CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A
Lời Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.
Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”
Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.
Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).
Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.
Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.
Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo… Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực.
Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?
2. Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: dù Chúa Giêsu có về trời, thì Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa với các môn đệ: “Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến ngày tận thế”. Người tin vào Chúa sẽ được ở trong Người và Người ở trong lòng họ. Lời mời gọi: “hãy ở trong Thày”, vừa nêu bật vinh dự lớn lao của người tín hữu, vừa đem cho họ sự an ủi đỡ nâng, giữa biết bao bận rộn lo lắng của cuộc sống trần gian. Ở trong Chúa cũng là một điều kiện thiết yếu để trở nên môn đệ đích thực của Người.
“Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy giữ lời Thày”. Tuân giữ lời Thày là bằng chứng của tình yêu đối với Chúa. Ai tuân giữ lời Thày sẽ được Thày hiện diện trong tâm hồn người đó. Và, cùng với sự hiện diện của Chúa Giêsu, người tín hữu còn được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ngự trị. Như thế, ngay khi còn sống ở trần gian, họ đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Bởi lẽ hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải là được sống trong tình yêu viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa?
Những ai ở lại trong Chúa sẽ làm được những điều kỳ diệu, nhờ quyền năng và ân sủng Người thông ban. Chúa nhật thứ sáu của mùa Phục sinh nhấn mạnh tới sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Thông thường, khi nói đến cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chúng ta hay dừng lại ở việc diễn tả một cộng đoàn liên đới, chuyên tâm cầu nguyện và siêng năng tham dự lễ bẻ Bánh. Điều này không sai. Tuy vậy, cũng phải nhấn mạnh tới khía cạnh “động” của cộng đoàn này, tức là khía cạnh truyền giáo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn hăng say truyền giáo. Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ vẫn tin rằng Người hiện diện với họ. Nhờ sự hăng say nhiệt huyết của các tông đồ, và số tín hữu tăng thêm nhanh chóng. Bài đọc thứ nhất trong Phụng vụ hôm nay kể lại nỗ lực truyền giáo của một trong số mười hai tông đồ, đó là Philippê. Ông rời Giêrusalem để đến miền Samaria là miền đất dân ngoại. Ông rao giảng Đức Kitô và làm được nhiều phép lạ. Sự hiện diện của Chúa thể hiện qua quyền năng Chúa ban cho các tông đồ, nhờ đó các ông có thể trừ quỷ và các chứng bệnh, y như Chúa Giêsu đã làm trước đó. Việc có nhiều người trở lại là niềm vui chung của các tông đồ, vì vậy ông Gioan và ông Phêrô được cử tới Samaria để chia sẻ niềm vui và đặt tay trên các tín hữu để ban Thánh Thần. Những kết quả truyền giáo đã đạt được chứng minh Chúa Thánh Thần cùng hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, như lời hứa của Chúa Giêsu: “Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Chính sự hiện diện của Chúa Giêsu, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã làm nên những kết quả kỳ diệu của sứ vụ truyền giáo.
Ngày hôm nay, những thành quả mà Giáo Hội đạt được khi thi hành sứ vụ Chúa Giêsu trao phó, cũng là nhờ sự hiện diện của Người và nhờ tác động của Đấng Phù trợ, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội, làm cho những hoạt động ấy sinh hoa kết trái. Ngài là hơi thở và là linh hồn của Giáo Hội, nhờ Ngài mà Giáo Hội sinh động, tươi trẻ và vươn lên không ngừng.
Mùa Phục sinh cùng với bầu khí lễ hội tưng bừng đang dần khép lại. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, sự hiện diện của Chúa Phục sinh và lòng nhiệt thành loan báo Lời Chúa không dừng lại khi mùa Phục sinh chấm dứt, nhưng mở ra một giai đoạn mới mà ta gọi là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống cho trần gian. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn mang diện mạo tươi trẻ và phù hợp với mọi môi trường xã hội, góp phần thánh hóa trần gian.
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, mỗi tín hữu hãy “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình”. Thánh Phêrô khích lệ chúng ta, đồng thời khuyên bảo chúng ta hãy tôn trọng và đối xử hiền hòa với những người đang đi tìm Chân Lý. Sống theo lương tâm trung thực ngay thẳng, hiền hòa nhân ái với mọi người, đó là chứng từ hùng hồn nhất về Đấng Phục sinh. Chứng từ này làm cho những ai đang thành kiến với Giáo Hội cũng cảm thấy được thuyết phục.
“Hãy ở lại trong Thày!” lời mời gọi ấy vang lên mỗi giây mỗi phút trong đời sống chúng ta. Ở trong Chúa, chắc chắc chúng ta sẽ được Ngài che chở đỡ nâng, nhất là khi gặp những gian nan trắc trở trong cuộc đời. Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được sự ngọt ngào khi ở trong Chúa và được Người hiện diện trong tâm hồn.
3. Anh em ở trong Thầy – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong đoạn Tin mừng ngắn gọn này chất chứa những lời chỉ hành động: yêu mến, ban cho, đến ở với, ở lại với, ở trong, được sống, được ở trong Thầy, được Cha yêu mến, được thấy, được tỏ cho biết. Những hành động đó diễn tả tâm tình gắn bó khăng khít, liên kết chặt chẽ, hiệp thông thâm sâu, hiệp nhất mật thiết nên một trọn vẹn giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần với các môn đệ, với ai yêu mến Thầy, với ai giữ lời Thầy. Sự gắn bó này loại trừ cảnh mồ côi, cô độc, loại trừ mọi xa cách, chia rẽ, vô tri, bất lực, chết chóc.
Sự gắn bó với nhau là một định luật, một nhu cầu khẩn thiết cho đời sống. Trái đất gắn bó với mặt trời theo một định luật bắt nó phải xoay quanh mặt trời 365 ngày 48 phút 46 giây để hoàn thành một vòng tròn bầu dục, lúc nào cũng như lúc nào, không trệch một li, để cho muôn vật trên trái đất sinh sống. Mỗi vật sinh ra, muốn sống, muốn tồn tại, đều phải gắn bó với bố mẹ nó, với nhau, với môi trường, với thiên nhiên…
Muôn vật chỉ cần sống là đủ, nhưng con người sống thôi chưa đủ. Con người sống còn rất cần phải phát triển sự sống. Tình cảm và hiểu biết là hai yếu tố đặc biệt thiết yếu giúp phát triển sự sống con người. Thiếu tình cảm, con người không còn mong muốn, khát khao, mơ ước cao đẹp. Tình cảm là nguồn động lực thúc đẩy con người hành động, phấn chấn, con người hăng hái, say sưa làm việc. Nó làm cho con người vui mừng phấn khởi. Thiếu tình cảm, con người sống buồn tẻ, chán đời, chán chường, vô vọng và tuyệt vọng.
Yếu tố thứ hai giúp phát triển sự sống con người là hiểu biết. Thiếu hiểu biết, con người không còn biết cái gì là hay, là phải, là tốt, là đúng. Tất nhiên sẽ dẫn đến sai lầm, hư hỏng: “mù dắt mù xuống hố”, “nhân bất học, bất tri lý”. Sự hiểu biết giúp con người biết thông cảm, thương mến, tiến bộ, cởi mở đón nhận muôn vàn chân thiện mỹ, muôn vàn giá trị cao đẹp để phát triển cuộc sống mình phong phú đến vô tận.
Không lạ gì trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trình bầy hết sức tỉ mỉ, cặn kẽ, từng li, từng tí về sự sống vô cùng tuyệt vời của Thiên Chúa. Sự sống tuyệt vời của Thiên Chúa không phải như mặt trời, mặt trăng, trái đất hấp dẫn, lôi cuốn nhau, quay cuồng mù quáng bên ngoài, nhưng là một sự hiệp nhất nội tại, nội tâm, nên một với nhau trọn vẹn trong tình yêu mến thông suốt sinh động tràn lan trên hết thảy vũ trụ vạn vật. Vì thế vũ trụ vạn vật được sống trong nguồn yêu thương sung mãn của Thiên Chúa.
Chúa Con đã thông ban sự sống phong phú đó cho các môn đệ. Các ông đã được sống hiệp thông lạ lùng với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, ở lại với Thiên Chúa. Một cuộc sống trong tình thân thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhờ đó anh em được Thiên Chúa yêu mến và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn. Chỉ có sự sống như vậy mới phát triển sự sống con người đến vô tận.
Bài đọc một cho thấy sự sống của Thiên Chúa, sau bao nhiêu ngàn năm, bị ứ đọng trong dân Do thái, nay đã tràn bờ lan tỏa khắp chư dân. Họ được biết về Chúa Kitô, được thoát khỏi tà thần, được chữa lành tàng tật tê bại. Họ được sức sống mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần biến họ thành dân thánh, thành con cái Chúa Cha, chứ không còn dân ngoại ô uế thù địch nữa.
Bài đọc hai còn cho thấy sự sống của Thiên Chúa là sức mạnh hiền hòa, ngay thẳng, khả ái, kính trọng cả những kẻ chất vấn, phỉ báng. Sức sống đó làm cho kẻ vu khống phải xấu hổ, làm cho ta sẵn sàng chịu khổ vì làm việc lành, làm cho ta theo chân Đức Kitô hy sinh chịu chết cứu kẻ tội lỗi, làm cho ta, dù bị chết, cũng được sống lại cùng với Đức Kitô.
Lạy Thầy Kitô chí nhân chí thánh, Thầy chẳng bao giờ để chúng con mồ côi, cô độc, cứng đọng, Thầy đã cho chúng con được sống yêu mến thân mật, gắn bó trọn vẹn trong Thầy và trong Cha Thầy. Xin cho muôn dân được sống trong tình yêu của Thầy để họ khỏi chia rẽ, hận thù, nhưng được sống thương mến nhau, hiệp thông với Thầy như Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha, Amen.
Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy.
Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà người thì thấy còn kẻ khác lại không thấy. Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự. Chẳng hạn một người đã ra đi hay đã chết, nhưng những kẻ còn lại vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nơi từng sự vật, nơi từng căn phòng, nơi từng lối đi. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm tuy xa mà lại gần như thế?
Tôi xin thưa chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến. Đồng thời hai chữ yêu mến đã trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha.
Ngoài ra cũng chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Chính việc thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp chúng ta thấy được cái ý nghĩa, cái vai trò và mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của người Kitô hữu, điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy.
Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu không phải là những giới răn, những lệnh truyền cũ của Cựu Ước, cho dù đã được diễn tả bằng những công thức mới, nhưng là chính con người của Người.
Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lạ nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta.
5. Yêu mến Thầy, thì hãy giữ các giới răn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13, 1). Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. “Tối hôm trước ngày chịu khổ hình”. Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.
Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.
Câu hỏi đặt ra: ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.
“Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy” (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói: các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là: khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.
Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy” (Ga 14, 21). Và Người cam kết: “Thầy sẽ xin Cha”. Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là; nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì?
Chúa Giêsu xin Cha điều gì? Người xin Cha “ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác” (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một “Đấng Phù Trợ khác”. Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, “Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự” (Ga 14, 26).
Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý? Khỏi phải lo, vì “thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài” (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm “còn các con, các con biết Ngài” (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha: “Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi” (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến: “Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con” (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.
Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con”. Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. “Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con” (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.
Chúa Giêsu kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó” (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con: chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng “Abba, Lạy Cha”.
Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện điều Ngài đã phán hứa là ở cùng nhân loại chúng ta.
Thực vậy, với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã than phiền: Nếu Thiên Chúa thực sự hiện diện, thì Ngài ở đâu bây giờ? Tại sao Ngài lại xa cách và dường như lại còn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của chúng ta?
Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.
Sau khi đã thoát khỏi một cơn cám dỗ nặng nề, và được Chúa hiện ra, thánh nữ Catarina đã thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, giữa lúc con đang phải chiến đấu, thì Chúa ở đâu? Và Chúa đã trả lời: Cha ở trong trái tim con, vì nếu cha không ở bên con để giúp đỡ, thì con đã sa ngã, đã vấp phạm từ lâu.
Sở dĩ chúng ta không nhận ra Ngài là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không và chẳng chạy đến xin Ngài phú trợ. Chúng ta nên nhớ rằng: Ngài đã trao ban cho chúng ta sự tự do, nên Ngài sẽ không bao giờ bắt ép chúng ta, ngay cả với ơn cứu độ, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Có lẽ con mắt đức tin của chúng ta đã khép lại, đề rồi chúng ta không còn nhận ra Ngài.
Nhiều lúc chúng ta quá chú trọng đến bản thân và những nhu cầu của mình, nên khi gặp phải khổ đau và thử thách, chúng ta thường than thân trách phận.
Chúng ta hãy nhớ lại những hậu quả kỳ diệu của ơn Chúa trợ giúp. Các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.
Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên một chặng đường đời, nhưng con đường sắp tới chắc chắn sẽ có những chông gai, những khúc quanh, những triền dốc, chúng ta nên nhớ rằng: Điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Và một khi đã có Chúa cùng đi, chắc chắn thuyền đời chúng ta sẽ cặp bến hạnh phúc. Có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và ánh sáng, để vượt thắng mọi trở ngại, bởi vì như lời Ngài đã phán: Không có Thầy, các con chẳng làm được gì. Hay như lời Thánh Vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cùng là uổng công.
Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau: “Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ là người được Chúa yêu thương.
Mặt sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng chiều hôm nay: “Ai yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu thương hay chưa?”
Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.
Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.
Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.
Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.
8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu, nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông đồ để trao cho họ sứ mạng của Ngài.
Ngài quan tâm số người này một cách đặc biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn dành thời gian để dạy cho họ về những bài học cao quý của người lãnh đạo, nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).
Đặc biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy” mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng “Ngài không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ nhất, Ngài sẽ ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua, nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện diện một cách thiêng liêng. Điều này đã được chứng minh bằng những lần hiện ra sau khi Ngài phục sinh.
Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như trước khi trao sứ vụ Tông đồ trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu cho biết, lòng yêu mến được thể hiện qua việc thực hiện những lệnh truyền của Ngài, Ngài nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21).
Như vậy là đã rõ: Yêu mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài. Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật của Ngài được tóm lại trong mười điều răn là mến Chúa yêu người.
Các Tông đồ đã yêu mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô vị lợi. Bởi vì, các ông đã thực hiện trọn vẹn giới răn của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta phần nào.
Bài đọc 1, cho chúng ta thấy cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ tường thuật: “Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8). Đồng thời, các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).
Bài đọc II cũng cho chúng ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào? Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr 3,15). Trước mặt những người lương dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác”(1Pr 3, 17).
Đó là lòng yêu mến một cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa của các Tông đồ. Còn đối với mỗi người chúng ta thì sao?
Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha, cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn vợ trẻ con thơ.
Hay chúng ta đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa, coi tha nhân như là phương tiện để phục vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều người đi đạo nhưng không giữ đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa với Giáo hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân được hạnh phúc.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành lời của Chúa. Amen.
9. Sự sống mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2. Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3. Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Lời Chúa hôm nay làm chúng ta tràn trề hy vọng. Chính vì tin vào Thiên Chúa, mà niềm hy vọng bùng lên.
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy (Ga.14, 15)
“Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.4, 20). Tình yêu được cụ thể hoá bằng việc làm! “Tình yêu hệ tại việc làm hơn lời nói” (LT.230). Vi phạm giới răn, đó là dấu chỉ cho thấy không yêu Thiên Chúa!
Có người nói yêu thương, nhưng thực sự họ không yêu thương! Họ chỉ lợi dụng, họ tìm lợi cho họ. Thời gian giúp con người biết sự thật: mình có được yêu thương hay không!
Yêu thương ai, là muốn điều tốt lành cho người đó, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ an ủi họ, là trân trọng và tôn trọng tự do của họ, là muốn họ được triển nở và hạnh phúc hơn.
Có nhiều lúc trong đời, ta muốn người nào đó bị tai họa! Ta nguyền rủa họ, muốn khai trừ họ, không muốn nhìn thấy mặt họ! Cũng có những lúc, ta muốn làm hòa, muốn tha thứ, muốn đi bước trước để đến với người mình không ưa, nhưng ta lại không thể! Chúng ta không vượt qua được mình, chúng ta bị “cái tôi” chi phối! Thánh Phaolô cũng cảm nghiệm điều này: “Điều thiện tôi muốn tôi không làm, còn điều dữ tôi không muốn tôi lại làm” (Rm.7, 19), và ngài đã phải kêu lên: “Ai cứu tôi khỏi tình trạng khốn nạn này bây giờ?” (Rm.7, 24).
Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi
Đức Yêsu nài xin Chúa Cha ban Đấng Bầu Chữa khác cho chúng ta (Ga.14, 16). Đây phải là điều rất quan trọng nên Đức Yêsu mới nài xin!
Thánh Thần là ai? Ngài là Đấng thế gian không thấy nên không biết! Còn chúng ta biết Ngài, vì chúng ta tin vào Đức Yêsu.
Đức Yêsu đã mặc khải Thánh Thần cho chúng ta (Ga.14, 16.26; 15, 26-27; 16, 12-14; 20, 22). Chính vì tin vào Đức Yêsu, nên chúng ta biết Thánh Thần dù chúng ta không thấy Ngài.
Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài ở với từng người, để giúp mỗi người cầu nguyện (Rm.8, 26), để chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha (Rm.8, 15-16), để làm chúng ta sống đời sống mới (Rm.8, 11).
Thánh Thần biến đổi các tông đồ, từ một người ít học nhát đảm thành người dám đứng ra rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho nhiều người. Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta biết
Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng,
và Thiên Chúa quyền năng sẽ biến đổi con người, làm chúng ta thành người mới, thành người trung tín như Thiên Chúa nếu chúng ta vâng phục Thánh Thần.
Thánh Thần tha thứ tội cho chúng ta, giúp chúng ta đến với người khác, giúp chúng ta làm những điều đẹp ý Thiên Chúa, giúp chúng ta vượt qua chính mình, làm chúng ta nên thánh.
Giữ giới răn, đó là dấu chỉ được Thiên Chúa yêu mến
Ai giữ giới răn của Chúa, đó là người yêu mến Chúa. Những người này được Chúa Cha yêu thương, được Chúa Yêsu yêu mến và tỏ mình cho họ (Ga.14, 21).
Điều làm chúng ta an tâm, đó là:
Thiên Chúa đang ở với chúng ta,
Thiên Chúa đang ở trong chúng ta,
và chúng ta đang ở trong Thiên Chúa.
“Nơi nào có hai hay ba người họp nhau vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt.18, 20).
“Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga.14, 20).
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu giáo huấn cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Trong những giờ phút sau cùng này, Ngài đã nói với các môn đệ những lời căn bản nhất. Những điều ấy như là những chỉ dẫn thiết yếu cho các môn đệ trong tương lai, và đó cũng chính là những gì Ngài muốn họ sống trong khi không có Ngài hiện diện bên cạnh cách hữu hình. Một trong những điều ấy là: “nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các giới răn của Thầy”.
Chúa không nói với chúng ta đến việc tuân giữ các giới răn một cách lý thuyết mà nói bằng chính cuộc sống của Ngài. Điều gì thật sự có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu? Không thể gọi chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu cách đúng nghĩa, nếu chúng ta không lắng nghe và cố gắng thực hiện lời của Ngài. Chúng ta càng không là Kitô hữu nếu chúng ta không nỗ lực sống những gì Chúa Giêsu dạy.
Nhưng chúng ta cần phải xác tín một điều. Chúng ta không phải giữ giới răn của Chúa để được Ngài yêu mến, mà chúng ta giữ giới răn Chúa bởi gì Ngài đã yêu mến ta trước. Trong suốt bữa tiệc ly, Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. Điều đó cho chúng ta thấy, chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước, và yêu thương chúng ta cách nhưng không, vô điều kiện.
Một sự thật quan trọng chúng ta cần phải nhận ra là chúng ta đã được yêu thương cách nhưng không. Nhiều khi chính chúng ta cũng không tin rằng tại sao chúng ta lại được Chúa yêu thương như thế. Vì chúng thường nghĩ, hay để ý: Chúa chỉ yêu thương chúng ta khi chúng ta tốt. Nhưng thật ra Chúa không thương yêu chúng ta vì chúng ta tốt lành, thánh thiện nhưng bởi vì Chúa tốt lành, thánh thiện. Vì ngay cả sự hiện hữu của chúng ta trên đời đã là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chính tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là Tin Mừng cho nhân loại. Bổn phận của chúng ta là nỗ lực, cố gắng đáp lại tình yêu ấy.
Chúa Giêsu biết rằng, Chúa Cha đã yêu thương Ngài và Ngài đã đáp lại bằng cách yêu thương Chúa Cha. Và Ngài đã chứng tỏ tình yêu đối với Chúa Cha qua thái độ vâng phục, thậm chí vâng phục đến nỗi dâng hiến cả cuộc sống mình. Cũng chính nhờ sự vâng phục mà chúng ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu. Như thế có ý nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải biết lắng nghe lời Ngài và mang ra thực hành trong cuộc sống. Yêu thương là vâng phục, và vâng phục là yêu thương.
Có nhiều người chỉ biết tuyên bố yêu Chúa Giêsu trong lời nói, nhưng lại chối bỏ Ngài trong đời sống họ. Tình yêu thật sự phải được minh chứng bằng việc làm cụ thể. Người ta chỉ biết chúng ta qua hành động chứ không phải bằng những lời nói ngoài môi miệng.
Nhưng thật sự không phải dễ sống như người môn đệ của Chúa Giêsu trong thế giới hiện đại hôm nay. Đó cũng chính là lý do mà Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Để khi chúng ta yếu đuối, chúng ta cầu nguyện với Ngài. Chính Thánh Thần sẽ an ủi khi ta buồn, soi sáng lúc ta lâm vào tăm tối và làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ, dũng cảm khi chúng ta yếu đuối.
Danh từ mà Chúa Giêsu gọi Thánh Thần là “Đấng An Ủi”, Ngài chính là Đấng nâng đỡ, bào chữa khi chúng ta gặp thử thách gian nan. Chính Ngài đã ban sức mạnh để nâng đỡ các môn đệ trong lúc gặp thử thách. Cũng chính nhờ Người mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể đón nhận những đau khổ như thập giá phát sinh ơn cứu độ. Như thánh Phêrô tông đồ nhắc nhỡ trong bài đọc II: “thà chịu đau khổ vì làm những việc lành còn hơn là làm điều dữ”. Chính khi thi hành điều thiện mà gặp đau khổ thì đời sống đức tin chúng ta sẽ lớn lên và mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn có một gương mẫu là Đức Kitô, Đấng dù vô tội nhưng vẫn chịu đau khỗ và chết vì tội lỗi chúng ta.
Các tông đồ biết rằng chính Chúa Giêsu yêu thương họ. Và chúng ta biết Ngài cũng yêu thương chúng ta. Không có một tình yêu nào lại mang bóng dáng của sự lầm lỗi, vì đã là tình yêu thì không phải là tội lỗi. Bạn chỉ có thể cảm nhận điều này ngay trong trái tim bạn. Nó như một ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn bạn, thêm sức mạnh để bạn có thể vượt qua những giây phút tăm tối trong cuộc đời. Tình yêu làm cho chúng ta gắn bó, hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và nối kết chúng ta lại với nhau. Đời sống người Kitô hữu chỉ có thể lớn lên khi được nuôi dưỡng trong môi trường, bầu khí yêu thương, thánh thiện.
“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều đó đã thâu tóm lại tất cả những gì lề luật dạy.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúng ta đang suy niệm một đoạn của diễn từ trong buổi Tiệc Ly. Tâm sự của Chúa Giêsu chảy ngọt những lời yêu thương sâu đậm, những lời trối trăn ân tình: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Yêu mến Thầy không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm những gì người mình yêu mong muốn. Những lời nói yêu thương ngọt ngào thế nào chăng nữa mà chẳng đi đôi với việc làm thì chỉ là sáo ngữ, không thuyết phục. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, Ngài đã chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng cả cuộc sống. Ngài đã làm mọi sự vì chúng ta mà thôi. Ngài đã yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha một cách trọn hảo. Ngài muốn chúng ta yêu Ngài như Ngài đã yêu Chúa Cha. Ngài không cần những tiếng nói dù ngọt ngào đến đâu. Ngài chỉ muốn chúng ta chứng tỏ tình yêu bằng hành động, bằng thực tế. Chính Ngài đã nói: “Không phải những kẻ nói “lạy Chúa, lạy Chúa” mà vào được Nước Trời, mà những kẻ thi hành ý của Cha Ta trên trời mới vào được”.
Chúng ta đã yêu mến Ngài như thế nào? Hay chúng ta giống như dân Do Thái xưa bị Chúa luôn quở trách là dân cứng cổ, như con ngựa bất kham, như người đàn bà không trung tín, chỉ thờ Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng vẫn cách xa? Nói thì nói đạo đức mà lòng thì nham hiểm ác độc, ganh tị, kiêu căng? Chúa đang mỏi mắt tìm kiếm những người tôn thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật, những người yêu mến Chúa hết lòng hết sức… Được mấy người?
Ai yêu mến Chúa thật tình thì Chúa hứa sẽ ban cho họ một Đấng Bảo Trợ khác, ở với anh em luôn mãi.
Đấng Bảo Trợ là Đấng an ủi, bênh vực nâng đỡ chúng ta. Ngài được Chúa Giêsu gọi là Thần Khí sự thật, Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Đối với các tông đồ đây chỉ là lời hứa, nhưng ngày lễ Ngũ Tuần, lời hứa này đã được thực hiện một cách sung mãn. Đối với chúng ta, lời hứa đó cũng được thực hiện. Chúng ta đang ở trong Thánh Thần. Giáo hội đang sống trong Thánh Thần. Ngài âm thầm hoạt động mặc dù chúng ta không thể thấy rõ những hoạt động của Ngài. Hai mươi thế kỷ, Thánh Thần Chúa vẫn bảo vệ Giáo hội và ngay hôm nay, trong một thế giới đầy hỗn loạn và không tin, Giáo hội vẫn luôn là ngọn đèn cho mọi người, cho thế giới.
Chúng ta không quen lắm với Thánh thần, nhưng Ngài vẫn ở trong chúng ta, soi sáng tâm trí chúng ta và giúp chúng ta tiến sâu vào tình yêu.
Thánh Phaolô luôn nói đến Thánh Thần gần như trong tất cả các thư của ngài. “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự tronglòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” “Anh em không biết rằng anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?” Thánh Thần đó dạy chúng ta cầu nguyện, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải”… Thế gian không biết Người, nhưng anh em biết Người vì Người ở giữa anh em và ở trong anh em. Chúng ta không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn ở với chúng ta.
Nếu tìm lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Ngài gần như luôn có mặt và hoạt động. Ngài hoạt động ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài bay là trên mặt nước trong cảnh hỗn man ban đầu. Ngài làm cho thế giới thành hình với muôn tạo vật trong trật tự. Ngài nói qua miệng của các ngôn sứ, những con người dốt nát hèn yếu như chúng ta, soi sáng cho họ biết nói gì để đánh thức dân cứng đầu cứng cổ là dân Do Thái, dạy họ tuân giữ Giao Ước mà Chúa đã thương ban cho họ. Những lời kinh trong Thánh vịnh phải chăng là những lời được Thánh Thần soi sáng để trở thành lời nguyện cầu của dân Chúa, hôm qua cũng như hôm nay.
Tuyệt tác của Thánh Thần là việc nhập thể của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong công việc này như là tác giả, Đấng sáng tạo. Ngài đã đến trên Maria, một cô gái quê tầm thường, đã làm cho nàng trở thành Mẹ Thiên Chúa. Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên Bà… Ngài đã đến soi sáng cho nàng hiểu công trình của Chúa để nàng cộng tác với tất cả lòng biết ơn. Xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi những gì Ngài muốn. Nàng đã đáp lại tiếng gọi của Chúa để mang đến cho chúng ta Ngôi Lời. Nàng đã cưu mang, sinh ra Ngôi Lời của Thiên Chúa. Tất cả đều do Thánh Thần.
Nơi Chúa Giêsu, chúng ta càng thấy rõ hơn hoạt động của Chúa Thánh Thần. Gần như Chúa Giêsu luôn luôn hoạt động cùng với Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Ngay khi còn trong lòng mẹ, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho bà Êlisabet nhìn nhận Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ.
Chúng ta thấy rõ nét nhất mối liên hệ của Chúa Thánh Thần với Chúa Giêsu lúc Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Khi Ngài vào Hội đường Nadaret và đọc lời tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi… và sau đó Ngài tuyên bố một cách rõ rệt: “Hôm nay ứng nghiệm lời anh em vừa nghe đọc”. Chúng ta không thể kể hết những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu, nhưng chúng ta có thể thấy được sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu.
Nếu chúng ta đọc lại sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta càng thấy rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội sơ khai. Gần như Thánh Thần điều khiển tất cả, hướng dẫn tất cả mọi hoạt động của Giáo hội. Sách Tông Đồ Công vụ được xem như Tin Mừng của Chúa Thánh Thần. Và cho đến hôm nay, Giáo hội luôn được Thánh Thần Chúa yểm trợ trong hành trình về quê trời.
Nhìn sơ lược những hoạt động của Chúa Thánh Thần để thấy rằng, Ngài vẫn yểm trợ chúng ta. Ngài thay thế Chúa Giêsu và tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu cho đến tận thế. Chúa nói: “Thầy không để anh em mồ côi” là như thế. Chúa Thánh Thần sẽ ở với chúng ta thay cho Ngài để giúp chúng ta giữ các điều răn của Ngài. Thánh Phaolô đã nói: “Ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, người ấy không thuộc về Chúa Kitô”. Chúng ta thấy tại sao Chúa Giêsu, trong giờ phút từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc khổ nạn, Ngài đã nói đến Chúa Thánh Thần như Đấng sẽ thay thế Ngài chăm sóc đoàn chiên nhỏ bé của Ngài.
Chúng ta cần đến Chúa Thánh Thần vì không có Ngài, chúng ta chỉ là những con người yếu đuối, không thể nào giữ các điều răn của Chúa, không thể trở nên con Chúa Cha. Hãy sống trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô căn dặn: đừng dập tắt Thánh Thần, nhưng luôn sống trong Ngài, nghe theo những thúc đẩy của Ngài, chúng ta mới thực sự là đền thờ của Chúa Ba Ngôi như Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình cho Người ấy”.
Chúa Giêsu vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, nhưng hơn thế nữa Ngài còn ở với chúng ta nhờ Thánh Thể. Chúng ta luôn được nuôi dưỡng bằng của ăn hằng sống này. Của ăn này từ Thánh Thần mà đến vì chính Thánh Thần biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa chứ không do linh mục. Sống trong Chúa nhờ Thánh Thể như Chúa đã nói: “Thầy sống thì anh em cũng được sống”. Chỉ khi nào chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài, chúng ta mới đủ can đảm trung thành.
Chúa Giêsu sống lại đã trở thành nguồn phấn khởi và hy vọng cho chúng ta. Và để cho niềm vui đó tồn tại và sung mãn, Ngài chỉ cho chúng ta một con đường là giữ điều răn của Thầy. Và giữ điều răn của Thầy chính là yêu mến Thầy. Con đường tình yêu không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm cho người yêu vừa lòng. Yêu mến Chúa cũng thế thôi. Chúa đã từng trách dân Do Thái chỉ yêu ngoài môi ngoài miệng mà lòng trí vẫn xa Ngài. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta trước và tình yêu đã khiến Ngài hi sinh tất cả, mang lấy thân phận chúng ta, và chết cho chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng những hành động cụ thể, không thể chối cãi. Ngài cũng yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục ý Cha đến trọn vẹn, cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tình yêu chỉ có một. Chúng ta yêu Ngài cũng theo con đường duy nhất đó.
Khi yêu Ngài, giữ lời Ngài, chúng ta sẽ được gì? Ngài không hứa ban cho chúng ta những lợi lộc trần gian. Ngài cho chúng ta những gì mà thế gian không thể biết và không thể lãnh nhận là Thánh Thần của Ngài, Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật. Đấng bảo trợ là ai? Theo nguyên ngữ Hy Lạp, Đấng Bảo Trợ mang nhiều ý nghĩa: là Đấng an ủi, là người bảo vệ, là trạng sư, là người nâng đỡ… Ở đây, Chúa Thánh Thần bao gồm tất cả những nhiệm vụ đó. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Ngài hoạt động từ lúc sáng thế cho đến ngày chung thẩm, không có nơi nào mà chúng ta không thấy hoạt động của Ngài. Ngài hiện diện trong mọi biến cố của dân Chúa, trong những người Chúa chọn để dạy dỗ hay cứu vớt dân Chúa. Nhất là nơi các tiên tri, và đặc biệt nhất là nơi Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu xuống thế làm người là do quyền năng Thánh Thần. Có thể nói, Chúa Giêsu hoàn toàn là một với Thánh Thần, trong mọi hoạt động, trong mọi tình huống. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Thánh Thần cho Giáo Hội và cho chúng ta khi Ngài tắt thở. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần Chúa đã long trọng ngự xuống trên các tông đồ và dưới sự thúc đẩy của Ngài, Giáo Hội bắt đầu chinh phục thế giới.
Nơi bàn tiệc ly, Chúa Giêsu đã hứa trước và Ngài đã thực hiện lời hứa đó. Chúng ta được thanh tẩy trong Thánh Thần và nhận lãnh Thánh Thần một cách sung mãn nơi Bí tích Thêm Sức. Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Ngài là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn. Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa là sự thật. Biết Thiên Chúa là điều cốt yếu, nếu không, chúng ta dễ biến Ngài thành thần tượng, như dân Do Thái đã biến Thiên Chúa thành con bò vàng. Thiên Chúa vượt xa tất cả những gì chúng ta tưởng về Ngài. Chỉ có Thánh Thần mới giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như Chúa muốn. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho phải và cho chúng ta biết gọi tiếng cha ơi với tất cả tình con thảo. Chỉ có Thánh Thần mới soi sáng cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta biết yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Chúa Giêsu đã hứa là không để chúng ta mồ côi, Ngài sẽ cùng chúng ta nhờ Thánh Thần của Ngài: Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Hãy lặp đi lặp lại những lời đầy an ủi này, chúng ta sẽ thấy ấm lòng hơn. Chúng ta sẽ không đơn độc giữa thế giới đầy hận thù và gian ác này. Chúng ta sẽ không thất vọng khi mọi sự quanh ta trở thành chướng ngại, và cuộc sống trở nên gánh nặng. Chúng ta sẽ can đảm rao giảng Tin Mừng Chúa bằng cả cuộc sống cam go này.
Nhờ Thánh Thần Tình Yêu, chúng ta sẽ trở nên tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phải can đảm phi thường mới có thể yêu thương như Thầy. Nhưng có thể được vì chúng ta có Chúa Thánh Thần trong ta. Chính Ngài thúc đẩy mọi việc lành, mọi cố gắng của chúng ta.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự ở trong: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em. Thánh Thần ở giữa và ở trong anh em”. Đó mới là biểu hiện của tình yêu. Chúng ta được ẩn náu trong Chúa, và như thế chúng ta được sống trong Chúa và chính Chúa chọn tâm hồn chúng ta làm nơi cư ngụ của Ngài. Ngài không cần tỏ hiện, Ngài dùng chúng ta để tỏ hiện tình yêu của Ngài cho mọi người. Chúng ta phải sống thế nào? Phải yêu thương nhau. Đó là ước muốn cuối cùng của Chúa Giêsu. Chúng ta là con Chúa, chúng ta chỉ sống bằng tình yêu thôi. Chúng ta không thể làm gì khác. Chúng ta là hình ảnh của Chúa, vì Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng một phương tiện lạ lùng để sống trong chúng ta một cách cụ thể. Ngài tự hiến cho chúng ta bằng cách trở nên một tấm bánh và bảo chúng ta cầm lấy mà ăn. Như thế, Ngài thực hiện ý định tình yêu của Ngài bằng một hình thức cụ thể nhất và chúng ta sẽ không thể nào tránh né tình yêu Ngài. Phải là một với Ngài, hôm nay và mãi mãi.
Yêu và được yêu là khát vọng thiết yếu của con người. Một ai đó đã từng nói: “không ai có thể sống mà không yêu”. Như thế sống yêu thương là yếu tố hàng đầu và cần thiết của con người. Thầy Giêsu muốn các môn đệ yêu mến Thầy. yêu mến Thầy thì phải giữ Lời Thầy, thực hiện theo ý muốn của Thầy. Mà ý muốn của Thầy là làm theo Đấng đã sai Thầy. Người Kitô hữu được mời gọi giữ Lời Chúa Kitô truyền, thực thi ý muốn của Người.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu Kitô là hình ảnh hữu hình của tình yêu ấy. Tình yêu đã thúc bách Đức Giêsu Kitô mang thân phận con người, sống như con người và chết tủi nhục vì con người nhăm mang lại cho con người sự sống và tình yêu cứu độ như Thiên Chúa đã dựng nên thuở ban đầu.
Con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, sống cho và sống vì Thiên Chúa. Con người hiện hữu trong vũ trụ do Thiên Chúa yêu thương và được mời gọi để sống yêu thương cho Thiên Chúa tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức lực, hết linh hồn và hết trí khôn và cũng yêu tha nhân như chính mình là điều đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Đó là giới răn quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận của con người, đặc biệt nó làm nên yếu tính của người Kitô hữu, những người tin và bước theo Chúa Giêsu trên con đường sống đạo. Giữ lời Chúa Kitô nghĩa là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân phải là kim chỉ nam cho người Kitô hữu. Đó còn phải là lẽ sống, là linh hồn của mọi hoạt động của con người. Yêu mến Thiên Chúa là tìm được nguồn sống đích thực. Yêu thương tha nhân chính là sống giây phút hạnh phúc ở thì hiện tại. Và như thế, giữ Chúa truyền là thướt đo lòng mến của người môn đệ, là dấu chỉ nhận biết môn đệ đích thực của Thầy Giêsu.
Khi người ta đã hết lòng yêu thương ai thì họ sẽ sống như chính mình đang sống với chính người mình yêu. Dù cho người được yêu vắng mặt nhưng khuôn mặt, lời nói, cử chỉ, ước muốn của người yêu vẫn luôn hiện diện canh cánh bên lòng người yêu. Từng cử chỉ, thái độ và ước muốn của lý trí, ý chí và con tim cũng được thể hiện rõ nét trong người yêu. Như thế, tình yêu không chỉ diễn tả bằng việc thấy, nghe, biết mà còn là hiểu bằng con tim và còn là thể hiện bằng những hành động cụ thể trong đời sống của mình. Do đó, dù có “xa mặt nhưng không thể cách lòng”. Dù có xa cách thể lý nhưng vẫn hiện diện trong sự gần gũi tấm lòng và của toàn diện con người đang yêu bằng việc giữ lời của người yêu muốn.
Con người được hiện hữu vì yêu thương nên tình yêu là động lực, là ánh sáng chỉ đường, là phương thế để con người thực thi sự yêu thương ấy. Con người còn có có bản chỉ đường là tiếng nói lương tâm yêu mến Chân, Thiện, Mỹ hay chính lương tâm làm lành lánh dữ, lương tâm sống bác ái vô vị lợi. Hơn nữa, người Kitô hữu còn có tiếng nói của Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội, giới răn của Thiên Chúa… để làm tiêu chuẩn, để con người có thể dựa vào đó mà kiểm điểm mỗi khi sai lệch phương hướng và là con đường để tiến bước trong an bình theo Chúa Kitô.
Chính vì muốn thực thi Lời Chúa, giữ Lời Chúa truyền, muốn sống yêu thương mà biết bao người trẻ hiến thân cho nhau để sống gương mẫu trong bậc gia đình, để làm tăng thêm người yêu thương trong Đạo Thánh Chúa. Cũng chính vì muốn giữ lời Chúa truyền mà hằng ngày, hằng giờ có biết bao tâm hồn của người trẻ thiện chí lắng nghe tiếng gọi để đáp lại tình yêu tận hiến cho Chúa Giêsu yêu dấu, họ đã tự nguyện tham gia trong bậc sống tu trì, giáo sĩ và tu sĩ… và còn nhiều tâm hồn thành tâm thiện chí khác đang sống an bình trong yêu thương tuân giữ luật Chúa truyền dù phải vất vả sống cho tình yêu mà mình được mời gọi, sống yêu mến Thiên Chúa và sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ bác ái cho than nhân.
Như thế, giữ Lời Chúa truyền là điều thiết yếu đối với người Kitô hữu chúng ta. Yêu thương giúp người ta nhận biết ta là môn đệ Thầy Giêsu. Yêu thương là cánh cửa dẫn đến sự sống: sống cho, sống vì và sống với, sự sống ấy chính là sự sống Thiên Đàng, là hạnh phúc và an bình mà con người đã, đang và sẽ đạt tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết giữ giới răn Chúa truyền là thực thi điều Chúa muốn đó là sống yêu thương như Chúa đã làm gương và mời gọi. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
Làm bất cứ điều gì nếu ta thực hiện với cả tấm lòng và nhất là khi ta đặt vào đó tình yêu thì cho dù vất vả cách mấy cũng trở nên nhẹ nhàng, thoải mái. Hơn thế, hiệu quả đem lại có giá trị cao và phi thường. Một anh thanh niên và một cô thiếu nữ thật lòng yêu thương nhau sẽ tự cam kết sống với nhau cho đến răng long đầu bạc. Mặc dù trước cam kết đó sẽ là không biết bao nhiêu vất vả, khó khăn. Cha mẹ dầm sương dãi nắng, đổ mồ hôi sôi nước mắt hay bán mặt cho đất bán lưng cho trời chỉ vì yêu thương lo cho con cái mình. Cho dù điều đó không ai buộc họ phải làm. Cũng thế, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi ta tuân giữ giới răn của Người vì yêu mến.
