời của mình, chúng ta có khuynh hướng đưa ra một giá trị cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt, thông thường và diễn ra hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cảm thấy tiếc nuối, khi nhớ đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại những hành động ân cần tận tuỵ của mình, thì đó thật là những giây phút đáng yêu. Sự tử tế chủ yếu là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt thương cảm đối với những kẻ mà người ta đưa ra cho Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là câu chuyện nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Câu chuyện này cảnh báo chúng ta chống lại thói quá vội vã trong việc đưa ra phạm vi luân lý cao. Ai trong chúng ta là người vô tội? Chúng ta phải học hỏi từ ví dụ của Đức Giêsu. Người kết án tội lỗi của người phụ nữ đó, nhưng Người từ chối không kết án bản thân chị ta. Không phải là tội lỗi đó không thành vấn đề đối với Người. Có chứ. Nhưng Người phân biệt giữa tội lỗi và tội nhân. Người kết án tội lỗi, nhưng lại tha thứ cho tội nhân.
Và động cơ quan trọng nhất trong tất cả hành động này của Người, đó chính là tấm lòng thương xót. Vấn đề không phải là hào phóng, nhưng là biết thương xót. Một người thánh thiện,, thì càng ít có khuynh hướng phán xét người khác. Trong mỗi con người, đều có khuynh hướng muốn tránh né quyền phê phán của bất cứ người nào khác.
Đức Giêsu từ chối việc phán xét người phụ nữ ngoại tình. Nhưng Người nói với chị ta “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Nói cách khác, Người không hề phủ nhận tội lỗi của chị ta. Người bảo chị ta hãy thừa nhận và chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Thật là dễ dàng hơn nhiều, khi người ta chối tội, biện hộ, hoặc đổ tội cho người khác. Khi người ta biết trực diện với tội lỗi và giải quyết nó, thì không còn gì để đổ tội, hối tiếc, ân hận, hoặc thất vọng nữa.
Lòng thương xót và sự tha thứ của Đức Giêsu mang lại sự sống. Người phụ nữ đó đã được tự do ra đi – tự do để thay đổi thái độ sống của mình, và lấy lại được lòng tự trọng. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng con người có khả năng thay đổi, nếu được tạo cho cơ hội.
Sứ vụ của Giáo Hội phải là một nơi dành cho sự tha thứ, sao cho những kẻ đã bị sa ngã (tất cả chúng ta đều đã từng sa ngã, theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau) đều cảm nghiệm được tình yêu thương và lòng thương xót của Đấng đã khước từ việc kết án. Giáo Hội phải trở thành một cộng đoàn của ân sủng, một cộng đoàn không câu nệ vào luật lệ, một cộng đoàn sẽ không kết án, nhưng sẽ yêu thương, một cộng đoàn quan tâm đến lòng thương xót, hơn là sự công bằng.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho người con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ nài nỉ “Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý”. Hoàng đế Napoléon trả lời “Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót”.
Bà mẹ nói “Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không còn gọi là lòng thương xót nữa”.
Hoàng đế Napoléon đáp “Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó”. Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
Về bản thân, sự thương xót thuần tuý là một quà tặng. Đây là điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến, và do đó, chúng ta phải sẵn sàng mở lòng ra với người khác. Chúa nói “Phúc cho kẻ có lòng thương xót”.
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có bảy thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm bảy tình cảm, “thất tình”. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là thương xót.
Thương xót là gì? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trỗi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương những người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”. Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi”.
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!”. Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt, xấu là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn. Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
Bắt đầu rao giảng, Đức Giêsu kêu gọi: Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần. Năm tuần mùa Chay được sắp đặt như là một tóm kết súc tích về giáo huấn của Đức Giêsu, nói rỏ về hối cải:
Tuần I Chay: Ăn chay, làm việc lành cụ thể là ăn chay, bố thí và cầu nguyện để làm chủ bản thân.
Tuần II Chay: chống lại các cám dổ để không phạm tội bị lôi cuốn theo những chuyện thế tục.
Tuần III Chay: Rỏ ràng hơn: không hối cải thì chết hết. Cây vả không sinh trái thì phải chặt đi để hại đất. Có hoản, nhờ có ơn cứu độ thì cũng chỉ một năm. Tiếp tục không sinh trái thí năm sau phải chặt. Ba năm là tuổi trời cho mỗi người, chỉ hoản được một năm thôi. Sinh trái là tích cực, làm việc lành, sinh lợi.
Tuần IV Chay: Một ngưòi tội lỗi hối cải, trên trời vui mừng. Hối cải là trở về. Đứa con là người có tự do. Tự do đi thì tự do về. Không như đồng bạc bị mất thì phải quét tước tìm cho được. Con chiên đi lạc chủ phải đi tìm rồi vác trên vai đem nó về (vì nó đâu có biết về). Chúa tìm người tội lỗi bằng cách để nó đi tới cùng đường khốn khổ để nó biết hồi tâm và quyết tâm trở về. Về thì được đón tiếp không về thì đành chịu.
Tuần V Chay: Là câu kết chung: Đừng phạm tội nữa. Không có tội, là người công chính, đạo đức mới sẳn sàng theo Đức Giêsu vào tuần Thương khó. Những người có tội thì chỉ có kết án và đóng đinh Đức Giêsu. Câu chuyện’Người phụ nữ ngoại tình’ bị bắt quả tang đáng lẻ phải bị ném đá, không phải là bài học mà chỉ là ‘ miếng trầu làm đầu câu chuyện’. Câu ‘chìa khóa’ làm bài học là ‘đừng phạm tội nữa’. Ý tưởng nằm ngầm trong mọi lời dạy của Đức Giêsu là mọi người đều có tội. ‘Ai có tội thì ném dá trước đi’ và tất cả họ rút êm. Thiên Chúa chỉ có yêu thương ‘ mãi mãi Chúa là Tình Yêu’ và không có gì khác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không kết án nhưng không hối cải thì ‘chết hết’. Nhưng coi chừng hiểu sai tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu làm thinh, lấy ngón tay viết trên đất. Không một lời lớn nhỏ nào. Nhưng cũng rất dịu dàng, từ tốn. Tôi cũng không kêt án chị. Thiên Chúa không kết án, nhưng không hời hợt mà lạnh lùng, sự lạnh lùng nghiêm khắc. Người không nói ” tốt, tốt” về bình an. Phạm tội là không tốt chút nào. Ghét con cho ngọt cho bùi. Thiên Chúa không có ghét nên cũng không cho ngọt cho bùi để nó hư thêm và cuối cùng là….. Về đi, đừng phạm tội nữa. Lở lầm một lần thì thôi. Phạm nữa thì chết. Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết vì Thiên Chúa là tình yêu nên muốn nó hối cải mà được sống. Phạm tội là chuyện của con người, của tự do. Phải giúp nó hối cải, là đừng phạm tội nữa chứ không phải là cứ phạm tội rồi xưng tội là hềt. Cũng không phải chỉ rán đừng phạm tội mà đừng phạm tội để cùng Đức Giêsu đi vào tuần thương khó, sự thanh tẩy cuối cùng và trọn vẹn để hướng tới sự Phục Sinh Vinh quang là đích điểm của đời người. Có cùng Đức Giêsu đi qua thập giá mới tới được Phục Sinh vinh quang.
Xin Chúa giúp con cùng Chúa vào tuần thương khó, vượt qua thập giá, mừng lể Phục Sinh, nắm chắc niềm hy vọng được Phục sinh vinh quang với Chúa.
Ông bà và anh chị em thân mến!
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài đã đến thế gian để giữ gìn che chở và cứu thoát con người khỏi ách nô lệ, khỏi ách tội lỗi của thế gian và làm cho con người được sự sống mới trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia tường thuật lại việc Thiên Chúa đã cứu dân Ngài vượt qua biển đỏ thoát cảnh nô lệ Ai Cập. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã mặc cho lề luật một tinh thần mới, vì Ngài đến để kiện toàn lề luật của Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm thánh Gioan hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu đã dùng trái tim nhân hậu của Thiên Chúa để cứu một tội nhân là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Thật ra, tội ngoại tình theo lề luật trong sách Lêvi và sách Đệ Nhị Luật thì tội nhân phải bị xử tử. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài đến thế gian để tìm kiếm và chữa lành những tâm hồn tội lỗi biết ăn năn sám hối. Vì lý do này mà các Kinh Sư và Biệt Phái rất khó chịu và chống đối Đức Giêsu. Người đàn bà phạm tội ngoại tình mà hôm nay các ông đưa tới nhằm gây sự khó khăn cho Đức Giêsu, họ xem Ngài phán xét như thế nào trước một tội phạm rành rành như vậy. Nếu Đức Giêsu cũng kết án tử cho chị ta, thì Ngài cũng đâu có yêu thương và chữa lành cho tội nhân gì đâu! Nhưng nếu Đức Giêsu không kết án chị ta, thì Ngài đi ngược lại với luật Cựu Ước và chính Ngài cũng bị kết án vì đã vi phạm đến lề luật.
Điểm độc đáo của Chúa Giêsu là Ngài rất điềm tĩnh trước khi phán quyết một điều gì. Đức Giêsu thinh lặng vẽ nguệch ngoạc trên đất. Những người tố cáo tưởng rằng Đức Giêsu đã bí lối, nên tiếp tục gây áp lực. Chúa Giêsu đã biến tòa án dân sự sang tòa án lương tâm: “ai trong các ngươi không phạm tội thì ném đá chị ta trước đi” và Ngài tiếp tục thinh lặng. Qua lời nói này đã đánh thức lương tâm của đám đông bởi vì đã là người thì ai cũng có tội và từng người đã bỏ đi.
“Phần Tôi, Tôi cũng không kết án chị, chị hãy về và đừng phạm tội nữa!” Chúa Giêsu không bao che, không dung túng cho tội, nhưng Ngài yêu thương tội nhân và cho họ cơ hội để sửa đổi. Thật vậy, Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài muốn tội nhân sám hối mà hoán cải đời sống. Chúa Giêsu yêu con người đến nỗi đã từ bỏ cõi trời mang phận phàm nhân mà lãnh lấy tội lỗi của thế gian, chịu khổ hình chịu chết trên thập giá. Ôi tình yêu Chúa thật cao vời còn chúng ta thì sao?
Nhìn lại đời sống đạo của chúng ta, trong tư tưởng, trong hành động ai cũng là tội nhân, nhưng Chúa đã bao lần tha thứ cho chúng ta. Tuy vậy, tâm trạng của chúng ta nhiều khi cũng giống như những Pharisêu và Biệt Phái: chỉ biết lên án, kết tội người khác mà không nhận ra tội mình. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6.41)? Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, hãy cải thiện đời sống mà quay về với Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Chúng ta cũng noi gương Đức Giêsu, biết tha thứ cho những anh chị em lỗi phạm đến mình và cho họ một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Hôm nay đã bước vào thời gian cuối cùng của mùa chay thánh, chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn để sám hối cùng Chúa, để nhận ra những lỗi lầm của ta với Chúa, với bản thân và với những người xung quanh, bằng đời sống đức tin vững mạnh, lối sống hiền hòa, lương thiện đối với những anh chị em xung quanh. Xin ơn Chúa Thánh Thần phù trợ cho tất cả ông bà và anh chị em. Amen.
Cùng với Giáo hội chúng ta đang sống vào tuần lễ trước khi vào tuần cao điểm của năm Phụng vụ. Chúng ta nhớ, Mùa chay là mùa Thiên Chúa và Giáo hội tha thiết các con cái của mình trở về. Trở về nếu đã đi lầm đường lạc lối. Trở về để được sống trong tình thương ấm áp của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót va hay tha thứ. Trở về để làm lại cuộc đời.
Tuần trước chúng ta đã suy niệm về tình thương của Thiên Chúa qua hình ảnh “Người cha nhân hậu”. Người cha nhân hậu vui mừng đón nhận đứa con hư hỏng trắc nết trở về. Người cha nhân hậu này cũng kiên nhẫn đón nhận đứa con cả. Bởi vì bấy lâu nay ông không ngờ rằng nó sống với ông mà như là một người tôi tớ với ông chủ.
Cũng với đề tài ấy, hôm nay Giáo hội chọn đoạn Tin mừng thật hay và ý nghĩa theo Thánh Gioan cho chúng ta suy niệm. Người ta thường nói: “chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán”. Ðúng vậy, các kinh sư trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu sau khi đã bắt quả tang được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì nhanh chóng dẫn tới Chúa Giêsu. Mục đích của họ là vừa muốn cho chị này phải chết theo luật Môsê. Hơn nữa, họ lại còn muốn hại cả Chúa Giêsu. Do đó, họ đã dẫn chị này đến với Chúa Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4 – 5).
