CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Gr 17,5-8; 1Cr 15,12.16-20; Lc 6,17.20-26
Suy Niệm
Cái chết của công nương Diana làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà không chỉ vì bà xinh đẹp, nhân từ, mà còn vì bà chưa được hưởng chút hạnh phúc mới hé nụ.
Hạnh phúc là niềm khao khát của mọi người.
Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc.
Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc.
Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc con người.
Những gì Ngài làm: sáng tạo, nhập thể, cứu chuộc, thánh hoá… đều nhằm đem lại hạnh phúc đời này và đời sau.
Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc. Nhưng định nghĩa hạnh phúc lại là điều không dễ.
Mỗi người có một quan niệm về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian.
Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là hạnh phúc đích thật.
Hạnh phúc không nằm nơi của cải, kiến thức, quyền uy. Hạnh phúc không do chiếm được những gì mình muốn, nhưng do trao hiến điều quý nhất của mình.
Hạnh phúc là mãn nguyện với những gì mình được ban.
Hạnh phúc là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng.
Hạnh phúc là sự ổn thoả giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được trộn với mồ hôi, nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc. Chúng ta cần nhiều thời gian mới hiểu được các mối phúc.
Những điều ta coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo là hạnh phúc.
Nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, xỉ vả: những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bị xỉ vả vì Chúa, thì ta thật là người có phúc.
Hạnh phúc ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản.
Ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Có bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình.
Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương của Lời Chúa.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng.
Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin…
Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường.
Chính chúng ta cũng có thể viết những mối phúc mới, nhờ dựa vào những niềm vui Chúa ban cho ta mỗi ngày.
Chính chúng ta phải cộng tác với Chúa để các mối phúc được thành tựu ngay ở đời này, nhờ biết chia sẻ cho người đói, đem niềm vui cho kẻ khổ đau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là con người hạnh phúc? Bạn có gặp ai được hạnh phúc trọn vẹn ở đời này không?
Vẫn có nhiều người coi tiền bạc đem lại tất cả, kể cả hạnh phúc, vì thế họ dùng mọi thủ đoạn để làm giàu. Bạn nghĩ tiền bạc có vai trò nào trong việc xây dựng hạnh phúc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hoà với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
2.Phúc cho anh em là những người nghèo
Suy Niệm
Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được. Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo. Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch. Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao… Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn, vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền. Họ chọn sống trong cảnh nghèo, lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Trời là của anh em.”
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt.
Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng.
Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài. Nước Trời đã thuộc về họ từ đây, và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.
Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta.
Ngài là một người thợ thủ công nghèo, Ngài biết đến sự giày vò của cơn đói, Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem, và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết. Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc, vì biết mình luôn sống cho Cha và con người.
Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu: Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài, nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu.
Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui.
Hôm nay Ngài muốn chúng ta đến với khu lao động, với lớp học tình thương, xoá đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả.
Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này.
Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô, tự nguyện trở nên nghèo hơn để làm giàu cho người khác (2Cr 8,9).
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, ai là những người nghèo được Chúa chúc phúc? Một người giàu có thể có tinh thần nghèo khó không?
Thế giới hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi và phương tiện giải trí. Bạn có thấy mình bị cuốn hút không? Làm sao để khỏi rơi vào chủ nghĩa hưởng thụ?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.
Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó, ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
3.Chúa muốn chúng ta là những người có phúc
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trong Tin mừng thánh Luca hôm nay dìu chúng ta về với các Mối Phúc để sống và các mối họa để mà tránh. Trước khi nói đến phúc thì Chúa Giêsu nói đến họa “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!” Quả thật, nghèo khó là trung tâm của Tin Mừng: “Phúc cho những ai có tình thần nghèo khó” là mối phúc đầu tiên trong các mối phúc và là sứ mạng khi Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình với dâng làng Nagiaret tại hội đường: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo, tin vui cho người nghèo”.
Vấn nạn từ mối phúc
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt. Khi công bố trong đoạn Tin Mừng (Lc), Chúa Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với sự đánh giá khác. Người cho các môn đệ biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Người, khiến người nghe những mối họa và phúc không khỏi thắc mắc: Thế nào là giàu, thế nào là nghèo? Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cái nghèo? Hơn nữa, Người lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Nếu Chúa Giêsu tuyên bố: “Phúc cho anh em là những người bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21). Vậy ai là người đói khát và ai là người no thỏa?
Chẳng những Chúa Giêsu từ ngàn xưa đã công bố như thế, mà ngay chính Đức Giáo hoàng Phanxicô trong thời hiện đại khi kể chuyện về giây phút cái danh hiệu PHANXICÔ đi vào lòng ngài, ngài diễn tả chương trình hành động của ngài, không phải bằng một lời tuyên bố long trọng, nhưng bằng cách bộc lộ một nỗi khao khát: “Ôi, tôi mong ước biết bao có được một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”. Nhưng khi nghe đến “một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”, có người hỏi: “Thế còn người giàu thì sao?” Phải chăng một “Hội Thánh nghèo” là một Hội Thánh gồm toàn những người nghèo?
Phúc cho kẻ nghèo
Câu chuyện về một vị ẩn tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó, người nghèo lại không.
Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ này chỉ có một tấm áo rách trên mình và một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người nghèo nhất trên thế gian này chưa?” Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống trong lâu đài này mới là người nghèo nhất trên thế gian”. Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn người hỏi Chúa: “Sao lại như thế được?” Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng lòng không dính bén chút gì, còn con, con dính bén với chính cái áo rách và cái vò đã bể của con”.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất thật cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người đặt con người làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Nhưng của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo là người biết sống cho những giá trị ấy, cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
Khốn cho người giầu
Tại sao Chúa Giêsu lại nặng lời với những người giầu? Có lẽ vì của cải là ngẫu tượng hấp dẫn, nó cuốn hút chúng ta và đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi lòng chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Anh em không thể làm tôi hai chủ, hoặc ghét chủ này yêu chủ nọ”. Liên hệ trực tiếp, chúng ta chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, hoặc làm tôi tiền của, chứ không thể làm tôi cả hai được. Vì thế, nếu xem tiền của là chủ đời ta, thì tiền của sẽ túm lấy ta, phá vỡ sự hòa hợp giữ con người với nhau, hủy hoại cuộc sống và linh hồn khiến ta không còn yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức và hết trí khôn nữa, và như thế là đối nghịch lại với điều răn thứ nhất là thờ phượng Một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.
Nếu Chúa ban cho ta của cải giàu có thì chính là để trao tặng cho người khác, để nhân danh Chúa làm nhiều điều tốt cho tha nhân. Nhưng của cải có khả năng cám dỗ chúng ta và chúng ta bị sa ngã, trở thành nô lệ của sự giàu có. Đã có lần Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi chúng ta cầu nguyện một tí và hy sinh một tí, không phải cho người nghèo, nhưng cho người giàu. (REI 24/05/2018)
Một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo
Một Hội Thánh nghèo không phải là một Hội Thánh gồm toàn người nghèo. Hội Thánh không phải là Bang Hội của Cái Bang (ăn mày). Hội Thánh gồm tất cả những ai tìm kiếm và tin nhận Thiên Chúa là hạnh phúc duy nhất và vĩnh cửu và “Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2). Chính khi kêu gọi các tín hữu quyên góp để chia sẻ với cộng đoàn Giêrusalem đang lâm cảnh khó khăn mà thánh Phaolô nại đến gương Chúa Giêsu: “Quả thật anh em biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của minh mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cor 8,9). “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (Pl 2,7) để cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh sống tinh thần nghèo khó của Tin Mừng, không dính bén với của cải vật chất, không chạy theo thói thế gian, không đặt của trọng hơn người.
Sống lời Chúa dạy
Việc đầu tiên phải làm cho người nghèo, là chiến thắng sự lãnh đạm, vô cảm, những viện cớ này khác để xa tránh những con người này, biết quan tâm đến những cảnh ngộ lầm than, đáng thương quanh ta. Giảm thiểu khoảng cách bất công giữa người giầu và người nghèo một vùng miền nào đó.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên những khí cụ tình thương hải hà của Chúa đối với anh em. Amen.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.
Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.
Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?
Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.
Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.
Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.
Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.
Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?
Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.
Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!
Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.
Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa mà thôi.
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 6:17.20-26 Chân lý của Lời Chúa và thực tế cũng dạy chúng ta rằng hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi mỗi người đừng sống vì mình và cho mình, mà phải sống vì tha nhân và cho tha nhân.
Con người khát vọng hạnh phúc và bằng mọi cách tìm đạt tới hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc? Hạnh phúc tùy thuộc những yếu tố nào? Mọi người không đồng ý kiến với nhau. Trong một cuộc thăm dò ở Pháp, 90% người được hỏi ý kiến cho rằng yếu tố cấu tạo nên hạnh phúc là: sức khỏe, 80% cho là tình yêu, 75% cho là tự do, 66% cho là công lý, 63% cho là việc làm và 52% cho là tiền của. Vì thế, con người tự hỏi: đâu là hạnh phúc thật và đâu là con đường chắc chắn nhất, ngắn nhất để đạt tới hạnh phúc?
Là kitô hữu, chúng ta tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Và phải làm gì để đạt tới hạnh phúc thật? Câu trả lời tìm thấy trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là: “Phúc thay người đặt niềm tin vào Chúa” (Bđ.1), dù sống hay chết vẫn một niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh (Bđ.2) thì chắc chắn “Nước Thiên Chúa sẽ là của họ” (Bài Tin Mừng).
Theo quan niệm của Cựu Ước được diễn tả qua bài đọc 1 (Gr 17,5-8) thì người biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa là người hạnh phúc. Ngôn sứ Giêrêmia đã quả quyết: Hạnh phúc thật chỉ có thể phát xuất từ niềm tín thác vào Chúa mà thôi. Giêrêmia đã dùng những hình ảnh cây trái để quảng diễn ý tưởng ấy: Ai dựa vào mình thì tự khép lại trong sự mong manh của mình, và sẽ khô héo như bụi cây trong sa mạc ; còn ai trung thành hướng về Chúa, sẽ đâm rễ tận nguồn mạch sự sống và trở thành cây xanh tốt, đầy hoa trái.
Hoặc theo quan niệm của Thánh Phaolô ở bài đọc 2 (1Cr 15,12;16-20) thì ai sống gắn bó đời mình với Chúa Kitô chết và sống lại là người hạnh phúc. Vì dù sống, dù chết, người ấy vẫn thuộc về Chúa và nhờ đó sẽ luôn được hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Còn đối với Chúa Giêsu, qua Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Ngài công bố bốn mối phúc là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị ngược đãi. Đối lại với bốn mối phúc là bốn mối họa: giàu có, no nê, vui cười và được ca tụng. Đói và khóc là hậu quả và biểu hiện cụ thể nhất của cái nghèo. Bụng đói vì không có gì ăn. Tâm hồn đau khổ vì không có gì để an ủi, chỉ còn biết lấy tiếng khóc để làm vơi nỗi khổ của mình. Còn người giàu thì bụng no. Họ khổ thì họ lại có trăm ngàn thứ để đánh đổi, để lấp đầy. Hai hình ảnh tương phản: người nghèo đói và khóc lóc, người giàu no và vui cười.
Hình ảnh người phú hộ và ông Lagiarô nghèo đói đã minh họa điều nầy: người phú hộ mặc lụa là gấm vóc, ngày nào cũng yến tiệc linh đình. Còn Lagiarô nghèo đói, ngồi chờ bố thí ngoài cổng, không ai ngó ngàng, không ai bênh vực, những con chó đến liếm vết mụn nhọt trên người Lagiarô là tột đỉnh nỗi khổ của ông. Cuối cùng, lúc chết, chúng ta mới thấy hạnh phúc thật ở đâu và ai là người hạnh phúc, ai là người vô phúc?
Người đời thường đặt hạnh phúc vào trong những cái có: có tiền của, có vợ đẹp, có con khôn, có địa vị, có nhà cửa, có bạn bè sang trọng phú quí… Nhưng để có được những cái đó, nhiều khi chúng ta làm cho nhiều người khác mất đi cái họ đang có, hay là bớt cái có của người khác đi, và do đó, gây tranh chấp, hận thù, và kết quả là mình khổ và người khác cũng khổ. Ai cũng khao khát hạnh phúc cho mình và vì hạnh phúc của mình, nên nhiều khi cố ý hay vô tình gây đau khổ, làm mất hạnh phúc của kẻ khác. Điều đó cũng giống như khi chúng ta tìm cách kéo hết phần chăn đắp về mình, thì chỉ mình ta được ấm, nhưng người bên cạnh tất nhiên sẽ bị lạnh. Trong một bàn ăn mà ta chỉ nghĩ đến mình, thì thế nào cũng có người bị thiệt, bởi đó mà cha ông ta dạy: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Trong một cơ quan, xí nghiệp, nếu những người lãnh đạo chỉ lo cho lợi lộc cá nhân, thì tất nhiên những người khác phải chịu thiệt thòi. Trong một nước, nếu những người cầm quyền chỉ lo vun quén cho bản thân, cho gia đình và bạn bè mình, thì toàn thể nhân dân khó có thể được ấm no hạnh phúc.
Mới đây, trong lá thư cám ơn và tâm tình đầu xuân, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã nói đến hiện trạng đời sống xã hội của đất nước chúng ta: “nhờ công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước nhà đang trên đà phát triển mạnh: nhiều người ăn nên làm ra, thậm chí trở thành triệu phú, tỷ phú ; hàng tiêu dùng có chất lượng cao tràn ngập thị trường… lúa gạo chẳng những đủ ăn mà còn thừa để xuất cảng vào hàng thứ ba thế giới. Nhưng những thành tựu đáng phấn khởi đó không che mắt được chúng ta trước những mặt trái phủ phàng của nền kinh tế thị trường: đồng tiền trở thành thước đo của mọi giá trị, hưởng thụ vật chất trở thành lý tưởng của cuộc sống, và kết quả là khoảng cách giữa một thiểu số giàu có và đại bộ phận nghèo túng ngày càng lớn…”
Thưa anh chị em,
Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu công bố hôm nay trong bản Hiến Chương Nước Trời phải được hiểu theo nghĩa một sự nghèo khó vì Nước Trời, một sự quên mình vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của mọi người. Chúa Giêsu không chủ trương nghèo khó để mà nghèo khó, nghĩa là Ngài không coi nghèo khó là một giá trị, một lý tưởng. Ngài không bao giờ muốn nói tình cảnh thiếu thốn vật chất là đáng được chúc phúc. Ngài không bao giờ tán đồng cuộc sống khốn khổ trong những căn nhà tồi tàn, ở các khu nhà ổ chuột nơi các thành phố ngày nay cũng như nơi các đô thị thời đại Ngài. Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu muốn nói là tinh thần không cậy dựa vào tiền của, quyền lực, mà chỉ biết đặt trọn niềm tin cậy vào Chúa. Phúc cho anh em là những người nhận thức rằng không thể tìm hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất, mà bằng cách đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Đó chính là tinh thần nghèo khó đích thực. Và khi chúng ta có được tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới thấy cảnh nghèo khổ của anh em. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới dễ cảm thông và chia sẻ cho tha nhân.
Chân lý của Lời Chúa và thực tế cũng dạy chúng ta rằng hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi mỗi người đừng sống vì mình và cho mình, mà phải sống vì tha nhân và cho tha nhân. Phải biết hy sinh những lợi ích riêng nhỏ bé để mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể: gia đình có hòa thuận an vui thì mỗi người trong gia đình mới được hạnh phúc; xã hội có an ninh trật tự và thịnh vượng thì mỗi gia đình mới thực sự được bảo đảm về công ăn việc làm và được ấm no. Cũng vậy, thế giới có hòa bình thì các dân tộc mới có thể phát triển và đạt tới sự thịnh vượng bền lâu.
Mỗi người hãy quên mình đi, quên lợi ích riêng tư, không tìm cách để có thêm, có nhiều, bằng cách bốc lột kẻ khác hay là bớt phần kẻ khác. Hãy sống hiền hòa với mọi người, sẵn sàng chịu đau khổ vì tha nhân, luôn luôn biết xót thương người, luôn luôn có lòng trong sạch và ngay thẳng, sống hòa thuận với mọi người và làm cho mọi người được hòa thuận với nhau, sẵn sàng chịu hy sinh vì chính đạo, vì Nước Trời. Mỗi người phải là niềm vui, là hạnh phúc cho kẻ khác, bởi vì hạnh phúc thực sự của chúng ta là chính con người, cũng như đau khổ của chúng ta cũng chính là con người. Hạnh phúc hệ tại ở một cuộc sống hòa hợp giữa ta và người khác, và sự hòa hợp đó đòi hỏi ta phải biết tôn trọng vị trí và quyền lợi của người khác, chấp nhận và yêu thương người khác như chính bản thân mình.
Bởi vậy, chúng ta thiết tha cầu xin cho mọi người kitô hữu chúng ta, biết noi gương Chúa Kitô mà sống hòa mình với mọi người, biết lấy hạnh phúc của mọi người làm hạnh phúc của riêng mình để tạo nên hạnh phúc đích thực cho chính bản thân và cho mọi người.
6.Hạnh phúc dành cho người hy sinh vì Chúa
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc…
“Bần cùng sinh đạo tặc.” Quả đúng như vậy, có một số người trở thành đạo tặc vì đời sống của họ quá bần cùng, như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Như thế thì bần cùng, đói khát là tai hoạ cho con người và xã hội chứ đâu có mang lại hạnh phúc.
Thế mà Chúa Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao?
Nếu đọc kỹ câu đầu của bài Tin mừng này (Lc 6,20), chúng ta thấy thánh sử Lu-ca viết như sau: Bấy giờ, “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”
Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc này.
Tại sao?
Vì trước đây, trong số các môn đệ của Chúa Giê-su có người làm nghề chài lưới, có thuyền có ghe, có thu nhập hằng ngày ổn định, có người làm nghề thu thuế kiếm bộn bạc… Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài đã bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên bây giờ các ngài trở thành những người nghèo khó… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì mới là người có phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó là có phúc.
Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”
Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến nơi hoang địa… các ngài phải chịu đói khát; thậm chí có ngày đi qua đồng lúa, các ông đã bứt những gié lúa vò xát trong tay rồi ăn để dằn cơn đói… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt phải được đền đáp và sẽ được thỏa chí toại lòng vì niềm vui tận hiến, vì hạnh phúc đời đời.
Và Chúa Giê-su tiếp lời với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc vì anh em sẽ được vui cười.”
Trước đây các môn đệ sống hạnh phúc với cha mẹ, vợ con trong mái ấm gia đình, nay theo Chúa là Đấng không có chỗ tựa đầu, lang bạt rày đây mai đó, có lần bị đuổi khéo ra khỏi khu dân cư (Mt 8,34), có lúc đi ngang qua vùng Sa-ma-ri-a bị dân làng tẩy chay không tiếp đón, rồi sau nầy các ngài bị bắt bớ, tù đày, bị giết hại… khiến các ngài phải khóc thầm… Khóc vì chịu khổ nạn vì Nước Trời như thế thì thật là diễm phúc và mai đây sẽ được vui cười.
Và điều phúc thứ tư:
“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Các môn đệ luôn kề vai sát cánh với Chúa Giê-su, đồng lao cộng khổ với Chúa và vì Ngài mà bị người đời “oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”, cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì chắc chắn sẽ được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta muốn được hưởng những mối phúc mà Ngài công bố thì phải chấp nhận “nghèo khó” vì Tin mừng, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời.
Nước Trời không phải là lô độc đắc dành cho người may mắn trong các cuộc xổ số. Phải trả giá cao mới đạt được Nước Trời như lời Chúa Giê-su phán: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được” (Mt 11,12).
Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con nhớ rằng: Của cải đời này chỉ là phù du, mau tan biến đi như sương, như khói, chỉ có hạnh phúc thiên đàng mới vĩnh viễn thiên thu.
Xin giúp chúng con biết phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc… để phục vụ anh chị em chung quanh, nhờ đó chúng con đạt được những mối phúc mà Chúa công bố trong Tin mừng hôm nay.
7.Sẽ được đáp đền – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.
Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”?
Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… là những kẻ bây giờ phải đói… bây giờ đang khóc…”
Thánh Luca ghi rõ: “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…” Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.
Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.
Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”.
Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.
Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.
Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:
“Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!
Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.
Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?
A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.
Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!”
Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!
Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.
Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đối lập là tình trạng trái ngược nhau, đối nghịch, bất đồng, mâu thuẫn. Phải có ít nhất hai thứ (người, vật, phe, hướng,…) mới xảy ra tình trạng đối lập, chỉ một thì không thể. Trong mọi lĩnh vực, cụ thể và trừu tượng, đều có nhiều thứ đối lập: cao – thấp, dài – ngắn, vuông – tròn, trắng – đen, đẹp – xấu, tốt – xấu, hay – dở, khôn – dại, yêu – ghét, thiện – ác, phúc – họa, sinh – tử. Và còn nhiều thứ khác…
Một trong các cặp đối lập “nổi bật” liên quan tinh thần là cặp đôi “phúc – họa”, được đề cập trong Gr 17:5-8. Chính Đức Chúa đã tuyên phán: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!”. Đó là cái họa lớn nhất và nguy hiểm nhất.
Tại sao nguy hiểm? Như một cách giải thích, cũng chính Đức Chúa cho biết: “Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa CHẲNG ĐƯỢC THẤY hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng CHẲNG NHÌN RA, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người”. Người ta nói đó là tình trạng “có mắt mà không tròng” hoặc “có mắt mà như mù”. Thế thì thật nguy hiểm và đáng sợ, vì đó là đại họa!
Ngược với cái họa là cái phúc. Chắc chắn chẳng có phúc nào bằng phúc của Thiên Chúa trao ban: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái”. Thánh Vịnh gia so sánh tín nhân như cây tươi tốt vì đủ nguồn nước để phát triển, rất dễ hiểu và thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Vịnh gia nói tới “hai con đường” liên quan Phúc – Họa: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2). Cách so sánh cũng rất cụ thể: “Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành. Ác nhân đâu được vậy: chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay” (Tv 1:3-4).
Nguyên nhân thế nào thì hệ quả như vậy, chúng ta gọi là nhân – quả. Và hệ lụy là điều tất yếu và minh nhiên: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong” (Tv 1:6). Cái gì Tốt thì Lành, dù cụ thể hay trừu tượng. Vấn đề tâm linh cũng không ngoài quy luật tất yếu như vậy.
Qua trình thuật 1 Cr 15:12, 16-20, Thánh Phaolô đề cập cặp đối lập đặc biệt nhất: Sinh – Tử. Thánh nhân đặt vấn đề: “Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?”. Sống hôm nay, chết ngày mai, rồi chấm hết. Nếu chỉ thế thôi thì cũng không hơn gì cây cối và thú vật, người ta không gì phải lo sống tốt hay xấu. Cứ xả láng rồi sáng về sớm cũng chẳng sao.
Thánh Phaolô giải thích: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Ôi, tội nghiệp thật. Và chỉ như thế thì chán thật, cũng chẳng có gì để người ta phải cố gắng chi cho mệt.
Nhưng không phải thế! Nhân quả của con người khác hẳn thảo vật và động vật: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại”. Đó mới là chuyện đáng nói, đáng nỗ lực không ngừng. Nếu sinh – tử theo kiểu luân hồi thì cũng chẳng đáng quan ngại, vì cứ như vòng tuần hoàn thì không gì phải lo lắng cho nhọc óc, nghĩa là cứ “vô tư”. Thế nhưng không như thế, cho nên cứ “vô tư” thì hóa “đại ngu”, ta tự hại mình!
Trình thuật Lc 6:17, 20-26 (≈ Mt 5:1-12) đề cập một cặp khác cũng đặc biệt: Phúc – Họa. Hôm đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Ngài dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Ngài, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn. Chúa Giêsu nói hai vấn đề:
Thứ nhất là các MỐI PHÚC (Lc 6:20-23 ≈ Mt 5:3-10). Thánh Mátthêu cho biết đầy đủ chi tiết hơn, gọi là Bát Phúc, còn Thánh Luca tóm tắt thành Tứ Phúc: “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: PHÚC cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. PHÚC cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.
Thứ nhì là các MỐI HỌA (Lc 6:24-26 ≈ Mt 5:11-12), Thánh Luca phân định thành Tứ Khốn: “KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.
Cách phân định của Thánh sử Luca tạo thành hai vế đối cân bằng: Tứ Khôn và Tứ Khốn. Phải chịu khốn vì không sống khôn, nếu sống khôn thì tránh được cái khốn – cái họa. Liên quan sự khôn ngoan có truyện “Bán Sự Khôn Ngoan” thế này:
Một ngày nọ, hiền triết Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười thầm trong bụng. Muốn biết phía sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến Cùng Đích’. Vậy nhé!”.
Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi qua trước nhà ông đều có thể đọc được: “Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến Cùng Đích”.
Nghĩ đến Cùng Đích là nghĩ đến cái gì? Đó là Cái Chết. Nghĩ đến Cái Chết không phải là ý tưởng tiêu cực, bi quan, chán đời hoặc yếm thế, mà lại chính là CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN, với hệ lụy tất yếu: sống Khôn để thoát Khốn. Chính Thiên Chúa cũng đã nhắc nhớ: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Người Latin có thành ngữ: Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết. Nhớ làm gì cái thứ đó? Nhớ để nên khôn bằng cách Luôn Sẵn Sàng – Semper Paratus – Always Ready.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thấu suốt mọi sự, biết cả những gì con chưa nghĩ tới, xin ban Thần Khí soi sáng để con biết việc phải làm cho hợp ý Ngài, biết khôn ngoan chọn những gì đẹp ý Ngài, và cố gắng sống vuông tròn cho tới hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đức Yêsu không nhằm rao giảng những điều người ta dễ chấp nhận, nhưng chính yếu rao giảng những điều giúp giải phóng con người và làm con người hạnh phúc, cho dù điều này có vẻ nghịch thường hay ngược lại với quan điểm của người đời.
Khốn cho các ngươi là những người giầu
Người nghèo ở đây, là người không đặt niềm hy vọng nơi tiền bạc, nơi con người, nhưng chỉ đặt niềm hy vọng và trông cậy nơi một Thiên Chúa mà thôi.
Sách tiên tri Jeremia nói: “khốn cho kẻ đặt niềm hy vọng nơi người phàm mà không trông cậy nơi Thiên Chúa”. Những người này cho rằng: “Đồng tiền là tiên là Phật”, “Có tiền mua tiên cũng được”. Có tiền mua được tình cảm, mua được chức vị, mua được tất cả. Quan niệm như vậy có thực sự đúng không? Liệu tiền bạc có mua được tình yêu đích thực không? Liệu tiền bạc mua được hạnh phúc không?
“Giầu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có lúc tường xiêu ngói đổ”. Có bao nhiêu người lý luận rằng, họ để gia tài cho con cái thật nhiều, là làm con cái hạnh phúc; nhưng thực tế cho thấy có rất nhiều con cái của những người giầu có hư hỏng. Nếu đặt đồng tiền lên trên, sẽ làm mất hạnh phúc gia đình vì không còn dành thời gian cho nhau (vợ cho chồng, chồng cho vợ, cha mẹ cho con cái). Đồng tiền là tên đầy tớ trung thành, nhưng là ông chủ ác nghiệt.
Theo thánh Ynhã Loyola, ma qủy cám dỗ người ta ham mê tiền bạc đầu tiên, rồi sau đó cám dỗ con người về ham mê danh vọng, và sau đó sẽ đi đến mức độ nghĩ mình có thể làm được tất cả, cho mình là nhất, và không cần chờ đợi gì nơi Thiên Chúa cả. Đa số con người ai cũng thích tiền; rồi dẫn đến quan niệm thích tiền là chuyện bình thường, và ai không thích tiền mới là người bất bình thường. Vậy làm sao để nhận ra tiền bạc là một cám dỗ với con người? Ai đã có tiền, còn muốn có nhiều hơn, và cứ như vậy, con người bị trói buộc nô lệ tiền bạc. Khi đã bước vào vòng ham mê tiền bạc, thoát ra qủa thật là điều khó. Đồng tiền có vòng kiềm toả của nó, đã sa vào thì khó có thể bước ra được.
Phúc cho các ngươi là những người nghèo
Làm sao để xác tín nghèo là mối phúc, tin tưởng vào Thiên Chúa và sống theo lề luật của Ngài làm con người hạnh phúc? Chỉ nhờ vào Thiên Chúa, tin vào Đấng tuyệt đối mới có thể giúp con người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiền bạc và danh vọng.
“Phúc cho người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái bốn mùa”. Những người đặt niềm tin nơi con người- sinh vật giới hạn cả về khả năng lẫn mức độ trung thành và đạo đức, làm sao có thể hạnh phúc được? Những người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, lấy luật Chúa là nguyên tắc sống, sống theo gương mẫu là Đức Yêsu, yêu thương và tha thứ, tin tưởng và bắt đầu lại mọi nơi mọi lúc, sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Đức Yêsu đã sống nghèo, và một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Cha, ngay cả giây phút cuối đời trên thập giá “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, dù rằng Ngài cũng bị cám dỗ cùng cực “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”.
Không còn gì để tin tưởng, chỉ còn Thiên Chúa mà thôi, và đặt tất cả niềm tin nơi Ngài, là mối phúc. Nghèo, chứ không phải bần cùng, là mối phúc không dễ gì cảm nhận. Thánh Phanxicô khó khăn là người đã cảm nghiệm đặc biệt được điều này. Xin cho con người hiểu được giáo huấn của Đức Yêsu: phúc cho những ai đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tin tưởng vào Thiên Chúa, được gì và mất gì?
2. Những thiệt thòi của người nghèo?
3. Thiên Chúa và Giáo Hội có muốn con người nghèo đói không? Tại sao?
10.Hạnh phúc người tin vào Thiên Chúa
(Suy niệm của Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
“Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa” (Gr.17, 5). Làm sao có thể tin tưởng nơi người đời, khi mà kinh nghiệm sống cho thấy bao nhiêu người hứa yêu nhau trọn đời, thề nguyền trọn đời chung thủy, rồi với thời gian con người đã thay đổi. Bao nhiêu người con không được sống trong mái gia đình có cha có mẹ, vì cha mẹ các em đã “chia tay”. Lời hứa “trọn đời yêu nhau” “trọn đời chung thủy” “cho dù núi chuyển sao dời anh (em) vẫn mãi mãi yêu em (anh)” đã tan đi như mây khói. Kinh nghiệm sống cũng cho thấy có bao nhiêu người tin tưởng nơi con người, nơi tình bạn, nơi tình gia đình, nhưng thực tế cũng cho thấy có bao nhiêu phản bội, bao nhiêu lường gạt, đặc biệt về khía cạnh tiền bạc! Làm sao có thể tin tưởng được nơi người đời, làm sao có thể tin được nơi con người? Cả người trong gia đình, cả vợ cả chồng, cả con cái cha mẹ còn chưa tin được nhau, thì làm sao có thể tin tưởng nơi người đời.
Ngay cả chính bản thân tôi, đôi khi tôi còn chẳng tin vào mình được nữa, thì làm sao có thể tin nơi người khác. Có bao lần tôi hứa, rồi tôi phản bội. Có bao lần tôi dốc lòng không làm điều xằng quấy, thế rồi tôi lại làm. Tôi hứa với Thiên Chúa sau mỗi lần phạm tội, và tôi đã lỗi phạm lại bao lần! Tôi muốn lắm, tôi muốn thành người tuyệt vời, không sa ngã vào điều này điều kia, thế mà tôi lại đã bao lần vấp phạm sa ngã. Có bao người chán nản và thất vọng về chính mình, vì mình đã không làm được điều mình dốc lòng, điều mình hứa với chính mình và với Thiên Chúa. Tôi còn chưa tin vào được chính mình, thì làm sao tôi có thể tin vào người khác, cho dù người đó là ai chăng nữa! Lời sách tiên tri Giêrêmia thật rất đúng: “khốn thay kẻ tin tưởng nơi người đời”.
Thế nhưng vấn đề không chỉ đơn sơ như vậy. Nếu không tin vào người đời, nếu không tin vào con người, thì liệu mình có thể sống hạnh phúc không? Nếu không tin vào con người, thì mình sống với ai? Làm sao sống có thể hạnh phúc được? Thực sự, tin vào Thiên Chúa mới làm cho con người được hạnh phúc thật. Chỉ khi nào mình tin vào Thiên Chúa, mình mới có thể tin vào mình và có thể tin vào con người. Người ta có thể có những hình ảnh méo mó lệch lạc về Thiên Chúa như coi Ngài là Con Tạo “đành hanh”, một Thiên Chúa nghiêm khắc chỉ lo rình rập để bắt lỗi và hành khổ con người. Nếu một người có cái nhìn sai lệch như vậy về Thiên Chúa, thì họ cũng không thể sống hạnh phúc được; còn nếu một người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương con người và yêu thương mình vô cùng, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc, luôn tìm cách giúp đỡ con người, thì người đó sẽ dễ dàng sống bình an hạnh phúc.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài làm mọi sự vì yêu thương. Ngài sẵn sàng làm tất cả cho tôi, để tôi được an bình hạnh phúc thật. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho tôi, dù tôi có xúc phạm đến Ngài thế nào đi nữa. Ngài luôn tôn trọng tự do của tôi, nhưng Ngài vẫn luôn tìm cách lôi kéo tôi trở lại đường ngay nẻo chính. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tôi, mà còn yêu thương tất cả mọi người như yêu thương chính Con Một yêu quý của Ngài. Ngài luôn ban ơn trợ lực, luôn mời gọi để con người hoàn lương trở lại với Ngài và với anh chị em mình.
Tự sức tôi, tôi không thể tin vào tôi; nhưng nếu tôi tin vào Thiên Chúa, nếu tôi tin Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài luôn theo tôi dù tôi hoang đàng thế nào chăng nữa, thì lúc đó tôi có thể tin vào tôi. Tôi tin vào tôi vì tôi tin vào Thiên Chúa, vì tôi tin Thiên Chúa yêu thương và sẽ giúp tôi vươn lên và trở thành người tốt. Ngài vẫn trung thành với tôi, dù tôi không trung thành với Ngài; Ngài vẫn yêu thương tôi, dù tôi không yêu thương Ngài; Ngài vẫn kiên trì với tôi và với anh chị em tôi, dù tôi không kiên trì với tôi và với họ; Ngài vẫn hy vọng và chờ đợi nơi tôi và nơi con người cho dù tôi không hy vọng nơi chính tôi và họ. Ngài là Thiên Chúa tình yêu, Ngài quyền năng trong yêu thương, nên Ngài có thể biến đổi tôi và biến đổi anh em tôi. Chính vì tin vào Ngài, mà tôi có thể tin vào anh em tôi. Ngay lúc này, người anh chị em tôi có thể dở và ngoan cố, nhưng trong tương lai có thể khác. Thiên Chúa toàn năng, Ngài đang mời gọi người anh chị em tôi trở lại, và mong họ trở thành người khác, và chắc Ngài sẽ thành công. Ngay lúc này, có thể là Ngài chưa thành công, nhưng chắc Ngài sẽ thành công, vì nếu không Ngài chẳng còn là Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Khi thấy mình dở và cảm thấy mình không có nghị lực để sống tốt, thì cũng đừng sợ nhưng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa sẽ giúp tôi trở thành người tốt, và ngay cả trở thành người tuyệt vời. Người anh chị em tôi quá dở và qua kinh nghiệm, người anh chị em này không đáng tin một chút nào nữa! Đừng sợ nhưng hãy tin vào Thiên Chúa, để rồi còn có thể hy vọng nơi họ, vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài quyền năng và Ngài vẫn đang mời gọi và giúp đỡ người anh chị em đó trở lại với Ngài. Nếu mỗi người tin vào Thiên Chúa, thì có thể tin vào anh chị em mình. Phút cuối cùng, chắc Thiên Chúa sẽ thắng. Tôi có thể không nhìn thấy giây phút chiến thắng này của Thiên Chúa, nhưng tôi tin chắc điều đó sẽ xảy ra. Nếu tôi là người mà còn yêu thương người anh chị em mình như vậy, không lẽ Thiên Chúa là Cha họ (vì nếu không nhờ Ngài thì họ đâu có thể hiện hữu) không yêu thương họ bằng tôi sao?!
Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ ban Đức Yêsu Kitô cho con người. Ngài đã chết và đã sống lại. Nếu tôi tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa nhập thể, tôi nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người đến độ như thế nào! Đức tin là một hồng ân vô cùng lớn, và là yếu tố giúp con người có thể sống an bình hạnh phúc; vì qua đức tin con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Một người nghèo, không bám víu vào tiền bạc, chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, sẽ là một người có phúc. Người giầu có về tiền bạc nhưng có tinh thần khó nghèo, nghĩa là người không cậy dựa vào tiền bạc mà vẫn chỉ trông chờ tất cả nơi Thiên Chúa, thì vẫn là người được chúc phúc. Phúc cho anh em là những người nghèo!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm nào cho thấy Thiên Chúa yêu thương bạn không? Xin chia sẻ.
2. Bạn có tin rằng Thiên Chúa có thể biến đổi bạn và biến đổi người anh chị em mình không? Xin giải thích quan điểm của bạn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Các Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự truyền giáo. Người từ giã gia đình để đi vào xã hội (tiệc cưới Cana, Chúa Nhật II). Người đến hội đường Nadarét tự giới thiệu là vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa gửi đến (Chúa Nhật III). Kẻ đồng hương phủ nhận Người (Chúa Nhật IV) khiến chúng ta thấy trước công việc của Người rồi sẽ đi tới đâu. Nhưng Ðức Giêsu đã chọn các tông đồ để sứ mạng của Người được đảm bảo trong tương lai (Chúa Nhật V). Hôm nay (Chúa Nhật VI) bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy chính nội dung giáo lý của Người, cũng là giáo huấn trường tồn trong Hội Thánh. Nó đã được chuẩn bị trong Cựu Ước, như bài sách Giêrêmia có thể cho chúng ta thấy. Và nó chỉ có thể được tin theo nếu chắc chắn ở việc Ðức Giêsu đã sống lại để trở thành người đi trước chúng ta vào hạnh phúc trường sinh.
Bài thư Phaolô hôm nay ngắn nhưng rất quan trọng. Chúng ta hãy suy niệm Lời Chúa để nhận ra những bài học rất hiện đại cho đời sống con người.
1. Sự khôn ngoan của Cựu Ước
Giêrêmia là một tiên tri. Ông là một trong bốn tiên tri lớn còn lại một văn phẩm. Ở đây lời lẽ của ông không có vẻ “tiên tri” bao nhiêu. Ðành rằng vẫn có công thức mà các tiên tri vẫn dùng để khai ngôn: “Lời Chúa phán như thế này”. Nhưng sau đó tác giả đã sử dụng lối văn khôn ngoan, đưa ra ý kiến phải ăn ở thế nào cho được hạnh phúc và khỏi bất hạnh.
Thực ra thì lối văn này không phải là không bao giờ được các tiên tri dùng. Môsê vẫn dùng nó khi vạch ra cho con cái Israen thấy rằng họ luôn luôn đứng trước hai con đường: một đường dẫn đến sự sống và một đường dẫn đến sự chết. Người ta được tự do lựa chọn một trong hai con đường ấy. Cũng là hai con đường hạnh phúc và vô phúc. Lối văn tiên tri thường không mặc hình thức trình bày gẫy gọn ấy… Nó thường phong phú và tâm tình hơn. Nhưng cuối cùng nó thôi thúc người ta phải lựa chọn giữa đường dẫn tới sự sống và đường đưa tới sự chết. Ðoạn tiên tri Giêrêmia hôm nay là một khúc nằm trong toàn bộ tác phẩm mang tên ông. Nó mặc hình thức lối văn khôn ngoan, nhưng vẫn giữ giọng tiên tri, vì nó bắt đầu với những câu tuyên án mà các tiên tri vẫn phải nói để sửa sai và phá đổ.
Giêrêmia loan báo tai họa cho kẻ tin tưởng vào người đời và trở lòng đối với Chúa. Ông có nhắm cụ thể vào ai không, hay chỉ nêu lên những lẽ khôn ngoan ngàn đời? Chắc chắn nhiều người nghe ông nói thời bấy giờ, đã giật mình và khó chịu. Họ cảm thấy bị nhắm thật sự. Vì ở thời Giêrêmia con cái Israen đang sa sút lòng đạo đức. Nhất là bậc vua Sêđêcias (597-586 trước CN). Nhà vua không chịu nghe lời tiên tri. Cứ ăn ở theo xác thịt. Rồi thấy roi Chúa bắt đầu quất lên, thay vì thống hối ăn năn trở về với Người, ông đi tìm sức mạnh nơi các liên minh quân sự. Ông không đang trở lòng với Chúa và tin tưởng vào phàm nhân sao? Ông bỏ chỗ cậy dựa vào Thiên Chúa cao cả, để cầu cứu với những con người xác thịt. Và không riêng gì Sêđêcias. Hầu hết hàng đầu mục dân bấy giờ đều như vậy. Chính sách của Israen bấy giờ là coi thường đường lối của Chúa và tin tưởng ở mọi tổ chức loài người.
Giêrêmia đến làm sứ mạng tiên tri… Ông nguyền rủa chính sách ấy. Ông loan báo tai họa sẽ ập đến trên những kẻ bỏ Chúa như vậy. Họ sẽ như cỏ cây nơi sa mạc, làm sao có được hạnh phúc? Nắng sẽ thiêu, đất sẽ đốt, cỏ sẽ rụi. Khác hẳn với con người đặt tin tưởng vào Chúa. Họ như cây trồng bên bờ suối. Rễ sẽ mát, lá sẽ tươi, trái sẽ nhiều. Ðó là những hình ảnh quen thuộc mà Kinh Thánh vẫn dùng để mô tả định mệnh của kẻ dữ, người lành. Giêrêmia lặp lại những hình ảnh ấy để khẳng định niềm tin của mình và kêu gọi mọi người trở về với Chúa.
Ðó chỉ là sáo ngữ hay là những lời chân thật? Chúng ta biết Sêđêcias đã kết thúc cuộc đời thảm hại như thế nào: ông bị bắt, bị khoét mắt, bị dẫn đi lưu đày và con cái ông đã bị tàn sát thảm thương (Gr 39,1-10).
Giêrêmia đã không thấy trước hoàn toàn như vậy đâu. Nhưng ông thâm tín về chung cuộc bi đát của những kẻ bất trung với Chúa. Ông nói lên những lời khôn ngoan và tiên tri cho mọi người và mọi thời. Chẳng bao giờ những lời này mất giá trị. Nhưng chúng ta cũng có những giáo huấn rõ ràng và đầy đủ hơn nữa. Chính Ðức Giêsu đã đến dạy chúng ta. Và thánh Luca đã ghi lại cho Hội Thánh trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Giáo lý của Tân Ước
Ðức Giêsu bấy giờ ở trên núi xuống… Người vừa qua một đêm cầu nguyện cùng Chúa Cha… Và sáng ngày, Người đã gọi 12 môn đệ lại và đặt họ làm tông đồ. Bấy giờ Người xuống khỏi núi, không những có đoàn 12 và nhiều môn đệ khác đi theo, mà còn có rất đông dân chúng đang đứng chờ ở một chỗ đất bằng và rộng. Họ từ khắp nơi kéo đến, như muốn đươc chia sẻ những gì mà Ðức Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người khi ở trên núi. Quả vậy, thánh Mátthêu nói rằng Ðức Giêsu đã giảng về các Phúc thật khi ở trên núi và bài giảng đó được mệnh danh là bài giảng trên núi. Nó lại kê khai 8 điều phúc hứa cho những người nghe Lời Chúa, nên được gọi là bài giảng 8 mối phúc thật. Ở đây chúng ta chỉ thấy có 4 điều phúc và thấy Ðức Giêsu đã tuyên bố những điều này ở một chỗ đất bằng phẳng và rộng. Là vì thánh Luca là tác giả có tinh thần phổ quát, muốn cho hết mọi dân tộc được chia sẻ tin mừng cứu độ. Chỗ đất bằng và rộng gợi lên mặt biển bao la mà tác giả đã nhiều lần vượt qua với thánh Phaolô để mang tin mừng đến cho các dân tộc. Hôm nay các dân tộc cũng hiện diện chỗ đất bằng và rộng này vì có đông đoàn lũ từ Giêrusalem và nhiều tỉnh kéo đến.