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy” (Ga, 14, 15). Thông thường khi được kêu gọi tuân giữ điều gì ta hay tự hỏi nó sẽ đem lại lợi ích gì cho tôi. Chẳng hạn khi được kêu gọi đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông thì tôi được an toàn hơn nếu lỡ có xảy ra tai nạn. Tôi được kêu gọi ăn chín uống sôi, ăn sạch uống sạch để bảo vệ khỏi mắc bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm đến tính mạng… Do đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự hỏi tuân giữ giới răn Chúa tôi sẽ được gì. Chắc chắn có lợi ích nên Người mới mời gọi ta. “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16); “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14, 18) và “…sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14, 21). Thật là những lợi ích hết sức thiêng liêng quý giá. Chỉ trong cái nhìn đức tin chúng ta mới có thể cảm nhận được những lợi ích đó.
Hơn thế nữa, tuân giữ những giới răn của Chúa vì để đáp đền tình yêu Thiên Chúa sẽ lý do cao cả và quý nhất. Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã có lần nói chính là mến Chúa yêu người (Mc 12, 24 – 38)
Làm sao ta có thể mến Chúa yêu người nếu như ta chưa thật sự cảm nhận được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Được sinh ra làm người và được làm con Chúa đó là ơn ban nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Vì thương mà Thiên Chúa đã chẳng tiếc gì kể cả Con Một của Ngài. Bấy nhiêu cũng quá đủ để ta thấy Thiên Chúa yêu thương ta như thế nào. Đặc biệt, những ngày trong mùa Phục sinh này càng làm cho tưởng nhớ tình thương Chúa dành cho ta. Chúa Giêsu đã được phục sinh vinh quang sau khi đi trọn con đường trần thế này. Đó là điều bảo đảm nhất để ta thêm nghị lực mà tuân giữ giới răn của Người.
Xin bình an và tình yêu của Chúa Giêsu phục sinh cho ta tiếp tục cảm nhận được nhiều hơn tình yêu bao la Chúa dành cho mình. Để rồi vì đền đáp tình yêu Chúa mà ta tuân giữ giới răn mà Người truyền dạy.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Có lẽ, hơn ai hết, Thánh Phaolô đã cảm nếm hương vị tuyệt vời về biến cố sống lại của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã bị cuốn hút bởi Đấng Phục sinh sau biến cố lạ lùng xảy ra với ông trên con đường Đamas. Rồi sau khi được Đấng Phục sinh chinh phục, ông cảm thấy được Ngài là tất cả của ông. Không còn gì đáng mơ ước hơn nữa nếu đã có được Ngài ở bên và được thuộc về Ngài. Thánh Phaolô đã dùng bao nhiêu là từ ngữ và lời nói phát xuất từ con tim của Ngài để nói lên hạnh phúc được thuộc về Chúa: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Đó là tâm tình và sức sống của một kẻ cảm nghiệm mình được yêu và đang yêu.
Tất cả niềm hạnh phúc và sức mạnh dấn thân của Phaolô được khởi đi từ cảm nghiệm Đức Giêsu Kitô đang sống và đang đồng hành với ông trong cuộc đời này. Thánh Phaolô đã thốt lên: “ Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15,14.19-20), để từ đây, ai thuộc về Đức Giêsu Kitô là thuộc về thế giới của sự sống, của kẻ sống và sống vĩnh cửu.
Trong cuộc đời này, có những khi ta cảm tưởng mình như đang bước đi trong bóng đêm dày đặc, đang rơi xuống vực thẳm đen tối khi bao nhiêu những dự định hay những mối quan hệ tình cảm bỗng nhiên bị đổ vỡ và tan biến. Đó phải chăng là một cuộc chết đi cho những dự tính nông cạn, thiển cận của con người được mời gọi tham dự vào cuộc sống mới, cuộc sống của Đấng Phục sinh.
Marian Picasso là cháu của hoạ sĩ Picasso. Từ năm 1973 đến năm 1975, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha của bà đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp được, dù bà nắm trong tay một gia sản khổng lồ. Năm 1990, bà đến Việt Nam và nhận các bé mồ côi hay bị bỏ rơi về làm con nuôi và giúp các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà cảm nhận được một sự thay đổi nơi nội tâm “nhờ giúp đỡ những trẻ em này, tôi tìm lại được chính mình. Giờ đây, tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em”.
Hẳn đã có những người Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nổi đau của mình để chia sẻ niềm hạnh phúc cho những ai đang cần đến chúng ta. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình bình an khi không còn bận tâm lo cho mình nữa. Kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi biết chia sẻ tận tình.
Thuộc về Chúa Giêsu Kitô là sống theo gương mẫu của Ngài và sống như Ngài đã sống. “hy sinh mạng sống của mình vì người mình yêu”. Sống thật là biết cho đi. Khi biết trao ban tận tình là thuộc về Đấng hằng sống. Đức Giêsu Phục sinh không chỉ hiện ra một vài lần nhưng Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế, một sự hiện diện 2 chiều, mới mẻ và thâm sâu “anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”, một sự hiện diện tràn đầy sức sống “Thầy sống và anh em cũng sống”. Nhờ qua Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu tự bản chất đã được Phục sinh và sự Phục sinh ấy không ngừng lớn mạnh nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Giêsu Kitô.
Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống nơi mình. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Bắt đầu ra khỏi chính mình để sống yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo… cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong tình yêu.
17. Khát khao gặp Chúa – Ioseph, Svd
Tự bản chất, con người luôn hướng lòng về Thiên Chúa và kiếm tìm Ngài. Vì Ngài là chính chân lý và hạnh phúc viên mãn mà con người hằng khao khát. Vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khoảng trống khao khát trong lòng con người. Lời Chúa hôm nay như gợi mở, giải đáp cho những khúc mắc thường gặp, cho những ưu tư và trăn trở khắc khoải trong hành chính tìm Chúa của chúng ta.
“Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đã biết bao lần chúng ta khát mong gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, biết bao lần chúng ta kêu xin Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được gặp gỡ Ngài một cách thực sự và thâm sâu, nhưng chúng ta vẫn chưa gặp được Chúa, chưa nghe được tiếng Chúa, chưa nhận ra ý Chúa… Có thể nói hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra lời giải cho nỗi ưu tư của chúng ta. Đó cũng là chìa khóa để chúng ta mở ra cánh cửa cho Chúa đến, kiến tạo cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cách thực sự thâm sâu. Đó là “yêu mến”. “Nếu ai yêu mến Thầy,… Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Chúa sẽ tỏ mình, sẽ mạc khải về Ngài cho chúng ta, sẽ thực sự gặp gỡ chúng ta khi và chỉ khi chúng ta biết mến yêu Chúa chân thành, tha thiết, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Mến yêu Chúa cách thực sự và trọn vẹn. Đó là điều kiện để gặp được Chúa, để những mong mỏi của ta được thành tựu. Vậy tôi phải yêu mến Thầy Giêsu như thế nào cho được…?
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách yêu mến Chúa rất thiết thực: giữ lời Thầy. Giữ lời Thầy hay nói khác đi là sống lời Thầy dạy, là thực hành Lời Chúa, để cho Lời Chúa triển nở sống động trong cuộc đời chúng ta, nên hơi thở của ta, nên máu thịt của ta… Đó là khi Lời Chúa đã thực sự được “cưu mang”, được nhập thể trong ta. Như thế, từng lời nói, cử chỉ, hành động, suy nghĩ của ta đều mang dáng dấp của Chúa và chính bản thân ta phản chiếu bóng hình Chúa. Vì tất cả được thấm nhuần giáo huấn của Chúa và đời ta thực sự có Chúa hiện diện. Khi người anh em của ta nhận ra Chúa nơi con người chúng ta, thì cũng khi ấy, chúng ta gặp gỡ được Chúa, thấy được Chúa hiện diện cách tỏ tường trong chính đời sống của mình, trong chính bản thân mình. Hơn thế nữa, khi giữ Lời Chúa dạy, Chúa ở lại trong ta và ta ở trong Chúa. Chúng ta được bước vào sự hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì Chúa sẽ ban Đấng Bảo Trợ đến trong ta. Vì Chúa Cha ở trong thầy và Thầy ở trong Chúa Cha. Đó là cuộc gặp gỡ đích thực, thiêng liêng và cao quý. Khi chúng ta sống được như thế, Thiên Chúa đã tỏ mình và hiện hữu cách sống động và cụ thể trong cuộc đời chúng ta. Quay trở lại những vấn đề chúng ta đặt ra ở trên, chúng ta đã có thể trả lời cho câu hỏi: tại sao chúng ta khát khao, mong ước gặp gỡ Chúa mà chưa gặp được?
Lời Chúa hôm nay vang lên vừa nhắc nhở, vừa tạo cho chúng ta cơ hội nhìn lại mối tương quan của mình đối với Chúa, nhìn lại đời sống thiêng liêng của mình. Chúng ta muốn gặp gỡ Chúa, chúng ta đã yêu Chúa hay chưa? Chúng ta yêu Chúa, chúng ta có giữ lời Chúa hay không? Chúng ta theo đạo, nhưng chúng ta có giữ đạo hay không, có thực sự sống đạo hay không?…
Xin Chúa soi sáng và ban Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Ngài đã hứa cho chúng ta, để Ngài giúp chúng ta nhận ra mình đang ở đâu trong đời sống đức tin, ở đâu trong hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Chúa, ở đâu trong cuộc lữ hành tiến về Nhà Cha, nơi có Chúa ngự trị và nơi chúng ta được ngắm nhìn vinh quang Thiên Chúa chẳng khi ngưng.
“Hãy ở lại trong Thầy.” Chúa vẫn hằng mời gọi chúng ta đến với Ngài và gặp gỡ Ngài. Hãy kiên trì cầu nguyện và hết lòng kiếm tìm Chúa trong sự yêu mến chân thành là sống Lời Chúa dạy. Chúa sẽ đến và ở lại trong ta. Chúa sẽ gặp gỡ ta và ở với chúng ta luôn mãi. Ngài sẽ không để chúng ta phải thất vọng bao giờ.
Trước khi bước vào con đường tử nạn và phục sinh vinh quang, Chúa Giêsu đã để lại di huấn cho các tông đồ: Ngài ra đi, nhưng Ngài không bỏ các ông mồ côi (x. Ga 14,18). Ngài cũng đảm bảo với các ông, trước khi về trời, khi sai các ông đi loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đồng thời, để củng cố niềm tin của các ông, Chúa Giêsu còn hứa ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần.
Thật ra chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bàu Chữa cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha (x.1ga 2,1), nhưng khi Ngài phục sinh vinh quang, không còn hiện diện hữu hình bên cạnh các tông đồ nữa, thì Thánh Thần được Chúa Cha sai đến giúp chúng ta sống tâm tình nghĩa tử, mà chính Chúa Giêsu, qua công cuộc nhập thể của người đã mang lại thân phận ấy cho chúng ta. Là Thần Khí Sự Thật (x.ga 14,17), Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, cử chỉ, lời nói, cách sống của ngài, để giúp chúng ta can đảm sống đức tin trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi người. như vậy, dù chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô (1tm 2,5), nhưng có hai Đấng Bàu Chữa: Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, nhưng không bỏ các tông đồ mồ côi. Ngài đã xa cách các ông về mặt thể lý, khiến các ông không còn sờ đụng, xem thấy hoặc nghe tiếng nói từ chính miệng Ngài nữa, nhưng thực ra Ngài vẫn hiện diện bên các ông, trong các ông. Bởi vì thân xác Chúa phục sinh đã được biến đổi trở nên thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc bởi vật chất, không gian và thời gian, nên giờ đây, Ngài hiện diện một cách sâu xa hơn, gần gủi, gắn bó hơn trong Hội Thánh, nơi nhà tạm, trong tâm hồn mọi tín hữu có ơn thánh hoá và ở khắp mọi nơi.
Là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Giêsu trong tâm hồn. mà ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó có Chúa Ba Ngôi và chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bàu Chữa sẽ chứng thực, soi sáng, làm cho chúng ta nhận ra sự kết hiệp mật thiết nầy. Như vậy, đường đời các tông đồ và chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô đâu có đơn côi!
Chúa Giêsu vừa là Chúa Cứu Độ, vừa là Thầy, vừa là bạn đồng hành của những kẻ tin vào người. được Chúa yêu thương ban ơn cứu rỗi, được Thầy dẫn dắt trên nẻo đường đời gian nan bất trắc, được có bạn đường chung thủy không bao giờ bỏ rơi chúng ta, ngay cả lúc chết… như thế còn hạnh phúc nào lớn hơn cho chúng ta! đời Kitô hữu chính là sống trong niềm hy vọng, phó thác, buông mình vào tay Thiên Chúa tình thương, không chỉ một lần, mà là sự chọn lựa hằng ngày của mỗi người.
Đâu đó vang lên bài thánh ca: “Đường đi có Chúa gian nguy con có lo chi…”
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Chàng trai bày tỏ tình yêu đối với cô bạn gái bằng cách tặng cho nàng một bó hoa hồng tươi thắm; Cha mẹ thể hiện tình yêu đối với con cái bằng cách miệt mài chăm sóc nuôi dưỡng ngày đêm; Thầy cô thể hiện tình yêu đối với học trò bằng ân cần khuyên răn, dạy dỗ…
Còn Chúa Giê-su, Ngài thể hiện tình yêu đối với Chúa Cha bằng cách nào?
Thưa, bằng sự vâng phục tuyệt đối: Ngài vâng theo ý Chúa Cha cho dù phải hiến thân chết thay cho muôn người.
Trước khi nộp mình chịu khổ nạn, Chúa Giê-su cho các môn đệ biết sở dĩ Ngài để cho thủ lãnh thế gian này, là Sa-tan và bè lũ của nó, hành hình và tiêu diệt Ngài là vì Ngài yêu mến Chúa Cha nên đã làm như Chúa Cha truyền dạy.
Ngài nói: “Thủ lãnh thế gian này đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy” nhưng Thầy chấp nhận chịu khổ nạn dưới tay nó “để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14, 30-31).
Thế là,
– Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha tuyệt đối, đến nỗi để cho người ta bắt bớ, vu cáo, phỉ nhổ, tát vào mặt… mà không hề chống đối;
– Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su vâng theo ý Chúa Cha, để cho người ta đánh đòn rách nát thịt da, để cho vòng gai nhọn cắm sâu vào đầu, rồi kê vai vác thập giá lên đồi Sọ, chịu đóng đinh vào thập giá và chấp nhận chết quằn quại đau thương tủi nhục để đền tội cho muôn người.
Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha đến mức phải chết thảm thương như thế cho thấy tình yêu của Ngài dành cho Chúa Cha là vô biên, vô hạn.
Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta thể hiện lòng yêu mến bằng cách nào?
Chúa Giê-su thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối, thì nay, Ngài cũng yêu cầu những ai yêu mến Ngài cũng hãy vâng giữ huấn lệnh của Ngài như vậy.
Chúa Giê-su nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15) và một lát sau, Ngài nhấn mạnh: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21).
Như vậy, nếu chúng ta không vâng giữ điều răn của Chúa Giê-su, là chúng ta không yêu mến Ngài.
Chúa Giê-su muốn chúng ta tuân giữ giới răn nào?
Giới răn số một, giới răn nền tảng và cũng là giới răn trọng nhất được Chúa Giê-su công bố như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34).
Như thế, ai yêu mến Chúa thì phải thể hiện tình thương đó bằng việc yêu thương anh chị em chung quanh. Khi sống vô cảm với người chung quanh, khi thờ ơ trước những nỗi đau của người khác, khi không ra tay giúp đỡ kẻ khốn khổ bần cùng… là chúng ta quay lưng lại với Chúa, chẳng có chút tình thương nào dành cho Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng những lời ca khen chúc tụng, bằng những câu kinh lời nguyện thì dễ, nhưng thể hiện lòng mến Chúa bằng cách tuân giữ điều răn mới của Chúa là điều rất khó.
Tuy nhiên, nếu chúng con không thể hiện lòng mến Chúa bằng cách yêu thương tha nhân như Chúa đòi buộc thì chẳng được ích gì.
Xin mở rộng con tim vô cảm và đổ đầy tình thương Chúa vào lòng chúng con, để chúng con hết lòng yêu mến Chúa hiện diện nơi anh chị em chung quanh như Chúa đã truyền.
20. Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha…
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
***
Thánh Athanasiô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn… Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi… Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là… Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói “Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu.”
Cậu thanh niên thưa lại: “Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?”
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: “Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!”
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!”
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng. Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ. Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.
Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu. Không để lòng mình buông theo những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ. Chúa không bảo chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa. Như Châu Long sống với Lưu Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.
Có thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thuỷ chung lắm mới có thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ. Người ky-tô hữu cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất trung, phản bội với Chúa. Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà, một thế gian sa đoạ, tội lỗi, người ky-tô hữu phải có một tình yêu sắt son trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đoá sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.
Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.
Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR)
Henry Manning vốn là một mục sư Anh giáo, nổi tiếng về giảng thuyết. Ngài xuất bản một cuốn sách về các bài giảng và được dân chúng hưởng ứng nồng nhiệt.
Một hôm, có người bạn thân ghé thăm và bình luận về tác phẩm mới phát hành của Henry. Trong câu chuyện, người bạn đề cập đến việc tác giả đã không có một lời nói nào về Chúa Thánh Thần trong cuốn sách rất “giá trị” của mình.
Đây là một sự thiếu sót ngoài ý muốn của Henry. Ngài cám ơn ý kiến chân tình của người bạn. Thế rồi suốt hai năm tiếp theo, người ta thấy mục sự Henry Manning miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ngài đọc và nghiên cứu tất cả những cuốn sách liên quan đến đề tài Chúa Thánh Thần. Kết quả của sự học hỏi chân thành này là việc khám phá Ánh Sáng do Thần Chân Lý mang lại. Henry đã trở về với Giáo hội Công giáo vào năm 1851. Hai tháng sau ngài được phong chức Linh mục. Năm 1865, ngài trở thành Tổng giám mục Giáo phận Westminter, Anh quốc.
Tại Công đồng Vaticanô I (1869-1870), Giám mục Henry Manning nổi bật trong vai trò bảo vệ vững chắc tính chất Vô ngộ của Đức giáo hoàng. Năm 1875, ngài được tấn phong Hồng y. Từ khi trở lại Công giáo cho đến lúc qua đời năm 1892, Đức Hồng y Manning luôn có lòng yêu mến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt.
“Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Bàu Chữa khác để ở cùng các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì nó không thấy cũng không biết Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở mãi nơi các con và trong các con” (Ga 14,16-17).
Đó là lời hứa mà Chúa Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, đã trao lại cho các môn đệ như một lời an ủi thân tình.
Chúa Thánh Thần là Đấng Bàu Chữa. Ngài là luật sư biện hộ cho những tín hữu khi phải đương đầu với những mưu mẹo ác độc của thế gian. Ngài đem đến tất cả sự thật và làm chứng về Đức Kitô. Dưới ánh sáng và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người sẽ tìm thấy chân lý toàn vẹn trong Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là Tình yêu liên kết. Ngài cũng là Thần Chân lý, Đấng dạy người ta yêu thương trong sự thật. Tình yêu trong chân lý mới là tình yêu toàn vẹn, vì được Thiên Chúa Ngôi Ba tác động và dẫn lối.
Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban sẽ dẫn đưa con người bước đi trong yêu thương và sự thật. Không phải cứ hễ yêu nhau là cái gì cũng có thể trao ban hay lấy đi. Những quan hệ bất chính, những kiếm tìm bất công, những đam mê bất hợp pháp đều là những nẻo đường đưa đến bất hạnh. Bởi vì thiếu chân lý là thiếu tự do và hạnh phúc: “Chân lý sẽ giải thoát con người,” Đức Giêsu đã nói với Philatô như thế.
Yêu thương phải song hành với sự thật. Để sống yêu thương trong sự thật, lắm khi người ta phải dám chấp nhận hy sinh rất nhiều.
Cha Flor McCarthy, một linh mục Dòng Don Boscô có kể lại rằng:
Steve, cậu bé 12 tuổi, đã bị teo hai chân sau một cơn sốt tê liệt. Steve có đức em 10 tuổi tên Mark. Như bao đức trẻ khác, Steve và Mark cũng hay cãi nhau, đánh nhau, và đôi khi Steve còn cảm thấy ghen tị với đôi chân khỏe mạnh của em mình.
Một đêm kia Steve mơ thấy mình đi lạc vào một khu rừng vắng. Cậu bắt gặp một chiếc hang. Bị thúc đẩy bởi lòng mạo hiểm và tính tò mò, Steve tiến sâu vào bên trong. Bất ngờ một ông già xuất hiện. Ông ta tự xưng là phù thủy, và để thưởng cho ai đầu tiên khám phá ra chiếc hang, ông sẽ ban cho người đó được những gì họ mong ước, nhưng chỉ một lần thôi.
Không cần suy nghĩ, Steve xin ngay cho đôi chân được khỏe mạnh như xưa. Lão phù thủy liền tung chiếc áo choàng lên và trong nháy mắt Steve thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh Mark đang ngủ say như chết.
Lão phù thủy mở tấm mền che đôi chân của Mark ra. Steve thấy vậy thì ngạc nhiên hỏi:
– “Ông làm gì thế?”
– “Ta phải giải phẫu để thay cho ngươi đôi chân tốt.”
– “Thế ông tính thay đôi chân của Mark cho tôi à?” Steve ngạc nhiên hỏi lại.
Ông già đáp:
– “Vậy chứ ngươi tưởng ta lấy nó từ trong không khí ra à? Nhưng không sao đâu. Chẳng ai biết chuyện gì xảy ra đâu. Mọi người sẽ coi như đãxảy ra như từ lúc mới sinh vậy.”
Steve cảm thấy sửng sốt. Nó đâu ngờ là ông già phải lấy đôi chân của Mark để đổi cho nó. Cậu bé nghĩ đến giây phút mình chạy nhảy với đôi chân tốt, trong khi Mark em cậu sẽ lê lết với đôi chân bại liệt. Như thế là không thể được! Rồi Steve hét lớn: “Tôi không muốn như vậy đâu”. Nghe thế lão phù thủy bực mình bỏ đi.
Sáng hôm sau, thức dậy nhìn qua em mình, nhớ lại những gì thấy được trong giấc mơ đêm qua, Steve đã nở một nụ cười rất vui.
Điều tôi đọc được trong nụ cười của Steve là một tình yêu song hành với chân lý. Từ trong tiềm thức, cậu đã không muốn làm điều xấu, dù rằng phần lợi sẽ về mình và dù rằng không ai biết. Nhưng chấp nhận cuộc sống trong một tình yêu chân thành, Steve đã không những không hủy diệt sự sống của người khác, những còn làm phát sinh trong tim mình bình an và niềm vui thẳm sâu.
23. Chúa Giêsu không để các đồ đệ mồ côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Ga 14, 1-12) nói về cộng đoàn các đồ đệ của Đức Giêsu trong hành trình đi đến cùng Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 15-21) sẽ nói về sự gắn bó nên một của cộng đoàn và của từng thành viên trong cộng đoàn với Thiên Chúa.
- Thần Khí sự thật luôn ở giữa cộng đoàn (cc.15-17)
Sự hiện diện thể lý và thế tạm của Đức Giêsu giữa cộng đoàn các đồ đệ sẽ chấm dứt. Nhưng Thần Khí sự thật sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người ở mãi với các đồ đệ, ở bên cạnh và ở trong các đồ đệ.
Trước khi nói đến việc Thần Khí sự thật đến, Đức Giêsu nói đến tình yêu của các đồ đệ đối với Người, và về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Tình yêu đối với Đức Giêsu là điều kiện để giữ các điều răn của Người (nếu A thì B), và đàng khác, việc thực hiện những lệnh truyền của Đức Giêsu sẽ là bằng chứng của tình yêu đối với Người (c. 21: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy).
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói về tình yêu của các đồ đệ đối với Người. Lòng tin vào Chúa Giêsu đạt đến đỉnh cao trong sự gắn bó thiết thân và đầy tình yêu mến đối với Người. Sự gắn bó ấy được thể hiện trong việc thực hiện những điều răn của Người. Ở 13,34 Đức Giêsu nói về điều răn mới của Người, và bây giờ, Người nói về “các điều răn” của Người (14,15.21; 15,10). Điều răn mới (“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”) là mẫu gộp tóm tất cả mọi điều răn khác. Và tuân giữ các điều răn là đón nhận trong lòng tin toàn bộ Lời của Đức Giêsu và ký thác bản thân cho Người (x. 14, 23-24).
Với các đồ đệ yêu mến Đức Giêsu như thế, Người hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Người sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn đồ đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14,26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các đồ đệ (15,26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16,14). Còn trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).
Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác. Khi còn ở với các đồ đệ, Đức Giêsu gìn giữ, bảo vệ và dạy dỗ họ (17,12). Từ nay, Thánh Thần sẽ đảm nhận vai trò đó.
Người là Thần Khí sự thật. Có hai cách hiểu danh ngữ “Thần Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias): (1) Thần Khí là sự thật; và (2) Thần Khí thông ban sự thật. Cũng có thể hiểu theo nghĩa Thần Khí là sự thật, thông ban sự thật và làm cho sống trong sự thật. Trong tư cách là Thần Khí sự thật, Người cũng là Thần Khí giải thoát, vì sự thật đem đến sự giải thoát (8,31-32).
Thế gian không biết Thần Khí sự thật. Người là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” (c.17b). Hạn từ “thế gian” ở đây được sử dụng theo nghĩa xấu, chỉ trật tự bất chính, đối nghịch với Thiên Chúa. Thế gian này tin tưởng vào sự dối trá và kềm hãm con người trong bóng tối của sự dối trá. Nó phục tùng ma quỷ. “Ngay từ đầu, ma quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (8,44). Vì vậy, thế gian không thể biết Thần Khí sự thật và càng không thể đón nhận Thần Khí sự thật.
“Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (c.17c). Các đồ đệ biết Thần Khí sự thật là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng ở trong Chúa Cha (14,10). Một khi được Đức Giêsu sai đến (7,39), Thần Khí sẽ luôn ở giữa các đồ đệ và ở trong mỗi đồ đệ.
- Chúa Giêsu trở lại và cộng đoàn được Chúa Cha yêu mến (cc.18-21)
Đứng trước sự ra đi của Đức Giêsu, các đồ đệ xao xuyến (x. 14,1). Vì thế, khi chuẩn bị cho các đồ đệ đối diện với thực tại là sự vắng mặt của Người, Đức Giêsu muốn giúp các ông tránh khỏi sự xao xuyến ấy. Người tuyên bố: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (cc.18-19).
Đức Giêsu sẽ không bỏ các đồ đệ mồ côi. Hạn từ “mồ côi” mang một sắc thái nghĩa khá đặc biệt trong Cựu Ước. Kẻ mồ côi được hình dung như là một dạng điển hình cho những người không có ai bảo vệ và luôn phải đối diện với nguy cơ bị đối xử một cách bất công (x. Is 1,17-23; 10,2; Gr 5,28; 7,6; 22,3; Ed 22,7; Hs 14,4). Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ không để các đồ đệ rơi vào tình trạng bi đát đó.
Đức Giêsu đang đi đến cái chết. Nhưng sự vắng mặt của Người sẽ không phải là một tình trạng vĩnh viễn. Người hứa sẽ đến cùng các đồ đệ. Có lẽ nên hiểu cặp đối lập “thấy – không thấy” ở đây trong liên kết với cắp “tỏ mình ra – không tỏ mình ra” trong 14, 21-22. Thế gian sẽ không còn được thấy Đức Giêsu sau khi Người đi vào cõi chết là bởi vì Người không tỏ mình ra cho thế gian. Nhưng các đồ đệ sẽ được thấy Người, vì Người yêu mến họ và tỏ mình cho họ, như lời Người sẽ nói ở cuối bài Tin MỪng: “Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (c.21c).
Thực tại “thấy” Đức Giêsu lại được miêu tả như là sự hiệp thông sự sống với Người. “Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). “Thấy” ở đây, như thế, là tham dự vào sự sống của chính Đức Giêsu.
“Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (c.20). Đó là kết quả của sự tình các độ đệ được tham dự vào sự sống của Đức Giêsu. Đó cũng chính là hiệu quả của việc Đức Giêsu ban Thần Khí cho các đồ đệ. Thần Khí, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và làm chứng về Chúa Giêsu (15,26) sẽ làm cho các đồ đệ biết rằng Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), tức là biết rằng “Thầy ở trong Cha của Thầy”. Và các đồ đệ, trong Thần Khí sự thật, sẽ nên một với Đức Giêsu. Khi ấy, “anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”.
Sự gắn bó nên một như thế với Chúa Giêsu chính là điều kiện để các đồ đệ tuân giữ các điều răn của Người, như đã được khẳng định từ câu đầu tiên của bài Tin Mừng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Và đàng khác, “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c.21a). Tình yêu đối với Đức Giêsu hệ tại ở chỗ người đồ đệ sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử.
Khi ấy, chính người đồ đệ sẽ được Chúa Cha yêu mến: “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến” (c.21b). Chúa Cha yêu mến họ bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Đức Giêsu. Trong lời cầu nguyện ở Ga 17, Đức Giêsu thưa với Chúa Cha như sau về các đồ đệ của Người: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,23).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
- Tình yêu đích thực đối với Đức Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Đức Giêsu. Ý muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai yêu mến Đức Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (x. c.21). Và đàng khác, chính trong lòng yêu mến đối với Đức Giêsu mà chúng ta mới có thể sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử (x.c.15). Hai yếu tố “yêu mến Đức Giêsu” và “tuân giữ lời Đức Giêsu” có mối tương quan biện chứng.
- Thần Khí sự thật được Chúa Cha ban cho các đồ đệ yêu mến Chúa Giêsu. Người là sự thật và Người thông ban sự thật, giúp các đồ đệ sống trong sự thật của Chúa Giêsu. Người là Đấng Bảo Trợ, sẽ dạy dỗ, bảo vệ, hướng dẫn… các đồ đệ của Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu hứa không để các đồ đệ mồ côi. Ở giữa thế gian, họ có thể sẽ phải hiện diện như là đối tượng của những cách hành xử bất công, bạo tàn. Nhưng Chúa Giêsu luôn đến với họ và cho họ được hiệp thông với chính sự sống thần linh của Người. Chính nhờ đức tin mà các đồ đệ sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và sẽ được hưởng sự sống của Người.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Câu lạc bộ “bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với 6 thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự suy nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “bạn gíup bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có 3 người Công giáo, riêng nữ tu Trần Thị Kim Loan, dòng Đa minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh Tẩy với một Đức Tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.
***
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.
Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 4,20). Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (Ga 14,19). Thánh Phaolo đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi Người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.
Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.
Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống Nước Trời.
***
Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới. Amen.
25. Tình yêu đong đầy – Sống Lời hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn!
Thông thường, chúng ta cất giữ những gì quý giá trong tâm tưởng sâu kín; nào là kỷ niệm khó quên, thời khắc thay đổi cuộc đời, con người bản thân, biết bao nhiêu lời dạy, câu nói, ….ảnh hưởng và khó phai mờ trong tâm trí của mỗi chúng ta.
Cũng như hai người nam nữ đang yêu nhau, hình bóng của nhau luôn hiện diện đâu đó trong cuộc sống, trong suy nghĩ, trong thời khắc hằng ngày của họ. Có lúc, họ chẳng cần gặp nhau, mà chỉ nói chuyện qua điện hoặc chỉ nhìn nhau qua cuộc gọi video không cần nói chi nhiều, mà họ vẫn thể hiện tình cảm cho người họ yêu, và chẳng thể nào quên nhau dù chỉ một giây!
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đọc lại một lần nữa diễn từ của Chúa Giê-su chia sẻ với các Tông đồ “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy…” (x. Ga 14, 15). Vấn đề đặt ra là: chúng ta chắc hẳn yêu mến Chúa, nhưng sao không sống giới răn của Ngài? Phải chăng, giới răn của Chúa chưa phải điều quý giá mà khiến tôi phải ghi khắc trong tâm hồn, tâm tưởng? Hay tôi có thể không bao giờ quên những câu châm ngôn, những luận điểm hùng biện thú vị này nọ, nhưng Lời Chúa thì chúng ta chẳng thể nhớ? Và một khi không nhớ, một khi Lời Chúa chưa chạm tới con tim thì làm sao chúng ta thực thi trong cuộc sống thường nhật, nhất là trong những thời khắc cam go, khó khăn? Hoặc lòng yêu mến Chúa của chúng ta chưa lớn đủ để khiến chúng ta khắc ghi Lời của Ngài trong tâm tư và sống Lời ấy hằng ngày như việc chúng ta phải hấp thụ không khí, phải thâu nạp dinh dưỡng mỗi ngày?
Những gợi ý trên chỉ là một số điểm mà mỗi chúng ta nên hỏi lòng mình và đi tìm câu trả lời cho bản thân! Câu trả lời có thể chẳng đâu xa, mà có khi nó đang nằm trong vấn đề mà chúng ta đặt ra! Tuy nhiên, trong bài chia sẻ này, chúng ta nên làm sáng tỏ một số điểm: Chúng ta phải yêu mến Chúa thế nào thì mới khiến chúng ta tuân giữ giới răn của Ngài? Và động từ ‘giữ’ ở trong câu ‘…hãy giữ giới răn Thầy’ đối với chúng ta có nghĩa như thế nào?
Trước tiên, khi tình yêu thương của tôi dành cho ai đủ lớn thì chính tình yêu ấy khiến tôi làm mọi việc cho người ấy, và cũng chính tình yêu ấy tạo động lực cho tôi thay đổi tích cực vì người tôi yêu thương. Trong gia đình, lòng yêu thương bố mẹ dành cho con cái, tình thương của con cái dành cho bố mẹ lớn đủ thì bố mẹ sẵn sàng hy sinh cho con cái, và con cái cũng vậy làm hết mọi việc hầu chăm sóc, quan tâm bố mẹ. Trong tình bạn chân chính cũng sẽ diễn ra tương tự, và kể cả trong tình yêu đôi lứa giữa một người nam và một người nữ. Vậy, tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa thế nào? Dẫu tôi biết Ngài là Đấng hằng yêu thương tôi, ban cho tôi sự sống, đã hiến thân chết cho tôi, hằng chờ đợi tôi mọi lúc tôi lìa xa Ngài, thương xót tôi, tha thứ, cứu độ tôi…Nếu lòng mến của tôi đối với Chúa đủ mạnh, đủ lớn thì việc tôi dành thời gian cho Ngài, nhớ đến Ngài, dám làm tất cả vì Ngài, thay đổi bản thân, làm mọi việc đẹp lòng Ngài là điều dễ dàng xảy ra!
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thì chúng ta sẽ thấy mức độ yêu thương của mỗi chúng ta đối với Chúa thế nào. Điển hình trong thời đại 4.0 này, chúng ta dành quá nhiều thời giờ cho việc lướt web, và dành rất ít thời gian để nhìn lại ngày sống của bản thân, rất ít thời gian dành cho việc tâm sự, hàn thuyên với Chúa (mà chúng ta thường gọi là cầu nguyện)! Chúng ta dành quá nhiều giờ cho công việc, cho việc mưu sinh cơm áo gạo tiền (vật chất) mà lại quên đi bồi bổ cho đời sống thiêng liêng, cho linh hồn! Chúng ta dành nhiều thời giờ để tạo mối tương quan trong giao tế, trong kinh doanh, trong gia đình, mà quên đi dành thời gian tạo mối liên kết với Chúa trong thinh lặng, trong việc đọc – suy gẫm Kinh Thánh, trong việc cầu nguyện, trong việc tham dự Bàn tiệc Thánh trực tiếp hay trực tuyến (trong thời điểm đại dịch cô-vid)!
“Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) và rõ ràng nếu chúng ta chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt (= nhìn), bằng đôi môi (= nói) mà không bằng con tim (= ghi nhớ và hành động cụ thể) thì việc ‘giữ’ Lời Ngài khó có thể thành sự; mà nếu thành sự đi chăng nữa thì cũng ở mức độ là ‘cất giữ’ ‘cất giấu’ ‘giữ đạo’ thôi!
Và từ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thật sự ý nghĩa của động từ ‘giữ’ ở đây là gì? Nếu chúng ta nghĩ ‘giữ’ ở đây là cất giữ, giữ kín chuyện gì đó, hay vật gì đấy thì vô hình chung chúng ta cũng chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt, bằng ngôn từ, và như thế chúng ta đang ‘giữ đạo’ chứ chưa ‘sống đạo’. Hơn thế nữa, nếu như vậy, chúng ta chỉ dừng lại việc thờ phượng Chúa trong nhà thờ, trong nhà nguyện; còn khi ra khỏi nhà thờ thì là một con người như bao nhiêu con người ngoài xã hội kia vẫn chưa tin nhận Chúa! “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) nghĩa là nếu tình yêu của chúng ta đối với Chúa đủ lớn, đủ đong đầy thì chính lòng mến này khiến chúng ta thực thi tất cả những gì mà Chúa dạy qua Kinh Thánh, qua Thánh Truyền, và qua Giáo Hội. Một khi chúng ta dành nhiều sức lực, thời gian cho Chúa thì chính tình yêu Chúa biến đổi chúng ta trở nên những người yêu mến Ngài, yêu mến anh chị em xung quanh, và đây là động lực khiến chúng ta không ngừng ghi nhớ – khắc ghi – thực hành tất cả những gì Ngài đã dạy tóm lại trong giới răn yêu thương. Nói một cách đơn giản, một khi chúng ta yêu mến Chúa đủ nhiều, đủ lớn thì chúng ta sẽ làm hai việc song hành: cầu nguyện và làm việc bác ái.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít phút thinh lặng chẳng phải để xin, mà để cảm tạ Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi thời khắc cuộc đời:
Lạy Chúa, con đã từng nghe:
“Sau cơn mưa trời lại sáng
Bình minh ló rạng ngập tràn ánh dương”.
Giây phút này xin tựa nương
Kề bên lòng Chúa yêu thương chan hoà.
Đời con như một đoá hoa
Tình yêu đủ lớn mọi nhà ngát hương
Thanh tao trong cõi vô thường
Đơn sơ sống giữa nẻo đường trần gian
Thực thi bác ái toả lan
Truyền loan ơn Chúa bình an tâm hồn. Amen!
(Suy niệm của Daniel J. Harrington – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,15).
Lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu thật sống động và tiếp nối những công việc Ngài đã khởi sự, là hai công việc chủ yếu đối với mọi Kitô hữu. Các bài đọc Lời Chúa của phụng vụ hôm nay, Chủ nhật 6 Phục sinh, mô tả cách thế giúp chúng ta, cá nhân cũng như cả Hội Thánh, thực hiện những bổn phận quan hệ và cao quý này. Bài diễn từ biệt ly của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi lại (Ga,14) mà chúng ta nghe trong phụng vụ, đề cập đến cả 2 công việc đó. Việc thứ nhất liên quan đến tình yêu, và việc thứ hai đề cập đến Thánh Thần, đồng thời cũng liên đới với tình yêu. Cả hai phạm trù này gắn kết chặt chẽ với nhau và không thể tách rời nhau.
Những ai yêu mến Đức Giêsu sẽ tuân giữ giới răn Ngài. Các giới răn của đức Giêsu dường như không phải là 613 điều luật của cựu ước được tóm kết trong thập giới. Nhưng những giới lệnh Đức Giêsu đã ban bố thì giản đơn hơn, đồng thời mang tính thách đố cao hơn. Tất cả mọi điều răn Ngài gửi trao cho các môn đệ, xoay quanh việc tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu, đấng khải thị về Chúa Cha, đồng thời cũng nói về việc yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Đức Giêsu và yêu thương nhau. Nếu chúng ta tin và yêu mến, chúng ta sẽ đắc thủ được các nhân đức khác, và các việc lành thánh sẽ nảy sinh. Vì vậy, chúng ta phải đặt mình vào trong chuỗi dây tình yêu liên hoàn, trải rộng từ Chúa Cha đến Chúa Con và đến những kẻ tin. Cũng tương tự, những ai biết yêu thương nhau, họ cũng sẽ yêu mến Chúa Cha và Chúa Con.
Cộng đoàn đức tin do Chúa Giêsu hình thành đã xác tín rằng sức mạnh của tình yêu sẽ luôn trổi vượt và phá đổ sức mạnh của hận thù. Họ hiến thân cho lý tưởng của tình yêu, như một năng động lực vĩ đại, vươn tới cả những kẻ thù của mình. Họ phục vụ cho lý tưởng tự hiến, yêu thương, với một trái tim vị tha, bởi lẽ đây chính là mô thức căn bản của tình yêu mà Đức Giêsu đã vạch dẫn, mời gọi thực hiện. Trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1 Cor 13), Thánh Phaolô đã mô tả tình yêu đó như sau:“Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”.
Những lý tưởng cao cả này vượt xa khả năng giới hạn nơi con người mỏng dòn chúng ta. Vì vậy, Đức Giêsu trước lúc ra đi, đã hứa gửi ban sự trợ giúp linh thánh cho các học trò mình qua dạng thức “ một Đấng Bào Chữa” khác. Đó chính là Thánh Thần. Hạn từ Hy Lạp Parakletos (Đấng Bào Chữa) hàm ngậm ý nghĩa về một người nào đó sẽ nâng đỡ và ủi an những ai cần trợ giúp. Từ ngữ này cũng ám chỉ về một vị luật sư nơi tòa án, sẽ đứng ra bảo vệ thân chủ và đấu tranh cho quyền lợi của họ, là chính chúng ta. Khi nói Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa, Đức Giêsu muốn minh định rằng Thánh Thần sẽ thực hiện phần vụ của Ngài giống như Đức Giêsu đã thi hành khi Người còn tại thế.
Tình yêu và hoạt động của Thánh Thần là hai phương cách giúp cho những kỷ niệm về Đức Giêsu được lưu giữ cách sống động, và để những hoạt động mà Người đã khởi sự được tiếp nối. Chúng ta cần phải luôn gợi nhớ rằng Thiên Chúa là đấng khởi xướng, Thiên Chúa là đấng đã tuôn đổ tình yêu của Ngài xuống trên chúng ta qua Đức Giêsu, và qua những giáo huấn cũng như gương mẫu của Người, chúng ta sẽ học được cách yêu thương lẫn nhau. Thánh Thần của Thiên Chúa được trao ban cho ta qua phép rửa, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, mở lòng cho những sức mạnh thần thiêng đang tác động trong chúng ta và giữa chúng ta.