Họ đang muốn theo kiểu “một mũi tên bắn trúng hai con nhạn”. Nhưng họ đã lầm, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ từ nguyên cáo trở thành bị cáo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8, 7b) “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.” (Ga 8, 9).
Không biết họ đã bỏ đi đâu nhưng cứ nghĩ theo hướng tích cực là họ bỏ đi để làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, câu nói ấy của Chúa Giêsu đã làm cho họ giật mình nhìn lại chính mình.
“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11). Ðây mới là câu mấu chốt của đoạn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsuchính là hiện thân của Chúa Cha. Với câu nói này, Chúa Giêsu đã mở ra cho người phụ nữ này một chân trời mới. Người tạo cơ hội cho chị làm lại cuộc đời.
Là con người không ai không có lầm lỗi. Trong những ngày mùa Chay này chắn hẳn không nhiều thì ít chúng ta cũng cảm thấy mình con nhiều điều cần phải sửa đổi. Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa để cố gắng làm lại cuộc đời mỗi ngày cho tốt hơn.
61.Sáng tinh sương – Lm. Vũ Đình Tường
Ánh dương chiếu toả bắt đầu một ngày mới. Vẫn biết có người ưa thinh lặng nhưng thật thích tai khi nghe tiếng chim ríu rít chào hừng đông bên cạnh cửa sau hè. Nơi cành cây, kẽ lá còn đọng hạt sương đêm, lung lay trước gió, phảng phất đó đây, phản chiếu những tia sáng muôn màu tươi sáng như những hạt ngọc trắng toát. Ngày mới mang lại hy vọng mới. Hy vọng một ngày tươi sáng, nhiều niềm vui, không gặp ngăn trở đáng ngại trong công việc.
Phá vỡ hy vọng, niềm vui giây phút đầu ngày là điều nên tránh. Kẻ làm điều đó đáng bị quở trách bởi vì nó gây cho ta cảm xúc suốt ngày đó mang lại toàn chuyện buồn sầu, lo lắng, nhiều mệt mỏi, âu lo. Điều này không đồng nghĩa với quan niệm mở hàng buổi sáng của dân buôn bán tin là người mở hàng khởi nởi ngày đó hên, người mở hàng kì kèo, chê bai ngày đó xui vì hàng hoá ế ẩm.
Chúng ta luôn mong mỏi một buổi sáng tươi đẹp nhiều niềm vui. Mong mỏi vì không phải sáng nào cũng có nhiều niềm vui đâu vì có nhhiều trường hợp nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Đức Kitô cũng gặp trường hợp tương tự như trên trong câu chuyện chị phụ nữ ngoại tình hôm nay. Sáng sớm Đức Kitô thường bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện. Khi thì ngài cầu nguyện nơi thanh vắng, chốn yên tịnh, không người, khi thì ngài vào đền thờ cầu nguyện. Chúng ta không biết ngài cầu gì nhưng chắc chắn ngài muốn hiệp thông, liên kết với Chúa Cha qua hành động thánh thiện đầu ngày. Trên đường vào đền thờ thì có hai nhóm người đón chặn, với mục đích đen tối, mong gài bẫy bắt lỗi. Họ dẫn đến trước mặt ngài chị phụ nữ tuyên bố chị này bị bắt công khai tội ngoại tình. Theo luật Môisen thì phải ném đá chết, còn Thầy dậy sao. Nếu trả lời Môisen dậy sao thì cứ thế mà thực hành thì Ngài làm trái điều ngài rao giảng là kêu gọi thống hối và thứ tha. Nếu ngài trung thành với giáo huấn ngài dạy thì ngài làm trái điều luật Môisen và như thế bị ghép tội coi thường luật lệ tiền nhân. Câu trả lời nào cũng dẫn đến bế tắc trăm chiều. Đức Kitô không trả lời họ ngay nhưng cúi lưng xuống dùng ngón tay viết trên đất. Điều rõ ràng về nhân số họ nắm đa số. Tiếng nói của họ đại diện cho đám đông, đa số vì là hai nhóm Pharisiêu và Kinh Sư hợp lại bàn cách hạ độc thủ. Tiếng nói thiểu số chính là tiếng nói của Đức Kitô còn chị phụ nữ hoàn toàn không được lên tiếng vì phụ nữ thời đó không được lên tiếng hơn nữa chị lại là phạm nhân.
Chờ một lát nhóm đa số mất kiên nhẫn la lên. Đức Kitô ngẩng mặt nói với họ. Ai trong các ông tự nhận không có tội, tự nhận là người công chính thì ném đá trước đi. Họ nhìn thấy tội người mà không nhìn thấy tội mình. Họ phạm lỗi làm nhục và làm mất nhâm phẩm chị phụ nữ nơi công cộng. Họ xâm phạm đời tư người khác quá đáng. Họ cản trở cả việc Đức Kitô vào đền thờ cầu nguyện. Những điều đó cho thấy họ không thể tự nhận mình công chính. Nếu tự nhận là công chính là lừa dối họ. Vì thế họ lần lượt tự xet và ra đi, bắt đầu từ người cao niên. Cuối cùng còn sót lại mình chị phụ nữa và Đức Kitô. Chị ta vẫn yên lặng mãi cho đến khi Đức Kitô hỏi chị. Họ đâu cả rồi? Lúc đó chị mới lên tiếng. Đức Kitô nhẹ nhàng, ôn tồn nói với chị
Tôi không kết án chị đâu, ra về và đừng phạm tội nữa. Ga. 8,11
Bài dụ ngôn dậy chúng ta muốn có bình an không cần đến bạo động. Vua bình an giải quyết mọi khúc mắc trên đời bằng đường lối ôn hoà, bất bạo động.
Những người Pharisêu và kinh sư thời Chúa Giêsu luôn cố gắng tìm mọi cách để tố cáo và hạ bệ Ngài. Ngài là một chướng ngại, một cái gai rất khó chịu trước mắt họ, vì họ thấy Ngài đối xử nhân từ với những người thu thuế, những người tội lỗi, những phụ nữ xấu nết và những người sống ngoài luật Môsê. Để đối đầu với Ngài, nhiều lần họ đã giương cao cạm bẫy, nhưng lần nào cũng vậy, họ đều thất bại và phải xấu hổ bỏ đi. Vì thế, lần này, họ nhất định ăn thua đủ với Ngài. Họ đã kinh nghiệm rồi, họ không đặt ra những vấn đề lý thuyết như việc đóng thuế cho hoàng đế Xêda hay những trường hợp giả tưởng như chuyện người đàn bà goá lấy bảy anh em làm chồng. Trái lại, lần này là một việc cụ thể, với những vai chính sống động, rõ ràng, chắc chắn.
Đó là trường hợp một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Theo luật Môsê thì tội này bị kết án tử hình ném đá. Như vậy, người phụ nữ này có thể bị giết chết mà không cần một lời tố cáo nào và cũng chẳng cần cho người có dịp bào chữa, vì đã trở thành đồ bỏ rồi. Vậy tại sao họ còn đem người phụ nữ này đến để hỏi Chúa Giêsu về cách trừng phạt, vì tội bà ta đã rõ ràng và hình phạt đã được luật pháp qui định cũng rõ ràng? Thưa, họ muốn gài bẫy Chúa để loại trừ ảnh hưởng của Ngài và bêu xấu Ngài. Hoặc là Ngài phải đứng về phía luật pháp với tất cả sự gay gắt của nó, điều đó trái ngược với thái độ nhân từ Ngài thường có. Hoặc là Ngài xác định sự biệt lập của mình để trở thành kẻ bất trung và lạc giáo vì chống lại luật Môsê. Nói rõ hơn, nếu Chúa tuyên bố không ném đá, tức là Ngài chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa tuyên bố ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài là phạm đến quyền của đế quốc Rôma, vì người Do thái lúc đó đang sống dưới sự đô hộ của Rôma, họ không có quyền xử tử ai, chỉ quan toàn quyền Rôma mới có quyền đó. Thật không dễ gì trả lời. Chống lại luật Môsê thì sẽ bị dân phản đối, chống lại quyền của đế quốc thì sẽ bị đế quốc trừng trị. Chúa Giêsu sẽ chọn đàng nào? Chúa xử trí vụ này ra sao?
Chúa không nói lời nào, Ngài im lặng và cúi xuống lấy ngón tay viết trên mặt đất. Đây là lần đầu tiên Tin Mừng ghi lại Chúa Giêsu viết nhưng không nói Ngài đã viết gì. Người ta đã tìm đủ cách để đoán xem Chúa viết gì. Có người cho rằng Chúa chỉ nguệch ngoạc, không viết rõ chữ gì để tỏ thái độ không muốn dây mình vào việc xét xử ai. Có người cho rằng Chúa viết những lời than trách của ngôn sứ Giêrêmia về tội dân Do thái phản bội Chúa còn nặng tội gấp mấy người phụ nữ này. Có người cho rằng lần nhất Chúa viết số thứ tự của mười điều răn, lần hai Ngài viết các tội nặng của những kẻ đứng ra tố cáo về ngày giờ, nơi chỗ và lý do phạm tội với ai. Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán mà thôi. Bản văn Tin Mừng đã cố ý không nói Chúa Giêsu viết gì. Có thể Chúa chỉ lấy tay vạch vẽ trên đất mà chẳng viết chữ gì cả. Đây chỉ là cách Chúa tạo một khoảng thinh lặng chờ đợi để cho những kẻ tố cáo người phụ nữ này kịp suy nghĩ lại.
Những người Pharisêu và kinh sư thấy thái độ của Chúa có vẻ như không quan tâm gì đến vấn đề họ đặt ra, nên họ phải nhắc đi nhắc lại câu hỏi. Và bây giờ Chúa mới đưa ra quyết định. Ngài không trả lời câu hỏi của họ, nhưng lời Ngài nói ra làm cho họ ngạc nhiên đến choáng váng. Chúng ta thấy Chúa không nói: “Đừng ném đá chị ta”, vì Ngài không muốn tỏ vẻ chống lại luật pháp. Và Ngài cũng không nói: “Hãy ném đá chị ấy”, vì Ngài đến không phải để làm mất đi những gì Ngài đã tìm lại được, nhưng là để tìm kiếm những gì đã hư mất. Vì vậy Chúa nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa không phủ nhận tội của người đàn bà kia, cũng không phủ nhận luật Môsê, nhưng Chúa đưa ra một quan điểm mới: hãy tự xét xử mình trước khi xét xử người khác. Họ đang dựa vào luật Môsê để xét xử người khác, thì Chúa bảo họ hãy dựa vào đó mà xét xử chính mình trước đã. Ngài yêu cầu họ hãy trở về với chính mình. Họ mưu toan bên ngoài nhưng họ lại không nhìn vào đáy lòng mình. Họ trông thấy người ta ngoại tình nhưng họ không nhìn vào chính mình, vì hễ ai chú ý xét mình, người ấy sẽ thấy mình là kẻ tội lỗi. Vậy hoặc là trả tự do cho người phụ nữ ấy, hoặc hãy cùng với bà ta chịu sự trừng phạt của lề luật đi. Nói rõ hơn, họ đang đòi xử tội người đàn bà này vì tội ngoại tình, nhưng thật sự ý đồ của họ là đang tìm cách mưu giết Chúa. Những lời của Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen của họ. Thế là họ lần lượt bỏ đi, vì họ nhận ra rằng chính họ cũng là những kẻ có tội.
Cuối cùng, chỉ còn lại một mình người đàn bà đứng trước mặt Chúa, chỉ còn lại hai bên: kẻ đáng thương đối diện với tình thương. Kẻ đáng thương chờ đợi tình thương xót; và tình thương xót chờ đợi kẻ đáng thương. Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và nói với người đàn bà: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị ta thưa lại: “Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đó là lời của tình thương, tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để lên án.
Tóm lại, Chúa Giêsu đến trần gian để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để kết án. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình là một bằng chứng. Và Chúa dạy chúng ta hãy theo gương Chúa mà đối xử với nhau như thế: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong Mùa Chay này.
Hôm nay Tin Mừng dẫn chúng ta tham dự vào một vụ xử án có thật xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Vụ án “Người phụ nữ ngoại tình”. Một vụ án được xét xử thật kỳ lạ: vụ xử kết thúc mà không có một bản án. Chỉ một lời thẩm vấn của Đức Giêsu, các nguyên cáo bỏ đi hết chỉ còn lại bị cáo.