Chắc chắn không phải Luca đã bớt xén bài giảng của Ðức Giêsu, khiến 8 mối phúc thật chỉ còn có 4. Chúng ta phải nói rằng cả thánh Luca và thánh Mátthêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Chúa qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì đạo. Mátthêu và Luca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mátthêu thì phân 4 thành 8; còn Luca thì nhân 4 với 2, tức là dùng thêm hình thức tiêu cực, nghĩa là sau khi nói đến 4 điều phúc, Luca nói đến 4 điều vô phúc cho những kẻ mâu thuẫn với 4 hạng người nghèo, đói, khóc lóc, và bị ghét bỏ, thì bốn điều vô phúc lại đe dọa những kẻ giàu, no, cười cợt và được tâng bốc. Như vậy, thể văn của Luca gần với lối văn khôn ngoan như chúng ta nhìn thấy trong bài sách Giêrêmia. Ở đây chúng ta cũng đã thấy có 2 phần: đoạn trước nói về số phận những kẻ bỏ Chúa để chạy theo thế gian. Ðịnh mệnh của họ ngược hẳn với tương lai của những người đặt hết tin tưởng vào Chúa, được trình bày ở đoạn sau. Nhưng chúng ta hãy thôi nói về hình thức văn chương, để tập trung suy nghĩ vào tư tưởng của bài Tin Mừng hôm nay.
Luca là một y sĩ và là tác giả của lòng Chúa thương xót nhân loại. Ngay từ câu đầu tiên, chúng ta đã nhìn thấy một lòng thương xót rất cụ thể. Luca viết rằng: Chúa phán: Phúc cho những kẻ khó nghèo; chứ không nói như Mátthêu: Phúc cho những kẻ có tinh thần nghèo khó. Có thể nói được rằng, theo Luca, khi ấy Ðức Giêsu nhìn vào môn đồ và tuyên bố như trên. Lời của ngài có tính cách rất chân thật vì các môn đệ kia thật sự đã khó nghèo… Và khi ghi lại Lời Chúa, Luca cũng thấy trước mắt chỉ có những kẻ nghèo khó đã tin vào Phúc Âm và đang làm nên Hội Thánh của Chúa ở trần gian. Nói cách khác theo Luca, Chúa tuyên bố những người nghèo khó trong xã hội là những người có phúc. Còn những người giàu có, chính là những hạng vô phúc.
Và như vậy Luca tỏ ra trung thực với truyền thống các tiên tri trong Cựu Ước. Vì các ngài luôn loan báo những kẻ nghèo khó sẽ được rao giảng Tin Mừng. Nay Ðức Giêsu mang Tin Mừng đến; những người có phúc nhận lãnh chính là những thành phần nghèo khó trong xã hội. Chính Người cũng đã sinh ra giữa đám người này. Họ là những người đầu tiên được loan báo ơn cứu độ đã đến, khi sứ thần Thiên Chúa hiện ra với mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh, Nhiều lần Người khẳng định Tin Mừng và của cải không thể đi với nhau, vì nhất thiết họ sẽ mê của và bỏ Chúa, hoặc ngược lại người ta sẽ đi theo Chúa và bỏ hết mọi sự.
Ðặc biệt nhất trong sách Luca có câu chuyện người phú hộ và Lazarô, một kẻ ăn mày ngồi ở ngoài cửa nhà ông (16,19-32). Không phải người giàu có ác tâm gì với Lazarô. Nhưng khi hai người chết, số phận đã đảo ngược hẳn lại. Lazarô được đưa vào cung lòng Abraham, còn người phú hộ phải ở nơi đau đớn. Lý do chỉ vì xưa kia ông đã sung sướng và Lazarô đã khổ; bây giờ Lazarô được an ủi và ông phải đau đớn. Dĩ nhiên chúng ta không nên cắt nghĩa một cách máy móc. Nhưng phải thành thật công nhận rằng Kinh Thánh vẫn có truyền thống chiếu cố những thành phần nghèo khó trong xã hội và thường phủ nhận nếp sống của những người giàu sang.
Sách Tin Mừng của Luca lại càng rõ rệt về vấn đề này (xem 16,13; 18,22.25; 12,30; 8,14…) Có thể vì như sách ấy viết ở đầu, tác giả đã tra cứu kỹ lưỡng về cuộc đời của Chúa Cứu Thế và thấy rõ thái độ ưu ái của Người đối với thành phần nghèo khổ trong xã hội. Và cũng có thể vì yêu mến Hội Thánh và thấy Hội Thánh gồm toàn những thành phần khổ sở nhất trong xã hội, tác giả thâm tín quả thật Nước Trời là của những kẻ nghèo khó.
Một bằng chứng nữa về việc tác giả Luca đã hiểu những con người nghèo khó đây một cách cụ thể là cách người trình bày các mối phúc thật sau. Khác với bản văn có trước mà Người với thánh Mátthêu đã sử dụng để viết lại bài giảng của Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay đã đổi chỗ nói về những con người đói ăn lên trước những con người khóc lóc. Và như vậy những con người nghèo khổ trước hết là những con người bây giờ túng đói. Họ sẽ được no đầy ở đời sau; nhưng bây giờ Nước Trời cũng đã là của họ rồi vì họ là thành phần những người nghèo khó. Ngược lại, những kẻ bây giờ no đủ sau này sẽ bị đói khát, như người phú hộ nọ.
Nhưng trong truyền thống của Thánh Kinh, những kẻ nghèo khó không những phải túng đói mà còn gặp rất nhiều đau khổ khác ở đời. Hiện tại họ phải khóc lóc; nhưng phúc cho họ vì họ sẽ được vui cười. Còn những kẻ bây gờ vui cười, sau này sẽ phải ưu phiền khóc lóc. Có thể nói ba mối phúc đầu làm thành một bộ và chủ yếu nhắm tới hạng người khổ sở trong xã hội mà Kinh Thánh gọi chung là những người nghèo khó. Họ sẽ được rao gaỉng Tin Mừng cho ở đời này và sẽ được bù lại ở đời sau… Nhưng khi đã lãnh nhận Tin Mừng, họ phải cẩn thận. Nếu họ bị ghét bỏ vì danh Chúa; thì họ có phúc vì họ sẽ giống các tiên tri thật. Còn nếu họ được khen lao, họ sẽ như các tiên tri giả.
Chúng ta có thể nghĩ rằng, ở đây tác giả Luca cũng đã diễn tả Lời Chúa cho một hoàn cảnh rất cụ thể. Chúa đã nói trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ vì Tin Mừng… Nhưng khi Luca viết sách, có lẽ các cơn bắt đạo chưa mãnh liệt hoặc đã lặng xuống. Ngược lại, đâu đâu người ta theo Chúa cũng bị kỳ thị và gặp khó khăn. Do đó tác giả không nói đến bắt bớ mà chỉ diễn tả ý tưởng bị ghét bỏ. Và như vậy chúng ta lại có dịp phải hiểu sách Luca trong hoàn cảnh cụ thể của Hội Thánh.
Dân Chúa bấy giờ, như sách Công Vụ các Tông Ðồ cho thấy là cộng đoàn bác ái đến nỗi không còn ai nghĩ của mình có là của riêng mình nữa, nhưng đã đem chia sẻ hết cho nhau để không còn ai túng thiếu. Tuy lòng bác ái đã bắt đầu sa sút khi những kẻ muốn giữ một phần của cải lại cho mình, như vợ chồng Anania… Luca thấy rõ tiền của thật là bất lương (16,9). Người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được (16,13). Thế nên phúc cho người nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ.
Nhưng dân Chúa bấy giờ cũng đang gặp khó khăn với người Do Thái, nên phúc cho họ khi bị kỳ thị vì danh Chúa. Họ đang đóng vai trò của các tiên tri thật ở giữa dân được tuyển chọn. Sự khôn ngoan của Cựu Ước vì thế nay đã thuộc về họ. Họ hãy tin tưởng vào Chúa.
3. Niềm tin của chúng ta
Hoàn cảnh của chúng ta hiện nay ở trong Hội Thánh dĩ nhiên đã khác với thời thánh Luca. Nhưng những nét tả trên đây của Người về Hội Thánh vẫn còn nhiều giá trị. Mọi nơi, Tin Mừng Nước Trời vẫn đến với những người nghèo khó và những người theo Chúa thường bị ghét bỏ… Chúng ta không mong nhận được bù đắp và phần thưởng ở đời này, vì đúng như lời thánh Phaolô hôm nay nói: Nếu chúng ta đặt mối hy vọng vào Ðức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi thì quả thật chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong tất cả thế gian. Không, vì chúng ta tuyên xưng Ðức Giêsu đã sống lại từ cõi chết, thì chúng ta cũng chắc chắn rằng những kẻ chết trong Người cũng sẽ sống lại.
Tuy nhiên ngay ở trần gian này, mỗi khi cử hành phụng vụ Thánh Thể, hơn bao giờ hết, chúng ta lại thấy được ở trong Nước Trời. Và đó không phải là một hạnh phúc nhỏ đâu… Nói cách khác, đời sống Kitô hữu hiện nay của chúng ta đang thể hiện những lời Luca đã viết và đã được sự khôn ngoan của các tiên tri ngày xưa báo trước. Về mặt xã hội chúng ta là những thành phần khó nghèo và đang phải phấn đấu nhiều, nhưng hiện nay nhờ mầu nhiệm Ðức Giêsu Phục Sinh, không những chúng ta được an ủi vì đang ở trong Nước Trời, nhưng hơn nữa, chúng ta còn nắm vững niềm tin về hạnh phúc bất diệt sau này, khi những kẻ chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại cho sự sống muôn đời. Và không nói gì xa, cộng đoàn phụng vụ chúng ta đang ở đây lúc này, là gì sánh với xã hội loài người? Nhưng ai trong chúng ta không đang cảm thấy được hạnh phúc tràn trề vì đang được tiếp xúc, được vây quanh, được ở trong Nước Trời của Tin Mừng cứu độ? Và mầu nhiệm Nước Trời cử hành bây giờ không là bảo chứng cho việc sống lại mai ngày và hạnh phúc trường cửu sao? Do đó chúng ta hãy yêu mến phụng vụ, hãy cử hành thánh lễ sốt sắng đầy niềm tin, để luôn luôn trong cuộc sống hằng ngày chúng ta vẫn nhớ mình đang có hạnh phúc Nước Trời và sự sống muôn đời nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết. Chúng ta hãy đứng lên tuyên xưng niềm tin ấy.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một sự thật mà ai cũng phải gật đầu thừa nhận rằng trên đời này chẳng ai muốn mình phải sống trong cảnh nghèo khổ. Nếu như không quá tham vọng một cuộc sống nhung lụa, phú quý thì chí ít con người cũng khao khát cho mình có một gia đình hòa thuận, một cuộc sống đủ ăn, đủ mặc và một chút dư thừa.
Và chẳng ai hi vọng mình cứ mãi sống trong cái cảnh nghèo túng đâu? Nghèo cũng có đến năm bảy loại nghèo, nhưng chung quy đã nghèo thì chỉ thấy bất hạnh. Nghèo đến độ mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì quả thực là khốn khổ vô cùng.
Có câu chuyện vui kể rằng: Cuối tháng, Tèo than thở với ông bạn đồng nghiệp:
– Anh biết không, nhiều khi tôi chỉ ước được sống trong cảnh nghèo đói một ngày thôi mà Trời vẫn không cho!
– Trời ạ! – anh đồng nghiệp sửng sốt – Người ta sợ nghèo, sợ đói còn không kịp, cậu lại đi ước ao nghèo.
Tèo thở dài:
– Tôi chỉ ước một ngày thôi, chứ ngày nào cũng đói khổ như hiện tại làm sao mà chịu nổi.
– !!!
Nghèo đói là tai hoạ của kiếp người. Xã hội hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Thế mà, phúc âm Chúa Giê-su lại chúc phúc cho anh em khi được đói nghèo: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói?”. Không lẽ Chúa Giê-su lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?
Chúa không chúc phúc cho sự đói nghèo mà Chúa chúc phúc cho các môn đệ của Chúa là những người đã dám bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, để rồi chẳng còn gì là của riêng mình. Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những ngư phủ khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, các ngài từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên vô gia cư, vô sản vì Tin Mừng và vì Chúa Giê-su. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giê-su trọng thưởng. “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người. Thiên Chúa sẽ bù đắp lại cho những gì con người đã làm cho Chúa, Ngài không để cho ai thiệt thòi vì tin mừng.
Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn những cái chúng ta dâng cho Chúa.
Thiết tưởng đây phải là lối sống mà những kẻ tin theo Chúa cần thể hiện một cách triệt để trong cuộc sống hôm nay. Giữa một thế giới mà lòng ích kỷ, hưởng thụ, khiến nhân loại đang chìm đắm trong bể khổ của ly tán, bất công và bạo lực, người kytô hữu phải sống triệt để tinh thần bác ác, vị tha. Con người hôm nay đang tự đầy đoạ nhau trong những bon chen danh lợi thú, những đam mê bất chính đã đẩy nhận loại đến tận cùng của sự dữ, đến nỗi người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau và đẩy nhau đến chỗ diệt vong. Người kytô hữu hơn bao giờ hết cần phải ý thức rằng tất cả chỉ là phù hoa. Trần gian là phù vân. Mọi sự rồi cũng sẽ qua. Thiên đàng mới là bất diệt. Ở nơi đó mới làm thoả mãn mọi ước vọng của con người. Cuộc sống trần gian ngắn ngủi tựa như “bóng câu qua cửa sổ”, còn đời sống thiên quốc mới vĩnh viễn ngàn thu. Đó mới là nơi mà chúng ta phải phấn đấu để đạt lấy triều thiên của vinh quang, của hạnh phúc bất diệt.
Nguỵên xin Chúa Giêsu Thánh Thể, là lương thực trợ giúp chúng ta trên đường về đất hứa xin ban cho chúng ta được no thoả ân tình của Chúa để luôn hạnh phúc với những gì Chúa ban. Amen.
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 – Bốn mối phúc (6:20-23); 2 – Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho…” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho…” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.
Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).
Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.
Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).
Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).
Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?
1. Quan niệm về hạnh phúc.
Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.
Theo truyền thống Ấn Độ, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thỏa ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay… đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. quan niệm về hạnh phúc, nội san chia sẻ số 23). Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.
2. Đi tìm về hạnh phúc.
Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.
Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.
Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.
3. Tám mối phúc thật.
Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: Vạn sự vô thường vạn sự thường, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.
Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó.
Linh mục Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.
Điệp ca trên núi của Đức Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.
Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ái có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện. Hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghĩ tới mình, tới hạnh phúc hay nỗi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.
Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp, vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.
Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự sống.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Sau khi dùng thuyền của Phêrô rao giảng, Đức Kitô nói với Phêrô chèo thuyên ra biển khơi thả lưới. Phêrô mạnh dạn nói thẳng với Đức Kitô. Ngài biết đó chúng tôi vất vả suốt đêm, vào bờ tay trắng, đang giặt lưới thì gặp Ngài. Tuy nhiên vâng lời Ngài, chúng tôi cố gắng. Các ông rất đỗi kinh ngạc mẻ lưới đầy cá, hai thuyền đầy gần chìm. Mẻ lưới đầy cá, các ông rất đỗi vui mừng và khi thuyền vào bờ các ông từ bỏ tất cả đi theo Đức Kitô. Các ông trở thành những tâm hồn hạnh phúc bởi trước khi gặp Đức Kitô các ông tin tưởng của cải, vật chất mang lại hạnh phúc. Đúng thế khi lưới dính cá thì có tiếng cười, khi lưới rách, trắng tay chỉ thấy vất vả, lao nhọc mà không được gì. Sau khi gặp Đức Kitô lòng các ông dạt dào niềm vui vì thế các ông nhận ra hạnh phúc thật không phải do của cải, vật chất ban phát. Hạnh phúc thật chính là không bị của cải hành hạ, không bị vật chất lôi cuốn. Muốn thế, bỏ chúng đi và các ông đã từ bỏ chúng. Đi theo Đức Kitô các ông nghèo vật chất, giầu tinh thần và giầu tinh thần chính là hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật có được bởi các ông từ bỏ của cải, vật chất và thay vào đó là lòng tin, lòng mến các ông dành cho Đức Kitô. Nói vắn gọn, chính Đức Kitô là nguồn hạnh phúc các ông cảm nhận và vui sống với nguồn hạnh phúc đó. Các ông từ bỏ nghề chài lưới cá, trở thành kẻ chài lưới các tâm hồn bằng cách sống, rao giảng nguồn hạnh phúc thật các ông nhận được từ Đức Kitô. Chài cá các ông cần thuyền, cần lưới; chài các linh hồn các ông cần lòng tin và niềm vui từ trong tâm hồn.
Tin theo Đức Kitô, các tông đồ trở thành tay trắng, nghèo trong xã hội các ông đang sống nhưng giầu tình thương, lòng nhân ái, giầu tình yêu Chúa và ân sủng Ngài. Các ông trở thành người hạnh phúc bởi nói theo ngôn ngữ của Andre, các ông tìm được điều các ông ước ao, tìm kiếm khi Andre lòng vui dạt dào, nói với Phêrô: ‘Chúng tôi đã gặp được Đấng Cứu Thế’ Jn 1,41. Các ông hạnh phúc bởi các ông gặp được Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người thật sự làm con tim các ông rung động và đời sống các ông hoàn toàn thay đổi. Các ông trở thành người hạnh phúc bởi từ đây sinh hoạt cuộc sống của các ông không còn tình trạng ‘đi không lại cũng về không’ bởi có Đức Kitô cùng đồng hành, hướng dẫn và cùng sinh hoạt với các ông. Các ông trở thành con người hạnh phúc bởi phần thưởng của các ông mối mọt không cắn rỉa, trộm cắp không thể lấy Mt 6,20. Các ông thật sự hạnh phúc bởi khi hoàn tất hành trình trần thế các ông hưởng gia nghiệp Thiên Quốc. Xã hội chúng sống cho là giầu sang, quyền lực, là dấu chỉ của hạnh phúc. Họ đâu biết có của phải lo giữ của, có quyền ngày đêm lo bảo vệ quyền, nếu không sẽ mất hết. Tiền bạc, của cải mang lại nhiều lo âu, phiền muộn hơn là niềm vui, hạnh phúc. Các tông đồ chọn nghèo vật chất, giầu tinh thần, giầu lòng mến và Đức Kitô khen các ông là khôn ngoan, chọn niềm vui thật, hạnh phúc vĩnh cửu. Của cải, vật chất thực ra chúng tạo cho con người niềm vui và sự an toàn giả tạo. Tiền bạc mở được hầu như tất cả các cửa nơi trần gian, ngoại trừ của mồ. Khi bệnh tật đến, tuổi già đến, tiền bạc đi ra nhanh hơn lúc chúng đi vào và cuối cùng sổ ngân hàng cũng trống rỗng và nỗi lo đã không giảm mà còn tăng thêm. Cuối đời mới nhận biết sau bao năm vất vả, khó nhọc giờ lại trắng tay. Nhận ra điều đó ở tuổi già là quá trễ, sức không còn để tái tạo, lực không còn để gánh vác. Người ta thích của cải, nhưng của cải không thích ai. Người ta trung thành với vật chất nhưng vật chất không trung thành với ai. Ai trung tín trong Đức Kitô kẻ đó tìm được niềm vui thật, hạnh phúc thật bởi Đức Kitô luôn trung tín trong lời Ngài hứa. Việc Ngài hứa Ngài sẽ thực hiện. Con người có thể lạc đường, sai lối. Đức Kitô luôn tha thứ, yêu thương. Người nghèo khổ, đói hèn là người khôn ngoan bởi họ chọn sống trung tín với niềm tin Kitô. Họ không tin vào con người trần thế và hệ thống luật pháp của con người nhưng tin vào tình yêu Chúa, lòng nhân ái của Đức Kitô và vì thế họ là người khôn ngoan. Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ tin tưởng. Họ không tìm khôn ngoan nơi loài người. Đức Kitô là nguồn sống, nguồn an bình họ luôn tin tưởng, cậy trông. Đó là ơn khôn ngoan. Sống khôn ngoan là sống hạnh phúc.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Ông Arafat, nguyên lãnh tụ phong trào giải phóng Palestin, lúc ông còn sống đã là người đầu tiên nhiệt liệt ủng hộ cựu tổng thống độc tài Saddam Hussein của Irak, bởi vì ông tin chắc rằng chuyến này, nhân dân Palestin cũng sẽ giành lại được quyền tự quyết. Nhưng sau khi Irak bại trận, ông Arafat và nhân dân Palestin lại bị bỏ rơi, và họ mới vỡ lẽ ra là mình cũng chỉ là một thứ chiêu bài chính trị được ông Saddam hoan hô nhằm phục vụ cho mưu toan của Irak trong ván cờ phức tạp khi đánh ở vùng Trung Ðông.
Biết tin vào ai, và biết cậy vào ai trong thế giới chỉ biết trọng kim tiền và khinh dể công lý, các quyền tự do căn bản của những con người này? Bởi vì các quốc gia, các phe nhóm, các lực lượng ý thức hệ, kinh tế, chính trị, xã hội hùa nhau đó nếu không còn lợi lộc gì thì trong nháy mắt họ quay lưng trở mặt lại với nhau.
Các bài đọc phụng vụ hôm nay cống hiến cho chúng ta một lời giải đáp. Có lúc người nghèo khó chỉ phó thác nơi Thiên Chúa chớ không cậy dựa nơi sức mạnh vật chất và khả năng của loài người mau tàn lụi và hay hư nát. Giáo huấn của tiên tri Giêrêmia đoạn 17,5-8 viết cũng là điều thánh vịnh 146 và 40 khuyên nhủ chúng ta: “Con đừng cậy dựa nơi vua chúa và kẻ quyền quí, vì loài người không thể cứu được con. Phúc cho ai được Chúa nhà Giacóp trợ lực. Phúc cho ai hy vọng nơi Chúa và không về phe với kẻ kiêu căng cũng không chạy theo sự dối trá”. Thánh vịnh 1 cũng đưa ra cùng lời khuyên nhủ như trên và rất giống giáo huấn của tiên tri Giêrêmia: “Khốn cho những ai cậy dựa nơi con người”. Tức là cậy dựa nơi những phường tội lỗi gian ác, vì chúng có quyền cao chức trọng và giàu có, tiền rừng bạc bể đến đâu đi nữa chúng cũng không thể cứu chính mình và cứu được ai.
Sức lực con người là bao, cuộc đời con người là mấy? Có kẻ quyền quý nào mà lại không phải chết và tan biến thối rữa đâu? Con người tự bản tính thường hay ích kỷ hẹp hòi và ham danh lợi, thấy quyền cao chức trọng và của cải, nó thường tới mức họ quên hết mọi điều cao đẹp khác. Do đó, cậy dựa vào con người quả thật là thái độ khờ dại. Khi con người tự cậy dựa nơi mình và khép kín với Thiên Chúa và tha nhân, nó cố trở nên khô cằn và chết đi, nó giống như cây me mọc trong hoang địa khô cằn và chết héo. Do đó, các lời tiên tri Giêrêmia tố cáo dân Israel hồi thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, cũng còn rất là thời sự đối với con người sống trong thế giới ngày nay, là một thế giới chủ trương lấy con người làm thước đo mọi sự. Tám mối Phúc thật và Lời Chúa Giêsu đe dọa những người giàu có như tường thuật trong Phúc Âm thánh Luca, đoạn 6, cũng là mời gọi chúng ta đừng lấy tâm thức của thế giới con người làm mẫu mực cuộc sống nhưng hãy lấy cái nhìn của Thiên Chúa.
Bốn mối Phúc thật và bốn lời chúc dữ trong Phúc Âm thánh Luca. Mối phúc thật là một kiểu hành văn quen thuộc của nền văn chương tiên tri và nền văn chương khôn ngoan, loan báo một niềm vui trong hiện tại hay trong tương lai. Nó cũng không phải là một lời cầu chúc mà là một khẳng định, một lời cam kết long trọng được tuyên bố với chính quyền bính và sức mạnh của Thiên Chúa, Ðấng luôn hoạt động trong lịch sử loài người để thực hiện sự công chính của Ngài. Các mối phúc thật của Chúa Giêsu công bố đảo lộn mọi giá trị trong tâm thức và kiểu cách nhìn bình thường của con người, bởi vì chúng diễn tả một cuộc cách mạng nội tâm sâu xa, có năng lực biến đổi hoàn cảnh sống bên ngoài của thế giới loài người. Chúa Giêsu không chúc lành hay chúc dữ cho một số cảnh sống nghèo. Tự chúng sự giàu có và của cải vật chất không phải là những gì đáng khinh rẻ, bởi vì chúng cũng được Thiên Chúa tạo thành, giúp con người sống sung túc và hạnh phúc. Một khi con người coi chúng như là một giá trị tuyệt đối, tôn chúng lên địa vị của Thiên Chúa và quỳ thờ lạy chúng, thì khi đó, của cải đáng chúc dữ và khốn cho những người thờ lạy chúng. Bởi vì khi đó của cải vật chất khiến cho con người khép kín ơn trời, cuộc sống của mình trong một chút hạnh phúc bé nhỏ, hạn hẹp mau qua của thế giới vật chất này, mà quên đi cuộc sống đích thật mà Thiên Chúa cống hiến cho mình. Của cải khi đó đáng chúc dữ vì nó khiến cho chúng ta đóng chặt, khép kín cửa nhà và cánh cửa tâm lòng mình trước những người anh em túng thiếu, khổ đau, quên Chúa, xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu của mình.
Cũng thế, sự nghèo nàn và các khổ đau trong cuộc sống con người tự chúng là những gì đáng ghê sợ, vì chúng hủy hoại hạnh phúc của con người, do đó cần phải cố gắng bài trừ chúng trước hết bằng cách loại trừ các nguyên nhân gây ra chúng. Thật ra, Chúa Giêsu không đề cao sức tàn phá tiêu cực đó của nghèo đói và khổ đau. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ơn cứu độ Ngài đem đến cho con người là ơn cứu độ toàn vẹn, đem lại của ăn và sức khỏe cho thân xác cũng như cho linh hồn. Ðó là ý nghĩa các phép lạ nuôi dân và chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Nhưng trái lại, Chúa Giêsu cũng coi nghèo đói và khổ đau cũng là ân phước, vì chúng có thể giúp con người hồi tâm ăn năn hối cải, rộng mở tâm lòng để hiểu biết và đón nhận tình thương sâu xa của Thiên Chúa và ký thác nơi Ngài. Khi tuyên bố: Phúc cho những người nghèo hèn, đói khát, khóc lóc và khổ đau vì bị người đời hất bỏ, Chúa Giêsu không muốn trói buộc con người trong tình trạng nghèo nàn và khổ đau, mà Ngài muốn cho họ hiểu rằng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh tiêu cực ấy, như hậu quả của bất công xã hội, ngay cả cái chết của con người họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và vẫn có thể rộng mở tâm lòng đón nhận ơn cứu độ Ngài ban.
Cái nghèo đói và khổ đau vật chất là cái nghèo đói và khổ đau có phước, vì nhờ đó con người được gặp gỡ Thiên Chúa và được ơn cứu độ. Nói tóm lại, người giàu có không phải vì giàu mà bị án phạt; người nghèo khó và khổ đau không phải vì nghèo khó và khổ đau mà được trọng thưởng. Giàu cũng như nghèo, ai cũng phải nỗ lực sống Tin Mừng yêu thương, chia sẻ đại đồng của Chúa để được cuộc sống đời đời.
Ðó cũng là điều thánh Phaolô nhắc nhủ chúng ta trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, chương 15: Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải giúp chúng ta chết đi cho những kiểu cách suy tư hành xử cũ của con người trần gian. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh phải trao ban cho chúng ta một tâm thức mới, một kiểu cách suy tư lý luận mới, một cái nhìn mới, một nếp sống mới đặt nền tảng trên Tin Mừng Phục sinh và trên các mối phúc thật. Nói cách khác, khi tuyên xưng lòng tin vào Chúa Kitô Phục sinh là chúng ta chấp nhận nhìn mọi sự với chính đôi con mắt của Thiên Chúa và sống theo các nấc thang giá trị Tin Mừng của Chúa. Tin vào Chúa Kitô Phục sinh cũng có nghĩa là biết lấy các giá trị đó làm mẫu mực và nền tảng cho cuộc sống gia đình và xã hội.
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Con người khi vừa mới sinh ra đã “cất tiếng khóc chào đời” như thi sĩ Cao bá Quát đã nói: “Vừa sinh ra sao đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì”? Thật là một nghịch lý: sao không chào người ta bằng tiếng cười mà lại chào bằng tiếng khóc? Vậy phải chăng “Đời là bể khổ” như Đức Phật dạy? Chúng ta phải công nhận rằng cuộc sống ở trần gian có nhiều gian nan thử thách, nhiều đau khổ, do đó, con người mới đi tìm hạnh phúc. Blaise Pascal nói: “Bất cứ ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả những người thắt cổ tự tử”.
Trong các bài đọc hôm nay, Chúa đã vạch ra cho chúng ta con đường đi tìm hạnh phúc trong bài giảng về Hiến chương Nước Trời. Điều làm cho chúng ta khó hiểu và khó chấp nhận là điều nghịch lý trong Hiến chương đó. Nhưng chính cái nghịch lý ấy lại được giải quyết trong lãnh vực thiêng liêng bằng con mắt đức tin. Theo đó, người ta không thể dựa vào mình hay vào người khác mà đạt tới hạnh phúc thật mà chỉ có những người biết cậy dựa vào Chúa, biết đặt hết tin tưởng vào Ngài với lòng yêu mến và biết ơn.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu còn nói đến sự đối nghịch giữa giầu và nghèo. Sự giầu có và nghèo khó là tốt hay xấu? Vậy hạnh phúc nằm ở trong sự giầu có hay khó nghèo? Thực ra, hạnh phúc không nằm trong sự giầu có hay khó nghèo, mà nó chỉ là phương tiện để con người đạt tới hạnh phúc. Có đạt tới hạnh phúc hay không tùy ở thái độ của mỗi người, nghĩa là phải dùng các phương tiện ấy cho xứng đáng, cho đúng với thánh ý Thiên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Gr 17, 5-8
Có lẽ một môn đệ của tiên tri Giêrêmia đã chen vào sách của thầy mình đoạn văn viết theo kiểu sách Khôn ngoan. Theo đó, tiên tri Giêrêmia đưa ra hai con đường cho người ta chọn: hạnh phúc hay bất hạnh.
Người chọn con đường hạnh phúc là người biết đặt tin tưởng nơi Chúa. Họ giống như cây bên bờ suối sinh hoa kết quả đúng mùa. Còn người chọn con đướng bất hạnh chỉ biết đặt tin tưởng nơi mình hay nơi người khác. Họ không khác gì cây trồng trong sa mạc hay trong vùng nước mặn, cằn cỗi, không sinh hoa kết quả gì.
Mỗi người phải chọn cho mình một hướng sống, và số phận vĩnh viễn sẽ tùy thuộc vào sự lựa chọn ấy.
+ Bài đọc 2: 1Cr 15,12.16-20
Việc phục sinh thân xác tạo nên nỗi khó khăn cho tín hữu Corintô. Có lẽ họ không nghi ngờ việc phục sinh của Đức Kitô, nhưng họ không tin sự phục sinh của Ngài sẽ dẫn đến sự phục sinh của thân xác chúng ta.
Nhưng với niềm tin, chúng ta quả quyết rằng chúng ta đã liên kết với Đức Kitô trong sự chết, thì chúng ta cũng liên đới với Ngài trong sự sống lại. Kitô giáo là niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, nguyên ủy phục sinh cho mỗi người chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 6,17-18. 20-26
Các mối phúc do Đức Giêsu dạy, có lẽ là những câu sấm ngôn do tiên tri Isaia loan báo về việc Nước Chúa trị đến và ông thấy nơi những người nghèo khó, đói khát và đau khổ là những kẻ được hưởng ơn cứu độ. Thiên Chúa đã đến thật và đến một cách vô điều kiên.
Theo thánh Luca (khác với Matthêu) chỉ có 4 mối phúc và 4 mối họa với lời chúc dữ.
– Những người được chúc phúc là những kẻ nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bách hại.
– Những người bị chúc dữ là những người đang giầu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giầu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất này.
B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Muốn có hạnh phúc thật
I. MỌI NGƯỜI ĐỀU TÌM HẠNH PHÚC
Hạnh phúc! Một điều mơ ước muôn thuở của con người. Tuy người ta chưa đồng ý với nhau về một định nghĩa của hạnh phúc nhưng mọi người đều nỗ lực tìm đến hạnh phúc bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ giá nào. Giấc mơ lớn nhật của mỗi người là hạnh phúc. Từ xa xưa Aristote đã cảm nghiệm được điều này khi ông nói: “Hạnh phúc là một cái mà tất cả mọi người đều tìm kiếm”. Còn triết gia Blaise Pascal bảo rằng: “Ai cũng đi tìm hạnh phúc, kể cả người thắt cổ tự tử”.
Nói đến hạnh phúc là đề cập đến một vấn đề sống còn của con người vì đã là người đúng nghĩa thì không thể sống mà không tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Vì thế, cho dù có xử dụng phương tiện khác nhau bao nhiêu đi nữa thì mọi người đều nhằm tới cái đích duy nhất ấy, cho dù bất cứ cử động nhỏ nhặt nào của con người cũng không ngoài mục tiêu hướng tới cái đối tượng ấy. Vậy đã rõ hạnh phúc là động cơ thúc đẩy con người hành động, là hy vọng quyến rũ con người cố gắng phấn đấu.
Thế nhưng từ ngàn xưa cho đến ngày nay, đã có biết bao nhiêu thánh nhân, quân tử, hiền triết, bác học cố gắng tìm cách giải đáp cách thức để nhận ra đâu là hạnh phúc và làm thế nào để chiếm đoạt được nó. Nhưng kết quả chẳng đi đến đâu vì không đáp ứng nỗi khát vọng thâm sâu của con người.
Có những người đi tìm hạnh phúc mà không đạt được, phải chăng hướng đi của cuộc tìm kiếm không đúng? Phải chăng phương cách của họ dùng không thích hợp nên không tới đích? Họ đành phải chịu bó tay mặc dầu họ giầu sang phú quí không thiếu gì để tiến tới.
Truyện: Quốc vương Abdurahman III
Quốc vương của Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giầu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ thứ 10. Lợi tức của nhà vua lên tới 336 triệu Mỹ kim. Nhà vua có 6.321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ xinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị gía 3 tỷ Mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những ngày tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi”.
Nhưng có những người sống trong những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, xem ra họ là những người đau khổ, thiếu mọi phương tiện để đạt tới hạnh phúc, nhưng trong thực tế, họ vẫn hạnh phúc, họ còn hạnh phúc hơn cả những người có đủ điều kiện để đạt tới hạnh phúc.
Đây là bằng chứng: Vào những năm cuối thế kỷ 20, viện Gallup đã làm một cuộc thăm dò 18 quốc gia để tìm xem quốc gia nào là đất nước hạnh phúc nhất. Kết quả thâu lượm được làm người ta phải ngạc nhiên! Quốc gia hạnh phúc nhất là Iceland, một quốc gia nằm ở Bắc Cực với dân số 240.000 người, pha trộn giữa người Na uy và Đan mạch. Một số người thắc mắc rằng, “Làm thế nào những người Icelander lại có thể sống hạnh phúc được khi họ hoàn toàn cô lập trong giá lạnh của Bắc cực, chịu đựng 24 giờ đêm tối mỗi ngày vào mùa đông, và còn hơn thế nữa nhiều người còn phải sống tùy thuộc vào sự bấp bênh của kỹ nghệ đánh cá”?
Một nhà xã hội học của Iceland đã giải thích như sau: “Văn hóa của chúng tôi được dệt bởi sự cực nhọc vất vả do thiên nhiên tạo ra. Đó là lý do tại sao người Icelander có một thái độ khoan dung đối với những vấn đề của cuộc sống”. Sự cô lập của quốc gia làm cho người Icelander có một cảm giác mãnh liệt về cộng đồng, một yếu tố có thể giúp giải thích tại sao họ có một đời sống trường thọ cao nhất trên thế giới. Trong khi đó Hoa kỳ chỉ được xếp vào hạng thứ 5 trong số 18 nước được thăm dò (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 85).
II. TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU?
1. Bài giảng về mối phúc
Theo Tin mừng của thánh Luca, sau khi xác định là người được Thiên Chúa sai đến như lời tiên tri Isaia (Lc 4,18-19), sau khi làm nhiều phép lạ tại Galilê và Capharnaum, và sau khi chọn 12 tông đồ, Đức Giêsu đã cống bố Hiến chương Nước Trời, còn gọi là Bài giảng trên núi hay Bài giảng khai mạc.
Matthêu khởi đầu sứ điệp của Đức Giêsu bằng một bài giảng trên núi (5-6), Ngài là một Maisen mới công bố Hiến chương Nước Trời. Luca lại đặt khung cảnh giảng dạy “trên một khoảng đất trống”, chú trong đến sự phổ cập của Tin mừng vừa tầm dân chúng. Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc 6,20)…
2. So sánh các mối phúc của Matthêu và Luca
Theo Matthêu, đây là Bài giảng trên núi, bao gồm 9 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “ nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó…” Theo Luca, đây là bài giảng ở chỗ đất bằng, trình bầy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời nguyền rủa, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giầu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
Hai bản văn này có sự khác nhau: Matthêu đã tâm linh hóa khi diễn tả: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó!” Còn Luca thì nói về những người nghèo thực sự, đói khát thực sự, đau khổ thực sự trong thân xác.
3. Nên theo bản văn nào?
Linh mục Nguyễn văn Thái kể: Khi dọn bài giảng về Những Mối phúc thật theo thánh Luca, tôi đã hỏi một người Mỹ khá giầu rằng giữa những mối phúc thật theo thánh Matthêu và thánh Luca, ông thích bài nào hơn? Ông trả lời: “Tôi rất thích bài của thánh Matthêu”. Tôi hỏi ông: “Còn thánh Luca thì sao”? Ông trả lời: “Không, tôi không thích Luca, vì bài của Luca có vẻ chống lại người giầu”. Khi thánh Matthêu nói: “Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3), ngài đã khích lệ người giầu. Còn Luca thì nói: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Điều này có nghĩa là chỉ những người nghèo mới được chúc phúc và hưởng Nước Trời mà thôi, còn người giầu có bị nguyền rủa: “Khốn cho các ngươi là kẻ giầu có”.
Cũng câu hỏi này, tôi hỏi một phụ nữ Mỹ không giầu, có vẻ hơi nghèo. Bà trả lời: “Tôi thích thánh Luca hơn, vì thánh Luca nói rõ người nghèo sẽ được hưởng nước Thiên đàng. Còn thánh Matthêu nói phúc cho người nghèo khó trong tinh thần, điều này không rõ ràng. Thật khó hiểu Ngài muốn nói gì”!
Chúng ta thấy người giầu là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Matthêu, và người nghèo là ủng hộ viên của Những Mối phúc thật theo thánh Luca. Nhưng thực ra, ý nghĩa của hai bài tường thuật như nhau. Cả hai đều kêu gọi chống lại tất cả mọi tình thế xấu.
(Nguyễn văn Thái, op, cit, tr 86-87).
4. Hiểu thế nào về giầu nghèo?
Bài đọc 1 so sánh hai thái độ của con người đối với Thiên Chúa: Những người tin tưởng vào con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc, trong khi những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần suối nước. Bài Tin mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và mang lại cho họ niềm hy vọng hạnh phúc tương lai. Tin mừng không lên án người giầu chỉ vì họ giầu, nhưng vì họ không biết dùng của cải, để cho của cải thành chướng ngại vật chận đướng lối vào Nước Trời.
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc cho những ai khó nghèo”, Ngài đã không chúc phúc cho sự đói khát và cùng khốn. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào con người sẽ thất vọng; những người đặt tín nhiệm vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Những người giầu thì có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, Những người nghèo có xu hướng tự nhiên quay về với Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải là điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn hơn và luôn bị đe dọa, nó cũng trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở thành những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đó là lý do Đức Giêsu nói: “Phúc cho những kẻ khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (McCarthy).
Chúng ta cần hiểu đúng từ “nghèo khó” ở đây. Theo thánh Luca, người nghèo khó đây là: người thiếu thốn của cải vật chất, người không có quyền lực cũng như ảnh hưởng, người bị bóc lột. Và vì không có của cải, sống bơ vơ, không được che chở nên họ chỉ còn biết đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Và vì thế, cuối cùng”người nghèo khó là người đặt trọn niềm tín thác vào Chúa”. Họ là những người được chúc phúc.
Với câu: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của các ngươi”, chúng ta phải hiểu rằng Đức Giêsu đang ám chỉ đến những người thiếu thốn, người thấp cổ bé miệng, những người không ai che chở vì thế họ chỉ còn biết tin cậy vào Chúa. Như thế, người nghèo khó được chúc phúc mà Đức Giêsu muốn nói, chính là những người nhận thức được rằng họ không thể tìm được hạnh phúc cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa. Chúa là tất cả đối với họ. Đối với họ của cải vật chất gần như chả là gì cả. Theo lời Đức Giêsu những người này thực sự là kẻ được chúc phúc. Vậy, để hiểu được lời Đức Giêsu: “Phúc cho các người là những kẻ nghèo khó”, chúng ta cần đọc lại lời tuyên bố trên theo cách thức sau: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nhận thức được rằng không thể tìm được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải thế gian, mà bằng cách đặt trọn niềm tín thác vào Chúa” (Mark Link).
III. MUỐN CÓ HẠNH PHÚC THẬT
1. Phải có tinh thần siêu thoát
Chúa phán: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Nghèo chỉ những người không có của. Sự thiếu thốn này chỉ có thể là một sự kiện. Muốn nghèo mà được chúc phúc thì sự kiện đó phải trở thành một nhân đức. Và nghèo chỉ trở thành nhân đức khi nó kèm theo tinh thần cởi bỏ sự dính bén vì lòng mến Chúa, hay nói cách khác, là tinh thần siêu thoát. Mà hậu quả tinh thần siêu thoát, đó là tin cậy ở Chúa là Cha quan phòng. Người nghèo sống theo tinh thần nói trên, thì dễ dàng ước muốn những của siêu nhiên hơn.
Hiểu như vậy, thánh Augustinô đã cắt nghĩa chữ “nghèo” này theo nghĩa khiêm nhường: Vì thường tình, lòng cởi bỏ mọi dính bén làm phát sinh lòng khiêm tốn, trong khi của cải thường phát sinh sự kiêu ngạo. Đức Mẹ cũng đã quan niệm như thế trong kinh Magnificat: “Chúa đã nâng người mọn hèn lên … người giầu có đã trở về tay không”.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “An cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân… Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư… lo đạt đạo”(Luận ngữ 7,15 và 15,30-31).
Đức Phật không thể chịu nổi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu”(Lc 9,58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài không phải giầu sang, quyền quí, mà là siêu thoát để truyền dạy chân lý không mệt.