Sách Công Vụ Tông Đồ đã mô tả sức mạnh Thần khí được tỏ hiện thế nào qua việc trải rộng đức tin Kitô giáo xuyên suốt thế giới địa trung hải thời cổ đại. Những vị tông đồ kiệt xuất như Phêrô và Phaolô và những vị khác, chẳng hạn Philiphê, cũng góp phần lớn lao trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh đến với muôn dân. Bài đọc trong sách Công vụ chương 8 hôm nay cho thấy, sứ điệp Tin Mừng đã được truyền tải, khởi đầu từ Giêsusalem, đến Juđêa và đến cả địa hạt Samaria. Ở đó Philip đã làm những công việc mà Đức Giêsu khi còn tại thế đã làm. Vị tông đồ cũng đã dạy dỗ dân chúng, cũng thực hiện những phép lạ để chữa lành. Sự thành công đó được tiếp nối với những tông đồ ở Giêsusalem, tức Phêrô và Gioan. Hai ông đã đến vùng Samaria, cử hành phép rửa ban Thần khí cho dân chúng vùng này.
Trong khi hai vị tông đồ lớn đã đảm nhận vai trò quan trọng trong việc lưu giữ những kỷ niệm về đức Giêsu được sống động và trải rộng những công việc đi khắp nơi, thì những tín hữu khác, những con người rất bình thường, mà ngày nay chúng ta gọi là những tín hữu buổi sơ khai, cũng có nhiều đóng góp đáng kể. Thơ thứ nhất của Thánh Phêrô nói về họ. Họ là những Kitô hữu gốc dân ngoại, có lẽ là những lao động di dân, và có thể là những khách lạ hay người ngoại quốc trong bối cảnh văn hóa xã hội bấy giờ. Họ tìm đường đến với Giáo hội qua gương sáng của các anh em Kitô hữu khác. Bài đọc hôm nay, trong 1P 3, Thánh Phêrô khuyên mời họ hãy chia sẻ những công việc tốt lành và hãy có một nhãn quan thần học dựa trên khuôn mẫu của Đức Giêsu. Ngài khởi xướng cho họ một kế hoạch truyền giáo, quảng diễn đức tin bằng việc sẵn sàng chia sẻ, bằng thái độ ân cần và kính phục đối với nhau, tôn trọng lẫn nhau, can đảm chấp nhận những chống đối, ngay cả có thể bị hành quyết, tất cả để theo gương Đức Giêsu. Phương sách truyền giáo như thế, luôn luôn là cách thế hữu hiệu nhất để lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu được sống động, và để những công việc Đức Giêsu đã khởi sự được tiếp nối thực hiện.
(Suy niệm của Br John Hoàng Hiệp Nghĩa, CRM)
Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại, và thầy trò thỏ thẻ những lời tâm huyết trong một căn phòng bé nhỏ. Ngài đã loan báo và hứa xin với Chúa Cha cho các môn đệ một “Đấng Bảo Trợ” khác mà Ngài gọi là “Thần Chân Lý”. Thần Chân Lý theo tiếng Hy Lạp, Parakletos, có nghĩa là Đấng Trạng Sư, Biện Hộ, Cố Vấn, Cầu Bầu, Bảo Trợ, và là Đấng Chuyển Cầu. Những danh từ này chỉ tìm thấy trong Phúc âm thánh Gioan, và có năm đoạn trong lời đàm thoại chia tay liên quan tới – Đấng Bảo Trợ – Chúa Thánh Thần.
Lần thứ nhất ở Jn14, 16-17, Chúa Giêsu hứa “Đấng Phù Trợ” khác sẽ đến và ở với các môn đệ luôn mãi.Lần thứ hai ở Jn 14, 26, “Đấng Phù Trợ” là Thánh Thần, chính Người sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các ông tất cả những gì Chúa đã nói với các ông. “Đấng Phù Trợ” được nhắc đến lần thứ ba trong Jn 15, 26-27, “Đấng Phù Trợ” sẽ đến; Người là Thần Chân Lý, sẽ làm chứng về Chúa. Lần thứ tư ở Jn 16, 7-11, “… vì nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ “sẽ không đến với các con.”Lần sau cùng ở Jn 16, 13-15, “Thần Chân Lý” đến và sẽ dạy các môn đệ tất cả sự thật.
Nhìn thấy nét mặt của các môn đệ không vui, Chúa đã hứa không để các ông mồ côi, “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con” (Jn 14,18), và Chúa còn hứa xin với Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ khác cho các ông. Chúng ta thử hỏi tại sao Chúa Giêsu lại hứa xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ? Phải chăng các ông bối rối vì sự ra đi của Chúa? Hay có phải các ông đau buồn vì cảnh thầy trò phân ly? Cũng vì lòng thương yêu mà Chúa đã trấn an các môn đệ bằng những lời êm dịu, “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Gn 14,1-2). Vì không muốn thấy các môn đệ bơ vơ, hoảng sợ, nên Chúa đã hứa xin “Đấng Bảo Trợ” khác cho các ông.
Đấng Bảo Trợ Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần; Ngài sẽ đến để giúp đỡ các môn đệ như lúc Chúa Giêsu còn sinh thời. Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói với các ông. Ngài sẽ làm cho thành sự thật những gì mà các môn đệ đã “mắt thấy tai nghe” tồn tại mãi trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đến sau Chúa Giêsu để tiếp tục chương trình cứu chuộc mà Chúa Cha đã an bài.
Quả thật, lời hứa của Chúa Giêsu đã thành sự thật. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh thần đã hiện xuống để khai mạc những trang sử đầu của Giáo hội. Ngài chính là nguồn sinh lực của Giáo hội và của mỗi người chúng ta; chính Ngài thánh hóa và ban mọi ơn cho chúng ta. Chúa Thánh Thần còn là nguyên lý cho mọi sinh hoạt của Giáo hội và mỗi người chúng ta; hay nói cách khác, Ngài ban sự sống cho tất cả ngay từ tạo thiên lập địa cho đến ngày sau hết. Ngài hiện diện cách vô hình, và Ngài vẫn còn tiếp tục phù giúp, ban ơn, và thánh hóa mỗi người chúng ta.
Thường thường ta hay cầu nguyện và tập trung mọi chú ý tới Chúa Giêsu, và công trình cứu chuộc của Ngài, mà quên rằng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, và Chúa Cha gắn liền mật thiết với nhau. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thật đáng tiếc và đáng trách biết bao khi chúng ta lãng quên, chưa biết, hoặc biết rất ít về Ngài.
Chúng ta hãy xét lại đâu là căn nguyên làm cho chúng ta quên “Đấng Bảo Trợ” của mình? Đâu là nguyên nhân làm cho chúng ta ít nhớ tới hoặc ít cầu nguyện với Chúa Thánh Thần? Có thể trong đời sống của chúng ta vì bận bịu mà ta quên Ngài? Phải chăng vì sống giữa một thế giới xô bồ, đầy nhộn nhịp, đầy vật chất làm chúng ta quên Ngài? Hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã hứa gì cho các môn đệ và cũng là cho mỗi người chúng ta.
Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống sắp tới.
28. Yêu mến Thầy thì giữ giới răn Thầy
(Suy niệm của Lm Raymond Châu Diên, CRM)
Hội Y học Mỹ có mở một cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ chuyên môn. Họ hỏi các bác sĩ: “Trong một tuần lễ, có bao nhiêu phần trăm bệnh nhân mà y khoa đã chữa được?” Các câu trả lời khiến chúng ta sửng sốt. Các bác sĩ cho rằng dùng thuốc men, họ chỉ điều trị được 10 phần trăm, 90 phần trăm còn lại, các bác sĩ cho rằng những bệnh nhân này thực sự có đau đớn, nhưng vấn đề của họ không thuộc lãnh vực hóa học hay vật lý mà tâm lý. Nói cách khác, đó là vấn đề cuộc sống. Những nguyên nhân thực sự của nỗi đau nơi họ là những cảm xúc tiêu cực như lo sợ, cô đơn. Buồn chán, lo sợ, cô đơn là cơn bệnh nổi tiếng của thời đại chúng ta.
Sau khi Chúa nói với các môn đệ, Chúa sắp xa các ông, các ông lo buồn. Chúa thông cảm yên ủi họ. Chúa nói với các môn đệ: “Các con đừng bối rối cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Hơn nữa, Chúa đã chỉ dạy các ông một cách sống, đã đưa các ông đến một chiều kích mới, cao cả hơn. Chúa dạy: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con.”
Trước tiên, Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới chiều kích thiêng liêng. Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ sẽ đến với các môn đệ, ngự nơi tâm hồn họ để họ có thể gặp Chúa mọi lúc. Chúa Thánh Thần là bằng chứng tình Chúa yêu họ, Ngài sẽ yên ủi, giúp đỡ họ trong mọi sự.
Henry Drummond suy luận như sau: Giả sử Chúa Giêsu không rời các môn đệ; giả sử Ngài còn ở thế gian bây giờ. Giả sử Ngài còn ở Thánh Địa, ở Giêrusalem. Mọi chuyến tàu, mọi chuyến bay đổ dồn về Trung Đông để gặp Chúa Giêsu. Mọi kiện thơ gồm toàn những lá thư của những người gặp khó khăn, thử thách. Giả sử anh hay chị đáp chuyến bay có ý đến gặp Chúa Giêsu. Xuống phi trường, anh hay chị nhập vào đám đông triệu triệu người chờ đến lượt mình. Vì quá đông nên anh hay chị chờ hoài mà chẳng bao giờ thấy bóng Chúa Giêsu.
Đời chúng ta nhiều lúc gặp đau khổ, lo buồn, nhưng chúng ta tin chúng ta luôn luôn có Chúa ở với chúng ta, yêu thương nâng đỡ chúng ta. Chúa biết mỗi người chúng ta đều có nhu cầu căn bản là ban phát và nhận lãnh tình yêu. Chúng ta luôn yêu và đón nhận tình yêu từ tha nhân, nhất là từ Thiên Chúa, nguồn mọi tình yêu. Yêu Chúa và Chúa yêu chúng ta hết lo buồn cô đơn.
Sau nữa, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cuộc sông thực tế. Ngài nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con” (Ga 14,15.21).
Giới răn của Chúa là gì? Chính Chúa Giêsu nhắc lại Cựu Ước: “Ngươi hãy yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, hết sức ngươi; và yêu tha nhân như chính ngươi” (Mc 12,30-31). Chúa còn nói rõ hơn: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu nhau như Thầy yêu các con.” Chúa muốn chúng ta, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu tha nhân. Chúng ta không phải làm gì lẫy lừng nhưng hãy yêu thương những người chung quanh.
Khi chúng ta yêu thương giúp đỡ người khác, Chúa sẽ làm chúng ta hết lo buồn và sẽ ban ơn cho chúng ta. Mục sư King Duncun nói với những người buồn khổ là họ hãy tìm giúp đỡ những người đang buồn khổ thì tự nhiên mình sẽ thấy tươi vui. Ông thường nói: “Có 10 cách để thoát khỏi buồn khổ. Thứ nhất là giúp người khác, và tiếp tục làm như vậy chín lần.” Mẹ Têrêsa Calcuta đã chứng kiến nhiều về lòng người của những người đau khổ. Một lần Mẹ đem cho một gia đình đã nhịn đói mấy ngày 5 ký gạo. Vừa nhận được gạo, người đàn bà đó chia làm đôi và mang đi khỏi nhà và một lát sau trở lại tay không. Mẹ Têrêsa hỏi thì bà trả lời: “Gia đình bên cạnh đây cũng không có gì ăn mấy hôm nay, nên con chia cho họ một nửa.” Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm đến tha nhân vì Chúa muốn chúng ta làm vậy. Chúa dạy chúng ta yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta.
Chúng ta hãy xem huấn lệnh của Chúa Giêsu như lời mời gọi yêu thương. Để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu thương anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta yêu Chúa và chu toàn giới răn yêu thương, Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở với chúng ta, chúng ta không còn mồ côi, buồn khổ.
Tình yêu nam nữ là đề tài tốn nhiều giấy mực lẫn thời gian nhất trong các đề tài. Từ cổ chí kim, từ người ít học đến bậc vĩ nhân, từ làng quê heo hút đến phố thị rộn ràng… không nơi đâu hay người nào lại không biết đến hay một lần nói về tình yêu, một thứ tình cảm tuyệt hảo nhưng không kém những hệ lụy. Euripide từng thốt lên: “Tình yêu là cái gì êm đẹp nhất và cay đắng nhất”. Thế nhưng, hầu như ít ai chịu đứng ngoài cuộc của những hệ lụy đó, như ai đó đã nói đùa: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ; thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng theo chủ quan của tôi, sở dĩ yêu thì khổ là do chưa yêu thật lòng và không nắm bắt được quy luật của tình yêu. Bởi vì “yêu không phải là nhìn nhau, nhưng cùng nhau nhìn về một hướng” (Saint – Exupéry).
Từ tình yêu nam nữ tôi nghĩ về tình yêu của tôi với Thiên Chúa. Thần học Kitô giáo cũng đã không ngại hao tốn giấy mực để cố gắng diễn đạt mẫu tình yêu rất thiêng liêng này. Nhưng cũng có nhiều người ngày nay cảm thấy mệt mỏi, chán chường bởi đã “lỡ giữ” Đạo Chúa; hay nói khác hơn, họ không muốn giữ đạo nữa, bởi giữ đạo cực quá, Giáo Hội có nhiều luật lệ quá.
Không phải như vậy đâu bạn ơi! Việc bạn chẳng còn thấy Chúa hấp dẫn với bạn hay bạn thấy luật lệ trở thành gánh nặng cho bạn vì bạn đã không yêu Chúa và muốn Chúa đến với bạn nữa. “Khi yêu trái ấu cũng tròn” phải không? Ở đây, tôi nhấn mạnh đến một lý do khác, đó là bạn muốn biến Thiên Chúa theo cách thế của riêng bạn, và lúc đó bạn mới chịu đến với Ngài. Bạn đặt ra những tiêu chuẩn cho Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài. Tất nhiên, những tiêu chuẩn nầy hợp “gu” với bạn; nhưng thực tế, Thiên Chúa không là một thỏi vàng cho bạn đúc lên một chiếc nhẫn vừa tay bạn. Vậy bạn yêu Chúa hay yêu bản thân mình?
Tình yêu Thiên Chúa đi đôi với việc chu toàn lề luật của Ngài, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8-10), “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Gn 14,15). Mà điều răn của Chúa là gì? Là “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Gn 15,12). Cũng đâu có gì vượt xa cái tự nhiên của con người đâu. Chẳng phải là mọi người đang rầm rộ kêu gọi hãy sống trong hòa bình, hợp tác, chia sẻ, yêu thương đó sao? Có khác là người Kitô hữu thương yêu tha nhân trong tình yêu của Đức Kitô, nhân danh tình yêu Ngài để hành động.
Ngày nay, người ta thường có khuynh hướng nhận lãnh tình yêu mà không nghĩ đến việc cho đi tình yêu, muốn được yêu nhưng ngại hy sinh cho tình yêu, muốn nhận Thiên Chúa là Chủ đời mình nhưng từ chối vâng phục Ngài. Thực ra, nếu chúng ta có hay không giữ các giới răn của Chúa, cũng không đem lại lợi ích gì cho Ngài (kinh Nguyện Thánh Thể), nhưng chắc chắn là có lợi cho chúng ta. “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Nói yêu thì dễ, nhưng hành động vì yêu thì không dễ. Bạn tuyên xưng mình là Kitô hữu, vậy bạn đã có hành động thiết thực nào để minh chứng cho niềm tin của mình chưa?
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.
Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.
Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”
Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.
Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe người ta nói: “Đạo nào cũng tốt”. Thử hỏi: Có đúng là đạo nào cũng tốt không?
Thực ra, chỉ trong một số trường hợp người nói câu này là để biện minh cho một hành vi, hay một quyết định của mình. Ví dụ, một anh chàng yêu cô gái Công giáo. Bên nhà nữ Công giáo đòi anh phải theo đạo mới cho kết hôn. Anh tuy không thích đạo Công Giáo nhưng vì muốn kết hôn nên đành phải theo đạo. Anh tự nhủ “Thôi thì, đạo nào cũng tốt, ta theo đạo có sao đâu”. Anh cũng thuyết phục cha mẹ anh: “Cho con theo đạo đi, vì đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành”.
Sau khi học giáo lý và được Rửa tội anh chàng người lương đó có đức tin và sống đức tin hay không thì ta không biết. Nhưng rõ ràng là người nói “Đạo nào cũng tốt”, nhiều khi cũng là nói để biện minh cho một hành vi hay một quyết định của mình. Thực ra, mỗi người theo một đạo nào đó, đều cho rằng đạo mình là tốt nhất. Họ có thể nói rằng đạo khác cũng tốt, không xấu, nhưng đạo mình theo vẫn là tốt nhất.
Tôi cũng như vậy, chúng ta cũng vậy, vẫn tin rằng đạo Công Giáo là tốt nhất, vì không ai lại đi theo đạo tốt thứ nhì, thứ ba; vì chọn đạo là phải chọn đạo nào tốt nhất để mình sống cả đời.
Có nhiều lý do khiến chúng ta tin rằng đạo của mình là tốt nhất. Riêng bài Tin Mừng hôm nay giúp tôi xác tín thêm rằng đạo Công Giáo là tốt nhất. Vì sao vậy?
Vì Lời Chúa dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Lời dạy của Chúa Giêsu này cho thấy tình “yêu mến” là quan trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Chữ “yêu mến” này cũng thường được nói trong các tôn giáo bằng những ngôn từ khác như: bác ái, từ bi hỷ xả, yêu thương, thương xót… Trong các tôn giáo nói chung, thường dạy về yêu mến tha nhân. Sự yêu mến này thể hiện qua việc ăn ngay ở lành. Yêu mến, ăn ngay ở lành đối với tha nhân, như với cha mẹ anh em, bạn hữu, hàng xóm láng giềng; giúp đở người nghèo đói, bệnh tật, người sa cơ thất thế…
Tuy nhiên Lời Chúa Giêsu ở đây không nói trực tiếp đến yêu mến tha nhân mà nói yêu mến Thiên Chúa.
“Ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Ngài nhấn mạnh đến mối liên hệ tình yêu giữa con người với Thiên Chúa. Ngài muốn mối liên hệ tình yêu này phải được thể hiện một cách mạnh mẽ. Và hạnh phúc mà ta gọi là “thiên đàng” của con người chính là được sống trong tình yêu với Thiên Chúa, được Thiên Chúa tỏ mình ra. Niềm hạnh phúc này có thể nói là niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vô biên; một niềm hạnh phúc thần thánh, linh thiêng. Nó không đơn giản như kiểu nói phần thưởng thiên đàng cho kẻ ăn ngay ở lành, hay ngược lại, kẻ dữ bị phạt ở địa ngục, như kiểu nói hứa hẹn hay ngăm đe, vẫn thường nghe.
Đạo Công Giáo không nhấn mạnh đến sự “tôn thờ” Đấng Thần Linh Cao Cả, như thường thấy trong các tôn giáo khác, nhưng nhấn mạnh đến “yêu mến” Đấng Thần Linh Cao Cả. Ngay từ thời Cựu Ước Thiên Chúa đã truyền dạy trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5).
Thiên Chúa đòi chúng ta “yêu mến” Ngài “hết lòng hết dạ, hết sức”, chứ không đòi chúng ta “tôn thờ” Ngài hết lòng hết dạ, hết sức. Ngài không đòi chúng ta “tôn thờ” bằng những hành vi quỳ lạy, với những khấn vái: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà không có tình yêu mến Ngài.
Đến đây, ta có thể hỏi: “Vậy thì Đạo Công Giáo có vẻ duy Thiên?”. Câu hỏi có ý phê bình rằng Đạo Công Giáo chỉ đặt nặng lòng trí mình về Thiên Chúa, một vị Thần Cao cả xa xôi tận trời cao mà không lưu tâm đến con người, đến xã hội trần thế mà mình đang sống. Đã có những phê bình như vậy, như nói rằng: “Người Kitô hữu sống cam chịu để được hưởng thiên đàng mai sau”.
Nói như vậy là chưa đi sâu vào giáo huấn của Kitô giáo. Ngay trong bài Tin Mừng hôm nay, chưa kể đến nhiều giáo huấn khác tương tự, sự “yêu mến” Thiên Chúa phải được thể hiện qua việc thực hiện các giới răn, như Chúa Giêsu dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).
Mà giữ các “Giới răn” của Thiên Chúa, cũng chính là giữ luật bác ái yêu thương. Nghĩa là, khi sống bác ái yêu thương tha nhân thì chính lúc ấy ta yên mến Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu đã “yêu mến” loài người chúng ta hết lòng hết dạ, hết sức đến nỗi đã chịu đóng đinh trên thập gía cho đến chết. Ngài đã chết vì yêu nhân loại tội lỗi và đồng thời cũng tỏ lộ tình yêu đối với Thiên Chúa Cha, là hết lòng hết dạ, hết sức.
Đạo nào cũng tốt, nhưng không có đạo nào lại thể hiện và giúp con người thể hiện được tình yêu hay cái tốt đến mức tuyệt hảo như đạo Công Giáo, vì tình yêu này được chứng thực nơi thập giá của Đức Kitô; vì không có đạo nào lại liên kết mật thiết giữa tình yêu giữa tình yêu đồng loại và tình yêu đối với Đấng Thần Linh Cao cả. Và, chính tình yêu này phát sinh ra hạnh phúc chân thật, vĩnh viễn muôn đời.
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu tuyên bố Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ cho anh em một “Đấng Bảo Trợ” và “không để anh em mồ côi” và “Ngài ở trong các con”. Hơn nữa là sẽ được “Cha Ta yêu mến”. Để được điều đó đòi hỏi phải có hai điều kiện cần là “yêu mến” và “tuân giữ” các điều răn của Thầy. Hôm nay ta lại thấy rõ đặc điểm trong Tin Mừng Gioan mời gọi con người đi vào tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu trọn hảo làm phát sinh hiệu quả:
- Nhờ tình yêu mà con người được Đấng Bào Chữa.
Danh từ “Đấng Bầu Chữa”, do tiếng Hy Lạp là “Paracletos” chỉ người được mời đến bên cạnh bị cáo, để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự, giống như trạng sư được mời đến để bầu chữa. Khi Chúa Giêsu nói đến “Đấng Bầu Chữa khác”, nghĩa là sẽ có hai Đấng Phù Trợ luôn nâng đỡ và không bao giờ để cho chúng ta mồ côi. Nhất là khi gặp những người buồn phiền lo sợ thử thách trong cuộc sống, chúng ta không bao giờ cô đơn, vì có Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn và ban sức mạnh cho ta.
- Nhờ tình yêu con người không bị mồ côi.
Đức Giêsu đã quả quyết với các tông đồ trước khi ra đi “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi”. Câu nói đó ngầm hiểu sẽ có Ngài ở bên khi không có Ngài. Nghĩa là người sẽ trở lại không phải trong thân xác này, nhưng là thân xác sau khi Phục Sinh. Chắc chắc lúc đó các tông đồ không thể hiểu được lời Đức Giêsu, chỉ khi được ánh sáng Phục Sinh chiếu soi thì họ mới hiểu rõ: Thầy mình đã đi thật, thế gian không còn thấy Người nữa, vì Người đã chết theo xác thịt; nhưng Người đã trở lại với các môn đệ trong những lần tỏ mình ra. Và nhất là sau khi được lãnh nhận Thần Khí, họ cảm thấy như Người đang ở gần họ, Hơn thế, ta thấy thời Giáo Hội sơ khai đã trải qua bao bắt bớ thử thách, phải sống trong gông cùm xiềng xích, sống trong cảnh đầu rơi máu chảy dưới tay bạo chúa. Nhưng “Thân thể Chúa Kitô” vẫn sống và phát triển mạnh mẽ, vì luôn có “Đầu” là Đức Kitô bên cạnh. Điều này giúp ta luôn xác tín Ngài luôn ở với ta, và trong ta cả khi ta không thấy Ngài.
- Nhờ tình yêu con người được tình yêu.
Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc của một người là biết yêu và được yêu. Qua câu nói của Đức Giêsu như kết quả của tình yêu cao cả “Ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến,và Thầy sẽ yêu nó và sẽ tỏ mình ra cho nó”. Nhưng một sai lầm thường gặp của con người là cứ ngỡ mình được Chúa yêu đó là công trạng của mình, nhưng thực ra không phải. Vì khi ta chưa yêu Ngài hay thậm chí khi còn mang tội thì Ngài đã đã yêu ta và yêu từ ngàn xưa rồi. Chúng ta biết yêu chính là nhờ ơn ban như không của Ngài. Một tình yêu có sự liên đới hiệp thông như Chúa Cha đã yêu Chúa Con thế nào thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, vì tình yêu Chúa Ban Ngôi hiện diện trong ta, trong gia đình và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm thấy hoan lạc và bình an can đảm dấn thân mang tình yêu Ba Ngôi ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào mang có tình yêu Ba Ngôi, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạn, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen ghét… Chỉ khi nào tất cả mọi người đều được lãnh nhận tình yêu Ba Ngôi khi đó cộng đoàn, gia đình mới có tình yêu Chúa Kitô, chỉ khi nào cộng đoàn gia đình có tình yêu Chúa Kitô thì cộng đoàn gia đình mới là cộng đoàn đúng nghĩa; sinh động đầy sức sống và hiệp thông, vì cộng đoàn đó biết yêu như chính Chúa đã yêu.
Lạy Chúa, chỉ có tình yêu mới giúp cho con người xoá bỏ được hận thù, chỉ có tình yêu mới làm cho đất nước được hoà bình, con người được ấm no, và có tình yêu đó mới làm cho con người được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, vì Chúa là tình yêu. Amen.
33. Một cuộc đàm thoại liên hệ đến chúng ta
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này được trích từ một đoạn dài Phúc Âm theo thánh Gioan, chương 13 đến 17, được gọi là diễn từ trong bữa Tiệc Ly. Thánh Gioan thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ trong khoảng một vài giờ trước khi chịu nạn. Một không khí thân ái mật thiết ở cường độ phi thường đã khiến đoạn Phúc Âm này thành 1 trong những bài văn tuyệt mỹ. Điều khiến chúng ta lưu ý hơn hết là giá trị, một sứ điệp liên quan đến chúng ta, vì chúng ta quả hiện diện trong tâm tưởng Chúa Giêsu khi Ngài nói chuyện với các môn đồ. Những điều Ngài nói về sự liên kết giữa họ với nhau, về việc gặp gỡ Chúa Cha, về việc Chúa Thánh Thần đến, tất cả trực tiếp liên hệ đến chúng ta và bắt chúng ta tỏ thái độ. Mỗi câu đều đáng dừng lại suy niệm. Hãy để mỗi người tìm ra câu đáp ứng, nguyện vọng và ơn nhận được. Ở đây, người ta ghi nhận các ý sau:
1) Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các giới răn Ta.
Mạch văn toàn thể Phúc Âm thánh Gioan cho chúng ta biết hai giới răn (mà thực chỉ là một) là kính mến Thiên Chúa như cha và yêu mến mọi người như anh em. Chính cho các môn đệ của tình yêu ấy mà Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha để họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng bầu chữa, vị trạng sư, Đấng trợ lực. Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ không còn hiện diện với các ông trong hình thể khả giác và vật lý như những ngày chung sống. Nhưng Ngài sẽ không bỏ các ông, Ngài sẽ hiện diện bằng một cách sâu kín hơn trước đặc biệt bằng Thần Khí của Ngài. Thần Khí sẽ bảo vệ, trợ lực, gìn giữ họ. Cả với chúng ta là những khi không được biết Chúa Giêsu trong lịch sử. Hôm nay chúng ta cũng được nghe dạy rằng, Chúa Thánh Thần trợ lực và gìn giữ chúng ta. Chúng ta có nghĩ rằng Lời Chúa phán ở một thời nhất định có giá trị sống động hiện thời đối với chúng ta hay không?
2) Thánh Thần… mà thế gian không thể lãnh nhận.
Chữ “thế gian” ở đây phải hiểu theo nghĩa chung các quyền lực phản nghịch Thiên Chúa và Đấng Kitô của Ngài. Tinh thần thế gian này chính yếu là một tâm trạng bất ổn; một không khí nhiễm độc vì sai lầm và ngu dại vì kiêu ngạo thâm căn và tự mãn ngây ngô, một khuynh hướng tâm lý và tinh thần khép kín con người tại chính mình. Thế gian ấy không tin được cả đến việc có thể có thần tính của Đức Kitô, và do đó có thể có việc Chúa Thánh Thần đến. Đàng khác, Chúa Giêsu Ngài cầu xin Cha Ngài gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nghĩa là gìn giữ chúng ta hôm nay đây.
3) Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến.
Chúng ta gặp lại ở đây một trong những chân lý căn bản thường được diễn tả trong Tân Ước nhất, trình bày một cách dễ lưu ý. Tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu, cấu tạo tương quan của chúng ta với Chúa Cha. Tuân theo các giới răn của Chúa Giêsu, tức là tuân theo Chúa Cha, cầu khấn với Chúa Giêsu là cầu khấn với Chúa Cha; ca tụng tôn vinh Chúa Giêsu, nhìn nhận trong thán phục và vui mừng địa vị của Ngài tức là ca tụng tôn vinh Thiên Chúa; tin tưởng nơi Chúa Giêsu là tin tưởng nơi Chúa Cha. Các con sẽ chịu gian nan, nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian (Ga 16,33).
34. Suy niệm của Lm. Antôn Pađua Trần Liên Sơn
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Đức Giêsu Kitô, là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy, là vâng lời.
Đó chính là bí quyết Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta thử hình dung cảnh tượng chia ly vĩnh biệt giữa những người thân trong gia đình, kẻ đi người ở: nếu người phải ra đi là người có trách nhiệm trong gia đình đó, thì họ sẽ làm gì, nói gì để có thể an tâm ra đi trước những lo lắng xao xuyến của những người thân còn ở lại?
Toàn bộ Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đặt ta trong một khung cảnh tương tự. Với khung cảnh chuẩn bị cho sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu trong Lễ Thăng Thiên, Giáo Hội cho ta nghe bài Tin Mừng của Thánh Gioan, nói đến lời hứa của Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ một khi Ngài từ giã các ông, để chính Chúa Thánh Thần tiếp tục nâng đỡ các ông và Giáo Hội trong hành trình giữa thế gian, và biến đổi họ nên những chứng nhân của Đức Kitô, Đấng đã phục Sinh (bài đọc 1&2).
Đặt mình vào tâm trạng của các tông đồ trong bữa tiệc ly, khi phải đối diện với sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu, có lẽ ta gặp được ở đó nỗi hoang mang, lo lắng trước một tương lai xem ra vô định, nỗi băn khoăn xao xuyến vì khoảng trống vắng sự hiện diện thường xuyên của vị Thầy. Thấy được tất cả tâm trạng đó của họ, Chúa Giêsu đã an ủi và trăn trối với họ:”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần khí sự thật,…” (Ga 14, 15-17a).
Đấng Bầu Chữa khác, Đấng là Thần khí sự thật, đó chính là Chúa Thánh Thần ngôi Ba. Người được hứa ban và gửi đến cho các tông đồ ngay liền với sự ra đi của Chúa Giêsu. Và từ đó, một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được mở ra, để khai mở một sự hiện diện mới của Thiên Chúa. Sự thật, Thiên Chúa không ngừng hiện diện giữa nhân loại. Trong Cựu ước, Người đã hiện diện bằng lời quyền năng của Người. Đến thời Tân ước, Người đã hiện diện bằng chính Ngôi Lời trở thành xác phàm, và bây giờ Người tiếp tục hiện diện bằng Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác, là Thánh Thần Chân lý.
Trước hết, Chúa Thánh Thần được giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác. KHÁC, vì chính Chúa Giêsu đã là Đấng bầu chữa, và hôm nay Ngài vẫn tiếp tục chức năng đó bên Tòa Thiên Chúa Cha. Trước khi từ biệt các tông đồ ra đi, Chúa Giêsu đã hứa gửi đến cho họ một Đấng bầu chữa khác để nâng đỡ, trợ giúp và biện hộ cho họ giữa lòng thế gian, và để biến họ thành chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh.
Chẳng phải vô tình mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chọn bài đọc 1 trong sách CVTĐ, vốn là bài tường thuật việc dân Samari trở lại đón nhận niềm tin vào Chúa Giêsu. Lúc ấy, Hội thánh ở Giêrusalem đã phải trải qua những cơn bách hại nặng nề, các kitô hữu phải tản mác về các vùng quê. Trong một hoàn cảnh tương tự, lẽ ra người ta chỉ còn biết than van và khóc lóc. Ấy thế mà chính những bước đi phiêu bạt đó lại đã trở thành những bước đi gieo rắc Tin Mừng, chính cảnh ly tán ấy lại là thời cơ thuận tiện để thu họp muôn dân. Và cũng chính nhờ cơ hội đó, dân Samari ngoại đạo đã được nghe nói về Chúa Giêsu và tin vào Người. Được như thế là vì ẩn khuất trong những bước đi phiêu bạt mà thế gian áp đặt bằng quyền lực của nó, lại vẫn luôn hiện diện bước đi linh diệu của Chúa Thánh Thần với vai trò nâng đỡ, trợ giúp, bàu chữa những người môn đệ của Đức Kitô.
Chúa Thánh Thần còn được gọi là Thánh Thần CHÂN LÝ. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất đã gọi Thánh Thần là Chân lý. Đấng an ủi, Đấng Bầu chữa liên kết với Chân Lý. Gọi là Thánh Thần Chân Lý vì chính Ngài là Đấng dẫn đưa các môn đệ vào tất cả sự thật, nghiã là đưa các ông đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, vì sự Thật ấy chính là Chúa Giêsu, như chính Người đã nói trước mặt Philatô:”Sự Thật chính là Ta”. Mầu nhiệm ấy, thế gian đã không đón nhận, vì đối với họ, tất cả cũng chỉ là điên rồ và khờ dại (x. 1Co 1,23). Và ngay cả các tông đồ cũng không hoàn toàn lĩnh hội mầu nhiệm ấy. Chính vì thế, trước biến cố khổ nạn thập giá, các ông chỉ nghĩ đến chuyện chạy trốn, hoang mang và thất vọng. Nhưng một khi Chúa Thánh Thần đã được gửi đến cho các ông, lúc đó các ông mới nắm bắt được tất cả sự thật, và hiểu được tất cả vinh quang của Thập giá Đức Kitô, để rồi từ đó, dám gắn bó hơn với sự thật đó, dám hiến cả cuộc đời mình để làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại.
Anh chị em thân mến,
Ngày hôm nay chúng ta đang sống chính tâm trạng của các tông đồ lúc Chúa Giêsu sắp từ biệt họ. Cũng như các tông đồ xưa, tự sức chúng ta, chúng ta cũng không hiểu được tất cả mầu nhiệm của thập giá Đức kitô. Tâm trí chúng ta vẫn còn bị đóng khung trong những cái nhìn rất hạn hẹp: chúng ta khó lòng tin nhận mầu nhiệm Chúa Giêsu, chúng ta không xác tín vinh quang của Thập giá trong chính cuộc sống của chúng ta. Và như thế một cuộc xét xử mà các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu vẫn phải luôn ra hầu toà là cuộc xét xử chân lý, và thực sự đó là cuộc xét xử chính Thiên Chúa, với nhiều hình thức tố cáo khác nhau: đó có thể là những phiền nhiễu đủ loại, những cảnh bắt bớ, cấm cách, đó cũng có thể là những tuyên truyền vô tín hay những dửng dưng thanh thản, những chế nhạo tinh tế, mà đó cũng có thể là những hình thức lôi kéo, cuốn hút người môn đệ của Đức Kitô vào trong những gì là hưởng thụ, vật chất và tục hóa.
Thì cũng ngày hôm nay, chúng ta phải luôn xác tín rằng cũng một Chúa Thánh Thần đang tác động trong ta, đang tiếp tục nâng đỡ, bầu chữa và hướng dẫn ta vào tất cả sự thật của Mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Chính Chúa Thánh Thần đang dẫn đưa tâm hồn mỗi người chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, để rồi càng thấm nhuần, chúng ta càng có khả năng làm chứng về Người, sẵn sàng đáp trả cho bất cứ ai tra vấn về niềm tin và niềm hi vọng chúng ta đang ấp ủ, qua chính cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác phục vụ của chúng ta.
Sứ mạng ấy quả là cao cả, nhưng cũng không thiếu khó khăn và trở ngại khi chúng ta phải làm chứng cho Chúa Kitô giữa một thế gian được xem là thù nghịch với mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô, nhưng nhất là khi toà án tra tấn Đức Kitô lại được dựng nên ngay trong chính cuộc sống và trong lòng của mỗi người chúng ta, mà ở đó người kết án buộc tội chết cho Đức Kitô không ai khác hơn lại là chính chúng ta. Đó là những khi chúng ta đã để cho những ích kỷ của chúng ta giết chết tình yêu, những khi chúng ta chọn những tiện nghi nho nhỏ của chúng ta thay vì chọn phục vụ Thiên Chúa, đó cũng là những lúc chúng ta đã để cho những ươn hèn lười biếng nơi chúng ta bóp chết tất cả mọi nhuệ khí của yêu thương và phục vụ, khi chúng ta an tâm với một cuộc sống hưởng thụ, khi chúng ta thờ ơ với những khao khát sự thật nơi các tâm hồn.
Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và sự hiện diện mới mẻ của Đức Kitô. Điều quan trọng là mỗi người trong chúng ta luôn biết sẵn sàng lắng nghe những lời chỉ bảo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để từ đó, với việc tuân giữ những điều Chúa truyền dạy, chúng ta luôn khám phá và tìm thấy sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, như một ngọn lửa đang soi sáng và sưởi ấm cuộc sống đều đặn và tầm thường của chúng ta, như một sức sống không hề cạn giữa những mệt mỏi và nghi nan của cuộc đời chứng tá của chúng ta.
Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn đức tin và yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.
Các điều răn Chúa nói là gì? và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chặt, đó là bản Giao Ước được ghi vào bia đá. Bản Giao Ước đó chính là Mười Điều Răn, mà dân Do Thái gọi là “Những lời của Giao Ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến: mến Chúa yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.
Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm lấy áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan toà truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.
Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẫn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau”.
Tình thương không chia sẻ, không liên đời là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”, hay “Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để tỏ lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:
- Nếu tôi chữa cho anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
- Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:
- Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?
Thưa anh chị em, yêu mến Chúa là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa? trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Trước hết, yêu là thấy. Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”. Thực thì ngay trong cuộc sống của xã hội con người, chúng ta cũng có thể gặp những trường hợp một người đã ra đi một chuyến đi xa, nhưng những người còn ở lại vẫn cảm thấy người đó như đang hiện diện ở đâu đây, thật gần gũi, nơi từng sự vật, trong từng căn phòng, nơi mỗi lối đi. Chính tình yêu, sự quen thuộc, sự cảm thông đã tạo nên cái điều lạ lùng này. Giữa những người thân yêu, sự vắng mặt không tạo nên sự xa cách: “Xa mặt mà không cách lòng”. Vì vậy, Đức Giêsu đã nói: “Thế gian sẽ không thấy Thầy, còn anh em, anh em sẽ được thấy Thầy”. “Cái thấy” Chúa Giêsu muốn nói ở đây không còn là cái thấy ngang qua cặp mắt của thân xác; cái thấy ấy có những giới hạn nhất định, ở ngoài tầm nhìn thì không thấy được nữa. Còn “cái thấy” ở đây là cái thấy bằng con tim, bằng sự cảm nhận, bằng sự hoà nhập. Tình yêu làm cho người xa cách trở nên gần gũi. Vì yêu mến Thầy, các môn đệ vẫn cảm thấy Thầy hiện diện ở khắp nơi.
Nguyên trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu lặp lại đến năm lần từ “yêu mến”. Yêu mến trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy, giữa môn đệ và Thiên Chúa Cha. Yêu mến đưa đến sự hoà nhập: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” và “Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em thấy Thầy”.
Thì ra, trái tim cũng có “cặp mắt” của nó. Cặp mắt của trái tim thấy được những cái mà cặp mắt thể xác không thể thấy được. Chính cái thấy bằng cặp mắt của trái tim sẽ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của một người Kitô hữu và của cộng đoàn. Có yêu mến Chúa, chúng ta mới thấy được sự hiện diện thân thiết của Chúa ở giữa chúng ta.
Yêu còn là tuân giữ: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy. Tình yêu sẽ dẫn tới hành động. Không có hành động, tình yêu chỉ là giả dối. Hành động mới là bằng chứng của tình yêu đích thực. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là người yêu mến Thầy”. Nói rằng: “Tôi yêu mến Chúa” thì ai cũng có thể nói được. Nhưng nếu không tuân giữ các giới răn của Chúa thì những lời nói đó chỉ là những lời nói dối.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.
Nhưng các giới răn của Chúa là gì, thưa anh chị em?
Các giới răn của Chúa là chính Chúa Giêsu với các giáo huấn, với những chọn lựa của Ngài. Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu trở thành mẫu mực cho cuộc sống của người Kitô hữu. Giữ các giới răn ở đây là biến đổi chính con người của mình để có thể trung tín với Chúa trong cuộc sống. Như thế, giữ các giới răn là sống trong tình yêu của Chúa.
Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim. Tình yêu làm cho cuộc sống đầy sức sáng tạo và năng động. Chính cuộc sống tích cực và đầy sức sáng tạo này mới thực sự là một bằng chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chết nhưng đã sống lại và đang tiếp tục hoạt động nơi những kẻ tin ở Ngài, và là bằng chứng của lòng tin nơi sự hiện diện sống động của Ngài. Chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.
37. Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)
Biết rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy truyền… là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Kế đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giêsu lặp lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.”
Qua những lời trên, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.