Vụ án không oan uổng đối với bị cáo với chứng cứ rõ ràng, tưởng chừng nắm chắc cái chết trong tay, nhưng bị cáo lại tìm được con đường sống.
Phải chăng mấu chốt của sự kỳ lạ ấy nằm ở con người vị thẩm phán tên Giêsu?
Từ sự kỳ lạ ấy giúp chúng ta khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đó là: Đến với Thiên Chúa lương tâm ta được thức tỉnh, ta biết thật về con người mình, và ta được mời gọi sống đời sống mới.
Căn cứ trên trang Tin Mừng trước hết chúng ta thấy các nguyên cáo có vẻ hăm hở đắc thắng khi mang bị cáo đến trước Đức Giêsu, với những chứng cớ rõ ràng: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê thì người đàn bà này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy xử thế nào?”. Thế nhưng sự việc đã không xảy ra như dự đoán và mong muốn của họ.
Sự thinh lặng của Đức Giêsu cùng với cử chỉ viết trên đất cho câu trả lời, đó như một sự nhắc nhở khéo léo nhẹ nhàng và tế nhị đối với những người kết tội. Một khoảng lặng để cho họ bình tĩnh nhìn lại mình. Một khoảng lặng để họ xét lại những việc họ đang làm. Thế nhưng họ như không hay biết điều đó hoặc cố tình lờ đi để rồi tiếp tục ép buộc Chúa lên tiếng.
“Ai sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”. Đức Giêsu trả lời. Một câu trả lời thay vì xét xử và kết tội phạm nhân thì lại là một câu thẩm vấn đánh sâu vào lương tâm các nguyên cáo để họ có thể nhận ra chân tướng của mình, con người thật của mình với đầy tội lỗi chẳng kém. Chính họ cũng đã đồng loã liên kết với nhau, dùng mưu mẹo để hại người, để loại trừ kẻ mà họ không ưa, một người đang có ảnh hưởng trong dân có vẻ như lấn át vị thế của họ. Lại một khoảng lặng nữa bắt đầu.
Và thái độ “bỏ đi hết, kẻ trước người sau bắt đầu từ những người lớn tuổi” cho thấy rõ lương tâm của các nguyên cáo đã được đánh động và thức tỉnh họ như đã dần dần nhận ra con người thật của mình.
Còn với bị cáo: Người phụ nữ ngoại tình? Tội đã rõ rành rành, chẳng cần chứng cớ, không chạy đâu được. Nếu như ta thử đặt câu hỏi: giả như chị ta không bị bắt quả tang phạm tội, thì hỏi rằng chị sẽ còn làm sự tội ấy nữa không? Điều đó sẽ cho chúng ta nghĩ rằng: có lẽ chị cho rằng chuyện tội lỗi chị làm trước đây khi chưa bị phát hiện, chẳng tội lỗi gì? Khi đến trước Đức Giêsu lương tâm của chị cũng đã được thức tỉnh bởi lời của Ngài: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Đừng phạm tội nữa, một lời khẳng định cho chị thấy rõ chuyện chị làm là tội lỗi.
Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu hoặc như người phụ nữ ngoại tình. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội. Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Lương tâm của họ xem ra như chai lì hoặc bị ngủ mê. Hầu như vô tư trước những tội lỗi của mình xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân.
Thật vậy có những người bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa nhất là thánh lễ Chúa nhật với những lý do biện hộ rất đơn giản khi nại vào công việc hoặc đạo tại tâm, hoặc có tham dự cũng chỉ máy móc cho qua.
Có những người đang sống thiếu thành thật trong lời nói, thiếu ngay thẳng trong công việc làm ăn: gian lận thủ đoạn, lừa gạt… nhưng vẫn coi đó là bình thường chẳng tội lỗi gì.
Có những bạn trẻ hôm nay đang lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm được như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Họ tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái.
Có những người cho rằng rất bình thường chẳng có tội lỗi gì khi nói xấu, lên án người khác hoặc có thái độ cố chấp không cho rằng mình có lỗi khi gây ra những tổn thương cho tha nhân.
Ngay trong cuộc sống gia đình cũng vậy, chồng hoặc vợ xúc phạm đến nhau mà chẳng ai chịu nhận lỗi về mình.
Vâng, còn rất nhiều nếu đi vào từng chi tiết ngõ ngách của cuộc sống, chúng ta sẽ thấy chẳng thiếu những cung cách sống và thái độ sống thiếu ý thức về tội như vậy, đến nỗi Đức Thánh Cha trong Tông huấn “Sám hối và hoà giải” đã phải lên tiếng: “Con người ngày nay gần như mất cảm thức về tội, họ làm điều tội mà không biết là tội, họ sống trong tội mà không biết mình mắc tội”.
Trước mặt Thiên Chúa, không ai không là tội nhân. Chẳng ai có thể tự vỗ ngực nói rằng mình không có tội, như thánh Gioan nói: “Ai bảo mình không có tội là kẻ nói dối tự lừa dối mình”. Điều quan trọng tôi có ý thức mình là tội nhân không? Hãy có những khoảng lặng để gặp Chúa, để cho lời Ngài thức tỉnh chúng ta như Ngài đã thức tỉnh các kinh sư, người Pharisêu và người phụ nữ ngoại tình để chúng ta có thể nhận ra mình là tội nhân.
Thiên Chúa không chỉ thức tỉnh lương tâm chúng ta, nhưng Thiên Chúa còn mời gọi và đề nghị chúng ta sống một đời sống mới.
“Ta không kết tội chị, chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Một lời thức tỉnh, tha thứ nhưng cũng là một lời đề nghị.
“Hãy đi và đừng phạm tội nữa” cũng là lời đề nghị và mời gọi của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay khi đã nhận ra lỗi lầm và sám hối rồi, chúng ta không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phải tiến xa hơn, vượt lên trên bằng một sự thay đổi tận gốc rễ với một cuộc sống mới. Một lời xin lỗi xong chưa đủ, nhưng là đừng để cho điều lỗi xảy ra nữa. Đời sống mới là đời sống không còn như đời sống cũ trước đây đang sống tội nữa. Ví như trước đây tôi sống gian dối, nay tôi sống thành thật và ngay thẳng. Trước đây tôi hay vu khống kiện cáo, nay tôi sống khiêm tốn hoà nhã với tha nhân.
Mùa chay đã bước vào tuần thứ năm. Những ngày đại thánh mừng cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô sắp đến gần. Thiên Chúa đang rộng mở bàn tay đón chờ và mời gọi chúng ta đến với Ngài để lãnh nhận ân phúc. An phúc trước hết đó là chúng ta được Thiên Chúa đánh động và thức tỉnh lương tâm; ân phúc được ơn giao hoà với Thiên Chúa và được mời gọi sống đời sống mới qua việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm, lòng khiêm nhường để chúng ta mạnh dạn đến gặp Chúa.
Kính thưa quý OBACE!
Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại dụ ngôn người con hoang đàng để nói lên lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe thánh Gioan Tông đồ kể lại thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ sắp bị ném đá vì phạm tội ngoại tình. Tất cả đều nói lên lòng bao dung và tha thứ của Thiên Chúa dành cho con người.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe chẳng khác gì một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ với tội danh ngoại tình. Nguyên cáo là nhóm Kinh sư, Biệt phái. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thật ra các kinh sư và người Pharisêu có thể thi hành án dựa theo luật Môsê. Trong sách Lv 20,10 có quy định: “ném đá cho tới chết kẻ phạm tội ngoại tình.”Họ đến hỏi Chúa Giêsu không phải vì thiện ý nhưng nhằm gày bẫy Người. Nếu Chúa tha cho người phụ nữ họ sẽ tố cáo Người chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa kết án chị ta thì những lời rao giảng về yêu thương tha thứ của Chúa sẽ không còn ai tin nữa. Một cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án dành cho người phụ nữ, họ hy vọng sẽ có một bản án khác dành cho Chúa Giêsu.
Đứng trước cạm bẫy nham hiểm này, Chúa Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Người không trả lời họ ngay mà chỉ im lặng cúi xuống viết trên đất một điều gì đó. Nhiều người cho rằng Chúa viết ra các tội lỗi của những người tố cáo. Cũng có ý kiến cho rằng Chúa cố tình im lặng để những kẻ tố cáo có thời gian nhìn lại cõi lòng mình, để nhận thấy mình cũng là những kẻ có tội.
Họ không thể nào chịu nổi sự im lặng đó nên đã hối thúc Chúa Giêsu: “Còn Thầy, Thầy nghĩ sao”. Chúa Giêsu ngước mắt lên nhìn thẳng vào họ, một cái nhìn thấu suốt tận tâm cang, và Người nói “ai trong các ông sạch tội hãy ném đá chị này trước đi”. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho những hòn đá họ đang cầm trên tay để ném người phụ nữ lại ném vào chính lương tâm của họ. Và rồi không ai dám ném hòn đá đầu tiên vì ai dám nói mình là vô tội. Những hòn đá từ từ rơi khỏi tay họ. Thế là họ rút lui từng người một.
Khi họ đã đi hết chỉ còn lại mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Một con người đau khổ đối diện với Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn chị ta với ánh mắt nhân từ, Người nói: “tôi cũng không kết án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Kính thưa OBACE!
Qua câu chuyện vừa rồi chúng ta thấy có một nghịch lý trong cuộc đời: Một đàng, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng lại đầy lòng thương xót đối với người tội lỗi. Một đàng, con người ai cũng mắc tội, không nhiều thì ít, không tội nặng cũng tội nhẹ lại hay phê bình, chỉ trích và kết án đồng loại của mình. Thay vì chúng ta biết cảm thông với những lồi lầm của người khác thì chúng ta lại thường đóng khung số phận của họ trong quá khứ lỗi lầm, đôi khi vô tình chúng ta đẩy họ tiếp tục rơi vào con đường tội lỗi mà không có lối thoát.
Chúa Giêsu ghét tội nhưng Người yêu thương kẻ có tội. Người không dung túng cho tội lỗi của người phụ nữ nhưng Người cho chị một cơ hội làm lại cuộc đời. ” chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đức cố hồng y Phanxicô nguyễn Văn Thuận nói rằng: “vị thánh nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai”. Nghĩa là vị thánh nào cũng đã có lần phạm tội và tội nhân nào cũng có khả năng hoán cải và làm lại cuộc đời. Cho nên, chúng ta đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một con người còn sống.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa, vì biết bao lần Người đã tha thứ cho những lỗi phạm của chúng ta. Chúa luôn muốn con người bắt đầu và lại bắt đầu. Đối với Chúa sự sám hối không bao giờ là muộn màng, lòng ăn năn không bao giờ Ngài từ chối.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, mỗi người chúng ta đều là tội nhân được Chúa tha thứ. Vì thế, chúng ta hãy noi gương Chúa đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ và cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
65.Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Song Ngọc viết ca khúc “Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước” từ trang Tin Mừng hôm nay.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Áo rách tả tơi, xác thân mệt nhoài.
Chuyện người đàn bà nơi thành phố đó
Dấu tích hành thân.
Vì đâu? Vì đâu? Vì đâu,
Nên tội tình mang nhục hình.
Vì yêu, tội yêu, tội tình yêu.
Đoàn người cổ thành vây chặt khu phố
Thế giới hiền lương ánh mắt cuồng căm.
Nhìn người đàn bà đang chịu tội chết
Đống đá ngổn ngang.
Chờ ai?
Chờ tay người ném chết một người không hận thù.
Người ơi vì sao đoạ đầy nhau
Ai, ai người vô tội. Ai, ai người không tội
Hãy mạnh tay ném đá ném đá ném trước đi còn đợi gì?
Ai, người vẹn toàn, Ai người trong sạch
Còn chờ chi?
Ném chết ném chết
Ném chết tội đồ nhân gian.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Vì người vô tội hay đời giả dối,
Thế giới giả nhân chào thua
Người ơi, tình ơi.
Ai tội đồ, ai tỉnh ngộ
Người ơi, đời ơi, cũng vậy thôi….
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Nhạc sĩ khéo léo dùng những chữ tương phản như “Thế giới hiền lương, ánh mắt cuồng căm” và đặt câu hỏi, có phải vì người đời giả dối, sợ phải đối mặt với tòa án lương tri với tội của chính mình nên đã lẵng lặng bỏ đi: “Vì người vô tội hay đời giả dối? Thế giới giả nhân? Chào thua! Người ơi, Tình ơi! Ai tội đồ? Ai tỉnh ngộ?…”. Nhưng dù sao thì “cũng vậy thôi”, ca khúc có kết thúc tốt đẹp và câu hỏi dành riêng cho lương tâm mỗi người.