Tiền của tự nó là tốt vì Chúa đã dựng nên tất cả cho con người tiêu dùng, nó chỉ trở nên xấu nếu con người không biết xử dụng nó, thay vì coi nó là đứa tôi tớ trung thành, lại biến nó thành ông chủ khắc nghiệt, thành thần Mammon quyền uy. Người ta thường ca tụng tiền của:
Đồng tiền
Là tiên là Phật,
Là sức bật của con người,
Là nụ cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cái cân công lý,
Là ý chí con buôn,
Là nỗi buồn của cán bộ…
Người có tiền của mà không có hạnh phúc vì không hiểu câu: “Hữu lộc bất khả hưởng tận”. Biết tận hưỡng cũng là một điều khó vì thần Mammon đã mê hoặc con người làm cho con người mất sáng suốt như người ta nói: “Hoàng kim hắc thế tâm nhân”: đồng tiền đổi trắng thay đen lòng người.
2. Phải có tinh thần bác ái
Ngoài ra muốn tận hưởng hạnh phúc, con người còn phải biết cho đi. Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bóng xà phòng. Hạnh phúc đích thực không nằm trong của cải hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chỉ là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi thì có phúc hơn lãnh nhận”.
Thánh Grêgôriô Cả khuyên những người giầu hãy giúp đỡ người nghèo để được Chúa chúc phúc: “Khi cho những người nghèo những sự vật cần thiết, chúng ta không tỏ lòng quảng đại cá nhân đâu, nhưng chúng ta trả cho họ những gì là của họ. Đúng ra chúng ta đã làm bổn phận của đức công bằng, hơn là đã thực hiện một hành vi bác ái”(Giáo lý công giáo số 2445). Hãy giúp người rồi người sẽ giúp lại: “Nợ tang bồng vay trả trả vay” (Nguyễn công Trứ):
Thương người như thể thương thân
Một mai rồi cũng đến lần ta đây.
3. Tìm hạnh phúc thật nơi Chúa.
Lời Chúa hôm nay đã trình bầy một nguyên tắc căn bản cho hạnh phúc thực sự mà con người đang tìm kiếm. Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có Thiên Chúa và không bước đi trong đường lối ngay chính của Ngài.
Vậy, theo lời Chúa dạy, thì hạnh phúc chính là tình trạng của con người dù biết mình nghèo, thiếu thốn, khổ đau mà vẫn cố gắng làm việc vui vẻ, trong sáng, chăm chỉ vì luôn tín thác vào sự quan phòng nhân ái của Chúa; là tình trạng của người dù có gặp gian nan thử thách vẫn kiên trung luôn ý thức mình là con Chúa.
Nói khác đi, điều làm cho con người dễ dàng đón nhận hạnh phúc Thiên đàng, chính là sự tự do của người nghèo khó: nghĩa là khi chịu đựng các thăng trầm bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống, người nghèo khó ý thức rằng chỉ có cuộc sống đời sau mới thỏa mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn con người. Và cả những ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu Chúa thì Ngài sẽ đền bù cho họ niềm hoan lạc đích thực đời này lẫn đời sau.
Tóm lại, hạnh phúc không gì khác là luôn có Chúa ở cùng vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được nỗi khát vọng sâu xa của con người. Và khi cảm nhận được tình yêu lớn lao của Ngài đổ tràn trong tâm hồn thì mọi sự khác đều trở nên vô nghĩa.
Truyện: Hoàng đế Napoléon.
Khi hoàng đế Napoléon, người hùng chinh phục cả Âu châu của Pháp, bị đầy sang đảo Sainte Hélène, người viết tiểu sử của ông vẫn theo ông sát cánh. Đối với anh chàng viết tiểu sử này, mỗi một chi tiết trong cuộc đời của Napoléon đều đáng ghi nhớ, không một biến cố nào là nhỏ cả, và không ngày nào là không được lưu ý.
Một hôm, biết rằng ngày tận cùng của Napoléon sắp đến, chọn một giây phút Napoléon cảm thấy thoải mái nhất, người viết tiểu sử hỏi Hoàng đế: “Thưa ngài, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của Ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất”? Napoléon không trả lời ngay, quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thăm thẳm phía xa một hồi, đoạn thở dài và quay lại chậm rải nói với người viết tiểu sử của ông: “Tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời của tôi đã xẩy ra cách đây lâu lắm rồi, khi tôi còn bé, đó là ngày tôi Rước Lễ Lần Đầu”.
Trước kinh nghiệm của Napoléon, chúng ta nhìn thấy mặc dù có danh vọng, giầu sang, và tình yêu đến tuyệt đỉnh cũng không mang lại hạnh phúc đích thực cho con người, nếu vắng bóng Thiên Chúa (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 91)..
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em và với chính mình, như lời thánh Phaolô nói: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”
Một tác giả có viết: “Trong hạnh phúc có mầm đau khổ”. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Đức Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói sự thực, bị sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giầu lên khi chịu nghèo, no thỏa lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bị bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời (Thiên Phúc).
Truyện vui: Giầu có.
Một chàng nghèo mạt rệp đến hỏi một vị linh mục:
– Con thấy giáo lý trong đạo chẳng thực tế chút nào. Trong khi ngày Tết đến, mọi người chúc cho nhau có nhiều Tài, Phúc, Lộc, Thọ, thì Chúa Giêsu dạy: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó”. Như vậy, theo Chúa thì được lợi ích gì?
Vị Linh mục trả lời: – Ngài sẽ làm cho anh có nhiều hơn.
Anh chàng hỏi lại: – Nhiều hơn thế nào được?
Linh mục bình tĩnh trả lời: – Khi dạy anh ham muốn ít hơn.
Thực ra, nếu chỉ nghĩ tới hạnh phúc ngay ở trần gian này, thì Lời Chúa hôm nay khó hiểu và khó chấp nhận, vì người ta không thấy hạnh phúc ngay trước mắt. Nhưng với con mắt đức tin, chúng ta còn hy vọng vào đời sống mai hậu, nơi đó mới có hạnh phúc hoàn toàn. Cuộc sống ở trần gian này chỉ là một cuộc hành trình còn nhiều gian khổ, là cuộc chuẩn bị cho ngày vinh quang đó. Thánh vịnh sau đây đã diễn tả tư tưởng đó:
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
(Tv 126, 5-6)
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến, giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai, Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”
Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).
Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,
Không theo đường lối những tội nhân,
Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;
Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa,
Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày.
Họ như cây trồng bên bờ suối nước,
Trổ sinh hoa trai đúng mùa,
Lá cây không bao giờ tàn úa,
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
Kẻ gian ác không được như vậy,
Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi!
Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa;
Vì Chúa canh giữ đường người công chính,
Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
(Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)
Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.
Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Lc. 6,27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Kitô hữu chúng ta không xa lạ gì với kinh Tám Mối Phúc Thật. Giáo Hội lại khẳng định bát phúc chính là bản Hiến Chương Nước Trời. Thế nhưng để hiểu nội dung, ý nghĩa của tám mối phúc thì không hẳn dễ dàng. Quả thật đã có biết bao giấy mực xưa nay nói về các mối phúc ấy. Tám mối phúc như Tin Mừng thánh Matthêu tường thuật hay là chỉ có bốn mối phúc theo Tin Mừng thánh Luca? Vì sao nghèo khó, sầu khổ, khóc than, bị oán ghét, sỉ vả mà lại là có phúc? Một cuộc cách mạng về bậc thang giá trị hay là những thách thức với quan niệm của người đời xưa nay?
Không sợ sai lầm để khẳng định rằng sự khổ hay cái nghèo tự chúng không phải là mối phúc. Nhưng chính người nghèo, người đau khổ là những đối tượng được chúc phúc. Họ được chúc phúc vì họ đang còn biết mong chờ, biết hy vọng một điều gì đó tốt lành hơn đến từ trên cao. Bởi chưng họ đã như vô phương tự cứu mình và cũng chẳng còn có thể cậy dựa vào các nguồn lực ở dưới trần gian này. Và khi Đấng cứu độ đến thi ân giáng phúc, thì họ là những người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Chúng ta có thể hiểu điều này khi Chúa Giêsu sau khi chúc phúc cho những người nghèo, người bất hạnh, khốn khổ, thì Người đã báo họa những người bây giờ đang giàu có, vui cười, sung sướng, đang được mọi người ca tụng. Cái khốn của họ là ở thái độ tự thỏa mãn trong tình trạng đủ đầy sự may lành trần gian hiện có. Đã thỏa mãn thì sẽ chẳng khát khao điều gì hơn nữa. Cái khốn của họ còn thể hiện nơi việc họ đặt niềm tin cậy vào những thiện hảo chóng qua đời này, vào quyền lực của thế gian này, khi cho rằng chúng chính là hạnh phúc thật, là nguồn bảo đảm hạnh phúc thật.
Ngôn sứ Giêrêmia đã thẳng thừng: “Đức Chúa phán như sau: Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân là nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…” (Gr 17,5-6).
Đã là hạnh phúc thật thì phải mãi mãi thường tồn. Những thực tại tốt đẹp ở trần gian này như của cải, chức quyền, bổng lộc…dù quý giá đến mấy thì cũng chỉ là những kho tàng “có thể bị ten sét, bị mối mọt đục khoét, bị mất trộm, mất cướp”(x.Mt 6,19-21). Cái hữu hạn thì không thể đem lại hạnh phúc đích thật. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo, là Đấng vô thủy vô chung, không hề đổi thay, mới là nguồn của hạnh phúc thật.
Bỏ hình để bắt bóng là một trong những chước cám dỗ muôn đời với con người, nhất là với những người vốn có chút của tiền, danh vọng hay quyền lực trong tay. Có thể nói nhiều luật sĩ, biệt phái, thượng tế thời Chúa Giêsu đã rơi vào chước cám dỗ này. Họ tự hào về lòng đạo đức qua việc giữ luật tỉ mỉ cách bên ngoài của mình. Họ tự cao về sự hiểu biết, về vị thế của mình trước mặt đám đông dân chúng. Họ tự mãn về của cải vật chất và chức quyền đang có trong tay. Chính vì thế khi Chúa Cứu Thế đến thì họ chối từ. Đã không tiếp nhận, họ lại còn tìm cách loại bỏ Đấng là nguồn của hạnh phúc thật.
Hạnh phúc thật sẽ đến với những ai biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa. Giêrêmia còn khẳng định: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,7-8).
Như thế khi chúc phúc cho người nghèo, người khốn khổ, bất hạnh…Chúa Giêsu xác nhận rằng họ đã biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ, đó là vào chính Người, Đấng đang phán dạy họ. Tác giả Thánh Vịnh đã từng cảm nghiệm: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian…”(Tv 118,8). Vậy thử hỏi thế nào là biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa? Khi đặt niềm tin cậy vào một ai đó thì chúng ta hoàn toàn giao phó cuộc đời của mình, tương lai của mình, số phận đời đời của mình cho người ấy. Động thái giao phó đời mình được biểu hiện bằng việc đi theo bước chân người mình tin cậy và sống theo lời người ấy chỉ dạy.
Đấng mà chúng ta tự nguyện đặt niềm tin cậy, tức là gắn bó và sống theo lời Người chỉ dạy đó là Giêsu Kitô. Chúa Kitô không chỉ là người có quyền năng trong lời nói và hành động mà Người còn bảy tỏ uy quyền tối thượng của Người bằng việc chiến thắng sự chết. Mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là nền tảng để chúng ta đặt niềm tin cậy vào Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).
Đã là người thì ai cũng mong muốn và luôn kiếm tìm hạnh phúc. Tuy nhiên vẫn có nhiều người lầm tưởng tình trạng hạnh phúc là khi có đủ đầy tiện nghi vật chất, chức quyền, danh vọng hay được thỏa mãn một số nhu cầu nào đó. Cái ảo tưởng này sẽ tan vỡ, khi họ đối diện với những biến cố không may trong cuộc đời mà ít ai tránh được và nhất là khi đối diện với cái chết không ai thoát được. Hạnh phúc đích thật của con người là tình trạng được hiệp thông với Đấng đã cho con người từ hư vô được hiện hữu. Có thể nói đây là cái cảm nghiệm của các thánh nhân khi cận kề với giờ sinh ly tử biệt mà dân gian quen gọi là “sống thánh – chết lành”.
Với cái nhìn của lý trí, người ta cũng đã thoáng nhận ra những mối họa nhãn tiền trên số phận những người đặt niềm tin cậy vào những sự chóng qua đời này khi đồng thuận với nhau rằng sắc đẹp không qua khỏi làn da, vinh hoa phú quý không theo chúng ta đi vào nấm mộ lạnh. Ứớc gì với cái nhìn của đức tin, chúng ta thêm xác tín đâu là hạnh phúc thật để rồi biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh phúc vĩnh viễn bên cạnh Ngài. Bởi thế loài người luôn khát khao hạnh phúc. Thế nhưng hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh.
Hôm nay Chúa sẽ dạy ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thường chỉ biết tìm hạnh phúc trần gian mà lơ là với hạnh phúc muôn đời.
Chúng con thường chỉ tìm hạnh phúc ích kỷ cho bản thân mà không quan tâm xây dựng hạnh phúc cho tha nhân.
Chúng con chưa thực sự tin vào những mối phúc thật mà Chúa công bố.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 17,5-8)
Ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh:
Con đường dẫn đến hạnh phúc là đặt niềm tin nơi Chúa. Ngôn sứ diễn tả hạnh phúc ấy bằng những hình ảnh thiên nhiên cho dễ hiểu: Người đặt niềm tin vào Chúa là người đi trên con đường có nước, có bóng cây, có hoa trái…
Con đường đưa tới bất hạnh là đặt niềm tin nơi người đời. Người đi trên con đường ấy chỉ gặp sa mạc khô nóng, đồng khô cỏ cháy, đất mặn, không bóng mát…
2. Đáp ca (Tv 1)
Tiêu chuẩn hạnh phúc và bất hạnh theo ngôn sứ Giêrêmia là đặt niềm tin nơi Thiên Chúa hay loài người. Còn theo tác giả Thánh vịnh 1 thì đó là sống theo Luật Chúa hay là đi theo quân gian ác.
3. Tin Mừng (Lc 6,17-26)
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là Bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trước đông đảo dân chúng (bài giảng thứ nhất ở quê hương Nadarét, Lc 4,16-30, chỉ giảng cho đồng hương Ngài nghe).
Bài giảng này có những điểm giống và những điểm khác với bài giảng trên núi trong Tin Mừng Matthêu: Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,12-16.20) (Chủ đề phụ)
Người dân Côrintô chịu ảnh hưởng triết lý hy lạp nên không tin có việc kẻ chết sống lại.
Để giúp tín hữu mình tin vào giáo lý ấy. Thánh Phaolô đưa nhiều lập luận:
Nếu kẻ chết không thể sống lại thì tại sao Đức Kitô đã chết mà đã sống lại? Nói cách khác, việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng rõ ràng về việc kẻ chết sống lại.
Đức Kitô không chỉ có khả năng làm cho bản thân Ngài sống lại, mà còn có thể làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được sống lại như Ngài.
Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc, tình cảnh trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New York quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện khoác áo blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
***
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản dề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó!à hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin Mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin Mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Chỉ “Khốn cho người giàu có” khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng lý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luttler King: “Chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn”.
Dưới con mắt Chúa, làm giầu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không nằm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”.
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thánh Phaolô: “Lương tâm rôi không trách cứ tôi điều gì”.
Một tác giả có viết: “Trong hạnh phúc có mầm đau khổ. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bi sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời.
***
Lạy Chúa, hạnh phúc đích thực chính là có một lương tâm an bình, một con tim biết chia sẻ và một khối óc luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn đắm chìm trong hạnh phúc được làm con cái Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Hạnh phúc hiện tại của người nghèo
Etienne Charpentier viết:
“Bài giảng trên núi trong Mátthêu và bài giảng trên cánh đồng của Luca mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Chúa Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào?
Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: “Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương… vậy cứ tiếp tục nghèo đi! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc”. Nhưng thực ra Chúa Giêsu nói ngược hẳn lại: “Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. (Pour lire le Nouveau Testament)
Chúa Giêsu không hứa sẽ ban hạnh phúc cho người nghèo, Ngài loan báo cho người nghèo biết là họ đang hạnh phúc. Lý do hạnh phúc của họ là tuy họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng họ có Nước Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là của anh em”.
Có Nước Thiên Chúa là có tất cả. “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?”
* 3. Nghịch lý
Người ta thường nói “nghèo khổ”, nghĩa là cái nghèo và cái khổ đi đôi với nhau; đã nghèo thì tất nhiên khổ. Thế mà Chúa Giêsu lại nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo”. Hình như Chúa Giêsu muốn đảo ngược kiểu nói “nghèo khổ” thành “nghèo phúc”. Thật là nghịch lý!
Nhưng chuyện nghịch lý không phải là không có trên đời. Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo: chẳng hạn như các nho gia cởi áo từ quan, rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên; hay thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một huynh đoàn quy tụ những người muốn sống nghèo như ngài; hay ngày nay những tu sĩ với lời khấn trọn đời sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Quyết định sống nghèo của họ không phải do bốc đồng nhất thời mà là kết quả của một thời gian dài suy nghĩ chọn lựa. Sự chọn lựa ngược đời của họ khiến ta phải suy nghĩ vì chắc hẳn họ đã nghiệm ra có nhiều điều hay trong cái nghèo nên họ mới chọn lựa như vậy.
Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc. “Tri túc, tiện túc”: biết đủ thì đủ.
Vì chỉ cần tối thiểu như thế nên lòng họ không bị giao động vì những ham muốn có thêm. “Túi tham không đáy”: lòng ham muốn sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên cứ giao động hoài.
Không tham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên.
Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác.
Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn.
Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được Thiên Chúa yêu thương che chở.
* 4. Những mối phúc của tấm lòng
Phúc thay ai có lòng thanh sạch, họ sẽ được thấy Chúa.
Phúc thay ai có lòng khiêm tốn, họ sẽ tìm được sự ngơi nghỉ cho linh hồn.
Phúc thay ai có lòng ấm áp, họ sẽ tỏa chiếu lòng tốt ra chung quanh.
Phúc thay ai làm việc với tấm lòng, họ sẽ tìm gặp niềm vui trong công việc.
Phúc thay ai không ngã lòng, họ sẽ tìm được nghị lực để kiên trì.
Và phúc thay ai đặt lòng mình vào Nước Thiên Chúa, mọi điều khác sẽ được ban cho họ. (FM)
* 5. Nghèo mà giàu
Khi Chúa Giêsu nói “Phúc cho những người nghèo”, Ngài không chúc phúc cho sự túng thiếu và bần cùng đâu, vì túng thiếu và bần cùng là những điều xấu.
Điều được chúc phúc chính là sự cậy trông vào Chúa. Ai cậy trông vào những gì thuộc về loài người thì sẽ bị thất vọng, còn ai cậy trông vào Chúa sẽ chẳng thất vọng bao giờ. Chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta. Chỉ một mình Ngài mới có thể thỏa mãn những đói khát của chúng ta.
Người giàu thường hay cậy dựa vào tiền bạc của cải của họ. Đối với họ, chỉ có đời này là quan trọng, còn đời sau hay là Chúa đều là quá xa vời. Trái lại người nghèo thì tự nhiên dễ hướng về Chúa, cuộc sống càng cơ cực khó khăn thì họ càng cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Mà ai cậy dựa vào Chúa thì sẽ được Ngài phù hộ chở che.
Khi người nghèo nhận được một điều gì đó, dù rất tầm thường, họ cũng lấy làm sung sướng và biết ơn.
Một hôm, một người nghèo đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Người ăn xin chìa tay xin tiền. Người nghèo này bối rối đáp: “Xin lỗi, tôi chẳng có gì cho bạn, vì tôi cũng nghèo như bạn”. Người ăn xin nói: “Xin cám ơn vì món quà bạn đã cho tôi”. Người nghèo ngạc nhiên họi lại: “Tại sao bạn cám ơn tôi? Tôi có cho bạn cái gì đâu”. Người ăn mày nói tiếp: “Bạn đã cho tôi sự nghèo nàn, lòng chân thành và sự tin cậy của bạn”.
Đối với Chúa, chúng ta đều nghèo. Nhưng dù nghèo, chúng ta cũng có những món quà cho Chúa, đó là lòng chân thành, sự cậy trông và chính sự nghèo nàn của chúng ta. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
“Chồng tôi đã chết, cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”.
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
b/ Người hạnh phúc nhất
Nhà vua bị bịnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bịnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo!
c/ Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chốn nương thân. Cùng với tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa là Đấng ban hạnh phúc thật sự cho mọi người, chúng ta tha thiết nguyện xin:
1. Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình sống lời Chúa dạy / đặc biệt là sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh xác tín rằng / sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy.
2. Trên thế giới ngày nay / người nghèo vẫn chiếm đa số / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển / để mọi người đều được hạnh phúc ấm no.
3. Là con người / ai cũng mong muốn được hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / qua việc chia sẻ tình thương và cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.
4. Mọi thực tại ở trần gian này đều chóng qua / không có gì tồn tại mãi mãi ngoài một mình Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn nhớ đến chân lý căn bản này / để đừng bao giờ quá bám víu vào của cải vật chất, nhưng biết hướng tâm hồn lên cùng Chúa / là nguồn hạnh phúc của hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con chỉ trở nên người Kitô hữu chân chính khi chúng con sống lời Chúa. Xin cho chúng con biết yêu mến và sống theo Lời Chúa dạy trong Kinh thánh, để nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc thật sự trong đời sống thường ngày. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta xin trong Kinh lạy Cha đều nhằm đem đến cho chúng ta hạnh phúc đích thực. Vậy chúng ta hãy hướng lòng lên Cha trên trời và sốt sắng đọc lời kinh Chúa dạy.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa đã dạy chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và đâu là hạnh phúc giả trá chóng qua. Ước chi tuần này chúng ta sẽ khôn ngoan, biết tìm kiếm hạnh phúc chân thật vững bền.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi đi tới gian hàng bán tranh ảnh trong dịp tết, tôi thấy có tấm tranh tuyệt đẹp có hai câu đối như sau: “Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng BẦN ra cửa. Sáng Mồng một giang tay bồng ông PHÚC vào nhà”. Vâng, trong những ngày đầu xuân, theo thói quen, người ta rủ nhau đi hái lộc. Gọi là đi hái lộc nhưng thực ra người đi hái lộc đã có sẵn trong những ước mơ, những nguyện ước trước khi hái lộc: khấn xin và hái được lộc hạnh phúc và lộc thịnh vượng trong suốt 365 ngày sắp đến vì chưng, quan niệm xưa, lộc là của trời hay các đấng thiêng liêng ban cho.
Còn chúng ta hôm nay đến với Chúa trong ngày của Chúa vì Ngài là Chúa của vũ trụ, Chúa của mùa xuân và của mọi phúc lộc. Vì vậy, không chỉ trong những ngày tết mà mọi ngày, chúng ta đến với Chúa trong tâm tình cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa đồng thời xin Ngài ban phúc lộc cho mỗi người, cho gia đình, giáo xứ, giáo phận, giáo hội và đất nước chúng ta. Qủa thật, Chúa Giêsu hôm nay đã đáp ứng ước nguyện đó nên ban lộc và phúc cho ta mọi ngày và suốt đời đó là phúc Lộc Nước Trời, “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Trời là của anh em”. Chúng ta sẽ nói ngay rằng mới đầu năm đầu tháng mà Chúa nói tới nghèo khó rồi, mà nghèo khó sao lại phúc lộc được? Không, Chúa không bao giờ muốn chúng ta phải thiếu thốn vật chất cả, mà ngược lại luôn ban cho kẻ đói nghèo của đầy dư nữa là khác (bài Magnifacat). Cái nghèo khó mà Chúa Giêsu nói ở đây đó là tinh thần không cậy dựa vào tiền của, quyền lực, danh vọng nhưng phải siêu thoát với vật chất và đặt niềm tin cậy vào Chúa, đó mới là phúc lộc đích thực. Cho nên, trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Giêrêmia khẳng định rằng ai đặt niềm tin vào Chúa, và có Chúa làm chỗ nương thân, thì người ấy sẽ được phúc lộc dồi dào chẳng sợ gì phong ba bão tố của cuộc sống.
Con người sinh ra là để được sống phúc lộc, mà phúc lộc này chỉ có Trời hay các đấng thiêng liêng ban cho. Cho nên, phúc lộc là niềm khát khao của con người trong từng giây, từng ngày và nhiều khi cả đời. Nhưng làm sao để đạt được lộc phúc đó, có phải đi hái lộc đầu năm là hái được lộc phúc liền tay, rồi cả năm ngồi không mà hưởng thụ? Không, muốn có được phúc lộc đó, con người một phần dựa ơn Thiên Chúa ban và phần khác là nơi ý chí, nghị lực, đức tin và sức lực của mỗi người. Nhưng thực tế, con người cho rằng có tiền là có phúc lộc tất cả. Cho nên, đồng tiền sẽ làm chủ đời họ và thậm chí nó sai gì mình làm cũng cũng làm dù biết đó là bất nhân, bất nghĩa, vô phúc! Cho nên trong cuộc sống, không thiếu những gia đình đại gia thật sự nhưng không phúc lộc vì vợ chồng xào xáo nhau, con cái bỏ nhà đi hoang, hút chích nghiện ngập. Rồi cũng vì tiền, cha mẹ đuổi con, con đuổi cho mẹ ra khỏi nhà và cũng vì đồng tiền mà biết bao nhiêu chuyện thương tâm xảy ra trong xã hội hôm nay: giết người, cướp của, cướp đất, bóc lột… Vì thế phúc lộc đâu phải nằm ở tiền của, danh vọng, quyền uy nên Chúa Giêsu dạy phúc lộc nằm nơi tâm hồn nghèo khó, có nghĩa là một tâm hồn siêu thoát biết sử dụng của cải, kiến thức, địa vị quyền thế mà phục vụ nhau, giúp nhau thăng tiến cuộc sống này ngỏ hầu đạt phúc lộc đó là Nước Trời ngay ở đời này lẫn đời sau.
Tâm hồn nghèo là tâm hồn sống trọn tình vẹn nghĩa với Chúa và tha nhân ngay ở đời này dù người đó giàu hay nghèo, dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ. Tâm hồn nghèo là tâm hồn hiền lành, trong sạch, hòa thuận và khiêm nhường, vì nếu trong cuộc đời nếu tôi kiêu căng sắc xảo thì tôi là người tối, nếu huênh hoang huyền hoặc tôi thành tồi, và tự ái nặng nề tôi thành tội, khiêm tốn tôi thật thà đơn giãn tôi là tôi. Chẳng hạn, tâm hồn nghèo khó của vua Đavít, dù trên ngai vàng bệ ngọc là một niềm cậy trông vào Chúa, hay tâm hồn nghèo khóc Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh cả Giuse dù khó khăn gian khổ nhưng vẫn chan chứa niềm vui, hạnh phúc vì biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa là chủ muôn phúc lộc. Cho nên, nếu không có một sự tuôn trào phúc lộc là nước sự sống đời đời của Thiên Chúa thì đời sống của chúng ta có thể trở nên vàng úa và trơ trọi. Không có ân sủng Thiên Chúa chúng ta sẽ không có phúc lộc.
Cho nên, hôm nay nguồn mạch phúc lộc chính yếu ân sủng tươi mát của Thiên Chúa: Lời Chúa và Thánh Thể. Lời Chúa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta. Lời Chúa làm đức tin của chúng ta sống động, thiết thực và hữu hiệu còn Thánh Thể ban cho chúng ta sức mạnh để sống và thực hiện đức tin của chúng ta theo thánh ý Chúa ngay đời này mà đem là phúc lộc là Nước Trời cho ta. Ước gì, giờ này mỗi người chúng ta hãy để tâm hồn trở nên như chiếc bình sạch trơn tru trống rỗng, để Thiên Chúa không những đong đầy phúc lộc Nước Chúa Trời vào tâm hồn từng người trong chúng ta qua Lời Ngài và Thánh Thể sắp ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta ngõ hầu dệt nên những phúc lộc đời thường trong cuộc sống gia đình, giáo xứ, xã hội của chúng ta. Đồng thời, xin cho mỗi người cũng biết chia sẻ những phúc lộc thành tựa đó cho người khác để mọi người được hưởng trọn vẹn phúc lộc đích thực là sống mãi bên Chúa, chính nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Nhiều chữ “phúc” vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay, lại là liền sau Tết Kỷ Hợi, nên suy tư về chữ “phúc” quả là xứng hợp.
Khổng Tử một ngày kia đi dạo núi Thái Sơn, gặp ông Vĩnh Khải Kỳ cũng đang ngao du tại đó. Ông này mặc áo da cừu, lưng thắt dây đai, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi: Tiên sinh làm thế nào mà thường xuyên vui vẻ thế?
Vinh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh muôn vật muôn loài, mà loài người là quí nhất. Ta được làm người đó là một điều quý, đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều quí, đáng vui. Người ta sinh ra có người đui người què có người sống yểu chết non, còn bọc trong tã mà đã chết rồi, mà ta đây hoàn toàn khoẻ mạnh, nay đã 90 tuổi, thế là ba điều quý, đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người, ta nay xử cảnh thường như nhiều người, đợi lúc hết như mọi người, thì có gì là lo là buồn.
Đức Khổng Tử nói: Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách hưởng sự vui sướng ở đời.
Vinh Khải Kỳ quả đang sống những cái phúc ở đời.
Bài Tin Mừng hôm nay của Luca tuy chỉ vang lên 4 chữ phúc, chứ không như của Matthêu đến 8 chữ phúc, nhưng như thế cũng là phúc lắm rồi, bởi có kẻ được phúc này, có kẻ được phúc kia, có kẻ hai ba bốn phúc, có kẻ nửa chữ phúc cũng tìm không ra.
Trong cuộc sống thường ngày ta cũng dễ thấy cái Phúc nằm ở nhiều lớp người, nhiều hoàn cảnh. Lm Cao Siêu ghi:
“Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc.
Nhưng định nghĩa hạnh phúc lại là điều không dễ.
Mỗi người có một quan niệm về hạnh phúc,
và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian.
khi thì hạnh phúc là cái này lúc thì hạnh phúc là cái kia.
Đói, hạnh phúc là cơm canh. Đau, hạnh phúc là chạy nhảy
Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc,
để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn
thế nào là hạnh phúc đích thật.
Hạnh phúc không nằm nơi của cải, kiến thức, quyền uy.
Hạnh phúc không do chiếm được những gì mình muốn,
nhưng do trao hiến điều quý nhất của mình.
Hạnh phúc là sự ổn thỏa giữa tôi với Chúa,
giữa tôi với anh em, giữa tôi với chính tôi…” (Lm Cao Siêu)
Có những lúc hạnh phúc thật đơn sơ dễ thấy nhưng mà cũng khó đạt:
Nhà kia có người con ngoan ngoãn hiếu đễ – ta khen: ông bà là người có phúc.
Gia đình nọ, vợ chồng chí thú làm ăn, nuôi dạy con cái nên người, ta khen: anh chị là người hạnh phúc.
Nhà nọ, đầm ấm sum vầy, ta bảo: họ có phúc.
Và cũng có cái phúc thật giản đơn: Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo, tức là mất phúc !
Vậy là cái phúc ở đời nằm trong tay nhiều hạng người, nhiều hoàn cảnh chứ không giới hạn ở một vài dăm ba. Thì cái phúc của người theo Đức Kitô, (Kitô hữu) cũng nằm trong tay nhiều hạng, chứ không chỉ 4 như Luca, hay 8 như Matthêu, hay thêm cái phúc tin không có trong bộ tứ, bộ bát trên, như trong Gioan, không thấy mà tin cũng phúc. “Phúc cho ai không thấy mà tin,” “phúc cho bà là người đã tin,” “phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.… Do đó cái chính không phải là xem hạng người nào có phúc, nhưng xem coi: người có phúc thì họ được gì.
Cả 4 mối Phúc của Luca lẫn 8 mối Phúc của Matthêu cũng đều nhắc tới cái được. Gom tất cả các cái được đó lại và nhại theo câu chuyện giữa Khổng Tử và Vinh Khải Kỳ mà chúng ta nghe đầu bài, ta có thể thuật như sau:
“Một ngày kia, Đức Khổng Tử đi chu du thiên hạ, gặp một nhóm người ngực mang khổ giá nhưng nét mặt vẫn tươi vui. Bảng tên của họ ghi “Kitô hữu.” Đức Khổng Tử hỏi một người trong nhóm: Này anh, kẻ hậu sinh, nhóm của anh tìm được cái gì mà sao anh và họ vui tươi hớn hở như thế? Nét mặt các anh biểu lộ tâm hồn của những phúc nhân, những chân phước.
“Chàng Kitô hữu trả lời:
“Chúa Trời sinh muôn vật muôn loài mà loài người là quí nhất. Chúng tôi được làm người, đó là một điều phúc.
“Chẳng những chỉ là người bình thường mà chúng tôi còn được làm người con của Trời, con của Chúa, làm thiên tử. Về điều phúc này lớn lao quá, đến nỗi khổ mấy để đạt được cũng không quản, đạt được rồi, vui mấy cũng không vừa. Không bút nào tả cho xiết, không lời nào nói cho cùng. Chúng tôi là thiên tử, là con trời. Đó là 2 điều Phúc.
“Là con trời nhưng Trời không là vị Chúa tể oai phong cho bằng Trời là Cha, Chúa là mẹ. Chúa là Cha, cũng không phải là cha nghiêm khắc công thẳng mà là Cha nhân từ. Cha chúng tôi nhân từ đến độ có người cho là nhu nhược, nhưng Ngài vẫn cứ giữ nhân từ vô cùng như thế. Dù chúng tôi có tội lỗi bao nhiêu, dù chúng tôi có xúc phạm Ngài thế nào, chỉ cần một tiếng khóc ăn năn: Phúc cho kẻ than khóc, thì Ngài liền quảng đại thứ tha. Cha chúng tôi quyền phép vô cùng nên mới nhân từ vô hạn được như vậy. Đó là 3 điều phúc.
“Rồi khi cái chết là sự hết của đời người, chúng tôi sẽ được về cùng Cha, không phải chỉ mãi là tâm linh là khí phách sống trong nhà Cha, mà cả xác của chúng tôi cũng được phục sinh trong ngày sau hết để vui hưởng hạnh phúc trong nhà Cha như nhà mình: đó là 4 điều phúc.”
Nghe chàng Kitô hữu trả lời, Khổng Tử liền nói: “Được 4 chân phúc như các anh các chị, làm sao các anh các chị không vui, không mừng được. Lời của các anh chị nghe là lời phúc: Phúc âm. Tin mà các anh chị nhận là Tin Mừng: Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.”
Cứ đón, cứ nhận những Tin Mừng mà Đức Kitô loan báo,
Cứ nghĩ tới cứ nhớ về những cái Phúc mà chúng ta được đó:
– phúc làm người,
– phúc làm người con Chúa,
– phúc làm người con Chúa là Cha nhân từ,
– phúc được về nhà Cha cả hồn lẫn xác,
Chúng ta sẽ đủ sức mạnh đủ nghị lực để sống vui sống hạnh phúc chẳng những đời sau mà đời này nữa, cho dù có nhiều nghịch cảnh vây quanh ta, ta vẫn vang lên những lời chúc phúc mà chắc chắn Chúa đã hứa và Chúa sẽ thực hiện. Amen.
Tin mừng Lc 6:17.20-26 Thực ra, không phải bản chất sự nghèo nàn khổ sở được xem là hạnh phúc, hay sự giàu có lại là bất hạnh. Nhưng người nghèo được chúc phúc khi biết cậy trông vào Chúa chứ không phải cậy dựa vào sức riêng hay tài năng mình có.
Suy niệm:
Đầu năm mới, chúng ta chúc nhau những điều may lành, cầu cho được hưởng hạnh phúc. Người đời thường coi hạnh phúc là khi người ta có được cuộc sống ấm cơm no áo ấm, giàu sang phú quý, danh thơm tiếng tốt. Hạnh phúc đối với các cô gái là lấy được anh chồng đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, viết chữ to…; còn hạnh phúc với các cậu trai là cưới được cô vợ dễ thương, khá giả, tốt bụng, biết vén khéo chuyện gia đình…
Bài đọc thứ I, chúng ta được tiên tri Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh. Con đường dẫn đến hạnh phúc là con đường của người biết đặt niềm tin nơi Chúa, được minh họa bằng hình ảnh của cây trồng nơi bờ suối, dễ dàng đâm rễ vào nơi ẩm ướt nên không sợ cái nắng mùa hè, lá vẫn xanh tươi, vẫn sinh hoa kết quả luôn. Còn con đường đưa tới bất hạnh khi nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa, được diễn tả bởi một khung cảnh nơi đồng khô cỏ cháy, ở vùng đất mặn không người, không bóng mát…
Và trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng trình thuật lại lời dạy của Chúa Giêsu về các mối phúc. Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Bốn mối phúc này đối xứng với bốn lời chúc dữ khi sống giàu có, no đủ, vui cười, được ca tụng. Điều cần lưu ý là Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc. Nhưng với lý trí, chúng ta rất khó hiểu về các mối phúc mà Chúa Giêsu đưa ra cho người môn đệ, vì đó là điều mà mấy ai dám đón nhận. Và người ta cũng đặt câu hỏi liệu có thật không hay chỉ là lời an ủi dành cho người khốn khổ?
Thực ra, không phải bản chất sự nghèo nàn khổ sở được xem là hạnh phúc, hay sự giàu có lại là bất hạnh. Nhưng người nghèo được chúc phúc khi biết cậy trông vào Chúa chứ không phải cậy dựa vào sức riêng hay tài năng mình có. Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự bản thân nó không tốt cũng không xấu, nhưng ông bà ta gọi là “tiền bạc” vì nó rất bạt bẽo. Tiền có thể là một tên đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu. Chúng chỉ thực sự giúp chúng ta hạnh phúc khi điều đó làm người ta càng ít dính bén với của cải trần gian để hướng lòng về Chúa. Nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, bị ghét vì sống chân thật, bị khinh khi vì Chúa thì mới thật là người có phúc. Vâng, chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta.
Câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine kể về “Ông phú hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc, công việc làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giàu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giày ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng huýt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Một hôm, thấy người đánh giày nghèo nàn ấy, ông phú hộ liền đem tặng cho người này một túi tiền. Thế là từ ngày đó, người đánh giày không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Sau cùng, người đánh giày đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
Khi được bầu làm Giáo hoàng, vị Hồng y Jorge Mario Bergoglio người Argentina đã lấy danh hiệu Phanxicô Assisi cho đời Giáo hoàng của mình để diễn tả chương trình hành động của ngài, bộc lộ một nỗi khao khát: “Ôi, tôi mong ước biết bao có được một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”. Nhưng phải chăng một “Hội Thánh nghèo” là một Hội Thánh gồm toàn những người nghèo?
Hội Thánh không phải là một bang hội Cái Bang nhưng bao gồm tất cả những ai nhìn nhận rằng mình nghèo khó để mở lòng mình ra, tìm kiếm và tin nhận Thiên Chúa là hạnh phúc duy nhất. Cũng như lời thánh Phaolô rao giảng về Chúa Giêsu Kitô: “Người giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Người” (2Cr 8,9).
Vậy, chúng ta đang sống trong Hội thánh của Chúa Giêsu Kitô, chính chúng ta cũng được mời gọi tập sống như Chúa để có được mối phúc của Người. Hội thánh cần phải sống nghèo, là một Hội Thánh không dính bén với của cải vật chất, cũng không khư khư ôm lấy kho tàng đức tin của mình mà không chia sẻ cho anh chị em, nhưng là Hội thánh dám đi ra vùng ngoại vi, đến với những người bên lề xã hội, chia sẻ đức tin cho những người bị khô khan nguội lạnh, trao ban tình thương theo gương người Samari nhân hậu, cúi xuống săn sóc cho bất cứ ai cần được giúp đỡ.
Lạy Chúa, thật đẹp biết bao dẫu cho các tín hữu có phải bị mang thương tích khi dám ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa về các mối Phúc. Điều đó thể hiện dấu chỉ Hội thánh dám sống nghèo khó, chịu đói khát, phải khóc lóc và bị phỉ báng vì Chúa Giêsu, Đấng đã chết vì chúng con và đã sống lại để cho chúng con được ơn cứu độ. Amen.
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 2.11.1994 có đăng bài viết về cô Vương Ngọc Sương, một người tàn tật, phải ngồi xe lăn mà còn mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo. Và hơn thế nữa, còn sử dụng căn nhà bé nhỏ của mình để chăm sóc một số bệnh nhân tàn tật giống như cô.
Câu chuyện xảy ra vào năm 1985, trong một tai nạn cô bị chấn thương cột sống, khiến cho đôi chân mất dần cảm giác. Chồng cô kiên nhẫn thăm nuôi cô được sáu tháng rồi biệt tăm, để lại cho người vợ tàn tật hai đứa con nhỏ. Giữa cảnh túng quẫn, cô được một người mẹ nuôi bên Pháp giúp đỡ. Điều đáng thán phục đó là cô đã vận dụng số tiền nhận được để phục vụ những người tàn tật và trẻ em nghèo túng.
Có một ông bố mà những đứa con đã được cô nhận nuôi, sau khi đến thăm cô đã phải bật khóc và nói:
– Tôi còn nguyên vẹn như thế này mà đã hư hỏng, trong khi chị tật nguyền lại phải lãnh hết việc nuôi dạy các con tôi.
Và từ đó ông cố gắng chừa bỏ tật nghiện rượu là nguyên nhân gây nên những đổ vỡ trong gia đình ông. Chính mẹ nuôi của cô ở Pháp cũng viết thư và cho biết:
– Mấy người Pháp đến Việt Nam thăm cô nay trở về cũng tỏ ra là những người sốt sắng sống đạo khác hẳn trước. Riêng phần mình, cô đã không ngần ngại thú nhận: trước kia cô đã từng dửng dưng với những khổ đau của người khác và đã từng làm mất lòng Chúa. Chính nhờ sự tàn tật mà cô được hoán cải. Cô vui vẻ đón nhận mọi điều Chúa cho xảy ra nơi thân xác cô cũng như nơi môi trường cô đang sống.
Từ mẩu chuyện trên chúng ta nhận thấy: việc làm của cô là một phản ảnh trung thực cho lời giảng và việc làm của Chúa. Thực vậy Thiên Chúa đã chiếu cố đến hoàn cảnh của từng người. Ngài không chỉ loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, mà còn là hiện thân của Tin Mừng đó. Bởi lẽ, vì yêu thương, Ngài đã xuống thế làm người, trở nên anh em với hết mọi người. Do đó, không một đau khổ nào chúng ta phải chịu mà không đụng tới lòng thương xót và chương trình cứu nhân độ thế do chính Ngài thực hiện. Ngài đã nghiệm thấy cái đói của một bà goá. Ngài đã chữa lành mọi kẻ phong cùi, bất luận họ là người Syria hay là người Do Thái. Vì thế mới có sự kiện đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi, tuốn đến nghe Ngài giảng và để Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền.
Đồng thời Ngài cũng muốn chúng ta biểu lộ lòng thương xót với anh em bằng những hành động cụ thể, bởi vì khi chúng ta giúp đỡ anh em là chúng ta giúp đỡ cho Chúa. Nhờ đó mà chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời:
– Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.