Đó cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến, xin hãy cùng khấn nguyện với nhau: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Ga 14:15-21 Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công…
SUY NIỆM
Mỗi buổi sáng cầm tờ báo có lẽ người đọc nhận được nhiều nỗi muộn phiền hơn là niềm vui và hy vọng, bởi trang báo ngập tràn những tin tức về mối hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân, tai nạn giao thông, cướp bóc, bất công, lừa lọc, ức hiếp, buôn lậu, tham nhũng, về các tệ nạn xã hội , nạn ấu dâm…. Có nghĩa là một xã hội in đậm hình ảnh của bóng tối, nơi đó vắng bóng ánh sáng được thắp lên bởi tình yêu Thiên Chúa, điều mà thế gian không thể đón nhận bởi thế gian không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.
Qủa thật, khi tình yêu Thiên Chúa nhập thể đi vào đời, thì thế gian đã tìm cách tiêu diệt. Hêrôđê đã ra sức loại trừ khi ra “giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh” (Mt 2, 16); Và khi Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công, đón nhận người bất hạnh, đem tin yêu đến cho những người nghèo khó, thì thế gian lại tỏ ra phẫn nộ cương quyết loại trừ, các thượng tế và thủ lãnh của dân Do Thái không chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, họ đã bắt nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (x. Lc 24, 20). Và khi loại trừ Tình yêu, thì đương nhiên hận thù xuất hiện, loại trừ Đấng ban sự sống, thì thế lực của sự chết sẽ hiện diện.
Càng ngày con người càng đối diện với bao nỗi sợ hãi giết chóc, đó là hậu quả của việc thế gian không đón nhận Đức Kitô, Lời yêu thương của Thiên Chúa. Lời đã đi vào trần gian bằng quyền năng sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa, chính Ngài là tác nhân của sự sống và an bìn, bởi Ngài là nguồn mạch của Tình yêu Thiên Chúa. Vì thế gian khước từ Đức Kitô, nên thế gian cũng không thể nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa, và vì vậy thế gian không thể lãnh hội được sự sống mà Chúa Kitô mang đến.
Chúng ta, những Kitô hữu đã được Chúa trao ban sự sống qua Bí tích Rửa tội, cho nên chúng ta cũng đã nhận được Thần Khí của Ngài, nhờ vậy chúng ta được dẫn đưa vào miền đất của sự sống và hạnh phúc. Thế nhưng, để được ở lại trong vùng đất này, từng người Kitô hữu được đòi hỏi phải thể hiện tình yêu đối với Chúa qua việc tuân giữ các giới răn của Người. Những giới răn đó không là ách nặng nề sơ cứng, nhưng đó là chất xúc tác làm cho những người thuộc về Chúa Kitô liên kết với nhau thành một Thân Thể sống động. Bởi giới răn Chúa không được viết bằng chữ nhưng bằng Thần Khí được tỏ lộ nơi Đức Giêsu Kitô. Do đó đã là Kitô hữu, cũng phải được hiểu đó là những con người có Thần Khí Thiên Chúa, tức là những con người luôn loại trừ bóng tối của hận thù, ghanh ghét, tham lam và tiếp tục tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa đến với mọi người như Chúa Kitô đã tỏ bày.
Lạy Chúa, Chúa đã đặt để Thần Khí Chúa trong chúng con, xin cho chúng con luôn ngoan ngoãn bước theo sự chỉ vẽ của Thần Khí Chúa, để chúng con đạt tới sự sống đời đời. Amen.
39. Thần Khí hướng dẫn – Lm. Jos. Quốc Phong
“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”
Tất cả mọi người chúng ta hẳn đã có kinh nghiệm ít nhiều về cuộc sống, và mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm và sự đau khổ và mất mát. Sự đau khổ có thể đến từ nhiều con đường khác nhau: có thể từ gia đình, trường học, sở làm việc, và có thể đến từ chính nội tâm chúng ta. Tất cả những sự đau khổ và cùng cực đó làm cho trái tim chúng ta đau đớn, làm cho cuộc sống chúng ta cảm thấy bất hạnh, làm cho tương lai của chúng ta mù mịt, khiến những bước đi trong hiện tại trở nên nặng nề, và đôi khi trái tim đau đến nghẹn thở… nó làm chúng ta cảm thấy sợ hãi và căng thẳng, lo lắng và bất an…
Có một anh chàng cử nhân nọ, sau khi tốt nghiệp và cầm trên tay một mảnh bằng ngon lành với một chút tự hào và hạnh phúc. Anh càng tự hào hơn khi anh nghĩ rằng mình từ bỏ danh vọng để dấn thân đi theo Chúa trên con đường thánh hiến. Cuộc sống ơn gọi của anh trong những năm đầu rất thuận lợi, tất cả dường như đi theo đúng kế hoạch và chỉ tiêu do anh ta suy nghĩ và phác thảo, như thể sự vận hành của một cỗ máy cho ra sản phẩm đúng như bản vẽ. Nhưng một ngày nào đó, một số vấn đề đã xảy ra, những kế hoạch bị đảo lộn, và không còn vận hành theo ý của anh được nữa, thậm chí anh đã thất bại, và thất bại rất thảm hại. Và đã có lúc anh đã muốn bỏ cuộc vì không thể chấp nhận nổi chính mình. Tất cả các chương trình và kế hoạch của anh ta dường như tan tành theo mây khói, không có chi cứu nổi. Anh tự suy nghĩ phương pháp để sửa chữa thì nó càng sai lầm và bế tắc. Anh đã vô cùng đau khổ và khủng hoảng…
Sau đó anh cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều, ngày này sang ngày kia, tháng này qua tháng nọ, ròng rã trong suốt 2 năm trời … anh mới nhận ra được một chút ánh sáng. Một trong những sai lầm của anh là đã dựa vào mình quá nhiều, đã tin tưởng vào khả năng của mình, vào những kế hoạch do ý muốn của riêng mình. Đời sống cầu nguyện của anh đó là gần gũi với Chúa để xin Chúa chúc lành và giúp đỡ để kế hoạch của anh ta được toại nguyện, “kế hoạch nên thánh” của anh. Sau khi bị khủng hoảng, anh mới hiểu ra rằng, anh phải thay đổi lại cách thế suy nghĩ, và nhất là thay đổi lại tương quan với Thiên Chúa. Anh phải lắng nghe và nhận ra được kế hoạch mà Chúa muốn mời gọi anh, và việc anh phải làm là dấn thân vào kế hoạch của Ngài: “Xin cho Ý của Cha được nên trọn”. Sau khi đã chết đi cho chính mình, chết đi cho một tinh thần cũ, anh đã được phục sinh, bắt đầu lại một cuộc sống mới, một bước đường mới với một ánh sáng mới “xin cho Ý của Cha được thể hiện”.
Lương thực thật sự làm cho chúng ta sống và sống dồi dào, không phải là một đời sống vật chất sung túc, cũng không phải là một đầu óc thông minh sáng tạo có khả năng chế tạo hay phát minh ra những điều mới mẻ, cũng không phải là một sự tổ chức, quản lý chặt chẽ, …lương thực thật sự có khả năng làm cho chúng ta sống hạnh phúc, mang lại cho chúng ta một đại dương của sự bình an đó chính là được đụng chạm đến “Thiên Chúa”, được ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu đã phán rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn của Thầy. Và thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Điều kiện mà Chúa Gesu đã đưa ra là “hãy giữ giới răn của Thầy” thì Thầy sẽ ở người ấy, Thầy sẽ yêu người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Giới răn của Thầy chính là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Hãy sống yêu thương trong sự thật, sống trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta sẽ đụng chạm và ở lại trong tình thương của Ngài. Trích sách tông đồ công vụ, thánh Philipphê đầy tràn Thánh Thần đi xuống sứ Samaria để rao giảng Đức Kitô và làm nhiều phép lạ. Có Thần Khí ở cùng, thánh Phipipphê đã thực sự sống và sống sung mãn. Chính sức sống mãnh liệt đó làm cho ngài có khả năng lướt thắng hết mọi thách đố và khó khăn, để rao giảng một niềm vui to lớn đến nỗi không thể nào không loan truyền cho mọi người. Trong bài đọc hai, Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi của chúng ta, Ngài đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Thần Khí của Thiên Chúa là nguồn mạnh của sự sống, Đấng làm cho chúng ta sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa chính là nguồn mạch của sự sống và sự sống đời đời. Chỉ có ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì chúng ta mới có được sự sống thật sự. Những gì thế gian chào mời chúng ta bằng những sự quảng cáo đủ màu sắc và nhiều lời hứa ngon ngọt, không có khả năng đem lại cho chúng ta một sự sống thật sự trong chân lý và trong an bình. Những gì của thế gian chỉ có thể đáp ứng để thỏa mãn những cơn đói bên ngoài. Hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự can đảm để chúng ta có đủ sức mạnh lột bỏ hết các tất cả các mặt nạ, các bức tường đã ngăn cản và che đi “khuôn mặt thật” của chúng ta, đó là khuôn mặt giống Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Chân Lý Vĩnh Cửu mới có khả năng thỏa mãn cơn đói tinh thần, cơn đói linh hồn vĩnh cửu của chúng ta, vì Ngài chính là Đấng Tạo Hóa, là Nguồn Mạch Bình An vĩnh cửu.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nổ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con. Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…
Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi đi thật xa về cùng Chúa Cha, Ngài đã chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ. Ngài đã dặn dò, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài đã nói với các môn đệ với hết tâm tình, hết con tim của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12); “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14, 15); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21).
- “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi ta yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài ” Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
- “Anh em có lòng yêu thương nhau”
Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.
Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.
Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói: “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.
Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép:”Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
Mỗi khi đi tham dự đám tang của một người cha, hay của một người mẹ trẻ vừa mới nằm xưống, nhìn giải khăn xô buộc hờ hững trên mái đầu xanh, chúng ta cảm động như muốn khóc lên được. Đứa bé ngây thơ nhìn những nắm đất được ném xuống lòng huyệt lạnh. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó đâu có biết rằng chết là ra đi vĩnh viễn, hai bờ bến ngàn trùng xa cách. Nó tưởng rằng ba nó hay mẹ nó đi thăm ông bà nội ngoại, mai mốt sẽ về và cho nó thật nhiều quà. Người khác nhìn vào sẽ cảm thấy chua xót và khóc thầm cho cuộc đời của nó. Ngày mai nó sẽ ra sao? Lớn lên, nó mới hiểu được rằng: mất cha, mất mẹ là một nỗi bất hạnh quá lớn không thể lalm cho vơi giảm, là một mất mát quá to không thể nào bù đắp.
Vì thế, người Âu châu có một ngày lễ rất đẹp vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, đó là là ngày lễ của những người mẹ. Ngày lễ này được tổ chức để ghi nhớ công ơn mẹ hiền. Và những ai còn mẹ, khi đi ra ngoài đường sẽ được cài một bông hồng trên áo, để nói lên rằng người ấy thật hạnh phúc vì còn được sống bên người mẹ của mình.
Nếu có dịp ghé thăm một cô nhi viện, chúng ta sẽ thấy những em bé mồ côi quấn quít bên chúng ta, mong muốn được nói chuyện với chúng ta vì các em thiếu vắng một tình yêu thương chăm sóc.
Từ những kinh nghiệm cụ thể ấy, chúng ta dễ dàng hiểu được lời Chúa phán:
– Thầy không bỏ các con mồ côi.
Thực vậy. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông, đã căn dặn các ông những điều cuối cùng và nhất là đã trăn trối cho các ông bổn phận phải yêu thương nhau. Ngài đã phác họa cho các ông thấy cả một tương lai đen tối:
– Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.
Tuy nhiên, để các ông được yên tâm, không hoảng sợ, không thất vọng, Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông và nhất là đã hứa ở với các ông một cách mầu nhiệm:
– Thầy không bỏ các con mồ côi.
Bây giờ, chúng ta đi vào lãnh vực cá nhân của mỗi người. Thực vậy, đời sống giống như một mặt biển đầy bão táp. Vậy bão táp ấy là gì? Đó là những tội lỗi, những khuynh hướng xấu xa, những lo lắng về tiền bạc vật chất… Tất cả là như những con sóng mốn nhận chìm con người bé bỏng chúng ta. Thế nhưng, người Kitô hữu không hề hoảng sợ và thất vọng, bởi vì chúng ta không chiến đấu đơn độc một mình, nhưng chúng ta chiến đấu bên cạnh những người anh em khác và nhất là chúng ta chiến đấu cùng với Chúa Giêsu. Ngài luôn ở bên chúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ làm được tất cả. Có Ngài, chúng ta sẽ vượt qua được mọi gian nan thử thách. Có Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng vẻ vang. Chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi, lạc lõng giữa chợ đời, nhưng chúng ta bước đi trong tình thương của Chúa, một người Cha nhân từ và giàu lòng xót thương.
Người ta kể lại rằng: Sau nghi lễ đăng quang, Đức Piô XI đã trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế vị tiền nhiệm là Đức Bênêdictô XV, tự nhiên một nỗi lo âu xâm chiếm. Ngài nhìn thấy con đường trước mặt thật tăm tối: Một Giáo hội bị tấn công về mọi mặt. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng chiếc ngòi nổ vẫn còn âm ỉ. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, đó là quì xuống cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện như thế, tay ngài đưa ra và chạm vào một bức ảnh còn lại trên bàn giấy của đức Bênêdictô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và bổng nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, ngài luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi lo âu chuyện gì, ngài liền nhìn vào và nhớ lại rằng: Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là sóng yên biển lặng.
Chúa Giêsu ở trong chúng ta và Ngài đã mang lại sự bình an cho tâm hồn. Bởi đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Ngài và nài xin: Lạy Chúa, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất. Chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta mồ côi, nhưng Ngài sẽ nâng đỡ để chúng ta vượt thắng được những gian nan thử thách và luôn trung thành phụng sự Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG ANH EM
Tin mừng Ga 15:18-21 Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều quí giá…
Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: ”Hãy hành động vì lòng mến”.
Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến:
”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”.
Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều quí giá cho phép chúng ta tin rằng chúng ta đang yêu mến Chúa.
Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là một tình yêu luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình thương mến, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm tự nhiên của con người.
Có câu chuyện kể rằng:
Một người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ?
Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên xảy ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ.
Tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ điều gì mẹ muốn. Thế nên, dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.[1]
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ.
Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công gầy dựng có thể sẽ lụi tắt. Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ, Chúa Giêsu nhắn nhủ họ những lời tâm huyết:
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 33-35)
Điều cốt yếu trong giới răn của Chúa đã được chính Chúa Giêsu xác định rõ ràng như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12:34). Ngài còn xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Như vậy, câu nói của Ngài “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”.
Nói khác đi, ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa.
Nói cách khác nữa, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa.
Thánh Gioan đã diễn giải điều này rõ hơn nữa:
“Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Lạy Cha, qua bài Tin Mừng hôm nay, con nhận ra rằng để được Chúa yêu mến, thì phải tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Giêsu.
Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình, những người cùng làm việc với con trong xưởng thợ, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp hằng ngày.
Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
——————-
[1] Câu chuyện của Lm. Trần Ngà, CN 6A PS
43. Có Chúa, chúng ta không bao giờ mồ côi
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Có một người giáo dân nói với Tôi thế này: thưa cha, con đến một cha nọ để xin lễ cho các linh hồn mồ côi? Cha ấy nói làm gì có linh hồn mồ côi mà xin. Con nghe thấy mà ấm ức, con nghĩ các linh hồn mồ côi là các người tín hữu hay những người lương chết mà không ai cầu nguyện hay xin lễ cho, thì họ là kẻ mồ côi chứ gì nữa? Tôi bèn nói với chị ấy rằng chị ơi, ông cha đó nói đúng đó. Chị nói rằng các người chết không ai cầu nguyện và xin lễ là mồ côi chứ gì! Suy nghĩ của chị và rất nhiều người khác đồng ý quan niệm rằng người sống và người chết đều có cảnh mô côi vì chị và rất nhiều chịu ảnh hưởng phong tục anh em lương dân rồi. Phong tục đó như thế này: “Tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời, hoặc đầu thai kiếp khác (làm người hoặc vật), hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống. Tuy nhiên, dân gian cũng tin rằng, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không được hoặc chưa được cõi nào tiếp nhận, thì phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống”. Vì tin như thế nên có việc cúng cô hồn, việc cúng này muốn để “cứu giúp” những linh hồn khốn khổ. Nhưng đồng thời, cúng cô hồn cũng có thể là một hình thức “hối lộ” để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ “hỗ trợ” (trích http://www.phongthuyvuong.com/phong-thuy-ung-dung/nghi-le/508-cung-co-hon.html).
Còn Công Giáo chúng ta không có ai qua đời mà phải mồ côi, không ai cứu, cầu nguyện, dâng lễ cho cả. Chúa cứu chứ sao không ai được! Vì chưng, Thứ nhất Lời Chúa trong Sách Ngôn Sứ Isaia dạy rằng: “Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng ĐỨC CHÚA đặt cho” (Is 62,2). Thứ hai, Thiên Chúa xuống thế làm người, Chúa Giêsu Kitô đã nói: “Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,39). Và trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phục sinh đã khẳng định với chúng ta: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (Ga 14,16-19). “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,10). Như vậy, Thiên Chúa thương và cứu hết mọi người, không trừ một ai bất kể lương giáo; Ngài cũng không để ai phải lang thang côi cút hay cô độc một mình cả.
Còn đối với Hội Thánh, Hội Thánh chúng ta không lúc nào cũng cầu nguyện cho mọi người còn sống hay đã qua đời. Cụ thể, từng giây, từng phút và từng giờ, Thánh Lễ luôn được cử hành Thánh lễ 24/24 khắp nơi trên trái đất này. Trong Thánh Lễ, chúng ta luôn cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”. “Chúng con nài xin Chúa thương xót tất cả chúng con, cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, các Thánh Tông Ðồ, và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng con được ca ngợi và tôn vinh Chúa, nhờ Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa” (Kinh Tạ Ơn II). Rồi lúc nào người giáo dân đọc kinh nguyện riêng mà lại không đọc cầu này để kết thúc giờ kinh của mình: “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho Các Đẳng Linh Hồn được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”. “Các đẳng linh hồn” đây chính là những người thân thuộc và toàn thể mọi người trên trần thế này đã qua đời. Và rồi, trong lời nguyện của Giờ Kinh Chiều mỗi ngày của giờ Kinh Phụng Vụ, các bậc tu trì hay giáo dân luôn cầu cho mọi người qua đời.
Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn ở với con người chúng ta, Ngài không bỏ loài người dù loài người có bỏ Ngài. Cụ thể, thời Cựu ước, với ông Giôsuê, Ngài phán: “Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi”. Với Maisen, Ngài nói: “Ta luôn ở với ngươi”. Vào thời Tân ước, với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: “Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Và đây, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã không tin Thiên Chúa thực sự hiện diện bên chúng ta và trong chúng ta. Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, thử thách hay đau khổ, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, lúc nào Chúa cũng ở gần chúng ta hơn bao giờ hết và nói rằng: “Thầy đây đừng sợ, hãy can đảm lên, ơn Thầy luôn đủ cho con”. Sở dĩ chúng ta không nhận ra Chúa là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không có Ngài và rồi chẳng chạy đến xin Ngài phù trợ qua việc tham dự hay cử hành các Bí Tích đem lại bình an và sức sống của Chúa.
Chúng ta hãy sự kiện các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêria, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.
Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên đường đời có những chông gai, những khúc quanh, những mất mát người thân yêu của chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta và tất cả mọi người, sống chết đều có nhau. Và một khi đã có Chúa ở với chúng ta, đi với chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ cô đơn hay mồ côi và có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và nguồn bình an trong cuộc sống đời này và đời sau. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta xác tín rằng có Chúa là có tất cả vì vậy chúng ta hãy siêng năng đến với Chúa qua việc đọc kinh sáng tối hay tham dự cử hành các Bí tích để được Chúa ở cùng vì có Chúa chúng ta sẽ không bao giờ mồ môi. Allêluia.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay nói: “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy”. Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà thế gian thì không thấy Chúa còn chúng ta lại thấy Chúa là sao nhỉ? Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi không còn hiện hữu nữa. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự, chẳng hạn một người đã chết, nhưng những người sống vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi cho nên mới có “câu Bác Hồ sống mãi mãi trong sự nghiệp chúng ta, hay Hồ Chí Minh muôn năm”. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nhưng bà thấy từng sự vật, căn phòng, lối đi của con như đang sống bên bà. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm, cái thấy tuy xa mà lại gần như thế?
Tôi xin thưa chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt, chết thân xác nhưng linh hồn sống mãi mà hồn thì tinh anh, chỉ có mắt đức tin, con mắt tình yêu mới thấy người thân của mình đang ở bên mình mãi mãi dù thân xác đã xa cách vì thế với bài thơ “Từ ấy”, nhà thơ Tố Hữu viết rằng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim. Hồn tôi là một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng chim… Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với trăm nơi. Để hồn tôi với bao hồn khổ. Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Tôi đã là con của vạn nhà. Là em của vạn kiếp phôi pha”.
Cho nên, Chúa Giêsu nói “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy”. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến, nhờ yêu mến mà mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha trở nên gần gũi. Và hơn thế nữa, chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Vì thế, thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp mối quan hệ mật thiết giữa chúng ta với sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh với cuộc đời của mỗi người Kitô hữu thật gần gũi, thân thương và trìu mến điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy cho nên, trong bài hát Chầu Thánh Thể chúng ta thường hát rằng mắt không thể thấy nhưng lòng vững tin.
Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu đó là trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự sau lại yêu người như minh ta vậy. Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta và mọi người xung quanh chúng ta.
Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống vĩnh cửu của chúng ta mai này. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Cho nên chỉ khi bắt đầu ra khỏi chính mình để sống mến Chúa và yêu người là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo an toàn hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo, bệnh dịch… cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô phục sinh, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ, hy sinh và sẻ chia tinh thần cũng như vật chất trong tình yêu Thiên Chúa và mọi người. Alleluia.
Có lần đi shopping sắm đồ, tôi quan sát được câu chuyện về một bà mẹ và đứa bé trai của bà trong cửa tiệm tạp hóa. Bé trai theo mẹ đi chọn lựa hàng hóa, gặp thấy bất kỳ món đồ nào, nó cũng với lên lấy xuống, lôi ra khỏi kệ, làm rơi rớt tung tóe. Lúc đầu, người mẹ cầm chặt tay đứa bé lại, rồi nhẹ nhàng nói: “Đừng làm như thế nghe con!” Nó ngoan ngoãn đáp lại: “Dạ vâng!”
Nhưng được một lúc, nó lại nghịch. Người mẹ vẫn kiên nhẫn dạy con: “Đừng làm như thế nữa nghe con!” Nó lại hứa: “Dạ vâng!” Sau đó một lúc, nó lại làm y như thế. Bà mẹ cầm chặt lấy tay nó, nhìn thẳng vào mặt, dùng ngón tay trỏ chỉ vào giữa trán, và nói bằng một giọng nghiêm khắc: “Đừng làm như thế nữa nghe chưa?” Em bé biết rằng không thể tiếp tục làm như vậy được nữa. Nó nhìn thẳng vào mẹ với cái miệng mếu mếu và những giọt nước mắt lưng tròng: “Mẹ, con thương mẹ mà”. Bà mẹ mỉm cười rồi nói “Nếu con thương mẹ, tại sao con không nghe lời mẹ?” Em bé im lặng, chẳng nói tiếng nào.
Sự liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa cũng giống như sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ. Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”.
Nói đến bản chất của tình yêu đích thực làm tôi nhớ đến chàng thanh niên tôi đã gặp khi vừa thụ phong linh mục. Anh có một người vợ rất dễ thương, ba đứa con thật ngộ nghĩnh. Mới gặp họ ở cuối nhà thờ sau thánh lễ tạ ơn, tôi cứ tưởng họ là một gia đình hạnh phúc với nếp sống đạo đức. Tôi cảm thấy rất thoải mái chuyện trò với họ. Rồi họ mời tôi ghé thăm gia đình vài lần. Một bữa nọ, một mình người chồng đến gặp tôi và nói: “Cha ơi! Con đang tính bỏ vợ con”.
Vừa nghe những lời đó, tôi hoảng hốt, hỏi anh lý do tại sao muốn bỏ vợ: Có đánh nhau không? Vợ hay chồng có người yêu khác? Vấn đề tiền bạc? Vấn đề sinh lý? Chuyện gia đình cha mẹ hai bên? Nghiện ngập thuốc phiện, xì ke, nhậu nhẹt, bài bạc casino… hay vấn đề gì?
Người chồng trả lời “Không có vấn đề gì cả!” “Thế tại sao muốn bỏ vợ?” Tôi hỏi. “Con cũng chẳng biết nữa”, anh đáp “con chỉ đoán là con không còn cảm thấy yêu thương vợ con như khi xưa!”
Vào thập niên 70, xã hội Tây phương bắt đầu tiếp nhận một quan niệm cho rằng nếu phải làm một điều gì mà không cảm thấy thích hay muốn làm, đều là giả hình. Cảm giác thích thú và sự ước muốn là động lực cho mọi hành động. “Nếu cảm thấy vui vẻ, thoải mái, cứ làm”. Những câu hỏi: “How are you? How do you feel?” “Bạn cảm thấy thế nào?” đã trở nên khuôn mẫu trong cuộc đàm thoại hằng ngày.
Cách suy nghĩ theo cảm giác bắt nguồn từ triết gia người Đức, Nietzsche, người đã coi “Ước muốn” là căn bản tối thượng của thực tại. Năm 1973, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc phá thai có thể được hiểu trong quan niệm này. Họ lý luận rằng ngay cả việc giết chết một em bé chưa sinh ra cũng được phép miễn là người mẹ lựa chọn một cách tự do theo ý muốn của mình!
Tôi không muốn lý sự với anh bạn này. Tốt hơn, tôi hỏi anh: “Anh có nghĩ rằng một ngày nào đó anh sẽ không còn yêu thương con cái của anh nữa không?” Bàng hoàng, anh trả lời ngay: “Không. Không bao giờ có chuyện đó. Con sẽ luôn luôn yêu thương con cái của con, bất kể trong hoàn cảnh nào”. Rồi tôi hứa sẽ cầu nguyện cho anh, cho vợ anh và gia đình.
Hai năm sau, tôi gặp lại gia đình anh. Dĩ nhiên là họ vẫn còn chung sống với nhau. Tôi không biết họ có thật sự hạnh phúc không, nhưng tôi biết rõ họ lại có thêm một người con nữa!
Đọc Thánh Kinh, tôi thấy rất rõ ràng rằng tình yêu mà Chúa Giêsu đề cập đến không phải là một cảm tính, hay một cảm xúc nhất thời, nhưng là một hành động, một quyết định. Frederick Buechner đề cập đến vấn đề này trong một bài viết của ông như sau:
“Theo quan điểm Kitô giáo, tình yêu không phải là một cảm xúc lúc ban đầu, nhưng là một hành động của ý chí. Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương những người hàng xóm của mình, Người không nói chúng ta phải yêu thương họ trong ý nghĩa của một tình cảm đầy xúc động và ấm áp… Trái lại, Người nói với chúng ta phải yêu thương tha nhân trong nỗ lực làm việc vì ích lợi của họ, ngay cả việc phải hy sinh lợi ích của chính mình cho họ. Do đó, trong mạch văn của Chúa Giêsu, chúng ta có thể yêu những người hàng xóm mà không cần thiết phải có cảm giác thích họ. Quả vậy, thích họ bằng cảm tính có thể làm cản trở cho việc yêu thương thực sự bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con người quá ủy mị về tình cảm thay vì là những người bạn thành thật và hợp lý”.
Ca dao Việt Nam có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Mẹ và bà quá chiều con cháu theo tình cảm tự nhiên, không sửa phạt đúng cách, thấy con cháu có lỗi chỉ la rầy sơ sơ, sửa phạt nhè nhẹ, không giảng dạy và sửa phạt đúng cách theo lý trí. Đã thế khi con cháu bị người cha sửa phạt, mẹ và bà lại tìm cách van xin, che giấu bớt lỗi lầm. Do đó, con cháu đã hư lại càng hư thêm. Yêu thương theo cảm tình đã không phải là sự yêu thương đích thực và mang lại ích lợi cho con cái.
Khi Chúa Giêsu sửa dạy những người biệt phái, Người đã không nói: “Được! Mọi sự đều tốt đẹp!” Nhưng đã nặng lời quở trách: “Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được?” Chúa nặng lời chỉ trích họ vì Người yêu thương họ.
Điều này không có nghĩa là cảm giác ưa thích không phải là một phần của hành vi yêu thương, tôi chỉ muốn nói nó không bắt buộc phải có. Đôi khi cảm giác yêu thích sẽ theo đến, sau khi đã có những sửa phạt và sự chữa lành của tình yêu đích thực.
Điều Chúa Giêsu dạy ta hôm nay là: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy”. Lời dạy xem ra nghe không êm tai mấy, bởi vì giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc với nhau. Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái, trong khi đó các giới răn, các luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Thánh Augustinô cũng đã nói: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Nói như thế có nghĩa là trong tình yêu thì không cần lề luật gì nữa. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. Điều này xem ra không ổn.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có thể nói: Yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Chẳng hạn:
– Vâng phục cha mẹ là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ.
– Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm áo cho con cái, chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình là một tỏ bày tình yêu con cái của những bậc làm cha mẹ.
– Không ngoại tình, không phản bội là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.
– Chính Chúa Giêsu cũng đã thể hiện tình yêu đối với Chúa Cha qua việc thi hành mọi sự theo ý muốn của Cha.
Và mọi mối liên hệ yêu thương khác cũng thế. Chỉ yêu trong lòng mà thôi thì chưa đủ, nếu không muốn nói đó chưa phải là yêu mến thật sự.
Do đó, lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người. Phải chăng chủ trương đạo tại tâm lại chẳng phản ảnh việc chối từ thực thi giới răn của Thiên Chúa đó sao?
Chúa Giêsu cũng biết những khó khăn và ngại ngùng ấy của ta. Chính vì vậy, Người đã hứa ban cho ta Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ở với chúng ta, sẽ trợ lực, sẽ ban sức mạnh để giúp ta sống và thực thi những điều Người đã dạy ta. Chúa Thánh Thần đã đến với ta ngày ta lãnh nhận bí tích Rửa tội và đặc biệt qua bí tích Thêm sức. Người vẫn còn ở với ta để hướng dẫn và nâng đỡ ta trong suốt cuộc đời. Chỉ có điều là ta có đón nhận sự hiện diện, sự nâng đỡ, có lắng nghe sự hướng dẫn của Người hay không mà thôi.
Câu chuyện kể về một cha sở mới, khi về nhận nhiệm sở, với bài giảng đầu tiên làm cho họ đạo hồi hộp và thích thú. Chúa nhật tuần sau, bổn đạo đi lễ mong chờ cha sở mới giảng dạy thêm những điều khác, ai ngờ ngài lại nói y như bài giảng tuần trước. Vào tuần lễ thứ ba, rồi Chúa nhật thứ tư, ngài cũng đã giảng y như vậy, bổn đạo hết sức buồn bã. Sau cùng, một buổi họp hội đồng giáo xứ đã được triệu tập để xin cha sở cắt nghĩa về thái độ lạ lùng của ngài. Giáo dân hỏi: “Bộ cha chỉ có một bài giảng đó thôi sao?” Ngài trả lời: “Không. Tôi có vài bài giảng, và tôi cũng còn đang soạn thêm. Nhưng vì quí ông bà vẫn chưa thi hành điều nào trong bài thứ nhất cả, nên tôi vẫn phải nhắc lại cho đến khi những lời giảng đó được thi hành”.
Bài Phúc âm hôm nay, gồm những câu trích từ bài giã biệt dài của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Người bị bắt và chịu chết. Người hứa: “Nếu các con nhân danh Thầy mà xin điều gì, chính Thầy sẽ làm điều đó”. Với điều kiện: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Đang khi dạy về luật yêu thương, Chúa Giêsu đã chứng tỏ hành vi tối thượng của tình yêu: ban chính mình Người một cách hoàn toàn, tất cả và vô điều kiện cho nhân loại. Và Người cũng ra lệnh cho mỗi người: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Tình yêu này phải được chứng tỏ bằng hành động, phải thật sự hiến thân để đi theo Người. Bởi Người đã trở thành khuôn mẫu của sự thánh thiện của chúng ta.
Cách đây không lâu, một bác sĩ giải phẫu người Mỹ đã vâng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, yêu thương tha nhân bằng cách ban tặng chính bản thân mình cho họ. Ông đã trở nên một nhà truyền giáo phục vụ trong ngành y khoa. Từ bỏ quê hương, ông đi tới một hòn đảo xa xôi trên biển Thái Bình dương, nơi dân chúng sống nghèo khổ, bệnh tật vì thiếu thuốc. Sau một thời gian, để tạo sự bất ngờ cho bác sĩ, vị mục sư ở Mỹ đã đến thăm ông mà không báo trước. Khi mục sư đến, ông bác sĩ đang sửa soạn giải phẫu cặp mắt của một em bé gái 8 tuổi. Vị mục sư đã quan sát cuộc giải phải xảy ra qua cái cửa sổ của một căn chòi nhỏ. Sau ba giờ đồng hồ, bác sĩ đi ra khỏi phòng mổ và nói: “Đôi mắt của cô bé rất tốt. Em sẽ mau khỏi bệnh”. Rồi ông đi ra gặp mục sư của mình. Khi bàn về cuộc giải phẫu vừa mới xảy ra, mục sư hỏi: “Ông sẽ được trả bao nhiêu tiền cho cuộc giải phẫu đó nếu ông giải phẫu ở Mỹ?” “Chừng 3000 đô la, tôi đoán như vậy”, bác sĩ trả lời. “Vậy ở đây người ta trả ông bao nhiêu?” mục sư hỏi. “Tôi không biết nữa, chỉ vài xu và nụ cười của Thiên Chúa” ông bác sĩ nói. Rồi đặt tay lên vai mục sư, ông lay nhẹ và nói, “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”
Món quà tình yêu của Thiên Chúa ban nhưng không cho ta qua Đức Giêsu Kitô, mặc dù là vô giá, nhưng không phải là không có điều kiện. Giống như tất cả các loại tình yêu, Tình Yêu Thiên Chúa cũng có những đòi hỏi. Và một trong những đòi hỏi nặng nề nhất của Người, một đòi hỏi thường xuyên, đó là chia sẻ tình yêu thương đó cho tha nhân. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”, chúng ta sẽ có được cái cảm giác hoan lạc giống như vị bác sĩ: “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.
Các điều răn Chúa nói gì? Và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chật, đó là bản giao ước được ghi vào bia đá. Bản giao ước đó chính là Mười Điều răn, mà dân Do thái gọi là “Những lời của giao ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến “ Mến Chúa, yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.
Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan tòa truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh ta, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.
Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẩn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau”.
Tình thương không chia sẻ, không liên đới là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”. Hay “Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
(Death is Death)
Một người cha có một cô con gái duy nhất 17 tuổi. Cô gái trẻ tuổi này đang là chuẩn bị vào đại học. Hai cha con họ rất thân tình với nhau, và họ bắt đầu cảm thấy sự đau đớn khi sắp phải chia lìa nhau. Người cha nhận thấy rằng ông không còn có thể tiếp tục ở bên cạnh người con yêu dấu của ông để khuyên bảo, nâng đỡ, và bảo vệ cho cô. Bất ngờ, con ông bước vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Đối với ông, cái chết của người con ông là một chuyện “khó có thể chấp nhận”. Sau khi người con gái của ông đã qua đi, ông ta khóc rất nhiều. Thế nhưng, trong sự đau khổ tột độ đó, người cha đó đã biết dùng đức tin của mình để thắng vượt. Ông nói rằng khi ông sống với niềm tin Kitô giáo, thì ông có thể sống tích cực hơn, và ông còn nhận ra một điều quan trọng nữa là nhờ đức tin soi dẫn, sự chết không phải là hết, nhưng nó là cánh cửa dẫn đến sự sống.
Câu truyện trên là một điển hình diễn tả điều mà Chúa Giêsu nói cho chúng ta trong bài Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay. Phúc Âm của Thánh Gioan được chia ra làm hai phần. Phần đầu bắt đầu với câu truyện Tiệc Cưới Cana. Thánh Gioan đã kể cho chúng ta một loạt những phép lạ Phục Sinh vĩ đại mà Chúa Giêsu đã làm. Qua phép lạ Chúa Giêsu biến nước thành rượu tại Cana, Chúa Giêsu nói cho chúng ta rằng Thiên Chúa đang biển đổi: nước thành rượu, sự chết thành sự sống, đau khổ thành vinh quang, bệnh tật thành khỏe mạnh. Phép lạ cả thể sau cùng là Chúa Giêsu đã cho Lazarô sống lại. Ngài đã phán, “Ta là sự sống lại và là Sự Sống.” Còn phần thứ hai của Phúc Âm Thánh Gioan thì nhấn mạnh về tình thương của Chúa qua cái chết và sự Phục sinh của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy nhìn vào thế giới thiên nhiên chung quanh chúng ta. Chúng ta nhìn thấy gì? Chúng ta nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa vẫn còn hoạt động trong sự chết và sự sống. Có rất nhiều triết thuyết về sự sống. Theo như thuyết Tiến Hoá, thì con người mỗi ngày đi dần đến chỗ tốt hơn. Còn theo triết Đông Phương, thì con người phải đầu thai cho đến khi nào đạt tới niết bàn. Còn theo triết thuyết của Chúa Giêsu thì thế giới thiên nhiên, lịch sử, trái đất, mỗi một con người, thì đang trong một tiến trình chết đi và sống lại. Thiên Chúa hiện diện trong mỗi cái chết, thế nhưng Ngài cũng không ngừng biến đổi chết thành cái sống.
Chúng ta thường thấy những bài thơ ca tụng những nhân vật kết thúc cuộc đời của họ cách vui vẻ. Tuy nhiên, theo cả bốn Phúc Âm, Chúa Giêsu đã không chết một cách vui vẻ. Ngài đã nói đến mỗi đau khổ trong tâm hồn của Ngài trong vườn Gethsemane. Ngài đã chịu bị bỏ rơi và phản bội. Ngài đã chịu bị đóng đinh… Bởi thế, chúng ta cần phải thâm tín một điều theo như Tân Ước nói đó là sự chết là sự chết: sự đau khổ, lo sợ, lo lắng… tất cả là sự thật. Tuy nhiên, Tân Ước cũng nói với chúng ta hãy ca tụng Chúa bởi vì quyền năng phục sinh của Ngài đang hiện diện trong mỗi một cái chết. Hãy ca tụng Chúa bởi vì mỗi lần chúng ta phải đương đầu với đau khổ thì chúng ta càng gần Thiên Chúa hơn nữa. Thiên Chúa đang yêu thương bạn, và Ngài đang mở ra cho bạn cuộc sống mới. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta là “Thầy sẽ không bỏ chúng con mồ côi. Thầy đến cùng các con. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống” (Jn 14:18-19).
Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với sáu thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “Bạn giúp Bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có ba người Công giáo, riêng nữ tu Trần thị Kim Loan, dòng Da minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh tẩy với một đức tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.
Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha, và Thầy ở trong anh em”. Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống”. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.
Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.
Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.
Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống nước trời.
Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới.
51. Dọn lòng đón nhận Thánh Thần
Sách Tông đồ Công vụ là cuốn Kinh thánh kể lại hoạt động của các Tông đồ sau khi Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc I hôm nay cho thấy các hoạt động của Phi-líp-phê, Phê-rô và Gioan tại niềm đất Samaria, ngoài ranh giới Giêrusalem và Giuđêa. Như vậy, rõ ràng cuốn sách mang đúng tên người ta đặt cho. Việc rao giảng Chúa sống lại ở Samaria có phần khác với trong đất thuần Do thái, bởi Samaria vẫn bị người Do thái chính thống coi là không bao giờ được dự phần vào ơn cứu rỗi. Nhưng ba nhà truyền giáo Phi-líp-phê, Phê-rô và Gioan đã chia sẻ với họ ơn Chúa sống lại. Bằng lời nói và hành động, các ông đã làm chứng Chúa Giê-su vẫn còn đang sống và hoạt động cùng với các ông. Thực tế, họ đang làm công việc mà Chúa đã thực hiện trước khi Người chịu đóng đinh. Đó là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, kẻ què đi được, người mù thấy được, xua trừ thần ô uế, cho những kẻ phong cùi được sạch. Tóm lại, các ông thi ân giáng phúc cho những ai bất hạnh trong xã hội như Chúa Giê-su đã từng làm khi Người còn đi lại trên đất Palestin. Bài đọc cố tình bỏ qua chi tiết ông Simon phù thuỷ vì lý do phụng vụ. Chi tiết này quan trọng bởi nó cho thấy tính ngay thẳng, bất vụ lợi trong việc phục vụ Thiên Chúa: “Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền bạc mà mua ân huệ của Thiên Chúa chăng?” (8, 29) Liệu ngày nay chúng ta có được tinh thần thẳng thắn như Phêrô không? Hay cũng huờ theo thói tục thế gian, bắt chước Simon phù thuỷ mà cầu cạnh ân huệ Thiên Chúa bằng bổng lộc tiền tài? Nếu vậy, xin cũng noi gương Simon mà ăn năn sám hối: “Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”
Tuy nhiên, cuốn sách không nguyên tập trung vào các Tông đồ. Chủ tâm chính yếu của thánh Lu-ca là bày tỏ sự hiện diện năng động của Chúa Thánh Thần qua sinh hoạt của các môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Thánh Linh làm tăng trưởng Giáo hội một cách ngoạn mục qua các Tông đồ. Vì vậy, thánh nhân luôn lưu tâm ghi nhớ số lượng tín hữu mà Hội thánh gặt hái trong quá trình rao giảng khắp nơi. Sự trở lại của cư dân Samaria chứng tỏ tính phổ quát của Giáo hội Chúa và sứ vụ mà Ngài trao cho Tông đồ đang được thực hiện tốt đẹp. Sứ vụ này kéo dài mãi đến hôm nay và tiếp tục tới tận cùng thời gian. Nó không thuộc về tính quốc gia, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay cấp bậc xã hội. ngược lại, bài đọc cho thấy, bất cứ người nào lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa đều là thành phần của Giáo hội, họ sẽ được Thần khí Chúa Giê-su chấp nhận qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Họ là thành viên đầy đủ của cộng đoàn mới, dân tư tế của Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Vậy thì, chúng ta hãnh diện và được an ủi khi tham dự các buổi phụng vụ. Vì chúng ta ôm ấp những thứ mà trên thế giới là nhân tố chia rẽ: Cấp bậc xã hội, kỳ thị màu da tiếng nói, giàu nghèo sang hèn, giới tính, tuổi tác, bệnh tật, tài năng, tiếng tăm,… Cho nên, chúng ta tự hỏi tình hình thực tế địa phương chúng ta nói lên điều chi? Có đúng Thần khí Chúa đang tụ họp tín hữu như thời các Tông đồ không? Câu trả lời là tính cực, khi nhìn vào tính đại đồng của cộng đoàn và những bí tích chúng ta nhận lãnh hằng ngày: Rửa tội, Thêm sức, Chữa lành bệnh nhân, rao giảng, Thánh thể,… Như vậy, sách Tông đồ công vụ là phúc âm của Chúa Thánh Thần và mỗi tín hữu chân chính là một sách Tin mừng mở ra, nhờ vào các hoạt động Ngài thực hiện nơi chúng ta. Dân ngoại sẽ nhận biết công việc của Ngài do đời sống Chúa Giê-su được trình bày nơi các tín hữu nhiệt thành. Họ sẽ được chào đón, nhập vào cộng đoàn những “kẻ được rửa tội nhân danh Đức Giê-su Ki-tô.” Nếu không hoặc cảm thấy như thành viên hạng hai thì lúc ấy, chúng ta đã rõ ràng thất bại, không hoạt động với Chúa Thánh Thần giống như Ngài đã thúc đẩy các Tông đồ rao giảng trên đất Samaria. Chúng ta xấu hổ, có lỗi với Hội thánh toàn cầu, phải thật lòng thống hối vì không làm tròn phận sự.