Với giai điệu chậm buồn, nhạc phẩm kể về một câu chuyện thật lạ lùng, xảy ra hơn hai ngàn năm về trước tại xứ Do thái. Một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và những biệt phái dẫn người đàn bà ấy đến trước mặt Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Một câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự.
Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười hóm hỉnh ranh mãnh. Họ thì thầm với nhau cách thích thú: lần này thì đừng hòng mà thoát. Cái bẫy đã giăng ra. Nếu Chúa bảo cứ ném đá đi thì đó là một lời nói sẽ xoá nhoà tất cả lòng nhân hậu của Chúa: tôi đến để cứu vớt chứ không phải để kết án. Những người tội lỗi,thu thuế, đặt niềm hy vọng vào Chúa, nếu nghe lời kết án chắc chắn họ sẽ thất vọng và xa lánh, thế thì chỉ có thất bại, mất uy tín. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì Chúa dám chống lại Luật Môsê, chỉ chờ thế là họ có dư bằng chứng để bắt và lên án Ngài rồi.
Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh “cúi xuống lặng lẽ vẽ trên đất”. Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẫng lên nói với họ một đề nghị nhỏ nhẹ ôn hòa nhưng ngầm chứa một thách thức sinh tử quyết liệt ” ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Công bằng mà nói, những người đàn ông có mặt hôm ấy, ngoài Chúa Giêsu ra, đều là những kẻ còn có liêm sỉ và tự trọng.
Chúa Giêsu bị đẩy vào thế làm quan tòa bất đắc dĩ, buộc phải ra một bản án xét xử thật nặng, bỗng nhiên trở thành Trạng sư với một bài biện hộ vỏn vẹn có mỗi một câu rất ngắn. Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn. Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào bên trong tâm hồn.
Còn lại một mình Chúa với người phụ nữ. Ánh nắng buổi sáng đang lung linh nhảy múa trên bậc thềm.Với giọng nói ấm áp, Chúa hỏi: “Họ đâu hết rồi? Không ai lên án chị nữa hay sao?”. Lần đầu tiên từ lúc bị lôi tới đây, người phụ nữ ngẩng mặt lên. Chị nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Ngài đôi mắt chứa chan tình người,long lanh ánh sáng thiên đàng, đôi mắt hiền dịu sáng lên niềm cảm thông. Chị bưng mặt, giọng nghẹn ngào: “Thưa Thầy, không còn ai nữa. Họ bỏ đi hết rồi”. Bình minh chiếu sáng rạng ngời khuôn mặt, Chúa nói thật nhẹ nhàng: “Tôi không lên án chị đâu! chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. Tội nhân bị luận tội trước tòa, rõ ràng nằm trong khung án tử hình, nay ngơ ngác thấy mình được tha bổng, kèm một lời dặn dò: từ nay thôi đừng phạm tội nữa! Chúa Giêsu không kết án nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương lai, về phía trước.
Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với người bị kết án, Chúa mở ngõ về phía tương lai.
- Nhìn về phía bên trong
Một phiên tòa lạ lùng, xử lưu động theo kiểu nói ngày nay. Phe công tố nhao nhao buộc tội và hằm hè chất vấn, không ngờ sau đó lại lần lượt cúi đầu lặng lẽ rút lui. Chỉ vài phút trước đó, họ hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây giờ họ âm thầm ra về. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh Gioan ghi nhận “bắt đầu từ những người lớn tuổi” rất ý nghĩa. Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.
Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá ra được khi nhìn vào phía bên trong. Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để nhìn lại chính mình, soi gương tâm hồn. Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc làm mình đã làm, đã sống. Giáo hội luôn khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đều có thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan.
Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là Chúa Giêsu. Ngài là mẫu mực. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng cần vươn tới.
- Nhìn về phía trước.
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới,một con người mới:”Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô…và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô diễn tả: “Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã sống hết mình cho tương lai mới.
Trong cách nhìn về tha nhân, có khi người ta khoá chặt người khác trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời “chủ nghĩa lý lịch” khoá chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ!!! Vì lẽ đó mà nhiều nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn về phía trước
Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người Hylạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Deiphes câu châm ngôn ” Bạn hãy biết chính mình” và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai chúng ta.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình..” (Lc 3, 24)
Tin Mừng theo Thánh Luca ghi lại lời Chúa “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc15,4). Rồi Chúa nói tiếp: “Vậy tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. (Lc15,7) Qua câu chuyện này cho thấy hình ảnh vị Mục tử, người thầy, người chăn chiên cao cả và đầy lòng nhân từ. Câu chuyện bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng tương tự như thế.
- Chúng ta trở lại câu chuyện Tin Mừng chúa nhật hôm nay: Các kinh sư muốn gài bẫy Chúa Giêsu nên nhân dịp người ta bắt qủa tang một người đàn bà đang phạm tội ngoại tình, họ liền dẫn ngay đến Chúa và chất vấn. Họ nói: chị này đang ngoại tình và bị bắt quả tang. Theo luật Môisen, chị ta sẽ bị ném đá cho tới chết. Phần Thầy, Thầy sẽ xử thế nào?
Các kinh sư và biệt phái đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu; thực ra họ chẳng nể nang gì Ngài, cũng chẳng có ý tốt lành gì đâu. Họ rất ghét Chúa, vì Người hay chỉ trích những thói hư tật xấu, giả hình của họ, mà từ lâu họ chưa tìm được chứng cớ gài bẫy, để tố cáo Chúa. Hôm nay nhân có một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đây là một cơ hội tốt để bắt bẻ Chúa mà trả thù; vì thế họ hỏi như trên… Nếu Chúa trả lời: tha bổng cho người đàn bà, thì họ sẽ bắt bẻ Chúa làm thế là không giữ lề luật. Còn nếu Chúa kết tội chị ta thì rõ ràng Chúa rất tàn ác, và còn làm ngược lại với lời dạy của chính mình nữa là: yêu thương, tha thứ… Xem ra bề nào, Chúa cũng bị các kinh sư kết tội cả. Rốt cuộc họ không ngờ Chúa có một câu trả lời mà không ai nghĩ đến: “ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7) Chúa Giêsu lại thắng keo nữa. Thực tế ai có thể thắng Thiên Chúa?
- Trên đời này có một nghịch lý rất lớn và cũng rất đáng trách, đó là: Thiên Chúa là Đấng muôn ngàn lần thánh thiện thì lại đầy lòng thương xót, đầy bao dung với người tội lỗi. Trong khi con người tội lỗi đầy tràn, lại thường hay lên án kẻ khác, thích phê bình chỉ trích người ta (chính các thánh còn chưa ai dám tự nhận mình là thánh thiện). Từ chỗ phê bình chỉ trích, rất nhiều khi chúng ta vô tình đẩy kẻ tội lỗi vào vũng lầy không có lối thoát. Các kinh sư và biệt phái trong câu chuyện Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Một câu châm ngôn Á Đông khá chí lý: “chân mình còn lấm mê mê, lại đi cầm đuốc mà rê chân người.”
Lòng rộng lượng của Con Thiên Chúa (trong câu chuyện hôm nay) thật là to lớn và cũng thật đúng với những gì chúng ta biết về Thiên Chúa, vì Người sẳn sàng để 99 con chiên không lạc, mà đi tìm cho được con chiên bị lạc và Chúa: “không nở bẻ cây lao bị dập”, “cũng không dập tắt tim đèn còn khói..” Những hình ảnh này rõ ràng diễn tả quá đủ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa.
- Gợi ý sống và chia sẻ:
* với lòng nhân hậu và khôn ngoan tuyệt vời, Chúa Giêsu đã giải thoát và tha thứ cho người đàn bà tội lỗi, nhưng Chúa cũng kêu gọi chị từ nay đừng phạm tội nữa. Mùa chay cũng là mùa kêu mời mọi kitô hữu suy niệm về lòng bao dung vô bờ của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta thực tâm sám hối, sửa đổi đời sống và mau quay về với Chúa.
* Chúa không hề có một lời lên án người đàn bà ngoại tình: phần ta, ta có phải là hạng người hay chỉ trích kẻ khác? Nhìn lại bản thân mình đã sửa đổi như thế nào trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt là mùa chay này?
67.Án tử hình bị hủy bỏ – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa, đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm ngầm tìm cách.
Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn dâm phụ” (Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).
Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra, hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi “Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái cầm chắc ưu thế trong tay.
Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.
Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.
Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng, bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.
Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp xuống.
Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống, ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế, Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.
Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và tàn bạo với tha nhân.
“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.
Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn lên.
Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.
Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi chờ.
Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.
Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.
Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.
“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.” Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng đoàn của mình.
68.Con đường hướng về tương lai
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Theo suy nghĩ thông thường: tội lỗi và hình phạt đi liền với nhau. Nhưng có trường hợp lại không thể như thế được. Điều này các quan toà thường cân nhắc, tra cứu kỹ càng về nguyên do đưa đến tội lỗi trước khi tuyên bố hình phạt. Vì thế có nhiều trường hợp được ân giảm hay chỉ cảnh cáo thôi.
Tôi được nghe kể lại, ngày xưa thời cha mẹ tôi còn sinh sống trong xứ đạo làng xóm miền bắc Việt Nam, hễ ai, nhất là phụ nữ sống làm điều gì trá i với luân thường đạo lý, trái với công dung ngôn hạnh, trái với lẽ đạo, liền bị mọi người khinh khi, miệt thị dèm pha. Họ không còn cơ hội gì hội nhập với cuộc sống chung trong làng, trong xứ đạo được nữa và cả gia đình họ cũng bị lên án theo như vậy! Có những nạn nhân phải bỏ quê hương trốn đi nơi xa lạ để tìm cơ hội xây dựng cuộc sống mới.
Xã hội Do Thái ngày xưa, như trong phúc âm diễn tả lại (Ga 8,1-11), cũng cứng nhắc theo khuôn luân lý đạo đức nên đời sống con người bị khinh khi miệt thị, bị lên án ném đá cho tới chết, nếu ai làm điều gì trái với khuôn phép đạo giáo.
Chúa Giêsu đến, ngài không đối xử với con người như thế, nhưng với trái tim tình thương, với lòng nhân ái. Ngài loan truyền luật lệ khuôn phép cho đời sống, nhưng ngài không dựa hay nhân danh những luật lệ đó để kết án ai. Tội lỗi là sự xấu, ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu là thánh thiện. Tội lỗi mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và nhất là làm tâm hồn con người mất bình an. Tội lỗi huỷ diệt đời sống làm con Thiên Chúa. Tội lỗi tạo hố ngăn cách con người với Thiên Chúa xa nhau và giữa con người với nhau. Tội lỗi vì thế cần phải bài trừ, nhưng không được bài trừ người có tội.
Chúa Giêsu đối diện với một nạn nhân của xã hội cứng nhắc theo luân lý đạo giáo, đối diện với một người làm điều tội lỗi như phúc âm thuật lại (Ga 8, 1-11). Trước hết ngài bảo cho mọi người: Các ông hãy soi gương xem mình có sạch không đã. Các ông hãy xét mình xem mình có vô tội không đã, trước khi bảo người khác là có tội và kết án họ!
Sau cùng ngài không dựa theo nguyên do để giảm án ân xá cho tội nhân, nhưng ngài mở cho chị ta con đường hướng về tương lai làm lại cuộc đời: Thầy không lên án con đâu. Chị đi về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa!(Ga 8, 11). Đó là con đường ăn năn sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, đấng là sự thánh thiện. Trở về để tâm hồn có lại bình an.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, luân lý là điều không lành mạnh, không tốt. Nhưng đâu chỉ có thể căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp cuộc sống con người thăng tiến nhất là về mặt tinh thần, chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm nhân vị con người xuống bùn đen.
Sự sống con người thể xác lẫn tâm hồn là điều cao quý hơn mọi thứ ở đời. Sự sống vì thế cần phải được kính trọng bảo vệ nâng đỡ. Đã là người ai cũng có khuyết điểm, cũng có thời gian làm điều lầm lỗi, nhưng ai cũng có khả năng ý chí lòng muốn làm điều lành, điều thánh thiện, điều tốt hợp với luân lý đạo giáo.
Thiên Chúa đã dựng nên con người với khả như thế và Chúa Giêsu đã sống làm gương: ngài không kết án hay giảm án nhưng ngài kêu gọi và mở con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ tội lỗi làm lại cuộc đời, ăn năn trở lại với tình yêu Thiên Chúa và với đời sống con người.