Bởi đó, hãy giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo khổ, để nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm hạnh phúc dạt dào như lời Ngài đã phán:
– Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho người đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Như dân Do thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm mới được đặt chân vào miền đất hứa, chúng ta cũng là những người đang dấn bước. Cuộc đời là hành trình. Trần gian là sa mạc. Đất hứa là Nước trời. Đúng thế, mỗi ngày sống phải là một bước tiến tới niềm đất Chúa đã hứa ban là Nước trời, là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Và như vậy, đối với chúng ta cuộc sống không phải là một sự phi lý đáng nôn mửa, hay buồn chán và tuyệt vọng, nhưng là một giai đoạn quan trọng để thanh luyện, để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho niềm hạnh phúc vĩnh hằng mai sau. Vì thế, chết không phải là hết, nhưng là thời điểm chúng ta được sinh cho cuộc sống đời đời, là khung cửa hẹp qua đó chúng ta được tiến vào nhà Cha.
Đó là niền tin tưởng và hy vọng của chúng ta. Người Kitô hữu không bi quan yếm thế, nhưng nhìn rõ và đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Chính niềm tin tưởng và hy vọng vào cuộc sống mai sau đã thắp sáng những năm tháng hiện tại của chúng ta.
Thế nhưng, ai là người sẽ làm cho mơ ước của chúng ta trở thành sự thật, cho tin tưởng và hy vọng của chúng ta không tan theo mây khói? Ai là người sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy? Ai là người đáng cho chúng ta đặt trót niên tin tưởng và hy vọng?
Trước hết, có phải là chính bản thân chúng ta hay không?
Tục ngữ Tây phương đã bảo:
– Vouloir c’est pouvoir, muốn là được.
Hay như một nhân vật trong cuốn phim “Chiếc lều của chú Tom” đã nói:
– Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Tin vào mình là điều kiện cần thiết giúp chúng ta đạt tới thành công. Đứng trước một việc khó khăn, nếu chúng ta dứt khoát muốn lướt thắng, thì đã giải quyết được một nửa.
Tuy nhiên, sụ tự tin không phải là điều kiện ắt có và đủ để đem lại thành công và hạnh phúc. Kinh nghiệm cho chúng ta hay:
– Ước mơ thì rất nhiều mà thực tế lại chẳng được bao nhiêu.
Sở dĩ như vậy là vì cái khó bó cái khôn, lực bất tòng tâm, những ước mơ của chúng ta, nhất là ước mơ về hạnh phúc, và đặc biệt là hạnh phúc vĩnh cửu, vốn thường ở ngoài khả năng và tầm tay của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình bất lực đối với chính bản thân mình.
Con người chúng ta là một bí mật mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng hiểu nổi. Vui đấy rồi lại buồn đấy. Chúng ta cũng chẳng biết mình muốn gì và mình là người như thế nào? Hơn nữa, bản thân chúng ta giống như con ngựa chứng bất kham,chúng ta không thể điều khiển nổi mình nữa và nhiều lúc đã phải đầu hàng trước những cám dỗ, những thôi thúc của tội lỗi, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
– Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.
Đằng khác, chúng ta còn bất lực đối với những hoàn cảnh, những sự việc xảy ra chung quanh chúng ta. Thực vậy, cho dù chúng ta đã làm lụng vất vả, những do thời tiết bất ổn, mưa không thuận, nắng không hòa, thành thử mùa màng vẫn thất thu như thường.
Sau cùng, nhiều lúc chúng ta cảm thấy bất lực trong việc tạo dưng hạnh phúc. Thực vậy, dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều, thế mà cuộc đời vẫn chìm ngập trong khổ đau vì khổ đau vốn dĩ là một cái gì gắn liền với thân phận con người và trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm với của chúng ta như người xưa đã bảo:
– Đời có vui sao chẳng cười khì.
Bởi đó, bản thân chúng ta không phải là nơi để chúng ta đại niềm tin tưởng và hy vọng.
Thứ đến, có phải là những người sống chung quanh chúng ta hay không?
Người khác đối với chúng ta cũng là một bí mật khó có thể hiểu thấu, như tục ngữ đã bảo:
– Sông sâu còn có người dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
Hơn thế nữa, trong giao tiếp và liên hệ, chúng ta thấy người khác thường hay đóng kịch và giả dối đối với chúng ta và nếu không sáng suốt và cảnh giác, chúng ta rất dễ bị lừa gạt. Trước mặt họ ca tụng chúng ta, nhưng sau lưng họ lại chửi bới chúng ta hay toan tính những ý đồ mờ ám và thâm độc theo kiểu:
– Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
– Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Nhiều khi chỉ vì những lợi lộc nhỏ nhen mà họ sẵn sẵn sàng bán đứng chúng ta hay nỡ dứt tình và phản bội chúng ta khiến chúng ta phải ngao ngán thốt lên:
– Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc, bạc như vôi.
– Bạc như dân, bất nhân như lính.
Cho dù họ là người quyền thế và thành thực yêu thương chúng ta chăng nữa, thì họ vẫn bất lực trong việc mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta. Thực vậy, bản thân họ cũng phải cúi đầu chấp nhận đau khổ như một lá bài định mệnh và nhiều khi chính họ lại là nguyên nhân gây nên những đau khổ cho chúng ta. Biết bao nhiêu bậc cha mẹ đã phải cay đắng vì những đứa con mình đã mang nặng đẻ đau. Biết bao nhiêu người vợ đã phải bẽ bàng về sự phản bội của người chồng mà mình rất mực yêu thương. Và như thế, người khác cũng không phải là nơi để chúng ta đặt niềm tin tưởng và hy vọng.
Riêng với chúng ta, chỉ mình Thiên Chúa mới là nơi cho chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng và hy vọng, bởi vì Ngài là Đấng luôn yêu thương chúng ta, luôn mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc. Hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng chân thật, không hề lừa dối chúng ta như lời Ngài đã phán:
– Ta là đường, là sự thật và là sự sống.
Tất cả những lời Ngài đã hứa, thì Ngài đã, đang và sẽ còn thực hiện cho chúng ta. Sau cùng, Ngài là Đấng quyền năng, chỉ mình Ngài mới có thể thực hiện được những điều Ngài muốn.
Chúa là phần sản nghiệp của chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta tới đồng cỏ Nước trời. Hãy đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông nơi Ngài. Và Ngài sẽ trở thành niềm hy vọng thắp sáng cuộc đời chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, với tình yêu thương chân thành của một người Cha, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng con và với quyền năng của một vị Thiên Chúa tối cao, Chúa dư khả năng thực hiện bất cứ những gì chúng con kêu xin. Chính vì thế, chúng con luôn tin tưởng, cậy trông và hy vọng vào Chúa. Xin Chúa hãy nâng đỡ chúng con trên vạn nẻo đường đời, để nhờ đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng con luôn trung thành và gắn bó cùng Chúa.
26.Nghèo vì Nước Trời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm bạn hữu?
2. Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào? Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3. So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Tesexa, bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
4. Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
27.Hạnh phúc đích thật – Achille Degeest
Bài giảng của Chúa về tám mối phúc thật, từ xưa đến nay là đề tài cho không biết bao nhiêu thiên chú giải. Chúng ta lắng nghe cha De Gradmaison: “Người ta rất dè dặt thận trọng khi bàn đến những điều kỳ diệu ấy. Phải có được sự tế nhị thiêng liêng của một Phanxicô thành Assisi, mà cuộc đời và tinh thần nói đúng ra là một bản chú giải tuyệt tác nhất về bài giảng trên núi. Ai là người ít nhất chẳng thấy rằng những lời giảng dạy về hạnh phúc thật bắt nguồn từ sự lựa chọn phải có giữa phục vụ Thiên Chúa và phục vụ thế gian, những lời khuyên ấy cho ta nhìn suốt tới đỉnh cao nhất con đường từ bỏ và phó thác trong niềm hiếu thảo, con đường ấy kết thúc cách hoàn toàn kín đáo ở điều mãi mãi cần thiết cho mọi người: Thiên Chúa phải được phục vụ trước hết”.
Một khía cạnh khác được bản văn gợi lên: Nhãn quan Thiên Chúa khác nhãn quan chúng ta khi xét về nhân loại. Sự kính nể của thế gian dành cho ai? Ai là người được lưu danh trong lịch sử? Thiên Chúa nhớ rõ tên tuổi kẻ nghèo hèn, kẻ bé mọn nhất, kẻ túng thiếu, kẻ bị khinh miệt. Với những kẻ ấy, Thiên Chúa dành cho lòng từ ái của Người, ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu. Tại sao thế? Bởi vì bước đường lữ thứ của họ dưới thế này không vương mắc chướng ngại tiền của và kiêu ngạo.
1) Phải chăng có một sự mâu thuẫn giữa những thực tại khắc nghiệt của đời sống và tình yêu của Thiên Chúa bao phủ kẻ nghèo? Phải chăng Thiên Chúa cần áp đặt công lý trên trái đất? Đó là một câu hỏi đặt sai. Thật vậy, căn bản của hạnh phúc nói đến trong Phúc Âm không ở một tầm mức thuần tuý xã hội. Phúc Âm không phải là không biết đến cơ cấu xã hội, nhưng nếu muốn thay đổi chúng thì Phúc Âm không chỉ đề xướng một cuộc đấu tranh trực tiếp mà chỉ hô hào đem sức sinh động vào trong những cơ cấu ấy. Thiên Chúa là Đấng công chính vô cùng nên Người không thể nào sử dụng sự tranh chấp giữa loài người như một phương tiện thực thi công lý.
Người ta sẽ không hiểu được, không dùng được Phúc Âm nếu không chấp nhận rằng sự thành toàn chung cục của công lý và hạnh phúc chỉ hiện thực trong Nước của Cha. Tất nhiên, tất cả chúng ta phải phấn đấu cho công lý, nhưng với những phương tiện của Phúc Âm và phải vượt quá những viễn ảnh thuần tuý thế gian, bởi vì tính chất cứu cánh của Phúc Âm nâng cao chúng ta khỏi tầm mức thế gian.
2) Bằng cách nào phân biệt tiên tri thật với tiên tri giả? Tiên tri thật thường bị phỉ báng, bị gạt ra ngoài, bị bách hại vì liên hệ sinh động với Đức Kitô. Trái lại tiên tri giả thường được kính trọng, gặt hái nhiều thành công, được khen ngợi về khéo xử thế, vì có những ý tưởng thật “hấp dẫn”, vì học thức cao, đôi khi vì giàu sang. Thế giới chúng ta rất xứng đáng tiêu biểu cho thế giới khắp mọi thời đại. Tiên tri thật ngày nay quy hướng mọi sự về Đức Kitô. Một triết thuyết khá thiển cận muốn coi thời đại hiện nay là thời tiền lịch sử. Lịch sử thì theo như người ta nói hứa hẹn “những ngày mai tưng bừng ca hát”. Nhưng chính Đức Kitô sống ngày xưa, bây giờ và trong tương lai, giúp chúng ta ổn định hiện tại, sống thời buổi hiện tại bằng cách đem đến cho hiện tại một giá trị và ý nghĩa của nó. Bởi vậy, chúng ta hãy cố gắng đem vào thế giới hiện tại một nền công lý và một niềm thương yêu phát xuất từ một lịch sử thần thánh và sẽ thành toàn khi nào tới tận cùng lịch sử thần thánh ấy. Những ngôn sứ đích thật duy nhất là những ai quyết tâm rao giảng: Đức Kitô là nguồn mạch và thành toàn của mọi công lý, mọi tình thương.
Người ta thường so sánh hạnh phúc đích thực với chiếc áo lót của một người chăn chiên. Chuyện được kể như sau:
Một vị vua nọ có tất cả mọi sự, nhưng không bao giờ cảm thấy được hạnh phúc. Ngày kia có một người khuyên nhà vua hãy mặc cho kỳ được chiếc áo lót của người hạnh phúc nhất trần gian. Quân lính đã được sai đi khắp nơi để tìm cho bằng được con người ấy, họ đi săn lùng khắp nơi mà vẫn không tìm được người hạnh phúc ấy. Cuối cùng họ bắt gặp một người chăn chiên đang đứng giữa mưa gió mà vẫn ngân nga ca hát. Hẳn người này phải là con người hạnh phúc nhất trần gian. Nghĩ như thế nên họ mới xông đến lột áo người chăn chiên ra. Thế nhưng than ôi, người chăn chiên nghèo đến nỗi không có nổi một chiếc áo lót trên người.
Người chăn chiên nghèo trong câu chuyện trên đây phải chăng là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Bởi vì, chỉ nơi Ngài chúng ta mới thấy được “hạnh phúc đi đôi với nghèo khó”. Hơn nữa, chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là con người hạnh phúc nhất trên trần gian này. Là lời của Thiên Chúa nói với con người, Chúa Giêsu đã đạt đến sự thống nhất trọn vẹn giữa lời nói và cuộc sống. Chúa Giêsu chỉ rao giảng những gì Ngài đã sống và Ngài luôn sống đúng những gì Ngài rao giảng.
Rao giảng Tin mừng cho con người, Chúa Giêsu cũng chính là Tin mừng được loan báo cho con người. kêu gọi con người sống hạnh phúc, Chúa Giêsu hẳn phải là một con người hoàn toàn hạnh phúc. Thế nhưng, đâu là hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu rao giảng cho chúng ta? Ngài đã sinh ra nghèo khó, lớn lên trong khó nghèo, sống nghèo và chết cũng nghèo. Không những Chúa Giêsu muốn chia sẻ đến tận cùng kếp sống con người,nhưng qua cuộc sống nghèo hèn ấy Ngài còn muốn nói với chúng ta rằng: Của cải đích thực của con người chính là Thiên Chúa. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu. Không những sống nghèo, Chúa Giêsu còn sống với những người nghèo hèn, Ngài ăn uống với những người nghèo hèn, ngồi đồng bàn với những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề.
Qua cuộc sống chia sẻ ấy, Chúa Giêsu hẳn muốn nói với chúng ta rằng: hạnh phúc đích thực của con người chính là sống cho Thiên Chúa qua tha nhân. Con người chỉ có thể tìm thấy được qua ý nghĩa của cuộc sống khi nó biết sống tình liên đới, khi nó biết chia sẻ với tha nhân. Cái đẹp trên Thập giá của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của cuộc sống cho tha nhân. Dưới con mắt của người đời thì cái chết ấy là một thất bại ê chề, nhưng với Chúa Giêsu thì cái chết đó đã biến thành nguồn ân phúc: “Phúc cho các ngươi khi người ta thù ghét, trục xuất, phỉ báng các ngươi và loại trừ các ngươi như những kẻ bất lương, nhưng phần thưởng các ngươi thật lớn ở trên trời”.
Một đời sống tiêu hao vì người khác, một cuộc đời sống trọn cho tha nhân, đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói về cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu và Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa mới được nghe Chúa Giêsu công bố cũng chính là chương trình sống của Ngài.
Chương trình sống ấy Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta như chính Hiến Chương Nước Trời mà Ngài đã rao giảng. Hãy sống như Ngài, hãy hành động như Ngài, hãy cư xử như Ngài. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói ới chúng ta qua bản Hiến Chương Nước Trời của Ngài. Sống như Ngài tức là sống trọn vẹn cho tha nhân. Xét cho cùng thì nghèo khó không phải là sống trong cảnh bần cùng thiếu thốn. Tinh thần nghèo khó của Chúa Giêsu không hẳn đã biến cuộc sống của chúng ta thành một trại tế bần mà trái lại, Ngài kêu gọi con được ống xứng với phẩm giá của nó trong thể xác cũng như trong tinh thần nghèo khó đích thực mà Chúa Giêsu muốn rao giảng qua cuộc sống của Ngài, đó là sống tự do và trao ban trọn vẹn cho tha nhân. Lòng tham nào cũng là một thứ nô lệ đối với của cải trần thế, trái lại tự do đích thực chính lá thoát sự kềm tỏa của cải để có thể chia sẻ và rao ban đến tận cùng. Chúa Giêsu đã để lại khuôn vàng thước ngọc mà hánh Phaolô đã ghi lại như sau: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.
Niềm hạnh phúc trao ban ấy Chúa Giêsu cũng muốn lập lại cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, Ngài tiếp tục lý tưởng khó nghèo của Ngài khi trao ban trọn vẹn cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, đó là lý tưởng của Ngài và lẽ sống của Ngài. Nhận lãnh sự sống của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để sống theo lý tưởng ấy. Và như Ngài đã hứa trong “Tám Mối Phúc Thật”, nếu chúng ta sống lý tưởng trao ban ấy chúng ta sẽ cảm nếm được niềm hạnh phúc đích thực ngay trên trần gian này.
29.Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Có 150 Thánh Vịnh trong Thánh Kinh, một trong những Thánh Vịnh đó là hình thức chúng ta thưa đáp sau bài đọc đầu tiên vào mỗi Chúa Nhật. Thánh Vịnh dành cho ngày hôm nay là Thánh Vịnh đầu tiên, Thánh Vịnh ấy được đặt trong 149 bài đọc, bắt đầu cho 149 bài Thánh Vịnh kia. Lời thứ nhất của bài Thánh Vịnh đầu tiên này là”hạnh phúc”.
Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc. Một từ khác chỉ về sự hạnh phúc trong Thánh Kinh là ”chúc phúc”. Chúng ta được hạnh phúc khi chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc. Thánh Vịnh tuyên bố rằng để được chúc phúc là được giống như cây trồng bên suối nước trong, được sinh hoa quả bốn mùa và lá của nó không bao giờ tàn úa, hình ảnh này đề nghị một sức mạnh to lớn và sự sống mãnh liệt.
Chúng ta sẽ được hạnh phúc với sức mạnh và sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta theo đường lối mà Chúa đã chỉ định cho chúng ta, tiên tri Giêrêmia đã giúp chúng ta hiểu con đường này là: “Phúc cho những người tin tưởng vào Chúa, những ai hy vọng vào Ngài”. Chúa tiết lộ hình ảnh đó trong Thánh Vịnh đầu tiên khi nói về một người tin tưởng vào Chúa và những người hy vọng vào Ngài thì giống như cây trồng bên suối nước trong.
Chúng ta biết rằng nước thì cần thiết cho sự sống. Sau cơn mưa xuân đầu mùa những cây cỏ thì xanh tươi mơn mởn sự sống. Nhưng trong nắng hạn vào mùa hè mọi vật lớn lên đều trở nên vàng úa và trơ trọi, không có gì ngạc nhiên khi bí tích phép rửa đã dùng biểu hiệu nước trong phép rửa tội mà chúng ta lãnh nhận đầu tiên trong sự sống của Thiên Chúa, đặc ân của ân sủng thần linh, là bắt đầu thông dự vào hạnh phúc của Người.
Nếu không có một sự tuôn trào nước sự sống đời đời của Thiên Chúa thì đời sống của chúng ta có thể trở nên vàng úa và trơ trọi. Không có ân sủng Thiên Chúa chúng ta có thể trở thành không hạnh phúc. Nguồn mạch chính yếu ân sủng tươi mát của Thiên Chúa là Thánh Lễ. Trong suốt lúc cử hành Thánh Lễ, chúng ta nghe lời của Chúa tuyên bố trong Thánh Kinh và trong bài giảng. Lời Chúa đã nuôi dưỡng đức tin của chúng ta. Thứ hai là chính Thánh Thể, Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta. Không có gì có thể thay thế được Lời Chúa và Thánh Thể. Chúng ta đã được nuôi dưỡng vào mỗi ngày Chúa Nhật bởi Lời và Bí tích. Chúng đi cùng với nhau. Lời làm phong phú đức tin của chúng ta còn Thánh Thể ban cho chúng ta sức mạnh như chúng ta cần để sống và thực hiện đức tin của chúng ta.
Chúng ta tin rằng chúng ta biết hạnh phúc là gì, nhưng thực tại của nó thì khác hẳn. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng hoàn cảnh của chúng ta thì xa vời với điều mang lại hạnh phúc nhưng Thiên Chúa đã có những cách khác để nhìn xem sự vật. Đó là lý do vì sao Thiên Chúa đã cho chúng ta những mối phúc và chúng là những nghịch lý. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng đối nghịch với những gì mà những mối phúc đó nói là sự thật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Phúc cho những kẻ đói ăn, phúc cho những kẻ khóc lóc”.
Chúng ta có thể hạnh phúc khi chúng ta nghèo khổ, khi sự nghèo khổ làm cho chúng ta quay đầu về với Thiên Chúa và tin tưởng vào Người. Chúng ta có thể được hạnh phúc khi chúng ta đói khát nếu chúng ta cho phép sự đói khát của chúng ta làm cho chúng ta khao khát Thiên Chúa và ao ước Người tràn đầy sự trống rỗng nơi trái tim chứ không chỉ nơi bao tử của mình. Chúng ta có thể được hạnh phúc khi chúng ta khóc lóc, nếu những đau thương của chúng ta đặt trọng tâm vào sự thất bại và sẵn sàng làm theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự.
Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc. Hãy yêu mến Thiên Chúa và theo con đường sự sống của Ngài là con đường duy nhất để được hạnh phúc, một hạnh phúc thật.
30.Các mối phúc, lời hứa thành hiện thực
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu công bố các mối phúc. Cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều ghi lại bài giảng này, nhưng mỗi người lại có một lối viết riêng, rất độc đáo và có tính bổ sung cho nhau nhằm cung cấp cho các độc giả Kitô hữu những bài học cụ thể trong đời sống đức tin.
1. Các mối phúc theo Tin Mừng:
Các mối phúc của Tin Mừng thánh Luca ghi lại hướng trực tiếp đến những người nghèo, những hoàn cảnh đáng thương vì thiếu cơm ăn áo mặc, những người thấp cổ bé miệng bị xã hội bạc đãi, những nạn nhân của bất công. Họ lại được Thiên Chúa yêu thương, hứa ban hạnh phúc Nước Trời. Có thể nói Tin Mừng Luca là Tin Mừng của người nghèo, cái nhìn của Luca là suốt cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Ngài luôn ưu tiên dành chỗ cho người nghèo. Bên cạnh đó, các mối phúc theo Tin Mừng Mátthêu lại mang nặng tính luân lý hơn. Khi nói đến người nghèo, Matthêu cho thấy con người được vào Nước Trời không phải là những người ở trong tình trạng thiếu thốn phương tiện vật chất, nhưng lại do tình trạng sở hữu. Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến những cơn đói khát tinh thần của con người, đói khát công lý, bác ái và hòa bình viên mãn.
Tóm lại cả hai thánh sử đều muốn khẳng định rằng: Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo trong các mối phúc không phải là thiên đàng trong thế giới tương lai đang đến. Những thực tại Nước Trời được xem như là những giá trị bền vững như công bình, bác ái, liên đới. Đó là Nước Trời mà suốt cả cuộc đời người Kitô hữu luôn kiếm tìm và xây dựng.
2. Phúc cho người nghèo khó:
Đối với Chúa Giêsu, nghèo hay giàu không phải là cái tội. Của cải, danh vọng và chức quyền tự nó không có gì trái ngược với Tin Mừng. Nhưng Chúa Giêsu trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng luôn cảnh cáo những thái độ làm cho con người trở thành nô lệ. Một cuộc sống nghèo túng có thể là cạm bẫy, những sinh hoạt hằng ngày có thể biến con người thành ngu dại, chỉ biết nhìn thấy miếng cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa cùng đích của đời người. Một cuộc sống thiếu thốn vật chất dễ nảy sinh những tật xấu như chúng ta thường nói với nhau “Bần cùng sinh đạo tặc”.
Ngoài ra, sự giàu có cũng có thể là sợi dây trói buộc lòng quảng đại của con người, phát sinh tính ích kỷ và biến cuộc sống trở thành khép kín. Khi công bố các mối phúc Chúa Giêsu không khuyến khích một thái độ sống vô lo, thiếu trách nhiệm hay phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi. Vì đó cũng không phải là thái độ đích thực mà Tin Mừng muốn dạy chúng ta.
Trong bài đọc 1 hôm nay, qua miệng Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa muốn nói rằng: Ai cũng cần phải lớn lên trong trách nhiệm và tự do. Nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. Hơn bất cứ ai, Ngài chính là điểm tựa vững chãi của đời người. Bởi đó chúng ta đừng đi tìm kiếm điều gì khác ngoài Ngài, đừng cậy dựa vào sức riêng của mình mà rời xa Thiên Chúa. Chính khi biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. Đó là bí quyết hạnh phúc Chúa muốn truyền lại cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Tất cả chúng ta điều là những người nghèo của Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng giàu sang phú quí vô cùng, chúng ta đâu có gì để mà tự hào khoe khoang, nếu chúng ta có gì cũng đều là của Chúa ban cho mà thôi. Chính vì thế chúng ta hãy tin tưởng ở Chúa, hãy tìm đến với Ngài để được Ngài ban cho hạnh phúc. Thực tế cho thấy, ngày nay trong khi con người đi tìm kiếm lợi lộc trần thế họ dễ có nguy cơ tách cuộc đời mình ra khỏi Chúa và chỉ phụ thuộc vào vật chất. Suốt cả cuộc đời con người luôn tìm kiếm giàu sang, danh tiếng, chức quyền nhưng họ đâu có biết đi tìm chính Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự.
3. Nước Trời, nước tình yêu:
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống nghèo, Ngài đứng về phía những người nghèo, tuy nhiên Ngài không lấy việc san bằng xã hội làm mục tiêu tranh đấu. Ngài chỉ luôn nhắc nhở con người rằng: Giá trị đích thực của mỗi người không phải là những gì nó có mà là do cái nó là, có nghĩa là chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị đích thực của con người mà thôi.
Theo các mối phúc của Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu không hứa hẹn một thiên đàng ngay tại trần thế này, Ngài cũng không loan báo một Nước Trời xa lạ với trần thế. Thực ra Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo thiết yếu là nước tình yêu, nước của liên đới và chia sẻ.
Chính khi biết sống yêu thương, công bình, bác ái trong đời sống chúng ta mới hiểu được Nước Trời là gì. Khi biết tận hưởng niềm hân hoan, hòa bình chúng ta mới khám phá ra thế nào là niềm hạnh phúc đích thực. Và khi được quyền sống, được quyền thể hiện và phát triển phẩm giá của mình một cách trọn vẹn nhất thì chính lúc đó các mối phúc Thiên Chúa ban, qua Chúa Giêsu sẽ trở thành hiện thực.
Như vậy các mối phúc không phải là một lời hứa hão, không phải là chuyện ảo tưởng, viễn vông,nhưng là một sự thật hiển nhiên, điều sẽ đến với mỗi người, rất gần gũi với chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”.
Lạy Chúa Giêsu. Khi công bố các mối phúc Chúa hứa ban Nước Trời cho những người nghèo khó, Chúa mời gọi chúng con sống tinh thần khó nghèo là biết tận dụng những gì Chúa ban để sinh lợi ích cho mọi người, chứ không bo bo giữ cho riêng mình. Xin cho chúng con biết yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo, những người đang cần chúng con giúp đỡ, những nạn nhân của bất công xã hội để chúng con được Chúa yêu thương chúc phúc và hừa ban Nước Trời. Amen.
31.Thế giới của các mối phúc – McCarthy
Suy Niệm 1. SỰ TỈNH THỨC TÂM LINH
Đức Kitô đã đặt con người đối diện với một chọn lựa căn bản: sống theo những giá trị của thế gian (theo đuổi tiền bạc, lạc thú, sự nổi danh, quyền lực, địa vị) hoặc sống theo những giá trị của Nước Trời (sự nghèo khó tâm linh, sự trong sạch của tâm hồn, khả năng bày tỏ lòng thương xót, chịu đựng đau khổ vì công lý…).
Trong cuốn truyện The Forst Circle, Salzhenisyn kể lại câu chuyện của một nhà ngoại giao tên Innokenty. Trong suốt thời kỳ Staline cầm quyền, Innokenty và vợ ông, Dottie, sống một cuộc sống được ưu đãi. Ở mỗi nhiệm sở ông được gởi đến, một căn nhà đầy đủ những đồ dùng hoang phí đang chờ đợi họ. Và họ xum xoe thoả mãn. Họ có mọi thứ họ muốn, và vào một thời kỳ mà Thế Chiến II tàn phá khắp nơi. Nhưng không có một tiếng thở dài lo âu nào của thế giới làm động lòng họ.
Tuy nhiên, trong năm thứ sáu của cuộc hôn nhân của họ, Innokenty bắt đầu có cảm giác bất ổn về mọi vật chất. Cảm giác ấy làm ông bối rối và lo sợ. Ông có tất cả nhưng ông thiếu một điều gì đó. Cả người vợ yêu quý Dottie cũng trở thành một người xa lạ với ông. Cách sống xu thời làm ông lúng túng. Ở đâu, người ta cũng giống nhau và ở đâu, người ta cũng nhảy cẫng lên và nâng ly chúc tụng người Stalin mà trong thâm tâm họ sợ hãi và khinh miệt.
Một ngày kia, ông bắt đầu xem kỹ những bức thư và sách vở mà người mẹ quá cố của ông để lại. Khi đọc những bức thư ấy, ông đã khám phá ra một bảng giá trị hoàn toàn trái ngược với những giá trị của tầng lớp xã hội trong đó có ông.
Những giá trị của mẹ ông bắt đầu làm ông thức tỉnh. Trong các bức thư của bà, bà nói về những điều như lòng thương xót, chân lý, lòng nhân hậu, v.v… Và rồi ông đọc đến một đoạn thư lạ lùng này: “Điều quý giá nhất trong thế giới này là luôn ý thức rằng mình không được dự phần vào sự bất công”.
Bỗng nhiên, ông khám phá điều mà đời sống ông còn thiếu. Và trong nhiều ngày đêm, ông đã tiếp tục ngồi đó để hít thở những giá trị của thế giới mẹ ông như một người hít thở không khí trong lành. Ông khám phá một phương thế mới để nhìn và phán đoán đời sống. Cho tới lúc đó, triết lý sống của ông là chúng ta chỉ sống có một lần. Đem chính mình để phục vụ người khác là hoàn toàn điên rồ. Giờ đây, ông hiểu rõ một sự thật khác: chúng ta chỉ có một lương tâm và nếu lương tâm trở nên què quặt thì đời sống coi như đánh mất không gì bù đắp lại.
Bà mẹ ông có một bác sĩ đứng tuổi là người điều trị căn bệnh cho bà trước khi bà mất. Một ngày kia, ông này sắp lên đường sang Pari nơi đó ông định trao cho Phương Tây một số bí mật về y khoa bởi vì ông cho rằng thế giới có quyền biết những bí mật ấy. Nhưng một cái bẫy đã được giăng ra để bắt ông bác sĩ. Innokenty biết được điều đó. Ông tìm cách gọi điện cho ông bác sĩ. Nhưng cuộc gọi ấy đã bị theo dõi và Innokenty bị bắt.
Innokenty đã biết giàu sang như thế nào. Khi bạn giàu có tiếng tăm, bạn là một thành viên của một nhóm được kính trọng, và thật sự bạn không bao giờ bị đàn áp. Một cuộc gọi điện thoại là một quyết định. Nhưng giờ đây ông đánh mất việc làm, địa vị, sức khoẻ, và mất cả vợ mình, ông khám phá sự nghèo khó có ý nghĩa gì. Nghèo khó là không có bạn bè và không có sự an toàn.
Tuy nhiên Innokenty đã tìm được một kho tàng và ông biết điều đó. Ông có kinh nghiệm về sự thức tỉnh tâm linh. Và như Kahlil Gibran đã nói: “Sự tỉnh thức tâm linh là điều quan trọng nhất trong đời sống; nó là mục đích duy nhất của bản thân chúng ta”.
Có bao nhiêu Kitô hữu có thể nói được rằng mình sống theo những giá trị các mối Phúc thật? Trong những sự việc tác động trực tiếp đến với chúng ta –việc làm, xe cộ, tiện nghi, nhà ở, tương lai của con cái- chúng ta không sống như mọi người đó sao? Ngày nay các môn đệ của Đức Giêsu thường sống trong tiện nghi sang trọng trong khi nhiều người còn sống trong cảnh khốn cùng.
Của cải và tiện nghi sau cùng rồi cũng để chúng ta lại trong sự trống vắng của tinh thần. Chỉ khi sống bằng những giá trị của Tin Mừng, khát vọng sâu xa nhất của chúng ta mới được thoả mãn. Để hiểu biết các mối Phúc Thật, chúng ta cần một sự thức tỉnh tâm linh.
Suy Niệm 2. NGHÈO KHÓ NHƯNG LẠI GIÀU CÓ TRONG ĐỨC TIN VÀ PHÓ THÁC.
Ở trung tâm của Bài đọc hôm nay là chủ đề về sự tín thác vào Thiên Chúa. Bài đọc 1 đối chiếu số phận của những người tin tưởng vào Thiên Chúa. Những người tin tưởng và con người như cây gai cằn cỗi trong sa mạc; trong khi những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng gần dòng sông nhiều nước.
Tín thác vào Thiên Chúa là trông cậy nơi Người vốn là suối nguồn sức sống. Những người tín thác vào Thiên Chúa là những người nghèo được Thiên Chúa chúc phúc trong các mối Phúc thật (Tin Mừng).
Khi Đức Giêsu nói: “Phúc cho những người nghèo khó”, Người đã không chúc phúc cho sự đói khát và khốn cùng. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc là lòng trông cậy, tín nhiệm Thiên Chúa. Những người đặt tín nhiệm của họ vào Thiên Chúa sẽ không bị thất vọng. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta; chỉ Thiên Chúa mới có thể thoả mãn khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Thánh Giacôbê nói rằng những người nghèo khó đối với thế gian này sẽ được Thiên Chúa làm cho giàu có trong đức tin (2,1-5). Bất cứ ai thực thi tác vụ trong đôi ba năm đều có thể xác nhận chân lý ấy.
Những người giàu có xu hướng dựa vào của cải họ có. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi, và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, những người nghèo có xu hướng tự nhiên quay về với Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải là điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn hơn và luôn bị đe doạ, nó cũng trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở thành những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đó là lý do Đức Giêsu nói; “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Một ngày kia một người nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí, người nghèo đáp: “Tiếc thật, nhưng tôi cũng nghèo như anh thôi”.
Khi nghe nói điều đó, người ăn mày nói: “Cám ơn bạn, vì món quà của bạn”.
Không hiểu người ăn mày muốn nói điều gì, người nghèo hỏi: “Tại sao ông cám ơn tôi? Tôi có cho ông cái gì đâu”.
“Ồ có chứ”, người ăn mày đáp: “Ông cho tôi sự lương thiện của ông, sự nghèo khó của ông và lòng tín thác của ông”.
Thiên Chúa không nghèo, nhưng chúng ta nghèo. Thế mà chúng ta có cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể cho Người sự lương thiện, nghèo khó và lòng tín thác của chúng ta.
Một Linh Mục quản xứ lấy làm tiếc, nói: “Chưa có điện, thì trông cho có điện. Có điện rồi, nhà thờ sáng lên rồi, thì trông cho có người đi lễ, vì ai nấy đều ở nhà xem ti vi- ti vi mới sắm, nhờ có điện. Không chỉ ở các thành phố, mà ngay ở các giáo xứ vùng quê hôm nay, cũng đã bắt đầu ít người đi lễ, đi đến nhà thờ, đọc kinh, cầu nguyện. Mỗi lễ sáng lễ tối có khi được năm bảy chục người, chỉ toàn là ông bà già…Có ông già than thở: “Ngày ấy nghèo khổ biết bao nhiêu, mà người đông như kiến tổ; chừ làm ra giàu ra có, nghe chuông đổ, ngủ khò”. “Hồi còn nghèo còn khổ, nửa củ khoai sùng cũng chia nhau, chừ ra giàu ra có, nhà ai cũng xây rào”. “Hồi còn nghèo còn khổ, không thấy họ cãi nhau, chừ ra giàu ra có, nghe chén đĩa lào xào”
Nghèo hay giàu, phúc hay họa, đồng ý là, tùy thuộc vào cách sử dụng của cải vật chất trần gian, nhưng thực tế nguy cơ nghiêng hẳn về sự giàu có. Vì sự giàu có có thể mua được tất cả thực tại trần gian, và khả năng mua được những giá trị vĩnh cửu cũng không kém, nhưng chỉ tiếc là, người ta có chấp nhận mua những thực tại chỉ thấy được bằng con mắt đức tin: lòng bác ái thật- lòng bác ái vì yêu người như mến Chúa, lòng bác ái vô vị lợi.
Chúa chúc phúc cho những người bây giờ đang nghèo, đang đói, đang đau khổ khóc lóc, đang bị sỉ vả, bị khinh khi xem thường…
Tôi không tìm cách để dành cái “hơn” cho người nghèo, vì Chúa đã nói là “phúc”. Mà cái phúc ấy, không dễ chấp nhận tí nào, nếu không nhìn vào cuộc đời của Chúa và của trần gian mà suy gẩm. Sinh trong máng chiên lừa, con ông Giuse thợ mộc mà giàu có gì đâu? Nhưng thật ra là một người giàu, một Thiên Chúa uy quyền, cao sang và thượng trí… Chính Ngài chấp nhận cuộc sống nghèo hèn, để từ thân phận nghèo hèn thấp bé ấy cho chúng ta biết con đường về với sự Giàu Có của Thiên Chúa, về với Thiên Chúa Giàu có. Nhìn vào những mảnh đời được cho là bất hạnh, nhưng ai tìm thấy được vẻ cao sang tuyệt vời trong họ. Một anh chạy xe ôm, nằm trên chính chiếc xe của mình, bên vỉa hè dưới chân khách sạn, ngủ bình an một giấc tới bình minh. Một người hành khất, dốc túi tiền ngày qua kiếm được, ngước lên tạ ơn Phật, tạ ơn Trời, lăn ra gầm cầu “hò kéo gỗ”. Mấy người ở nhà quê, sau một ngày đẫm bùn trên ruộng, về nhà, nghe những ngọn lúa đang cười trong đêm, tôi mừng, tạ ơn, ngủ”. Như thế, không hẳn là người nghèo không đau khổ đâu, nhưng “em đã quen đau khổ rồi, đã quen nợ nần rồi, đã quen bị khinh bỉ rồi, đã quen cay đắng cuộc đời rồi” và “đau khổ làm gia vị cuộc đời em thơm ngát”.
Vâng, những đau khổ của người nghèo là loại thuốc ướp tẩm xác cao cấp nhất, mà người giàu chưa chắc có được. Loại thuốc ướp tẩm thân xác Chúa Giêsu Tử nạn và Chúa Giêsu Phục Sinh. Ấy vậy, Chúa đã bảo mà:“Nước Thiên Chúa” sẽ thuộc về những người nghèo. Họ sẽ được no thỏa. Họ sẽ được vui cười. Họ sẽ được phần thưởng.
Hơn thế nữa, người nghèo của Thiên Chúa được nhắc nhiều trong kinh thánh, với ý nghĩa là người biết mình “hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa”: Lý trí, sự thông hiểu, tâm hồn và thân xác… tất cả cuộc sống con người là của Thiên Chúa ban cho, không có gì là của riêng mình, không có gì để khoe khoang tự phụ- kể cả sự giàu có. Vì thế “tinh thần nghèo khó” là hương hoa thiêng liêng của một tâm hồn, trong đó, “đức khiêm nhường” chiếm vị trí số một. Kế đến là lòng “tri ân”. Chỉ có người có tinh thần nghèo khó, mới xác tín được “tất cả là hồng ân” để mà “tri ân”.
Chúng ta cùng nhìn lại “sự nghèo khó” và “tinh thần nghèo khó” của chính mình, để chọn lựa cho mình một giá trị siêu việt nhất.
33.Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc
(Suy niệm của Ngọc Biển SSP)
Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận địch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc,tình cảm trong dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New Work quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà tòn tình nguyện khoác áo blou trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán gét, khai trừ, sỉ vả, kèo theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản đề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát vả kẻ no đầy. Đó là hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin mừng muốn một tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào nước trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Đức Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiên và cùng đích, giữa điều kiện vận chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phượng tiện.
Chỉ “Khốn cho người giàu có” khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho g trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luther King: “chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn”.
Dưới con mắt Chúa, làm giâu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhăm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khóa lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi ma chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không năm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sữ mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”.
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyề uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thành Phaolô: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”.
Hiện nay, có những chiến sĩ đang đấu tranh cho hòa bình, cho tự do, cho chân lý, cho công bình, cho hạnh phúc của người khác. Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay xem ra có vẻ trái ngược với những ước mong của người đời. Để sống hạnh phúc, con người phải giàu có, phải đoàn kết yêu thương nhau. Đang khi đó, lời chúc phúc của Chúa Giêsu xem ra có vè lạc lõng, không hợp thời: Phúc cho các ngơi là những người nghèo khó! Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát! PHúc cho các ngươi là kẻ bây giờ khóc lóc! Phúc cho các ngươi là những kẻ bị bách hại vì tin vào Chúa…!
Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, tôi thấy lời giảng dạy của Chúa hôm nay có một ý nghĩa rất sâu xa. Trước hết, những lời giảng dạy này chỉ cho ta con đường hy vọng và hạnh phúc chân thật. Vì như chúng ta biết sau những biến cố đau thương trong lịch sử, toàn dân Do Thái khát vọng một đấng cứu thế tới, giải thoát dân khỏi ách thống trị ngoại bang, dẫn dân tới thịnh vượng và vinh quang. Chúa Giêsu, đấng cứu thế đã đến; nhưng chương trình cứu chuộc của Ngài hoàn toàn khác biệt với những điều dân Do Thái mong đợi. Do đó, nếu những lời dạy trong Phúc Âm hôm nay có khó nghe đối với cử tọa, thì nó cũng đạt được mục đích lỗi kéo chúng ta khỏi những hy vọng hão huyền!
Lời Chúa luôn là ánh sáng. Là chân lý. Ai có tâm hồn nghèo khó, ắt sẽ không làm nô lệ tiền của. – Có tâm hồn đói khát cự công chính, chịu đau khổ, hiểu lầm vì muốn sống theo đức tin; bị bách hại và xỉ nhục vì danh Chúa…Đó là những con đường hẹp, những chặng đường thánh giá dẫn ta tới vinh quang Nước Trời. Đó là những chông gai, sỏi đá trên con đườnh dẫn tới vui mừng và hy vọng. Thật vậy, chỉ có hạnh phúc thật sự sau khi đã trải qua khó khăn đau khổ. Trước khi Chúa sống lại vinh quang, Chúa đã phải trải qua chặng đường thập giá đau thương.
Chuyện kể rằng có một nông dân nước Anh, đã vượt đồi băng đèo lội suối tới niềm đất xa xôi tìm kim cương. Người ta ta bảo những hạt kim cương thường lẫn trong những viên đá cuội nơi dòng suối. Người nông dân ngày nào cũng bới đào, tìm kiếm. Số viên đá cuội ông loại ra đã tới viên thứ 999.999. Chỉ còn 1 viên nữa tròn một triệu. Nhưng ông nản chí không nhặt nữa, vì nghĩ rằng: dầu có nhặt cũng vô ích. Người bạn đồng hành vói ông khuyên ông nên cố gắp một lần nữa, trước khi về nhà. Ông tìm bới dưới dòng suối được viên đá cuội. Viên đá này rất nặng. Càng lau chùi, viên đá càng trong sáng. Và ông đã khám phá ra đó là một khối kim cương. Ông đem bán khối kim cương ấy cho một tiệm kim hoàn ở Luân Đôn với giá 2.000.000 mỹ kim. Ông đã trở nên tỉ phú.
Người đời thường bảo “Không vào hang hàm sao bắt được cọp?” Không theo Chúa Giêsu trên con đường khổ giá làm sao có sống lại lại vinh quang.
Các thánh tông đồ, Thánh Phanxicô thành Assise, thánh Vincent de Paul, cha thánh Damien và Maximilien de Kolbe…Các ngài được Giáo Hội tôn kính và các ngài đã dám hy sinh mạng sống cho những kẻ ngèo khổ, xấu số.