Thơ Phêrô được viết để an ủi giáo dân đang chịu bách hại khủng khiếp thời hoàng đế Domitian. (Thực ra, thánh Phêrô đã lãnh phúc tử đạo ở Rôma năm 64, thơ này viết khoảng năm 80-90 chỉ lấy danh hiệu và uy tín của ngài mà thôi). Nội dung thơ cho hay, đây không phải là cuộc bách hại tổng quát, nhưng chỉ có tính địa phương, do lòng thù ghét riêng tư; nói cách khác, do nếp sống thánh thiện của những kẻ tin vào Chúa Ki-tô, mà thiên hạ ganh ghét họ, đưa ra đàm tiếu và loại trừ. Xin nhớ lời hộ giáo của các thánh giáo phụ: “Nếu mang danh Ki-tô hữu là một tội, thì họ lấy chứng cớ nào mà bắt bớ các tín hữu?” Hay nói như tác giả thư thánh Phêrô: “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ngay thẳng trong Chúa Ki-tô thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống?” Mới đây, tôi có mặt trong một nhóm học hỏi Kinh thánh. Chúng tôi suy tư về đoạn Kinh thánh hôm nay, một thành viên buột miệng phát biểu về chữ “chịu khổ”. Anh nói thao thao bất tận về những thánh giá Chúa gửi cho chúng ta. Trong khi nghe, tôi trộm nghĩ: “Thiên Chúa ghê gớm thật, giáng hoạ trên con người, bắt con người phải chịu khổ.” Có phải đó là những thánh giá mà Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta gánh vác không? Thơ thánh Phêrô trả lời: “Chúng ta chịu khổ vì việc lành.” Đấy là thứ thánh giá các tín hữu vác hằng ngày để theo Chúa Giê-su. Mến Chúa yêu người, chúng ta phải trả giá. Những ai từ chối thánh giá, tìm kiếm sung sướng xác thịt không chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa. Họ giữ đạo bằng miệng lưỡi và là kẻ giả hình. Chúa chịu thương khó, bởi vì mang trong thận phận mình “gánh tội trần gian”. Nói cách khác, là thành phần nhân loại nên theo pháp lý, Ngài là tội nhân trước mặt Chúa Cha, do đó phải chịu hình phạt của pháp luật. Trái lại, chúng ta tìm cách trốn tránh gian khổ thì làm thế nào xứng đáng làm môn đệ Chúa Giê-su?
Cho nên, chúng ta chịu khổ vì việc lành, cũng như Chúa Giê-su chịu nạn vì tội lỗi nhân loại. Chúng ta phải sẵn sàng trả lẽ cho hy vọng của mình. Thay vì đối đầu với những sự dữ kẻ thù gây nên, chúng ta dồn tâm lực vào Chúa Giê-su, (Hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong linh hồn anh em) và giãi bày đức tin của mình hiền hoà cung kính, ngõ hầu thiên hạ nhận ra đức tin đó không phải của loài người mà là một ân huệ từ trời cao. Thời buổi ngày nay, các tranh cãi về tôn giáo dễ đưa đến những đổ vỡ, bên trong cũng như bên ngoài, nhiều khi là bạo lực, chiến tranh. Xem bản đồ thế giới, người ta phải rùng mình vì chia rẽ tôn giáo. Có lúc, những người cùng ngồi ghế nhà thờ lại là các đối thủ không đội trời chung vì ý kiến luân lý, đạo đức. Tuy nhiên, thư thánh Phêrô nhắc nhở: “Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” Kẻ bất lương đó chính là nhân loại. Cho nên, chúng ta được hưởng ân huệ hoà giải với Thiên Chúa là do Đức Giê-su Ki-tô.
Hôm nay, chúng ta mừng sự kiện hoà giải trong bí tích Thánh thể. Bí tích đem lại ơn lành đích thực qua hoạt động phá vỡ mọi bức tường ngăn cách của Chúa Thánh Thần. Vừa qua, tôi hân hạnh được một cha xứ lân cận mời giảng tĩnh tâm cho các giáo dân, nhân dịp mùa chay. Khi chờ đợi, tôi đứng nói chuyện với một người đàn ông ở phòng mặc áo. Chúng tôi đứng gần một giỏ đựng rác. Trong giỏ, đầy những tờ rơi dư thừa. Chúng bàn về mọi đề tài tôn giáo và nhiều ít liên quan đến đức tin. Thí dụ, ngừa thai, phá thai, nghiên cứu tế bào gốc, bệnh Alzheimer, đồng tính luyến ái, chết êm dịu, án tử hình, v. v. Chúng tôi bàn bạc sơ qua một vài đề tài. Người đàn ông bốc ra một nắm giấy, đưa tôi xem và nói: “Thưa cha, thời con còn học ở trung học cơ sở làm chi có những chuyện như thế này.” Đúng vậy, nhưng bây giờ, chúng ta phải đối mặt với chúng trong cuộc sống hằng ngày. Người tín hữu không thể tránh né. Ngược lại, nên chấp nhận và bàn bạc với những người khác, bất cứ ai, để làm cho vấn đề được sáng tỏ, nhân lo.
Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay là: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy”. Lời dạy của Chúa Giêsu xem ra không êm tai mấy. Hình như giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc nhau. Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt. Tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái… Trong khi lề luật, các giới răn lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do, nhưng nhờ lề luật & tình yêu chúng ta mới biết đường dẫn tới hạnh phúc.
Nhìn vào đời sống thường ngày chúng ta sẽ thấy được: Có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó kiểm chứng. Có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Chẳng hạn, vâng lời cha mẹ là cách diễn tả tự nhiên lòng hiếu thảo và yêu mến của con cái. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Chúa hơn hết, chính là yêu mến và tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Do đó, lòng yêu mến Chúa thật sự đòi hỏi ta giữ các điều răn của Chúa cũng là điều rất tự nhiên.
Như vậy khi suy nghĩ kỹ ta sẽ thấy lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý. Có thể nói: yêu mến và giữ lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Và cũng thiếu sức sống khi giữ luật mà không có tình yêu. Không thể thiếu một trong hai. Không thể có tình yêu mà không có dấu hiệu gì được diễn tả ra bên ngoài.
Nếu đời sống chỉ có tình yêu mơ hồ, không được định hướng sẽ dẫn đến lối sống hoàn toàn dựa trên sở thích, cảm tính nhất thời. Ngược lại, đời sống sẽ trở nên nặng nề, máy móc nếu ta chỉ có cố gắng để vác cho xong cái ách lề luật. Một người trong tù cũng đang giữ luật, nhưng anh ta phải giữ luật trong đau khổ và nước mắt. Nhiều khi chính ta cũng đang tự giam mình trong một ngục tù vô hình của lề luật. Hoặc ta đang giữ luật trong sự kiêu ngạo như một Pharisêu. Tất cả những cách giữ luật đó không phải là điều Chúa Giêsu mong muốn.
Ta hãy nhìn vào gương thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ngài chu toàn mọi bổn phận cách thật hoàn hảo. Dù quét nhà, dù giặt dủ, dù làm vườn, dù dọn áo lễ, thánh nữ làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa. Ngài thường nói: “Hãy nhìn hạt sương buổi sáng. Hạt sương tầm thường chẳng có giá trị gì. Nhưng khi ánh nắng mặt trời chiếu vào, hạt sương toả sáng lóng lánh như hạt ngọc quí giá. Những việc chúng ta làm chỉ là những hạt sương tầm thường. Nhưng tình yêu là ánh sáng mặt trời làm cho những việc tầm thường trở nên giá trị”. Việc giữ luật của chúng ta sẽ là tầm thường, nặng nề nếu không xuất phát từ tình yêu.
Còn Thánh Phanxicô Atsidi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với ngài rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa và giữ giới răn của Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: “Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không?”. Người hành khất trả lời: “Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài”. Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: “Đó anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh lại không yêu mến Chúa và sống theo lời dạy của Chúa sao?”. Thiết tưởng lời của thánh Phanxicô cũng phải là tâm tình ta phải có trong đời sống của mình. Đó là thực sự yêu mến và giữ giời răn của Chúa để ta có được sự sống và hạnh phúc đích thực. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Lượng)
Thiên Chúa thường nói với con người trong cách thế họ có thể lãnh hội được. Thời gian là yếu tố thật cần thiết để Chúa Kitô huấn luyện các Tông đồ của Ngài. Trường huấn luyện của Chúa lại ở ngay trên bước truyền giáo, nên Chúa thường chờ đợi lúc thuận tiện để huấn luyện môn đệ, cơ hội thuận tiện sẽ giúp các Tông đồ dễ lãnh nhận hội giáo lý của Chúa hơn. Và một khi giáo lý đó đã thấm sâu vào tâm trí họ, thì họ sẽ dễ thực hành việc rao truyền cho người khác.
Khi Chúa dạy các Tông đồ: “Ai có các lệnh truyền của Ta và giữ lấy, người ấy mới là kẻ yêu mến Ta, mà ai yêu mến Ta thì được Cha Ta yêu mến, và Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ mình ra cho nó”, Chúa muốn các Tông đồ hiểu mối tương quan giữa Ngài và môn đệ như mối thân tình giữa cha và con, thày và trò. Ngài không chấp nhận một lòng yêu mến hời hợi, căn cứ vào một vài hình thức, lễ nghi, giống như người học trò yêu mến thày, nhớ đến thày ngày giỗ, Tết, vài cánh thư, một vài món quà tặng nhau ngày kỷ niệm. Sự quan trọng của lòng yêu mến mà Chúa muốn thấy ở nơi môn đệ của Ngài: “Ai yêu mến Ta, sẽ giữ lời Ta.”Sống lời Chúa, làm theo lời Chúa chỉ dẫn để nên giống Chúa, đó mới là lý tưởng của người công giáo.
Người thày chân chính bao giờ cũng muốn truyền thông cho học trò cái tinh túy nhất của giáo lý của mình. Và còn hơn nữa họ mong chờ môn đệ ngoan ngoãn là người trọn đời cố gắng sức thực hành giáo huấn của thày.
Chúa đã đến trong trần gian, đem giáo lý từ trời xuống cho con người. Để thực hiện giấc mơ truyền bá giáo lý nhiệm mầu của mình, Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta mỗi người một sứ mệnh phải chu toàn, để người đời có thể nhìn thấy giáo lý của Chúa được thực hành trong đời sống của chúng ta mà nhận ra chính Thiên Chúa thượng trí là nguồn phát sinh giáo lý đó. Đây chính là giấc mơ Chúa ôm ấp kỳ vọng ở mỗi môn đệ, ở mỗi người tín hữu theo Chúa.
Càng sống Lời Chúa, chúng ta càng khám phá ra nét mặt dịu hiền của Chúa, tình thương, sự quan phòng và định mệnh mà Chúa an bài cho chúng ta. Nắm giữ giáo lý của Chúa tức là nắm giữ một tâm hồn bình an đích thực Chúa muốn để lại cho chúng ta qua Phúc âm hôm nay. Vì thế, sống lời Chúa là sống sự bình an của Chúa.
Chúa săn sóc và âu yếm những kẻ tin vào Ngài. Nhưng Ngài còn yêu thương những ai trọn đời chăm chuyên tuân giữ giới luật của Ngài.
54. Lòng anh em đừng xao xuyến …
Trước khi rời khỏi thế gian nay để về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến…”.
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phản bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Gioan 13,21-30).. rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Gioan 13,31-36)… sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần”, trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Gioan 13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn vô tư tưởng các môn đệ trong đời sống của chúng ta cũng thế có những giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đời sự ô nhiễm của môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra. Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xóa nhòa Đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!” chúng ta hãy đắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa… về bất cứ điều gì.
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: đức tin, sự bình an sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa một ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều Đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA… Hãy tin vào THẦY…”. Vậy thì Người là ai để nói như thế?
“Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
“ Phải, Đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể. Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể Đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phụng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng khác…và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng khác ấy, Đấng hoàn toàn khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha.
Như thế Đức Giêsu đối diện với cái chết của Ngài, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi Đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
“Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”
Đây là những lời dịu dàng không tả nổi: “Đem về với Thầy… trở lại…” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng hoàn toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất gần, thân thiết chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nổi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
“Hễ Thầy ở đâu, anh em cũng ở Đó”.
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở Đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban cho chúng ta mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa! Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở Đó con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa” người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”
“Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”
Đây là một điệp khúc: “Thầy đi…” “chúng con không biết Thầy đi đâu…”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? Ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?.
Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho cái hữu hạn và cho đặc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng.. nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối… ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai).. bây giờ, anh em biết: Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! Rõ ràng có một thứ hồ nghi, không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết…”. Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế có thể một ngày nào Đó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành trí thức, như lời Đức Gìêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người!”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: “Thời sau hết đã ở Đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào Đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào Đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung: Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời Người ở trong Chúa Cha và ai “thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha”. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa”, một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy…Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…”
Phải, đã có một con người là Giêsu Nadarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chần của mình và trên một miền đất xác định, đất Israen, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người.. một người sắp chết như mọi người… và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời Đó.. đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
“Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính người làm những việc của mình: Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người Đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người Đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.
Thiên đàng không phải là một sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải là một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua sự chua cay hiện tại Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc sống đời đời.
Một thiên đàng để bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào Đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào Đó cũng chính là cách sống của Đức Giêsu.
55. Ngôi Lời tỏ tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
Chung quanh chúng ta và ngay trong chúng ta, còn có rất nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhưng họ tin có Tình Yêu. Họ cũng đang yêu, đang khát khao được yêu. Họ đang sống nhờ tình yêu vợ chồng, cha mẹ, anh em, bạn hữu, và cả tình yêu tha nhân cộng đồng. Họ không thể thiếu tình yêu, nhưng họ chưa nhận ra Thiên Chúa vì họ vẫn cho rằng tình yêu trong mỗi con người là một khả năng tự nhiên, một nhu cầu tự nhiên. Họ không hiểu được cội nguồn siêu nhiên của tình yêu là Thiên Chúa, và có thể, họ đã thể hiện cách yêu tự nhiên ở một cấp độ dưới bản tính con người.
Kitô hữu công giáo được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diemx phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi.
Bài tin mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Giáo Hội đưa vào tin mừng phụng vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của tình yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Nội dung bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,15-16). Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại trong thế gian, và trong mỗi tâm hồn; sẽ làm cho Lời Chúa Kitô trở nên nguồn sống dồi dào và sống động cho giáo hội và cách riêng cho mỗi tâm hồn sẵn sàng đón nhận Ngài như Đấng Bảo Trợ cho ơn cứu rỗi của mình; sẽ làm cho chúng ta khi đón nhận Ngài, trở nên can đảm sống Lời Chúa Kitô và hiên ngang làm chứng cho Thiên Chúa. Vì “Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”(Ga 14,17). Ôi! Còn hạnh phúc nào bằng khi được sống trong tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu như Chúa Giêsu yêu, dưới ánh sáng của Thánh Thần, để dìm mình trong tình yêu Thiên Chúa Cha. Còn hạnh phúc nào bằng khi tình yêu của Chúa Giêsu vẫn luôn liên tục, không gián đoạn, mà còn dồi dào hơn và kéo dài cho đến ngày Người lại đến: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”(Ga 14,20-21).
Tình yêu của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa thật tha thiết và Ngài tỏ bày tình yêu ấy cách trọn vẹn chu đáo cho các tông đồ, cùng là cho mỗi chúng ta hôm nay. Mỗi người được mời gọi tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua việc Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người.
Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận thần khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người là yêu như Người đã yêu: Yêu thương người khác để người khác được sống và được sống lại
Nếu tình yêu của chúng ta là động lực để người khác sống được chỉ ở đời nầy mà thôi, thì ấy chưa phải là tình yêu của Chúa Giêsu. Việc bác ái đối với tha nhân nếu chỉ dừng lại ở việc xây cái nhà tình nghĩa, giúp đồng vốn vượt khó, giúp xóa nợ lâu năm… thì có thể nói, cũng chưa phải là việc bác ái Kitô giáo đúng nghĩa. Tình yêu Chúa Giêsu đòi hỏi vượt xa hơn thế nữa: yêu người để người được sống và được phục sinh. Vì thế, làm cho người khác có một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thánh thiện, cuộc sống phục sinh ngay ở đời nầy là tiêu chuẩn của tình yêu và việc bác ái mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện. Rất tiếc, ở những đất nước đang sống trong một nền giáo dục không Thiên Chúa, con người cũng có tình yêu, tình yêu cũng được giáo dục, nhưng là loại tình yêu tự nhiên dừng lại ở những gì cho nhau ở đời nầy, và hầu như không màng đến cái chung cuộc ở đời sau. Thế hệ trẻ được giáo dục yêu nhau như người lớn đã yêu, và đã chết, không cần biết đi về đâu, miễn là đã yêu và đã sống trong cuộc đời nầy thoải mái. Tình yêu ấy, cách yêu ấy không phải là cách yêu của Chúa Giêsu, vì không bắt nguồn từ Thiên Chúa và càng không thể nào dẫn đến sự tan hòa trong cội nguồn tình yêu là ba ngôi Thiên Chúa để tình yêu ấy sống, và sống mãi muôn đời.
Để gia đình được sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, vợ chồng không chỉ yêu thương tôn trọng chung thủy và lo lắng cho nhau sống hạnh phúc đời nầy; cha mẹ không chỉ hy sinh lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái chữ…mà còn lo cả nhà sum họp trên nước trời, về với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Yêu như Chúa Giêsu là làm cho người khác sống và sống lại. Giữa xã hội tôn thờ vật chất ngày nay, đây là một thách thức không nhỏ. Giữa nền giáo dục loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng trí con người, đây là một thách thức không nhỏ. Nhận định của ban giáo lý GP. Qui nhơn: “Không còn trường Công Giáo. Xuất thân từ trường nhà nước, các bạn trẻ từ 40 tuổi trở xuống đã được trang bị những cái nhìn về Thiên Chúa, về con người, về vũ trụ, về lịch sử, về xã hội và về cuộc sống rất khác với cái nhìn Kitô giáo” làm cho những người làm cha mẹ phải nghĩ đến vế thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu “yêu làm cho người khác phục sinh”. Người khác ấy chính là người bạn đời, con cái mình, trước tiên. Không chỉ người trẻ, mà có cả người lớn, cũng cần nhìn lại thực trạng đau lòng nầy: người ta cũng đang yêu, nhưng là tình yêu đưa nhau vào hố thẳm của tội lỗi, của sự chết ngàn thu; nhưng là tình yêu vun quén cho chính mình, cho tập đoàn mình, cho những người đồng tình, đồng phe, đồng đảng với mình những mối lợi mối mọt có thể gặm nhấm, những kho tàng không có sức phục sinh; nhưng là tình yêu thỏa mãn những thú tính…. Tình yêu phải là hoa quả của việc kết hiệp bản thân với Thiên Chúa, tiến đến việc giúp nhau nên thánh thiện nhờ việc tuân giữ toàn bộ Lời Chúa Giêsu trong tin mừng, để được chiếm hữu tình yêu ba ngôi Thiên Chúa, để được sum họp với nhau một nhà ở đời sau, ấy mới là tình yêu của một nền giáo dục Kitô Giáo, tình yêu mà Chúa Giêsu tha thiết dặn dò trên trang Tin Mừng hôm nay.
Trở lại với trào lưu có tình yêu mà không tin có Thiên Chúa, và qua những suy tư trên đây, chúng ta có thể thấy được một âm mưu của thế lực chống lại Thiên Chúa dùng chính tình yêu làm nhản hiệu cho một công cuộc thoái hóa, hoặc chống lại tình yêu đích thực. Sự rạn nứt nội tại nơi tâm hồn các tín hữu bắt nguồn từ tình yêu dành cho thế gian, vật chất nhiều hơn dành cho Thiên Chúa và dần dần lề luật của Thiên Chúa, lời dạy của Tin Mừng, bóng dáng của Thiên Chúa cũng mờ dần trong tâm trí họ-mờ dần rồi biến mất lúc nào không hay biết.
Vì thế, việc chân thành khao khát sống kết hiệp với Chúa Giêsu, giữ Lời Chúa dạy trong Tin Mừng làm mực thước, rước lấy Thánh Thể Chúa làm sức sống thiêng liêng mới là bảo đảm cho phần rỗi chúng ta và bảo đảm cho việc thực hiện các điều răn Chúa dạy, nhất là đức ái. Nói một cách khác, trước khi yêu người như Chúa muốn, hẳn chúng ta phải yêu Chúa để sống và yêu được như Chúa yêu, thì tình yêu cho đi, thì việc thực hiện các điều răn của Chúa mới thực mang lại cho chúng ta một giá trị cao cả: sống trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu mến Chúa Giêsu để nên thánh: chiếm hữu được Thiên Chúa. Tuân giữ điều răn Chúa: giúp cho người khác nên thánh, giúp cho người khác chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu không, hãy coi chừng tình yêu và việc bác ái của ta lại rơi vào kế hoạch của những giả dối, dẫn đến cái vô ích cho mình và cho tha nhân.
Lạy Chúa, chúng con thật diễm phúc được Chúa Giêsu dạy cho chúng con cách sống yêu, để cuộc đời chúng con nên một chuỗi ngày hạnh phúc vì khi sống yêu, là chúng con sống trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa chí ái. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người dạy để Lời Mạc Khải, Lời Tỏ Tình Thiên Chúa của Người không trở nên uổng phí cho phần rỗi chúng con. Amen.
Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời. “Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bày tỏ ra bằng sự vâng lời.” (Barett). Chúng ta biết có nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tình, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ. Với Chúa Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng sự vâng lời chân thật.
Nhưng Chúa Giêsu đã không bỏ mặc chúng ta chiến đấu một mình trong đời sống theo Ngài. Ngài sẽ sai một Đấng Giúp Đỡ đến. Bản Việt ngữ gọi là Đấng An Ủi. Khi khảo sát từ ngữ Paracletos này thật kỹ, chúng ta mới lãnh hội được phần nào tính cách phong phú về giáo lý về Chúa Thánh Thần.
Parakletos có nghĩa là một người được gọi đến, chính lý do tại sao, người đó được gọi đến khiến từ ngữ đó có ý nghĩa thật độc đáo. Người Hi lạp thường dùng chữ này theo nhiều nghĩa khác nhau. Có thể là một nhân chứng được tòa mời đến bênh vực cho người nào đó. Có thể là một trạng sư được gọi đến để biện hộ cho bị cáo nặng tội. Có thể là một chuyên viên được gọi đến để cho ý kiến về một trường hợp khó khăn. Chẳng hạn khi một đạo quân xuống tinh thần, người ấy được gọi đến để làm cho đội quân lên tinh thần, lấy lại can đảm. Paracletos luôn luôn là người được gọi đến để giúp đỡ trong lúc khó khăn, lúc cần. Có một thời dịch là Đấng An Ủi, từ này do nguyên ngữ La tinh fortis có nghĩa là dũng cảm: người yên ủi là người khiến kẻ mất tinh thần trở thành dũng cảm. Ngày nay, chữ yên ủi hầu như chỉ còn có nghĩa là làm cho khỏi đau buồn, người an ủi là người thông cảm khi ta có chuyện buồn khổ. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã làm công tác đó, nhưng giới hạn công tác của Ngài vào nhiệm vụ đó thôi, quả là đánh giá Ngài quá thấp một cách đáng buồn. Chúng ta vẫn thường nói đến khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh. Đó đúng là công tác của Chúa Thánh Thần, Ngài đến với chúng ta, cất đi mọi khuyết điểm, bất năng của chúng ta, giúp chúng ta đủ sức đối phó với cuộc sống. Chúa Thánh Thần thay thế đời sống thất bại của chúng ta bằng cuộc đời đắc thắng.
Vậy, Chúa Giêsu có ý nói: “Ta giao cho các ngươi một nhiệm vụ nặng nề, Ta sai các ngươi đi thi hành một công tác hết sức khó khăn, nhưng Ta cũng phái theo các ngươi một Đấng Paracletos để hướng dẫn các ngươi biết phải làm gì và giúp các ngươi thực hiện công tác ấy!”
Chúa Giêsu tiếp tục cho biết thế gian không nhận biết Thánh Thần. Chữ “thế gian” ở đây chỉ về những ai sống như không hề có Thiên Chúa. Điểm Chúa Giêsu muốn nói: chúng ta chỉ có thể thấy được điều mà chúng ta có khả năng nhìn thấy. Nhà thiên văn nhìn lên bầu trời sẽ thấy được nhiều điều hơn người thường. Nhìn vào bờ rào, nhà thảo mộc học tìm thấy những khác lạ của cỏ cây hơn một người chẳng biết tý gì về khoa thực vật. Bác sĩ nhìn con người thì khám phá được nhiều hơn một người không chuyên môn. Người am hiểu nghệ thuật nhìn vào bức tranh sẽ chiêm ngưỡng được nhiều hơn về đường nét tuyệt diệu. Người biết chút ít về âm nhạc nghe một bản giao hưởng sẽ thích thú hơn người chẳng biết âm nhạc. Những gì chúng ta trông thấy và từng trải luôn tùy thuộc vào nhãn quan và kinh nghiệm của chúng ta. Vậy người nào đã loại trừ Thiên Chúa sẽ chẳng có giây phút nào trong ngày để trông đợi được nghe Ngài. Người ấy sẽ nghĩ rằng dùng thời giờ như vậy là phí phạm. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhận được Chúa Thánh Thần đến nếu không yên lặng chờ đợi, cầu nguyện, trông mong Ngài đến với mình. Người thế gian rất bận rộn đến nỗi không dành một cơ hội nào để Chúa Thánh Thần có thể đến với họ. Thánh Thần chẳng phá cửa lòng ai bao giờ, Ngài chờ đợi để được tiếp rước. Vậy, suy nghĩ đến những điều kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm và đem đến cho đời sống, chắc chắn chúng ta sẽ dành nhiều thời giờ hơn giữa đời sống bon chen này, để yên lặng chờ đợi Ngài đến với quyền năng trọn vẹn của Ngài.
Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xảy ra. Hẳn họ đã cảm nghiệm được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Chúa Giêsu phán: “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu”. Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò bị mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của người thầy thân yêu. Lúc Socrates chết, Plato nói về các môn sinh của Socrates rằng: “Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ chẳng biết phải làm gì”. Nhưng Chúa Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế, Ngài phán: “Ta sẽ trở lại”.
Ngài nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Họ sẽ thấy Ngài vì Ngài sẽ sống, và vì chính họ cũng sẽ sống. Chúa muốn nói là họ sẽ sống thuộc linh. Lúc này họ bối rối và tê liệt bởi thảm cảnh đang tới gần, nhưng sẽ có ngày mắt họ sẽ mở ra, tâm trí họ hiểu được, lòng họ bừng sáng, chừng đó họ sẽ thật sự nhìn thấy Ngài. Đó đúng là điều đã xảy ra sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Sự phục sinh của Ngài biến thất vọng thành hi vọng, khi đó họ mới biết rõ không chút nghi ngờ rằng Ngài là Con Thiên Chúa.
Qua những lời này, Gioan đề cập đến những ý tưởng chẳng bao giờ rời xa tâm trí ông:
- Trước nhất và trên hết: có tình yêu thương. Với tông đồ Gioan, tình yêu thương là căn bản của mọi sự. Thiên Chúa yêu thương Chúa Giêsu, Chúa Giêsu yêu thương Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương loài người, Chúa Giêsu yêu thương loài người, loài người yêu thương Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, loài người yêu thương nhau. Trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người với con người, tất cả đều buộc chặt vào nhau bằng sợi dây yêu thương.
- Một lần nữa, Gioan lại nhấn mạnh sự cần thiết của việc vâng lời. vâng lời là bằng chứng duy nhất của tình yêu thương. Khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra cho những người Ngài yêu mến, chứ không cho các đạo sĩ, các thầy thông giáo hay những người Do thái thù ghét Ngài.
- Tình yêu vâng lời và tin cậy sẽ đưa đến hai điều. Một là sự an toàn tuyệt đối. Vào ngày toàn thắng khải hoàn của Chúa Cứu Thế, những người yêu thương vâng lời Ngài sẽ được an toàn giữa một thế gian tan nát. Hai là nhận được mạc khải ngày càng đầy đủ hơn. Sự mạc khải của Thiên Chúa là điều đắt giá. Bao giờ cũng có một căn bản đạo đức trong sự mạc khải. Chúa Giêsu chỉ bày tỏ Ngài cho những người vâng giữ các giới răn của Ngài. Chẳng hề có kẻ ác nào nhận được mạc khải của Thiên Chúa. Kẻ ác có thể được Thiên Chúa xử dụng, nhưng chẳng bao giờ được thông công với Ngài. Thiên Chúa tự mạc khải, tự tỏ ra cho người tìm kiếm Ngài. Chỉ có những người dù thất bại mà vẫn biết vươn lên, mới được Thiên Chúa cúi xuống để tiếp xúc. Sự tương thông với Thiên Chúa và sự mạc khải của Thiên Chúa tùy thuộc vào tình yêu thương, và tình yêu thương tùy thuộc vào sự vâng lời. Càng vâng lời Thiên Chúa chúng ta càng hiểu biết Ngài, và người nào đi trong đường lối của Thiên Chúa nhất định là đang được cùng đi với Thiên Chúa
Câu hỏi gợi ý:
- Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. “Các điều răn của Thầy” ở đây là những điều răn cụ thể nào? Hãy lấy Kinh Thánh chứng tỏ điều ấy.
- Đức Giêsu có đưa ra một tiêu chuẩn nào để dựa vào đó ta có thể biết ai là người yêu mến Thiên Chúa đích thực, là môn đệ đích thực của Ngài không?
- Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai? Bạn quan niệm thế nào về Thánh Thần? Và muốn lãnh nhận Thánh Thần ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
- “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Ki-tô hữu, theo định nghĩa, là người có Đức Ki-tô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Người không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên không phải là Ki-tô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, thì ta sống trong tình trạng: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Thật vậy, người ta chỉ sống trong nhau, vì nhau, cho nhau, khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Ki-tô, và được Đức Ki-tô sống trong ta, khi ta yêu mến Ngài.
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được, khi mà một cách hữu hình ta không hề thấy Ngài, nghe Ngài nói, động chạm đến Ngài? Ngài cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Nhưng điều răn của Ngài là gì? Có phải là đi lễ, đọc kinh hay cầu nguyện hằng ngày? Điều ấy chắc chắn là đúng, nhưng có thể chưa phải là điều cốt yếu. Điều cốt yếu trong giới răn của Ngài đã được chính Ngài xác định rõ ràng như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Ngài cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (nt). Như vậy, câu nói của Ngài “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Nói khác đi, ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Nói cách khác nữa, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này rõ hơn nữa: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
- Làm sao phân biệt Ki-tô hữu đích thực và không đích thực?
Đức Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Đọc lời Kinh Thánh trên, tôi nghĩ ngay đến những tiêu chuẩn mà tôi thường dùng để phân biệt hàng hoá nào là thật, hàng nào là giả mạo. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều hàng giả mạo, thậm chí tiền cũng bị giả mạo nữa. Nhưng những người có kinh nghiệm nghề nghiệp vẫn luôn luôn có những tiêu chuẩn để phân biệt, nhờ vậy họ ít khi bị lầm. Chẳng hạn tôi đã có dịp so sánh hai loại tiền 50.000đ thật và giả. Loại giả thì giấy mỏng hơn, không cứng và dai bằng loại thật, màu sắc cũng không tươi nhuận bằng. Nhờ tiêu chuẩn ấy, cứ nhìn và cầm tiền giả trong tay là tôi biết ngay.
Cũng vậy, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn để mọi người có thể nhận ra ai là môn đệ đích thực của Ngài và ai là người chỉ mang danh hiệu môn đệ Ngài mà thôi. Đó là dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Đức Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Đức Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.
Thánh Phao-lô nói: “Người Do-thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác. Nhưng người Do-thái chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật” (Rm 2,28-29). Nếu đúng như vậy, thì một cách tương tự, không thể căn cứ vào danh hiệu Ki-tô hữu, vào việc có rửa tội hay không để xác định người ấy có phải là Ki-tô hữu đích thực hay không, mà phải căn cứ vào việc người ấy có tình yêu đối với tha nhân hay không.
- “Thầy sẽ xin … cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác”
Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai giữ các điều răn của Ngài là yêu thương tha nhân: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”. Như vậy, phần thưởng lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Đức Giêsu, được thể hiện cụ thể bằng việc yêu thương tha nhân, chính là được Ngài ban Thánh Thần cho. Nhưng Thánh Thần là ai? Được ban Thánh Thần thì có gì đặc biệt?
Trước hết, theo Đức Giêsu, Thánh Thần là “một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Theo tinh thần của câu này, thì Đức Giêsu là một Đấng Bảo Trợ đến trước, còn Thánh Thần là “một Đấng Bảo Trợ khác” đến sau Ngài. Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”. Ai yêu sự thật, muốn biết rõ sự thật, ắt hẳn sẽ thấy “Thần Khí sự thật” này rất cần thiết cho mình và xã hội, hay thế giới. Nhưng vì thế gian không yêu sự chân thật, nên Đức Giêsu mới nói Thánh Thần là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận”.
Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa là một thực tại được nói đến rất nhiều trong Thánh Kinh, nhất là Tân Ước. Có thể nói Thánh Thần là sức sống, là tình yêu, sức mạnh, là sự khôn ngoan, thánh thiện của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Ngài cho Giáo Hội, cho chúng ta, nhất là cho những ai yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu, được thể hiện qua việc yêu thương tha nhân.
Đọc sách Tông đồ Công vụ, ta nhận thấy mọi hoạt động trong Giáo Hội thời ấy đều do Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, thúc đẩy. Ngài tác động trực tiếp trên tâm trí người này người kia. Và những người được tràn đầy Thánh Thần qua việc đặt tay của các tông đồ để được biến đổi một cách kỳ diệu: họ trở nên yêu mến Thiên Chúa, Giáo Hội và sẵn sàng hy sinh cho tha nhân một cách hăng say, trở nên mạnh mẽ, can đảm, không sợ khó khăn, nguy hiểm, hay cả cái chết, trở nên khôn ngoan, sáng suốt phi thường, có thể làm nên những phép lạ. Đặc biệt họ trở nên bình an, hạnh phúc bất chấp những hoàn cảnh khó khăn bên ngoài như bị bách hại, ghen ghét. Tư cách của những người được tràn đầy Thánh Thần hết sức phi thường. Thánh Phao-lô đã diễn tả những đức tính mà những người đã lãnh nhận Thánh Thần có được như sau: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
Theo lời Đức Giêsu hứa, nếu ta tuân giữ các giới răn của Ngài, cụ thể là yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu thương ta và yêu thương họ, thì ta sẽ nhận được Thánh Thần. Nhờ đó, đời sống của ta sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu và phi thường. Và chắc chắn ta sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu, vì “kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8). Vậy muốn được tràn đầy Thánh Thần, ta phải yêu thương tha nhân.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, qua bài Tin Mừng trên, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Cha và Đức Giêsu yêu mến, tỏ mình ra cho, đồng thời được ban tràn đầy Thánh Thần, đó là tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Giêsu. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Cha hay Đức Giêsu phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xưởng thợ, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
Tiếp tục trong diễn từ chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ, sau khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình đi trên Con Đường là chính Ngài để đến với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu lại mời gọi các ông hãy đi trên con đường đó với một lòng yêu mến chân thật. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (G14,15).
Trong thực tế của cuộc sống, đặc biệt nơi người Việt Nam, chúng ta dể dàng nhận ra nguyên tắc song hành này trong đời sống con người, “yêu ai thì muốn làm đẹp lòng người đó”. Trong cuộc sống đức tin, việc chúng ta tuân giữ các giới răn của Chúa, các luật của Giáo hội có phải là một đòi hỏi quá đáng không và con người có thể tuân giữ các giới luật đó không?
Đôi khi trong cách sống đạo của người Kitô hữu đã làm cho những người ngoài Công giáo hiểu rằng: Đạo Công giáo là một tôn giáo với vô số các luật lệ, cấm đoán, làm cái gì cũng tội, cái gì cũng không được phép làm….và như thế những người giữ đạo Công giáo quả là tội nghiệp vì đạo đã làm cho họ mất tự do. Nhưng thật sự có phải như thế không? Cái gì làm cho con người mất tự do?
Trở lại với những trang đầu tiên của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho họ được sống trong ân sủng của Thiên Chúa theo như kiểu nói của “Sách Giáo Lý hỏi thưa” là họ không phải đau khổ và không phải chết. Lý do nào mà Sách giáo lý nói như thế? Có phải họ không phải lao động, có phải họ không phải dấn thân cho nhau?… Chắc hẳn là không phải như thế, bởi chính trong Sách Sáng Thế đã nói: Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn cho họ canh tác và giữ vườn. Canh tác là gì nếu không là lao động, canh tác là gì nếu không phải là cộng tác với Chúa làm cho công trình tạo dựng của Chúa ngày một tốt đẹp hơn. Sách giáo lý khi nói họ (nguyên tổ loài người) không phải đau khổ và không phải chết là có ý nói rằng họ sống trong tình yêu tròn đầy với Đấng Tạo Hóa và với nhau nên những gì họ thể hiện với Đấng Tạo Hóa cũng như đối với nhau đều là những hạnh phúc được dấn thân, hạnh phúc gì đã làm đẹp lòng “Người Yêu” và họ muốn dấn thân để được thể hiện tất cả trong tình yêu.
Cũng vậy trong đời sống gia đình người ta không thể nào thấy được tình yêu mà người nam và người nữ trao hiến cho nhau nhưng qua hành động hy sinh cho nhau, phục vụ nhau người ta có thể nhận định được tình yêu hai người trao cho nhau lớn lao như thế nào. Cũng vậy, trong đời sống đức tin, tôi không thể nào thấy được đức tin của tôi to lớn như thế nào, nhưng tôi hoàn toàn có thể biết được tôi có tin Chúa hay không qua việc tôi có hạnh phúc khi tuân giữ các giới răn của Chúa hay không. Khi tôi yêu mến Chúa thật sự thì tôi mới mong ước được đáp lại tình yêu của Ngài bằng việc tuân giữ lời Ngài.
Mà thật ra, việc tuân giữ các giới răn của Chúa không làm cho con người mất tự do nhưng lại làm cho con người có tự do và hạnh phúc thực sự. Bởi bản chất con người là siêu nhiên, con người từ nơi Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa nên khi tuân giữ luật Chúa là con người tháp nhập mình với chính nguồn cội của mình là Thiên Chúa và khi đó con người được hạnh phúc trọn vẹn.
Trong thâm tâm mỗi người Kitô hữu chúng ta, ai cũng muốn yêu mến Chúa cách trọn vẹn. Nhưng cuộc sống đôi khi làm cho chúng ta lu mờ đi khát vọng yêu mến này. Nhớ lời dạy của Chúa Giêsu “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ các điều răn của Thầy” (x Ga14,15) để mỗi người chúng ta biết để tâm thi hành lời dạy của Chúa trong cuộc sống mình, để chúng ta biết yêu mến Chúa nhiều hơn và để chúng ta tìm được hạnh phúc chân thật trong tình yêu của Chúa.
59. Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An
Như vô tình Chúa gặp gỡ và gõ cửa lòng người thiếu phụ Samaria bên bờ giếng. Coi thường thành kiến và dị nghị, Chúa lưu lại vài ngày để truyền rao ơn giải phóng và hình thành tiểu tổ tín hữu đầu tiên tại Samaria. Khi Philipphê xuất hiện, họ niềm nở đón tiếp, lắng nghe và tin tưởng. Qua Phêrô và Gioan họ lãnh nhận Thánh Linh. Từ đó, Samaria không còn là vùng đất kiêng kị và cần xa lánh, nhưng là tiểu tổ đáng yêu của nhiệm thể Chúa Kitô. Ơn Chúa Thánh linh tác động thật tài tình và không ai hiểu thấu!
Thánh Linh qui tụ nhân loại vào một mối, không phân biệt phong tục, tiếng nói, mầu da và văn hóa. Thánh Linh kết thân mọi dân nước, xoá bỏ hiềm thù và tạo cảm thông. Thánh Linh thôi thúc mọi lứa tuổi sống đức tin và hoạt động trong những phạm vi đặc thù. Thánh Linh khơi dậy những nguồn sống mới thích nghi với mỗi thời. Thánh Linh canh tân, biến đổi và sửa sai Giáo hội theo tinh thần trách nhiệm và tạo cho Giáo hội một bộ mặt mĩ miều. Thánh Linh chính là Nội tướng của mỗi tâm hồn, đưa chúng ta ra khỏi tình trạng thỏ đế, vững tin bước vào đời và sống chứng nhân giữa đời.