Một câu chuyện cổ tích Do thái kể rằng có một thầy Rabbi nổi tiếng thường hay vắng mặt tại hội đường vào mỗi ngày Sabbath vài tiếng đồng hồ. Sự vắng mặt này làm cho các học sinh của ông thắc mắc. Nhiều học sinh cho rằng thầy Rabbi của mình đã tìm được một chỗ mà ông có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng toàn năng. Sau cùng, bọn học sinh đã đồng ý cử ra một người đi theo thầy Rabbi của mình để xem ông làm gì. Anh ngạc nhiên thấy thầy mình mặc một bộ áo cũ kỹ của một người ăn xin và đi ra một ngõ hẻm rồi đi vô một căn nhà hoang. Qua khe cửa sổ, người học sinh nhìn thấy thầy mình cặm cụi dọn dẹp, và chuẩn bị bữa ăn cho một cụ già bị tàn tật. Sau đó, người học sinh đã chạy về, và bạn bè của anh đã hấp tấp hỏi anh, “Sao, ông ấy có bay về trời không?” Người học sinh trả lời, “Có, không còn chỗ nào cao hơn nữa!” Chứng kiến việc làm nhân đạo của thầy mình mà người học sinh đã vô tình khám phá ra ánh sáng của trời cao.
Phúc âm kể lại nhiều truyện Chúa Giêsu lên án những kẻ đạo đức giả. Họ hay đi nhà thờ mà không bao giờ biết tỏ lòng nhân hậu và nhạy cảm với người khác. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, có một đoạn gây chú ý, tả lại cảnh Chúa Giêsu tức tối với loại người như thế. Chúa Giêsu “nhìn quanh họ một lượt vừa thịnh nộ vừa buồn phiền vì lòng chai đá của họ” (Mc 3,5). Đáng tiếc thay, vấn đề vẫn còn ở trong chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cảnh Chúa Giêsu đương đầu với những thầy thông luật và Pharisiêu, những người đáng kính trong tôn giáo, nhưng có “lòng chai đá.” Họ đem đến trước mặt Chúa Giêsu một người đàn bà và hỏi, “Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Maisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?” (Ga 8,4-5). Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta rằng những người đã định tâm để gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không đồng ý với họ để ném đá, thì họ có quyền tố cáo Ngài là không tôn trọng lề luật. Tuy nhiên, nếu Ngài nói là ném đá, thì họ sẽ nói là Ngài mâu thuẫn với luật yêu thương Ngài dạy. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ phải ngạc nhiên, “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Gn 8:7). “Nghe thế rồi, kẻ trước người sau, họ rút lui hết, các kẻ cao niên dẫn đầu mà để lại một mình Ngài, và phụ nữ kia. Ngẩng lên, Chúa Giêsu nói với người ấy, “Bà kia, họ đâu rồi? Không ai xử tội bà sao? Người ấy đáp, Thưa Ngài, không ai cả! Đức Giêsu lại nói, “Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Vấn đề của chúng ta là ở chỗ chúng ta nghĩ mình là những người tốt, đáng kính, thường hay đi lễ, nhưng đồng thời chúng ta cũng thường có chiều hướng nghĩ rằng lời Chúa Giêsu nói về tội lỗi và sự dữ là để cảnh cáo người khác. Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc ngoại tình là một tội lỗi. Người đàn bà ngoại tình đó cần phải được tha thứ, và chúng ta hiểu điều đó. Bà còn cần phải thống hối, chúng ta cũng hiểu điều đó. Sau cùng, khi Chúa Giêsu cho bà đi, Ngài còn dặn, “Đừng phạm tội nữa”, chúng ta cũng biết điều đó. Tuy nhiên, chúng ta có hiểu rằng Chúa Giêsu cũng nhìn sự thiếu lòng nhân ái và thương xót của những thầy thông luật và bọn Pharisiêu như là một tội lỗi không? Chúng ta có biết rằng những thầy thông luật và bọn Pharisiêu cũng cần phải được tha thứ không? Chúng ta có biết rằng những người mà tự xưng là công chính cũng cần phải thống hối không?
Qua cách đối xử của các thầy thông luật và bọn Pharisiêu, nó nhắc nhở cho chúng ta một điều, đó là nếu chúng ta tự cho mình là công chính thì chúng ta sẽ huỷ diệt lòng trắc ẩn của mình. Cái lúc mà chúng ta bắt đầu áp dụng luật luân lý của bản thân mình trên người khác, là chính lúc chúng ta bắt đầu bị mất đi khả năng để có thể cảm nghiệm và thông cảm cho người đó. Sự tự cho mình là đúng đắn không phải là một ảo tưởng, mà là một sự huỷ diệt tình yêu.
Chúa Giêsu đến thế gian không phải là để đem con người lên thiên đàng, nhưng là đem thiên đàng đến với con người. Qua lòng nhân ái đối với người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu đã cho chị ấy thấy được một tia sáng của thiên đàng. Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đến không phải là để cứu con người ra khỏi hoả ngục, nhưng là để xoá bỏ hoả ngục ra khỏi loài người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắc cho những thầy thông luật và Pharisiêu một chút ánh nhìn về hoả ngục mà họ đang đâm đầu xuống chỉ vì sự tự cho mình là đúng, là đạo đức, rồi phán xét kẻ khác một cách độc ác, đối với những người khác. Khi nào chúng ta cho phép cá nhân của mình xa cách Thiên Chúa, chúng ta sẽ để cho hoả ngục đi vào cuộc sống của chúng ta. Cách đi ra khỏi cái hoả ngục này là, “Hãy nhân ái như Cha các con trên trời là Đấng nhân ái.”
Chúng ta không đến nhà thờ để qua đó chúng ta muốn chứng minh cho người khác sự đạo đức của mình. Chúng ta tụ họp nơi đây bởi vì ở đây chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu ở giữa chúng ta và Ngài ban cho chúng ta một chút ánh nhìn về sự sống đời đời với Thiên Chúa.
Một đứa con trong gia đình nọ, sau một lần được cha mẹ giao trông chừng nhà đã vì quá ham chơi nên đã để cho ăn trộm vô lấy một số tài sản quý giá. Khi phát hiện được, đứa con đã rất run sợ nên đã không dám ở nhà mà đã chạy qua nhà hàng xóm trốn. Trở về thấy vậy, cha mẹ nó rất buồn giận. Họ định đi tìm con về đánh cho một trận hả giận. Tuy nhiên, họ suy nghĩ tài sản ấy có thể lấy lại được. Còn đứa con nếu không khéo đối xử, nó sẽ trở thành một người xấu chăng. Thế là họ quyết định đón con về. Với tấm lòng nhân hậu và bao dung họ đã tha thứ cho con mình. Đặc biệt, họ đã nói với con: “Cha mẹ tin là con đã biết lỗi của mình. Cha mẹ cũng tin là con sẽ biết sửa đổi…”. Quả thật, khi lớn lên đứa con này đã trở thành người tốt. Không những thế anh còn là một người rất cẩn thận trong mọi việc. Nhờ đó, công việc làm ăn của anh luôn được trôi chảy. Kết quả là anh đã sắm lại tất cả những gì đã bị mất trước kia cho gia đình và còn hơn thế nữa.
Như thế, nếu như người cha người mẹ trên vì quá tiếc của nên đã đối xử không khéo với con thì không biết sau này nó sẽ như thế nào. Nhờ họ đã biết dằn lại cơn nóng giận đúng lúc và nhất là họ đã biết giáo dục con đúng cách. Họ đã biết tin vào khả năng phục thiện của con mình. Họ đã biết mở cho con con đường mới.
Cũng thế, Tin mừng Chúa nhật hôm nay Chúa Giêsu đã nói với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: ” Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! “. Một câu nói hết sức trân trọng và đầy lòng thương xót cũng như tin tưởng mà Chúa Giêsu dành cho chị. Phải công nhận tội ngoại tình là một tội khó có thể chấp nhận và tha thứ được. Bởi lẽ, đây là tội đi ngược lại với luân thường đạo lý. Thế nhưng, đâu phải vì thế mà ai muốn xử sao thì xử.
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi “. Đây là câu nói nghe êm tai nhưng rất nặng cả ngàn cân. Câu nói ấy đã bắn trúng vào tim đen của những Kinh sư và Pharisêu. Kết quả là sau câu nói này thì: ” Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi “. Công bằng mà nói tội ngoại tình thì cũng như bao tội lỗi khác thôi.
Có lẽ thái độ của các Kinh sư và Pharisêu cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Ông bà ta thường nói: ” Tiên trách kỷ hậu trách nhân ” (Hãy tự trách mình trước rồi hãy trách người) hay ” Chuyện người thì sáng còn chuyện mình oán “. Chúa Giêsu cũng đã một lần nhắc nhở: ” Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? ” (Mt 7, 3). Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta quay lại với chính mình. Thiên Chúa luôn biết ta yếu đuối. Tội lỗi của ta tuy có lớn nhưng tình thương của Ngài lại con lớn hơn nhiều. Người sẵn sàng tin tưởng và sẽ cho cơ hội để ta làm lại cuộc đời mỗi khi trót phạm tội.
Mỗi khi lãnh Bí tích Hoà giải, Thiên Chúa qua vị Linh mục luôn nói: ” Cha tha tội cho con. Hãy đi bình an “. Đây là không chỉ là lời tha thứ mà còn là một lời an ủi khích lệ. Đồng thời, đây cũng là một lời nhắn nhủ đầy tin tưởng: ” Hãy đi và đừng phạm tội nữa “. Hãy xin Chúa Giêsu cho ta xác tín điều ấy luôn. Để rồi khi xác tín được điều ấy, ta sẽ biết phải làm gì để không phụ lòng tin tưởng mà Thiên Chúa dành cho ta.
71.Người đàn bà ngoại tình được tha
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Làm thế nào để trả lời một câu hỏi hóc búa, nhất là khi người hỏi có ý bắt bẻ? Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay đã phải đối chất với một câu hỏi như thế. Những người Biệt phái và Luật sĩ trình lên Chúa một vụ về người đàn bà mà họ cho rằng họ đã bắt được quả tang phạm tội ngoại tình. Thực ra thì bắt được người đang phạm tội ngoại tình cũng khó, chứ đâu phải chuyện dễ, trừ khi cái tò mò tính len lỏi vào. Mà tò mò trong trường hợp này có thể là phạm tội bằng mắt. Tuy nhiên xem ra họ không quan tâm đến người đàn bà ngoại tình cho bằng việc muốn gài bẫy để đưa Chúa vào tròng và làm khó cho Chúa trước chính quyền La mã và giáo quyền Do thái giáo.
Theo luật Mô-sê, khi người đàn bà bị bắt được phạm tội ngoại tình, thì sẽ bị ném đá. Như vậy nếu Chúa Giêsu trả lời không phải ném đá, thì Người chống lại luật Môsê. Đàng khác luật La mã áp dụng cho cả người Do thái thời bấy giờ cấm ném đá một người cho đến chết. Vậy nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là Người chống lại luật La mã. Như vậy vâng luật Do thái, thì lại lỗi luật La mã, và ngược lại, vâng luật La mã thì lại lỗi luật Do thái. Đàng khác nếu Chúa bằng lòng cho ném đá, thì Người lại mâu thuẫn với đường lối yêu thương, nhân từ và tha thứ mà Người vẫn thường giảng dạy. Như vậy thì Chúa phải trả lời thế nào? Thật nan giải.
Phúc âm kể lại Chúa cúi xuống vạch vài nét trên đất. Chúa vẽ gì, Phúc âm không kể lại. Có lẽ Chúa chỉ vạch vài đường lả lướt chơi vậy cho đỡ buồn để tỏ ra Chúa không quan tâm đến câu hỏi của họ. Và rồi Chúa bảo họ ai không có tội thì hãy ném đá người đàn bà trước đi. Nhưng không ai trong nhóm họ đã dám làm. Đọc Phúc âm, ta thấy người Biệt phái và Luật sĩ thường bị Chúa quở trách nhiều nhất vì họ là những người hay bới lông tìm vết, hay phê bình chỉ trích, hay nói mà không làm. Chúa bảo họ là những người kiêu căng, tự phụ và giả hình vì họ giữ đạo theo hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa.