Quốc vương Thổ nhĩ kỳ là Abdurahman III cai trị một vương quốc giàu có nhất thế giới trong suốt 49 năm vào khoảng thế kỷ 10. Lợi tức của nhà vua lên tới 336 triệu mỹ kim. Nhà vua có 6321 bà vợ được tuyển chọn trong số những thiếu nữ sinh đẹp nhất của vương quốc và sinh được 618 đứa con. Tài sản của nhà vua trị giá khoàng 3 tỷ mỹ kim. Ấy thế mà sau khi chết người ta đọc thấy trong cuốn nhật ký của nhà vua một đoạn như sau: “Trong suốt cuộc đời dài và đầy danh vọng này, tôi đã đếm được những người tôi hoàn toàn hạnh phúc chỉ vỏn vẹn có 14 ngày mà thôi”.
Qua câu chuyện này, chúng ta tự hỏi: Hạnh phúc là gì? Trước khi giải đáp vấn nạn này, chúng ta phải công nhận rằng: nói đến hạnh phúc là đề cập đến một vấn đề sống còn của con người vì đã là người đúng nghĩa thì không thể sống mà không tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Vì thế, cho dù có sử dụng phương tiện khác nhau bao nhiêu đi nữa thì mọi người đều nhắm tới cái đích duy nhất ấy, cho dù bất cứ cử động nhỏ nhặt nào của con người cũng không ngoài mục tiêu hướng tới cái đối tượng ấy. Vậy đã rõ hạnh phúc là động cơ thúc đẩy cong người hành động, là hy vọng quyến rũ con người cố gắng phấn đấu.
Thế những từ ngàn xưa cho đến ngày nay, đã có biết bao nhiêu thánh nhân, quân tử, hiền triết, bác học cố công tìm cách giải đáp cách thức để nhận ra đâu là hạnh phúc và làm thế nào để chiếm đoạt được nó. Nhưng rồi kết quả chẳng đến đâu vì không đáp ứng nỗi khát vọng thâm sâu của con người. Trước tình trạng nan giải đó, người thời nay, nhất là giới trẻ, muốn đả phá và chng đối lại tất cả với mục đích thoát khoải những ràng buộc của xã hội, những luật lệ tôn giáo để sống cho riêng mình. Và họ vẫn vô vọng.
Như thế, phải chăng hạnh phúc không có? Và phải chăng những thứ như tiền tài, danh vọng, lạc thú mà con người mơ ước theo đuổi chỉ là một thứ bọt trong bể khổ, một thứ bèo trong bến mê, một thứ ảo ảnh lừa dối? Vậy trước nỗi khát vọng vô bờ và sự bất lực của con người khi tìm kiếm hạnh phúc có ý nghĩa gì.
Điều đó chứng tỏ rằng từ xa xưa con người đã được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự, nhưng vì lầm lỗi đã đánh mất nên bây giờ chỉ còn lại cái bóng mờ, trống rống của nó trong tâm hồn. Do đó, con người ngày nay ra sức lấp đầy cái lỗ hổng này bằng tất cả những gì họ tưởng tượng ra, nhưng vẫn thảm bại.
May mắn thay có một Đấng vừa là con người để kinh nghiệm, nhận thức được nỗi khát khao tìm kiếm hạnh phúc của con người, vừa là Thiên Chúa có đủ khả năng và giải phát giúp con người đạt được hạnh phúc đích thực. Đó là Đức Giêsu Kitô mà trong bài phúc âm hôm nay để long trọng công bố những nguyên tắc căn bản để giúp con người tìm ra hạnh phúc.
Nhưng qua những nguyên tắc mà Chúa công bố, nếu đặt dưới lăng kính của những quan niệm xưa nay của nhân loại, hình như chúng đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài mà con người cố gắng xây dựng cho đời mình và là bản án cáo chung của mọi lý tưởng, thần tượng mà bấy lâu nay con người tin tưởng. Và cũng đừng lầm tưởng rằng tình trạng hạnh phúc mà Chúa công bố là khổ sở, nghèo đói, khờ khạo, nhu nhược…trái lại Chúa coi chúng ta như là những nguyên nhân làm cho con người thoái hóa, cần phải loại bỏ.
Vậy, theo lời Chúa dạy, thì hạnh phúc chính là tình trạng của con người dù biết mình nghèo, thiếu thốn, khổ đau mà vẫn cố gắng làm việc vui vẻ, trong sáng, chăm chỉ vì luôn tín thác vào sụ quan phóng nhân ái của Chúa; là tình trạng của người dù có gặp gian nan thử thách vẫn kiên trung luôn ý thức mình là cn Chúa. Nói khác đi, điều làm cho con người dễ dàng đón nhận hạnh phúc Thiên đàng, chính là sự tự do của người nghèo khó: nghĩa là khi chịu đựng các thăng trầm bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống, nghèo khó ý thức rằng chỉ có cuộc sống đời sau mới thỏa mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn con người. Và cả nhu ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì tình yêu Chúa thì Ngài sẽ đền bù cho họ niềm hoan lạc đích thực đời này lẫn đời sau.
Tóm lại, hạnh phúc không gì khác là luôn có Chúa ở cùng vì chỉ có Ngài mới đáp ứng được nỗi khát vọng sâu xa của con người. Và khi cảm nhận được tình yêu lớn lao của Ngài đổ tràn trong tâm hồn thì mọi sự khác đêu trở nên vô nghĩa.
Nhiều người cho rằng tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, là những sức mạnh chống lại sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Lời cáo buộc này xem ra được củng cố hơn khi người ta đọc những lời chúc phúc của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thật thế, trong quan niệm thông thường của con người, dù ở đâu và ở bất cứ thời đại nào: có tiền của là có tất cả. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo khó, phúc cho những kẻ đang đói khát, phúc cho những kẻ đang khóc lóc kêu van, phúc cho những kẻ đang bị oán ghét. Phải chăng Chúa Giêsu không là kẻ lừa bịp đang cười cợt trên những đau khổ của nhân loại? Phải chăng đó không là sứ điệp cổ võ sự bần cùng, đói khổ, lạc hậu, đi ngược với tiến bộ và phát triển của nhân loại?
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo. Đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ đang nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ đang bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Được lời Chúa soi sáng hướng dẫn, người Kitô hữu chúng ta phải là người luôn tìm kiếm và sống cho những giá trị vĩnh cửu. Giữa những vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, xin cho chúng ta luôn tìm kiếm Nước Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ là người hạnh phúc nhất, vì chúng ta biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.
Có một nhóm học giả Nhật Bản thường gặp nhau để trao đổi về đủ mọi vấn đề. Trong những lần gặp gỡ đó, họ thường đem những món trà quí giá và đắt tiền nhất ra để thưởng thức. Khi đến lượt chuẩn bị cuộc gặp gỡ, người cao niên nhất trong nhóm đã biến tuần trà thành những nghi thức vô cùng trang trọng: ông sử dụng bình trà cổ xưa và quí giá nhất của gia đình, ông lựa lọc và nâng niu từng cọng trà trước khi cho vào bình. Mọi người khen lấy khen để mùi vị thơm ngon của thứ trà mà họ cho từng được thưởng thức. Ai cũng hỏi cho biết cách ướp và nghệ thuật của ông, người cao niên mỉm cười nói như sau:
– Trà mà quí vị cho là hảo hạng đây thật ra chỉ là thứ mà người làm công trong nông trại của tôi uống mỗi ngày. Những điều tuyệt diệu trong cuộc sống không đắt đỏ cũng không khó tìm.
Nỗi khao khát vô biên về hạnh phúc là một thách đố triền miên cho con người, hoặc là con người bằng lòng với hiện tại và tìm thấy hạnh phúc đích thực trong cái mình đang có, hoặc con người sẽ mải mê chạy theo ảo ảnh về của cải, danh vọng, quyền thế. Chúa Giêsu đến để đặt lại tất cả đúng bậc thang giá trị của chúng. Ngài nói rằng quyền bính không phải là để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Ngài nói rằng tiền của không phải là cứu cánh của cuộc đời, nhưng là phương tiện giúp con người sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Chúa Giêsu không đến để bần cùng hóa nhân loại. Sự giải phóng Ngài mang lại là sự giải phóng toàn diện. Con người được no cơm ấm áo, đó cũng chính là thể hiện của chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Tiền của, quyền bính chỉ là phương tiện giúp con người sống ơn gọi làm người và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống này.
Cùng đích của cuộc đời, gia nghiệp duy nhất mà con người phải tìm kiếm là chính Thiên Chúa. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với con người khi chọn cuộc sống khó nghèo. Ngài quả thực là mẫu mực của con người hạnh phúc đích thực. Sống nghèo khó, Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa; sống nghèo khó, Ngài cũng hoàn toàn thuộc về tha nhân. Kết hiệp với Thiên Chúa và sống trọn cho tha nhân, đó là bí quyết Chúa Giêsu đã sống và Ngài muốn truyền lại cho con người. Bí quyết đó cũng là đón nhận và sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại. Bí quyết đó cũng là chấp nhận mọi bất trắc, thất bại, khổ đau với niềm tín thác và tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Có như thế, con người sẽ không còn nhọc công để tìm theo những ảo ảnh của hạnh phúc, nhưng sẽ hưởng nếm được hạnh phúc ngay trong từng biến cố và sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Những điều tuyệt diệu trong đời sống quả thật không đắt tiền cũng không khó tìm là như thế đó.
39.Hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 6:17.20-26 Mỗi người Kitô hữu hôm nay, khi nghe lại những lời chúc phúc và chúc dữ của Đức Giêsu trong Tin mừng cũng tự vấn xem mình đang đi tìm kiếm và đeo đuổi thứ hạnh phúc nào?
Hạnh phúc là một khao khát đích thực, lớn nhất của cả đời người. Mỗi người đều có cách hiểu và mơ ước hạnh phúc theo ý riêng của mình chả ai giống ai. Chỉ nơi Thiên Chúa mới có hạnh phúc đích thực và viên mãn. Chính Đức Giêsu chỉ dạy cho chúng ta thế nào là hạnh phúc.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gr 17, 5-8
Chọn Lựa Điều Cần Thiết
Điều kiện nào giúp cho con người tìm thấy và đạt được hạnh phúc? Tiên tri Giêrêmia đã nói rõ ràng bằng cách đăt chúng ta vào thế phải chọn lựa: đặt niềm tin vào con người thì sẽ gặp bất hạnh, còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa sẽ đạt được hạnh phúc.
Để giúp nắm được tư tưởng của mình, Tiên tri Giêrêmia dùng những hình ảnh đặc biệt quen thuộc trong các xứ Phương Đông, nắng nóng của mặt trời. Ai cậy dựa vào bản thân mình là cố chấp trong sự yếu đuối của mình: họ sẽ khô cháy như cây cỏ trong sa mạc.
Ai quay hướng về Thiên Chúa cách chín chắn bằng lòng trung tín liên lỷ, thì sẽ đâm rễ hướng vào nguồn mạch sự sống. Họ là cây xanh lá và trổ sinh hoa trái cho dù có gặp nắng hạn khô cằn.
“Phúc thay cho nguời tin tưởng vào Thiên Chúa!”, Lời Giêrêmia nhắc nhở mọi người: Chúng ta đang cậy dựa vào đâu, vào Thiên Chúa hay vào sức con người? Chắn chắn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là một sự vững chắc để đương đầu với thử thách và cám dỗ trong cuộc sống, nhưng mang lại khả năng chịu đựng không suy yếu.
2. Bài đọc II: 1Cr 15, 12-20
Tình Liên Đới Trong Đức Kitô
Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, như Thánh Phaolô khẳng định là sự bảo đảm và là nguyên lý của đời sống Kitô hữu. Liên đới với Đức Kitô trong sự chết, chúng ta cũng sẽ cùng được phục sinh với Người. Niềm tin này là bảo đảm cho niềm hy vọng của Kitô hữu.
Trong cộng đoàn Côrintô, có một số người nghi ngờ việc kẻ chết sống lại. Thánh Phaolô giải quyết những khó khăn của họ bằng một lập luận rất đơn giản: Đức Kitô đã phục sinh, chúng ta cũng sẽ sống lại.
Chối bỏ sự sống lại của mỗi người chúng ta cũng đồng thời là chối bỏ sự phục sinh của Đức Kitô. Đó là phá hoại những nền tảng của đức tin và gán cho mình những ảo tưởng. Như thế, thật là đáng thương.
Sự phục sinh của Đức Kitô và của mỗi người chúng ta mang lại một ý nghĩa cho đời sống hiện tại này khi đã sống với Người. Sự phục sinh khai mở sự sống vĩnh cửu. Ở thế gian này biết vác thập gía của Đức Kitô thì sẽ có niềm vui của Người. Thập giá vác một ngày nhưng niềm vui thì mãi mãi.
3. Tin mừng: Lc 6, 17, 20-26
Ai Là Người Hạnh Phúc
Bài giảng về các mối phúc Thánh sử Luca ghi lại được coi như hiến chương Nước Trời. Đó cũng là chương trình sứ vụ của Đức Giêsu Kitô: Người đến để mang lại niềm vui hạnh phúc cho nhân loại, từ đây, giúp nhận biết những điều kiện, tình trạng để mưu cầu hạnh phúc.
Bài giảng này khởi đầu bằng bốn mối phúc: Đức Kitô công bố nhưng người hạnh phúc là những người nghèo khổ, đói rách, than khóc, những người mà chúng ta gạt bỏ khắp nơi. Phần thưởng của họ thì lớn lao ở trên trời.
Theo sau các mối phúc là các lời chúc dữ: khốn khổ cho những người bây giờ giàu có, no nê, những người được ca tụng, đó là những hạnh phúc trần gian.
Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Đường lối của Chúa có vẻ mang lại cho chúng ta sự khó chịu hay ít ra cũng coi như là những sự không tưởng. Chúng ta có những phán đoán sai lầm như thế. Trái lại, hãy thử đặt ý hướng, tư tưởng của mình theo những qui tắc Tin mừng để thấy được rằng Đức Kitô đã nói chính xác.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Phúc _ Họa, ranh giới không rõ nét: Khác với Matthêô, Luca không ghi lại đủ tám mối phúc nhưng lại chia làm hai, bốn mối phúc và bốn lời chúc dữ. Các mối phúc và lời chúc dữ tương ứng với nhau: nghèo và giàu; đói khát và no nê; người khóc kẻ cười; người bị lăng nhục và người được ca tụng. Đối lập nhau ở đời này sẽ hoán đổi vị thế cho nhau tương ứng ở đời sau. Những mối phúc của Chúa trình bày xem ra ở đời này lại là mối họa ngược lại những lời chúc dữ của Chúa dành cho những hạnh người được nêu lại có vẻ là những người có được hạnh phúc mà nhiều người mơ ước. Chúa Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường. Khi đưa ra các mối phúc hay các lời chúc dữ hẳn nhiên Người không có ý minh xác chắn chắn ai giàu có, no đủ, vui vẻ và được ca tụng bây giờ đều sẽ khốn khổ ở đời sau. Ngược lại cũng vậy những ai bây giờ phải đau khổ chưa chắc đã có được hạnh phúc đời sau. Chính Người khi huấn dụ các môn đệ từ bỏ mọi sự để theo Người thì cũng đã khẳng định: ai bỏ mọi sự mà theo Ta thì sẽ được gấp trăm ở đời này. Điều quan trọng là biết chọn Chúa là cùng đích, còn ngoài Ngài tất cả chỉ là phương thế. Chính Thiên Chúa mới là chủ thể, là nguồn mạch của hạnh phúc không có Ngài thì không có hạnh phúc đích thực. Những gì con người tưởng là hạnh phúc chỉ là nhất thời chóng qua không có giá trị vĩnh cửu và có thể làm cho con người bị vong thân. Thực ra trong cuộc sống chuyện phúc họa cũng khó có ranh giới rõ rệt như người ta thường nói: ‘trong họa có phúc, trong phúc có họa; trong cái rủi có cái may’. Nếu biết sử dụng những gì mà người ta cho là hạnh phúc ở đời như tiền bạc của cải, danh vọng quyền lực để phục vụ nhân loại, phục vụ anh chị em theo đúng ý Chúa thì sẽ có hạnh phúc vĩnh cửu, còn nếu không thì hạnh phúc đó sẽ trở nên tai họa cho mình. Ngược lại cũng thế nếu biết vận dụng những khó khăn, đau khổ ở đời như một phương thế tích cực để tín thác vào Chúa, để gia tăng đức tin và lòng bác ái thì rủi ro sẽ trở nên phúc phần mai sau. Còn nếu cứ ngồi đó mà nguyền rủa phận đời, oán trách Thiên Chúa, cay đắng với đời thì chắc chắn không bao giờ có hạnh phúc.
2. Hạnh phúc đích thực chỉ có từ nơi Thiên Chúa: Trong bài đọc I, Tiên tri Giêrêmia khẳng định: khốn cho người tin tưởng vào người đời, họ sẽ chỉ như cây khô cháy trong sa mạc; còn phúc cho người đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, họ sẽ như cây cối xanh tươi, đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết trái cho dù có gặp phải nắng hạn. Lịch sử của Dân Do Thái, dân của giao ước đã minh chứng điều Giêrêmia khẳng định. Khi nào trung thành tín thác vào Thiên Chúa thì Israel được hạnh phúc và nếu có gặp nguy khốn thì Thiên Chúa sẽ ra tay nâng đỡ, chở che. Còn khi nào dân bất trung bội phản thì luôn kéo theo hậu quả tai hại cho dân, cho Nước. Trong Tin mừng Chúa Giêsu không khẳng định như Giêrêmia nhưng qua những lời chúc phúc và những lời chúc dữ cũng đã mạc nhiên cho thấy hạnh phúc đích thực mà Người mời gọi và trao ban là hạnh phúc Nước Trời, hạnh phúc nơi Thiên Chúa. Tất cả những gì xem ra hạnh phúc của thế gian thì mỏng dòn, không có giá trị trường tồn và có nguy cơ làm cho con người bị vong thân. Thực tế cuộc sống đã minh chứng rõ ràng: tiền bạc của cải vật chất rồi cũng hết, người giàu cũng khóc; danh vọng trần thế một khi đã nhắm mắt xuôi tay còn có nghĩa gì; quyền lực có thể làm người ta thống trị được nhiều người nhưng không giúp người thu phục được nhân tâm, không giúp tìm được một tình yêu thực sự.
Người Kitô hữu chúng ta ngày nay đang đi tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Cậy dựa vào đâu để mưu cầu hạnh phúc, có tin tưởng, phó thác và đón nhận hạnh phúc từ Thiên Chúa không?
3. Tìm kiếm và sống hạnh phúc: Cuộc sống con người luôn là một hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Có người đặt tất cả hy vọng và nỗ lực hết mình để đạt được những gì gọi là hạnh phúc ở đời này, họ chẳng có hy vọng hay cũng chẳng tin vào một thứ hạnh phúc nào ở đời sau. Với những người này tìm kiến danh lợi trần thế, thú vui hưởng thụ và thành đạt ở đời là lẽ sống, là mục đích vươn lên và là lý tưởng để đeo đuổi. Cũng có người khác tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là khởi điểm để vươn tới một chân trời hạnh phúc nơi thế giới bên kia sau khi chết. Với những người này tất cả những gì ở trần gian chỉ là mô phỏng, là bóng mờ tượng trưng cho hạnh phúc đích thực mai sau. Họ không khinh chê nỗi vui sướng, niềm hạnh phúc của thế gian, nhưng chỉ coi nó như phương thế, như một chặng đường để vươn cao hơn, xa hơn lên tận cõi siêu thường. Các tôn giáo đều ấp ủ niềm tin này. Với niềm tin Kitô giáo thì chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô chính là đường. Người là đường vì chỉ cho thấy con đường tìm kiếm và đạt tới hạnh phúc, con đường Người chỉ là con đường của các mối phúc; hạnh phúc Người mời gọi là hạnh phúc Nước trời, hạnh phúc nơi Thiên Chúa. Vì thế, cuộc sống của người Kitô hữu là cuộc sống khao khát và mưu cầu hạnh phúc Nước Trời.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay, khi nghe lại những lời chúc phúc và chúc dữ của Đức Giêsu trong Tin mừng cũng tự vấn xem mình đang đi tìm kiếm và đeo đuổi thứ hạnh phúc nào? Phải luôn xác tín rằng các lời của Người mở ra con đường đi vào Nước Trời để rồi từ đó biết chỉnh hướng đi cuộc đời theo ý Thiên Chúa.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, con đường để đi tới hạnh phúc mà Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta là con đường của các mối phúc Tin mừng. Vậy giờ đây chúng ta cùng dâng Chúa tâm tình và ước vọng hạnh phúc của chúng ta và của mọi người.
1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội và các vị mục tử trong Giáo Hội đừng bao giờ sa vào sự cám dỗ của tiền bạc vật chất và của danh vọng hão huyền, nhưng luôn chuyên chú sống tinh thần nghèo khó theo lời Chúa Giêsu dạy.
2. Thế giới chúng ta ngày nay đang bị hấp lực cám dỗ để rơi vào cạn bẫy tiền tài, xa hoa, bạo lực của ma quỉ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người nhất là những người nghèo khổ, những nhà lãnh đạo các Quốc gia thoát khỏi sự chi phối của chúng, để sống một cuộc đời thanh thoát, nỗ lực mang lại sự phồn vinh, ấm no và công lý cho xã hội.
3. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, cho mọi gia đình chúng ta luôn biết nỗ lực tìm kiếm và xây dựng cuộc sống cũng như hạnh phúc gia đình theo những giá trị của Tin mừng.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc, Chúa biết rõ nỗi khát khao hạnh phúc của mọi người chúng con. Xin giúp cho chúng con ngay ở đời này chỉ biết và luôn đi tìm kiếm hạnh phúc Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
(Suy niệm của T.s. Trần Quang Huy Khanh)
Thiên Chúa dựng nên con người và muốn cho con người được hạnh phúc. Không những hạnh phúc ở đời này mà con hạnh phúc đời sau nữa. Đó là mục đích sự xuất hiện của con người trên cõi trần này. Chúng ta dám khẳng định điều này, vì Chúa chính là người cha nhân lành. Ngài dậy chúng ta kêu cầu với Ngài: “Lậy Cha chúng con ở trên trời”. Và điều này làm cho chúng ta an tâm. Chúng ta không thể gọi Ngài là cha được, nếu như Ngài không nhân lành. Quỷ thần – cha của gian đối, khốn nạn, và bất hạnh – chỉ được chúng ta nhắc đến như một thụ tạo ghê sợ và khốn nạn: “Đồ quỷ sứ!” Không ai gọi quỷ thần là cha mình bao giờ.
Như vậy hành trình con người là một cuộc sống có yếu tố và hoàn cảnh hạnh phúc. Và cuộc đời con người cũng là những chuỗi ngày vừa tìm cầu, vừa sống trong hạnh phúc. Nhưng rồi tại sao phần đông nhân loại vẫn không có hạnh phúc và hạnh phúc vẫn là một cái gì hoang tưởng, vượt khỏi tầm tay của nhiều người?! Thưa vì quan niệm về hạnh phúc của con người khác với quan niệm về hạnh phúc của Thượng Đế. Hạnh phúc của ngài là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bắt bớ, trù dập, và chối bỏ. Ngài nói:
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi sẽ hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời” (Luc 6: 20-23).
Còn hạnh phúc đối với con người thì sao? Giầu có dư giả, ăn nhậu phủ phê, cười nói thoải mái, và được người đời trọng dụng, ca tụng. Nhưng khổ nỗi, những cái đó lại là những cái xem như Chúa không mấy ưa thích:
“Khốn cho các ngươi là những người giầu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là những kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu, khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả” (Lc 6:24-26).
Như vậy có nghĩa là gì? Tại sao Thiên Chúa cứ làm ngược lại những gì con người ưa thích và tìm kiếm? Tại sao nghèo mà là hạnh phúc và giầu thì bất hạnh. Tại thiếu ăn, thiếu mặc là hạnh phúc, mà dư ăn, dư mặc lại là bất hạnh. Tại sao khóc lóc, buồn rầu là hạnh phúc, mà vui vẻ thoải mái là bất hạnh. Và tại sao bị người khác chê bai, chà đạp là hạnh phúc, còn được người đời trọng vọng, sùng bái lại là bất hạnh???
Câu trả lời là vì Chúa muốn con người được hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đời đời. Còn con người lại muốn hạnh phúc giả tạo, hạnh phúc nhất thời. Đó là lý do cha con bất đồng. Và đó là lý do cha con không hòa thuận được với nhau. Cũng như người cha trần thế muốn con mình tìm hạnh phúc qua việc học hỏi, trau dồi kiến thức và nghề nghiệp. Vì đấy là con đường mở ra cho tương lai con cái. Và đấy là một thứ đầu tư tốt nhất vào tương lai. Ngược lại, đa số con cái lại muốn tìm hạnh phúc bằng rong chơi, lãng phí tuổi trẻ, và bằng những giây phút thỏai mái hiện tại. Sự khác biệt và bất đồng là ở đó.
Ngoài ra, nếu để ý và suy ngắm cẩn thận chúng ta không thấy Thiên Chúa vô lý và khắt khe khi lên án những cái mà con người cho là hạnh phúc mà lại chúc phúc cho những cái mà con người cho là bất hạnh. Thiên Chúa biết rõ, nếu không có những thử thách đó, con người sẽ không bao giờ nghĩ đến đời đời, và nghĩ đến hạnh phúc bất diệt trên quê trời. Ngược lại, con người sẽ bị chôn bám vào thế gian này, bị ràng buộc với những cái mau qua, chóng hết, để rồi lãng phí thời giờ và cơ hội để tạo cho mình một đời sống hạnh phúc thật.
Thật vậy, Thiên Chúa đâu có ngớ ngẩn đến nỗi cho rằng nghèo hèn, đói khát, khóc than, và bị chê ghét là những hạnh phúc bao giờ. Và ngài cũng đâu khờ khạo đến độ coi nghèo khổ, đói rách, đau thương và bị trù dập là những niềm hạnh phúc đâu! Phải đi sâu vào cái ý nghĩa thâm thúy của lời ngài, và cái tâm tình của ngài mới khám phá ra được ý nghĩa và những niềm vui hạnh phúc cũng như bất hạnh ấy.
Ngài khẳng định người nghèo sẽ được hạnh phúc và kẻ giầu sẽ bất hạnh. Trước hết, cái nghèo ở đây không hẳn là nghèo tiền của vật chất, mà là một tâm hồn khiêm tốn, đơn sở và bình dị. Một tâm hồn luôn luôn sẵn sàng như một biển sâu để tình yêu của ngài đổ tràn đầy. Sự nghèo nàn này hiển nhiên đem con người lại gần đến Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Ngược lại, sự giầu có mà ngài đề cập đến lại chính là sự giầu có của trần gian, một thứ giầu có làm mê mẩn và chôn bám lòng người vào vật chất. Nó là sự giầu có khiến con người quên mất Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc thật. Những cuộc tranh chấp, chộp giật táng tận lương tâm đưa đến chém giết, thủ tiêu nhau của những kẻ tham nhũng, lường gạt, tham lam mới thấy rằng sự nghèo, sự đói khát chưa hẳn là một bất hạnh. Họ đã trở thành những kẻ thiếu thốn tình yêu và thiếu thốn lòng nhân ái. Giầu như vậy chưa phải là hạnh phúc.
Ngài nói người đói khát hạnh phúc và người no thỏa bất hạnh. Đây cũng là một lối so sánh giữa cái đói khát công chính, đói khát thánh thiện, với cái no thỏa phủ phê của cơm bánh, của dục vọng và đam mê. Một bên đem lại cho lòng người sự nhẹ nhàng, thanh thoát và bay bổng, một bên kéo ghì con người xuống vũng bùn nhơ nhớp của bản năng và của thế giới mau qua. Đói chân lý, đói điều thiện hảo, đói công bằng, đói tình thương là cái đói hạnh phúc. No cơm bánh, no rượu chè, no dục vọng là thứ no làm mờ lòa con mắt tâm linh. No như vậy không hẳn là cái no đem con người đến hạnh phúc.
Ngài chúc phúc cho những người đang phải khóc thương, và nguyền rủa những kẻ giờ đây đang cười nói vui vẻ. Khóc than, thống hối về tội lỗi của riêng mình và của nhân loại là sự khóc thương đem đến nguồn an ủi thiêng liêng. Khóc thương cho số phận con người lạc xa chân thiện mỹ là một sự khóc thương mở rộng chân trời hạnh phúc. Ngược lại, cười nói, sung sướng trên sự đau khổ của anh chị em mình là những nụ cười man rợ, những thái độ đáng nguyền rủa không những trước mặt Thiên Chúa mà còn ngay cả với con người. Làm sao ta có thể vui vẻ, hạnh phúc, và vui cười khi hành khổ, xúc phạm, và chà đạp nhân phẩm và thể xác anh chị em mình được! Làm sao một người mẹ, một người cha lại có thể vui cười hả hê khi đang tâm giết chết một đứa con trong bụng mình! Làm sao một người y sỹ lại có thể cười vui hả hê nhận đồng tiền thù lao vì đã phá thai cho một người! Làm sao một người lại có thể vui sướng, cười nói khi thu về những đồng tiền do việc cung cấp ma túy, hoặc cướp giật của người khác! Đấy chẳng phải là những nụ cười, những tiếng cười vô phúc và đáng nguyền rủa lắm sao.
Và sau cùng, phúc cho những ai bị bắt bớ, bị chà đạp, và bị trù dập. Sao Chúa lại cho những cái khốn nạn mà ai cũng sợ hãi này là hạnh phúc. Và sao ngài lại từ chối và coi rẻ sự vinh quang phú quý và danh vọng đời này vậy? Hẳn là ngài có lý do. Để được coi là có công lênh và đáng thưởng, nhất là phần thưởng của Nước Trời, đương nhiên phải có chiến đấu, phải có cơ hội lập công. Và đây là những dịp mà ngài mở ra để con người có thể chiếm hữu được phần thưởng ấy. Ngược lại, những kẻ ngày đêm tìm kiếm vinh quang trần thế, họ cũng phải đau khổ, và vất vả lắm thế nên đâu còn giờ mà nghĩ đến hạnh phúc vĩnh cửu. Mà có nghĩ tới, chưa chắc họ dám đánh đổi cái mà họ đang có với cái mà Thiên Chúa hứa sẽ ban cho họ. Những kẻ đang nắm quyền chà đạp tự do, chà đạp nhân phẩm và chà đạp nhân quyền tại Việt Nam và một số quốc gia độc tài khác trên thế giới cũng vất vả và gian truân lắm, nhưng đó là cái giá mà họ mua lấy sự giầu sang, quyền lực trần thế. Sẵn lòng mất Thiên Đàng, mất phúc được làm con Chúa, mất đời đời vì một chút vinh quang chóng qua như vậy có phải là một bất hạnh lớn lao không?!!!
“Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương” (x. Luc 6: 20-23). Nếu vậy, bạn và tôi quả thật là những người hạnh phúc nhất đời. Chúng ta có đủ những lý do để được hạnh phúc. Chúng ta đang sống trong môi trường hạnh phúc. Bởi vì chúng ta là những người nghèo, những kẻ giờ đây đang sống trong cảnh đói, khát, lầm than. Hãy vui mừng và ngẩn đầu lên, vì Chúa đã chúc phúc cho chúng ta rồi. Chính ngài cũng đã sống và chấp nhận như vậy từ hang Bêlêm đến nhà Nagiaréth và trên thập giá ở núi Sọ.
41.Con đường dẫn tới hạnh phúc
Có thể vì quen thuộc quá nên chúng ta không nhận ra tính chất cách mạng của những lời giảng dạy này. Đó là một loạt những trái bom, mỗi câu là một lời thách thức. Các lời đó có tác dụng như điện lực, nó không phải chỉ là những ngôi sao im lặng, nhưng là những tia sáng chớp loè theo sau bằng những tiếng sấm bỡ ngỡ và kinh ngạc! Đúng ra đây là những tiêu chuẩn thông thường bị đảo ngược. Những người mà Chúa Giêsu kể là có phúc thì thế gian cho là vô phúc, và những người Chúa Giêsu coi là vô phúc thì thế gian lại coi là có phúc. Thử tưởng tượng rằng gặp một người nghèo túng mà lại bảo họ rằng: bạn có phúc quá! Và gặp một người giàu có lại bảo họ rằng: khổ cho bạn quá! Nói như thế chẳng khác nào tuyên bố rằng giá trị của trần gian đã cáo chung, chẳng còn gì nữa.
Vậy đâu là chìa khoá của việc đó, chìa khoá năm trong câu 24. tại đây Chúa Giêsu phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có vì các ngươi đã được phần thưởng của mình rồi!” Chúa Giêsu dùng từ “được” ở đây là chữ thường dùng khi nhận đủ số tiền trả cho một món hàng. Chúa Giêsu có ý nói rằng: “Nếu các ngươi đặt cả tâm hồn và nghị lực để tìm kiếm điều thế gian yêu chuộng, các ngươi sẽ được những điều đó, nhưng đó là tất cả những gì các ngươi sẽ được. Theo cách nói mạnh mẽ ngày nay thì quả các bạn đã thành đạt rồi đó.
Câu chuyện ông nhà giàu với Ladarô nghèo khó minh hoạ ý tưởng này. Bước sang ngưỡng cửa đời sau, bị đau khổ, nhà phú hộ xin được giúp đỡ thì nhận được câu trả lời của cụ tổ Áp-ra-ham: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi!” Phần phước ấy là: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.” (Lc16,25.19). Chỉ lưu tâm đến trần gian này, đầu tư tất cả vào đó, thì thật phải lẽ phần phúc cũng sẽ chấm dứt tại đây. Câu chuyện này cũng được hoạ lại qua câu chuyện phú nông “Người giàu kia trúng mùa, thu hoạch hoa lợi dư dật, kho lúa quá đầy, không còn chỗ chứa thêm, ông phải suy tính mãi. Cuối cùng ông quyết định: “Được rồi, ta sẽ phá nhà kho cũ, xây kho mới lớn hơn, như thế sẽ có đủ chỗ chứa tất cả của cải, hoa lợi. Xong xuôi, ta sẽ tự nhủ: của cải này có thể tiêu dùng trong hàng chục năm. Thôi, ta hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi!” Nhưng Thiên Chúa bảo: “Ngươi thật dại dột! Tối nay ngươi qua đời, của cải dành dụm đó để cho ai?”
Và Chúa Giêsu kết luận: “Người nào lo làm giàu dưới trần gian nhưng nghèo nàn trên Nước Trời cũng dại dột như thế.”
Nhưng trên một phương diện khác, nếu các bạn dùng hết tâm hồn và nghị lực để sống trung thành với Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu, các bạn sẽ gặp đủ thứ rầy rà, rắc rối. Đối với các tiêu chuẩn trần gian thì bạn vô phúc, nhưng thành quả của bạn đang đến, và khi nó đến, bạn sẽ có được vui mừng đời đời. “Nếu thế ghen ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó, nhưng vì anh em không thuộc về thế gian nên thế gian ghét anh em! Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (Ga 15,18-20) “Nếu ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14,27).
Tại đây chúng ta phải đối diện với một sự lựa chọn đời đời, đó là một sự lựa chọn quyết liệt và liên tục mãi cho đến khi chấm dứt cuộc đời. Chúng ta muốn chọn con đường dễ dãi, con đường đưa đến thú vui và lợi lộc ngay trước mắt? Hay chúng ta chọn con đường khó khăn, chỉ thấy đơn đau trước mắt? Chúng ta có bám víu lấy lạc thú và lợi lộc hiện tại? Hay chúng ta muốn dấn thân và hy sinh những điều đó vì những của quý báu hơn? Chúng ta chú tâm vào những phần thưởng của thế gian này hay chú tâm vào Chúa Cứu Thế. Nếu chúng ta chấp nhận đường lối của thế gian thì phải lìa bỏ những giá trị của Chúa Cứu Thế, ngược lại nếu chọn Chúa Giêsu thì bạn không thể không khước từ giá trị của trần gian.
Chúa Giêsu biết chắc chắn con đường nào dẫn tới hạnh phúc. Có người đã nhận xét: “Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ ba điều: Ho sẽ hoàn toàn không khiếp sợ, hạnh phúc cách vô lý và luôn luôn gặp khó khăn.” Chính Chúa Giêsu dạy rằng sự vui thoả thiên thượng sẽ thường bù gấp bội cho những đau khổ trần gian. Thánh Phaolô cũng nói: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17). Lời thách thức của các phúc lành ấy là: chúng ta muốn hạnh phúc theo đường lối của Thiên Chúa hay đường lối của thế gian? Và chắc chắn chọn gì được nấy!
42.Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
CA NGỢI NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA.
Gr 17: 5-8:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối chiếu đời sống của kẻ gian ác với đời sống của người công chính
1Cr 15: 12, 16-20:
Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến thực tại phục sinh của thân thể Đức Ki-tô, và ý nghĩa của sự phục sinh ấy đối với người Ki-tô hữu.
Lc 6: 17, 20-26:
Thánh Lu-ca đối lập các Mối Phúc với các Mối Họa.
BÀI ĐỌC I (Gr 17: 5-8)
Trong đoạn thơ ngắn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sử dụng hai hình ảnh thiên nhiên đối nghịch nhau để mô tả hai hạng người, hạng người bị nguyền rủa và hạng người được chúc phúc:
1. Hạng người bị nguyền rủa (17: 5-6):
Hạng người bị nguyền rủa là những kẻ gian ác đặt niềm tin tưởng vào người đời mà xa lìa Thiên Chúa. Họ được sánh ví như bụi cây cằn cỗi mọc trong hoang địa nóng cháy, nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn, chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc.
2. Hạng người được chúc phúc (17: 7-8):
Hạng người được chúc phúc là những người công chính đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ được sánh ví như cây trồng bên dòng nước, cành lá xanh tươi, trổ sinh hoa trái bốn mùa vì đâm rễ sâu vào mạch nước.
Bài Đọc I chuẩn bị Tin Mừng hôm nay theo thánh Lu-ca trong đó Đức Giê-su loan báo bốn Mối Phúc đối lập với bốn Mối Họa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 12, 16-20)
Có những người tín hữu Cô-rin-tô không tin kẻ chết sống lại. Thánh Phao-lô chứng minh rằng những người chủ trương “không có chuyện kẻ chết sống lại” thật phi lý khi vạch ra những hậu quả của sự từ chối này.
Thứ nhất, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì lời rao giảng của thánh Phao-lô và những thầy dạy của họ về việc Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại để chúng ta cùng được chết và sống lại với Đức Ki-tô là những lời nói láo. Thứ hai, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì cũng sẽ từ chối những thành quả minh nhiên của niềm tin vào Đức Ki-tô sống lại qua những ân huệ dồi dào mà Thần Khí đã ban cho cộng đồng tín hữu Cô-rin-tô. Thứ ba, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì niềm tin của những người tín hữu ở đời này thật là hão huyền và đáng thương, đồng thời các thành viên trong cộng đồng của họ đã qua đời phải bị tiêu vong.
Từ lập luận trên, thánh nhân quả quyết rằng Đức Ki-tô thật sự đã sống lại để mở đường cho những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại cùng với Ngài.
TIN MỪNG (Lc 6: 17, 20-26)
Hình ảnh Chúa Giê-su xuống núi và đến một chỗ đất bằng, tại đó dân Thiên Chúa tụ tập quanh Người gợi nhớ hình ảnh ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống mang theo sứ điệp của Thiên Chúa. Thính giả của Chúa Giê-su đại diện đầy đủ mọi thành phần Dân Thiên Chúa: nhóm Mười Hai, đông đảo môn đệ của Người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến.
Sau khi đã thường xuyên nói Chúa Giê-su giảng dạy, cuối cùng thánh Lu-ca sắp sửa đưa ra một trong những khuôn mẫu cô động nhất của công việc giảng dạy đó. Để làm điều này, thánh Lu-ca không tham khảo sách Tin Mừng Mác-cô nữa mà tận dụng “Nguồn các lời”. Bài Diễn Từ Trên Cánh Đồng của thánh Lu-ca phù hợp theo mức độ nào đó với Bài Diễn Từ Trên Núi, một bài trình thuật rộng lớn mà thánh Mát-thêu ghi lại cho chúng ta từ chương 5 đến chương 7. Trong suốt sứ vụ công khai của Người ở những miền và những thành phố khác nhau của Ít-ra-en, chắc hẳn Đức Giê-su đã rao giảng những điều như vậy trong những dịp khác nhau. Khi sử dụng “Nguồn các lời” này, mỗi thánh ký, dưới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã sẽ chọn tường thuật những lời mà các ngài cho là hữu ích nhất trong việc giảng dạy cho độc giả đương thời của các ngài: người Ki-tô hữu gốc Do thái trong trường hợp thánh Mát-thêu, người Ki-tô hữu gốc lương dân trong trường hợp thánh Lu-ca.
Trước khi Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc và các Mối Họa, thánh Lu-ca ghi nhận: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn lên các môn đệ” (6: 20). Tại sao thánh Lu-ca lại ghi nhận cái nhìn của Đức Giê-su như thế? Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người để gặp con người, chứ không phải là một đạo sư truyền bá một đạo lý hay một giáo thuyết. Ánh mắt của Người, cũng chính là cái nhìn của Thiên Chúa, đang rọi xuống trên những con người đang hiện diện trước mặt Người. Nơi những con người mà Người đang đưa mắt nhìn, Đức Giê-su thấy những người con được Chúa Cha tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; vì thế, Người mặc khải cho họ biết họ là ai và làm cách nào để sống cho xứng đáng là những người con đích thật của Chúa Cha.
1. Cách trình bày các Mối Phúc và các Mối Họa theo Tin Mừng Lu-ca:
Thánh Lu-ca đã tóm gọn Tám Mối Phúc của thánh Mát-thêu (Mt 5: 3-12) vào trong Bốn Mối Phúc, nhưng thêm Bốn Mối Họa đối lập. Quả thật, bốn Mối Phúc của Tin Mừng Lu-ca được phát biểu cách trực tiếp và cô động hơn tám Mối Phúc của Tin Mừng Mát-thêu: ví dụ trong Tin Mừng Lu-ca, Mối Phúc thứ nhất phát biểu cách trực tiếp và đơn giản “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, trong khi trong Tin Mừng Mát-thêu chúng ta đọc thấy “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”, rõ ràng Mối Phúc này được phát biểu cách gián tiếp và chứa đựng một lời giải thích ngắn về ý nghĩa của đức nghèo khó.Thánh Lu-ca đặt hai nhóm người và hai mẫu tình huống tương phản một cách có hệ thống.
Bốn Mối Phúc là bốn Mối Họa đảo ngược:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” | “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” |
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói” | “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê” |
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc” | “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười” |
“Phúc cho anh em, khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sĩ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa” | “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng” |
Những lý do nêu ra cũng ở thế đối lập với nhau:
“Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” | “Vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” |
“Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” | “Vì các ngươi sẽ phải đói” |
“Vì anh em sẽ được vui cười” | “Vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” |
“Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” | “Vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”. |
Ba cặp Phúc-Họa đầu tiên được cấu trúc rất đối xứng: những kẻ nghèo khó, đang phải đói và khóc lóc ám chỉ cùng một nhóm người như nhau; những kẻ giàu có, đang được no nê và vui cười cũng vậy. Sáu từ ngữ thực tế chỉ hai loại người trong xã hội. Cặp Phúc-Họa thứ tư là cặp cuối cùng được cấu trúc hoàn toàn khác và được khai triển thành ba phần: trước hết, những thử thách phải chịu trong hiện tại: “bị oán ghét”,“bị khai trừ” và “bị sỉ vả” (6: 22) đối lập với việc “được mọi người ca tụng” (6: 26); tiếp đó, lời mời gọi hãy vui mừng, không phải trong tương lai nhưng hiện nay với sự bách hại, vì được bảo đảm rằng họ sẽ nhận được phần thưởng lớn lao: ơn cứu độ và sự sống ngay giữa cơn gian nan thử thách (6: 23a-b); sau hết, người bị bách hại được đồng hóa với các ngôn sứ Cựu Ước: “Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”. Sự kiện này thật đáng lưu ý: nếu người giàu đối lập với người nghèo, thì ở đây những người bách hại không phải đối lập với những người bị bách hại, mà là những kẻ được ca tụng, tức là bị đồng hóa với các ngôn sứ giả.