Bước đầu chúng ta nhát sợ, luống cuống vì thiếu niềm tin, mặc cảm yếu hèn, lẻ loi và cô độc. Lúc ấy chúng ta như một em bé ngày đầu tiên lên trường một mình. Bước ra khỏi nhà mà mắt còn rướm lệ vì “con đã lớn rồi! mẹ không thể dẫn con đi hằng ngày.” Tại ngã tư chúng ta còn ngoái cổ lại nhìn ngôi nhà thân thương, và chợt thấy mẹ vẫn đứng trông theo sau bức rèm. Mẹ như thầm nhủ rằng “can đảm lên con! mẹ vẫn âm thầm theo dõi và ngó chừng con!”
Chúa Kitô đã chuẩn bị ngày ra dàn của các tín hữu tương tự như thế. Sau những chuỗi ngày cùng sống, cùng chơi, cùng học, cùng tôn thờ và củng cố đức tin trong vô tư và vô trách nhiệm, Chúa sai chúng ta vào đời trong tư thế là người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, chủ chăn và thầy dạy. Tinh thần tự tin dần dần phát triển. Năng khiếu, tài quán xuyến và chỉ huy bộc phát. Tâm tình cậy nhờ và nương bóng đã biến mất. Chúng ta đủ nghị lực phấn đấu, sinh tồn, hoạch định và phát triển. Đồng thời chúng ta lưu giữ tinh thần “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” quay về yêu thương, giúp đỡ và chăm sóc cái cội nguồn mà từ đó chúng ta phát sinh, trưởng thành và vào đời.
Chúa Kitô ân cần căn dặn và chuẫn bị chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, lo sợ và khổ đau. “Thế gian sẽ giét các con, hãy nhớ là họ đã ghét Ta trước” (Jn15,18). “Các con sẽ khóc, sẽ than khi thế gian mừng rỡ. Các con sẽ ưu phiền, nhưng ưu phiền sẽ thành niềm vui” (Jn 16,20). Thấy được tâm tình bất an và khiếp đảm nơi các môn đệ, Chúa Kitô nhấn mạnh “Ta đi thì tốt hơn cho các con… vì Đấng Phù Trợ sẽ đến… Ta không bao giờ để các con mồ côi đâu” (Jn 14,15-17). Giáo hội đã, đang và sẽ phải trải qua và chấp nhận những giai đoạn bất ổn và đau thương này. Giáo hội đã kiên cường sống đức tin, cảm hóa nhân loại bằng yêu thương và đang chiêu hồi những hổ mang, rắn lục, gấu beo… bằng nhân nghĩa và tình thương. Khi nào không còn hận thù, ghét ghen, bất công, bất nhân… trên mặt đất thì bấy giờ sứ mạng của Giáo hội mới hoàn tát và viên mãn.
Chúa dùng các môi trường khác nhau để chúng ta thi thố tài năng, biểu lộ đức tin, tự lực cánh sinh và hành trình về nước trời. Chúa tôn trọng quyền sống, quyền lựa chọn và quyền sáng kiến của mỗi tín hữu. Bởi vậy nhân sinh đa dạng là sắc thái trăm hoa đua nở trong vườn hoa thánh, luôn được khích lệ theo ơn Chúa Thánh Linh. Bao lâu nguyên tắc căn bản “nếu các con thương mến Ta, hãy cẩn trọng thực thi giới lệnh Ta trao là các con hãy thương yêu nhau” (Jn 14,15) được thực thi thì bấy lâu lộ chúng ta hành hương là nẻo thanh quang và chính trực. Và chính Ngài, sau rèm đang nâng đỡ và dõi theo, là nguyên nhân và động lực thánh cứu độ chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Ki-tô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Ki-tô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy-lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rô-ma, phải đối diện với ba thách đố lớn là Do-thái giáo, chính trị Rô-ma và triết học Hy-lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do-thái giáo, hội nhập vào triết học Hy-lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rô-ma. Chỉ với những người dân chài Ga-li-lê ít học, chỉ với một Phao-lô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh I-rê-nê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Ki-tô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stê-pha-nô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem. Cộng đoàn Ki-tô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Ki-tô hữu”.
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ của Chúa Nhật hôm nay kể lại vị sứ giả đầu tiên đã mang Tin Mừng đến cho người ngoại giáo, đó là người Do-thái nói tiếng Hy-lạp, phó tế Phi-lip-phê. Ngài tới thủ đô Sa-ma-ri rao giảng làm phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tật. Người ta vui mừng đón nhận và xin theo Đạo (Cv 8, 5-8). Sau khi xứ Sa-ma-ri được đón nhận Tin Mừng, các Tông Đồ đã cử Phê-rô và Gioan đến cũng cố Niềm Tin cho các tân tòng (Cv 8, 14-24).
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Ki-tô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc, họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh, những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần, trong mọi thử thách Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa, thế nhưng những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, bùng nổ thông tin, toàn cầu hoá… Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ?ã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Như thế người Ki-tô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây? Bài Phúc Âm chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).
Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Ki-tô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Ki-tô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ” Đức Ma-ri-a hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bê-lem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
61. Suy niệm của Nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Đoạn Phúc Âm này là phần kết luận khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi của Philiphê: “Xin tỏ cho con thấy Chúa Cha.” Câu đầu (c.15) “yêu mến Thầy, giữ điều răn của Thầy” và câu cuối (c.21) “giữ điều răn của Thầy, yêu mến Thầy” lập lại cùng một ý nhưng lời đảo ngược.
Đấng Bảo Trợ (c.16) còn có nghĩa là đấng an ủi, đấng hòa giải, đấng chuyển cầu, đấng giúp đỡ, người bào chữa, người bênh vực. Ở đây, một Đấng Bảo Trợ khác và vĩnh viễn tương phản với sự ra đi của Đức Giêsu. Đấng Bảo Trợ tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu ở thế gian qua các môn đệ.
Thần Khí Sự Thật (c.17) là sức mạnh của luân lý mà Chúa đã ban cho mỗi người, trái ngược với sự gian dối (Gioan 8:44).
“Thầy sống và anh em cũng được sống” (c.19) nói lên sự cùng sống với Chúa Giêsu liên kết qua phép Thánh Thể (Gioan 6:56).
“Ngày đó” (c.20) ám chỉ cả thời gian sau khi Chúa sống lại.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu hứa cùng những kẻ tin là Ngưòi sẽ tiếp tục hiện diện qua Đấng Bảo Trợ, qua Thần Khí Sự Thật và trong Thánh Thần (c. 26 kế tiếp). Thế gian sẽ không nhận biết món quà này và sẽ chống lại sự hiện hữu của nó. Phần thưởng chỉ dành cho những ai yêu Chúa và giữ giới răn của Người là thương yêu lẫn nhau.
Suy Niệm
- Có khi nào tôi cảm nhận được Chúa sống thật trong tôi không? Làm thế nào tôi nhận ra sự sống ấy và phản ứng của tôi lúc ấy ra sao?
- Lý do gì làm tôi tiếp tục gian dối thay vì luôn luôn nói sự thật?
- Nếu tôi mồ côi, tôi cảm thấy thế nào? Lúc ấy tôi cần gì nhất? Và tôi phải làm gì?
62. Vị Thiên Chúa bị lãng quên
Như chúng ta đã biết: người Do thái không có liên hệ gì với người Samaria. Giữa hai dân tộc này đã có một hố sâu ngăn cách. Từ những khác biết về tôn giáo, về phong tục… Họ đã nhìn nhau bằng ánh mắt hận thù.
Thế nhưng, bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà xứ Samaria:
– Giờ đã đến và đã đến thật rồi, con người phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.
Việc thờ phượng này không phải chỉ giới hạn nơi một dân tộc hay nơi một dòng giống, trái lại phải được trải rộng tới mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Kết luận về câu chuyện người đàn bà, tác giả sách Tin mừng đã ghi nhận: sau khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều người xứ Samaria đã tin Ngài là Đấng Messia, Đấng cứu độ trần gian.
Sách Công vụ Tông đồ cũng cho thấy: số các tín hữu ngày một gia tăng. Philipphê được sai đến một thành xứ Samaria để rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng lắng nghe những lời giảng dạy vì họ cũng đã được biết và được chứng kiến những phép lạ Philipphê đã làm. Họ cảm thấy hân hoan vui sướng.
Các tông đồ ở Giêrusalem, khi hay tin dân Samaria đón nhận lời Chúa, liền cử Phêrô và Gioan đến với họ. Cuộc thăm viếng này đã trở nên như một dấu chỉ cho sự hiệp nhất vào thời buổi lúc bấy giờ.
Đúng thế, lúc bấy giờ có nhiều khuynh hướng khác biệt giữa người Do Thái và người Samaria, giữa những người tin và không tin vào Đức Kitô. Việc sai phái hai vị tông đồ này đã làm cho bức tường ngăn cách bị sụp đổ, chấm dứt óc bè phái và những tranh cãi trong dĩ vãng. Phêrô và Gioan chỉ có một ý tưởng, đó là làm cho những tân tòng trở nên những Kitô hữu trưởng thành.
Tất cả những người Samaria này mới chỉ được rửa tội nhân danh Đức Kitô. Vì thế, hai vị tông đồ đã đặt tay trên họ và họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Những kẻ thù ngày hôm qua thì ngày hôm nay đã thực sự là những người anh em trong Đức Kitô.
Được Chúa Thánh Thần soi sáng và thêm sức, họ cảm thấy như mọi thù ghét và oán hận đều tiêu tan. Giờ đây, tất cả chỉ còn là một: một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một phép rửa, một Chúa Thánh Thần và một dân tộc. Các tông đồ không hề phân biệt các tân tòng và những người Do Thái đồng hương với mình.
Đây chính là sự hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần mà công đồng Vaticanô II đã mong muốn. Thực vậy, Giáo hội luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, giữa những người công giáo với những anh em ly khai cũng giữa những người công giáo như với những anh ngoài Kitô giáo.
Chúng ta biết rằng: dưới tác động của Chúa Thánh Thần, những người Samaira đã trở nên những tín hữu trưởng thành. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Đức Kitô đã hứa sai đến để đổi mới khuôn mặt địa cầu.
Chính Chúa Giêsu, trước khi về trời, đã phán hứa với các môn đệ:
– Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy tuân giữ những điều Thày truyền dạy. Thày sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ mới. Ngài là thần chân lý và sẻ ở cùng các con luôn mãi.
Nếu chúng ta cố gắng bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn Ngài sẽ đưa chúng ta tới tình yêu thương và hiệp nhất.
Thế nhưng, có bao giờ chúng ta đã cầu nguyện với Ngài khigặp phải những gian thử thách trên đường đời?
Chúng ta thường băn khoăn lo lắng: làm thế nào để có thể sống đạo giữa biết bao nhiêu khó khăn và thử thách trong cuộc đời?
Vậy tại sao chúng ta lại không kêu xin Chúa Thánh Thần ban xuống cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng?
Phải chăng Chúa Thánh Thần mãi mãi vẫn là vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống của chúng ta?
Fort Hancock ở đầu xa nhất của miền đất Sandyhock chạy dài tới bờ biển New Jersey. Trong thời kỳ thế chiến thứ hai, nơi này là trung tâm huấn luyện quân đội. Tại khu vực này, có một thường dân rất hăng say đem Tin Mừng Chúa Kitô cho hàng ngàn thanh niên đóng ở đó, nhưng các Vị chỉ huy quân đội không cho phép người đó vào gặp các thanh niên. Anh liền nghĩ ra một phương pháp truyền giáo thực hay: anh đặt một hãng chuyên môn về những hàng mới, làm cho anh vài ngàn tấm gương soi, có đường kính chừng 8 centimet. Ở mặt sau tấm gương, người đó in những lời Tin Mừng theo thánh Gioan 3, 16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Bên dưới những lời này, người đó chỉ dẫn: “Nếu bạn muốn nhìn người mà Thiên Chúa yêu thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là ý nghĩa tuyệt vời, mỗi quân nhân nhìn ngắm mình là họ nhìn thấy người mà Thiên Chúa yêu.
Trên tấm gương soi đó, ta có thể in Mười giới răn như là bằng chứng Thiên Chúa yêu chúng ta. Chúa Giêsu vừa nói với chúng ta: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn thầy”. Chúng ta minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ giới răn của Người. Lề luật Thiên Chúa là những chỉ dẫn yêu thương tốt hảo nhất cho chúng ta. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Điều đó quan trọng nhất! Nhưng chúng cũng nói cho chúng ta biết những gì là tốt hảo nhất cho cá nhân chúng ta và cả gia đình nhân loại.
Bạn hãy coi giới răn thứ nhất. Người ta sẽ tự làm hại mình như thế nào, khi họ không thờ phượng Thiên Chúa chân thật duy nhất. Rồi người ta tôn thờ thứ gì đó không những chỉ ở dưới Thiên Chúa mà còn ở dưới cả con người – mặt trời, con vật, như con bò, con khỉ. Người ta tôn thờ tiền bạc, cái xe quần áo, đồ ăn thức uống. Để bảo vệ chúng ta khỏi các thần kỳ dị đó, Đấng tối cao truyền cho chúng ta tôn thờ một mình Ngài mà thôi.
Điều gì xảy ra khi người ta kêu danh Chúa vô cớ? Vụ Watergate là do những người thề “Không nói gì ngoài sự thật, để Thiên Chúa giúp tôi”, và rằng: lừa dối. Sự thề ẩu như thế ngày nay thường có, làm cho không thể đạt được công lý.
Ngươi sẽ không giết người. Người ta sẽ tránh được những tai họa nào khi tuân giữ lề luật yêu thương đó? Chiến tranh, tàn sát, phá thai, giết người, là bệnh không chữa được, say rượu, lạm dụng ma túy, lái xe liều lĩnh. Vì tình yêu, Thiên Chúa ban luật này để bảo vệ sức khỏe và đời sống của chính chúng ta, cũng như sức khỏe và đời sống của người khác.
Tình yêu nào trong đó giới răn thứ sáu, một lề luật quá thường bị phá thủng do tình yêu sai lầm? Gia đình khổ cực, ly dị, con cái bất hạnh, giết người, bệnh hoa liễu – đó chỉ là vài tai họa mà Thiên Chúa muốn tránh cho chúng ta bằng cách ban cho chúng ta giới răn chống lại ngoại tình, dâm ô.
Ngươi sẽ không trộm cắp, hoặc sẽ không làm chứng gian, ngươi sẽ không ham muốn nhà cửa của đồng lọai. Không mê muốn vợ của đồng loại. Đây là những qui luật tốt nhất cho mọi người.
Khi người mẹ bảo con, “Đừng chơi ở đường phố”. Thì có nghĩa là bà mẹ có yêu con. Thiên Chúa cũng thế.
Khi chúng ta làm mới lại sự chết của Chúa Kitô do chúng ta bất tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, ước gì chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta những lề luật này – vì tình yêu.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Anh chị em thân mến,
Trên đời này, khi người ta yêu thương nhau, người ta sẽ sẵn sàng sống cho nhau, làm hài lòng nhau, làm theo ý của nhau…Vợ chồng thực sự yêu thương nhau, sẽ cố gắng làm vui lòng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ, sẽ cố gắng vâng nghe lời cha mẹ. Học trò yêu mến thầy, sẽ cố gắng giữ lời thầy dạy….Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho đồ đệ mình, một chân lý tương tợ như thế: “nếu anh em yêu mến Thầy, hãy nghe lời Thầy, nghĩa là hãy giữ giới răn Thầy truyền dạy…” (Ga 14, 17). Đây chính là chủ đề của ngày chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm….
a/. Có một vài câu chúng ta cần lưu ý tìm hiểu:
Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn của Thầy: Chúa biết các môn đệ yêu mến Ngài, nhưng lòng yêu mến đó không phải là thứ tình cảm suông, mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể, là vâng theo thánh ý Chúa, và tuân giữ luật Chúa bằng việc yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Đó là giới răn yêu mến (Mt 22, 40).
Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy: Thiên Chúa yêu thương con người trước; nhưng khi con người sẵn sàng tuân giữ luật Chúa, điều đó chứng tỏ họ trân trọng và muốn phát triển tình yêu của Thiên Chúa nơi bản thân họ. Nói cách khác, tình yêu của Thiên Chúa nơi họ có kết quả, và vì họ trung kiên trong tình yêu mến đó, nên họ cảm được, hiểu được, thấm được nhiều điều Thiên Chúa mạc khải cho họ…
Ca dao, châm ngôn VN nói về qui luật của tình yêu và qui luật của người được yêu, rất chí lý:
* Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chổ lệch cũng kê cho bằng.
* Yêu nhau trái ấu cũng tròn…
* Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười…
b/. Câu chuyện minh họa: Một bác sĩ giải phẩu người Mỹ, đã vâng theo tiếng gọi của Chúa: “nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giớí răn của Thầy…”. Vì thế ông đã bỏ mọi sự, tới một hòn đảo xa xăm trên Thái Bình dương, một nơi dân chúng rất nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ. Một vị mục sư là bạn thân của bác sĩ, một hôm chuẩn bị đến thăm ông. Vì muốn để cho bác sĩ bị bất ngờ, nên ông mục sư đã không báo trước… Vừa tới nơi, ông thấy bác sĩ vừa giải phẩu đôi mắt cho một em bé gái 8 tuổi. Bác sĩ đi ra, vui mừng vì ca giải phẩu thành công. Ông mục sư hỏi: nếu ở Mỹ, ông được trả bao nhiêu? – chắc chắn không dưới 3000 đô. – Còn ở đây, bao nhiêu? Bác sĩ trả lời: Tôi không biết, có lẻ vài xu cộng với nụ cười của Thiên Chúa.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy ông bác sĩ đã chọn một việc là: đi tìm kiếm nụ cười của Thiên Chúa hơn là tìm kiếm tiền của vật chất. Chắc chắn là như thế, vì nếu muốn tìm kiếm tiền của, ông bác sĩ đã không bỏ quê hương nước Mỹ êm ấm của mình, để đến sống một nơi nghèo khổ, thiếu thốn như thế này….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Yêu mến Thiên Chúa không phải chỉ là tình cảm suông mà còn phải vâng giữ luật của Thiên Chúa nữa. Ít có người công giáo nói mình là không yêu mến Chúa; nhưng thực tế lại có nhiều người không sẵn sàng tuân giữ giới răn Chúa. Ta là hạng người nào trong số đó? Ta có luôn đổ thừa tại vì mình yếu đuối, nên chưa đủ sức sẵn sàng giữ luật Chúa như Chúa mong muốn?
65. Tuân giữ các điều răn của Thầy
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Tình yêu không hệ tại các lời nói, các tình cảm hoặc các kỷ niệm, nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng và bước theo.
1.- Ngữ cảnh
Bản văn chúng ta đọc hôm nay cũng thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (Ga 13,31–14,31), tại điểm c triển khai thứ năm (Ga 14,15-24; xem bốn điểm trước: 13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14).
Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu hứa tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Thần Khí sự thật đến (14,15-17);
2) Đức Giêsu đến (trở lại) (14,18-21).
Mở đầu và kết luận là hai câu nói về tình yêu đối với Đức Giêsu và sự cần thiết phải đi theo các giới răn của Người (c. 15 và c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
– giữ các điều răn (15): “Giữ” (têreô) có nghĩa là “chu toàn”, “thực hành”. Ở đây và ở c. 21, Đức Giêsu nói đến “các điều răn” (số phức), ngược lại với “điều răn mới” (số đơn) ở 13,34 (x. 15,10.12). Các điều răn của Người không phải chỉ là những giáo huấn về luân lý, mà là cả một lối sống trong tình hiệp thông yêu thương với Người. Ở đây chúng ta ghi nhận có một tiếng vọng của “điều răn lớn” của Dnl 6,4tt ở đây: các từ ngữ của đoạn văn này dựa vững chắc trên sách Đnl. Chúng ta đã thấy điểm giáo lý này trong Ga 5,41-44 và 8,41t: những ai yêu mến vì Thiên Chúa duy nhất chân thật, thì cũng yêu mến Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến; còn nếu họ từ chối cả hai tình yêu ấy, thì họ vẫn là những kẻ không tin (“con hoang”). Ở Ga 14,15tt, cũng vẫn một chiều hướng giáo lý như thế.
– Người sẽ ban cho (16): Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, điều này được diễn tả bằng hai kiểu nói: “Chúa Cha sẽ sai đến” (14,26) và “Thầy sẽ sai đến” (15,26; 16,7). Động từ “(ban) cho” (didômi) thường được Tân Ước nối kết với Chúa Thánh Thần (x.Rm 5,5), do đó “ân huệ” (dôrea, gift) đã trở thành một tên gọi của Thánh Thần (“ân ban Thánh Thần” = Thánh Thần là một ơn: x. Cv 2,38; 8,20; 10,45; 11,17).
– một Đấng Bảo Trợ khác (16): “Vị bảo trợ” (paraklêtos) là từ ngữ được dùng tại tòa án, có nghĩa là người đứng bên cạnh bị cáo, bên cạnh người đang gặp khó khăn. TM IV trình bày vụ kiện giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Đức Giêsu và những kẻ chống đối Người, giữa thế gian và các môn đệ, nhưng Đấng Bảo Trợ soi sáng hướng dẫn các môn đệ khi các ông ra trước tòa thế gian, chứ Người không đối đầu trực tiếp với thế gian. Những công việc của Người là “ở lại”, “ở với” và “ở trong” các môn đệ (14,16-17). Người dạy các ông mọi điều và giúp các ông nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói (14,26). Người làm chứng cho Đức Giêsu trước các môn đệ (15,26). Người làm cho các môn đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11). Người dẫn các môn đệ đi trong chân lý toàn vẹn (16,13). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các ông những gì là của Đức Giêsu (16,14).
Tuy bản văn Hy-lạp allon paraklêton có thể dịch là “một Đấng khác, một Đấng Bảo Trợ” [LÊ MINH THÔNG đề nghị chuyển ngữ là “Đấng Pa-rác-lê”, vì dịch sang tiếng Việt không diễn tả hết ý nghĩa (Tin Mừng thứ tư song ngữ Hy-lạp – Việt [2008] 15)], nhưng truyền thống chấp nhận kiểu dịch “một Đấng Bảo Trợ khác”. Vậy, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ đầu tiên. Thư 1 Ga (2,1) giới thiệu Đức Giêsu như là Đấng Bảo Trợ có vai trò chuyển cầu trước nhan Chúa Cha sau khi sống lại, nhưng Ga cũng hàm ý Đức Giêsu đã là một Đấng Bảo Trợ khi Người thi hành sứ vụ trên mặt đất. Thần Khí sự thật là một Đấng Bảo Trợ chính là vì Người hoàn tất công trình của Đức Giêsu.
– Thần Khí sự thật (17): Trong cụm từ to pneuma tês alêtheias, alêtheias là thuộc-cách chỉ đối tượng (objective genitive): Thần Khí thông ban sự thật (x. 16,13). Nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa thuộc-cách đồng-chức-ngữ (appositive genitive): Thần Khí là sự thật (1 Ga5,6[7]). Đây không phải là một mô tả về yếu tính của Thần Khí.
– Người luôn ở giữa anh em (17): Có Thánh Thần ở với và nhận biết Người, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
– mồ côi (18): Kiểu nói này không xa lạ với người đương thời: người ta quen nói là môn đệ của các kinh sư bị mồ côi khi các vị này qua đời. Kiểu nói này phù hợp với ngôn ngữ của Đức Giêsu trong Diễn từ cáo biệt, vì Người gọi các môn đệ là “những người con bé nhỏ của Thầy” (13,33).
– chẳng bao lâu nữa (19): Công thức này không cho biết gì về quãng thời gian dài ngắn cả, vì nó được dùng cả ở 7,33 để nói rằng Đức Giêsu còn sống sáu tháng, lẫn ở đây khi mà Đức Giêsu chỉ còn sống có vài giờ. Đây là một công thức của Cựu Ước được các ngôn sứ dùng để diễn tả niềm lạc quan khi thấy rằng chẳng còn bao lâu nữa rồi ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đến (x. Is 10,25; Gr 51,33).
– Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống (19): Được thấy Đức Giêsu Phục Sinh và được sống, hai điều này là một ân huệ duy nhất.
– Ngày đó (20): Công thức này xuất hiện 3 lần trong TM Ga (ở đây, và 16,23.26). Mặc dù trong Cựu Ước, “ngày đó” là một công thức truyền thống để mô tả lúc Thiên Chúa can thiệp lần cuối cùng (x. Mc 13,32), trong TM Ga, thành ngữ này dường như được áp dụng cho cuộc sống của người Kitô hữu đã đạt được nhờ “giờ” (= cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh) của Đức Giêsu.
– Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến (21): Trong cách trình bày nhị nguyên của Ga, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người được diễn tả bằng việc ban tặng Con của Ngài, nếu người ta quay lưng lại với Người Con, người ta không có tình yêu của Thiên Chúa.
4.- Ýnghĩa của bản văn
Các môn đệ cảm thấy đau lòng bởi cuộc chia ly. Các ông tự hỏi là làm thế nào các ông có thể tiếp tục sống với Đức Giêsu nếu Người ra đi. Đức Giêsu hứa là Người sẽ không bỏ các môn đệ một mình, không người che chở, không ai hướng dẫn. Người loan báo có một sự trợ giúp khác sẽ đến, đó là Thần Khí sự thạt (14,15-17) và chính Người cũng sẽ đến (14,18-21). Người tuyên bố rằng tất cả những giáo huấn Người đã ban cho các ông từ trước đến nay sẽ không bị lỗi thời, nhưng vẫn có giá trị mãi mãi. Chỉ người nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha.
* Thần Khí sự thật đến (15-17)
Ở chỗ khởi đầu (c. 15) và ở cuối bản văn này (c. 21), Đức Giêsu nói đến tình yêu đối với Người và sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người. Trong nỗi đau đớn các môn đệ cảm thấy khi phải xa cách Thầy, các ông đã tỏ lộ tình yêu thương đối với Đức Giêsu. Nay các ông được biết là các ông phải chứng tỏ là các ông chân thành ước muốn có Đức Giêsu hiện diện và được hiệp thông với Người, bằng cách tuân giữ các điều răn của Người. Chỉ có lời khuyên yêu thương nhau được minh nhiên gọi là điều răn (x. 13,34). Nhưng cả những gì Đức Giêsu làm, trong lời nói và hành động, là lời nhắc và lời khuyên cho loài người chúng ta. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là lấy đức tin mà đón nhận toàn bộ Lời Người (x. 14,23-24), bằng cách ký thác bản thân cho Người dẫn dắt. Đức Giêsu luôn hiện diện trong Lời Người và trong lời nhắc về Người. Ai gắn bó với Đức Giêsu như thế, Thiên Chúa sẽ theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu mà ban Chúa Thánh Thần cho họ như là một Đấng trợ lực mới.
Các câu 16-17 là đoạn đầu trong năm đoạn nói về Đấng Bảo Trợ trong Diễn từ cáo biệt. Cho tới nay, Đức Giêsu đã là Đấng trợ giúp các môn đệ, săn sóc họ, hướng dẫn, khuyến khích họ, ban sức mạnh cho họ. Nay cho dù Đức Giêsu ra đi, các ông vẫn không bị bỏ mặc một mình, bởi vì Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho các ông, để Người ở luôn mãi với các ông, ở bên cạnh và ở trong các ông. Thánh Thần/Đấng Bảo Trợ khác Đức Giêsu Đấng Bảo Trợ ở chỗ người ta không thể thấy Thánh Thần theo cách thể lý và Người chỉ hiện diện bằng cách cư ngụ trong các môn đệ mà thôi. Đề tài “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (immanuel của Is 7,14) nay được thể hiện nơi Đấng Bảo Trợ/Thánh Thần, Đấng ở lại mãi mãi với các môn đệ, để che chở các ông trong những lúc gặp khó khăn.
Thánh Thần này được xác định như là “Thần Khí sự thật”. “Sự thật” đối với tác giả Ga luôn luôn có nghĩa là chính Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra qua Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ đưa vào trong “sự thật”, nghĩa là hoạt động trong tim chúng ta để chúng ta có thể chấp nhận mạc khải của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Đức Giêsu. Ngài sẽ giữ các môn đệ ở lại trong sự thật đã được Đức Giêsu truyền đạt và sẽ che chở các ông khỏi các ông thầy gian tà và khỏi những chọn lựa sai lầm. Thế gian, vì khép kín lại với Đức Giêsu, thì không thể đón nhận Người. Chỉ khi tin vào Đức Giêsu và giữ kỹ các điều răn của Người, chúng ta mới mở ra với Chúa Thánh Thần và có thể nhận ra Người và có kinh nghiệm về hoạt động của Người. “Thế gian” đây là tất cả những ai đang còn nuôi thù hận, mưu toan trả thù; nhưng “thế gian” cũng chính là phần của trái tim chúng ta đang còn có những tâm tình gian ác đó. Thế gian có tinh thần của nó (x. 1 Cr 2,12), tinh thần này thúc bách chúng ta làm điều dữ, sống ích kỷ. Còn Thánh Thần Thiên Chúa thì thúc bách chúng ta yêu thương, quảng đại, phục vụ kẻ khác. Thế gian không thể đón nhận Thánh Thần này.
* Đức Giêsu đến (trở lại) (18-21)
Bây giờ, Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ là các ông sẽ không phải mồ côi, như khi cha mẹ chết thì họ vĩnh viễn mất cha mẹ. Đức Giêsu bỏ họ lại mà đi đến cái chết, nhưng rồi sẽ trở lại với họ. Người báo trước rằng họ sẽ gặp lại nhau, khi họ được gặp Người như là Đức Chúa Phục Sinh. Đức Giêsu chết, nhưng không biến mất trong cái chết. Người sẽ trở lại với các môn đệ, như Đấng vẫn sống, như là Đấng Phục Sinh, và họ sẽ được thông phần vào sự sống của Người. Điều kiện là các ông phải “có và tuân giữ các điều răn” của Đức Giêsu.
Có một sự song đối giữa phần này với phần trên:
(1) Những điều kiện cần thiết: yêu mến Đức Giêsu; giữ các điều răn Người: 15//21
(2) Ban Đấng Bảo Trợ; Đức Giêsu trở lại: 16//18
(3) Thế gian không thấy Đấng Bảo Trợ hoặc Đức Giêsu: 17//19
(4) Các môn đệ sẽ nhận biết Đấng Bảo Trợ và thấy Đức Giêsu: 17//19
(5) Đấng Bảo Trợ và Đức Giêsu sẽ ở trong các môn đệ: 17//20.
Đấy là cách tác giả Ga dùng để nói rằng sự hiện diện của Đức Giêsu sau khi Người trở về với Chúa Cha được thực hiện trong và qua Đấng Bảo Trợ. Đây không phải là hai sự hiện diện nhưng chỉ là một sự hiện diện duy nhất.
+ Kết luận
Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ rằng chỉ sau khi Người sống lại, các môn đệ mới thật sự hiểu sự hiệp thông của Người với Chúa Cha và với các ông. Qua sự Phục Sinh, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa ở bên cạnh Đức Giêsu với tất cả tình yêu và quyền lực của Thiên Chúa, và xác nhận giá trị các lời Người đã nói và các việc Người đã làm. Nhưng sự Phục Sinh cũng cho thấy rõ ràng dây liên kết đặc biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ: khi đó Người chỉ tỏ mình ra với các ông và được các ông nhận biết như là Đấng đang sống. Để đạt tới sự hiệp thông với Người, Đức Giêsu nhắc các môn đệ, cũng như nhắc toàn thể nhân loại mọi thời: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c. 21). Luôn luôn có giá trị việc đi tìm liên kết với Đức Giêsu mà dựa trên sự nhận biết các điều răn của Người và để cho các điều răn ấy tác động trên cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta sống như thế, chúng ta sẽ gặp được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Cha sẽ đón tiếp chúng ta. Chúng ta cũng sẽ gặp được tình yêu của Đức Giêsu, vì Người sẽ tỏ mình ra cho chúng ta để chúng ta nhận biết Người một rõ ràng hơn và sâu sắc hơn, để rồi chúng ta được liên kết với Người ngày càng bền chặt và sống động.
5.- Gợi ý suy niệm
- Các môn đệ phải chứng tỏ rằng họ chân thành ao ước có Đức Giêsu hiện diện và được hiệp thông với Người qua việc giữ các điều răn của Người. “Tuân giữ các điều răn” có nghĩa là tin tưởng đón nhận toàn bộ các lời nói của Đức Giêsu (x. 14,23-24), bằng cách để cho Người hướng dẫn. Tình yêu không hệ tại các lời nói, các tình cảm hoặc các kỷ niệm, nhưng được chứng minh bằng việc lắng nghe, tin tưởng và bước theo.
- Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”, tức là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí thông ban sự thật và cũng là chính sự thật, sẽ giúp các môn đệ ở lại trong sự thật mà Đức Giêsu đã truyền đạt và bảo vệ họ khỏi những thầy xấu và những chọn lựa sai lạc. Nhưng để nhận được Thần Khí này, chúng ta phải mở ra với Đức Giêsu, tin vào Người và tuân giữ các điều răn của Người.
- Bằng cớ cho thấy Thánh Thần chân lý đang hiện diện trong Hội Thánh, đó là dọc theo các thời đại, đã có những linh mục, giám mục và thậm chí Đức giáo hoàng cư xử không đúng đắn, nhưng không một vị nào có thể làm cho Tin Mừng trở nên không đáng tin nữa. Thánh Thần không chỉ ngăn ngừa sai lầm trong việc truyền đạt sứ điệp của Đức Giêsu, Người còn đưa các môn đệ vào trong chân lý toàn vẹn.
- 4. Với cái chết của Người, Đức Giêsu đã mãi mãi biến mất đối với thế gian: thế gian chỉ biết rằng Người đã chết trên thập giá. Thế gian chỉ biết cái chết chứ không biết sự sống. Đức Giêsu sẽ chỉ trở lại với các môn đệ và cho các ông thấy Người là Đấng (đang) Sống. Khi đó, các môn đệ sẽ hiểu rõ những lời Đức Giêsu đã nói và những hành vi Người đã làm trước đây.
- Chỉ Đức Giêsu mới là con đường dẫn đến với Chúa Cha. Mạc khải và các lời kêu gọi mà Người đã bày tỏ khi Người còn sống ở trần gian sẽ mãi mãi là con đường đưa tới Chúa Cha. Chỉ khi chúng ta gắn bó với những điều ấy và để cho những điều ấy hướng dẫn, chúng ta mới được nối kết với Đức Giêsu và mới sẵn sàng đón nhận ân huệ Thánh Thần và được hiêp thông trọn vẹn trong tình yêu với Chúa Con và Chúa Cha.
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.
Cv 8: 5-8; 14-17
Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.
1Pr 3: 15-18
Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.
Ga 14: 15-21
Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Ki-tô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17)
Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của thánh nhân khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.
Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.
- Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê
Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ này, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.
“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.
- Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức
Sách Công Vụ nói đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ này thường hoạt động cùng nhau.
Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau này chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.
BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)
Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh này, Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi những Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích này dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.
- Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em
Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13, trong đó ngôn sứ I-sai-a xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Họ không có bận lòng nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa.
- Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời
Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ, hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.
Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các Ki-tô hữu phải trải qua. Sau này trong những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy tính chất bi thảm.
Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.
Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á bị đối xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản này: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 14: 15-21)
Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.
- Trung tín trong tình yêu
Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.
Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi họ yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đi đôi với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.
Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.
- Đấng Bảo Trợ khác
Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.
Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”. “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan. Vì thế, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.
- Thần Khí Sự Thật
Đấng Bảo Trợ khác này cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là Sự Thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người, nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.
Đấng Bảo Trợ khác này cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể cho các môn đệ biết chân tính của Đức Giê-su, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.
- “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”
Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.
Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.
“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện của Thần Khí trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.
67. Chú giải của Fiches Dominicales.
THẦY SẼ KHÔNG BỎ CÁC CON MỒ CÔI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Lời hứa sẽ hiện diện giữa các môn đệ.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước kết thúc với lời loan báo rằng sứ mệnh của Đức Giêsu sẽ sinh hoa kết quả trong thời gian và không gian qua việc làm của các tín hữu “Ai tin vào Thầy sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.
- Trước tiên, câu 16 và 17 là lời hứa ban Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật”
Thánh Thần được Chúa Cha ban xuống nhờ sự can thiệp của Chúa Con. Nhiệm vụ của Ngài là: “ở với anh em luôn mãi”. Đây cũng chính là ý nghĩa của tên Ngài. Vì thế, đây là một sự hiện diện thường xuyên, “luôn mãi”, sự hiện diện như bóng với hình bên người tín hữu và ở với họ “với anh em; bên cạnh anh em; trong anh em”.
- Ngài được gọi là Đấng Bảo Trợ. Ngài sẽ là trạng sư của các môn đệ Chúa và là đấng bào chữa cho họ. Ngài sẽ phụ lực và giúp đỡ họ trong vụ kiện sống còn mà “thế gian” theo đuổi để chống lại Đức Giêsu và các môn đệ Ngài.
- Ngài được gọi là Thần Khí sự thật: Ngài sẽ đào sâu đức tin cho họ, làm cho họ hiểu biết “tận đáy lòng” cuộc sống Đức Giêsu và sứ điệp của Ngài (xem Ga 14,25;16,12-15) Ngài sẽ soi rọi những hoàn cảnh mới và bất ngờ mà các môn đệ sẽ phải đương đầu.
- Tiếp theo sau, các câu 18-20 là lời hứa ban một kiểu Hiện Diện khác của Đức Giêsu: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ đuợc sống.”
Lời hứa về sự hiện diện hoàn toàn mới mẻ này sẽ trở thành hiện thực vào chính ngày lễ Phục sinh: các môn đệ sẽ thấy Đấng Phục Sinh (Ga 20, 20-25) nhưng những cuộc hiện ra trong dịp phục sinh không phải là kết thúc. Chúng mở màn cho một Sự Hiện Diện kéo dài, một sự Hiện Diện dành riêng cho con mắt đức tin. Cuộc “đăng trình” của Đức Giêsu khơi nguồn một kỷ nguyên mới “khởi đầu với vinh quang phục sinh của Chúa và kéo dài trong thời gian với Giáo Hội. trong suốt cuộc sống chúng ta, Chúa đến, chúng ta nhìn thấy Người. Đây không còn phải là thị kiến của các môn đệ trước Đấng Phục Sinh nữa mà là một thị kiến của niềm tin giúp ta ý thức về sự hiện diện và hiệp thông đời sống” (Assemblées du Seigneur số 27, p.42)
- Cuộc sống vĩnh hằng đã khởi đầu.
Trong thời đại của Giáo Hội, Đức Giêsu hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tiếp sau sự hiện diện lịch sử của Ngài là một kiểu hiện diện mới mang lại cho chúng ta một nếp sống mới, hợp nhất với Đức Giêsu và Chúa Cha dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, với các môn đệ, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu. cuộc sống họ “ngay trên trần gian này đã tương đương với cuộc sống của Đấng Phục Sinh, đã thông phần với cuộc sống của chính Thiên Chúa, với cuộc sống của Chúa Ba Ngôi. cuộc sống họ là một sự hiệp thông, trong tình yêu, với từng ngôi Thiên Chúa đang ở trong họ.” (M.E.Boismard và A. Lamouille, “Tin Mừng thánh Gioan” Cerf, p.360) “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống, Đức Giêsu hứa như vậy. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.”
BÀI ĐỌC THÊM:
- Một cuộc sống mới: (G. Bessière, trong “Thiên Chúa thật gần”)
Rõ ràng, điều quan trọng ở đây là có được mối tương liên cá biệt với Đức Giêsu hay đúng hơn, được “yêu mến Ngài”. Các Phúc Âm Mátthêu, Marcô, Luca mời gọi ta tiến vào nước Trời. Phúc âm Gioan, xuất hiện trễ hơn, không đề cập đến nước Trời ấy nữa mà tập trung vào Đức Giêsu và qui kết về Ngài.
Hình ảnh cây nho và cành nho biểu hiện rõ rệt về điều đó: mỗi môn đệ đều kết hợp trực tiếp với Đức Kitô. Người ta đã có thể nói về “tính đồng đẳng” của thánh Gioan: theo Ngài, mọi người phải sống với Đức Giêsu bằng mối dây tình yêu. trong lòng cộng đoàn tín hữu, mỗi Kitô hữu trực tiếp trao đổi với Ngài.
Tình yêu này không hàm hồ. Nó không phải là một thúc đẩy cảm tính về một hình ảnh mơ hồ qua đó người ta có thể dự phóng những giấc mơ của mình. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của thầy.” Đây là một tình yêu với những việc làm cụ thể. toàn bộ phúc âm là một bằng chứng về cuộc sống mới đã khởi đầu nơi Đức Giêsu: Phải tái sinh, phải mở mắt, phải uống nước vọt lên từ nguồn suối, phải ăn bánh hằng sống, phải để Đức Giêsu rửa chân và chúng ta phải làm đầy tớ cho nhau. Một cuộc sống khác đã khai mở, cuộc sống của chính Thiên Chúa, đúc kết nơi Đức Giêsu.
Tin mừng của thánh Gioan diễn ra trong bầu khí căng thẳng. Sự cắt đứt với với do thái giáo đã chín mùi, và sự đối đầu thật gay go. Tác giả tin mừng thứ tư hết sức cứng rắn với người do thái. Ngài nhấn mạnh đến thần tính của Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống. Từ nay, ngoài Ngài ra, không còn con đường nào khác. Các môn đệ sẽ không ngừng đón nhận sự tự do của Ngài và cùng khám phá với Ngài cuộc sống yêu thương.