Mục đích của việc Chúa quở trách là để dạy họ về đường lối Phúc âm của Người, và qua việc dạy họ, Chúa cũng dạy bảo ta nữa vì mỗi người chúng ta đều có những lúc giống người Biệt phái và Luật sĩ. Nếu có lời giảng dạy nào của Chúa và của người thừa hành mà làm ta suy nghĩ, thì đó là cái bước khởi đầu cho việc hối cải. Nếu Chúa khắt khe với người Luật sĩ và Biệt phái thì Chúa lại nhân từ với người chân thành khiêm tốn và thương xót người tội lỗi mà có lòng ăn năn sám hối. Vì tội lỗi của họ có thể là do hoàn cảnh xã hội hay nghèo túng gây ra như chuyện Thuý Kiều bán mình chuộc cha. Do đó cái hiện tượng đói ăn vụng, túng làm liều có thể được khoan hồng và ân xá. Vì thế áp dụng vào hoàn cảnh mỗi người, khi đi xưng tội ta phải xét cái cội rễ của tội hơn là quan sát và cắt cái ngọn. Cắt cái ngọn thì cây sẽ mọc lại, nhưng nếu nhổ cả rễ thì nó hết mọc. Cũng vậy, triệt cái cội rễ của tội mới hi vọng tránh phạm tội.
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa kêu gọi người đàn bà bắt đầu cuộc sống mới, chấp nhận lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa. Cái đề tài bắt đầu mới lại cũng được tìm thấy trong hai bài đọc Thánh kinh hôm nay. Tiên tri Isaia hôm nay nghĩ về cái cuộc xuất hành, cái cuộc giải thoát mới cho dân Chúa, không phải giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, nhưng là giải thoát khỏi tội lỗi và nết xấu. Bài trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê cũng chứa đựng cái gì mới. Thánh Phaolô rao giảng việc bắt đầu mới trong đời sống mới, đời sống ân sủng với Chúa. Đọc Phúc âm ta thấy Chúa Giêsu ghét tội, nhưng Chúa lại nhân từ với người có tội. Chúa tỏ lòng từ bi, ban ơn tha thứ cho chị đàn bà tội lỗi để chị ta xa tránh tội. Trước hết Chúa ban cho chị lời trấn an: Không ai kết án con sao? (Ga 8:11). Theo sau là lời tha thứ: Ta cũng không kết án con (Ga 8:11).. Sau cùng là lời khuyên răn chỉ đạo: Con hãy đi và đừng phạm tội nữa (Ga 8:11).
72.Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
- Luật Môsê – cũng là luật của Thiên Chúa – buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?
- Luật mới của Đức Giêsu – luật yêu thương – đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
- Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử” (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. – Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
- Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
- Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê” (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.
- Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người “ai cũng phạm tội” (Rm 5,12): “Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì “vô liêm sỉ” ở trong đó.
Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thoả mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.
HÃY CẢM THÔNG VỚI NHỮNG YẾU ĐUỐI CỦA THA NHÂN
- “Ai sạch tội, hãy ném đá trước đi!”
Đây là một đoạn Tin Mừng mà tôi rất thích, vì nó rất hữu hiệu trong việc ngăn cản tôi kết án người khác, nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới, v.v… Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giêsu: ” Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn, v.v… y như người vừa mới làm phiền tôi, hay vừa làm một điều ngu xuẩn nào đó.
Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi hết bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.
Làm sao tôi có thể kết án người khác, khi chính tôi cũng đã từng phạm một lỗi như họ? Đọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi khá bất bình với những người giả bộ đạo đức đem người phụ nữ ngoại tình đến với Chúa để Ngài kết án. Nhưng khi nghe thấy họ từ từ rút đi hết sau khi nghe Đức Giêsu nói: ” Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, thì tôi cảm phục họ. Ít ra là họ cũng còn liêm sỉ khi thành thật nhận ra mình cũng chẳng tốt lành gì, để rồi lặng lẽ rút lui.
Nhưng có lẽ cũng có khá nhiều người Kitô hữu không đủ liêm sỉ bằng những kinh sư và những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng này. Họ sẵn sàng kết án người khác, nuôi lòng hận thù với người khác, và rất khó tha thứ, đang khi chính họ cũng đã từng làm những hành vi tội lỗi tương tự như thế, hoặc còn hơn thế nữa.
- Tội hồng phúc, những khiếm khuyết hồng phúc
Tôi nhận thấy tội lỗi hay khiếm khuyết cũng có mặt tích cực của nó. Nhờ tôi đã từng phạm một số lầm lỗi, sai lạc, yếu đuối, hay ít ra bị cám dỗ nặng nề về một số tội nào đó, mà tôi trở nên bao dung, dễ tha thứ và sẵn sàng thông cảm với những yếu đuối hay lầm lỗi của người khác hơn. Tôi cảm thấy nếu tôi chưa từng phạm những lầm lỗi, những điều đáng trách ấy, thì có thể tôi đã không dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của tha nhân.
Trong hai trường hợp sau đây, nếu phải chọn một, thì bạn chọn trường hợp nào?
– một là không hề phạm một lỗi nào cả nên khó thông cảm tha thứ cho những yếu đuối của người khác,
– hai là đã từng yếu đuối, sa ngã, lầm lỡ, nên trở nên độ lượng, bao dung, dễ cảm thông với những yếu đuối lầm lỡ của người khác.
Riêng tôi, tôi sẽ nghĩ đến trường hợp thứ ba là tuy không phạm lỗi bao giờ nhưng lại rất thông cảm với những lầm lỗi người khác, và tôi cho trường hợp này là tuyệt vời nhất. Tuy nhiên, có lẽ trường hợp này khá hiếm. Nhưng nếu chỉ có hai trường hợp trên, thì tôi thích trường hợp thứ hai hơn. Loại người thứ hai chắc chắn được nhiều người thương mến hơn loại người thứ nhất. Và chắc chắn Chúa cũng thích như thế.
Nói thế không có nghĩa là tôi khuyến khích người ta phạm tội để họ có được sự thông cảm với những người tội lỗi. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã từng yếu đuối, lỡ sa ngã phạm tội, thì hãy nhìn ra khía cạnh tích cực của tội lỗi. Nhận ra tội lỗi hay sự yếu đuối của mình sẽ giúp ta khiêm nhường, thông cảm, nhờ đó dễ tha thứ cho người khác. Đức khiêm nhường mà ta có được do nhìn nhận tội lỗi mình thì còn quí giá hơn là trong sạch mà kiêu căng, muốn tự hào và cho rằng mình hơn người vì sự trong sạch đó.
- Thái độ thông cảm của Đức Giêsu đối với người tội lỗi
Đức Giêsu rất thánh thiện, không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi, Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta. Có thể ta dễ dàng kết án người khác, làm như thể ta hoàn toàn vô tội, không hề phạm những sai lỗi như thế bao giờ. Kết án người khác dễ dàng, điều đó chứng tỏ ta không liêm sỉ bằng những người tự động rút lui sau câu nói của Đức Giêsu: ” Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”.
Trong cuộc đời, nhiều khi ta khó chịu với những kẻ lên mặt đạo đức hay kết án hơn là với những kẻ phạm nhiều lầm lỗi. Chắc hẳn Thiên Chúa cũng không ưa những kẻ hay kết án cho dù họ đời sống của họ có tốt đẹp đến đâu. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho kẻ có tội nếu họ biết ăn năn hối lỗi, nhưng Ngài khó tha thứ cho những kẻ hay kết án. Ngài đã từng nói: ” Anh em đừng kết án để khỏi bị kết án”. Điều đó có nghĩa: kết án người khác chính là cách chắc chắn nhất để Thiên Chúa quay ngược lại kết án chúng ta! Vậy thì ta đừng bao giờ dại dột kết án người khác.
Tôi vẫn nghĩ rằng cách tốt nhất để Thiên Chúa khỏi kết án ta là ta đừng bao giờ kết án người khác. Nếu chúng ta luôn luôn tha thứ cho người khác một cách vô điều kiện, chắc chắn Thiên Chúa cũng không thua kém lòng quảng đại của chúng ta, Ngài cũng sẽ tha thứ cho chúng ta như vậy. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn xin Chúa tha nợ chúng ta, giống như hay theo kiểu chúng ta tha nợ cho những kẻ nợ chúng ta. Ta tha thứ cho người khác kiểu nào, Thiên Chúa cũng tha thứ cho ta kiểu ấy. Ta chấp tội người khác thế nào, Thiên Chúa cũng chấp tội ta thể ấy. Vậy, một cách nào đó, chính ta quyết định việc ta có được Chúa tha thứ hay không.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin cho con ý thức được thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, để con thông cảm dễ dàng với những yếu đuối của anh chị em chung quanh con. Xin đừng để con kết án ai bao giờ, nhưng luôn luôn tìm ra những lý lẽ để thông cảm cho những lỗi lầm của họ. Xin cho con đủ bao dung quảng đại để sẵn sàng tha thứ một cách vô điều kiện cho bất kỳ ai xúc phạm đến con. Và con nghĩ đó là cách khôn ngoan nhất để con được Chúa tha thứ cho con một cách vô điều kiện.
74.Chúa đối xử bằng tình thương – Jos. Hồng Ân
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan thuật lại cho ta thấy, Chúa Giêsu có một thói quen, mỗi khi giảng dạy dân chúng xong, mọi người ai nấy trở về nhà mình còn Chúa Giêsu thì lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan nói rõ: “Đức Giêsu thì lên núi Ô-liu” (Ga 8, 1), Ngài lên núi để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa suốt đêm, nên “vừa tảng sáng Người trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc ấy các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8, 2). Một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang, chị bị điệu đi bêu xấu, xỉ nhục dọc đường và theo luật Môsê bị ném đá cho đến chết. Nhưng có một số người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sẵn có ác ý với Chúa Giêsu, họ mưu toan tìm cách hại Người, nên họ đã nghĩ ra kế sách thâm độc. Họ đã dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến gần Chúa Giêsu hỏi thử Người, để làm một cái bẫy, đưa Ngài vào chòng, rồi họ sẽ kết án luôn cả Chúa Giêsu, như vậy “một mũi tên sẽ trúng hai đích”.
Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nghĩ rằng phen này họ sẽ thắng và chắc chắn Chúa Giêsu cũng sẽ bị kết án. Họ hỏi thử người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môsê đã truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Nếu Chúa Giêsu trả lời tha cho người phụ nữ phạm tội, thì họ sẽ kết án Chúa vi phạm luật Môsê và ủng hộ tội lỗi, làm phá hoại nền tảng gia đình và xã hội. Còn Chúa trả lời lên án tử người phụ nữ đó, thì họ sẽ làm cho Ngài một phen bẽ mặt, vì giáo huấn Chúa dạy là phải yêu thương (x. Mc 12, 28-31), nhân từ (x. Mt 11, 29) và tha thứ (Lc 6, 37). Hơn nữa họ còn tố cáo là Ngài đã chống lại Rôma và vượt quyền xét xử của nhà lãnh đạo Lamã. Vì thời Chúa Giêsu Dothái bị đế quốc Lamã đô hộ, nhà cầm quyền Dothái không được lên án tử hình, mà phải đên trình lên Rôma xét duyệt. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người không trả lời mà “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Kinh Thánh không nói Ngài viết chữ gì, nhiều ý kiến thì cho rằng: “có lẽ Ngài viết tội trạng của những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư”. Đây quả là một vụ án vô cùng khó xử.
Chúa Giêsu đã im lặng, cúi xuống viết trên đất, đó là khoảng thời gian vô cùng hồi hộp của người phụ nữ, chờ đợi phán quyết cuối cùng của Ngài. Là khoảng thời gian những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nóng lòng chờ đợi Ngài đưa ra phán quyết để có cơ hội tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cứ viết mãi, viết mãi, làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư phải khó chịu nên họ thúc dục Người: “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng đầu lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Rồi Chúa lại cúi xuống tiếp tục viết. Chúa Giêsu không nói là ném đá hay không ném đá, kết án hay không kết án, Ngài cũng không nói tới việc áp dụng luật, Ngài muốn thức tỉnh lương tâm của những kẻ tự cho mình là công chính, giữ luật cách máy móc, đến nỗi không còn phân biệt tốt xấu.
Chuyện kể rằng: Một người Dothái qua đời. Sau khi khám nghiện tử thi, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, mọi người bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy người chết đã sống lại. Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với người trong quan tài rằng: “chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đã chết, nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, quả thực ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ”. Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục cử hành nghi thức tang lễ và hoàn tất thủ tục chôn cất.
Có lẽ tác giả của câu chuyện trên muốn lên án, chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân các lề luật, cũng như khi cư xử với người đồng loại, với người đồng đạo, với những người thân cận.