Trong bản văn đối xứng của mình, thánh Lu-ca công bố một sự đảo ngược của các tình cảnh hiện nay vào thời cánh chung; thực ra thời cánh chung đã khởi sự rồi. Trong cặp Mối Phúc thứ hai và thứ ba, “bây giờ” và “thời sẽ đến” đối kháng với nhau rõ ràng (6: 21). Ngược lại, trong Mối Phúc thứ nhất, điều kiện của việc đảo ngược đã được hiện thực rồi: “Nước Thiên Chúa là của anh em”. Mối Phúc cuối cùng cũng tương tự như thế: “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. Một sự đảo ngược giữa các tình cảnh như vậy là một đề tài được thánh Lu-ca ưa chuộng. Chúng ta đã gặp thấy cấu trúc này trong bài ca “Ngợi Khen” (1: 51-53) cũng như sau này trong một bản văn khác riêng của thánh Lu-ca: dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó (16: 19-31).
2. Nghèo khó trong khiêm tốn:
Ở đây, trên môi miệng của Đức Giê-su Na-da-rét, từ ngữ “những kẻ nghèo khó” phải được hiểu ưu tiên theo chiều kích kinh tế và xã hội; thuật ngữ này chỉ những người không được bảo vệ và không có quyền lợi, bị khinh dễ, họ trông chờ ơn cứu độ chỉ ở nơi một mình Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bênh vực quyền lợi của họ, vì vậy Ngài phải nắm trọn chủ quyền (“Xin cho triều đại Chúa mau đến!”: 11: 2). Hành động giải phóng của Chúa Giê-su đã là dấu chỉ hữu hiệu cho thấy Thiên Chúa ra tay hành động. Chính nơi bản thân của Đức Giê-su và công việc của Người mà hoạt động cánh chung của Thiên Chúa và “triều đại” của Ngài được bày tỏ.
Vì vậy, dường như thánh Lu-ca cũng không thỏa mãn hơn chúng ta trước những Mối Phúc của Chúa. Nếu vấn đề của cải được nêu rõ trong Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ, chính vì giữa lòng Giáo Hội vào thời thánh Lu-ca có những người túng thiếu và những người giàu có. Như vậy đâu là tính thời sự của Tin Mừng? Thánh Lu-ca hiểu thế nào về người nghèo khó mà Chúa Giê-su nói ở đây?
Nếu người ta tách riêng những Mối Phúc và những Mối Họa ra khỏi tác phẩm của thánh Lu-ca, người ta sẽ phạm phải sai lầm lớn trong công việc giải thích. Trong trường hợp đó, sự đối kháng rõ rệt và được lập đi lập lại giữa “bây giờ” và “thời sẽ đến” đề xuất cuộc đảo lộn các giá trị sau này. Người nghèo sẽ được khuyến khích tự an ủi về hiện trạng khốn khó khi nghĩ đến một tương lai huy hoàng… trong lúc đó, người giàu có thể tiếp tục chè chén say sưa mà không sợ người nghèo La-da-rô tìm cách lật đổ hiện trạng của mình (x. 16: 17-31). Như vậy, thánh Lu-ca sẽ chuốc lấy lời phê phán của Karl Marx khi triết gia này phê phán tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng.
Các Mối Phúc đòi hỏi phải được đọc dưới ánh sáng phần còn lại của sách Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ. Nếu thánh Lu-ca có thể nhắc lại các Mối Phúc chính vì thánh ký diễn tả Giáo Hội lý tưởng là một cộng đoàn nơi đó “không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung… Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4: 32-35). Những bản văn khác sẽ cho chúng ta thấy việc chia sẻ với người nghèo, tuy khiêm tốn hơn, phải được thực hành ngay ngày hôm nay, trong cộng đoàn Giáo Hội. Nếu không, cộng đoàn sẽ không có khả năng loan báo các Mối Phúc và chứng thực thực tại của ơn cứu độ đã khởi sự.
3. Khó nghèo theo Tin Mừng:
Ngay vào thời thánh Âu-gút-ti-nô, có nhiều người không thể hiểu đúng người nghèo và người giàu; họ lập luận như sau: “Nước Trời thuộc về người nghèo, ông La-da-rô đói khát của cải thế giới này; mọi người giàu thì xấu xa, như ông phú hộ này”. Cách suy nghĩ này đã khiến thánh Âu-gút-ti-nô giải thích ý nghĩa sâu xa của sự giàu có và sự nghèo khó theo tinh thần của Tin Mừng: “Hỡi người nghèo, hãy lắng nghe tôi giải thích những lời của bạn. Khi bạn tự cho mình là anh La-da-rô, một thánh nhân ung nhọt đầy mình, tôi sợ là niềm tự phụ của bạn làm cho bạn mô tả mình không đúng. Đừng khinh bĩ những người giàu đầy lòng từ bi nhân ái và khiêm hạ: hay nói một cách ngắn gọn, đừng khinh bĩ những người giàu mà nghèo. Hỡi người nghèo! Chính bạn hãy là nghèo; nghèo, có nghĩa khiêm tốn… Vì thế, hãy lắng nghe tôi. Hãy thật sự nghèo, phải là chân thành, phải là khiêm tốn; nếu bạn tự phụ về sự nghèo khổ rách rưới và mụn nhọt đầy người của bạn, nếu bạn tự phụ là mình giống như người ăn xin đó nằm ở ngưỡng cửa của người giàu, lúc đó bạn đang ghi nhận sự nghèo khổ của anh ta chứ không gì khác. Bạn hỏi, điều gì tôi nên ghi nhận? Hãy đọc Kinh Thánh rồi bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Anh La-da-rô là một người nghèo, nhưng anh được đưa vào lòng của một người giàu. Kinh Thánh viết: ‘Thế rồi người nghèo này chết và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Vào đâu? Vào lòng của ông Áp-ra-ham hay, hãy để tôi nói, vào nơi mầu nhiệm ở đó ông Áp-ra-ham đang yên nghỉ. Hãy đọc… và hãy nhớ rằng ông Áp-ra-ham là một người rất giàu khi còn sống trên cõi thế này: ông giàu có tiền bạc, một gia đình rộng lớn, súc vật đầy đồng, ruộng vườn; tuy nhiên người giàu này thì nghèo, vì ông khiêm hạ. ‘Ông Áp-ra-ham tin vào Thiên Chúa và được xem là công chính’… Ông đã là trung thành, ông đã làm điều tốt, ông đã đón nhận mệnh lệnh hiến tế người con trai của ông, và ông đã không từ chối dâng hiến những gì ông đã nhận được cho Đấng từ Ngài ông đã nhận được. Ông đã được chấp nhận trong thánh nhan Thiên Chúa và phô bày trước chúng ta một mẫu gương đức tin” (Sermon 14).
Tóm lại, đức nghèo khó không cốt ở nơi điều gì đó thuần túy bên ngoài, ở nơi việc có hay không có những của cải, nhưng ở nơi điều gì đó còn sâu xa hơn, tác động đến tấm lòng và tâm hồn của một con người; nó cốt là có một thái độ khiêm tốn trước Thiên Chúa, là lòng mộ đạo, là một niềm tin tròn đầy. Nếu một người Ki-tô hữu có những đức tính này và cũng có những của cải dư đầy, người ấy phải siêu thoát khỏi sự giàu có của mình và hành xử bác ái đối với tha nhân, thì mới thật sự làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mặt khác, nếu ai không được sung túc, không vì thế mà người ấy được công chính trước Thiên Chúa, nếu như người ấy không nỗ lực đạt được những đức tính mà đức nghèo khó đích thật đòi hỏi. “Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn và khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
43.Chú giải của William Barclay
CHẤM DỨT MỌI GIÁ TRỊ TRẦN GIAN (6,20-26)
Bài giảng nơi hoang địa trong Luca và Bài giảng trên núi ở Matthêu 5-7 rất giống nhau. Cả hai cùng bắt đầu một loạt các mối phúc. Tuy có những khác biệt giữa hai bản văn của Luca và Matthêu, nhưng điều rõ ràng là: đó là một loạt những trái bom. Có thể chúng ta đã quen thuộc đến nỗi không nhận ra nó có tính cách mạng. Nó thật không giống những luật mà triết gia hay nhà thông thái có thể đặt ra. Mỗi câu là một lời thách thức.
Deissmann đã nói: “các lời đó có tác dụng như điện lực, nó không phải là những ngôi sao im lặng, nhưng là những tia chớp sáng loè theo sau bằng những tiếng sấm của bỡ ngỡ và kinh ngạc! Đúng ra, đây là những tiêu chuẩn thông thường đã bị đảo ngược. Những người mà Chúa Giêsu kể là có phúc thì thế gian cho là vô phúc, và những người mà Chúa Giêsu gọi là vô phúc, thì thế gian lại coi là có phúc. Thử tưởng tượng một người nào đó bảo rằng “phúc cho kẻ nghèo và khốn cho ai giàu có”. Nói như thế chẳng khác nào tuyên bố rằng giá trị của trần gian đã cáo chung, chẳng còn gì nữa.
Vậy đâu là chìa khoá? Chìa khoá nằm trong câu 24. Tại đây Chúa Giêsu phán: “khốn cho các ngươi là người giàu có, vì đã được sự yên ủi rồi”. Chúa Giêsu dùng từ “được” ở đây thường dùng khi nhận trọn số tiến trả cho một món hàng. Chúa Giêsu có ý nói rằng: “Nếu các ngươi đặt cả tâm hồn và nghị lực để tìm kiếm những điều thế gian yêu chuộng, các ngươi sẽ được những điều đó, nhưng đó là tất cả những gì các ngươi sẽ được”. Theo cách nói mạnh mẽ ngày nay thì “quả các bạn đã thành đạt rồi đó”. Nhưng trên một phương diện khác, nếu các bạn dùng hết tâm hồn và nghị lực để sống trung thành với Chúa và thành thực với Chúa, các bạn sẽ gặp đủ mọi thứ rầy rà, rắc rối. Đối với các tiêu chuẩn trần gian thì bạn vô phúc, nhưng tiền công của các bạn đang đến, và khi nó đến, bạn sẽ có được vui mừng đời đời.
Tại đây chúng ta phải đối diện với lựa chọn đời đời, đó là một lựa chọn từ lúc nhỏ tuổi và liên tục mãi cho đến khi chấm dứt cuộc đời. Các bạn muốn chọn con đường dễ dài, con đường đưa tới thú vui và lợi lộc ngay trước mắt? Hay các bạn sẽ chọn con đường đưa tới khó khăn, chỉ đem đến khổ nhọc, và đôi khi chỉ thấy đau đớn trước mắt? Bạn có bám víu lấy lạc thú và lợi lộc hiện tại? Hay bạn muốn dấn thân và hy sinh những điều đó vì những của quý báu hơn? Bạn có chú tâm vào những phần thưởng của thế gian này chăng, hay chú tâm vào Chúa Giêsu Kitô? Nếu bạn chấp nhận đường lối của thế gian thì bạn lìa bỏ những giá trị của Chúa Cứu Thế, ngược lại nếu chọn Chúa Cứu Thế thì bạn không thể không khước từ những giá trị của trần gian.
Chúa Giêsu biết chắc chắn con đường nào mang lại hạnh phúc, F.R.Maltby đã nói: “Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ ba điều: họ sẽ hoàn toàn không khiếp sợ, hạnh phúc cách vô lý và luôn luôn gặp khó khăn”. Chesterton là người luôn luôn phải khổ sở vì các nguyên tắc của chính mình, đã nói “tôi thích dìm mình trong nước nóng, nước nóng làm cho bạn sạch sẽ”. Chính giáo lý của Chúa Giêsu dạy niềm vui trên trời là phần thưởng, bù gấp bội cho đau khổ trần gian. Phaolô cũng nói “vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta đem cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên” (2Cr 4,17). Lời thách thức của các mối phúc là “bạn muốn hạnh phúc theo đường lối thế gian hay theo đường lối Chúa?”.
44.Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Để dễ đọc, tôi trình bày riêng rẽ bản văn nổi tiếng này vì nó là phần mở đầu của Bài giảng trên cánh đồng. Một sự kiện đáng chú ý: Luca đặt hai nhóm người và hai mẫu tình huống tương phản một cách có hệ thống “các mối phúc” và “các mối hoạ”. Tôi dùng từ “hoạ” bởi vì ở đây không phải là lời nguyền rủa mà là những lời thở than ái ngại; Chúa Giêsu than tiếc cho những kẻ lao mình vào thảm hoạ: “Khốn cho các người?”. Ngài đối lập họ với những người được Chúa ưu đãi, những mối hoạ là những mối phúc bị đảo ngược:
Phúc cho những kẻ nghèo
Phúc cho những kẻ bây giờ đang đói Phúc cho những kẻ bây giờ đang khóc lóc Phúc cho anh em, khi người ta xoá tên anh em như đồ xấu xa |
Nhưng khốn cho các người, những kẻ giàu
Khốn cho các người bây giờ đang no nê Khốn cho các người bây giờ đang vui cười Khốn cho các người được được mọi người ca tụng |
Cũng thế, đối lập nhau:
Nước Thiên Chúa đến và sự an ủi hiện tại
Sự no thoả tương lai và cái đói tương lai
Sự vui cười tương lai và sự xấu hổ tương lai
Phần thưởng trên trời và [tương lai vô vọng]
Ba cặp hoạ-phúc đầu tiên được cấu thành một cách đối xứng và những kẻ nghèo khổ, đói khát và khóc than ám chỉ cùng những con người như nhau; những kẻ giàu có, no nê và vui cười cũng vậy. Sáu từ thực tiễn chỉ hai loại người trong xã hội. Cặp thứ tư cũng là cặp cuối cùng có một cấu trúc hoàn toàn khác; nó được khai triển thành ba phần. Trước hết là thử thách phải chịu trong tương lai, một cách như ở các mối phúc trước đó: bị oán ghét, khai trừ khỏi hội đường và sỉ vả (c.22). Rồi lời mời gọi hãy hân hoan vui mừng. Điều này không phải là trong tương lai nhưng bắt đầu đồng thời với sự bách hại; được đảm bảo phần thưởng cuối cùng –ơn cứu độ và sự sống- gây ra niềm vui cánh chung, cuối cùng ngay giữa lúc bị thử thách (c. 23a-b). Sau hết, các người bị bách hại được đồng hoá với các ngôn sứ thời Cựu Ước. Sự kiện đáng lưu ý: nếu người giàu đối lập với người nghèo, thì không phải những người bách hại đối lại với những người bị bách hại, mà là những kẻ được ca tụng; họ được đồng hoá với các ngôn sứ giả.
Bản song đôi của Luca công bố một sự đảo ngược cánh chung, cuối cùng, của các trạng huống hiện thời; thực ra thời kỳ sau hết đã bắt đầu rồi. Trong câu 21, bây giờ và tương lai đối kháng nhau rõ ràng. Ngược lại trong mối phúc thứ nhất điều kiện của việc đảo ngược đã được thực hiện: “Nước Thiên Chúa là của anh em!”. Cũng giống như vậy ở mối phúc cuối cùng. Một sự đảo ngược như vậy giữa các tình huống là một đề tài được Luca ưa thích; chúng ta đã gặp cấu trúc này trong kinh Magnificat (1,51-53) và chúng ta sẽ còn gặp trong một bản văn khác cũng riêng của Luca: dụ ngôn người nghèo Ladarô (16,19-31).
Ở đây trên môi miệng Đức Giêsu thành Nagiaret, từ ngữ những kẻ nghèo phải được ưu tiên hiểu theo nghĩa kinh tế và xã hội; nó chỉ những người không được bảo vệ và không quyền lợi, bị khinh dể và là những kẻ chỉ trông chờ được cứu độ nơi một mình Thiên Chúa. Chính Ngài tự lãnh bổn phận bênh vực quyền lợi của họ và vì vậy, Ngài phải đến nắm quyền bình (“xin cho triều đại Cha mau đến!” 11,2). Thái độ giải phóng của Chúa Giêsu đã là dấu chỉ hữu hiệu rằng Thiên Chúa ra tay hành động; nơi Chúa Giêsu và nơi công trình của Thiên Chúa, “triều đại” của Người. Vì vậy dường như Luca không thoải mái hơn chúng ta trước những mối phúc của Chúa! Nếu vấn đề của cải được nêu rõ trong Luca và Công vụ, chính vì giữa lòng Giáo Hội vào thời Luca có những người túng thiếu và những người giàu có. Như vậy đâu là tính thời sự của Tin Mừng? Luca hiểu thế nào điều mà Chúa Giêsu đã nói về người nghèo?
Nếu người ta tách rời những mối phúc và hoạ khỏi tác phẩm của Luca, người ta sẽ sai lầm lớn trong công việc diễn giải. Trong trường hợp đó, sự đối kháng rõ rệt và được lặp đi lặp lại giữa bây giờ và thời tương lai sẽ đề xuất việc đảo lộn các giá trị về sau này; người nghèo sẽ được khuyến khích tự an ủi về sự khốn khó hiện tại khi nghĩ đến một tương lai huy hoàng… Và trong lúc đó, người giàu có thể tiếp tục chè chén say sưa mà không sợ người nghèo Ladarô tìm cách lật đổ cái hiện tại (x. 16,17-31). Như vậy, Luca sẽ chuốc lấy lời chỉ trích của Karl Marx liên quan đến tôn giáo, thuốc phiện ru ngủ nhân dân!
Các mối phúc ấy đòi hỏi phải được đọc dưới ánh sáng của phần còn lại của Luca và Công vụ. Nếu Luca có thể nhắc lại các mối phúc chính vì ông tô vẽ Giáo Hội lý tưởng như cộng đoàn nơi mà “không một tín hữu nào coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ mọi sự là của chung… Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, bởi vì người ta phân phát một phần tiền bạc để làm của chung cho mỗi anh em tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4,32-35). Những bản văn sẽ cho chúng ta thấy việc chia sẻ với người nghèo –tuy khiêm tốn hơn- phải được thực hành ngay ngày hôm nay, trong cộng đoàn Giáo Hội. Nếu không cộng đoàn sẽ không có khả năng để loan báo các mối phúc và biểu lộ thực tại của ơn cứu độ đã bắt đầu.
Ngày hôm nay chúng ta suy niệm về “các mối phúc thật theo thánh Luca”: Chúng ta biết nhiều hơn về các mối phúc thật của thánh Matthêu, vẫn được hát trong ngày lễ Các Thánh. Nhung vì chúng ta có một Lời Chúa được truyền lại bởi hai truyền thống khác nhau, chúng ta hãy thử lắng nghe bản văn hoàn toàn đặc biệt của Luca. Ở đấy, có một thứ liệu quả của kỹ thuật âm thanh lập thể bởi hai cái loa khác nhau.
Các mối phúc thật theo Thánh Matthêu (5,1):
Bài giảng trên Núi…
Bao gồm chín “mối phúc thật…”
Nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý sự đau khổ nội tâm…
Các mối phúc thật của Thánh Luca (6,20):
Bài giảng ở chỗ đất bằng.
Bao gồm “bốn” mối phúc thật và bốn mối hoạ.
Nói về những người nghèo đói thật, bụng đói thật sự và khóc chảy nước mắt.
Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn
Như Môsê (Xh 19,21), Đức Giêsu xuống từ một ngọn núi nơi Người đã gặp Thiên Chúa. Vâng, trước khi nói với chúng ta điều Người sẽ nói, Đức Giêsu đã “qua một đêm cầu nguyện Thiên Chúa” (Lc 6,12). Thiên Chúa không nhìn sự vật như chúng ta. Đức Giêsu đã dùng cái nhìn của Thiên Chúa trong Thiên Chúa… trong một sự cầu nguyện kéo dài! Đối với chúng ta, hạnh phúc là một vấn đề của may mắn, sức khoẻ, tiền bạc, sự thành công. Chúng ta sắp nghe từ miệng của Đức Giêsu rằng, đối với Thiên Chúa, hạnh phúc là một vấn đề chọn lựa: Người ta quyết định mình được hạnh phúc! Phúc cho những người khốn khổ, Đức Giêsu sẽ nói như thế. Bạn có thể hạnh phúc, dù nghèo, dù đói, dù bị lăng nhục. Nghịch lý chăng: ảo tưởng phi thực chăng? Chúng ta hãy lắng nghe Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”
Ở đây trong tiếng Hy Lạp có từ: “makarioi” dịch từ một tiếng Do Thái thường gặp trong Kinh Thánh, đó là từ đầu tiên của Thánh Vịnh đầu tiên “asheri”… Đó là một từ ở số nhiều muốn diễn tả một niềm vui tràn đầy, mà ông Chouraqui vốn nhạy cảm với ngôn ngữ của mình, đã dịch bằng chữ “hoan hỉ”!
Khi loan báo niềm hạnh phúc, hoan hỉ cho những người khốn khó ở trần gian này, Đức Giêsu đáp lại sự chờ đợi lớn lao của họ.
Những người có mặt ngày hôm đó, trước mặt Người quả thật là những người’ “làm nghề mọn”, những “người bệnh tật” những người nghèo bị các thần ô uế “quấy nhiễu” (Lc 6,18). Sinh vật kỳ quặc! Con người đó không bao giờ thoả mãn với những khoái cảm xác thịt, cũng không bao giờ chịu được những đau khổ thân xác! Tại sao con vật ấy, khác với những sinh vật khác, biết mình giới hạn, tương đối và hữu hạn… vẫn giữ trong lòng mình khát vọng vô cùng về tuyệt đối? Tại sao lại muốn được hạnh phúc? Tại sao có khát vọng thánh thiêng ấy?
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang khóc…
Matthêu đã tâm linh hoá khi diễn tả: “phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó!”
Còn Luca thì nói về những người nghèo thật sự, đói khát thật sự, đau khổ thực sự trong thân xác. Trạng ngữ “bây giờ” mà Luca xác định rất có ý nghĩa. Luca gợi ý rằng sẽ có một sự đảo lộn tình thế: anh em bây giờ đang khóc, anh em sẽ cười!
Người ta sẽ còn bàn cãi lâu dài để biết đích xác Đức Giêsu đã nói điều gì… và để biết trong hai bản văn của: Matthêu và của Luca bản văn nào là chính thức hơn. Thật ra, tại sao Đức Giêsu đã không nói cả hai điều đó… ngày hôm đó… hay trong nhiều lần khác?
Nếu người ta đọc toàn bộ Tin Mừng, thì dẫu sao chính cách giải thích của Luca xem ra gần với tư tưởng sâu xa của Đức Kitô hơn.. Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Oi! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó. Từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy?
Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười.
Vậy thì, những kẻ khốn khổ có thể được “hạnh phúc” như thế nào?
Bởi vì, Đức Giêsu đã nói: “Nước Thiên Chúa là của họ”. Sự khẳng định này là truyền thống, trong toàn bộ Kinh Thánh. Tương tự như thế, Giêrêmia (17,5-8) trong bài đọc mà chúng ta nghe hôm nay nói với chúng ta cùng một chân lý: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa… Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân “.
Nguy cơ to lớn của sự giàu sang chính là tạo ra sự thoả thích hoang tưởng. Người nào tự mãn với của cải trần thế dần dà sẽ nghĩ rằng mình có thể bỏ qua Thiên Chúa…Trái lại, người nghèo vốn không: có chỗ nương tựa nơi con người, vì thế được mời gọi hướng về Thiên Chúa. Chính sự giàu có đặt người giàu vào sự nguy hiểm, khi cất đi khối người ấy mọi “sự đói khát Thiên Chúa”, người ấy bị giam hãm trong “căn phòng đóng kín” của những hạnh phúc nhỏ bé phàm tục của mình. Bất hạnh của những người giàu chính là họ đặt cuộc quá thấp và quên rằng chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy khát vọng hạnh phúc vô cùng trong mỗi con người. Ngườí giàu có tự mãn bị tiền bạc của mình đánh lừa. Đức Giêsu sẽ nói về “tiền bạc, đánh. lừa” (Lc 16,9). Chúng ta sẽ nói gì về một người’ đánh cá ba con ngựa, lại dứt khoát đặt cuộc cho một con ngựa chắc chắn không bao giờ vượt qua mức đến? Vả lại, điều chắc chắn là trương mục trong ngân hàng sẽ không vượt qua “mức” vĩnh cửu. Sự giàu sang hứa hẹn hạnh phúc là một “điều dối trá”. Hạnh phúc duy nhất, chung cuộc quyết định, tuyệt đối, chính là Tình Yêu, chính là Thiên Chúa! Đó là Nước Thiên Chúa.
Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Vậy thì, ai là nhân vật chủ chốt? Con Người… mà người nghèo sẽ có thể thiết lập tương quan? Thiên Chúa táo bạo biết bao trong Đức Giêu Nadarét ấy, trong người nghèo ấy vốn còn là một bí ẩn.
Câu này, cũng như nhiều câu khác trong Tin Mừng, cho thấy rằng nghèo khó hoặc khốn khổ không đủ đề có được “hạnh phúc của Thiên Chúa”. ‘Trái lại, cũng có khi sự đau khổ làm người ta chai cứng và chống lại Thiên Chúa. Giữa cơn thử thách, để đạt đến hành phúc mà: Đức Giêsu đã hứa, phải hiểu biết là đón nhận thử thách ấy trong chính ánh sáng của Đức Giêsu, Còn Người sư hiệp thông với Đức Giêsu là suối nguồn của mềm hân hoan. Lạy Chúa, xin hãy biến đổi những “thử thách” của con thành sự hân hoan” với Chúa.
Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.
Đức Giêu không giải thích vấn đề sự ác, Đức Giêsu không biện minh cho sự đau khổ. Trong toàn bộ Tin Mừng, Người luôn chiến đấu chống lại đau khổ, Người chữa lành, an ủi, tha thứ. Nhưng ở đây, Người khẳng định, với sự bình thản và mạnh mẽ rằng đau khổ có thể trở thành nơi xuất hiện một niềm vui mầu nhiệm. Một sự “nhảy múa vui mừng”. Ai có tai để nghe phải hiểu. Vả lại, chúng ta hãy nhận ra sự tinh tế của tư tưởng ấy: Niềm vui được hứa chỉ khai mở trọn vẹn trong nước Trời… tuy nhiên nó đã được bắt đầu từ cái ngày người ta đau khổ.’Đức Tin là một sự tham dự trước vào Thiên Đàng, vào đời sống vĩnh cửu.
Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi!
Khác với Matthêu, Luca đặt vào trong miệng của Đức Giêsu bốn câu hoàn toàn đối lại…bốn mối phúc thật. Ở trên là đôi khi người ta gọi là các mối hoạ. Tuy nhiên người ta khó mà tưởng tượng các mối hoạ trong lòng của Đấng đã đến, để cứu chữa chứ không phải để chuộc tội. Trong bản văn tiếng Hy Lạp, không có các mối hoạ (Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!”)… cũng không có sự lên án (Hỡi những kẻ giàu có? Một bất hạnh sẽ đến với các người!”)… nhưng chỉ là một thứ xác nhận một lời than thở: “A, giàu có khốn khổ biết bao!” Từ ngữ mà chúng ta dịch là khốn cho… “‘ không phải là một tính từ nhưng là một từ thán diễn tả sự đau xót: than ôi! các ngươi là những người giàu có!” ‘Vâng, Đức Giêsu trong một tiếng kêu đau đớn, than thở cho những kẻ giàu có: Tai hại cho họ biết bao nếu họ nhắm mắt trước những giá trị chân chính, những giá trị “vượt qua lằn mức”! Đáng buồn biết bao khi một Người đặt niềm tin của mình vào cái nay còn mai mất!
Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Lời cảnh báo ấy không phải chỉ dành cho những người khác. Tôi là kẻ giàu có ấy thường xuyên có nguy cơ quên đi điều chủ yếu.
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói! Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than!
Đức Giêsu thật sự loan báo một sự lật ngược tình thế: Hình ảnh trong bản văn Hy Lạp còn mạnh hơn nhiều: ôi khốn khổ cho các người là những kẻ no nê! Than ôi! các ngươi là những kẻ no căng bụng!
Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
Từ tưởng của Đức Giêsu, cũng như mọi tư tưởng Kinh Thánh và Do Thái là một tư tưởng tuyệt đối, bằng song luận: “hoặc là… hoặc là…” Qua các phản đề đối chiếu này. Có một sự đối lập không thể thoả hiệp được giữa Nước Thiên Chúa và tiền bạc. Người ta không thể cùng lúc phục vụ Thiên Chúa và Mam-mon! (Lc 16,13). Đức Maria đã hát trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat): “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
Chúng ta có tiếp tục để mình bị ảo ảnh đánh lừa không? Chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu. “Người vốn giàu sang phú quý, như đã tự ý trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9). Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Nghèo Khó, Vinh quang đời đời của Thiên Chúa trong Ngài.
46.Con người mới – R. Gutzwiller
Tinh thần mới, nội tâm quan trọng hơn là chức bậc, phẩm trật và hơn cả hình thức tổ chức bề ngoài. Tinh thần ấy được phác hoạ trong bài giảng trên núi, Thánh Luca viết cho những người ngoại giáo, không phải cho những người Do thái. Chính vì thế, những gì có tính cách đặc biệt Do thái đều bị bỏ đi và tất cả bài giảng chỉ bằng một phần ba bài giảng của Thánh Mathêu.
Công cuộc canh tân mà Chúa Giêsu đem đến đang bắt đầu nơi Ngài và nhờ Ngài, bây giờ đây, Ngài thấy nó trở nên sung mãn hoàn toàn: chính lúc con người chết, là đi vào cuộc sống mới, đối với toàn thể nhân loại, đó là ngày cùng tận được đi vào trời mới đất mới. Suốt trong sứ điệp của vị Thiên Chúa rao giảng, cái nhìn vẫn cố định trên cái viễn tượng tối cao đó: bài giảng trên núi chỉ có thể hiểu theo nghĩa này.
DIỄN TỪ.
Đối lại bốn lời chúc dữ là bốn lời chúc lành.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, khốn cho các ngươi những kẻ giàu có…’. Đối với Chúa Kitô, đây không phải là diễn từ mang tính chất xã hội, một cách phân phối của cải, một cuộc cách mạng kinh tế, nhưng là một quan điểm về sự đảo lộn có tính cách quyết định, của cuộc cách mạng chân thật và sâu sắc nhất, của sự đảo lộn tuyệt đối trong đó những kẻ trước hết sẽ nên sau hết và những kẻ sau hết sẽ nên trước hết.
Lúc đó sẽ xảy ra là những ai đang sống nghèo khổ trong thế giới hiện thời sẽ được gìn giữ để khỏi sa vào lưới thế gian, họ đã luôn nhắm vào vũ trụ tương lai, vào nước Thiên Chúa. Người nghèo khó không bị của cải trần gian đè lấp: vì thế họ hy vọng với lòng trông cậy những ngày tươi sáng hơn. Người giàu trái lại coi thế này như là nơi vĩnh cửu. Họ tìm thấy ở đó những thoả mãn những điều họ ao ước. ‘Ở đó, ‘một ngày kia’, đó là những viễn tượng họ không nghĩ đến, và cũng chẳng nghĩ đến nữa: đó là cái họ sợ hãi và trốn chạy.
Nhưng dầu sao, nước Thiên Chúa vẫn sẽ đến, cũng vậy khốn cho ai ít ao ước nó, mà lại muốn xa tránh nó.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát… Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ’. Người đói khát là người cảm thấy có nhu cầu. Họ chờ mong với lòng ao ước điều ngày hôm nay họ không có được. Còn kẻ no nê, thoả mãn với chính mình lại muốn làm cho giây phút hiện tại này thành vĩnh cửu và từ chối sự vĩnh cửu thực sự. Họ đáng cái mà người ta ca thán khi giờ nước Thiên Chúa đến: đó là lời chúc dữ chứ không phải là lời chúc phúc.
‘Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc… khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười’. Ở đây nữa, từ ngữ, ‘bây giờ’ ‘hiện giờ’ là chính yếu. Những kẻ khóc lóc là những người thấy thất vọng với cái thế gian này. Họ chỉ thấy những sự khó chịu, đau khổ. Do đó họ hướng về tương lai, hy vọng có cái gì khác lạ và mới mẻ mà Chúa Kitô mang đến.
Trái lại những kẻ cười nói, vui thú trong những sung sướng dưới thế này, họ hài lòng với tính chất hời hợt của thế gian này, không muốn tin rằng thế gian này là cái chóng qua. Đến lúc thay đổi, vui cười của họ sẽ biến thành than khóc; ngay từ bây giờ họ đã bị nguyền rủa.
‘Phúc cho các ngươi nếu vì Con Người mà thiên hạ oán ghét, trục xuất và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương… Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi’.
Hai nhóm đó tạo thành một tương phản thật kêu và ít thấy có hoà đồng hỗ tương. Những kẻ nghèo khó, đói khát, những kẻ khóc lóc, bị đuổi bắt, bị những người no nê, giàu có, vui cười… ghét ghen và khinh dể. Nhưng có Chúa Kitô ở bên họ, Ngài là Đấng giảng lời quyền năng được dân chúng ca tụng, và Ngài sẽ lên tiếng khen họ.
Đó là một thái độ lạ lùng. Đối với Ngài, biến đổi thế gian này chưa đủ. Ngài còn mang đến một cái gì hoàn toàn khác hẳn, tuyệt đối mới mẻ: đó là nước Thiên Chúa.
Như thế, sứ điệp Ngài giảng không phải là chuyện cải biến thế giới hiện thời, một sự cao thượng hoá con người, kéo dài luân lý nhân loại. Và như vậy có thể giải thích được sức mạnh và quyền năng chưa hề nghe nói về vị giảng thuyết và về giáo huấn của Ngài.
Kẻ nghe lời Ngài sống bằng tương lai và xây tất cả hy vọng của mình trên sự đổi thay bao la đã được Chúa khai mở và một ngày kia sẽ đạt được tầm mức sung mãn.
47.Chú giải của Fiches Dominicales
TÌM ĐÂU RA HẠNH PHÚC THẬT?
LÒNG NGƯỜI CHỈ TOẠI NGUYỆN KHI BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đường dẫn đến hạnh phúc thật
Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một nguồn, nhưng mỗi người lại khai thác dữ liệu một cách độc đáo, khiến cho hai bản viết, bên cạnh những nét tương đồng rõ rệt, vẫn có những dị biệt tỏ tường về nội dung và con số các mối phúc cũng như về cấu trúc, thể văn và ý hướng.
– Nội dung các mối phúc theo thánh Luca rất khác với nội dung Bài giảng trên Núi của thánh Mátthêu.
Đức Giêsu lên núi, nơi “ Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”, trước khi chọn lấy mười hai ông trong số các môn đệ, mà người gọi họ là “tông đồ” nghĩa là kẻ được sai đi. Giờ đây Người đóng vai một Môsê mới, “xuống núi”, mang theo sứ điệp của Thiên Chúa và “dừng lại ở một chỗ đất bằng”, đối diện với “đông đảo môn đệ của Người” là đoàn lũ “dân chúng”, tiêu biểu cho những con người đến từ “khắp miền Giuđê, Giêrusalem” lẫn lộn với những người từ những miền dân ngoại thuộc “miền duyên hải Tyrô là Siđôn”. Những lời Người sắp tuyên bố là các mối phúc, được dành cho hết mọi người, vì chỉ có mình Người mới có thể thoả mãn được khát vọng hạnh phúc của con người. Cộng đoàn các môn đệ của Người, một khi đã lãnh hội và sống các mối phúc ấy sẽ phải làm chứng về các mối phúc ấy cho mọi người.
– Con số các mối phúc trong Matthêu là chín. Còn trong Luca chỉ có bốn. Điểm khác biệt nữa là: Luca cho thêm vào bốn “mối hoạ” đặt rất song hành với bốn “mối phúc”; đây không phải là những lời nguyền rủa, mà chỉ là những lời thiết tha kêu gọi những “người bất hạnh” ăn năn hối cải khi họ lỡ bước lao mình vào con đường sa đoạ.
Sau cùng, thể văn và ý hướng của các mối phúc này đều rất khác nhau. Thánh Matthêu trình bày các mối phúc ấy ở ngôi thứ ba số nhiều và nhắm những thái độ nội tâm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó….” Còn Luca lại diễn tả ở ngôi thứ hai số nhiều và chỉ ra những loại người trong xã hội, mà “bây giờ” đang thực sự phải nghèo khổ, phải đói, phải khóc bị nguyền rủa hay bị ngược đãi: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…” Nếu mối phúc thứ hai hay thứ ba loan báo một sự đảo ngược hoàn cảnh hoàn toàn thì tuyệt nhiên không phải có ý khuyến khích đương sự chịu đựng, luồn cúi vì hy vọng ở thế giới bên kia. Mối phúc thứ nhất và cuối cùng nói ở thì hiện tại: “Nước Thiên Chúa là của anh em”, “vì này đây, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”; những mối phúc ấy tỏ cho biết rằng triều đại cứu thế đang được khai mở trong con người Đức Giêsu.
R. Meynet viết: “Nước Thiên Chúa, không phải đợi tới ngày tận thế, Nước ấy đang ở đây ngay hôm nay cho ai biết chọn lựa nước ấy… Cũng giống như Nước Chúa, thiên đàng (trời) không phải đợi mai sau mới có, thiên đàng là đây, ngay bây giờ, chứ không phải tìm kiếm ở nơi đâu khác; thiên đàng thuộc về một trật tự khác, trật tự của Thiên Chúa chứ không phải của loài người” (“L’evangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ”, Cerf, trg 79).
2. Theo chân Đức Giêsu:
“Các mối phúc-mối hoạ” là mạc khải có tính tiên tri thúc giục ta hoán cải những quan niệm phàm trần của ta về hạnh phúc, nghèo đói và than khóc, theo ánh sáng của mầu nhiệm được tỏ ra ở đây: mầu nhiệm về Thiên Chúa muốn tỏ mình cho người ta chiêm ngưỡng Người trong mầu nhiệm Đức Giêsu, nơi Người mầu nhiệm về con người được soi sáng.
– Ở đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm về Thiên Chúa đầy lòng xót thương những kẻ nghèo khổ. Ph. Bossuyt và J. Radermakers còn giải thích: Thực vậy, những người này, được tuyên bố là “người hạnh phúc”, bởi vì Thiên Chúa quan tâm tới họ. Vì người quan tâm tới họ, không phải vì họ có công trạng gì, nhưng vì chính hoàn cảnh của họ: nghèo khổ, phải đói, phải khóc, bị ngược đãi… Đây chính là mầu nhiệm khơi nguồn cho hiến chương Nước Trời vậy (Sđd, trg 241)
– Ở đây chúng ta cũng được đưa vào chính trung tâm mầu niệm Đức Giêsu mà ngay từ bài giảng khai mạc ở hội đường Nadarét Người đã hé mở cho thấy trước số phận Con người sẽ phải chịu: số phận một người bị hiểu lầm, bị chối bỏ.
Hai tác giả trên tiếp tục: “Vì vậy, chân lý của Thiên Chúa về các mối phúc, không tỏ ra tách biệt với số phận của con người. Hơn nữa chân lý ấy còn có một nền tảng vững chắc là tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa như vẫn được biểu lộ ra trong con người Đức Giêsu. Những kẻ nghèo khổ, đói khát, khóc than là những người có phúc, bởi lẽ, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã hành động quyết liệt để bênh vực họ, khi con Người sống lại từ trong kẻ chết. Người là đang thực hiện niềm hy vọng của họ” (Sđd, trg 242).
– Sau cùng, người ta thấy vén lên ở đây mầu nhiệm về con người, một sinh vật có một trang sử để sống, được kêu gọi để tự do lựa chọn, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Chúa được bày tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tóm lại là dám nối gót theo chân Đức Giêsu chết và phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống”. Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là “Người môn đệ của Đường”. Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”.
Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.
2. “Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”
Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.
Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.
Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ “bước đi với Chúa”. Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có… Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.
Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.
Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức “Thiên Chúa là tình Yêu”, thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người”.
Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).
Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.
Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.
48.Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Ở đây Chúa Giêsu khích lệ và an ủi các người nghèo khó. Trong suốt lịch sử của mình, Israel đã từng kinh nghiệm rằng Thiên Chúa luôn quan tâm đến kẻ nghèo hèn, người bị áp bức nếu họ trông cậy nơi Ngài. Trong thời nô lệ (ở Ai cập và lưu đày ở Babilone, Israel đã gặp nghèo đói và bị kềm kẹp, Thiên Chúa đã lưu tâm đến dân Ngài: “Chúa an ủi dân Ngài và xót thương những người cùng khốn” (Is 49,13). Thiên Chúa hướng lòng về những người nghèo đói, khổ sở lầm than “Lạy Chúa, xin hãy nghiêng tai về bên con, xin nhậm lời con; vì con nghèo nàn khổ sở” (Tv 86,1). Thiên Chúa cũng hành động tương tự như thế trong thời gian cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo. Tin mừng được rao giảng cho người nghèo (4,8). Do đó, người nghèo thật hạnh phúc vì họ là những người đầu tiên được Chúa Cha quan phòng săn sóc và được phúc âm Chúa Kitô hướng dẫn dưỡng nuôi.
2. Tình trạng sung sướng hạnh phúc Chúa Giêsu công bố không phải là khổ sở, thiếu ăn, đói khát, dốt nát, chậm tiến, ăn mày. Trái lại, Chúa Giêsu xem các cảnh huống đó như là những cảnh huống làm con người thoái hoá, do đó phải sớm gạt bỏ: đến ngày phán xét chung thẩm, chúng ta sẽ bị phán xét theo cách thế chúng ta đã làm hầu xoa dịu các nỗi thống khổ của nhân loại (x.Mt 25), phù hợp với các giáo huấn và gương sáng của giáo hội qua mọi thời đại. Được xem là hạnh phúc, tình trạng của người dù nghèo nhưng luôn tín thác vào bàn tay quan phòng của Chúa Cha (dĩ nhiên là họ hết sức cố gắng làm việc), tình trạng của người luôn ý thức mình là con Thiên Chúa. Tóm lại, điều làm người ta dễ dàng đón nhận Nước trời, chính là sự tự do của người nghèo khó: chịu đựng các cảnh thăng trầm, bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống mai ngày mới có thể thoả mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của họ.
3. Những người bị bắt bớ vì đạo (theo dõi, giam tù, chèn ép, thiếu thốn mọi sự) và những người nhờ quan phòng tìm được tự do thường làm chứng rằng trong đời sống họ không có lúc nào cảm thấy được an ủi, bình thản và vui sướng cho bằng những lúc họ bị khốn khổ cùng cực. Có biết bao vị tử đạo đã vui hát khi bị giết. Hạnh phúc của người bị bách hại không phải là một hạnh phúc “bánh vẽ”. Ngay từ đời này, Thiên Chúa đã ban hạnh phúc cho những ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì Ngài.
4. Không nên phàn nàn những người có tiếng tốt là thanh liêm ngay thật, thích vụ tha nhân. Nhưng những kẻ mà Chúa Giêsu chúc dữ đó là những kẻ giàu sang được người ta nịnh bợ, tâng bốc chỉ vì họ giàu sang, quyền thế, nhiều áp lực… Họ giống các tiên tri giả, chỉ biết nói lời đường mật, nịnh hót, trấn an dân Do thái, trong lúc đang theo đuổi các ngẫu thần (x. Is 30,9tt; Giêr 23,17tt)
5. Ngay cả môn đệ, tín hữu, những người sống trong giáo hội cũng phải nghe lời chúc phúc và chúc dữ đó như thể được áp dụng cho chính mình. Phải tự vấn xem mình có sợ vì bị chúc dữ hay không. Phải luôn luôn lượng giá đúng các lời tuyên bố ngắn ngủi của Chúa Giêsu. Những lời tuyên bố đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài con người xây lên cho mình, đó là hoàng hôn, là lời cáo chung của mọi thần tượng ta tin hằng tin tưởng. Các lời chúc phúc và chúc dữ mở cửa nước Thiên Chúa, một nước trong đó ta sẽ được mọi thứ mà của cải đời này không thể cung cấp nhưng chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng khi Ngài bắt đầu thống trị.
Ngày kia, các nhà truyền giáo đến hỏi ý kiến ông Gandhi xem phải làm gì để những người theo Ấn Độ giáo có thể chấp nhận bài giảng trên núi của Chúa Giêsu về tám mối phúc thật. Ông Gandhi đã trả lời:
– Các ông hãy suy nghĩ về bí quyết của những bông hồng. Mọi người đều yêu thích chúng, bởi vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc tươi thắm, chúng còn toả lan một mùi hương thoang thoảng và tuyệt vời. Vậy các ông cũng hãy toả ngát hương thơm.
Lời thách đố ông Gandhi đặt ra cho các nhà truyền giáo, cũng là lời thách đố Chúa Giêsu muốn đặt ra cho tất cả các môn đệ của Ngài, cũng như cho tất cả những người muốn tin theo Ngài, khi Ngài tuyên bố những tư tưởng mới, làm đảo lộn trật tự và quan niệm của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc:
– Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó…Phúc cho các ngươi là những kẻ đói khát…Phúc cho các ngươi là những kẻ khóc lóc…Phúc cho các ngươi là những kẻ bị thế gian ghét bỏ…
Trong cuộc sống hiện nay, thiên hạ thường ca tụng và chọn làm thần tượng của mình những người giàu sang và quyền thế. Họ có thể là những chính trị gia đầy quyền lực, đã thành công trong việc điều hành đất nước. Họ có thể là những tay tỷ phú đã thành công trong việc buôn bán. Họ có thể là những nữ tài tử, những ca sĩ đã thành công trong lãnh vực nghệ thuật và đã bước lên đài danh vọng. Họ có thể là những lực sĩ, những cầu thủ, những vận động viên nhà nghề đã thành công trong phạm vi thể thao và đã từng đoạt được những chiếc huy chương vàng tại các giải quốc tế…Tất cả những người này đều hãnh diện và thoả mãn về những thành tích cũng như về những gì đã đưa họ tới đỉnh vinh quang.
Tuy nhiên, có một người đã lên tiếng, đã đi ngược lại với những thành công rực rỡ của họ. Người đó chính là Đức Kitô khi Ngài công bố bài giảng trên núi về tám mối phúc thật mà chúng ta vốn gọi đó là bản hiến chương Nước Trời.
So sánh những gì Chúng truyền dạy với những gì thế gian theo đuổi hay nói cách khác, so sánh tinh thần của Chúa với tinh thần của thế gian chúng ta thấy chúng hoàn toàn khác biệt nhau như lửa và nước, như ánh sáng và bóng tối…để rồi cuối cùng đã dẫn tới những hậu quả cũng hoàn toàn khác biệt: một bên là hạnh phúc đời đời còn một bên là khổ đau luôn mãi trong cuộc sống bên kia.
Để trở thành người môn đệ của Chúa, chúng ta phải bước đi trên con đường Ngài đã chỉ cho. Để được thừa hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta phải tuân giữ những điều Chúa đã truyền dạy. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng ta trong lúc này là phải làm thế nào để biến những lời chúc phúc của Chúa trở thành sự thật.
Đúng thế, trước lời thách đố của ông Gandhi, các nhà truyền giáo đã làm xuất phát tại Ấn Độ một phong trào dấn thân để phục vụ. Và đối tường được phục vụ là những trẻ em mồ côi, những người bị xã hội ruồng bỏ, những người mắc phải những chứng bệnh nan y và truyền nhiễm, những người đang trong cơn hấp hối…Tất cả đều được chăm sóc, nuôi dưỡng và nhất là được trọng kính và yêu thương bởi những bàn tay dịu dàng, chẳng hạn như của các nữ tu Thừa Sai Bác Ái, do Mẹ Têrêsa sáng lập, người mà vừa mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc chân phước vào sáng Chúa nhật ngày 19 tháng 10 năm 2003.
Dòng Thừa Sai Bác Ái cùng với những hội đoàn khác và những người thiện chí đang cố gắng xoa dịu những nỗi khổ đau của người dân Ấn Độ, cũng như đấu tranh cho quyền lợi của trẻ em, phụ nữ và những kẻ thấp cổ bé miệng.
Hãy cố gắng toả ngát hương thơm qua những hành động bác ái và yêu thương, để nhờ đó góp phần vào việc làm cho những lời chúc phúc của Chúa được trở nên sự thật ngay trong cuộc sống hôm nay.
Đoạn Tin Mừng là phần mở đầu một bài giảng rất quan trọng của Chúa Giêsu, bài giảng đầu tiên, bài giảng khai mạc chương trình truyền giảng của Chúa. Chúng ta thấy bốn lần Chúa nói “Phúc cho” và bốn lần Chúa nói “Khốn cho”, nên thường được gọi là bốn mối phúc và bốn mối hoạ, đối chiếu nhau gần như hoàn toàn: nghèo khó đối lại với giàu có, đói khát đối lại với no đầy, khóc lóc đối lại với vui cười, bị ghét bỏ đối lại với được ca tụng.
Chúng ta thấy ba mối phúc đầu và ba mối hoạ đầu đi với nhau, nghĩa là nghèo, đói và khóc lóc là bộ ba không thể tách rời. Đối lại, giàu, no và cười là bộ ba ngược lại. Bởi vì đói và khóc là hậu quả của nghèo, là biểu hiệu cụ thể nhất của cái nghèo. Trái lại, no và cười là biểu hiệu của sự giàu có. Chúng ta thấy hai hình ảnh nổi bật lên trong một thế tương phản rõ rệt: người nghèo, đói và khóc – người giàu, no và cười. Còn mối phúc thứ tư là những người bị ghét bỏ, loại trừ và bách hại vì Chúa, là những môn đệ của Chúa, họ chung số phận với các ngôn sứ. Ngược lại, mối hoạ thứ tư là những người được thế gian trọng vọng, là giới kinh sư, Pharisêu. Họ giống như những ngôn sứ giả trong lịch sử dân Chúa.
Qui chiếu lại như thế chúng ta thấy đoạn Tin Mừng này chỉ nêu lên hai đối tượng của phúc và hai đối tượng của hoạ: người nghèo và người bị ghét bỏ vì Chúa, đó là đối tượng của phúc. Người giàu và người được thế gian ca tụng, đó là đối tượng của hoạ. Giàu và nghèo, đó là những đề tài lớn, muốn hiểu được nội dung của phúc và hoạ, về người giàu và người nghèo, chúng ta phải tìm hiểu thật nhiều và thật sâu sát, ở đây chỉ xin gợi ý một vài điều thôi.
Giàu và nghèo, phúc ở đâu và hoạ ở đâu? Trước hết, chúng ta phải xác định cho rõ ràng: đừng hiểu rằng giàu có ở đời này là không được hạnh phúc ở đời sau, và ngược lại, nghèo khó ở đời này tất nhiên được hạnh phúc đời sau. Nếu như vậy thì chúng ta không được giàu có, không nên giàu có, vì giàu có là một điều xấu, làm chúng ta không được hạnh phúc đời sau. Trái lại, chúng ta hãy chịu nghèo ở đời này, hãy sẵn sàng chịu khổ, để đời sau được hạnh phúc. Không phải như vậy, chúng ta phải hiểu rằng: giàu có cũng là một cái phúc, nếu đó là thành quả do chúng ta cố gắng chuyên cần mà xây dựng được, tức là do công sức lao động mà chúng ta đã tạo được một cách chân chính. Đối lại, nghèo khó tự nó chẳng bao giờ là cái phúc cả. Cái phúc của người nghèo không phải là chính sự nghèo, nhưng là tinh thần của họ. Họ có một tấm lòng phó thác, không phàn nàn, không kêu trách, không bất mãn.
Như vậy, cái hoạ của người giàu là khi họ tự mãn, tự kiêu, tự đắc về tài sức của mình mà quên mất Thiên Chúa, là Đấng đã ban cho họ được giàu có. Hoặc cái hoạ cho người giàu là họ ích kỷ, keo kiệt, không biết dùng của cải chia sẻ cho người nghèo hay không biết dùng sự giàu có của mình mà mua sắm của cải nước trời. Cũng thế, cái hoạ của người nghèo là nghèo tiền, nghèo của nhưng không nghèo dục vọng, không nghèo tham sân si, thì đó lại là thứ giàu có giả hiệu… họ không được gì ở đời này mà cũng chẳng được gì ở đời sau.
Cũng thế, nếu chúng ta may mắn có tiền có của, giàu có hơn người, chúng ta phải biết sử dụng cho nên cái giàu của mình. Phải biết cảm tạ Chúa, phải biết chia sẻ cho người túng thiếu, phải biết đóng góp vào những việc chung, tức là giàu của và cũng giàu lòng nữa, chứ đừng giàu của mà nghèo lòng, đó là nguy cơ mất hạnh phúc nước trời. Ngược lại, nếu chúng ta nghèo khó, chúng ta cũng phải biết lợi dụng kiếp nghèo để leo về trời. Đừng vì nghèo mà ghen tương, đố kỵ, tham lam. Và dù nghèo cũng không bao giờ lỗi đức công bằng… đó là cơ may giúp chúng ta đạt hạnh phúc nước trời.
Chúng ta hãy nhớ: Phúc hay hoạ cho người giàu cũng như người nghèo, không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình. Câu chuyện sau đây minh hoạ để chúng ta hiểu thêm điều đó. Linh mục Hattinggơ, một hôm đi dạo trên một cánh đồng, ngài gặp một em bé đi học. Ngài vừa đi với em vừa đặt nhiều câu hỏi để xem em có biết gì về giáo lý không. Ngài hỏi: “Những người giàu có được vào nước trời không?”. Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết giúp đỡ những người nghèo”. Ngài lại hỏi: “Vậy những người nghèo có được vào nước trời không?”. Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng”. Cha Hattinggơ thích nhắc lại những câu trả lời của em bé ấy, và ngài thêm rằng: “Những lời đó chứa đựng một triết lý, triết lý của Tin Mừng Phúc âm”.
Chúng ta hãy nhớ: đời này được nối tiếp bằng đời sau, và chỉ có một con đường duy nhất cho mỗi người: người giàu thì đi theo con đường của mình, người nghèo cũng đi theo con đường của mình. Cả hai cùng phải đi, cùng phải biết dùng cái giàu, cái nghèo của mình để đạt được hạnh phúc nước trời. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều hiểu rõ lời Chúa dạy để rồi dù giàu hay nghèo tất cả chúng ta cùng gặp nhau trong nước trời.
Deborab là nữ tài tử chính trong cuốn phim “Quo vadis”, nói về cuộc bắt bớ các Kitô hữu tại Rôma, dưới thời bạo vương Néron. Sau khi đóng xong một cảnh nguy hiểm, một phóng viên đã hỏi cô:
– Cô có cảm thấy sợ hãi khi bày sư tử xông vào ở đấu trường hay không?
Cô trả lời:
– Không sợ chút nào cả, bởi vì tôi đã đọc trước chuyện phim và biết chắc rằng tôi sẽ được cứu thoát.
Niềm tin cô đặt vào những người bảo vệ cô là một hình ảnh sống động cho niềm tin đặt nơi Chúa của những người nghèo khó trong Kinh Thánh. Vậy thì những người nghèo khó là ai mà lại được Ngài chúc phúc?
Bình thường chúng ta hiểu nghèo khó là túng thiếu, không có của cải vật chất, lại không phải là điều tốt lành, mà còn là một điều xấu xa, chúng ta có bổn phận phải tiêu diệt khỏi cuộc sống của mình.
Chúa Giêsu không bao giờ có ý nói rằng sự thiếu thốn vật chất là đáng được chúc phúc. Ngài không bao giờ tán đồng sự khốn khổ trong những dãy nhà ổ chuột, tồi tàn.
Theo tiếng Do Thái thì nghèo túng trước hết là thiếu thốn của cải vật chất. Nhưng nó không dừng lại ở đó, mà còn phải tiến xa hơn nữa. Vì không có của cải vật chất, nên từ ngữ này cũng ám chỉ những người không có quyền lực và ảnh hưởng, hay nói cách khác họ là những kẻ bơ vơ, cô thân cô thế. Và từ chỗ bơ vơ lạc lõng, họ thường bị áp bức và bóc lột. Và cuối cùng, đám người trên vì không có của cải, bơ vơ và bị bóc lột, nên một số đã đặt trọn niềm tín thác vào Chúa.
Thế là từ ngữ này cuối cùng được xử dụng, để chỉ những người trông cậy nơi Chúa. Và đây mới chính là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn ám chỉ trong bài giảng trên núi khi Ngài nói:
– Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó vì Nước Trời là của các ngươi.
Người nghèo khó ở đây chính là những người ý thức rằng họ không thể tìm được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất đời này. Và từ đó, họ sẽ tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi Chúa. Với họ, Chúa là tất cả, còn của cải vật chất chả là gì hết. Theo Ngài, những người này mới thực sự là kẻ được chúc phúc.
Như thế, phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, phải được hiểu như sau: Phúc cho các ngươi là những kẻ ý thức được rằng không thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải trần gian, nhưng bằng cách đặt trọn niềm phó thác nơi Chúa.
Đây cũng là đề tài được Chúa nói đến rất nhiều trong Phúc âm:
– Ai trong các ngươi nhờ âu lo mà có thể kéo dài thêm cuộc sống được ít lâu? Vậy nếu các ngươi chẳng thể thay đổi được những việc nhỏ bé thì làm sao các ngươi có thể lo liệu được những việc khác. Tiên vàn, các ngươi hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, còn những thứ khác sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vì của cải các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi cũng sẽ ở đó.
Hãy trao phó dĩ vãng cho lòng Chúa xót thương để Ngài tha thứ. Hãy trao phó hiện tại cho tình yêu của Chúa để Ngài chăm sóc và cũng hãy trao phó tương lai cho việc quan phòng của Chúa để Ngài định liệu.
Khi Gioan Tẩy giả giới thiệu Chúa Giêsu: “Kìa là Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”, Anrê và một môn đệ khác liền bỏ Gioan, chạy đến với Chúa Giêsu và thưa: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Chúa trả lời: hãy đến mà xem, và họ đã đến ở với Ngài suốt ngày hôm đó.” Ngày hôm đó họ đã hỏi Ngài những gì, và Chúa đã nói những gì với họ? Phúc Âmkhông hề nói gì cả. Nhưng phúc Âm lại nói đến hậu quả của cuộc gặp gỡ trong ngày hôm đó: Sau cuộc gặp gỡ ấy, Anrê gặp em là Phêrô liền nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”.
Việc gặp Chúa và ở với Chúa đã đưa các ông đến một thái độ dứt khoát:kể từ đó các ông đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, sống nghèo khó như Thầy. Thế là chúng ta đã tìm ra được lý do thỏa đáng cho Tám mối Phúc: Muốn sống cách triệt để những đòi hỏi của Phúc Âm, muốn cho Tám mối Phúc trở thành sự thật trong cuộc sống thì phải gặp Chúa và ở với Chúa như các Tông Đồ.
Kinh nghiệm tông đồ mục vụ của hơn 33 năm linh mục đã cho tôi có dịp tiếp xúc với nhiều kitô hữu sống đời hôn nhân, nhưng sống tinh thần Tám mối Phúc một cách rất quảng đại. Vì Phúc Âm không dành riêng cho ai cả, nhưng là dành cho tất cả mọi Kitô hữu. Tinh thần nghèo khó, lòng không dính bén của cải trần gian: “Ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian”, ngươi kitô hữu giữa đời vẫn phải sống và sống được tinh thần nghèo khó, không dính bén đó, với điều kiện là người kitô hữu gặp được Chúa và nghe Chúa nói trong Phúc Âm cũng như siêng năng ở với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể.
Có những người, biết tính toán làm ăn, trở nên giàu có. Tuy giàu có, nhưng vẫn cố gắng đem Phúc Am vào đời sống; cố gắng sống những đòi hỏi của Phúc Âm, lòng không dính bén hay đam mê của cải trần gian thì họ đâu có bị chúc dữ. Trái lại có những người nghèo đói thực sự, nhưng lòng mải mê của cải vật chất mà không nhớ gì đến bổn phận làm con Chúa, sống bất lương; tuy là nghèo thật đấy, nhưng làm sao mà có thể được chúc phúc?
Đám đông người kitô hữu hôm nay đến nhà thờ cũng giống như đám đông người Do thái ngày xưa chạy theo nghe Chúa giảng, nghe xong rồi ra về, nhưng mấy ai nghe và đi theo Chúa; mấy ai nghe và cố gắng sống những lời của Chúa? Người đạo đức thật là người nghe Lời Chúa và đưa lời Chúa vào cuộc sống.
Một cha sở nọ vừa giảng về nước Trời. Sau thánh lễ, một giáo dân đến hỏi ngài:
– Cha quên nói cho chúng con biết phải tìm nước Trời ở đâu. Vị linh mục trả lời:
– Ồ! ở gần lắm, rất dễ. Tôi biết có một bệnh nhân rất nghèo đang sống với đứa con của bà ta ở cuối đường nhà thờ. Ông hãy đến thăm bà ta với một ít tiền và một ít thức ăn và nói với bà ta: ” Đây là những gì tôi mang đến cho bà nhân danh Đức Kitô Chuá chúng ta “. Và ông nói vài lời an ủi bà trong cơn đau đớn bệnh hoạn, thì ông sẽ thấy nước Trời. Nếu ông không thấy thì tôi sẽ hoàn trả lại số tiền chi phí lại cho ông. Người kia làm những gì vị linh mục nói. Sáng hôm sau, ông đến gặp cha sở, nét mặt vui tươi, và nói: “Thưa cha, đúng thế thật! Con đã thấy Nước Trời và con đã ở đó nửa tiếng đồng hồ.”
Phúc Âm Chúa nhật VI Mùa thường năm C nhắc lại cho chúng ta nội dung giáo lý của Chúa Giêsu là giáo huấn trường tồn trong Giáo Hội.
Chúa Giêsu bấy giờ ở trên núi xuống, Người vừa qua một đêm cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, đến sáng ngày Ngài đã gọi mười hai môn đệ lại và đặt họ làm tông đồ. Bấy giờ Người xuống khỏi núi, không những có đoàn mười hai và nhiều môn đệ khác đi theo mà còn có rất đông dân chúng đang đứng chờ ở một chỗ đất rộng. Họ từ khắp nơi kéo đến như muốn được chia sẻ những gì mà Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người khi ở trên núi.
Quả vậy, thánh Matthêu nói rằng, Chúa Giêsu đã giảng dạy về “Tám mối phúc thật” khi Ngài ở trên núi, và bài giảng đó được mệnh danh là bài giảng trên núi, kê khai tám điều phúc hứa cho những người nghe Lời Chúa nên được gọi là bài giảng “Tám mối phúc thật”.
Ở đây, nơi Phúc âm thánh Luca thì chúng ta chỉ thấy có bốn điều phúc và thấy Chúa Giêsu đã tuyên bố những điều này ở một nơi đất bằng và rộng. Chắc chắn không phải Luca đã xén bớt bài giảng của Chúa Giêsu khiến “Tám mối phúc thật” chỉ còn có bốn. Chúng ta phải nói rằng, cả thánh Luca và thánh Matthêu đều đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Chúa qua trung gian một bản văn đã có trước các ngài. Bản văn này ghi bốn điều phúc cho kẻ nghèo khổ: kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ đói và kẻ bắt bớ vì đạo. Matthêu và Luca cũng chép lại cả bốn nhưng cả hai đều quảng diễn thêm. Matthêu thì phân bốn thành tám, còn Luca thì nhân hai với bốn, tức là dùng thêm hình thức tiêu cực để củng cố cho hình thức tích cực, nghĩa là sau khi nói đến bốn điều phúc, thánh sử Luca nói đến bốn điều vô phúc cho những kẻ mâu thuẫn với bốn hạng người được phúc ở trên. Bốn điều phúc được dành cho bốn hạng người: nghèo, đói, khóc lóc và bị ghét bỏ, bốn điều vô phúc thì lại đe doạ những kẻ: giàu, no, cười cợt và được tâng bốc.
Thánh sử Luca tỏ ra trung thực với truyền thống của các tiên tri trong Cựu ước, vì các ngài luôn luôn loan báo những kẻ nghèo khó sẽ được rao giảng Tin Mừng. Nay Chúa Giêsu mang Tin Mừng đến, những người có phúc nhận lãnh chính là những thành phần khó nghèo trong xã hội. Chính Người cũng đã sinh ra giữa đám người này, họ là những người đầu tiên được loan báo ơn cứu độ khi sứ thần hiện ra với các mục tử trong đêm Giáng sinh. Nhiều lần Chúa khẳng định Tin Mừng và của cải không thể đi với nhau, vì nhất thiết hoặc sẽ mê của mà bỏ Chúa, hoặc ngược lại người ta sẽ đi theo Chúa mà bỏ hết mọi sự.
Có thể nói ba mối phúc đầu làm thành một bộ và chủ yếu nhắm tới hạng người khổ sở trong xã hội mà Kinh Thánh gọi chung là những người nghèo khó. Họ sẽ được rao giảng Tin Mừng ở đời này và sẽ được bù lại ở đời sau. Nhưng khi lãnh nhận Tin Mừng họ phải cẩn thận, nếu họ bị ghét bỏ bởi danh Chúa thì họ có phúc vì họ sẽ giống các tiên tri thật, còn nếu họ được khen lao thì họ sẽ như các tiên tri giả. Người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của một trật được, thế nên phúc cho người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của họ.
Đời sống Kitô hiện nay của chúng ta đang thể hiện những lời thánh Luca đã viết và đã được sự khôn ngoan của các tiên tri ngày xưa báo trước. Về mặt xã hội, chúng ta là những thành phần khó nghèo và đang phải phấn đấu nhiều, nhưng hiện nay nhờ vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục sinh không những chúng ta được an ủi vì đang được ở trong Nước Trời. Nhưng hơn nữa chúng ta còn nắm giữ niềm tin về hạnh phúc bất diệt sau này khi những kẻ chết trong Chúa Kitô sẽ sống lại cho sự sống muôn đời. Đó là nền tảng của đức tin chúng ta, đó là nền tảng của những “Mối phúc thật” mà chúng ta tuân giữ trong cuộc sống hằng ngày.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mở đầu với đoạn sách ngôn sứ Giêrêmia, công bố án phạt những kẻ gắn chặt đời mình vào quyền lực vật chất để rồi lòng dạ xa rời Thiên Chúa. Song song đó là lời cầu chúc cho những ai ký thác mọi ước vọng của mình nơi Người. Đó là dòng văn tiêu biểu của đạo lý ngôn sứ thời Cựu ước vốn nêu bật ý niệm về đức công chính của Thiên Chúa, Đấng thật nghiêm minh, công thưởng, tội trừ.
Trong bối cảnh dân tộc Israel thời các ngôn sứ là một nước nhỏ yếu thế, non trẻ so với bao cường quốc xung quanh, luôn là món mồi bị giành giựt, xâu xé về mặt chính trị lẫn tôn giáo thì nguy cơ đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất do cha ông truyền lại để ngả theo thói tục ngoại giáo không ngừng là một ám ảnh. Lời kêu gọi của các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến phải mang một âm sắc mạnh mẽ quyết liệt nhằm khuyến thiện và răn ác.
Mặt khác, do quan niệm thực tiễn và thiên về vật chất đối với thế giới bên kia, đời sau, cách nào hơn kém là phần nối tiếp của cõi dương gian này, nên thưởng phạt cũng thi hành rất cụ thể, rất nhãn tiền. Người lành được hưởng một cuộc đời sung túc, trường tồn, trong khi kẻ ác phải đoạ đày tiêu diệt. Phải nhất thiết cầm cương nảy mực trên nhân loại, như vậy thì Thiên Chúa mới làm sáng tỏ thánh đức và uy quyền của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca muốn giới thiệu Đức Giêsu như một ngôn sứ chính hệ nối tiếp dòng đạo lý các ngôn sứ tiền bối cựu trào, bởi đó nội dung giảng dạy của Người tất yếu bao gồm chúc lành và khuyến cáo. Một dị đồng đầy ngụ ý với đoạn văn song hành thường gọi là “Tám mối phúc thật” trong Tin Mừng thánh Matthêu, đó là sự vắng mặt của những lời quở trách.
Một lần nữa, nguy cơ do môi trường ngoại giáo nơi tác giả Luca nhắm tới vẫn đe doạ cộng đoàn Kitô hữu non trẻ mỏng manh. Tuy nhiên, đạo lý về đức công chính của Thiên Chúa đã được thay thế bằng đạo lý Thiên Chúa là tình thương trong sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu. Thánh đức của Thiên Chúa từ nay sẽ rạng ngời trước thế gian, không ở án phạt nghiêm khắc mà chính là nơi lòng khoan dung tha thứ của Người, biểu hiện rõ nét, kiểm nghiệm được qua con người của Đức Giêsu, Đấng được sai đến để cứu vớt, để chữa lành và tha thứ.
An xử nếu nói theo ngôn ngữ của Tin Mừng thánh Gioan chính là do thái độ bất tín, cố chấp của con người từ chối sứ điệp tình thương Thiên Chúa. Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô cũng là giáo đoàn non trẻ giữa một thế giới chịu ảnh hưởng sâu đậm mạnh mẽ của triết lý và phong hoá ngoại giáo, thiên về duy lý và duy vật, thánh Phaolô kêu gọi Kitô hữu bám chặt vào cốt lõi đức tin của mình nơi huyền nhiệm Đức Kitô Phục sinh.
Hẳn nhiên, đây không chỉ thuần là một tín điều lý thuyết phải bảo vệ bằng luận cứ hàn lâm uyên bác, song nhất là phải minh chứng nơi nếp sống cụ thể của mỗi người, nơi từng mảng đời của những người tuyên xưng Chúa của mình đã Phục sinh, có nghĩa là huyền nhiệm Phục sinh Đức Kitô cách nào đó cũng cần tỏ hiện, tái diễn nơi sự Phục sinh những giá trị tốt đẹp. Hình ảnh thuần hậu nguyên bản buổi đầu sáng tạo, nơi con người đã được thánh tẩy với cái chết của Đức Kitô và đã được cùng sống lại với Người trong đời sống mới của Thánh Thần.
Thất bại không thể tuyên xưng niềm tin Đức Kitô Phục sinh do cuộc sống vẫn còn nô lệ cho tội lỗi và tà thần là nỗi nhục nhã của Kitô hữu, vì tự bêu rêu mình như kẻ lừa dối. Thất bại không làm sáng tỏ được thánh đức của Thiên Chúa nhân từ yêu thương do hành vi tâm tưởng còn u ám, ác ý, hận thù là nỗi đau đớn của Kitô hữu, vì tự trói cột mình vào quyền lực tử thần. Thất bại không sống trọn vẹn phẩm giá con cái ánh sáng, chân lý và tự do, quá quỵ luỵ vào vật chất, danh lợi, là gông ách nặng nề của Kitô hữu, vì tự thúc thủ dưới bạo quyền của Satan. Thất bại trong nếp sống mới của Tin Mừng, đó cũng là thất bại trong tư cách thừa kế lời chúc phúc của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi người tín hữu Kitô hãy giữ vững niềm tin của mình vào Chúa Kitô, đó là đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Giữa lúc mọi nơi trong xã hội đang đẩy mạnh chương trình “Xoá đói giảm nghèo”, đồng thời báo chí không ngớt ca ngợi những tấm lòng của những nhà hảo tâm, giàu có đã rộng tay giúp đỡ cho những người khổ đau bệnh tật, nghèo khó bất hạnh. Thế mà Tin Mừng lại đưa ra một điều dường như nghịch lý: “Phúc cho kẻ đói khát, phúc cho kẻ nghèo khổ,… và khốn cho kẻ giàu có, no đủ…”. Vậy, phải chăng những người nghèo là người hạnh phúc, còn những người giàu có sẽ là người bất hạnh? Thế thì, vấn đề được đặt ra ở đây là: ai mới thật là người hạnh phúc, và phải sống thế nào để được hạnh phúc?
Những cơ nguy của người giàu có.
Với những lời có vẻ như lời nguyền rủa: khốn cho các ngươi là những người giàu có, no đủ… Chúng ta cần hiểu, đây là một lối văn thường gặp trong Cựu ước, các lời này không phải là những lời nguyền rủa hay lên án nhưng là những lời có ý ngăn đe thương hại.
Tại sao Chúa Giêsu lại ngăn đe thương hại những người giàu có, no đủ?
Ai cũng đi tìm hạnh phúc, đó là vấn đề cơ bản của cuộc sống con người. Thế nhưng, bi kịch của con người mọi thời khi cho rằng càng có nhiều tiền của, tiện nghi, quyền lực, danh vọng thì càng được hạnh phúc. Đây cũng là bi kịch của xã hội thời Chúa Giêsu, và cũng là bi kịch cho thời đại chúng ta.
Thật vậy, trong xã hội tiêu thụ ngày nay, nghệ thuật quảng cáo đạt đến mức thặng thừa đã đẩy người tiêu thụ từ trẻ em cho đến người lớn đến với những nhu cầu vật chất giả tạo. Người ta thi nhau mua sắm, càng mua càng thấy thiếu, càng sắm càng thấy chưa đủ. Người ta trở thành nô lệ cho nhu cầu tiêu dùng của mình, nô lệ cho tiện nghi máy móc, hưởng thụ. Thử hỏi như thế thì làm sao mà có được sự tự do và hạnh phúc thật?
Cũng trong xã hội tiêu thụ này, có không ít người xem sự giàu có, thành đạt, nổi tiếng, là cứu cánh duy nhất của cuộc đời, đến nỗi họ sẵn sàng chà đạp lên tất cả đạo đức luân lý, để đạt cho kỳ được điều họ muốn. Biết bao người đã ngã gục trước đồng tiền, tiền của kiếm được cách bất chính thì cũng được sử dụng một cách bất hảo, đem đổ vào các cuộc vui chơi sa đoạ trác táng… Họ phè phỡn ăn chơi, no nê, vui thú, trong khi có biết bao người vì họ mà phải tán gia bại sản. Và bên cạnh họ, còn biết bao người đói khổ, chỉ cần một lần tiêu xài của họ cũng có thể nuôi sống biết bao người trong nhiều tháng.
Bởi đó, Chúa Giêsu đã ngăn đe những người giàu có khi họ lấy của cải vật chất làm cứu cánh thay vì chỉ là phương tiện sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Họ chỉ cậy dựa vào quyền lực trần thế như lời ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 đã cảnh báo: “Khốn cho kẻ tin tưởng vào người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ xa Chúa”.
Những cơ may của người nghèo khó.
Đối với những người nghèo khó, đói khát, thái độ của Chúa Giêsu đối với họ như thế nào? Phải chăng Chúa Giêsu đã rao giảng một điều nghịch lý khi cho đói, nghèo… là phúc?
Khi tuyên bố: phúc cho kẻ nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bách hại… Chúa Giêsu không giảng dạy một điều nghịch lý, và Ngài cũng không chủ trương bần cùng hoá thế giới này. Khi tuyên bố: phúc cho kẻ nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị bách hại; Chúa Giêsu đã xác định cho con người một bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống.
Chính mối phúc cuối cùng cho thấy chìa khoá của câu trả lời: nghèo đói, khóc lóc, bị ganh ghét, xỉ vả vì Con Người, và cũng câu này cho biết chính các ngôn sứ cũng từng bị đối xử như thế. Vậy, có thể hiểu những người nghèo đói, khóc lóc được Thiên Chúa chúc phúc ở đây chính là những người mà tiên tri Giêrêmia đã loan báo: “Phúc thay cho những người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ”.
Bởi đó, những người nghèo khó mà Tin Mừng nhắc đến hôm nay không chỉ thuần tuý là những người thiếu cơm ăn áo mặc, nhưng là những người nghèo theo nghĩa biết tín thác cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa, biết cậy dựa vào Chúa, lấy Chúa làm cứu cánh của cuộc đời mình. Như thế, họ sẽ trở thành những người có Thiên Chúa làm gia nghiệp, và họ sẽ là những người hạnh phúc thực sự, cho dẫu họ có là người nghèo đích thực.
Những cơ hội cho con người hôm nay.
Trong cuộc sống thực tại hôm nay, mỗi người đều phải vất vả với việc làm ra của cải để nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng lời Chúa hôm nay, đòi hỏi mỗi người làm sao một đàng vừa chu toàn trách nhiệm với gia đình, nhưng đàng khác vẫn sống niềm cậy trông vào Thiên Chúa.
Khi sống trọn vẹn niềm cậy trông vào Thiên Chúa, khi càng lệ thuộc vào Ngài, chúng ta càng cảm thấy tự do đối với của cải, vật chất nơi thế trần này. Khi đó, dù phải vất vả với cuộc sống, chúng ta sẽ sẵn sàng quan tâm đến những người chung quanh, nhất là những người nghèo thật sự, những người nghèo vật chất, nghèo tinh thần, nghèo học vấn… nhằm chia sẻ, những gì có thể được cho những người anh chị em cùng con một Cha trên trời.
Trong những năm qua, chúng ta thường nghe nói đến mẹ Têrêxa Calcutta, một người chỉ biết sống cho người khác: Khi còn tại thế, mẹ không thiếu tiền của, nhưng mẹ vẫn sống như một “người nghèo khó của Thiên Chúa”. Với chiếc xe hơi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tặng ở Bombay, mẹ đã bán để lấy tiền xây dựng một trung tâm lớn cho bệnh nhân phong. Với số tiền nhận từ giải Hoà Bình Gioan XXIII của Vatican, mẹ đã thiết lập một trung tâm phục hồi chức năng cho người cùi. Với số tiền nhận từ giải Nobel Hoà Bình mẹ đã xây nhà cho những người nghèo.
Mẹ Têrêxa đã tận hiến cuộc đời mình cho những người nghèo và tất cả những gì của mẹ đều thuộc về những người nghèo đói,khổ đau, vì mẹ luôn gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô, tín thác cuộc đời mẹ trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa. Mẹ đã lấy Thiên Chúa làm cứu cánh và cùng đích của cuộc đời mẹ.
Tóm lại, cho dù là người giàu sang hay người đói khổ, vẫn có thể trở thành “người nghèo của Thiên Chúa”, thành “người không vật sở hữu”, cho đi tất cả vì yêu mến và tín thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, lấy Chúa làm niềm cậy trông là niềm hạnh phúc. Xin cho mỗi chúng ta cho dẫu có là người nghèo khó, vất vả, khổ đau hay là người giàu có, biết lấy Chúa là niềm cậy trông, là niềm hạnh phúc.
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá phải tối tăm mặt mũi vì công việc. Tình cảnh trong các bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở Nữu Ước quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một tấm ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện tới các bệnh việc săn sóc, tắm rửa cho các bệnh nhân, an ủi những gia đình đang đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng nhưng sợ lây bệnh cho chính bản thân.
Tin mừng hôm nay hướng chúng ta về những người xấu số, bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành sử như các thành viên của hội thượng lưu ở Nữu Ước trong câu chuyện trên còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng Ngài lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt, cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ khốn cho người giàu có khi họ không phân định rõ ràng giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là những phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi…Đời sống họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện, nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện mà quên mất cùng đích của mình…
Dưới mắt Chúa, làm giàu một cách lương thiện không phải là tội. Tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và trao tặng cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và mắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của nó. Họ mải mê chạy theo cái bóng, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bọt xà phòng. Hạnh phúc đích thực không nằm nơi của cải hay những gì mình chiếm hữu, nhưng nằm nơi những gì mình đã trao ban. Vì thế, thánh Phaolô đã viết: Cho thì vui sướng hơn là nhận. Hạnh phúc đích thực không nằm trong những lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng nằm trong sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản.
Một tác giả có viết: trong hạnh phúc có mầm đau khổ. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu? Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu lại cho là hạnh phúc. Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực. Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bị xỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật. Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả lúc đói khát, vui cười khi rơi lệ, và hân hoan lúc bị bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm được niềm hạnh phúc Nước Trời.
Người ta thường nói “nghèo khổ”, nghĩa là cái nghèo và cái khổ luôn đi đôi với nhau. Đã nghèo thì tất nhiên phải khổ. Thế mà Chúa Giêsu lại nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo”. Hình như Chúa Giêsu muốn đảo ngược kiểu nói “nghèo khổ” thành “nghèo phúc”. Thật nghịch lý!
Nhưng chuyện nghịch lý không phải là không có trên đời. Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng, có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo. Chẳng hạn như các nhà nho cởi áo từ quan rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên. Hay như thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu, nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một huynh đoàn qui tụ những người muốn sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Quyết định sống nghèo của họ không phải do bốc đồng nhất thời, mà là kết quả của một thời gian dài suy nghĩ chọn lựa. Sự chọn lựa ngược đời của họ khiến chúng ta phải suy nghĩ vì chắc hẳn họ đã nghiệm ra có nhiều điều hay trong cái nghèo nên họ mới chọn lựa như vậy.
Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc: tri túc tiện túc, biết đủ là đủ.
Vì chỉ cần tối thiểu như thế, nên lòng họ không bị dao động vì những ham muốn có thêm. Túi tham không đáy. Lòng ham muốn sẽ không bao giờ được thoả mãn, nên cứ dao động hoài.
Không ham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên.
Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác.
Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải, nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn.
Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được chính Thiên Chúa yêu thương che chở.
Trong những ngôi nhà của người giàu, chúng ta nhận thấy thiếu một điều, thiếu sự sống và tiếng cười. Chúng ta không bao giờ thấy con trẻ chơi đùa trên bãi cỏ. Một bầu khí u buồn dường như bao quanh chúng và đó chính là sự sầu muộn của giàu có.
Một cặp vợ chồng giàu sống trong một ngôi nhà lộng lẫy. Họ có một bà giúp việc. Buổi sáng bà nấu một bữa ăn nhẹ. Buổi trưa một bữa ăn ngon và buổi tối một bữa ăn thịnh soạn cho cặp vợ chồng và những người khách lui tới. Nhiều năm trôi qua, cặp vợ chồng già đi. Vì thế, họ không tiếp đãi ai. Bữa ăn của họ gồm có trứng chiên, bánh mì và nước trà pha lạt. Họ im lặng ngồi ăn, hiếm khi nhìn nhau. Vào tối thứ bảy, bà giúp việc mời ít người bạn vào một căn phòng dưới tầng hầm. Ở đó, họ dùng một bữa cơm đạm bạc, uống một chút rượu, mở nhạc, nhảy múa và nói những câu chuyện vui đùa. Một tối nọ, đang khi những tiếng cười vang lên, thì cánh cửa mở ra. Đó là cặp vợ chồng chủ nhà. Họ nói với bà giúp việc: chúng tôi không muốn quấy rầy các bà, nhưng chỉ muốn nhìn các bà vui đùa mà thôi…Người giàu cũng khổ vì không có niềm vui, không có hạnh phúc.
Câu chuyện trên cho chúng ta một hiểu biết thấu đáo về các mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã nói. Dưới mắt thế gian, người giàu dường như được Thiên Chúa chúc lành, trong khi người nghèo dường như bị chúc dữ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói về sự nghèo khó kỳ lạ của những người sống trong sự giàu sang của thế gian và sự giàu sang kỳ lạ của những người tin tưởng vào Thiên Chúa. Người giàu có xu hướng cậy dựa vào của cải. Đối với họ, chính thế giới này mới quan trọng, còn Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi và thế giới khác thì xa xôi và mơ hồ. Trái lại, người nghèo quay về Thiên Chúa một cách tự nhiên. Như một bà cụ nghèo đã nói với một linh mục: Có một Thiên Chúa để cậy trông, há chẳng phải là một điều cao cả đó sao.
Điều đó không có nghĩa là nghèo khó là một điều tốt. Khi Chúa Giêsu nói: Phúc cho người nghèo khó và đói khát, Ngài không ban lời chúc lành cho cái nghèo xơ xác và đói lả vì đây là những điều xấu. Tuy nhiên, đối với người nghèo những nguy cơ của đời sống làm cho cái chết đến gần hơn, thì đời sau cũng đến gần hơn. Đó là lý do trong câu nói của Chúa Giêsu: Phúc cho những kẻ nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ.
Sự nghèo khó được chúc lành là sự nghèo khó của những người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa hơn là vào của cải vật chất. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thoả mãn những khát vọng của tâm hồn con người.
Chủ đề của Lời Chúa hôm nay chính là sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Thực vậy, những kẻ tin tưởng vào thế gian giống như cây gai cằn cỗi trong sa mạc, đang khi đó những người tin tưởng vào Thiên Chúa giống như cây sai trái trồng bên dòng sông nhiều nước. Tin tưởng vào Thiên Chúa là cậy trông nơi Ngài, vì Ngài là suối nguồn sự sống. Những người tin tưởng vào Thiên Chúa là những người nghèo được Thiên Chúa chúc phúc.
Khi Chúa Giêsu nói: Phúc cho những kẻ nghèo khó, Ngài đã không chúc phúc cho sự đói khát và khốn cùng. Đói khát và khốn cùng là điều xấu. Điều được chúc phúc chính là lòng cậy trông, tin tưởng vào Chúa. Những kẻ đặt sự tin tưởng của họ vào thế gian sẽ thất vọng, còn những người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị thất vọng. Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới có thể lấp đầy sự trống rỗng của cõi lòng chúng ta. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thoả mãn những khát vọng của tâm hồn chúng ta. Nhưng thường chúng ta chạy đến Thiên Chúa sau cùng, thay vì chạy đến Thiên Chúa trước tiên.
Thánh Giacôbê nói rằng những người nghèo khó đối với thế gian này sẽ được Thiên Chúa làm cho giàu có trong đức tin. Những người giàu thường có xu hướng cậy dựa vào của cải vật chất. Đối với họ, chính thế gian này mới quan trọng. Thiên Chúa không ít thì nhiều cũng thừa thãi và đời sau thì xa vời và mơ hồ. Trái lại, những người nghèo thường có xu hướng tự nhiên quay về Thiên Chúa. Đối với họ, mọi nguy cơ và khó khăn của đời sống làm cho Thiên Chúa và đời sau gần gũi và hiện thực hơn.
Sự nghèo khó ấy tự nó không phải lài điều tốt. Nhưng khi đời sống trở nên khó khăn và luôn bị đe doạ, nó sẽ trở nên phong phú hơn bởi lẽ khi chúng ta càng ít mong đợi thì những điều tốt lành của đời sống càng trở nên những ân huệ bất ngờ mà chúng ta đón nhận ví lòng biết ơn. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Ngày kia, một người nghèo đi dọc theo một con đường, tình cờ ông gặp một người ăn mày đến xin ông bố thí. Xấu hổ vì không có gì để bố thí, người nghèo đáp: Tiếc thật, nhưng tôi cũng nghèo như anh thôi. Khi nghe nói điều đó, người ăn mày nói: Cám ơn bạn, vì món quà của bạn. Không hiểu người ăn mày muốn nói gì, người nghèo hỏi lại: Tại sao anh lại cám ơn tôi? Tôi có cho anh cái gì đâu. Người ăn mày đáp: Ồ có chứ, bạn đã cho tôi sự lương thiện của bạn, sự nghèo khó của bạn và lòng tin tưởng của bạn.
Thiên Chúa không nghèo, nhưng chúng ta thì nghèo. Thế mà chúng ta lại có cái để cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể cho Ngài sự lương thiện, sự nghèo khó và lòng tin tưởng của chúng ta.
60.Những Hạnh Phúc Bất Tiện – GF
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ rồi nói:
“Phúc cho anh em những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
Vì anh em sẽ được vui cười. (Lc. 6, 20-21)
Với lý trí chúng ta rất khó hiểu về các mối hạnh phúc này. Lý trí đành chịu thua. Chúng đả đảo lý luận con người. Chúng làm ta phát điên. Nhưng chúng lại làm ta kinh ngạc và chúng ta không dám từ bỏ chúng vì nghĩ đến những bao nhiêu quả phúc chúng đã sinh ra qua những thế hệ. Những hạnh phúc theo Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều gây kinh ngạc, tuy hai Thánh có viết khác nhau, nhưng cùng một mục đích là hạnh phúc nước trời. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó, đến thái độ con tim. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến nghèo khó thật sự, nghèo khó của giai cấp xã hội chẳng có gì hết trơn hết trọi, giai cấp xã hội nghèo khó này đang qui tụ lại thành tín đồ của Tin Mừng Đức Giêsu. Thánh Mát-thêu kêu mời từ bỏ bên trong. Thánh Lu-ca kêu gọi cải tạo cơ cấu xã hội để giảm bớt những khổ đau trong xã hội.
Chính trong thảm trạng cụ thể của lịch sử mà Đức Kitô nói: “ Các bạn là những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc, bị khinh bỉ, ghen ghét, bị bắt bớ, bị nhục nhã, phúc cho các bạn. Vì nếu bây giờ các bạn chịu được như thế, ngày kia tất cả sẽ đổi lại, các bạn sẽ giầu có, no nê, vui cười, được mến chuộng trong nước Thiên Chúa”.
Có thật không hay trò đùa? Đức Kitô nói thế nào? có phải Ngài nói dỡn để cho những kẻ khốn khổ thể xác, tình cảm, tinh thần được vui chút ư? có phải Ngài là chú hề đã nói đến sự đền bù ở tương lai mơ hồ giả định ư? có phải chỉ là giấc mơ hạnh phúc có thể giúp cho người ta chịu khổ bây giờ để đè nén cho nguôi đi những đau đớn và uất ức chăng? hiểu sai lầm các mối phúc thật, như thế là độc ác và vô liêm sỉ. Đức Kitô không bao giờ phong thần đau khổ và bất hạnh. Người không ngừng làm giảm bớt nỗi đau khổ của con người suôt đời Ngài đã cứu chữa, an ủi những bệnh nhân, tật nguyền, nghèo khổ và tha thứ cho những tội nhân, giải phóng những kẻ bị ma quỷ xiềng xích. Ngài muốn chúng ta hiểu và chấp nhận thập giá như Ngài. Vì mến Chúa và yêu người. Lúc đó thập giá trở nên lời hứa thực hiện ơn cứu độ. Như vậy khác xa những thứ mỵ dân!
61.Những mối phúc và những mối hoạ đích thực – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thấy những mối phúc và hoạ đích thực bài Tin Mừng này có liên hệ đến luật nhân quả không? Bạn hiểu thế nào về luật nhân quả?
2. Nếu chỉ có đời sống trần gian này là duy nhất, thì bài Tin Mừng trên có còn đúng không? Nếu còn có đời sống vĩnh cửu nữa thì sao?
Suy tư gợi ý:
1. Luật nhân quả trong vũ trụ, trong cuộc đời trần gian
Bài Tin Mừng hôm nay nói lên tương quan nhân quả mang tính tất yếu giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai, hay giữa thời trước và thời sau. Tương quan đó diễn tiến theo những định luật cố định đã được Thiên Chúa thiết lập trong vũ trụ. Những định luật đó có thể tóm lại trong những mệnh đề sau đây: Có gieo mới có gặt; Gieo nhân nào gặt quả nấy; Gieo ít thì gặt ít, gieo nhiều thì gặt nhiều; Từ lúc gieo đến lúc gặt đòi hỏi phải có thời gian, và phải vất vả bỏ công sức ra.
2. Giải thích luật nhân quả
– Có gieo mới có gặt: Không sự việc nào xảy ra trong cuộc đời mà không có nguyên nhân. Thấy một cây rợp bóng mát bên vệ đường, không ai nghĩ rằng tự nhiên nó mọc lên, mà nghĩ rằng phải có người trồng nó. Hay ít ra là có một con chim nào đó đã gieo hạt ở đấy… Hạnh phúc hay đau khổ ta được hưởng hay phải chịu đều có nguyên nhân do chính ta – đôi khi do ai đó – tạo ra trước đó. Và những gì ta đang có hoặc đang làm đều là nguyên nhân phát sinh hiệu quả trong tương lai. Sách Giảng Viên viết: «Kẻ không gieo chẳng bao giờ gặt» (Gv 11,4).
– Gieo nhân nào gặt quả nấy: Nhìn cây cam, ta chắc chắn nó phải mọc lên từ hạt cam, không thể từ một hạt khác được. Nghĩa là thấy nhân thì biết quả, và nhìn quả thì biết nhân: «Cứ xem người ta sinh ra quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,16-18). Cũng vậy, hành động tốt ắt phải đem lại hạnh phúc, và hành động xấu ắt phải dẫn đến đau khổ. Sự tương ứng này đạo Phật gọi là «nghiệp báo». Thánh Kinh viết: «Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy» (Gl 6,7); «Gieo gió thì phải gặt bão» (Hs 8,7; x. G 4,8);
– «Gieo ít thì gặt ít, gieo nhiều thì gặt nhiều» (2Cr 9,6): Nhân và quả không chỉ tương ứng về chất, mà còn về lượng nữa. Gieo một hạt thì chỉ được một cây, gieo trăm hạt thì được cả trăm cây.
– Từ lúc gieo đến lúc gặt đòi hỏi phải có thời gian: Thời gian là một yếu tố quan trọng để hạt phát triển thành cây, và để cây ra trái. Thời gian đó lâu hay mau tuỳ từng loại cây. Cây ngô chỉ cần trồng 3 tháng là ra trái, nhưng cây sầu riêng thì phải mất 7 đến 10 năm. Không thể thúc cây mọc nhanh hơn hay giục hoa kết trái sớm hơn. Kết quả của việc lành nhiều khi phải 5, 10 năm sau mới hưởng được. Cũng như hậu quả của một hành động xấu phải 3, 4 năm hay cả chục năm sau mới thấy được. Do đó, nhiều khi phải chờ đợi kết quả, hoặc đừng tưởng sẽ tránh được hậu quả. Rất nhiều trường hợp hành động ở đời này, nhưng đến đời sau mới sinh kết quả hay hậu quả.
– … và phải vất vả bỏ công sức ra: Để cây lúa mọc lên và sinh ra hạt lúa, người nông dân phải cày bừa, gieo hạt, làm cỏ, dẫn nước, trừ sâu, bón phân, rồi gặt, đập lúa và xay lúa. Bao công lao và mồ hôi phải đổ ra: «Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần» (Ca dao). Nhưng công lao và mồ hôi ấy nếu chính đáng sẽ đổi thành vui mừng và hạnh phúc: «Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6).
Ai cũng sợ khổ và muốn được hạnh phúc. Nhưng người khôn thì tránh được khổ và tạo được hạnh phúc, còn người dại tuy muốn tránh khổ nhưng vẫn vướng đau khổ và không tìm thấy hạnh phúc. Vì «người khôn sợ nhân, người dại sợ quả». Muốn tránh khổ thì phải tránh từ nhân. Cứ tạo nhân khổ thì khi quả khổ đến làm sao tránh được? Muốn được phúc thì phải tạo phúc từ nhân. Nếu tạo nhân phúc thì dù chẳng mong cầu, quả phúc vẫn đến.
3. Luật nhân quả với các mối phúc thật và các mối hoạ thật
Chúng ta dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay khi đối chiếu nó với luật nhân quả và niềm tin vào đời sống vĩnh cửu sau cuộc sống ngắn ngủi này. Minh hoạ sau đây cũng giúp ta hiểu đoạn Tin Mừng trên sâu xa hơn.
Trên thế giới, có rất nhiều người đang phải sống trong những chế độ độc tài, thiếu nhân quyền và tự do cần thiết. Họ cảm thấy khó sống nên quyết tâm đi tị nạn, nghĩa là di chuyển với bất cứ giá nào đến những vùng đất tự do để cuộc sống thoải mái hơn. Những người có ý định đi tị nạn này có hai cách suy nghĩ và hai cách sống khi còn ở vùng đất cũ mà họ muốn rời bỏ:
Cách 1: Từ khi có ý định đi tị nạn, họ coi cuộc sống của họ tại vùng đất họ đang sống như cuộc sống tạm bợ, và coi cuộc sống họ sẽ sống tại vùng đất tự do mới là cuộc sống đích thực và lâu dài của họ. Vì thế, nhiều người đến tuổi lập gia đình đã không dấn thân vào tình yêu để không bị cản trở cho việc dời đổi chỗ ở. Nhiều người bị thiếu thốn nghèo khổ nhưng đã từ chối những chỗ làm có lương bổng rất lớn để khỏi bị ràng buộc vào hợp đồng khi cần phải ra đi. Nhiều người rất giàu có, thay vì mua sắm nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ sang trọng như những người giàu có khác, thì lại chấp nhận sống nghèo khổ để có thể dành tiền hầu có thể sử dụng trong cuộc sống mới. Tóm lại, tại vùng đất cũ, họ sống một cách đơn sơ, khó nghèo, làm những nghề tạm bợ để «lấy ngắn nuôi dài», tạm ngưng tiến hành tất cả những chuyện quan trọng trong cuộc đời. Tất cả đều để chuẩn bị cho cuộc sống sau này tại vùng đất tự do.
Cách 2: Mặc dù có ý định đi tị nạn, nhưng những người theo cách này chẳng chuẩn bị gì cho cuộc sống sắp tới. Khi còn sống tại vùng đất mà họ sẽ rời bỏ, họ sống như thể họ sẽ sống ở đấy vĩnh viễn. Vì thế, họ mua sắm nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ như bao người không có ý định tị nạn. Họ tiếp tục tính toán những chuyện lâu dài như dấn thân vào tình yêu hôn nhân, hợp đồng làm ăn lâu dài với nhiều người, v.v… Đến khi được phép ra đi, họ không kịp bán ruộng vườn, nhà cửa, xe cộ, nên phải bỏ lại tất cả. Tình yêu hôn nhân của họ đang tiến hành bỗng dở dang: đi thì đành phải chia tay với người yêu và thành kẻ bội tình, mà muốn chung tình thì phải bỏ ý định đi tị nạn… Các hợp đồng lâu dài bỗng nhiên bị cắt ngang và phải bồi thường (nếu không trả trước khi ra đi thì khi qua vùng đất mới cũng phải trả)… Vì thế, khi đến vùng đất tự do, họ không còn gì, mà nợ nần thì chồng chất.
Giữa hai cách ấy, cách nào khôn ngoan hơn? Khi còn ở vùng đất cũ, những người theo cách 1 phải sống thiếu thốn, khó khăn, đang khi những người theo cách 2 thì sống rất đầy đủ, ung dung. Nhưng khi sang đến vùng đất mới thì ngược lại, người theo cách 1 có một tương lai tươi sáng, còn người theo cách 2 có một tương lai đen tối. Vậy thì sự khó khăn thiếu thốn của những người theo cách 1 ở vùng đất cũ là hoạ hay là phúc? Và sự đầy đủ, ung dung của những người theo cách 2 ở vùng đất cũ là phúc hay là hoạ?
Cuộc đời ta đang sống tại trần gian – mà theo Thánh Kinh thì thủ lãnh của nó là ma quỉ (x. Ga 12,31; 14,30; 16,11; Ep 2,2) – đầy những bất trắc, đau khổ và đầy hạn chế… có khác gì cuộc sống khó khăn dưới một chế độ độc tài. Nhưng cũng theo Thánh Kinh, chúng ta còn có một cuộc sống khác lâu dài hơn, hạnh phúc hơn, tự do hơn rất nhiều ở bên kia cõi chết; đó là đời sau hay cuộc sống vĩnh cửu. Cuộc sống cơ cực đời này kéo dài nhiều lắm khoảng 100 năm, còn cuộc sống hạnh phúc kia kéo dài vô tận. Người Kitô hữu tuy sống ở trần gian, tuy tích cực xây dựng cuộc sống ở trần gian, nhưng tâm hồn luôn ngưỡng vọng về cuộc sống hạnh phúc đời sau. Có hai cách sống ở đời này, tương tự như cách 1 và 2 trong minh hoạ trên.
Mỗi người chúng ta đang sống theo cách nào? Những gì bất lợi cho cuộc sống đời sau, dù nó có đem lại lợi lộc vô vàn ở đời này, cũng là những mối hoạ. Còn những gì thuận lợi cho cuộc sống đời sau, dù có đem lại nhiều bất lợi cho cuộc sống đời này, cũng là những mối phúc. Đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ dễ hiểu được đâu là những mối phúc đích thực, đâu là những mối hoạ đích thực khi ở trần gian này. Nhờ đó ta mới hiểu được những câu nói có vẻ như nghịch lý của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng trên.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con biết luật nhân quả là gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Nếu con gieo nhân thuộc trần gian, con sẽ gặt được những gì thuộc trần gian. Nếu con gieo nhân thuộc vĩnh cửu, con sẽ gặt được những gì thuộc vĩnh cửu. Khi còn ở trần gian, nếu con chỉ gieo nhân thuộc trần gian, thì khi bước sang đời sống vĩnh cửu, con hoàn toàn trắng tay. Nếu ở đời này, con gieo nhân cho đời sau, thì đời sau con sẽ giàu có, nhưng đời này con phải chấp nhận cuộc sống chỉ tạm đủ với những gì tình thương quan phòng của Cha ban cho con. Xin cho con nhận ra đâu là cách gieo nhân khôn ngoan nhất, đem lại lợi ích cho con nhất.
62.Phúc cho kẻ nghèo khó – Lm. Đan Vinh
Học sống Lời Chúa
1) Lời Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”
2) Câu chuyện: Chiếc áo lót của một người chăn chiên
Một ông vua nọ có đủ mọi thứ trên đời: Nào là cung điện nguy nga tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, đủ thứ cao lương mỹ vị; Lại cũng có cả một đoàn cung tần mỹ nữ phục vụ ngày đêm…Thế mà nhà vua vẫn không cảm thấy được hạnh phúc. Ngài buồn phiền không ăn uống bình thường được nên đã phát bệnh. Một danh y được mời đến bắt mạch và bốc thuốc chữa bệnh cho nhà vua. Sau khi thăm mạch, vị danh y cho biết đức vua bị tâm bệnh, không cần dùng thuốc, chỉ cần nhà vua mặc được chiếc áo lót của một ai đó đang sống sung sướng hạnh phúc, là đủ để khỏi bệnh. Quân lính được sai đi khắp nơi tìm kiếm con người hạnh phúc nhất để mượn chiếc áo lót mang về cho nhà vua mặc và chữa bệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không tìm ra ai là người thực sự hạnh phúc. Người được hạnh phúc thoả mãn về điều này thì lại bất hạnh về điều kia; người được no đủ cơm áo vật chất thì lại bị đau khổ dằn vặt trong tâm…Rồi đến một hôm, khi đoàn người tìm kiếm sắp nản lòng thất vọng, thì đột nhiên họ nghe tiếng hát của một anh chàng chăn chiên rất vui vẻ. Anh ta ca hát say sưa với nét mặt sung sướng hạnh phúc. Chắc hẳn đây chính là con người hạnh phúc nhất trên đời, mà họ đang ra sức tìm kiếm. Đám quân lính liền đến bên hỏi thăm anh chàng chăn chiên và được anh thừa nhận luôn cảm thấy mình được sung sướng hạnh phúc. Toán lính liền xông vào lột chiếc áo khoác sờn rách cũ kỹ của người chăn chiên để tìm lấy chiếc áo lót đem về cho nhà vua mặc. Thế nhưng thật bất ngờ: Anh chàng chăn chiên này nghèo quá đến nỗi ngoài chiếc áo khoác đang mặc, trên người anh ta chẳng có một chiếc áo nào cả!
3) Suy niệm:
+ Cái chết của công nương Dai-nơ (Diana) bên nước Anh làm cho trái tim hàng triệu người trên thế giới xúc động. Người ta thương tiếc bà không phải vì bà có nét mặt khả ái xinh đẹp, nhân từ, mà còn vì bà chưa kịp được hưởng một chút hạnh phúc mong manh bên người bạn trai sắp làm chồng của bà. Hạnh phúc là niềm khao khát của con người. Người ta sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Thiên Chúa muốn cho con cái loài người được hạnh phúc.
+ Một em thiếu nhi lượm được tiền mà đem nộp cho công an để trả lại cho người đánh rơi; Một giáo viên nghèo nhưng vẫn theo đuổi nghề giáo, đào tạo những công dân tốt cho xã hội; Một cô gái trẻ đẹp sẵn sàng bỏ nghề thư ký riêng với mức thu nhập hằng tháng khá cao, để tránh vướng mắc vào mối tình vụng trộm với ông giám đốc; Một anh công an dám từ chối một số tiền hối lộ lớn lao…Những người này đang thực hành sống theo mối phúc thật trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”.
+ Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ sự giàu sang phú quý, từ danh thơm tiếng tốt, từ quyền cao chức trọng…Nhưng Đức Giêsu lại có một kiểu đánh giá riêng: Người chúc phúc cho những kẻ nghèo hèn! Tuy vậy, Người không đề cao sự bần cùng, vì: “Bần cùng sinh đạo tặc!”.
+ Đức Giêsu đã sống các mối phúc: Người chọn làm nghề thợ mộc nghèo hèn hằng ngày phải lao động kiếm sống; Người đã từng cảm nghiệm sự đói khát trong thời gian ăn chay 40 đêm ngày; Người từng nhỏ lệ khóc thương thành Giêrusalem sắp bị tàn phá; Trong cuộc khổ nạn, Người chấp nhận đau khổ: chịu sỉ nhục, bị đánh đòn và chịu đóng đanh vào thập giá…Nhưng Đức Giêsu luôn được hạnh phúc vì đã vâng phục thánh ý Chúa Cha…Tóm lại, Đức Giêsu đã tự nguyện sống khó nghèo về vật chất, là để giúp loài người chúng ta trở nên giàu có về tinh thần.
+ Hôm nay Người muốn chúng ta thay Người để đi thăm và chia sẻ một món quà cho những người nghèo đang nằm la liệt tại các bệnh viện, cho những trẻ em đường phố…Người muốn chúng ta xoá nghèo về kiến thức, vì bệnh tật yếu đau và vì thiếu niềm vui…sự no đủ và niềm vui ấy phải được bắt đầu ngay từ đời này. Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô: “Nguồn vốn giàu sang phú quý, nhưng đã hoá nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (x. 2 Cr 8,9).
4) Thảo luận: 1) Tiền bạc có giá trị thế nào? Tại sao Đức Giêsu lại dạy rằng: “Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời!”. 2) Phải chăng Chúa coi sự nghèo khó bần cùng là điều tốt và đáng được chúc phúc? Ta phải hiểu câu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” thế nào cho đúng ý Chúa? 3) Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần xoá đói giảm nghèo trong môi trường chung quanh chúng ta: Giúp mọi người đều được ăn no mặc ấm, giúp dẫn đưa trẻ em thất học đến trường, giúp các bệnh nhân đau ốm được có đủ phương tiện chữa bệnh cách hữu hiệu…?
Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, Sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết hay sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh dể, ôi thật là bị thiệt thòi đủ thứ! Chúa chọn cảnh nghèo như thế làm chi vậy? Nếu không phải là Chúa, thì thế nào người ta cũng chê Chúa khờ dại! Nhưng lạy Chúa, dần dần con đã hiểu được rằng: Chỉ có Chúa là Đấng thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám dại khờ như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là nguồn động viên an ủi lớn lao cho con. Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ thân phận nghèo hèn của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách sống với người nghèo, sống trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo. Nhìn vào cuộc đời của Chúa, con thấy Chúa còn nghèo khổ hơn con. Nhưng nhờ đó con cảm thấy Chúa thật gần gũi với con như một người bạn, như một người Cha. Không ai dám chia sẻ đời nghèo của con để sống gần con như Chúa. Có Chúa ở bên, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi. Xin cho con từ bỏ ý riêng của con để hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xin cho con nhìn thấy Chúa Giêsu đang hiện thân nơi những người đau khổ, nghèo đói và bất hạnh. Con hiểu rằng cả những người giàu có cũng vẫn là người nghèo, vì họ cũng đang cần sự giúp đỡ để tìm ra cho cuộc đời mình một ý nghĩa. Con cảm nhận rằng chính con cũng là một người nghèo, vì con cũng cần sự giúp đỡ của tha nhân: Cần một nụ cười cảm thông, một ánh mắt an ủi, một lời động viên nâng đỡ.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con biết dâng lời cảm tạ Chúa, vì Người đã dựng nên chúng con trong tình trạng nghèo khó, nghĩa là luôn cần được cha mẹ và người khác giúp đỡ. Qua đó, Chúa mời gọi chúng con cũng phải mở rộng vòng tay để chia sẻ tình thương cho tha nhân. Xin Mẹ giúp chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa cũng mang thân phận nghèo hèn với chúng con, cũng cần được chúng con cộng tác giúp đỡ, để hoàn tất chương trình cứu độ mà Chúa đã khởi sự cách đây 2000 năm. Xin cho chúng con biết cảm tạ những ơn lành Người đã thương ban, để chúng con cũng biết quảng đại chia sẻ tình thương cho những người nghèo đói bất hạnh chung quanh chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
63.Chúa hứa ban hạnh phúc – Lm. Trần Bình Trọng
Thế kỷ ta đang sống là một thế kỷ tiến bộ lạ lùng trong mọi cố gắng của loài người. Loài người đã khống chế được không gian và thời gian: du lịch mau lẹ hơn tiếng động. Loài người còn được hưởng những dịch vụ nhanh chóng bằng cách chỉ cần bấm nút là có món hàng mình muốn, và có thể nói với người ở xa cả hàng ngàn dậm. Muốn mua bao thuốc lá, bỏ tiền vào máy, bấm nút, có liền; muốn mua lon nước ngọt cũng vậy. Người ta có thể thu gọn cả thế giới vào trong cái màn ảnh vô tuyến truyền hình trong phòng. Loài người đã lên cung trăng, đã đi vào thế giới nguyên tử, đã khám phá ra những bí mật của bệnh truyền sinh. Loài người tiến quá lẹ đến nỗi một món hàng sản xuất vừa ra khỏi khuôn đã trở thành lỗi thời. Chẳng hạn như đồ vi tính, vừa mua máy này, đã nghe có máy tốt hơn sắp ra.
Tất cả những tiến bộ đó có được là nhờ sự hiểu biết về khoa học của loài người. Du lịch, truyền thông, y tế, canh nông, giải trí, hầu như tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống con người đều được phát triển nhờ khoa học kỹ thuật. Khi gặp nguy hiểm, người ta xây hầm trú ẩn, hay có quân đội bảo vệ an ninh. Người ta lái xe có thắt giây an toàn. Người ta giữ giấy tờ quan trọng trong hộp an toàn trong nhà băng. Người ta mua bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm sinh mạng, đóng tiền an sinh xã hội cho tuổi già…
Tuy nhiên mặc dầu với những tiến bộ về khoa học, cũng như những tiện ích người ta được hưởng dùng, người ta vẫn không có hạnh phúc thực sự ở đời này. Vậy làm sao để giải quyết vấn đề thiếu hạnh phúc? Tiên tri I-sai-a trong bài trích sách Cựu ước hôm nay cho ta một giải pháp: Phúc cho người đặt tin tưởng vào Chúa vì có Chúa làm nơi nương thân (Gr 17: 7). Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô vọng thêm: Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Ki-tô chỉ ở đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trần gian (1Cr: 15:19). Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu chúc phúc cho những người mà trước mặt người đời là những người đáng thương hại: người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét. Chúa bảo ta những người được Chúa chúc phúc không phải là những người được người đời ưu đãi. Những đau khổ và bất hạnh của những người bất hạnh trước mặt thế gian, không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi họ.
Tại sao những người này được chúc phúc và làm sao để được Chúa chúc phúc? Thường những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét không có gì để bám víu, không có tài năng để làm nên sự nghiệp, không có thế lực để tự bênh đỡ mình, không có bạn bè để nương tựa. Trong trường hợp này họ có thể nảy sinh ra hai phản ứng khác nhau. Phản ứng thứ nhất là họ có thể trở nên thất vọng, sinh ra hận Chúa và hận đời nên dễ làm càn. Cái phản ứng thứ hai là họ tìm đến cậy trông, nương tựa vào Chúa khi không còn gì để bám víu và nương tựa. Họ ý thức về sự hiện diện của Chúa trong đời sống. Và ý thức về sự hiện diện của Chúa là dấu hiệu sơ khởi được Chúa chúc phúc. Khi ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời sống, họ nảy sinh ra cái lòng kính sợ Chúa, không dám làm mất lòng Chúa. Họ cũng nảy sinh ra cái lòng cậy trông vào quyền năng Chúa, tin rằng Chúa sẽ bênh đỡ họ, ở bên họ và trợ giúp họ. Họ tin rằng Chúa sẽ bù đắp cho họ những thiếu sót của họ về của cải, bạn bè, và tài năng mà họ không có, nếu không được ở đời này, thì đời sau họ sẽ được bù đắp. Khi mà cái cùng đích, cái chủ thể, cái lẽ sống của họ là Chúa, thì mặc dù họ không có của cải, bạn hữu, quyền thế, sự nghiệp, họ vẫn không bị sụp ngã, thất vọng, nhưng vẫn còn gì để bám víu. Và cái nơi họ nương tựa bám víu là chính Chúa. Và đó là hạnh phúc của họ.
Một bé gái đi học ngày đầu tiên. Khi nó trở về nhà và bố nó hỏi rằng, “Hôm nay con học được những gì?” Đứa bé trả lời, “Con làm những gì mà những đứa khác làm.” “Thế con làm cái gì?” bố nó hỏi lại. “Thì chúng nó khóc nhè, khóc nhiều lắm!” Tôi cho rằng nếu chúng ta làm những gì mà nhiều người khác làm, thì chúng ta sẽ là những con người đang khóc. Chúng ta thường thấy rằng những gì đang xảy ra trên thế giới và trong cuộc sống cá nhân của mỗi người đi ngược lại với những gì Thiên Chúa đã thể hiện nơi Chúa Giêsu. Chúng ta phải là đoàn người của niềm vui và hy vọng. Đó là một điều vĩ đại mà chúng ta cần phải tụ tập và lắng nghe lời Chúa lập đi lập lại để giúp chúng ta có thể đứng vững sau những công việc vất vả đã lôi chúng ta xuống. Đây là chân lý của Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô vàn.
Tuy nhiên đó chỉ mới có một nửa của câu chuyện vĩ đại. Giây phút mà các bạn nghe Tin Mừng, lắng nghe với tất cả tâm tình, các bạn sẽ tự hỏi mình, “Tôi cần phải làm gì để đáp lại lời mời gọi đó? Tôi có thể làm gì để thực hiện những điều đó trong cuộc sống của tôi? Làm sao để cho những lời đó trở thành của tôi?”
Bài Giảng Trên Núi, từ đầu cho đến cuối, là những lời chỉ dẫn. Chính Chúa Giêsu đã cho rằng các bạn đã nghe Tin Mừng của Ngài và các bạn muốn đáp lại. Bài giảng trên núi bắt đầu bằng những mối phúc, “Phúc cho ai…” Chữ Phúc tiếng Anh là “Blessed”, có nghĩa là “đầy đủ”, “hoàn hảo”, “trọn vẹn.” Một người mà được chúc phúc thì có nghĩa là cuộc sống của họ bình an hạnh phúc. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu muốn đề cập đến trong các mối phúc. Thật là tốt lành khi bạn được chúc phúc. Bạn sẽ trọn vẹn và đầy đủ biết bao nếu bạn đáp lại những điều mà Ngài dạy dỗ chúng ta.
Đọc các mối phúc trong Bài Giảng Trên Núi thì giống như là chúng ta mở một thùng quà có nhiều cái ngạc nhiên. Cái ngạc nhiên đầu tiên chính là khi Chúa Giêsu nói rằng phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó. Khi đề cập đến sự khó nghèo thì đó là một vấn đề, bởi vì chúng ta thường làm tất cả những gì có thể để tránh nghèo khó. Chúng ta không ai muốn nghèo cả. Như một người đã từng nói, “Suốt cuộc đời của tôi, nghèo có, giàu có, nhưng tôi nói thiệt, giàu thì tốt hơn.” Ở trong tận thâm sâu chúng ta vẫn thường nghĩ như vậy. Vấn đề được đặt cho chúng ta đó là trong tiếng Hy lạp, tiếng mà Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả sự khó nghèo không phải là chữ nói đến sự thiếu thốn, nhưng mà có nghĩa là nghèo cùng cực. Và chúng ta phải đương đầu với một vấn đề. Bài giảng trên núi bắt đầu bằng cái mối phúc khó nghèo. Khi chúng ta so sánh bản văn của Thánh Luca hôm nay với bản văn của Thánh Matthêu, thì vấn đề khó nghèo được rõ nghĩa hơn. Chúa Giêsu có ý muốn nói với chúng ta rằng khi dùng của cải, chúng ta không được cậy dựa vào chúng, nhưng phải biết rằng chúng từ Thiên Chúa mà đến. Và “Phúc cho ai” nhận biết rằng họ thật khó nghèo khi họ không có Chúa ở trong lòng; khi họ nhận ra sự trống vắng trong nội tâm và biết cậy trông vào Chúa.
Có lẽ nhiều lần chúng ta đã nghe những lời nói trên, thế nhưng đã có bao lần chúng ta để ý và đem ra thực hành trong cuộc sống. Đó là một sự mâu thuẫn nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ về nó. Chúng ta những người biết hãnh diện về cái ý tưởng ‘tự mình làm nên mình’ và ‘tự lập’. Khi Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chúng ta cần phải khó nghèo, sự thất vọng và sự trống vắng trong con người của chúng ta nói với chúng ta rằng, “Không, tôi không thể nào làm như vậy được. Tôi đã không được nuôi lớn bằng kiểu cách như vậy. Tôi đã không được qui định như thế.” Chúng ta có thể nhìn thấy điều này trong hai câu thơ sau đây: “Tôi là chủ vận mạng của tôi. Tôi là thủ lĩnh linh hồn của tôi (William B. Henley). “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Một người nói, “Tôi quá đầy đủ”, đó là kiêu ngạo. Người kia nói, “Tôi hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa”, và đó là cái phúc. Đây là một thách đố cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn nên hoàn thiện thì phải biết từ bỏ tất cả con người của mình và phó thác cuộc đời mình cho Ngài. Sự viên mãn của cuộc sống được bắt đầu khi chúng ta nói với Chúa, “Lạy Chúa, con đã đến chỗ cùng cực.” Thật là phúc cho ai biết sống khó nghèo trong tâm hồn. Đó là cái chìa khoá, mối phúc thứ nhất, trong Bài Giảng Trên Núi. Nếu các bạn không biết đón nhận mối phúc thứ nhất này, thì các bạn sẽ không có thể nào hiểu nổi những mối phúc khác.
Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã ban bố cho chúng ta chương trình của đời sống Kitô hữu. Chương trình này được dựa trên tiền đề là chúng ta phải biết cậy trông phó thác cho Chúa, không phải chỉ là cuộc sống Ngài đã ban cho chúng ta, nhưng còn là tất cả những lời chỉ dẫn mà chúng ta cần phải thi hành. Đó là một điều dễ nói, nhưng khó chấp nhận. Bản tính tự nhiên của con người thì khó mà chấp nhận cái chương trình sống mà phải phó thác cho Đấng Toàn Năng. Chúng ta không thể nào thi hành được những việc này nếu chúng ta không có tình yêu của Chúa ở trong tâm hồn.
Tuy nhiên, đó không phải là một sự đòi hỏi của đức tin mù quáng và vâng lời trọn hảo. Đó là tại sao mà Phúc Âm là Tin Mừng. Thiên Chúa mạc khải Ngài qua Chúa Giêsu Kitô, không phải là một con người với một cái gậy lớn, nhưng là một người với một trái tim lớn. Thiên Chúa không chỉ kêu mời chúng ta tin tưởng vào Ngài và cậy dựa vào Ngài và chấm hết. Ngài còn muốn chúng ta tin tưởng Ngài và cậy trông Ngài bởi vì Ngài yêu thương chúng ta, Ngài biết điều gì tốt cho chúng ta.
1. Tin Mừng hôm nay nói về hạnh phúc. Trong khi Thánh Mátthêô ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời và điều đáng chúng ta lưu ý là ngài còn kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những người bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
Vâng, hạnh phúc là mối bận tâm sâu thẳm nhất của con người. Nhưng làm sao để có hạnh phúc thì điều đó không phải dễ trả lời.
VuaAbder Rahman đệ tam của nước Tây Ban Nha thuở xưa là một người nổi tiếng thông thái, đã thâu tóm được rất nhiều quyền lực trong tay của mình, đã biến đất nước Tây Ban Nha thành một trung tâm khoa học của Âu châu vào thế kỷ thứ 10. Giỏi như thế, tài như vậy, mà vào những ngày cuối đời đã phải thốt lên rằng:
– Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã trải qua nhiều kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.
Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hưởng được có 14 ngày hạnh phúc! Sao mà xót xa quá!
2. Vậy thì hạnh phúc ở đâu?
Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do Thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại Đền thờ đức bà ở Paris, ngài nói:
– Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp… Ôi lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy bây giờ ở đâu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không cho chúng ta biết địa chỉ của hạnh phúc, nhưng Chúa chỉ cho con người con đường để có thể có hạnh phúc.
Đây là lời của mẹ Têrêsa: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật trong cuộc tình với Thiên Chúa: có niềm vui khi yêu thương Thiên Chúa, có hạnh phúc lớn lao khi yêu thương Ngài. Nhiều người nghĩ, nhất là ở Tây Phương, là tiền của sẽ mang lại hạnh phúc. Tôi nghĩ khi giàu sang bạn khó có hạnh phúc hơn vì bạn khó có thể tìm thấy Thiên Chúa: bạn có quá nhiều điều để lo lắng”.
Mẹ nói tiếp: “Chúng ta không cần tìm kiếm hạnh phúc: nếu chúng ta yêu thương người khác chúng ta sẽ được hạnh phúc. Ðó là quà tặng của Thiên Chúa”.
Đây là tâm sự của một người đã cố gắng sống như Chúa: “Chúa ơi, sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao? Vừa túng thiếu vừa vất vả nhọc nhằn, vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại. Nhưng dần dần con đã hiểu: chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và yêu thương vô cùng mới dám dại như thế. Thật vậy, việc Chúa chọn thân phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn lao cho con.
Lạy Chúa Giêsu,
Đọc trong Tin Mừng, chúng con chẳng thấy khi nào Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa luôn hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu, chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy.
Amen. (Rabboni)
66.Phúc cho ai đặt niềm tin nơi Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 6:17.20-26 Phúc cho ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Họ sẽ được hạnh phúc và sẽ gặp may mắn. Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ.
Chúa Giêsu chúc phúc cho chúng ta, những người muốn đi con đường tiến vào Nước Trời, họ sẽ được hạnh phúc đích thực, đó là ơn cứu độ, là chính Thiên Chúa, được Nước Trời làm gia nghiệp không hề mất. Con đường tiến vào Nước trời là con đường Thập Giá, chỉ qua Thập Giá mới tìm được vinh quang và hạnh phúc đích thật, đó cũng chính là kinh nghiệm quý báu Chúa Giêsu truyền lại cho chúng ta. Con đường ấy là con đường hẹp nhưng nó mở rộng ra cho tất cả mọi người.
Phúc cho ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Họ sẽ được hạnh phúc và sẽ gặp may mắn. Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ. Chúng ta đang sống trong xã hội mà các giá trị đều đặt trong các kỷ lục thế giới. Đọc trong quyển Guiness Book of World Records, ta đọc thấy giá trị cuộc sống được đánh giá qua các môn thể thao, khoa học, kỹ thuật và phát minh. Mọi giá trị trần thế như sự phát triển, giàu sang, các cổ phần được mọi người chú ý qua truyền thanh, truyền hình, sách báo hay mạng lưới.
Qua đó, Chúa Giêsu cũng muốn dạy cho chúng ta biết: hạnh phúc đích thực đang ở trong tầm tay của chúng ta. “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, không có nghĩa là ta tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Chúa Giêsu đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn, và đã chết trần trụi trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ, hạnh phúc đời đời cho chúng ta. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói khát, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thoả”, đó là một sự đảo lộn của những hoàn cảnh trong Nước Chúa, được tinh thần hoá mối phúc những ai đói khát sự công chính.
Và rồi ta thấy cụ già Simêon, Thánh Giuse là những người có cách hành xử luôn luôn phù hợp với ý của Thiên Chúa, đó là lý tưởng hoàn thiện của một người đạo hạnh nhắm đến. Đức công chính này diễn tả sự thánh thiện của một Kitô hữu, vượt qua sự công chính của lề luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người biệt phái, thì sẽ chẳng vào được Nước Trời” (Mt 5,20).
Những ai đạt được sự công chính này, thì tinh thần sẽ được mãn nguyện. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc lóc, vì anh em sẽ được vui cười”, đây là mối phúc mâu thuẫn nhất trong các mối phúc, nhưng có thể nó mang tính Messia nhất: Trải qua tất cả những gian nan thử thách, dân Israel luôn trông chờ được Thiên Chúa ủi an, họ trông chờ một Đấng Messia phải đến, đó là niềm an ủi của Israel, cụ già Simêon cũng trông chờ niềm an ủi ấy của Israel.
Chúa nói rằng: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó. Ai trong chúng ta cũng sợ cái nghèo, cái khổ. Nhiều người coi sự nghèo khó là bất hạnh. Nên ai ai cũng cố gắng kiếm tiền càng nhiều càng tốt. Chúng ta lo làm lụng để có của ăn của để và một chút vốn liếng phòng thân. Như thánh Phaolô nhắc nhở: Nếu ai không muốn làm, thì đừng có ăn. Chúng ta phải làm nhiều để trả các món nợ. Đúng lắm chứ! Nhưng Chúa Giêsu lại nhắc rằng: Các con chớ áy náy lo lắng các con sẽ ăn gì mặc gì. Cha các con biết rõ. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và người sẽ ban thêm cho.
Chúng ta có tiền chúng ta vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. So với các nhà tỷ phú, triệu phú, chúng ta chẳng là gì. Bao nhiêu mới gọi là giầu, thiếu bao nhiêu mới gọi là người nghèo. Có người nghèo của cải nhưng giầu lòng như bà góa bỏ tiền vào thùng khấn. Sống tinh thần nghèo khó sẽ giúp chúng ta trút bỏ được những bận vướng của trần gian.
Chúa còn chúc phúc cho những người phải khóc lóc và bị người ta thù ghét vì danh Chúa. Nghèo về vật chất, đôi khi chúng ta còn có thể phấn đấu và vượt qua. Khi phải khóc lóc vì vu oan giáng họa, bị thù ghét và phỉ báng, tâm hồn chúng ta mới thấy khổ não và buồn phiền. Hãy đến với Chúa, Chúa hứa sẽ bù đắp trong hân hoan và reo mừng.
Chúa Giêsu là Đấng an ủi những người nghèo khó, đau khổ, bệnh tật. Chính Ngài đã hứa: “Tất cả những ai vất vả, mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu giúp chúng ta vượt qua đau khổ và biến nó thành nguồn mạch của niềm vui trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3). “Phúc thay cho anh em khi vì con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị khai trừ như đồ xấu xa…”. Như thế, mối phúc thứ nhất và thứ tám loan báo cho chúng ta Nước Trời đã hiện diện rồi “Vì Nước Trời là của họ”. Sáu mối phúc kia chỉ còn là lời hứa: “Vì họ sẽ được…”, đó là tính chất cánh chung của Nước Trời: “Phần thưởng lớn lao dành cho họ là ở trên Trời” (Mt 5,12) mà chỉ có Đức Giêsu mới có thể mang đến, đưa họ vào trong thực tại của Chúa Cha ở trên Trời, đó là hạnh phúc của người con chí ái của Thiên Chúa. “Nhưng khốn cho các ngươi” là những kẻ giàu có, no nê, vui cười, và được mọi người ca tụng, là những con người nổi tiếng, nhưng Thiên Chúa đang thương tiếc cho họ với cách nói: “khốn cho các ngươi…”.
Điều này Chúa Giêsu có ý cảnh giác chúng ta: giàu có nhưng tham lam, ích kỷ là cái giàu vô phúc, no nê để nuông chiều xác thịt, mù quáng trước tiếng gọi thiêng liêng thì đó là sự no nê bất hạnh, vui cười mà xao lãng việc đạo đức, những bổn phận của đời sống siêu nhiên, chuẩn bị cho đời sống vĩnh hằng, thì đó là vui cười bất hạnh, được mọi người ca tụng cũng không chắc là được hạnh phúc, vì lòng con người thay đổi, nay hoan hô mai đả đảo cách dễ dàng, hơn nữa, cứ mải miết cho người ta ca tụng là làm nô lệ cho danh vọng, và sẽ sao lãng việc làm vinh danh Thiên Chúa, là bổn phận làm người và làm con Chúa. Khi chê trách sự giàu có, vui cười v.v. Chúa Giêsu có ý chê trách thái độ sống của họ theo kiểu thế gian, làm cản trở việc đi vào Nước Trời.
Khi chúng ta lâm cảnh nghèo đói và gặp đau khổ trong cuộc sống trần gian, chúng ta hãy tin tưởng vào Lời Chúa hứa với hy vọng để được hạnh phúc, vì Nước Trời là của anh em, anh em được no thoả, anh em sẽ được vui mừng, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Nếu chúng ta được Chúa ban giàu có, thì chúng ta phải biết dùng vật chất để phát triển xã hội, giúp đỡ người nghèo đói, nâng cao đời sống văn minh, phục vụ tha nhân trong tinh thần bác ái, từ thiện, thì đó là cái giàu hạnh phúc, vì biết dùng của cải vật chất để được công phúc trên trời.
Và qua trang Tin Mừng này, ta được mời gọi ta đừng bao giờ dừng lại trong sự thoả mãn hạnh phúc trần gian, nhưng phải tìm sự thoả mãn với những thực tại thiêng liêng để vươn mình lên, để định hướng cho sự sống đời đời của mình. Chúng ta đừng ỷ lại với cái vui thú trần thế mà tự mãn cho bản thân, không màng chi đến niềm vui hạnh phúc đời đời. Chúng ta hãy lo làm vinh danh Thiên Chúa, nếu mình được vinh danh thì hãy vinh danh trong Chúa, vì được diễm phúc hiệp thông với Chúa, vinh danh vì Chúa nghĩa là mọi sự đều bởi Chúa ban cho, vinh danh với Chúa vì mọi việc chúng ta làm để tôn vinh danh Chúa. Chúa Giêsu luôn nhắn nhủ chúng ta phải tìm đến hạnh phúc đích thực là thứ hạnh phúc có Chúa ở cùng trong cuộc sống đời này và đời sau.