Nhưng làm sao có thể sống thân thương được với một người mà kỉ niệm đã xa mờ trong quá vãng? Khi Tin Mừng thánh Gioan được soạn thảo xong, thế hệ những chứng nhân bằng xương bằng thịt đã qua đời. chỉ còn lại những bản văn, những lời chứng, những mẩu chuyện và những lời nói uyên thâm cho phép ta không ngừng gặp gỡ Đấng vĩnh hằng. Song còn hơn thế nữa: còn có một Đấng luôn ở cạnh bên, như một trạng sư hay một Đấng Bảo Trợ, đó là Thần Khí sự thật.
Nhờ Ngài. công việc của Đức Giêsu sẽ luôn hiện thực trước những hoàn cảnh mới. Thánh Thần sẽ không lập lại những lời nói cũ mòn nhưng Ngài cách tân chúng theo dòng đời luôn luôn đổi mới.
Chính trong Ngài mà mối tương giao dấu ái với Đức Giêsu sẽ không ngừng nối kết những con người qua các thế kỷ; nó hệt như một ngọn lửa luôn chiếu sáng và sưởi ấm cõi lòng.
- Một Đấng Bảo trợ khác
Đấng Bảo Trợ, là từ Hi Lạp, thoạt đầu, theo nghĩa luật pháp, tức là trạng sư, người trợ lí, người bảo vệ. Về sau, từ này được dùng theo nghĩa rộng để chỉ người an ủi và người can thiệp giúp. Có điều lạ là từ này được áp dụng cho Đức Giêsu (trong thư thứ nhất của thánh Ga 2,1): “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” còn hầu hết thì chỉ Chúa Thánh Thần. Vì thế, nếu gán cho Chúa Thánh Thần mọi phẩm tính trên, ta sẽ thấy, nếu chỉ có một mình, người ta sẽ khó sống trung thành với Đức Kitô tới mức nào.
Nhưng đây cũng chính là sứ điệp của Đức Giêsu: các con sẽ không mồ côi, một mình. Đức Kitô vô hình nhường chỗ cho Đấng Bảo Trợ các tín hữu, mang đến cho họ những kháng độc tố cần thiết cho cuộc sống công chính theo Tin Mừng giữa muôn vàn thử thách. Tốt đẹp biết bao khi tin rằng- từ khi Đức Giêsu ra đi trong ngày Ngài lên trời- tất cả những gì được Đức Kitô thực hiện trên trần gian này một cách hữu hình đều do những người nam và người nữ đã mạo hiểm với niềm tin dũng cảm, đôi khi phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chính vì họ không đơn độc. Vị đạo diễn vĩ đại, hợp nhất toàn cả vũ trụ, hợp nhất Giáo Hội chính là Đấng Bảo Trợ vô hình, Người ân ban sức mạnh tràn trề cho những người yếu đuối nhất và lòng can đảm cho những kẻ nhát đảm nhất. Niềm ủi an của Chúa Thánh Thần sẽ như ngọn lửa lan truyền giữa các tín hữu từ đời này cho tới đời kia.
(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
- Đoạn này nằm trong văn mạch nào?
- Nhiệm vụ của Thần khí đối với các môn đồ sẽ hệ tại ở điểm nào? Tại sao Chúa Giêsu gọi Ngài là “Đấng Bầu chữa khác”? Có nhiều Đấng Bầu chữa sao?
- Làm sao giải thích việc thế gian sẽ không còn thấy Chúa Giêsu, nhưng các môn đồ sẽ thấy Người (18- 20)? Chúa Giêsu ám chỉ đến loại trở về nào đây?
- Câu 21 nói đến những lệnh truyền gì? Trong câu này phải chăng Chúa Giêsu xác nhận rằng tình yêu của chúng ta phải đi trước tình yêu của Người ?
CHÚ GIẢI
- Đoạn này là một phần lấy trong diễn từ giã biệt đầu tiên 13, 31 – 14, 31). Cho nên phải nghiên cứu nó theo văn mạch diễn từ ấy.
“Ta ra đi và Ta sẽ trở lại” Diễn từ giã biệt đầu tiên mang chủ đề chính là sự ra đi và trở lại của Chúa Giêsu. Người sắp bỏ các môn đồ để chịu khổ nạn và chết (13, 33. 36). Nhưng việc ra đi này cũng là trở về với Cha (14, 12 ; x. 14, 2tt), là tôn vinh Cha và con 3, 31- 32), vì trong Chúa Giêsu, Cha tự tỏ mình như Thiên Chúa cứu độ. Vì thế nên đến giờ chết là giờ Người được tôn vinh, Chúa Giêsu thực sự trở thành đường dẫn về Chúa Cha (14, 2- 6) và là kẻ mặc khải Cha (14, 7- 11). Ngoài ra, việc trở về của Chúa Giêsu bên cạnh Cha cũng là trở về với các thuộc nhân của Người, chứ không phải chỉ là việc kéo ơn Thần khí khi được tôn vinh mà thôi (14,16-26 ; x. 7, 39). Thật vậy, chính Chúa Giêsu sẽ trở lại với môn đồ không phải chỉ vì một ngày kia Người sẽ đem họ đi với người (14, 3), nhưng vì họ sẽ thấy Người “một ít nữa” (14, 18- 19). Người sẽ tỏ mình (14, 21) và sẽ cùng Chúa Cha đến với họ (14, 23).
Một trong những câu cuối cùng của diễn từ giã biệt thứ nhất này tóm tắt lời hứa ấy như sau: “Các con đã nghe Ta bảo các con: Ta ra đi và Ta sẽ đến với các con” (14, 28). Thành thử diễn từ có mục đích chuẩn bị các môn đồ trước các biến cố sắp tới, nó cũng nhắm làm vững mạnh đức tin của họ đang bị lung lay vì lời loan báo ra đi và lời tiên đoán việc Giuđa phản bội (13, 21 -30) cùng Phêrô chối Thầy (13, 36- 38).
Diễn từ mang hình thức một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và môn đồ. Nó mặc tính cách một bài quảng diễn theo 5 điểm (13, 31- 36b ; 13, 36b- 38 ; 14, 2- 6 ; 14, 7- 14 ; 14, 15- 24), điểm này bổ túc cho điểm kia và mỗi điểm gồm ba giai đoạn. Mỗi lần Chúa Giêsu đều khởi sự với một câu xác quyết huyền bí diễn tả bằng những ngôn từ song nghĩa mà các môn đồ không thể nắm được ý nghĩa đích thực, bấy giờ họ đặt câu hỏi. Và câu hỏi này cho Chúa Giêsu cơ hội để xác quyết lại và nói rõ tư tưởng của mình, đồng thời nâng các môn đồ lên lãnh vực của mầu nhiệm con người và công việc Người. Đây là phương pháp hành văn đặc thù của Gioan, một phương pháp ngoài ra còn mang ý nghĩa thần học sâu xa: tự sức nặng, các môn đồ, và cả chúng ta, chẳng tài nào thấu hiểu được ý nghĩa của các biến cố, ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đoạn văn của chúng ta thuộc về điểm thứ năm của diễn từ trong đó Chúa Giêsu hứa sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Người.
- Ngược lại với thế gian, các môn đồ nhờ đức tin đã nhận ra bên cạnh họ sự hiện diện của Thần khí trong con người Chúa Giêsu. “Các con biết Ngài vì Ngài lưu lại nơi các con” (17b). Họ được hứa ban một sự hiện diện mật thiết hơn và hữu hiệu thực sự. Lời hứa này được thực hiện khi Chúa Cha sẽ thông ban Thần khí cho họ theo lời xin của Chúa Giêsu vinh hiển: Ngài sẽ ở với họ (16b), trong họ (17b).
Trong bốn đoạn khác, Chúa Giêsu chỉ cho biết nhiệm vụ của Thần khí đối với các môn đồ sẽ hệ tại điểm nào: Ngài sẽ đào sâu đức tin của họ bằng cách làm cho họ hiểu, từ bên trong, cuộc đời và sứ điệp của Chúa Giêsu (14, 26 ; 16, 12- 15); Ngài sẽ củng cố họ vững vàng trước các đợt tấn công của thế gian và thúc đẩy họ làm chứng những gì đã biết (15,26-27); Ngài sẽ làm cho thế gian bất công đã từ khước Chúa Giêsu phải bẽ mặt (16, 7-11). Chính trong viễn tượng này mà Thần khí do Chúa Giêsu hứa ban là “Thần khí sự thật” (c. 17). Ngài sẽ đem mặc khải sự thật của Chúa Giêsu vào trong các tâm hồn, sẽ ban trí thông hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, về đời sống, cử chỉ, lời nói của Người, như thế Người sẽ soi sáng các hoàn cảnh mới mà người Kitô hữu phải đương đầu. Đồng thời Người cũng là “Đấng bầu chữa” (5, 26 ; 16, 7 ; 1 Ga 2, 1), không dành riêng để chỉ Thánh Thần đâu. Trong 1 Ga 2, 1 , Chúa Kitô cũng là Đấng Bầu Chữa, nghĩa là Người biện hộ cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha, và, trong bản văn chúng ta đang nghiên cứu đây, Thần khí được gọi là Đấng Bầu chữa khác, thay thế Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa nguyên thủy của từ ngữ vẫn được duy trì nhưng người ta chú trọng đến vai trò hơn là đến ngôi vị: Kẻ bầu chữa là người giúp đỡ, chuyển cầu, biện hộ hay là chứng nhân gỡ tội trước tòa án (x.15,26; 16,9; 1Ga 2, 1). Để đứng vững trước những biến cố đau thương đang báo điềm và trước thời gian cô đơn, cái thời gian mà như số phận Chúa Kitô phải chịu, là thời gian bách hại, các môn đồ cần có một sự nâng đỡ, một người hướng dẫn, một vị bảo trợ. Cho đến bây giờ, Chúa Giêsu đã phù trợ họ duy trì họ hiệp nhất với nhau và giữ gìn họ cho Chúa Cha (17,12). Đàn chiên đã có thể tin tưởng vào chủ chăn của mình: Nhưng giờ đây, chủ chăn ra đi, nên họ cần người trợ giúp khác. Vì thế Chúa Cha sai Ngài đến, nhân danh Chúa Giêsu (14, 26), như kẻ th.ay thế Chúa Giêsu (x. 14, 13), để tiếp tục công việc của Người qua trung gian các môn đồ vậy.
- Những câu làm thành đoạn văn chúng ta loan báo ba cuộc tỏ mình ba “lần đến”: việc ban Thần khí (cc.15-17), việc Chúa Giêsu trở lại bên cạnh các thuộc nhân của Người (cc. 18- 20), việc Người tỏ mình và cùng đến với Chúa Cha (cc.21-24). Không một cuộc tỏ mình nào trong ba lần đó tách rời một trong Ba Ngôi: Thần khí được Cha ban theo lời cầu xin của Chúa Giêsu; sự trở lại của Chúa Giêsu sẽ làm cho các môn đồ hiểu rằng Người hợp nhất với Cha, vì tình yêu của Người đối với môn đồ và tình yêu của Chúa Cha đối với họ chỉ là một; Người sẽ trở lại cùng với Chúa Cha. Tất cả đều cho thấy có một sự mạch lạc sâu xa giữa ba lần tỏ mình.
Trong cả ba trường hợp, việc tỏ mình nhằm cho các môn đồ chứ không nhằm cho thế gian (x.cc.17.19.22). Hạn từ sau cùng này ở đây chăng ám chỉ loài người mà “Thiên Chúa đã sai con Ngài đến để thế gian nhờ Người mà được cứu rỗi” (3,17 ; x.1, 29 ; 4, 42 ; 6, 33. 51 ; 12, 47), nhưng chỉ toàn thể những kẻ từ khước vị Thiên Chúa Cứu thế đó (ví dụ 1,10c ; 15, 1- 8t). Đoạn văn của chúng ta đây chứng nhận có một sự đối nghịch quyết hệt giữa thế gian ấy với Thiên Chúa. Đây là một thứ nhị nguyên, không phải thuộc lãnh vực “siêu hình”, như thể thế gian tự nguyên thủy là xấu, nhưng là một thứ nhị nguyên mà ta có thể gọi là “luân lý”. Có những người cố tình từ khước Thiên Chúa. Vì chẳng thừa nhận Chúa Giêsu và sứ điệp của Người, nên họ không tin vào Người (16, 9 ; 8, 23tt), không yêu mến Người (x.14, 22t), lại còn ghét Người nữa (15, 18). Tuy nhiên, Chúa Giêsu chẳng bảo rằng kẻ không tin kẻ đó chẳng có thể đạt đến đức tin và đức mến được đâu! Nhưng để đạt đến đó họ cần phải khước từ sự lệ thuộc vào thế gian. Tất cả đoạn văn chúng ta – ít nhất cách mặc nhiên – là một lời kêu gọi gửi đến mọi người để họ thực hiện một cuộc đổi đời cơ bản vậy.
Thành thử mặc dầu bản văn khởi sự với lời hứa ban Thần khí nhưng việc trở lại của Chúa Giêsu, như chúng ta đã bảo, vẫn được đặt lên hàng đầu, nếu chúng ta xét bài diễn từ trong toàn bộ của nó.
“Còn ít nữa thế gian sẽ chẳng thấy Ta” (c. 19a) . Do việc người chết đi mà, theo quan niệm của thế gian, Chúa Giêsu từ ấy thuộc về quá khứ. Nhưng cũng tại vì thế mà thế gian tự lên án chính mình: Chúa Giêsu sẽ không còn hiện diện cho họ nữa (so sánh với 7, 33t ; 21). Trái lại, đối với môn đồ, những tiếng “còn ít nữa” hàm chứa một lời hứa sẽ trở về (so sánh với 16, 16- 22): Chúa Giêsu sẽ trở về với họ (c. 18b). Xin lưu ý là trong câu này, việc trở lại được nhắc tới bằng động từ erchostai, động từ Gioan thường dùng để chỉ những lần hiện ra của Đấng Phục sinh (x.20,19.24.26). Đây có ý nói về hành động uy quyền tối cao của Chúa Phục sinh, của Chúa cánh chung, Đấng vẫn đến, mặc dầu cửa đóng kín nhưng Các môn đồ bấy giờ sẽ hưởng được một kinh nghiệm độc nhất vô nhị: “Các con sẽ thấy Ta sống”. Lời hứa ấy trở nên thực tại chiều ngày Vượt qua khi các môn đồ thấy Đấng phục sinh (x. 20, 20. 25)
Tuy nhiên chữ “các con sẽ thấy” không chỉ áp dụng cho việc quan sát bằng mắt và vào trạng huống Vượt qua mà thôi. Việc các môn đồ nhìn thấy Chúa Kitô còn là một nhận thức đích thực: nó đi liền với ý thức về sự hiệp nhất đời sống giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha, sự hiệp nhất mà các môn đồ sẽ đạt được nhờ Chúa Giêsu (c.20b). Họ cũng sẽ sống: “Các con sẽ thấy Ta sống, và các con cũng sẽ sống” (c.19b).
Các môn đồ sẽ hiểu được điều đó khi thấy Đấng phục sinh. Nhưng Chúa Giêsu đã bảo rằng Người sẽ không để họ mồ côi (c 18a). Lời hứa này cho thấy có một sự hiện diện mà lần hiện ra cuối cùng của Đấng phục sinh sẽ không chấm đứt. Trong ngày ấy Người nói, các con sẽ biết được là Ta ở trong Cha Ta, và các con ở trong Ta, và Ta ở trong các con” (c:20), “Ngày ấy” chỉ thời đại cánh chung khởi sự với việc Chúa được tôn vinh lúc Vượt qua và kéo dài suốt thời gian của Giáo Hội. Suốt thời gian chúng ta đang sống, thì Chúa vẫn đến và chúng ta vẫn thấy Người: không còn thấy như các môn đồ thấy Đấng phục sinh, nhưng là thấy bằng đức tin, là ý thức được một sự hiện diện và một sự thông hiệp đời sống. Tóm lại các câu 18-20 gợi lên vừa thực tại của các lần Chúa hiện ra sau khi sống lại, vừa kinh nghiệm sống của Giáo Hội sau biến cố Phục sinh.
- Cái kinh nghiệm của Giáo Hội này cũng được mô tả ở (cc. 21) Chúa Giêsu loan báo Người sẽ tỏ mình (c.21b), hay, như đã nói rõ sau lời cắt ngang của Giuđa, là sẽ cùng với Chúa Cha trở lại (c 23b). Tỏ mình và trở lại cho riêng những ai yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu này hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền của Người (c.21 ; xin xem c. 15 trong đó “giữ lệnh truyền” không phải là hậu quả, nhưng chính là bản chất của tình yêu đối với Chúa Giêsu) hay !ời Người (cc.23t). Hình như “lệnh truyền” và “lời” đều chỉ cùng một thực tại: mặc khải của Chúa Giêsu xét như là quy tắc hành động: “lời” nhấn mạnh đến yếu tố thứ nhất (mặc khải), “lệnh truyền” nhấn mạnh đến yếu tố thứ hai (quy tắc hành động).
Các bản văn khác của Gioan cho chúng ta biết các lệnh truyền này hệ tại điều gì: tình yêu huynh đệ (13, 34t ; 15,12- 24 ; 1 Ga 4,21), và lòng tin vào Chúa Giêsu như là Đấng được Cha sai đến (x. 16,27). Đó không phải là hai lệnh truyền tách rời nhau: tình yêu huynh đệ dựa trên lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng được sai đến để mặc khải và thực hiện tình yêu cứu độ của Chúa Cha cho hết mọi người. Nên, trong 1 Ga 3,23, đức tin và tình yêu huynh đệ được liên kết với nhau dưới một danh xưng “lệnh truyền”. Thành ra các môn đồ phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương họ (13, 34b ; 15, 12): nghĩa là theo gương người và còn hơn thế nữa, do bởi tình yêu của Người.
“Ai yêu mến Ta thì được Cha Ta yêu mến và Ta sẽ yêu mến kẻ ấy” (c. 21 ; x. c. 23a). Điều đó không có nghĩa là tình yêu của chúng ta có trước. Đúng hơn đây là một cuộc đối thoại tình yêu mà Chúa Cha và Chúa Giêsu đi bước đầu (x.1Ga 4,10. 19). Yêu mến Chúa Giêsu và do đó yêu mến anh em mình, tóm lại là tin vào anh yêu Thiên Chúa, là lãnh nhận tình yêu ấy, là đi vào trong sức năng động của nó và lưu lại trong đó: “Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các con. Hãy lưu lại trong lòng mến của Ta. Nếu các con giữ các lệnh truyền của Ta, các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (15, 9- 10a ; x. 17, 26). Đối với các môn đồ, tiếp nhận tình yêu của Chúa Cha mà Chúa Giêsu mặc khải, yêu mến anh em mình bằng tình yêu mà Chúa Giêsu yêu mến họ, là yêu mến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Vì thế nên trong tình yêu này, sự hiện diện của Chúa Giêsu và của Chúa Cha được thể hiện. “Chúng Ta sẽ đến với kẻ ấy và sẽ đặt chỗ nơi mình họ” (c.23). Đây chính là một sự hiện điện hỗ tương: các môn đồ lưu lại trong tình yêu Thiên Chúa, và Chúa Cha cùng Chúa Giêsu đặt chỗ ở trong mình họ.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x. 15, 10).
“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa: Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).
“Và Ngài ở trong các con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.
“Ta sẽ không bỏ các con mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.
“Ai yêu mến Ta, sẽ được Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga 4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.
KẾT LUẬN
Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ… Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.
- “Thần khí… mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn, một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.
- “Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
- Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.
- Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
69. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
NẾU NÓI YÊU THẦY MÀ KHÔNG GIỮ LỜI THẦY LÀ MÂU THUẪN
Khi nói đến tình yêu, ai cũng biết nó là một khái niệm trừu tượng, vô hình, không thể nhìn thấy bằng giác quan. Tuy nhiên, nó lại hiện diện trong những gì là hữu hình. Nếu không chấp nhận sự hiện hữu của nó qua hành động thì tình yêu không còn chỗ đứng đúng nghĩa. Cũng thế, tôi không thể yêu một cái gì đó, như bông hoa, con chim… mà trước đó tôi không hề biết gì về nó hay không hề có một khái niệm nào về chúng. Còn khi nói về tình yêu giữa người với người, chúng ta không thể nói tôi yêu người này, người kia mà tôi lại chưa một lần nghe kể, giáp mặt với người đó! Yêu nhau, chẳng lẽ lại bảo tôi yêu trong tư tưởng, tôi yêu trong khái niệm…??? Khi nói về tình yêu, chúng ta không có một định nghĩa nào mang tính chuẩn mực cho mọi tình huống, nhưng chỉ có một điều cụ thể: tình yêu là tổng hợp của cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu làm một cuộc trắc nghiệm và cũng như một điều kiện để biết được tình yêu của các môn đệ và cũng là của mỗi chúng ta với Ngài đang ở trong tình trạng như thế nào?.
Yêu mến và giữ Lời Chúa
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Lời nhắn nhủ này mang đượm tình nghĩa Thầy trò và có giá trị thiêng liêng khi mà tình cảnh chia ly sắp xảy ra với Đức Giêsu và các môn sinh trên bình diện tự nhiên để chuyển dần sang khía cạnh siêu nhiên.
Kẻ đi, người ở, biết bao là luyến tiếc, nhớ thương! Tuy nhiên, để hình ảnh của Thầy không bị lu mờ; tinh thần của Thầy không rơi vào quên lãng thì việc làm cho lời của Thầy sống động trong cuộc đời qua hành vi của mình là điều quan trọng. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15).
Yêu, giữ và thực hành lời của ai, thì cho dù người đó không còn hiện hữu trên bình diện tự nhiên, thì khí cạnh siêu nhiên họ vẫn sống qua cuộc đời và nơi hành vi của người yêu còn sống. Cũng vậy, khi các môn đệ yêu mến và giữ lời Đức Giêsu truyền dạy, thì các môn đệ trở nên hiện thân của chính vị Thầy mà mình là những người đang tiếp bước.
Quả thật, như một hệ luận, khi lắng nghe và giữ lời của Đức Giêsu, ấy là lúc các môn đệ được đi vào trong trung tâm của tình yêu. Được trở nên những người công chính và Thiên Chúa sẽ công chính hóa những ai yêu mến Lời của Đức Giêsu cách trung thành và đầy lòng mến.
Yêu và hành động
Yêu mến…. thì sẽ thực thi…. phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Đức Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Đức Giêsu gói trọn trong hai giới răn: “Mến Chúa và yêu người”. Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Đức Giêsu không chấp nhận một tình yêu trên bình diện lý thuyết, từ chương, hay một thứ tình yêu “cưỡi mây về gió”; hoặc“mông lung”. Vì thế, đã có nhiều lần Đức Giêsu phản đối những kinh sư và người Phrisêu: “Dân này Kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8); hay khi nói về tình yêu giả tạo, hào nhoáng, hình thức, Ngài nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23, 27), bởi vì họ là những người “ngôn hành bất tất”.
Như vậy, Đức Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu của người Tôi Trung với Thiên Chúa Cha và chiếu tỏa trên tha nhân trong vai trò là Đấng Cứu Chuộc.
Cùng một con đường, chung cách thể hiện, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ tiếp bước trên con đường mà Ngài đã đi, để tình yêu đó được nối dài, sống động và phong phú chứ không phải thứ tình yêu đóng khung, cứng ngắc.
Khi yêu như thế, các môn đệ đi vào trong một quỹ đạo của một tình yêu lớn hơn, được sống trong đó và tận hưởng tình yêu một cách sung mãn: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy” (Ga 14,21).
Như vậy, chữ “nếu” không có nghĩa rộng là thích thì làm, không làm cũng chẳng sao. Nhưng chữ “nếu ” mà Đức Giêsu muốn nói ở đây phải hiểu theo nghĩa hẹp, tức là điều kiện thiết yếu, không có không được. Chữ “nếu” ở đây liên kết hai mặt của một tình yêu, nó đóng vai trò trung gian duy nhất để như một điều kiện cần phải có: “yêu Chúa” và“giữ lời Ngài” để từ đó phát sinh hệ luận là “yêu tha nhân như chính Thầy” (x. Ga 13, 34).
Như vậy, Đức Giêsu xác định thật rõ rằng: tình yêu chân chính thì phải được biểu lộ qua hành động. Không thể yêu cách vu vơ, chung chung…
Sống lời dạy của Đức Giêsu trong đời sống kitô hữu
Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26). Tin Chúa, đi theo Chúa và yêu mến Chúa thì phải giữ lời và thi hành những gì Ngài truyền dạy. Đây là một điều khó khăn, không dễ. Nó đòi hỏi con người phải cố gắng, phải từ bỏ và phải yêu mến lời thực sự: “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16).
Sống trong thời buổi ngày nay, chúng ta cần phải trung thành với lời Chúa và can đảm thực thi Lời ấy trong cuộc sống, làm cho lời Chúa trở nên thực sự sống động qua cuộc đời chứng tá của mỗi chúng ta.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Trở thành môn đệ của Ngài. Như thế, điều mà Đức Giêsu muốn các môn đệ khi xưa cũng là điều mà Ngài muốn mỗi người chúng ta thi hành.
Thật vậy, chúng ta không thể nói yêu Chúa trên đầu môi chóp lưỡi. Yêu như thế là tình yêu giả tạo. Yêu như thế là chúng ta đang xúc phạm đến bản chất của tình yêu giữa ta với Đức Giêsu. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
“Thương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào”. (Ca dao)
Nói yêu, nhưng không khai thông tình yêu đó bằng hành động thì chỉ như là một thứ tình yêu đất đá mà thôi.
Tuy nhiên, trái tim trai cứng, vô cảm này lại quá nhiều trong thời đại chúng ta. Nếu có ai đặt một câu hỏi: “Ông, bà anh chị em có yêu và tin Chúa không?” Có lẽ nhiều người trả lời là “có”, nhưng cũng không ít người khinh thường người hỏi, vì cho rằng câu hỏi đó vớ vẩn! Có đạo mà lại không yêu Chúa thì phải chăng là người dở hơi! Nhưng nếu hỏi tiếp: “Vậy ông bà, anh chị em, giữ đạo hay sống đạo?” Tới đây, chúng ta bắt đầu khựng lại và có lẽ cảm thấy xấu hổ vì nhiều khi niềm tin của chúng ta ở trong chứng minh thư, trong sổ rửa tội, còn ở trong tâm, được thể hiện qua hành động thì ít lắm.
Một Giáo xứ toàn tòng Công Giáo, tức là 100% người theo đạo, nhưng nếu giữ đạo được khoảng 60% là tốt lắm rồi, con sống đạo đúng nghĩa, có lẽ đếm trên đầu ngón tay!
Đây là một thực trạng thật tại Việt Nam chúng ta.
Đến đây, xin được kể một câu chuyện có thật của một vị linh mục đã trọng tuổi, ngài sống ở Mỹ. Sau 50 năm, ngài mới trở về Việt Nam lần đầu, và nhân dịp gặp gỡ chúng tôi, ngài kể: “Cách đây 50 năm, tại đất nước Mỹ, người ta có lòng sùng đạo. Nhà thờ được xây cất rất nhiều, các cuộc rước linh đình, lòng sùng đạo rất tốt. Nhìn chung, tình hình giữ đạo rất giống Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau 50 năm, nhiều nhà thờ đã không còn có người đi lễ nữa. Nhiều dòng tu cũng vắng dần các ơn gọi trẻ. Đã có những nhà thờ và dòng tu phải bán đi vì không có tiền đóng thuế. Các linh mục phải đi theo họ đến những nơi du lịch để giải tội và dâng lễ. Nhiều Chủng Viện gom lại thành một, mà số lượng chủng sinh vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu có ai siêng đi lễ thì đôi khi nhận được những lời dè bửu và cho là bất thường. Những người được coi bình thường là cả đời người ta đến nhà thờ 3 lần: một lần Rửa Tội; lần khác là lễ cưới; và lần cuối cùng là chết. Trong ba lần đó, hai lần thụ động, tức là lúc Rửa Tội và lúc chết, còn một lần chủ động là lễ cưới. Điều đáng nói là dân Mỹ coi đây như là một thủ tục phải có trong đời mà thôi, và họ cho rằng mình thuộc thành phần bình thường”.
Sau đó, ngài đưa ra nhận xét: “Nếu Giáo Hội Việt Nam không coi đó là kinh nghiệm cho chính mình, không tập trú vào việc đào tạo lương tâm, không có những hoạt động phù hợp… nhằm giúp cho con cái mình sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, thì tình trạng của Giáo Hội Mỹ cũng là hình ảnh, thực trạng của Giáo Hội chúng ta trong tương lai???”.
Đến đây, xin để lại nơi bạn và tôi câu hỏi: “Bấy lâu nay, chúng ta đã thực sự sống đạo hay chỉ là giữ đạo vì sợ tội, sợ mất linh hồn, sợ mất danh dự, sợ bị mang tiếng…?”; “Phải chăng chúng ta đã, đang an tâm với những thành quả về số lượng, mà quên đi, hay không cú tâm đến chất lượng tâm linh?”. Tưởng cũng nên nói thêm: giữ đạo là điều tốt, nhưng sống đạo mới là người trưởng thành.
Mong sao mỗi chúng ta cố gắng đan kết giữa việc giữ và sống đạo trong đời sống, để:“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắngcủa con người ngày nay, nhất là của những người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Thánh Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ và một lòng mến dồi dào. Khi chúng con nói được rằng chúng con tin vào Chúa và thực thi giới răn của Ngài, thì chúng con biết sống những điều đó bằng một đời sống cụ thể. Để cuộc sống của chúng con là một chứng từ sống động cho mọi người nhận biết Chúa. Amen.
70. Tuân giữ giới răn là mến Chúa thực sự
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giê-su trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Đức Giê-su hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng. Những ai thực sự yêu mến Người thì phải tuân giữ các giới răn của Người. Ai làm như vậy thì sẽ được Chúa Cha yêu mến và bày tỏ sự thật về Ngài cho họ biết.
CHÚ THÍCH:
– C 15-17: + Nếu anh em yêu mến Thầy…: Đối với Đức Giê-su, tình yêu không chỉ dừng lại ở tình cảm dạt dào hay ở xúc động thể xác, mà phải được biểu lộ trong hành động vâng phục là sự tuân giữ các giới răn của Người, cũng như Người đã yêu mến Chúa Cha và tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (x. Ga 15,10). + Đấng Bảo Trợ khác: Bảo Trợ tiếng Hy Lạp là Pa-ra-cle-tos, ám chỉ một người được mời đến để làm trạng sư bênh vực và bầu chữa cho bị cáo khi tòa án xét xử. Ở đây Thánh Thần sẽ bầu chữa cho các môn đệ trong vụ kiện thế gian trước tòa án của Thiên Chúa. Như vậy chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su (x. 1 Tm 2,5), nhưng lại có hai Đấng Bảo Trợ: Một là “Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính” (x. 1 Ga 2,1), cũng là “Đấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (x. Dt 7,25); Hai là Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác (x. Ga 14,16) là “chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả” (x. Rm 8,26). + Đến ở với anh em luôn mãi: Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su sẽ hoàn tất khi Người được Chúa Cha tôn vinh (x. Ga 7,39), nghĩa là khi Người tắt thở trên cây thập giá (x. Ga 19,30). Từ đó Người trao ban Thần Khí là Chúa Thánh Thần cho nhân loại để thực hiện một cuộc tạo thành mới. Thời kỳ của Chúa Thánh Thần sẽ kéo dài mãi đến ngày tận thế. + Thần Chân Lý: là Thánh Thần, phát xuất từ Đức Giê-su là chân lý (x. Ga 14,6), Đấng luôn nói sự thật của Chúa Cha (x. Ga 12,49) và sau khi phục sinh đã thổi hơi ban Thần Khí cho các tông đồ (x. Ga 20,22). Thần Chân Lý đối lập với ma quỷ là cha của sự dối trá (x. Ga 8,44). + Đấng mà thế gian không thể đón nhận: Vì Thánh Thần là Thần Khí thiêng liêng, nên thế gian không xem thấy và không thể đón nhận Người. Thế gian ở đây là các đầu mục dân Do thái, những kẻ có lòng kiêu căng, ích kỷ, thù hận, không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Họ không biết và không muốn đón nhận Thánh Thần của Đức Giê-su nên sẽ bị chết trong tội của mình (x. Ga 8,22-24). + Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em: Các tông đồ nhờ đức tin sẽ đón nhận Thánh Thần, nên sẽ được Người hiện diện ở giữa và dạy dỗ họ về sự thật toàn vẹn.
– C 18-19: + Thầy sẽ không để anh em mồ côi…: Mồ côi là tình trạng con cái bị mất cha mẹ nên không được ai chăm sóc nuôi dưỡng, học trò bị mất thầy nên không được ai dạy dỗ hướng dẫn. Ở đây Đức Giê-su muốn nói: sau khi từ cõi chết sống lại, dù Người không còn ở với các môn đệ như lúc này, nhưng Người sẽ vẫn luôn ở cùng các ông nhờ đức tin và ơn thánh. + Chẳng bao lâu nữa: Người hứa sẽ mau trở lại (x. Ga 16,19.22). + Thế gian sẽ không còn thấy Thầy: Đức Giê-su sắp chịu chết và người đời sẽ không còn thấy Người sau khi Người sống lại, vì từ nay Người không còn hiện diện bằng thân xác vật chất nữa. + Anh em được thấy Thầy: Chữ thấy ở đây là thấy bằng đức tin, nghĩa là tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa. Nhờ tin, các ông sẽ được tham dự vào sự sống siêu nhiên và được kết hiệp mật thiết với Người.
– C 20-21: + Ngày đó: là kiểu nói thường dùng trong Cựu Ước để chỉ ngày Chúa lại đến, tức là ngày cánh chung hay tận thế (x. Is 2,17; 4,1). + Thầy ở trong Cha Thầy và Thầy ở trong anh em: Nhờ vào sự thấy được bằng đức tin như vậy, các môn đệ sẽ khám phá ra đời sống kết hiệp thâm sâu giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 14,11), đồng thời cũng cảm nghiệm được sự liên kết mật thiết giữa họ với Chúa Giê-su Phục Sinh bằng đức tin và ân sủng. + Ai có và giữ các điều răn của Thầy…: Lòng mến Chúa không phải chỉ dừng lại ở tình cảm và lời nói, nhưng phải được thể hiện qua hành động tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhất là sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Ga 13,34). + Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến…: Câu này không có nghĩa là Thiên Chúa chỉ yêu mến những ai yêu mến Chúa Giê-su, vì Thiên Chúa yêu hết mọi người và yêu họ trước (x. 1 Ga 4,10). Nhưng những ai yêu mến và vâng lời Đức Giê-su thì càng được Thiên Chúa yêu mến hơn, với danh nghĩa họ là nghĩa tử của Người và là chi thể của Đầu Nhiệm Thể là chính Người.
CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đòi người ta phải thể hiện tình yêu đối với Người thế nào? 2) Bảo trợ nghĩa là gì? Loài người chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là ai? Nhưng chúng ta lại có hai Đấng Bảo Trợ là những Vị nào? 3) Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su chấm dứt khi nào? Đấng nào khác sẽ tiếp tục sứ mạng cứu độ ấy cho đến tận thế? 4) Thần Chân Lý là ai? Phát xuất từ Đấng nào? Đối lập với ai? 5) Tại sao thế gian không thể đón nhận được Thần Chân Lý? Các tông đồ phải làm gì để đón nhận được Ngài?
- SỐNG LỜI CHÚA
- Lời Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).
- Câu chuyện: TẤM GƯƠNG YÊU THƯƠNG CHẾT THAY CHO NGƯỜI KHÁC:
Một buổi sáng tháng 7 năm 1941, trong trại tập trung OS-WIC-CIM của Đức quốc xã tại nước Ba-lan, lính canh phát hiện có một tù nhân đã vượt ngục trong đêm. Theo thông lệ: mười tù nhân khác phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Bấy giờ tên trưởng trại lần lượt kêu tên mười tù nhân xếp hàng vào hầm chết đói. Khi nghe đọc tên, từng người run rẩy sợ hãi bước ra khỏi hàng tiến ra phía trước. Bỗng nhiên một người trong bọn nghe kêu tên đã bật khóc và la to lên: “Ối vợ con tôi ơi! Thế là từ nay tôi không bao giờ được đoàn tụ với vợ con rồi”.
Hàng ngàn tù nhân đứng xếp hàng đều hồi hộp nín thở và mừng thầm vì mình được thoát chết. Đột nhiên có một tù nhân dáng người gầy yếu đang từ trong hàng ngũ tù nhân bên trái tách ra tiến đến gần viên trưởng trại. Bấy giờ tên này liền rút súng lục đeo bên người ra chĩa nòng súng về phía người tù kia hỏi:
- X) Thằng kia, đứng lại ngay! Mày muốn gì?
– Tôi muốn chết thay cho một người trong nhóm mười người sắp bị trừng phạt kia.
Viên trưởng trại tỏ vẻ sửng sốt tưởng mình nghe lầm và hỏi:
– Tại sao mày lại làm điều khờ dại ngu ngốc như thế?
– Tôi là một linh mục công giáo không có gia đình, nên tôi xin chịu chết thay cho người có vợ con kia.
Cuối cùng, viên trưởng trại đã đồng ý theo lời yêu cầu và cho kẻ tình nguyện chết nghĩa là ập vào hàng người tiến đến hầm chết đói. Tù nhân nói trên không ai khác hơn là cha MA-XI-MI-LI-EN KÔN-BÊ. Qua việc tình nguyện hy sinh tính mạng cho một người không quen biết, cha đã biểu lộ tấm lòng mến Chúa một cách rõ nét nghĩa là ất. Hành động của cha khiến cho nhiều người từ cai ngục đến các tù nhân hiện diện đều nể phục và nghĩa là ờ đó họ đã tin vào lòng Chúa thương xót. Về sau vào ngày 10/10/1982 tại Roma Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã phong cha Kôn-bê lên bậc hiển thánh để nêu gương thánh thiện thực sự cho các tín hữu chúng ta.
- Suy niệm:
Nội dung Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su nghĩa là ắn nghĩa là ủ các môn đệ trước khi ra đi chịu khổ nạn như sau: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Đức Giê-su không đòi các môn đệ phải yêu mến Người bằng thứ tình yêu cảm tính, dù tình cảm ấy cũng có giá trị thúc bách các ông hăng say phục vụ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).
1) HAI LOẠI TÌNH YÊU:
Người ta thường phân chia tình yêu thành hai loại là tình yêu ích kỷ hoặc vị tha:
* Tình yêu ích kỷ: Là thứ tình yêu giả dối, vì đối tượng không phải là tha nhân, nhưng là chính mình. Nói cách khác: người có loại tình yêu này chỉ coi người yêu như phương thế giúp họ tìm kiếm lợi ích bản thân.
* Tình yêu vị tha: Là thứ tình yêu đích thực, thể hiện qua việc quên mình để nghĩ đến người yêu và tìm làm nghĩa là ững điều mang lại lợi ích thực sự cho họ.
2) BA CẤP SỐNG ĐẠO: Dựa theo tiêu chuẩn tuân giữ lời Chúa mà người tín hữu được phân làm ba cấp như sau:
* Một là người có đạo: Là nghĩa là ững kẻ đã chịu phép thánh tẩy, nhưng không quan tâm học biết Chúa. Loai người này thường có thái độ vô tâm vô cảm, luôn làm ngơ trước nghĩa là ững nhu cầu của tha nhân như dụ ngôn ông phú hộ làm ngơ trước anh La-da-rô nghèo khó bệnh tật đang nằm trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-21).
* Cấp hai là giữ đạo: Là nghĩa là ững tín hữu có lối giữ đạo hình thức lễ nghi bề ngoài, không quan tâm sống theo Lời Chúa, và luôn chiều theo ý riêng của mình.
* Cấp ba là sống đạo: Là nghĩa là ững người vừa chu toàn luật đạo, lại vừa sống đức Tin cụ thể bằng việc thực hành đức Cậy là siêng năng đọc kinh dự lễ, và thi hành đức Mến là quan tâm phục vụ tha nhân như lời Chúa Giê-su phán: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy nghĩa là ững công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Nghĩa là 5,16).
3) HÃY YÊU THƯƠNG BẰNG VIỆC LÀM:
- a) Thánh Gio-an dạy lòng mến Chúa phải thể hiện qua đức yêu người như sau: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy được” (1 Ga 4,20). Khi yêu thương phục vụ nghĩa là ững kẻ đói khát, bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đang yêu thương và phục vụ chính Đức Giê-su (x. Nghĩa là 25,40).
- b) Tình yêu phải biểu lộ qua một số hành động cụ thể như sau:
– Năng nghĩ đến và ước muốn gặp gỡ để tâm sự với người yêu lâu giờ.
– Luôn sãn sàng quên mình phục vụ tha nhân và làm cho họ được hạnh phúc.
– Quảng đại cho đi nghĩa là ững món quà tình cảm mà không mong được báo đền. Yêu nhiều thì sẽ quảng đại cho nhiều mà không tính toán thiệt hơn.
– Không chấp nghĩa là ất nghĩa là ững sai lỗi nghĩa là ỏ mọn về lời nói, nghĩa là ững lối ứng xử vụng về… và sẵn sàng chịu đựng cả nghĩa là ững lầm lỗi khuyết điểm của họ.
– Hy sinh chịu thiệt thòi vì người yêu: nếu cần người ta sẽ sẵn sàng chịu thiệt thòi về danh vọng, chức quyền, tiền bạc, của cải… để người yêu được hạnh phúc.
– Tình yêu sẽ lên đến tột đỉnh khi một người biết hy sinh tính mạng, như lời Chúa: ”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
4) Chúng ta phải làm gì?:
- a) Điều quan trọng hiện nay là phải biết thể hiện lòng mến Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn như sau: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Nhưng giới răn ấy là gì? Giới răn quan trọng nghĩa là ất là thương yêu anh em: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 12,34). “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (Ga 4,20).
- b) Hiện nay nhiều người trong chúng ta đã thể hiện tình yêu bằng lời nói hơn là hành động: Có nghĩa là ững đứa con lười biếng làm việc nhà, ăn nói dối trá, thích gây gỗ và đánh lộn với chúng bạn… gây phiền não cho cha mẹ và thầy cô. Có nghĩa là ững ông chồng thường đi chơi tại nghĩa là ững hộp đêm sang trọng, chơi bài bạc cá độ thua sạch tiền khiến vợ con lâm cảnh đói khát. Có nghĩa là ững bà vợ ỷ mình có tiền nên ăn nói thô lỗ cộc cằn, ghen bóng ghen gió hoặc chấp vặt khiến chồng con phiền lòng…
- Thảo luận:
1) Yêu thương bằng việc làm là biết nghĩ đến người khác, xét đoán ý tốt và ước muốn điều tốt cho người mình không ưa, là sẵn sàng chịu đựng và khoan dung tha thứ những sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình, là quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, là năng thăm viếng an ủi những người đau khổ và giúp đỡ những người cô đơn, là săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Bạn đã thực hành được điều nào trong các điều này rồi? 2) Trong những ngày sắp tới, bạn quyết tâm sẽ làm gì để sống tình yêu thương cụ thể đối với tha nhân?
- Lời cầu:
– Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời chúng con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa, bình an làm cho chúng con vững tâm khi gặp phải các cơn sóng gió giữa biển đời. Xin ban cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui rạng rỡ. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần sẽ biến đổi cuộc đời chúng con ngày một nên giống Chúa Cha trên trời.
– Lạy Chúa. Qua Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng Chúa muốn chúng con tuân giữ các huấn lệnh vì lòng yêu mến Chúa, hơn là để được ban thưởng hạnh phúc thiên đàng, và không dám phạm tội trọng chỉ vì sợ bị Chúa phạt xuống hỏa ngục đời đời. Xin giúp chúng con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Me Ma-ri-a: Luôn lắng nghe lời Chúa và mau mắn thưa xin vâng. Cho chúng con biết quan tâm tìm hiểu nhu cầu của tha nhân và sẵn sàng đáp ứng. Cho chúng con luôn nghĩ đến những người bệnh tật, nghèo khổ và bất hạnh, để chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ chứng tỏ lòng mến Chúa thực sự và xứng đáng được liệt vào số các môn đệ trung thành với Chúa đến cùng.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Anh chị em thân mến.
Một bà mẹ trẻ đưa con vào bệnh viện với sự lo âu hiện rỏ trên nét mặt. Có lẽ đã nhiều ngày bà không an tâm với tình trạng của con mình. Cũng có lẽ bà đã mang con đi rất nhiều nơi nhưng không kết quả. Bà dường như van xin các y tá và bác sĩ, bà không còn nhận ra những người chung quanh là ai, cũng không còn biết mình là ai. Bà khóc lóc van xin mọi người làm sao cứu lấy con bà, cho nó được sống. Các bác sĩ lúc đầu dường như có vẻ hơi trách móc bà vì sao đưa con đến bệnh viện quá trễ. Nhưng nhìn thái độ của bà như thế, họ không còn trách móc nữa mà chú tâm lo cho đứa trẻ. Một lúc sau có người bao tin cho bà biết, con bà đã ổn rồi, không phải lo gì nữa. Khi đó bà dường như không còn chút sức lực nào nữa, bà quỳ xuống và cám ơn rối rít.
Tôi chợt suy nghĩ, tại sao bà mẹ trẻ có thể bất chấp đám đông, không còn chút e ngại, làm những cử chỉ mà bình thường, bà không thể nào làm được giữa nơi đông người như thế. Thưa đó là Tình Yêu, thật thế, chỉ có tình yêu mới có sức mạnh như thế, chỉ có tình yêu mới làm cho bà mẹ trẻ vượt qua sức lực yếu đuối của chính mình mà mang con đi đến những nơi cần thiết. Cũng chỉ có tình yêu mới làm cho con bà được sống. Sức mạnh của Tình Yêu vượt lên trên tất cả.
“Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng phù trợ khác để ở với anh em luôn mãi”. Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài về sức mạnh của Tình Yêu. Nếu tình yêu còn hiện diện thì còn sự sống, mà sống trong tình yêu thì không còn lo âu sợ hãi điều gì nữa. Tình yêu mách bảo cho biết phải làm gì để chứng tỏ lòng yêu thương thật sự, và khi sống cho tình yêu thì trong mọi công việc, như có chính người yêu hiện diện trong cuộc sống mà không phải lo lắng gì nữa.
Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ Ngài sức mạnh để các ông sống và chu toàn trách nhiệm mà Ngài trao phó cho các ông. Sức mạnh mà các Tông đồ lãnh nhận và đã sống, các ông cũng đã truyền lại cho những ai tin theo lời rao giảng của các Ngài.
Mỗi người trong chúng ta cũng nhận được sức mạnh tình yêu đó, một sức sống mãnh liệt mà các Tông Đồ truyền lại cho những kẻ tin. Một người còn biết yêu thương là còn đang sống, khi không còn biết yêu thương, thì cho dù người đó đang sống, xem như họ đã chết. Chúng ta nhìn xem, hiện tại mình đang sống hay đã chết.
Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được những công việc phải làm, cho dù vất vả, cho dù khó nhọc đến đâu, nhưng chúng ta vẫn can đảm vượt qua, để khi nhìn lại, đôi khi chúng ta cũng ngỡ ngàng không biết làm sao mình có thể sống được đến ngày hôm nay. Đó là vì chúng ta biết yêu thương, nên sức mạnh của Tình Yêu giúp chúng ta vượt qua.
Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng biết lắng nghe, cho dù đó là những lời chói tai, những lời làm cho mình phải đau đớn, hay những lời nói làm cho mình phải bị mất mát thiệt thòi, nhưng nhờ những lời nói đó làm cho con tim chúng ta rung động để phải làm những việc nên làm. Đó là chúng ta đang sống trong tình yêu.
Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta không thể ngồi yên khi có việc cần đến mình, để luôn hành động khi biết đó là một việc tốt, có khi công việc đó chiếm thời giờ và công sức không ít, nhưng vẫn không ngần ngại. Đó cũng là nhờ sức mạnh của Tình Yêu.
Nhưng nếu chúng ta so đo và tính toán thiệt hơn, chỉ mong muốn lợi lộc về cho mình, còng người khác thì “sống chết mặc bây”. Khi đó con tim chúng ta đã chay lì khô cứng, nó đã chết từ thuở nào. Khi đó làm sao chúng ta có cái cảm giác yêu thương như bà mẹ trẻ, khi biết con mình được cứu sống. Như thế làm sao chúng biết được cuộc sống có ý nghĩa như thế nào, nếu không biết yêu thương. Hơn nữa, là một người Công Giáo, là Môn Đệ Chúa Giêsu, làm sao chúng ta có thể chu toàn lề luật của Ngài được, nếu không biết Yêu Thương.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban thêm sức mạnh và can đảm cho chúng ta, để chúng ta biết yêu thương như Ngài đã yêu thương.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.
Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy giao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.
Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.
Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn là con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.
Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.
Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Đức Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Đức Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.
Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 23, 24).
Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Đúc Giêsu và tuân giữ lời Người.
Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Đức Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.
Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).
Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuốn đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Cộng đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo Hội, và trong lòng thế giới:
Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.
Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.
Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
73. Chúa Nhật 6 PS – Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê
Chúa nhật cuối của Mùa phục sinh chuẩn bị cho Lễ Hiện Xuống. Phụng vụ trình bày Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần, Đấng đã làm cho Ngài sống lại, Đấng mà Các Tông Đồ, nhân danh Đức Giêsu thông ban cho những người Samaria khi lãnh nhận phép rửa.” Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Phù Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”, Đức Giêsu hứa như thế trong bài tin Mừng. Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô nói: “Đức Kitô đã chết một lần vì tội lỗi… nhưng nhờ Thần Khí Người đã được phục sinh” (Bài đọc 2). Và Thánh Luca trong bài sách công vụ tông đồ, thuật lại việc Phêrô và Gioan “cầu nguyện cho những người dân Samaria để họ nhận được Thánh Thần” (bài đọc 1).
Trong lịch sử cứu độ, có sự diễn tiến hài hòa các biến cố biểu hiện tác động của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhằm cứu độ con người. Chúa Cha là nguồn mạch mọi chương trình cứu độ. Vì tình yêu đối với nhân loại, Ngài đã sai Con của Ngài đến để cứu độ con người và phục hồi lại địa vị làm con. Một khi Chúa Con hoàn tất sứ mạng của Ngài trên trần gian, Thánh Thần được gởi đến để đồng hành với con người trong cuộc lữ hành trần gian tiến về Chúa Cha. Phụng vụ hôm nay trình bày Đức Giêsu hứa với các môn đệ rằng Ngài sẽ gởi Thánh Thần đến, để Ngài ở với họ luôn mãi. Vì sao Đức Giêsu Kitô hứa với họ như thế? Để các ông không cảm thấy mồ côi, vì Đức Giêsu sắp phải chết và trở về nhà Chúa Cha. Đức Giêsu bảo họ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ đến cùng anh em” (tin Mừng) không phải bằng chính con người của Ngài, nhưng nhờ Thánh Thần. Thánh Thần mà Đức Giêsu hứa, trước tiên là Đấng Bảo Trợ, nghĩa là Đấng an ủi, trạng sư, đấng ban sự sống, Đấng sáng soi. Các môn đệ và các kitô hữu tiên khởi đã có kinh nghiệm đặc biệt về sự hiện diện quyền năng và soi sáng của Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Ngài cũng là Thần chân lý, mạc khải Thiên Chúa cho con nguời, nhờ Ngài Thiên Chúa soi sáng cho mọi người biết được ý nghĩa đích thực của đời mình và lý do hiện hữu của mình. Chân lý này được các môn đệ chấp nhận, công bố và tuyên xưng, bảo vệ chống lại sự dối trá của thế gian. Hơn nữa, Ngài còn là Thần Khí ban sự sống, Đấng đã phục sinh Đức Giêsu (bài đọc 2) và soi sáng trí lòng các kitô hữu tin nhận Tin Mừng, như trường hợp các người dân Samaria (Bài đọc 2). Thần Khí sự sống của Thiên Chúa là chính sự sống, mà Ong Môsê đã thấy nơi bụi gai bốc cháy nơi chân núi Sinai, vẫn tiếp tục bùng cháy lên không bao giờ tàn lụi. Sau cùng, Thánh Thần là Đấng thúc đẩy việc rao giảng tin Mừng, cả cho người do thái lẫn dân Samaria, dân ngoại. Vì thế, các nhà chú giải sách Công Vụ nói đến ba lễ Hiện Xuống, hiện xuống của người do thái tại Giêrusalem (Cv 2) hiện xuống của người dân Samaria (Cv 8) và hiện xuống của dân ngoại (Cv 10). Cùng với việc nhận lãnh Thánh Thần, việc rao giảng Tin Mừng thu lượm nhiều kết quả và càng ngày càng có nhiều người tin vào Đức Kitô. Bằng cách này, Thần Khí đã làm những lời của Đức Giêsu trở thành hiện thực: “Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình cho người ấy”.
Những ai sống thánh đều hiểu và kinh nghiệm rằng Thiên Chúa luôn thực thi lời Ngài hứa. Đối với các kitô hữu tiên khởi, đây là một sự thật không thể chối cãi được. Tuy nhiên lời hứa của Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục được thực hiện giữa nhân loại ngay cả hôm nay. Dĩ nhiên, ta cần phải ý thức rằng Thiên Chúa không hứa ban thứ hạnh phúc như kiểu trần gian.
Ngài không hứa một “Giáo Hội” không có vấn đề hoặc không có những bất đồng, không có những anh chị em sai lỗi, luôn tử tế và nhã nhặn. Ngài không hứa giải thoát chúng ta khỏi mọi vu khống, bách hại, thờ ơ, khỏi cách cư xử xấu và ngay cả tử đạo. Ngài chỉ hứa ban Thánh Thần, Thần Khí của Ngài để cho ta có thể hạnh phúc một cách mới mẻ, khác với tâm thức của người trần gian.
Ngài ban cho ta một cái nhìn mới về thế giới và về Giáo Hội với lòng tin, lạc quan, bình an và lòng mến. Ngài ban cho ta một trái tim quảng đại để rộng mở đón nhận các anh chị em trong lòng tin cùng với những nỗi yếu đuối khổ đau của họ, cùng với những phẩm tính và nhân đức của họ, cùng với lòng tin chân thực, lòng cậy trông và lòng mến của họ. Ngài ban cho ta ơn tìm kiếm tự do đích thực, tự do nội tâm và từ đó có thể giúp giải thoát mọi người khác khỏi thế lực xấu của thế gian.
Bởi vì Thiên Chúa luôn thực hiện lời Ngài hứa, cộng đoàn chúng ta phải hân hoan và kiên vững trong lòng tin. Thay vì muốn nhắm mắt trước những sự dữ đang xảy ra, lời Chúa hứa luôn tiếp tục được hiện thực giữa cộng đoàn chúng ta. Nếu ta không nhận ra, có lẽ vì đức tin ta còn yếu kém hoặc có khi bệnh hoạn chăng?
Trái lại, khi lưu tâm đến những nghi hoặc những rắc rối của các kitô hữu trong việc hiểu và sống đức tin của họ, sự hiện diện của Thần Chân lý sẽ làm cộng đoàn kitô hữu vững mạnh và xây dựng một lòng tin mạnh mẽ. Niềm tin của ta không cậy dựa nơi loài người, cho dù có tương đắc đi chăng nữa, cũng không cậy dựa nơi các thiên sứ, nhưng chỉ cậy dựa vào Thần Khí Chúa, Thần Chân Lý, Đấng là Thầy dạy tâm hồn, chứng thực mạc khải của Thiên Chúa và thúc đẩy sự đáp trả lòng tin của con người.
74. Chân lý… ở với các con và ở trong các con
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh hôm nay tiếp tục chủ đề “Thày là sự sống” như hai Chúa Nhật Phục Sinh IV và V trước đây, cũng như Chúa Nhật Phục Sinh VII tới đây. Nếu chủ đề “Thày là sự sống” của Chúa Nhật IV Phục Sinh liên quan đến tác giả sự sống là “chủ chiên”, và của Chúa Nhật V Phục Sinh liên quan đến tác động sự sống là “tin”, thì của Chúa Nhật VI tuần này liên quan đến tác nhân sự sống là Thánh Thần. Thật vậy, nếu “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống”, như Kinh Tin Kính tuyên xưng, thì quả thực, không có Ngài là “mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (Jn 4:14; x 7:37-39), không ai có thể” được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Mà “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3), nên “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” tức Ngài là Đấng làm cho con người “tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày” (Jn 14:1), làm cho họ “tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:11).
Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, Lời Nhập Thể đã gọi Thánh Thần là “Thần Chân Lý”, “Đấng thấu suốt mọi sự, kể cả thâm tâm Thiên Chúa” (1Cor 2:10). Như Ngài chỉ “là Đấng ban sự sống” chứ không phải là chính “sự sống” giống Lời Nhập Thể (Jn 14:6, 11:25; x 1Jn 5:11-12) thế nào, Ngài cũng không phải là “chân lý” như Lời Nhập Thể, “hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3), mà chỉ là “Thần Chân Lý”, Vị Thần Linh của cả Cha lẫn Con, như Con Mắt Thần Linh nơi Nội Tâm Thiên Chúa, hay chính là Ý Thức Thần Linh nơi Thiên Chúa, khiến Cha biết Con và Con biết Cha. Tâm linh nơi con người “được dựng nên giống như và tương tự Thiên Chúa” (Gen 1:26) là ý thức của con người về bản thân mình thế nào, như Adong ý thức được bản thân mình nơi Evà (x Gen 2:23), thì Thần Linh hay Thánh Linh nơi Thiên Chúa cũng là chính Ý Thức Thiên Chúa biết mình như vậy.
Phải chăng Thần Linh hay Thánh Linh nơi Thiên Chúa cũng là chính Ý Thức Thiên Chúa biết mình như vậy mà Giáo Hội Chính Thống Đông Phương chỉ chấp nhận công thức Thánh Thần duy “bởi Cha mà ra”? Còn việc Giáo Hội Công Giáo Rôma lại thêm cả “bởi Con mà ra”, cũng không phải là hoàn toàn vô lý, sai tín lý thần học, vì Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, khi “tỏ Cha ra” (Jn 1:18) không phải là Người đã cho thấy Ý Thức Thần Linh của Người về Cha hay sao? Bởi thế, công thức tuyên xưng Chúa Thánh Thần của Giáo Hội Công Giáo là “Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra” hoàn toàn đúng với mạc khải: “Không ai biết Con trừ ra Cha (“Người bởi Chúa Cha”) và cũng không ai biết Cha trừ ra Con (“và Chúa Con mà ra”)” (Lk 10:22): “Cha Tôi biết Tôi (“Người bởi Chúa Cha”) và Tôi biết Cha Tôi (“và Chúa Con mà ra”)” (Jn 10:15) là như thế. “Tất cả mọi sự Cha có đều là của Con” (Jn 16:15) ở đây chẳng những cho thấy Lời Nhập Thể “là hiện thân sống động của bản thể Cha” (Heb 1:3), mà còn cho thấy cả thực tại Cha và Con cũng chỉ có cùng một Ý Thức Thần Linh.
Thần Chân Lý từ Lời Nhập Thể
Chính vì Con có cùng một Ý Thức Thần Linh với Cha như thế mà khi “hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), nhân tính của Lời Nhập Thể mới “đầy ân sủng và chân lý” (Jn 1:14), và Người mới chính là Đấng “rửa trong Thánh Linh” (Jn 1:33), tức là Đấng làm cho nhân loại nói chung và Nhiệm Thể Giáo Hội nói riêng không còn sống “trong tối tăm và bóng sự chết” (Lk 1:79), song “được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12) là được có cùng một Ý Thức Thần Linh như Người và như Cha. Đó là ý nghĩa sâu xa của lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Vào ngày ấy các con mới biết rằng Thày ở trong Cha Thày, các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”. Cũng bởi Ý Thức Thần Linh này, một Ý Thức cũng chính là Thực Tại Hiệp Thông Thần Linh nơi chính Nội Tâm Thiên Chúa, mà các môn đệ của Lời Nhập Thể mới có thể được ở trong một tình trạng liên lỉ Thần Hiệp, như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho các vị biết ngay trước đó, là “Một ít lâu nữa thôi thế gian sẽ không còn thấy Thày đâu cả, nhưng các con lại thấy Thày như một Đấng có sự sống và các con cũng có sự sống”.
Và Lời Nhập Thể đã thông ban Ý Thức Thần Linh của Người cho chung nhân loại nơi nhân tính của Người cũng như cho riêng Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người thế nào, nếu không phải bằng Cuộc Tử Giá của Người, tức bằng việc Người “ra đi dọn chỗ cho các con”, như Người nói đến trong bài Phúc Âm tuần trước. Và kết quả của việc Người “ra đi dọn chỗ cho các con” đó là, như Người tiết lộ tiếp trong cùng bài Phúc Âm tuần trước, việc “Thày sẽ trở lại mang các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó”, nghĩa là các con cũng có cùng một Ý Thức Thần Linh “với Thày”, tức được Hiệp Thông Thần Linh, “như Thày ở trong Cha, các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”. Đúng thế, Lời Nhập Thể, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, “vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần” (Jn 20:19), đã chẳng “trở lại” hay sao, khi “đến đứng giữa các môn đệ” (Jn 20:19), và cũng đã không “mang các con đi với Thày” hay sao, ở chỗ “tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn của Người” (Jn 20:20), “để Thày ở đâu các con cũng ở đó” hay sao, ở chỗ “Người thở hơi trên các vị mà nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”” (Jn 20:22)? “Thày không để các con mồ côi; Thày sẽ trở lại với các con” là thế, đúng như lời Người hứa trong bài Phúc Âm hôm nay. Thế nhưng, Lời Nhập Thể đã trở lại với các môn đệ của Người không phải theo hình thức như trước Cuộc Tử Giá nữa, không phải bằng sự hiện diện thể lý nữa, mà là bằng sự Hiện Diện Thần Linh, sự hiện diện của “một Đấng Cố Vấn khác”, Đấng Người nói đến ở bài Phúc Âm hôm nay, “đó là Thần Chân Lý”, Đấng “ở với các con và ở trong các con”.
Thần Chân Lý nơi các Môn Đệ
Phần các môn đệ, nếu không có “Thần Chân Lý … ở với và ở trong” là Ý Thức Thần Linh được Đấng Tử Giá Phục Sinh ban cho này, các vị không thể nào mở miệng tuyên xưng như tông đồ Tôma “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 1:28), nghĩa là không thể “tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày”, như Chúa Giêsu đã kêu gọi các vị trong bài Phúc Âm tuần trước. Đó là lý do, theo Phúc Âm Thánh Luca, đoạn Phúc Âm cũng thuật lại việc Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần như ở Phúc Âm Thánh Gioan, các môn đệ chỉ thực sự nhìn nhận Thày mình đã phục sinh sau khi Người ban cho các vị Ý Thức Thần Linh của Người mà thôi: “Thế rồi Người đã mở tâm trí họ ra để hiểu được những lời Sách Thánh” (Lk 24:45). Như thế, phải chăng thông hiểu Thánh Kinh là dấu chứng tỏ con người thực sự có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý ở với và ở trong”? Vì Thánh Kinh là những gì liên quan đến Mạc Khải Thần Linh về Mầu Nhiệm Tỏ Mình của Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, hay Con Ý Thức Cha và Cha Ý Thức Con, một Ý Thức cũng là Thánh Thần được Thiên Chúa tỏ ý muốn thông ban cho con người, để con người có thể Ý Thức Thần Linh hay Hiệp Thông Thần Linh (x 1Jn 1:3). Bằng không, Giáo Hội làm sao có thể biết được bản văn nào thực sự được Thiên Chúa linh ứng để chọn và lập thành sổ bộ Thánh Kinh như hiện nay, và làm sao Giáo Hội có thể “đi rao giảng tin mừng cứu độ cho tất cả mọi tạo vật” (x Mk 16:15)? Đúng thế, nếu thực sự con người có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý ở với và ở trong”, họ mới có thể hiểu thấu những gì Lời Nhập Thể cần phải nói hơn nữa (x Jn 16:12), hay mới có thể hiểu được chính xác những gì Lời Nhập Thể muốn nói, muốn con người hiểu, nhờ đó, họ được Hiệp Thông Thần Linh: “Các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”.
Bởi vậy, bất cứ kiến thức đức tin hay hiểu biết thần học nào, dù có dựa vào Mạc Khải Thánh Kinh, nhưng lại đưa thành phần kinh sư này, thành phần thần học gia này, dù có lỗi lạc đến mấy đi nữa, tới chỗ bất tuân phục Giáo Hội, đến chỗ giảng dạy những gì phản với giáo huấn tông truyền của Giáo Hội, thì không phải bởi “Thần Chân Lý”, mà là do bởi tinh thần “phản kitô… không tin Chúa Kitô đến trong xác thịt” (1Jn 22-23; 2Jn 7), thứ tinh thần của một “thế gian không thể chấp nhận Thần Chân Lý, vì họ không thấy cũng chẳng nhận biết Ngài”, như Chúa Kitô nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Satan cũng đã không thông thuộc và dựa vào những lời Thánh Kinh theo tinh thần “phản kitô” hay sao, như những đoạn Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại ở biến cố Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa cho thấy? Bởi vậy, thành phần thực sự có Ý Thức Thần Linh phải là thành phần được Chúa Giêsu nhắc đến khi Người thân thưa cùng Cha Người như sau: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha, vì những gì Cha đã giấu thành phần thức giả và tinh khôn thì Cha lại tỏ cho những con trẻ bé mọn nhất biết” (Mt 11:25), tức là thành phần được Chúa Giêsu nói đến ở phần mở và kết bài Phúc Âm hôm nay: “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” hay “vâng giữ các lệnh truyền đã lãnh nhận từ Thày”.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Theo nguyên tắc “vô tri bất mộ”, nghĩa là trước khi nghe lời ai, tuân giữ mệnh lệnh hay lệnh truyền của ai thì phải biết người đó, phải mộ mến người đó đã. Mà, theo Mạc Khải Phúc Âm được phân tích trên đây, con người cần phải có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý… ở với và ở trong” đã mới có thể nhận biết Lời Nhập Thể, nhờ đó và sau đó mới có thể “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” hay “vâng giữ các lệnh truyền đã lãnh nhận từ Thày”. Vậy mà sao, cũng trong chính bài Phúc Âm hôm nay, “Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thày và vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền cho các con, Thày sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Cố Vấn khác để ở cùng các con luôn mãi, đó là Thần Chân Lý…”; “Ai yêu mến Thày sẽ được Cha Thày yêu. Cả Thày cũng yêu họ nữa và tỏ mình ra cho họ”. Như thế phải chăng việc con người tuân giữ mệnh lệnh của Chúa Giêsu Kitô chính là việc làm phát sinh ra Ý Thức Thần Linh, tức là việc làm con người có được “một Đấng Cố Vấn khác là Thần Chân Lý”?
Chúng ta nên nhớ một điều ở đây là, trước hết, không phải ai cũng có thể “vâng giữ” hay muốn “vâng giữ” hoặc “vâng giữ” được “các lệnh truyền” hay “các mệnh lệnh” của Chúa Giêsu Kitô. Vậy kẻ nào “vâng giữ” được các mệnh lệnh hay các lệnh truyền của Chúa Kitô, thì người đó phải là người đã biết lấy gậy Đức Tin đập vào tảng đá Lời Chúa để từ tảng đá, từ Lời Chúa, vọt ra Mạch Nước Thần Linh (x Ex 17:6; Num 20:11). Bởi vì, tự mình, Lời Nhập Thể vốn “đầy ân sủng và chân lý” nơi nhân tính của Người, một Tảng Đá đầy Nước Thần Linh, chỉ cần đến với Người, “đập” vào Người, chạm vào Người, đụng vào Người, sờ vào Người (x 1Jn 1:1), qua tác động “chấp nhận Người” (Jn 1:12), được thể hiện bằng việc cụ thể là “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền”, như người đàn bà loạn huyết “sờ đến gấu áo Người” (Mk 5:28-30) liền được sức mạnh từ Người thoát ra chữa lành. Như thế, nếu Ý Thức Thần Linh được trực tiếp phát sinh từ Tảng Đá Lời Chúa, từ Lời Nhập Thể, từ “Tảng Đá bị thợ nề loại ra đã trở thành Tảng Đá Góc Tường” (Acts 4:11), thì “việc vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” chỉ là việc con người tỏ ra về phần mình muốn “ở trong Thày”, nghĩa là muốn “được sự sống”, nhờ đó để được “Thày ở trong họ”, nghĩa là muốn “được sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
(Suy niệm của Lm Giuse Hoàng Kim Toan)
Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có tình yêu, rất mới cũng bởi vì tình yêu vẫn là sự sống động trong thế giới hôm nay. Rất mới và rất cũ nhưng chẳng thể nào có thể hiểu nổi được tình yêu, tình yêu có muôn mặt của thủy chung và những bội phản, sự thực và lừa dối, tinh khiết và hoen úa, ngọt lịm và cay đắng. Tình yêu là một chủ đề hao tốn giấy mực và cũng hao gầy nhiều thân phận.
“Ở lại trong Tình Yêu của Thầy” Ga 14 là một chủ đề quan trọng và cũng tìm thấy trong di chúc của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Chúng ta chỉ thực sự yêu thương khi ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa.
Tình Yêu tiếng nói của Chúa Thánh Thần:
Tình yêu bao giờ cũng có những thể hiện bằng hành động: Hành động đầu tiên và trước tiên đó là sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa là sự khai mở, đó là bản chất của Tình Yêu. Sáng tạo là sự khai mở của Thiên Chúa để đưa các loài được tạo thành được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa. Các loài thụ tạo của Thiên Chúa được chia sẻ vinh quang của Người. Tình yêu đúng nghĩa bao giờ cũng là tình yêu mang đến hạnh phúc cho người mình yêu. Hạnh phúc không chỉ là một lời hứa mà còn là một con đường. Thiên Chúa đã đề nghị một con đường, con đường ấy là “Thực thi ý muốn của Thiên Chúa”; qua con đường giới răn thực thi ý muốn của Thiên Chúa mở ra con đường đối thoại tình yêu. Tình yêu làm nên những cái mới, chính là tác động của Chúa Thánh Thần, “Thần Khí ban sự sống” là gió là hơi thở của sự sống. Là gió là hơi thở “Chúa hà hơi, súc vật được sáng tạo và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104, 30). Hơi hở thần linh làm cho mùa màng được dồi dào thuận lợi, thời tiết thuận hòa, con người được vui sống. Ở lại trong Tình yêu nghĩa là ở lại trong sự sống Thánh Thần ban tặng, sống dồi dào nhờ hít thở trong bầu khí Thần Linh.
Thần Khí mới – Trái Tim mới:
Trái tim gợi lên đời sống tình cảm, người Do Thái quan niệm trái tim như tất cả những gì thuộc về nội tâm của con người. Đông Phương gọi đó là cái Tâm, Tâm vừa đóng vai trò chính của con người vừa là nơi xuất phát mọi hành vi của con người cũng như là nơi thụ nhận tất cả những gì thế giới giác quan mang lại. Tâm còn là nơi xuất phát niềm vui và hy vọng, dự định và kết quả một hành trình. Ở lại trong Tình Yêu, một lời mời gọi mang lấy và sống trong trái tim của Thiên Chúa. Châm ngôn nhắc tới: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh.” (Cn 4, 27). Trái tim còn là sự hiểu biết khôn ngoan: “Người ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ” (Hc 17, 6). Trong Thánh Thần chúng ta được sống và sự sống được hướng dẫn bằng Thần trí khôn ngoan, thông minh, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, dũng cảm và kính sợ. Ở lại trong Thầy mang một ý nghĩa đặc biệt trong vương quốc Thiên Chúa, những ân huệ của Chúa Thánh Thần làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc và thánh thiện.
Trái tim chai đá. Con người thích theo lối sống của mình, ưa thich tìm những lạc thú làm cho mỗi ngày trái tim trở nên chai cứng hơn. Trong đời sống của dân Thiên Chúa chọn cũng xảy ra tình trạng tráo trở này để ru ngủ mình trong tội lỗi bằng những phụng tự bên ngoài (Am 5, 21) với những lời lẽ sáo rỗng (Tv 78, 36) và bị lên án “dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn tâm hồn thì xa Ta” (Is 29, 13). Con người quyến luyến trong tội lỗi, bởi chẳng cần nỗ lực để sống thánh, chẳng cần thanh lọc để trở nên tinh trong, mặc dù vẫn biệt hậu quả của tội lỗi là đau khổ là sự chết, nhưng thà rằng như thế còn hơn là liên lạc với Thiên Chúa nghĩa là “liều bỏ tấm lòng mình” (Gier 30, 21). Trái tim xơ cứng chai đá của con người đã đến lúc cần phải đập vỡ nó ra, nhưng ý muốn ấy chỉ có thể đến từ phía con người, khi con người nhận ra mình không còn đủ sức chấp nhận đau khổ, bất hạnh và sự chết.
Cần có một quả tim mới: Khao khát này xuất phát từ nơi thẳm sâu đau khổ của tội lỗi gây nên, nếu không muốn trở thành con người cam chịu số phận. Con người đọc qua lịch sử của dân Israel và lịch sử đời mình hiểu rằng tôn giáo bề ngoài là một thứ tôn giáo bào mòn lòng yêu mến. Muốn thực sự thoát ra khỏi trái tim xơ cứng cần có một thay đổi quyết liệt, “tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tâm hồn” (Đnl 4, 29), muốn đầy đủ sức mạnh để chiến thắng sức ì của bản thân cần “Gắn chặt tấm lòng vào Giavê” (1Sm 7, 3) để thắp lên trong trái tim ngọn lửa “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức” (Đnl 6, 5).
Khao khát là vậy, lý tưởng là thế, nhưng vẫn chẳng thoát ra ngoài được con tim giả dối, tấm lòng bất trung từ nguyên thủy, chỉ còn có thể đến với Thiên Chúa “với tấm lòng tan nát rã rời” (Tv 51, 19) một tấm lòng tan nát khiêm cung để khấn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy” (Tv 51, 12).
Tình yêu không bao giờ là hủy diệt, Tình yêu luôn luôn là một chữa lành, rất nhiều người không biết Thiên Chúa rất lạ lẫm khi thấy những con người Kitô giáo vượt qua được thảm trạng tội lỗi của mình, mặc dầu đã biết rằng, những người ấy trước kia là một người tội lỗi, xấu xa, đê tiện. Điều rất lạ ấy xảy ra không chỉ do trái tim tan nát rã rời của hối nhân mà còn nguyên do sức mạnh từ nơi Thiên Chúa đã thực hiện cho con người khiêm nhượng “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi và Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, đặt vào lòng trí các ngươi một thần trì mới; cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá và ban tặng trái tim bằng thịt” (Ez 36, 25). Không có sức mạnh Thiên Chúa, thắng được chính mình chỉ là ảo tưởng và đôi khi trở nên quá khích khi diệt mất chính mình.
Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần và mời gọi ở lại trong Tình Yêu của Thầy, đó là một lời gọi đích thật để trái tim được tự do khỏi tội, để tấm lòng an vui hạnh phúc thật sự khi không còn bóng dáng tội lỗi, Chúa Giêsu chính là trái tim mới được ban cho nhân loại, và Thánh Thần là Đấng ban thần trí mới cho chúng ta.
Xin cho những bước chân đi hoang của con người chúng con vào những lúc bế tắc không nơi trọ, không nơi đón nhận, thì xin cho chúng con cũng biết khiêm cung với tấm lòng tan nát ở lại, lưu trú trong Tình Yêu của Người vì Tình Yêu của Người đón nhận, chịu đựng, hy sinh tha thứ và yêu thương tất cả.
(Suy niệm của Lm Giuse Dương Hữu Tình)
Trong Thánh lễ Rửa chân tối thứ Năm tuần thánh, chúng ta đaơ được suy ngắm cử chỉ và nhương lời dạy vô cùng thân thương của Chúa. Bởi đó là cử chỉ và những lời dạy cuối cùng trước khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn. Tuy nhiên, cử chỉ và những lời vàng ngọc đó không thể kín múc hết được ý nghĩa và bài học quý giá trong một thời gian ngắn, Giáo hội khôn ngoan đạo dành trọn 3 Chúa nhật: V, VI và VII phục sinh để giúp chúng ta có thời gian suy ngắm kỹ hơn những lời dạy này. Đó là lý do Chúa nhật V và VI, chúng ta được suy ngắm gần như trọn chương 14 Phúc âm theo Thánh Gioan và Chúa nhật tới (VII), chúng ta sẽ suy ngắm phần đầu của chương 17.
Trong chương 14, chúng ta có thể dễ nhận ra lời dạy của Chúa gồm hai phần: phần dạy về đức tin (chúng ta đã suy ngắm tuần trước) và phần dạy về đức mến (chúng ta suy ngắm trong tuần này). Tin và Yêu là đề tài chính trong lời dạy của Chúa ở chương 14 Phúc âm thánh Gioan.
Với đức tin, Chúa giúp các Tông đồ và cả chúng ta vượt qua lãnh vực trần thế để bước vào một thế giới khác, thế giới thần linh. Với đức tin, chúng ta có thể vượt qua cuộc sống hữu hạn để bước vào cuộc sống vô hạn. Với đức tin, con người khám phá ra ơn gọi đích thực của m#nh, đó là ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa, là ơn gọi được sống và sống viên mãn.
Đức tin giúp con người ta thoát khỏi sự tù túng nghèo nàn của thế giới trần thế này bao nhiêu, thì đức mến lại giúp con người tiến sâu hơn vào thế giới thần linh bấy nhiêu. Tin là ngưỡng cửa, mến là cuộc sống. Trong suốt các Chúa nhật: Chúa nhật Phục sinh, Chúa nhật II và III Phục sinh, Giáo hội liên tục cho chúng ta sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai về sự hiện diện của Chúa phục sinh đang đồng hành với m#nh. Giáo hội muốn làm sống lại niềm tin nền tảng ấy nơi mỗi người chúng ta. Nhưng không chỉ sống lại một niềm tin, Giáo hội còn muốn moăi người chúng ta đồng hành bên Chúa, sống với Chúa, để con tim của đập cùng nh#ip với con tim của Người. Bởi thế, theo Đạo đâu phải là theo một mớ lý thuyết trừu tượng hay một hệ thống lý luận tôn giáo, nhưng là theo và sống với một Người, là gắn bó mật thiết với một Người. Đó chính là Đức Giêsu Kitô.
77. Suy niệm của Lm Raniero Cantalamessa
(Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh của Cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap, chuyển ngữ: Phaolô Phạm Xuân Khôi)
HÃY TRỞ THÀNH “NGƯỜI BẢO VỆ – PARACLETE” CHO THA NHÂN
ROMA (Zenith.org) – Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dùng từ “Đáng Bảo Vệ” để nói với các môn đệ về Đức Chúa Thánh Thần.
Trong một số văn cảnh từ này có nghĩa là “Đấng An Ủi,” trong văn cảnh khác nó lại có nghĩa là “Đấng Bảo Vệ,” và đôi khi có cả hai nghĩa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa là Đấng An Ủi cao cả cho Dân Chúa. “Thiên Chúa Đấng An Ủi” này (Rom 15:4), đã “nhập thể” trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng có tên là Đấng An Ủi hay Đấng Bảo Vệ thứ nhất (x. Ga 14:15).
Đức Chúa Thánh Thần, là Đấng tiếp tục công trình của Đức Kitô và làm cho công trình chung của Thiên Chúa Ba Ngôi được hoàn thành, cho nên cũng được gọi là “Đấng An Ủi”: “Đấng An Ủi sẽ ở với các con cho đến muôn đời” như Chúa Giêsu nói.
Sau Phục Sinh, toàn thể Hội Thánh đã có một kinh nghiệm sống động và hùng hồn về Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi, Bảo Vệ, đồng minh, trong những khó khăn nội bộ cũng như từ bên ngoài, trong những cuộc bách hại, trong những thử thách, và trong đời sống thường nhật. Trong sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta đọc: “Hội Thánh lớn mạnh và sống trong sự kính sợ Chúa, được đầy an ủi (“paraclesis”) của Chúa Thánh Thần” (TĐCV 9:31).
Giờ đây chúng ta phải từ điều này đưa ra một kết luận cụ thể cho đời sống chúng ta. Chính chúng ta cũng phải trở thành Người Bảo Vệs! Nếu đúng là mỗi Kitô hữu phải trở thành một “Kitô khác”, thì người Kitô hữu ấy cũng phải trở thành một “Người Bảo Vệ” khác.
Chúa Thánh Thần không những chỉ an ủi chúng ta, mà Ngài còn làm cho chúng ta có thể an ủi người khác khi đến lượt chúng ta. Niềm an ủi thật đến từ Thiên Chúa là “Cha của mọi an ủi.” An ủi này đến với những người đau khổ, nhưng không ngừng lại ở họ; cùng đích của an ủi này được đạt đến khi những người đã cảm nghiệm được nó cũng ra đi an ủi người khác bằng cùng một niềm an ủi mà Thiên Chúa đã dùng để an ủi họ.
Họ không được tự mãn vì chỉ dùng lời nói xuông mà an ủi người khác (“Can đảm lên, đừng lo sợ — rồi bạn sẽ thấy mọi sự trở lại bình thường!”), nhưng phải mang đến cho họ niềm an ủi thật sự “niềm an ủi đến từ Thánh Kinh” là niềm an ủi “nuôi sống niềm hy vọng của họ” (x. Rom 15:4). Đó là cách chúng ta giải thích những phép lạ mà một lời nói hay một cử chỉ đơn thành đem lại, tạo ra một bầu khí cầu nguyện, bên giường một người bệnh. Đó chính là Thiên Chúa an ủi người ấy qua bạn.
Theo một nghĩa nào đó, Chúa Thánh Thần cần chúng ta để trở thành Người Bảo Vệ. Ngài muốn an ủi, bảo vệ, khuyên bảo; nhưng Ngài không có miệng, tay và mắt để cho sự an ủi của Ngài “một thân xác.” Nói đúng hơn, Ngài có tay, có mắt và miệng chúng ta.
Nếu theo sát nghĩa văn tự của điều Thánh Phaolô bảo tín hữu thành Thessalônica – “anh em hãy an ủi nhau” (1 Thes 5:11) – thì chúng ta phải hiểu rằng Ngài nói: “Anh em hãy trở nên Người Bảo Vệs cho nhau. Nếu chúng ta muốn ích kỷ khư khư giữ lại cho mình niềm an ủi mà chúng ta nhận được từ Chúa Thánh Thần mà không chuyền cho người khác, thì niềm an ủi này sẽ tan biến đi.” Đó là lý do tại sao một kinh nguyện tuyệt mỹ được gán cho Thánh Phanxicô, viết rằng: “Xin cho con tìm an ủi người hơn được người ủi an; tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.”
Dựa theo những gì tôi vừa nói, thật không khó gì để thấy ai là Người Bảo Vệs chung quanh chúng ta hôm nay. Họ là những người đang chăm sóc cho những người đau nặng, cho những người bị bệnh AIDS. Họ là những người tìm cách làm giảm bớt sự cô đơn của người già, những người thiện nguyện bỏ giờ ra thăm viếng các nhà thương. Họ là những người đang tận tâm phục vụ các trẻ em nạn nhân đủ loại lạm dụng, cả trong lẫn ngoài gia đình các em.
Chúng ta hãy kết luận bài suy niệm này bằng những câu đầu tiên của Ca Tiếp Liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, kêu cầu Chúa Thánh Thần như “Đấng An Ủi Tuyệt Vời”:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,
và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!
Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;
Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!
Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,
là khách trọ hiền lương của tâm hồn,
là Đấng uỷ lạo dịu dàng.
Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,
là niềm an ủi trong lúc lệ rơi.
Mở lại những trang sách Cựu Ước, ta thấy Đức Chúa với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).
Hẳn ta còn nhớ khi các môn đệ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.
Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.
Chúa Giêsu hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Đấng Bảo Trợ đến sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn môn đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14, 26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các mô đệ (15, 26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16, 14). Và rồi trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).
Trang Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng.
Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”.
Khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 33-35)
Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.
Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.
Lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người.
Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.