Thời Chúa Giêsu, những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư họ cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ cách máy móc, làm cho luật trở nên nặng nề, họ trung thành với luật lệ đến nỗi không còn tình người, đến hy sinh tính mạng, giết chết người đồng loại, chôn sống cả người đồng hương.
Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Chúa đánh đổ quan niệm ấy bằng cách chữa bệnh ngày Sabát, đón tiếp, ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế. Qua việc làm đó, Ngài muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, vượt qua mọi luật lệ của con người.
Lời nói của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, đã làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư bừng tỉnh, nhận ra chính họ cũng là tội nhân trước mặt Chúa, nên đã lần lượt rút lui. Khi Chúa ngẩng lên thì không còn ai ở đó nữa, lúc đó Chúa mới đưa ra lời phán quyết. Chúa không xét xử như con người, cũng không dùng lề luật mà xét xử. Ngài dùng tình thương mà xét xử: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Chúa đã để cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn sám hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa và sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài. Chúa phân biệt tội và người có tội, đối với tội thì Chúa triệt để lên án, không khoan nhượng, không dung thứ, cũng như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Chúa lên án tội lỗi, dạy con người tránh xa tội lỗi. Suốt đời Chúa hằng đấu tranh với tội lỗi, đấu tranh đến giọt máu cuối cùng trên Thập giá để diệt trừ tội lỗi. Còn người có tội thì Chúa lại khoan dung tha thứ.
Trên đời, nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sống vụ luật, hình thức, giữ luật một cách máy móc, giữ giờ giấc đầy đủ, bề ngoài có vẻ như rất đạo đức nhưng lại hay soi mói, xét nét, lên án người khác từ những chuyệt rất nhỏ mà quên rằng: trước mặt Chúa chính ta cũng là kẻ tội lỗi, chúng ta mang nơi mình bản tính của con người là yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Vậy mỗi khi định xét đoán người nào, hay lên án ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, không hề mang vết nhơ tội lỗi. Và ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-3). Chúng ta không xét đoán tha nhân, thì Thiên Chúa cũng sẽ không xét đoán chúng ta như chúng ta đáng tội. Chúng ta dùng đấu tình thương mà đong cho tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta. Mỗi người chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho anh em khi họ xúc phạm đến ta, khi họ làm điều sai trái, thì Thiên Chúa cũng sẽ lấy thương mà đối xử nhân từ, khoan dung và tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cũng là những con người tội lỗi, nhưng chúng con lại hay chỉ trích, lên án và loại trừ người khác. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng con, để chúng con nhận biết chính chúng con cũng là những con người tội lỗi, để chúng con đối xử khoan dung và tha thứ cho anh em con. Xin Chúa cũng dùng tình thương mà đối xử với chúng con, như Chúa đã đối xử nhân từ với người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
75.Lòng khoan dung của Thiên Chúa
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Các em thiếu nhi trong Giáo xứ thường xem trước bài Tin Mừng Chúa Nhật, đọc và tìm hiểu. Hôm nay, Bé Hữu đọc to đoạn tin mừng Ga 8, 1-11. Mẹ hỏi: “con hiểu thế nào?” Bé trả lời “Chúa Giêsu cứu một mạng người” “cứu ai” “Cứu bà kia”? “Ai định giết?” “Mấy ông luật sĩ định ném đá cho chết luôn” “Sao không ném?” “Ai cũng có tội mà ném gì, Mẹ? Họ rút êm hết rồi”
Còn Chúa thì sao? “Chúa bảo bà ấy về đi, đừng phạm tội nữa. Thế là bà ấy thoát chết”
“Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?” (Gn 8:4-5)
Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội tình được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay đang đau khổ vì xét theo luật, phải bị công khai ném đá cho đến chết. Thực ra, chị không phải là nhân vật chính trong vụ xét xử theo yêu cầu của các luật sĩ. Nhưng chính là Chúa Giêsu. Họ đang muốn xử Chúa Giêsu. Và họ sẽ xử Chúa Giêsu nếu Ngài không xử người phụ nữ này đúng theo luật của Môise đã định. (Lv 20:10).
Thật tội nghiệp cho thân phận thiệt thòi của người phụ nữ. Không thấy người đàn ông tòng phạm bị ném đá!
Chúa Giêsu biết họ đang thử thách Ngài về lòng bác ái và việc thi hành lề luật. Ngài đã thinh lặng đến độ khó hiểu. Và khi Ngài lên tiếng, thì họ mới hiểu ra là Chúa Giêsu đứng về phía tội nhân. Ngài không bảo đừng ném đá, nhưng Ngài bảo ai đó cứ ném đi nếu tự thấy mình vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Gn 8:7).Ngài không bào chữa cho tội nhân, nhưng Ngài tha thứ và với ơn tha thứ Ngài khuyên người phụ nữ đừng phạm tội nữa. “Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Tin mừng đưa ra hình ảnh người đàn bà ngoại tình không có ý làm giảm nhẹ giá trị phụ nữ thời xưa hay thời nay, nhưng có ý nhắc đến “người phụ nữ là Dân Riêng Thiên Chúa” mà Thiên Chúa đã kết ước như một cuộc hôn phối diệu kỳ giữa Thiên Chúa như người chồng, và dân riêng như người vợ: “Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.(x. Is 62, 4- 5). Và Ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsê 2,21-22)
Còn trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là chàng rể và Giáo Hội chính là hiền thê của Ngài. “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người” (Mt 25, 6). Cũng vậy, trong Giáo Hội mỗi thành phần đều là những người yêu quí của Chúa Kitô, thuộc về Chúa Kitô, trong ý nghĩa đã được hôn phối đời đời với Ngài.
Như vậy hình ảnh người vợ ngoại tình có ý nói đến việc dân riêng Thiên Chúa bỏ Thiên Chúa mà lang chạ với ngẫu thần ngẫu tượng, việc mỗi người chúng ta cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa khi để lòng chúng ta yêu chuộng các sự thế gian hơn yêu mến Thiên Chúa, khi sống trong tình trạng tội lỗi.
Đâu chỉ có các bà!
Dân Chúa hôm nay có trong đó có tôi, có chị, có nam có nữ, có ông già bà già và cả con nít..thảy đều phạm tội ngoại tình.. xét theo nghĩa, ngoại tình là không chung thủy lời hứa hôn phối với Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, qua lời hứa từ bỏ ma quỉ và các việc của nó…
Có người ngoại tình chạy theo lời dụ ngọt của lợi nhuận vật chất, của sự bảo bọc bao che cho những sai trái của mình mà phải làm tay sai cho một thế lực chống lại Thiên Chúa.
Có ông ngoại tình hết mình lo tiền bạc là vì xem tiền bạc là cứu Chúa đời mình mà quên việc phục vụ tha nhân.
Có ông vì run sợ trước họng súng để vào tai, trước lưỡi dao kề bên cổ, trước những đe dọa bắt bớ bỏ tù mà đành phản bội với Chúa Kitô và Thập giá của Ngài.
Có người muốn kết duyên với “chức trọng quyền cao” mà không chu toàn bổn phận đầy gian nan khổ ải, đòi hỏi những hiến thân phục vụ cho chân lý.
Cũng có những người ngoại tình vì những khát vọng khoái lạc chóng qua mà bỏ rơi Thiên Chúa muôn đời hằng hữu.
Có ông ngoại tình “bắt cá hai tay” không mất chuyện trong đạo mà được cả chuyện ngoài đời, trong ngoài đều có lợi……
Ma quỷ khôn ranh tạo ra muôn hình vạn trạng cách phạm tội ngoại tình đối với lời thề hứa chung thủy với Thiên Chúa và còn đưa dẫn chúng ta cách tài tình đến chỗ phải làm thân nô lệ cho tội lỗi.
Không ai vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Lời Chúa xoáy vào tâm can mỗi người. Từng người rút êm. Không ai dám cầm viên đá mà quăng vào người phụ nữ.
Cách đây không lâu, chỉ vài chục năm thôi, tôi còn nhớ như in hình ảnh những cô “ăn cơm trước kẻng”, những bà có chồng công khai chung sống với người khác, đứng trước cộng đoàn đọc bản tự thú để được tha vạ mà xưng tội rước lễ. Tôi cũng thấy có các cô thôi, không thấy các anh, các ông. Các cô, các bà ấy bị những biện pháp chế tài vì là tội nhân công khai -có lẽ công khai vì cái bầu – Có nơi còn phải bị nộp phạt cho giáo xứ nữa.
Những dịp ấy, có nhiều tiếng xì xào trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ, cả cô và bà đều cúi gầm mặt xuống mà đi vì xấu hổ trước mặt mọi người. Rồi, nếu có lễ cưới, thì Bí Tích Hôn Phối bị gọi là Phép Giao, cử hành trong phòng thánh mấy phút là xong.
Tưởng là khủng khiếp cho một não trạng phân biệt đối xử như thế, nhưng ít nhiều cũng đã bảo đảm được cho lớp trẻ một thời biết gìn giữ đức khiết tịnh tiền hôn nhân, lớp già biết gìn giữ đặc tính đơn hôn trong hôn nhân công giáo.
Xin một chút tản mạn ngoài lề… Còn thời nay… “Mẹ lạy con đừng phá cái thai ấy. Đã lỡ phạm tội, lỡ có bầu rồi, con đừng phạm thêm cái tội giết người nữa con ơi! Phá thai là giết người không có sức kháng cự, không có khả năng tự bảo vệ, là giết chính con mình… Tội tày trời. Mẹ năn nỉ con…”
Còn thời nay…. người trẻ chưa sống đời vợ chồng, đòi sống thử đã đành, người già cũng sanh tật tìm hoa thơm cỏ lạ, thành ra tội lỗi khắp nơi khắp chốn, tội lỗi đủ mọi lớp tuổi, mọi thành phần. Sống thử, ngoại tình, phá thai, ly dị… trở thành đại dịch để lại những hậu quả khủng khiếp về đời sống luân lý cho không chỉ một thế hệ, và chắc chắn cũng là hậu quả vô cùng tệ hại đối với sự tồn vong của một dân tộc ….
Nhưng xin đừng kết án. Xin đừng ném đá. Chúa Giêsu bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38).
Thực tế, lòng người quá hẹp hòi ích kỷ, như bà De Girardin đã nói: “ đàn bà chỉ tha thứ sau khi đã trừng phạt”, hoặc như Tennyson: “đàn bà rất cay nghiệt với đàn bà”. Vâng tính đàn bà ấy lại ngự trị ngay trong lòng những người đàn ông tưởng như là độ lượng. Ngược lại, không thiếu những phụ nữ còn độ lượng hơn cả đàn ông.
Đối với Chúa Giêsu, tha thứ tuyệt đối là điều kiện tiên quyết để phục hồi tình trạng nguyên tuyền của hôn ước thánh thiện giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu là tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Lòng bao dung của Thiên Chúa được nhắc đến trong bài đọc 1, Is 43, 18-19: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”.
Vâng, Thiên Chúa không nhắc lại chuyện xưa, không dằn xé đay nghiến, không trừng phạt tức khắc, nhưng chỉ biết khoan dung kiên nhẫn chờ đợi và thứ tha vô lượng. Ngài còn mở ra một con đường của bình an hy vọng: “Đừng phạm tội nữa”.
Và để có một hướng định quyết liệt cho việc không tái phạm tội, thánh Phaolô chỉ dẫn: “Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô…….
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. (Pl 3,8-14)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là lòng khoan dung của Thiên Chúa, xin cho chúng con giữ lòng chung thủy với Chúa, và khi lỡ lầm, xin cho chúng con biết vững tin vào lòng tha thứ vô lượng của Chúa, mà quyết tâm nối lại duyên tình hạnh phúc vô biên với Chúa, và dứt khoát nói “không” với tội lỗi. Amen.
76.Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).
Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).
- Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết
Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ. Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ. Còn nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga 8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.
- Cần sửa mình trước khi sửa anh em
Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ: “Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy, Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.
Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Bài học chúng ta rút ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.
- Từ nay đừng phạm tội nữa
Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt 19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9 trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết. Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta, ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ “Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.
77.Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Đức Giêsu.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ của Đức Giêsu”, tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về bản gốc TM IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm 200); các tác giả Hy Lạp viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong của các TMNL, đặc biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là TM IV.
Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả”. Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong các thủ bản La-tinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông.
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của TM làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ rằng đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các TM ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội ngoại tình.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh (8,1-2);
2) Vụ “Người phụ nữ ngoại tình” (8,3-11):
- a) Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ “đứng ở giữa” – [Đức Giêsu] (c. 3),
- b) Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (cc. 4-6),
- c) Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói tạo khúc quanh (cc. 7-8),
b’) Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ nữ] (c. 9a),
a’) Đức Giêsu – Người phụ nữ “đứng ở giữa” – [Các kinh sư/Pharisêu] (cc. 9b-11).
3.- Vài điểm chú giải
– vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong TM IV, từ orthros, “bình minh” (orthrou, “lúc bình minh, lúc tảng sáng”) chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21). Riêng Lc 21,38 dùng động từ orthrizô, “dậy sớm”.
– các kinh sư và người Pharisêu (2): Đây là một công thức quen thuộc của các TMNL, còn TM Ga thì chuộng kiểu nói “các thượng tế và người Pharisêu” (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.
– bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định rõ hơn: “bị bắt quả tang đang ngoại tình”. Theo Đnl 19,15, phải có ít ra hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).
– Thưa Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1] này rất quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Ga, tác giả thường dùng từ Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).
– trong sách Luật, ông Môsê truyền (5): Các kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.
– Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.
– để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.
– viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.
1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;
2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu Xh 23,1b: “(để làm chứng gian)”, và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh 23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu về câu Xh này trong truyện bà Susanna (Đn 13,53);
3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật Rôma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là c. 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8, Người lại viết những gì sẽ công bố ở c. 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả-rập cho thấy thói quen Sê-mít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những nét vẽ đó đã được kể lại.
– Ai trong các ông sạch tội,… ném trước… (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết của kẻ ấy.
– họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: “Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi”. Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ “lên án” ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán, tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16…).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra “nhơ uế”. Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.
* Khung cảnh (1-2)
Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói “toàn dân” để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ “người phụ nữ ngoại tình” (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: “Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.
Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13, chúng ta đọc được: “Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống” (Bd NTT). Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho câu trả lời.
Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisêu. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một “ca” đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (c. 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (c. 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết luận
Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
- Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi người phụ nữ ngoại tình như một “ca” đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).
- Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.
- Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón nhận.
- Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: “Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?
- Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: “Chị cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!”, nhưng dường như muốn bảo: “Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú”. Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: “Từ nay đừng phạm tội nữa!”
————————-
[1] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả việc xưng hô.
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. “Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình… Chị ta đáng chết… luật lệ đã rõ ràng” (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. “Ông ấy ăn uống với người tội lỗi”. Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là “vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ…Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến “lãnh vực khác”.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê” hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “điếm đàng”. Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ “lần lượt” âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, “không lên án” chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc… Chị ta đã thoát chết… Chị không còn là người “ngoại tình” nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ” đối với “lòng xót thương”, Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,l5). “Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ ” (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: “Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa”. Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi… ” Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
79.Chú giải của Fiches Dominicales
Đức Giêsu mở ra một con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại muốn giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Trước bẫy giăng của đối thủ
Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.
Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour giải thích: “Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa”). Dễ dãi thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân” (“L’Eavngile de Jean”, Centurion 1992. trg 121).
Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
“Các kinh sư và những người Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ “bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào “giữa” đám đông đang tụ họp và nói với Đức Giêsu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Đức Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu “cúi xuống” và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): “tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất “. A. Marchadour cho rằng: “Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng”. (sđd; trg 124).
Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu “cúi xuống”, rồi “ngước lên”. X. Léon-Dufour thắc mắc: “Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?” Rồi trả lời: “Tên núi Ôliu được nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa” (“Lecture de l’evangile selon Jean”, Cerf, tập 2, trg 313).
- Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu là sự thinh lặng.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi”. (Dnl 13,9-10 và 11,7: “Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như “người phụ nữ kia”, người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất”.
- Rồi lời giải thoát đến:
Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.
Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là “hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: “Này chị”. Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa “.
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện “độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa” (x. Léon-Dufour, Sđd, trg 332).
BÀI ĐỌC THÊM:
- Một mạc khải sâu xa về bản chất của tội lỗi
Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ… theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng… không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. ” Đừng phạm tội nữa”.
– Ý niệm về lỗi phạm… Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn “mối tương quan với Thiên Chúa”. Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương “khuôn mặt” của Người… nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
- Một lời nói và một ánh mắt giải phóng và cứu độ.
Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. “Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? “
Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của “những người công chính” cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.
- Một vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta.
(“Célébrer”, tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).
Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.
Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và ” sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.
80.Tình thương tha thứ và biến đổi
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- LỜI CHÚA: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
- CÂU CHUYỆN: Về cuộc hoán cải của một tội nhân:
TA-XI-A-NA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là “Về Một Cuộc Đổi Đời Kỳ Diệu”. Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi trở nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Ta-xi-a-na được tóm gọn như sau:
Ngay từ khi còn bé, Ta-xi-a-na đã được chịu phép Rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do thường hay gây gỗ và cứng đầu nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ em khó dạy. Ngay từ nhỏ, Ta-xi-a-na đã tỏ ra căm thù tất cả những gì gò bó, ép cô vào khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy bị mất tự do và không thể làm theo ý mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Ta-xi-a-na đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám ma-cô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen…! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yô-ga. Khi tập luyện Yô-ga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha để thay cho bài văn vần kia. Ta-xi-a-na đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Ta-xi-a-na: “Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?” Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giêsu. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được đổi mới hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: “Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà cô đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi mất khả năng sinh con. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa! Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tâm can tôi. Sau cùng tôi thật xúc động khi nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân”.
Sau lần xưng tội ấy, Ta-xi-a-na đã cảm nghiệm thấy cô đã gặp được chính Chúa Giêsu và được Người tha thứ mọi tội lỗi quá khứ. Ta-xi-a-na không những đã được ơn tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô trở nên một tạo vật hòan tòan mới của Người.
- SUY NIỆM:
1) Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu đã bênh vực và tha thứ tội cho một phụ nữ ngoại tình. Người còn biến đổi chị nên một con người mới. Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu chúng ta nhận biết sự yếu hèn của mình để hồi tâm sám hối nhờ gặp Chúa Giêsu trong bí tích giải tội. Chắc chắn chúng ta sẽ được Người tha thứ và còn được ơn biến đổi nên một con người mới.
2) Bí tích giải tội là bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, để tha các tội riêng ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích giải tội còn được gọi là bí tích giao hòa, hòa giải hay bí tích sám hối. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này vào chiều ngày phục sinh, khi Người hiện đến với các tông đồ trong nhà tiệc ly và phán rằng: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Bí tích giải tội ban cho ta các ơn này: Một là tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra cho ta và tha một phần hình phạt tạm. Ba là ban sự bình an cho tâm hồn và gia tăng sức mạnh giúp ta chiến đấu chống lại các cơn cám dỗ của ma quỷ. Bí tích giải tội rất cần cho người tín hữu, vì giúp họ nhận được ơn tha thứ tội lỗi đã phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội Thánh. Chỉ các giám mục và những linh mục có quyền giải tội mới được ban phép giải tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Ba Ngôi. Những ai đã phạm tội trọng thì cần phải nhận lãnh bí tích giải tội; còn ai chỉ mắc tội nhẹ thì không buộc xưng tội, nhưng nếu họ có lòng ăn năn mà xưng thú tội lỗi thì sẽ nhận được nhiều ơn ích thiêng liêng. Muốn lãnh nhận bí tích giải tội ta cần làm bốn việc: Một là xét mình; Hai là ăn năn dốc lòng chừa; Ba là xưng tội; Bốn là đền tội. Ngoài việc xưng tội, Hội Thánh còn dạy các tín hữu sám hối bằng các việc khác là: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái để chia sẻ cơm áo và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.
3) Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn lãnh nhận bí tích giải tội dựa vào một số lý do như sau:
* Do gương xấu của một số chủ chăn: Những tín hữu này không muốn xưng tội với lý do các vị chủ chăn cũng chỉ là những con người tầm thường với nhiều tội lỗi và bất tòan.
Tuy nhiên, chính Đức Giêsu đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông chỉ là những con người còn nhiều sai lỗi. Vì các ngài hành quyền “cầm buộc và tháo cởi” không với tư cách cá nhân nhưng đại diện cho Chúa Giêsu. Đàng khác, các hối nhân được ơn hóan cải hay không là do quyền năng Thánh Thần đã được chính Chúa Giêsu thổi hơi ban cho các tông đồ, như Tin mừng Gio-an đã ghi lại như sau: “Nói xong, Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
* Do hiểu sai về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: “Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng nhiều lần trước đó, mà không sao chừa được. Do đó xưng tội là một việc làm vô ích, thiếu hiệu quả và mất nhiều thời giờ.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh khó lòng chữa khỏi như: bệnh cao huyết áp đòi người bệnh phải uống thuốc hằng ngày, bệnh dị ứng nổi mề đay, bệnh “gút” gây đau nhức luôn phải uống thuốc giảm đau… Mỗi khi căn bệnh tái phát nặng hơn, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và phải dùng một số loại thuốc giống nhau… Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do sẽ tái bị lại?. Nếu ta không đi khám và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là điều sai lầm. Cũng như mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa cho sạch, dù biết rằng đến mai cơ thể của mình sẽ lại bị dơ cần phải được tắm lại… Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, thủ dâm để tìm hưởng lạc bất chính… Dù biết sau một thời gian có thể sẽ tai phạm, nhưng ta vẫn cần đi xưng tội để đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
* Do xét mình cẩu thả: Có người chữa mình rằng: “Tôi xét mình mãi mà chẳng thấy có tội gì cần phải xưng. Nhiều khi phải cố tìm một “tội trọng cũ” để có tội mà xưng.
Việc không tìm ra tội nào không chứng minh chúng ta là người thánh thiện, nhưng có thể do chúng ta đã chai lỳ về tâm linh khi cho các việc làm sai là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều yếu hèn như thánh Phao-lô đã thú nhận: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra là do đã xét mình cẩu thả mà thôi, như thánh Gio-an đã viết: “Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
* Do xét mình thiếu sót: Kinh cáo mình có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai… hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp…
Trong Tin mừng, Đức Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh La-da-rô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu cũng sẽ phán với những kẻ bỏ qua không chịu làm việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các người đã không viếng thăm…” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng chỉ là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể thành tội nặng nếu nó cho thấy trong ta không có tình thương và đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gio-an đã viết: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
- THẢO LUẬN:
1) Trong mùa Chay này, mỗi người chúng ta cần làm gì để biểu lộ lòng tin vào tình thương bao dung của Thiên Chúa?
2) Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: “Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng phạm nhiều tội như mình? Hoặc xưng tội làm chi để rồi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ lại tái phạm các tội mới xưng? Sao không đợi đến lúc sắp chết sẽ xưng tội một lần cuối?”
- NGUYỆN CẦU
– Lạy Chúa Giêsu. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng nhìn thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên những chứng nhân của Chúa trước mặt người đời.
– Lạy Chúa. Nếu Chúa đã không lên án kẻ có tội, không chấp nhất những điều chúng con sai lỗi, thì xin cũng giúp chúng con tránh kết án tha nhân. Khi thấy anh chị em con sai lỗi, xin cho chúng con biết tự xét và tu sửa tội lỗi nơi mình trước đã, rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi của anh em con. Bấy giờ xin cho chúng con biết khôn ngoan để nói đúng lúc và đúng phương pháp hầu chu tòan bổn phận “răn bảo kẻ có tội”, như kinh “Thương người” đã dạy
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
81.Đứng dậy và đừng phạm tội nữa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Ga 8: 1-11: Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng…
Ta bắt gặp Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, dẫn chứng của Gioan đầy sức thuyết phục “Con Một, Ðấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri” (Ga 1,18). Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11).
Và rồi ta thấy trang Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội.
Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Và ta thấy rằng không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Trang Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời.
Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta hôm nay.
82.Cảm nếm tình Cha! – Huệ Minh
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Môsê.
Thật ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và rồi, với lòng chai dạ đá trước anh chị em đồng loại để rồi họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ.
Thực chất, trong câu chuyện này họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng bẫy để Chúa Giêsu vấp phạm để loại trừ Chúa Giêsu. Họ chỉ lấy chuyện tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.
Chúa Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình và chính Ngài đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”.. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Thật thế, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Với lời yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu, ta chợt nhận ra rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu và nhận ra rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Chúa Giêsu đã không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa.
Lòng thương xót của Chúa hải hà trên vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
Xin cho mỗi người chúng ta cảm nếm được hồng ân tha thứ của Chúa để ta cũng biết tha thứ và thương cảm anh chị em đồng loại như Chúa đã tha thứ và thương cảm mỗi người chúng ta.
=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy