CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Lc 24, 1-12; Cv 10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24, 12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14, 26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
“Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết”.
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
- Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19, 25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27, 61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến…
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20, 2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20, 11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19, 41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” Tảng đá to thật là một trở ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
– Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Nào ta hãy mừng vui. Chúa đã sống lại thật rồi, Alleluia. Chúa đã chiến thắng tử thần, Alleluia. Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng Lễ Chúa Phục Sinh. Niềm vui mừng này cần được trải dài trong suốt cuộc đời mỗi người Kitô hữu. Tin Mừng Phục Sinh sẽ là Tin loan trên môi miệng và trong cuộc sống của chúng ta. Đó chính là niềm tin vào Chúa Sống Lại không chỉ kiểm chứng qua ngôi mộ trống hay những lần Chúa hiện ra mà qua chính lời nói, hành động của Gioan, Phêrô, của các Tông đồ khác và của chúng ta.
Qua Tin Mừng, chúng ta đã biết trước khi Chúa bị bắt, hành hình và sau khi Chúa chết, các Tông đồ đã sợ hãi, thất vọng, buồn rầu và dường như đó là dấu chấm hết. Cả bầu trời của các ông như đêm đen! Các ông như cũng quên luôn những lời Chúa dặn dò trong các lần tiên báo về cuộc Thương Khó: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy.”(Lc 9, 22) Thế nhưng, giờ đây niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã bừng dậy trong Phêrô và Gioan. Những gì các ông thấy là tảng đã đã lăn ra khỏi cửa mồ, là ngôi mộ trống, khăn liệm và băng vải xếp ngăn nắp. Mặc dù các ông chưa gặp Chúa nhưng dấu chỉ này đã khơi lên trong trí các ông lời Kinh Thánh và chính Lời Chúa đã tiên báo. Tâm hồn các ông sáng lên niềm vui và hy vọng. Niềm tin Phục sinh đã cho các ông sống lại với Chúa. Tất cả sức sống mới của Chúa tuôn tràn trong các ông. Sự can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh trong hăng say của các ông đã minh chứng cho sự Phục sinh vinh hiển của Chúa.(x Cv 2, 14) Từ nay, cuộc đời của các ông chỉ còn sống và chết cho Chúa Kitô Phục Sinh bởi vì các ông “Đã thấy và đã tin” vào Đấng đã chết và sống lại vì các ông.
Hôm nay, theo bước các Tông đồ, cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng là một cuộc dấn thân cho Niềm tin Phục Sinh. Nếu không tin vào Chúa Giêsu Kitô đã Sống Lại, chúng ta không còn phải là Kitô hữu. Niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong Thánh Lễ: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại và chúng con chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang.” cũng sẽ là niềm tin mà chúng ta cần sống cách thiết thực trong cuộc sống hằng ngày:
+ Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta sống vui tươi, hy vọng cho dù những khó khăn vẫn còn đó nhưng Chúa luôn đồng hành với chúng ta, Người hiện diện với chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta. Và Người mong chúng ta biết đem niềm vui Phục Sinh đến với những ai đang buồn sầu, đem hy vọng cho những ai đang chán nản mất cậy trông.
+ Chúa Phục Sinh cũng muốn chúng ta nhận ra Chúa hiện diện trong từng anh chị em, nơi những người thân trong chính gia đình mình, nơi người bạn đồng nghiệp, nơi người bán hàng…trong những người ta gặp gỡ trên đường và nhất là trong những người nghèo khổ, đói rách bị gạt ra lề xã hội…Và Chúa mong chúng ta thể hiện bài học yêu thương phục vụ mà cả đời Người đã sống, đã dạy chúng ta, nhất là buổi học cuối cùng Người đã tha thiết nhắn nhủ “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”(Ga 13, 35) và “…anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Khi ta sống yêu thương phục vụ anh em, ta cũng sẽ nhận ra Chúa Phục Sinh trong chính khuôn mặt và đời sống của mình.
+ Chúa Phục Sinh mong chúng ta sống bình an. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh và sự hiện diện của Chúa sẽ là niềm bình an đích thực trong chính chúng ta và sẽ được tỏa lan trong môi trường ta sống. Sau khi Sống Lại, Chúa không nhắc đến những gì là quá khứ như đau khổ, bị hành hạ, sỉ nhục…và Chúa cũng chẳng trách môn đệ hờ hững, kém tin… hay đã bỏ rơi, chối Chúa. Nhưng những gì Người nói và ban cho các ông luôn chỉ là “Bình an cho anh em!” (Ga 20, 19.21) Chúa biết rõ chúng ta yếu hèn, mong manh và hay lo lắng. Chúa biết điều chúng ta cần hơn cả là sự Bình An của chính Chúa. Đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ bình an. Khi bình an, tin tưởng, chúng ta sẽ sống hết tình hết mình vì Chúa và cho anh em.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dùng Thánh Giá và sự Phục Sinh của Chúa để giải thoát chúng con, xin cứu độ chúng con. Xin ban thêm đức tin cho chúng con và mãi đồng hành cùng chúng con để chúng con biết hăng say sống và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh. Amen.
5. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
SỐNG THIỆN VÀ YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH HẰNG NGÀY
Cả bốn Tin Mừng đều ghi nhận biến cố Chúa phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, tức ngày thứ nhất trong tuần. Thánh Gio-an hôm nay kể: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Tại sao bà ta “chạy”, mà không đi vì chị thấy ngôi mộ mở và trống hoang! Bà hốt hoảng, thêm vào đó bà chưa gặp Đức Giêsu. Bà chưa tin Chúa phục sinh nên, bà chạy nhanh đi báo tin cho các môn đệ. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. “Bấy giờ, Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin”.
Rõ ràng khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, tác giả Luca nói rõ ràng rằng ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24, 12). Còn Gioan hôm nay nói Phêrô thấy mọi sự trước mắt, và thấy cũng như thấy, không hiểu điều gì đang xảy ra. Gioan kể tiếp còn người môn đệ kia: “ông đã thấy và đã tin”. Môn đệ kia là ai? Ông đã thấy những gì và tin ai? Người môn đệ kia đó là Gioan, ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không thấy và chưa tin, ngược lại ông thì thấy và tin. Và Thánh Gioan viết người môn đệ kia, cũng có ý nói với mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước ngôi mộ trống ấy để thấy và tin Chúa đã sống lại. Vậy hôm nay, để thấy và tin Chúa đã phục sinh, chúng ta cần phải có đôi mắt của đức tin và con mắt của yêu thương. Vì yêu thương mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì yêu ông là người đầu tiên đã tin Chúa phục sinh trước Phêrô và sau này trên bờ hồ Galilê đã nhận ra Đức Giêsu phục sinh trước Phêrô (Ga 21, 7).
Quả thế, Gioan đã yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu: Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa. Kinh nghiệm cho thấy khi thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù phải xa nhau về thể lý hay đã qua đời. Cho nên, khi còn sống, chúng ta trao nhau hình ảnh chân dung như một vật kỷ niệm để luôn nhớ người mình thương đang ở với mình. Còn khi qua đời thì thờ di ảnh nửa người, vì sao phải thờ nửa người mà không phải chân dung, vì ông bà dạy: “Nhìn mặt mà bắt hình dong”, chỉ cần nhìn mặt là nguyên cả người mình thương đang ở bên mình đồng hành với mình và nhớ lại từng lời nói, hành động của người mình yêu dù đã khuất nhưng vẫn còn ở bên ta. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy những hành động xếp khăn vải và kiểu cách xếp của Ngài khi xưa và ông đã tin. Những lo lắng trần gian như bà Mađalêna cứ mãi đi tìm xác chết nơi kể sống. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tin rằng Chúa Giêsu phục sinh đang hiện diện nơi đây.
Trong hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa phục sinh và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa. Vì chưng, Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới mỗi ngày, như thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).
Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, chúng ta cần phải quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, tội lỗi, thói vô cảm và dững dưng trước nỗi khổ của tha nhân, để mặc lấy con người mới là con người sống thánh thiện, vị tha và yêu thương tha nhân. Vì vậy, trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Một khi luật của Thiên Chúa, luật yêu thương, bị loại bỏ, thì luật mạnh được yếu thua sẽ thắng thế. Tội lỗi tiềm ẩn trong lòng con người (x. Mc 7, 20-23) mang hình dạng của thói tham lam và tìm kiếm an nhàn cách vô độ, thiếu quan tâm đến thiện ích của người khác và thậm chí của chính mình. Nó dẫn đến việc bóc lột thiên nhiên, cả con người lẫn môi trường, do sự thèm muốn vô độ vốn coi mọi ham muốn như một quyền và chẳng sớm thì muộn sẽ hủy diệt tất cả những gì nằm trong tầm tay của nó”. Cho nên, chỉ khi chúng ta sống thiện và yêu thương tha nhân, chúng ta nhận ra Chúa phục sinh luôn ở trong ta, làm cho ta mỗi ngày trở nên giống Chúa trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc đã dạy chúng ta rằng: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3, 1-4).
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, đã bao năm qua, chúng con mừng lễ Chúa phục sinh chỉ như kỷ niệm, một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của chúng con. Vì thế, đã bao năm, chúng con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, chúng con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống thiện và thương yêu hết mọi người để được Chúa phục sinh ở lại trong chúng con hằng ngày. Amen.
6. Niềm tin Chúa Phục Sinh đổi mới đời ta
(Suy niệm của Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Đây là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Qủa thế, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14); và “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 17-19).
Ðể hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta cần dừng lại thật lâu và sâu nơi ngôi mộ trống qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Điều đáng chú ý ở đây ngôi mộ chôn Chúa Giêsu là mới hoàn toàn, chưa chôn cất ai (Ga 19, 41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Ðồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Ðức Giêsu. Ông đã đến gặp chính quyền để xin xác của Thầy mình và tẩm liệm cẩn thận. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mộ. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà chạy về báo cho Phêrô và Gioan, hai ông liền chạy đến mộ, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Tin cái gì? Tin rằng Chúa Giêsu, Thầy mình đã sống lại. Rõ ràng, từ ngôi mộ, từ tối tăm chết chóc và rữa nát, sự sống đã bật dậy, cửa mộ đã mở toang vì ngôi mộ không thể chứa được Ðấng đã Phục sinh.
Quả thật, Chúa Giêsu đã Phục Sinh, Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Như vậy, sự Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta. Cho nên, Chúa Giêsu xác quyết: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Vậy, chúng ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ, có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người của ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai. Đây chính là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho là thói vô cảm toàn cầu hóa. Nếu chúng ta diệt trừ thói vô cảm này, nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 13).
Thánh Phaolô xác tín: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4, 24); đồng thời “phải đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” (Cl 3, 10). Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ tính hư tật xấu và tội lỗi, để mặc lấy con người mới sự sống mới của Chúa Giêsu Kitô phục sinh: sống vị tha, sống yêu thương, sống cho, sống với, và sống vì tha nhân. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, để Ngài biến đổi chúng ta nên người mới, một đời sống đức tin mới, chúng ta hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu phục sinh trong lúc vui, mọi nơi và mọi hoàn cảnh đồng thời biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi để khiêm nhường sống niềm tin: “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại với Chúa phục sinh” một cách quyết liệt và triệt để qua việc sống Lời Chúa hằng ngày. Vì vậy, mừng Chúa sống lại, mỗi người chúng ta cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình để “Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau để ngày sau chúng ta cùng phục sinh vinh hiển với Chúa. Allêluia.
7. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊSU
SẼ MANG LẠI HẠNH PHÚC CHO CHÚNG TA
Chuyện kể rằng ngày 28.3 vừa qua, có một cụ già 70 tuổi ở Mỹ, sau khi điều trị bệnh viêm phổi virút Corona, ông phải thở máy thở trong suốt thời gian điều trị, hôm nay ông khỏi bệnh và ra viện. Khi ra khỏi phòng bệnh, các y bác sĩ đưa ông tờ giấy xuất viện, ông cầm tờ giấy đi ra trước sân bệnh viện mà khóc nức nỡ, mọi người thấy vậy liền hỏi. Sao ông khóc? Ông không có tiền đóng viện phí hả? Hay ông không có con cháu đến đón ông? Ông trả lời: “Không, tôi khóc vì sau hơn 20 ngày tôi thở bằng máy, hôm nay tôi trở bằng khí trời mừng quá mà khóc, tôi khóc vì 70 năm qua tôi thở khí trời này mà tôi không cảm thấy quý nó, biết ơn Thiên Chúa đã trao ban cho con người, tôi không tin thờ Ngài và tạ ơn Ngài mọi ngày tôi có thở tự nhiên được. Tôi khóc vì hôm nay Chúa đã cho tôi được hít lại không khí tự nhiên này. Tạ ơn Chúa”.
Sau bốn mươi ngày chay tịnh, tuần thánh trong âm thầm tĩnh lặng hy sinh và cầu nguyện, hôm nay tiếng vui mừng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Vì Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng việc Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: Ngài đã tắt thở nay được hít thở trở lại, tức Ngài sống lại từ trong kẻ chết? Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả trong bài đọc 2 rằng Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Niềm tin vào sự sống lại trước hết chúng ta tin vào chính Chúa Giêsu đã sống lại từ lời chứng thực của các Tông đồ trong ngôi mộ trống hôm nay. Sau đó, chúng ta tin vào Lời Chúa đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của việc sống lại của chúng ta. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã viết: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bước ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời. Cho nên, trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã nói với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Con có tin không? Cô Mátta thưa: “Thưa Thầy con tin” và phép lạ đã xảy ra.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay để tìm thấy ở đó niềm tin hy vọng và ủi an cho chúng ta trong thời đại dịch bệnh này. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đã giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Nếu người không tin Đức Kitô, họ ghi trên bia mộ người chết rằng: Đây là nơi an nghỉ đời đời. Nhưng từ khi Đức Kitô Phục sinh, chúng ta tin vào Ngài thì phải ghi trên bia mộ rằng: Đây là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng. Cho nên, chúng ta thường thấy ghi nơi các nhà để tro cốt tại các nhà thờ dòng chữ: Nhà Vọng Phục Sinh là có ý đó.
Chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Hơn thế nữa, hồn mà trong trắng đơn sơ thật thà thì xác sẽ là thánh và thiện, còn hồn mà đầy gian xảo mưu mô độc ác, gian dâm thì xác sẽ tội lỗi xấu xa. Vì vậy, hồn dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác là hạnh phúc đời này và đời sau. Cũng như đức tin, chúng ta tin Chúa mà không bao giờ sống Lời Chúa và tuân giữ các điều răn Chúa dạy thì cũng như có xác mà không hồn, cũng như hít hở không khí mà không biết nó cần và quý cho sự sống cho chúng ta. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay sống lại là đem lại hơi thở là sự sống mới cho chúng ta bởi chúng ta đã chết phần xác phần hồn, chết sự thánh thiện, chết hạnh phúc, niềm hy vọng, sự an ủi và sự sống đời đời vì tội nguyên tổ, vì tội riêng ta phạm. Vậy, hôm nay Chúa sống lại, chúng ta cũng sống lại và sẽ sống lại trong ngày sau hết nếu chúng ta tin vào Chúa, sống và thi hành Lời Chúa. Đúng như Lời Chúa dạy: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của anh em thật là hão huyền”
Đức tin của chúng ta đã không hảo huyền vì Đức Kitô Đức Kitô đã sống lại. Đó là xác quyết của Phêrô, Giacôbê, Gioan… và cả chúng ta là những người đã từng đi theo, đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở với Đức Giêsu và cũng tin vào Chúa Giêsu như các thánh Tông đồ xưa. Hôm nay Đức Kitô đang sống và lời rao giảng của Người là sự thật. Và sự thật Đức Giêsu công bố chính là những nẻo đường dẫn tới sự sống, tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, ai bước đi theo Chúa, tin Chúa và sống theo Lời Chúa, chắc chắn sẽ được sống dồi dào và được hạnh phúc, được an ủi, được lành thánh, được giải thoát khổ đau và được chữa lành. Với niềm tin đó, chúng ta tuyên xưng đức tin.
8. Sao lại đi tìm người sống giữa kẻ chết?
(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho – trong Thánh lễ vọng Phục Sinh tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho)
MỪNG CHÚA PHỤC SINH
Anh chị em rất thân mến,
1. “Chúa đã sống lại thật”, đó là niềm tin của chúng ta, đó là niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta hân hoan tuyên xưng đức tin ấy trong Thánh lễ đêm nay.
Nhưng chúng ta tuyên xưng như thế nào, để lòng mọi người rộn rã hân hoan? Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng bừng lên trong bóng tối, bóng tối của tâm hồn còn nhiều tội lỗi của chúng ta, bóng tối của cuộc đời còn đầy những khó khăn và thử thách, bóng tối của xã hội còn tràn ngập những điều xấu xa và bẩn thỉu, bóng tối của thế giới còn bị đe doạ bởi bóng ma chiến tranh và chết chóc?
Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng xoá tan u tối, để mọi xiềng xích bị bẻ gãy và con người được tự do đích thực?
Chúng ta chỉ có thể làm được như vậy với quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần!
2. Chúng ta tuyên xưng trong tư cách của những người đã chịu Phép rửa, được mai táng trong cái chết của Đức Kitô, đang thừa hưởng sự sống mới, và sẽ được cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-4). Chúa đã chiến thắng các tội ác, chiến thắng thần dữ và sự chết. Sự chết không cầm giữ được Người nữa, không có quyền gì trên Người nữa. Người đã sống lại và không còn chết nữa (x. Rm 6, 9).
Thần dữ và sự chết sẽ không làm gì được chúng ta, vì chúng ta được chia sẻ Thần khí Phục sinh của Chúa, Sức mạnh Phục sinh, Quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa (x Rm 6, 3-5). Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống”. Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu, Ngài sẵn sàng đổi mới mặt địa cầu. Chúa Thánh Thần chính là Quà tặng Chúa Phục sinh ban cho chúng ta.
3. Chúa Phục sinh đầy tràn Thần Khí của Thiên Chúa, đầy tràn Ánh Sáng và Tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Yêu thương, chính là bản chất của Thiên Chúa và cũng là sức mạnh của Thiên Chúa. Điều kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, là làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Nơi biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện tất cả quyền năng, biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Ngài, một tình yêu bất diệt, luôn sinh ra tình yêu. Ngài nói với Chúa Giêsu Phục sinh: “Con là Con của Cha, Hôm nay Cha đã sinh ra Con!” (Lc 3, 23). Sự sống của Chúa Giêsu là sự sống của Chúa Cha, vì Chúa Cha là Thiên Chúa hằng sống. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là bất diệt, chỉ có Tình yêu của Thiên Chúa là bất diệt! Anh chị em có dám tin như vậy không?
4. Bài Tin mừng Luca tường thuật việc mấy người phụ nữ ái mộ Chúa Giêsu đã đi thăm ngôi mộ của Chúa, mang theo dầu thơm, để xức cho thi hài của Chúa. Đến nơi, họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả (x. Lc 24, 1-3). Đang lúc các bà còn sợ hãi, thì có hai thiên sứ y phục sáng chói đã nói với các bà: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết? Đức Giêsu không còn trong ngôi mộ nữa, Người đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24, 5-6).
“Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết”! Đó là nội dung lời rao giảng của các thánh Tông đồ. Và đó cũng là sứ điệp từ trời! Sứ điệp sẽ được công bố cho mọi người để mọi người tin, và nhờ tin mà được cứu rỗi, được đón nhận Chúa Thánh Thần và được ơn tha tội. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã nói một cách rõ ràng trong thư Rôma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 10).
5. Sự Sống lại của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử, vì đã xảy ra trong lịch sử. Người đã chết thật và đã được chôn cất trong một ngôi mộ, mà ngày nay vẫn còn di tích tại Thánh địa Giêrusalem. Người đã trỗi dậy, ra khỏi mồ, Người đã sống lại thật, đã hiện ra với các Tông đồ, và đã trao sứ mạng “Làm chứng” cho Giáo hội mà các ông là đại diện (x. Lc 2435-48; Mc 16, 9-15; Ga 20, 19-31). Chúa đã sống lại thật, và đã sống lại vĩnh viễn, sự chết không cầm giữ được Người. Người đã chiến thắng sự chết một cách vĩnh viễn (x. Rm 6, 9-10). Chiến thắng tử thần là “chiến thắng lớn nhất”, không còn có chiến thắng nào lớn hơn, bởi vì tử thần là kẻ thù đáng sợ nhất của loài người. Chính vì thế mà Phaolô dám nói một cách khiêu khích với “tử thần”: Tử thần hỡi, chiến thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi nọc độc của ngươi đâu? Tử thần có độc là vì tội lỗi!” (1Cr15, 55).
Nhưng Thiên Chúa đã ban cho ta “Ơn Tha tội” nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
9. Suy niệm canh thức Vượt Qua (Lc 24, 1-12)
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sau đêm dài u tối và đau khổ, giờ đây là bình minh, với ánh mặt trời yếu ớt và từ từ rực sáng.
Các môn đệ Chúa đang trong cơn thất vọng. Thầy chết rồi, đã an táng Thầy rồi… Chúng ta sẽ ra sao đây? Trong các ông, không có ông nào nhớ lời Thầy: “ngày thứ ba Thầy sẽ sống lại”.
Khi nỗi buồn quá nặng, những lời an ủi cũng chẳng đi đến đâu.
Các bà lo an táng Thầy hôm trước đang chuẩn bị dầu và đi đến mộ ướp xác Thầy cho tươm tất, vì hôm ấy, trời sẫm tối và mọi sự lộn xộn hấp tấp, chẳng đâu vào đâu. Hôm nay nếu họ ướp xác Thầy sẽ dễ dàng hơn.
Không ai nhớ lời Thầy đã nói. Nhưng đến mộ, họ đã thấy gì?
“Tảng đá đã lăn ra khỏi mộ… nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả”. Không ai có thể nghĩ một người chết có thể sống lại. Các bà này cũng thế thôi, họ tưởng rằng họ đang lo cho Ngài, giúp Ngài được an táng một cách tươm tất.
Khi thấy cửa mộ mở toang và không thấy xác Chúa Giêsu nữa, chúng ta nghĩ mấy bà phản ứng như thế nào? Thánh Luca chỉ nói: “Các bà đang phân vân”, nghĩa là chưa biết phải làm gì, thì hai người đàn ông, y phục sáng chói, đã can thiệp: “Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi”, tức là đã sống lại.
Bình minh đã tỏ rạng. Không còn tăm tối u buồn nữa. Nhưng không thể tin được! Sự kiện nầy vượt quá sự tưởng tượng của các bà. Để các bà có thể tin được, hai người kia nhắc: “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại”.
Bấy giờ các bà mới nhớ, mới bình tĩnh lại và tin.
Phải có thời gian để nối kết dĩ vãng với hiện tại. Chúa Giêsu muốn các tông đồ tin Ngài sống lại trước khi thấy Ngài. Ngài tôn trọng định luật tâm lý con người. Ánh sáng quá chói chang sẽ làm lòa mắt. Ngài hướng dẫn họ từng giai đoạn từ nghi ngờ đến niềm tin, từ cái mộ trống đến gặp gỡ: “ Tại sao lại tìm một người sống trong cõi chết nầy? Hãy nhớ lại những gì Người đã nói hồi ở Galilê”.
Không những nhớ lời nói và cả việc làm: người thanh niên con bà góa thành Nain, sống lại… Em bé con ông Giairô, sống lại… và mới đây Ladarô, chêt bốn ngày, sống lại. Bao nhiêu cuộc sống lại đó không mang một ý nghĩa nào sao? Không gợi lại một ý nghĩa nào trong óc của họ sao?
Có lẽ sau một lúc ngỡ ngàng, các bà đã tin. Họ về tường thuật lại cho các tông đồ, nhưng các ông không tin cho rằng các bà yếu bóng vía, sợ ma và nhiều chuyện. Xã hội Do thái không tôn trọng nữ giới cho lắm. Nhưng Phêrô cần kiểm tra.
Ra mộ, Phêrô đã nhìn thấy. “Ông rất đỗi ngạc nhiên”, thế thôi. Ông đã tin chưa? Luca không nói rõ, nhưng chắc chắn ông đang trên con đường đi đến đích. Niếm tin của ông dần dần rõ nét.
Còn chúng ta?
Niếm tin của chúng ta được hưởng nhờ niềm tin của các Tông đồ, những chứng nhân đích thực của sự phục sinh. Chúng ta không bị chao đão xao xuyến như các ngài. Chúng ta thật diễm phúc! Niềm tin của chúng ta quá dễ dàng, nhưng chính vì thế mà nó không khắc ghi trong chúng ta một ấn tượng nào. Và đó là một nguy cơ. Chúng ta không cần tìm kiếm, vì thế, niềm tin của chúng ta hời hợt, nông cạn, không ảnh hưởng mạnh mẽ trên cuộc sống chúng ta. Phải nhìn nhận rằng chúng ta tin, nhưng niềm tin của chúng ta có thực sự sống động không? Niềm tin đó đã tác động thế nào trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta? Chúng ta có thể là những chứng nhân đáng tin cho Chúa phục sinh không?
Tin vào Chúa phục sinh là một sức mạnh có thể chuyển biến mọi sự: tư tưởng, hành động và mọi thực tại tầm thường nhất của cuộc sống.
Tin vào Chúa phục sinh là tin rằng mình đã phục sinh với Ngài và cuộc sống hôm nay, trong thực tế của mỗi ngày, đều hướng về Ngài, cho Ngài.
Đọc lại những lời của thánh Phaolô, chúng ta thấy Ngài sống với Chúa Giêsu như thế nào? Hoàn toàn xả thân, coi mọi sự là rơm rác, chịu đựng mọi sự gian khổ vì Ngài. Phaolô cũng như chúng ta, không thấy ngôi mộ trống, không chứng kiến Chúa hiện ra, có chăng là trước cửa thành Đamát, nhưng ngài đã tin mãnh liệt đến nỗi liều mất tất cả để đoạt được Chúa Giêsu mà thôi.
Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể giống như các tông đồ hay Phaolô. Tại sao lại không? Chỉ vì chúng ta chưa tin hay tin nửa vời. Chúng ta không giống các ngài trên nhiều phương diện, nhưng niềm tin chỉ là một. Chúa Giêsu đã chết và sống lại cho các ngài cũng như cho chúng ta. Chúng ta cũng được hưởng hồng ân cứu độ như các ngài, sao chúng ta không dám sống cho Chúa? Sao chúng ta còn ham thế gian, chạy theo thế gian với những cái phù phiếm của nó?
Câu hỏi mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta là: con có tin không?
Một khi đã tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho tôi, thì cuộc sống hôm nay phải là một cố gắng liên tục để nhường chỗ cho Chúa sống như Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghĩ rằng, Thánh Phaolô là thánh còn tôi, tôi chưa đạt tới đỉnh như Ngài. Đúng, chúng ta chưa như Ngài, nhưng chúng ta có cố gắng không? Chúng ta có thực sự muốn sống với Chúa chúng ta thân thiết gần gũi như thế không?
Chúa Kitô đã sống lại thật, chúng ta không nghi ngờ gì nữa, nhưng chúng ta có thực sự là những người được thoát ách tội lỗi và đang sống làm một với Ngài không? Sự sống lại của Ngài có là một thực tế hiển nhiên qua cuộc sống chúng ta không?
Chúa đã chết và sống lại cho chúng ta, “để niềm vui chúng ta được trọn vẹn”, chúng ta dám cộng tác với Ngài để niềm vui của Ngài được trọn vẹn không?
Ngài chết và sống lại vì yêu thương chúng ta, chúng ta có yêu thương Ngài như Ngài đã yêu thương chúng ta không? Chúng ta không thể yên tâm khi chúng ta chưa đáp lại tình yêu của Ngài. Hãy để cho con tim chúng ta bị ray rứt mãi vì chưa yêu Ngài. Cái ray rứt đó chính là hồng phúc vì nó đưa chúng ta vào tình yêu. Thánh Âutinh đã nói: “Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa và tim chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Hôm nay, chúng ta sẽ ăn lấy Chúa và con tim của chúng ta chỉ còn là một với Ngài, thì chớ gì cuộc sống chúng ta cũng sẽ mãi là một với Ngài. Đó là thiên đàng ở trần gian. Chúng ta có biết hạnh phúc của chúng ta không?
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Hôm nay Giáo Hội vui mừng loan báo cho mọi người tin vui: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI.
Thánh đường rực rỡ hoa đèn diễn tả niềm vui thánh thiện nầy.
Chúng ta có vui không?
Chúng ta vui vì tiếng hát Alleluia vang dội, vì hoa đèn rực rỡ. Nhưng lòng chúng ta có rộn rã vui mừng không?
Niềm vui phục sinh không là niềm vui của tất cả mọi người. Mốt số người đến dự lễ, tâm hồn vẫn giá băng. Niềm vui phục sinh như niềm vui của ai đó, không phải là của họ. Tâm hồn họ xa lạ với bầu không khí hân hoan từng bừng quanh họ. Tại sao?
Vì họ xa lạ với Đấng phục sinh. Họ cảm thấy lạc loài giữa rừng người hân hoan ca hát Alleluia. Vì họ không chịu đóng đinh và chết với Chúa Kitô, họ không phục sinh với Ngài.
Niềm vui phục sinh chỉ dành cho những người đã chịu tử nạn và chết với Chúa Ki-tô mới biết rằng mình đã đi từ cái chết đến sự sống. Có chết đi mới có phục sinh.
Niềm vui phục sinh được khai nguyên từ cái chết: “Con Người phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Nếu hạt lúa mì không thối đi nó vẫn trơ trọi, nhưng nếu nó thối đi, mới sinh nhiều bông hạt”.
Niềm vui phục sinh chỉ dành cho những người tin mãnh liệt vào một Thiên Chúa Tình Yêu, “dám chết cho bạn hữu” và sống lại để cứu vớt họ khỏi cái chết và mang lại sự sống, sự sống đích thực, là sự sống trong Ngài, làm con của Chúa Cha.
Chúng ta có thuộc về những người tin đó không?
Niềm vui phục sinh không phải chỉ là niềm vui bên ngoài: cười nói, ca hát, nhảy múa, … mà là một niềm vui sâu lắng trong tâm hồn, niềm vui của tình yêu, của sự hiệp thông.
Con người hôm nay chỉ tìm vui trong rượu mạnh, trong nhảy múa hát ca nhộn nhịp, trong hưởng thụ vật chất mà tâm hồn buồn chán đến chết được. Càng ca hát càng nhảy múa nhộn nhịp, họ càng cảm thấy tâm hồn trống trải không gì có thể lắp đầy được.
Chúng ta không cần ồn ào nhộn nhịp, niềm vui của chúng ta là tin vào tình yêu không biên giới, tình yêu của Thiên Chúa Tình Yêu.
Tại sao các thánh tử đạo dám liều mạng trong ngục tù, trong khổ hình? Tại sao các tu sĩ tự giam mình trong nếp sống khắc khổ nguyện cầu suốt đời? Phải chăng là họ đã tìm được niềm vui, tìm được tình yêu đích thực và sung mãn?
Phục sinh là đỉnh chóp của tình yêu, là sự toàn thắng của tình yêu: “Ngài đã yêu tôi và đã liều mạng cho tôi”.
Nguồn suối của niềm vui phục sinh là thế đó. Niềm vui trần thế vụt đến rồi vụt đi, để lại cho con người tiếc nuối khôn nguôi và lắm khi là tuyệt vọng: “Bộ mặt thế gian nầy qua đi”.
Niềm vui của Chúa tồn tại qua mọi biến chuyển, mọi đau khổ trần thế.
Niềm vui của Chúa sẽ chiến thắng mọi khổ đau: “Chúng con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”… Thầy đến để niềm vui chúng con được trọn vẹn”.
Chúng ta đã tìm được kho tàng mà trần gian không tìm được. Hạnh phúc của chúng ta là biết rằng Chúa chúng ta đã sống lại và sự chết không còn quyền gì trên Người nữa. Sự sống hôm nay là sống trong Ngài, trong ánh sáng phục sinh của Ngài.
Trần gian, với tất cả những chuỗi dài đe dọa, khổ đau, bệnh tật, gian ác, không thể nào cướp mất niềm vui của chúng ta, vì “chúng ta được chôn táng trong Chúa và sự sống của chúng ta được ẩn giấu trong Ngài”.
Chúng ta thật diễm phúc!
Các Tông đồ không được như chúng ta. Họ phải trải qua một tiến trình đau đớn. Phêrô kinh nghiệm sự yếu đuối và hèn nhát của mình. Các Tông đồ khác lo sợ, chạy trốn. Họ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết thê thảm của Ngài. Họ phải trải qua sợ sệt, đau khổ, có khi là tuyệt vọng.
Khi Thầy sống lại, họ phải tìm kiếm trong lo âu, trong ánh sáng mù mờ của bình minh còn yếu ớt. Họ phải hoài nghi, bấp bênh…
Maria Macđala, sáng tinh sương, chỉ thấy cái mồ trống và không thấy xác Thầy. Simon Phêrô kiểm chứng chỉ thấy một khăn liệm xếp lại ngăn nắp, nhưng cũng không thấy Thầy. Niềm tin của ông còn chập choạng, mong manh.
Thánh Gioan cho chúng ta thấy: Maria Macđala chạy. Chạy vì hấp tấp, vì sự trầm trọng của biến cố. Phêrô và Gioan cũng chạy. Gioan chạy nhanh hơn. Tại sao phải chạy?
Chúng ta làm gì khi nghe biết nhà chúng ta đang cháy?
Sau cùng, Gioan “đã thấy và đã tin”. Ông thấy một điều (khăn liệm và mồ trống) và ông tin một điều khác: Thầy đã sống lại.
Hôm nay, chúng ta “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Biến cố phục sinh vừa là kết thúc một giai đoạn, là công trình cứu độ, vừa là khởi điểm cho một tương lai bất tận: sự sống lại của chúng ta.
Ánh sáng của Chúa phục sinh là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta đang đi trong ánh sáng. Đừng để ánh sáng ấy mờ đi. Đừng để cho hình ảnh của Ngài phai nhòa trong tâm khảm chúng ta.
Đừng để cho niềm vui phục sinh vụt tắt, nhưng hãy giữ cho nó sáng mãi và trở nên niềm hy vọng hướng dẫn cuộc sống hôm nay, thấm sâu vào những công việc tầm thường nhất.
Hãy là nhân chứng đáng tin cậy cho Chúa phục sinh bằng một đời sống bình thường nhưng tươi sáng, nhẹ nhàng, tràn đầy yêu thương. Hãy đem niềm vui phục sinh cho những người không may mắn, những người đang tủi buồn cô đơn, những bệnh nhân không còn hy vọng, những nạn nhân của bất công, hận thù.
Chúa đang hẹn một ngày gặp gỡ trong vinh quang. Vinh quang bắt đầu từ hôm nay trong tin yêu và sẽ kết thúc trong tin yêu.
Nơi bàn thờ hiến tế, cũng Chúa Giêsu đó, Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại trong vinh quang; Đấng trở thành nguồn sống bất diệt cho chúng ta. Ngài đến nuôi dưỡng niềm vui của chúng ta bằng cách cho chúng ta ăn lấy Thịt Máu Ngài “để niềm vui của chúng ta trọn vẹn”.
Hãy tiếp đón Ngài và dành cho Ngài quyền ưu tiên tuyệt đối trong cuộc sống hôm nay của chúng ta. Alleluia.
11. Suy niệm Thứ Bảy Vọng Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Ngày thứ Bảy tuần thánh, Giáo Hội dừng chân trước mộ Chúa Giêsu để suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Ngài. Chính vì vậy, Giáo Hội gọi ngày thứ Bảy tuần thánh là ngày thầm lặng.
Theo cái nhìn của loài người thì đây là ngày buồn nhất trong năm. Không khí đượm màu tang tóc. Vì Chúa Giêsu đã chết, được an táng trong mồ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo “Sau ba ngày Ngài sẽ sống lại” (x. Mc 8, 31; Mc 9, 31; Mc 10, 33- 34). Vì vậy, Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Chính đêm nay, niềm hy vọng phục sinh đã bừng lên trong toàn thể Giáo Hội. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đó là niềm vui, niềm hy vọng và là nền tảng niềm tin của tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Bởi vì, Giáo Hội đã được khai sinh từ mầu nhiệm trọng đại này, và đó cũng là đích điểm của mọi người kitô hữu chúng ta.
Lễ nghi đêm nay bắt đầu bằng nghi thức thắp nến phục sinh. Toàn thể thế giới nằm trong bóng tối, và đang mong đợi ánh sáng, nhân loại đang trông chờ ơn giải thoát. Chủ tế bắt đầu nghi thức làm phép lửa và thắp lên cây nến phục sinh. Cả nhà thờ đang tối tăm, bổng ánh sáng phục sinh chiếu soi lan toả. Ánh sáng phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô đã sống lại. Chúa Kitô đến xua tan bóng tối tội lỗi, sự chết, sự thất vọng, để đi vào sự sống bất diệt. Trong lời nguyện làm phép lửa, Giáo Hội cầu xin Thiên Chúa cho ngọn lửa khao khát nước trời thiêu đốt tâm hồn các tín hữu và thanh tẩy muôn vàn tội lỗi, để mai sau họ được xứng đáng tham dự ánh sáng ngàn thu.
Trong đêm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta đều cầm nến sáng được thắp từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Chính vì vậy, đời sống của mỗi người chúng ta phải chiếu sáng cho những người xung quanh. Khi đứng cầm nến sáng trong tay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ Chúa Kitô ngự đến trong ngày chung thẩm.
Trong phần công bố Tin Mừng Phục sinh, Giáo Hội kêu mời mọi người kitô hữu chúng ta “Hãy vui lên”. Vui lên vì Chúa đã khải hoàn. Vui lên vì Chúa đã chiến thắng thần chết. Vui vì:
Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ,
đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm,
biến tội nhân thành con người công chính,
đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương.
Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta đọc 9 bài sách thánh: 7 bài Cựu Ước, 1 bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng. Tất cả các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta suy niệm về chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa theo dòng lịch sử từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước. Việc Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, nhất là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài (Bài đọc I). Đến việc ông Apraham vâng lệnh Chúa sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, chính vì sự vâng phục này mà ông được gọi là “Cha của kẻ tin”. Ông còn được Chúa chúc phúc để trở thành cha của một dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển. Việc sát tế này là hình ảnh tiên báo việc sát tế Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa sau này (Bài đọc II).
Rồi đến sự kiện dân Do Thái đi qua biển đỏ khô chân và được bình an. Đó là hình ảnh của cuộc giải thoát mới do công trình cứu độ của Đức Kitô. Đó cũng là cuộc giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đến vùng tự do (Bài đọc III).
Khi dân Do Thái đang sống trong kiếp lưu đày tại Babilon, vì đã bất trung với Thiên Chúa, nhưng họ đã sám hối nên Chúa lại tha thứ cho họ. Rồi Chúa lấy lòng nhân từ vô biên qui tụ họ lại để họ vui hưởng nền hoà bình lâu dài (Bài đọc IV).
Chính tiên tri Isaia đã loan báo một thời thịnh đạt mà Israel sẽ vui hưởng, thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu với những hồng ân mà Ngài đã hứa với Đavít. Chính điều này sẽ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô (Bài đọc V).
Nhưng dân Do Thái đã bỏ Chúa đi tôn thờ thần tượng, phạm đủ thứ tội nên họ bị lưu đày. Tiên tri Êzekiel đã chọ họ biết như vậy. Nhưng rồi Chúa sẽ qui tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một quả tim và một thần trí mới để họ thực thi huấn lệnh Ngài (Bài đọc VI).
Bài đọc Thánh Thư dẫn chúng ta vào ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đã chịu Phép Rửa Tội, tức là chúng ta cùng chết với tội và chết cho Chúa Kitô để được sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).
Đó cũng là mong muốn của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta tuyên thệ lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong phần Phụng Vụ Thánh Tẩy. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta được khỏi tội. Cho nên, qua nghi thức này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy hiên ngang dấn thân theo Chúa và trung thành phụng vụ Người. Hãy chết đi cho tội, cho ích kỷ, cho những gì làm cho chúng ta xa Chúa, để luôn sống xứng đáng thân phận làm con Chúa và Giáo Hội.
Cuối cùng, bài Tin Mừng Thánh Luca tường thuật về sự kiện ngôi mộ trống và việc Chúa Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mađalêna. Đây là sự kiện đầu tiên và hết sức quan trọng cho niềm tin Phục Sinh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và cho mỗi người qua mọi thời đại.
Mừng vọng phục sinh đêm nay, chúng ta cảm tạ tình thương bao la của Chúa. Đồng thời để đáp lại tình thương đó chúng ta quyết tâm sống cho Chúa và chết cho tội, để cùng Người sống lại vinh quang. Xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta cử hành trong phần cuối cùng của đêm nay luôn đồng hành, dưỡng nuôi tâm hồn chúng ta trên con đường về với Ngài. Amen.
12. Suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Chúa đã phục sinh. Đó là nền tảng của niềm tin và niềm hy vọng của mỗi người kitô hữu chúng ta.
Thánh Phaolô đã nói rất chí lý rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 17-19). Vì thế, Ngài khẳng định rằng: “Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15, 20). Vậy, trong ngày trọng đại hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những bằng chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và cố gắng sống niềm tin đó trong cuộc sống của chúng ta.
1. Niềm tin Phục sinh bắt đầu bằng Ngôi mộ trống
Ngôi mộ trống là yếu tố đầu tiên mà người ta gặp thấy sau khi Chúa Kitô chịu chết và táng xác. Tự nó, đây không phải là một chứng minh trực tiếp. Bởi vì, yếu tố không còn xác Chúa Kitô trong mộ có thể giải thích cách khác (x. Ga 20, 23; Mt 28, 11-15). Dầu vậy, ngôi mộ trống đã là một dấu lạ đối với mọi người. Việc các môn đệ phát hiện sự kiện này đã là bước đầu cho việc nhận ra chính sự kiện Phục sinh: Đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện (x. Lc 24, 3.22-23), rồi của Phêrô (x. Lc 24, 12). “Môn đệ của Chúa Giêsu thương yêu” (Ga 20, 2) khẳng định rằng khi vào trong mộ trống và “phát hiện ra các dải vải còn để đó”, Tin mừng cho biết rằng “Ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20, 8). Điều này giải thích rằng ông đã thừa nhận trong tình trạng ngôi mộ trống là sự thiếu vắng thân xác của Chúa Giêsu không thể là việc của loài người, và Chúa Giêsu đã không chỉ đơn thuần trở lại cuộc sống trần gian như trường hợp ông Lazarô (x. GLHTCG, số 640). Như vậy, qua các dự kiên trên đây cho chúng ta khẳng định rằng: Ngôi mộ trống là bằng chứng Chúa đã Phục sinh.
2. Niềm tin Phục sinh dựa vào những lần hiện ra của Chúa Giêsu
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu Phục sinh đã hiện ra nhiều lần, nhiều nơi và với nhiều người. Đặc biệt, Ngài hiện ra với các môn đệ, cùng ăn cùng uống với họ (x. Cv 10, 41). Trước hết, Tin mừng cho biết, Ngài hiện ra với Maria Mađalêna và các phụ nữ khác (x. Ga 20, 11-18). Sau đó, Ngài hiện ra với ông Phêrô, với nhóm Mười Hai, với hai môn đệ đi đường Emmau, với hơn năm trăm người, và với Giacôbê. Thánh Phaolô kể rõ ràng rằng: “Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15, 5-8). Những lần Chúa Giêsu Kitô hiện ra trên đây sau khi Ngài chịu nạn chịu chết trên Thánh giá là bằng chứng cho chúng ta thấy Chúa đã Phục sinh.
3. Niềm tin Phục sinh dựa vào thái độ của các tông đồ và các kitô hữu đầu tiên trước và sau khi Chúa Sống Lại
Sau buổi chiều ngày thứ sáu, một bầu khí u ám, thất vọng nơi các Tông đồ và những người theo Chúa bấy lâu nay. Còn đâu những lời giảng dạy như Đấng có uy quyền (x. Mt 1, 22). Còn đâu những phép lạ như: Phép lạ hoá bánh ra nhiều, gió yên biển lặng, kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại… Những hy vọng nơi Thầy Giêsu đã tan thành mây khói. Họ nghĩ rằng thế là hết. Tất cả đã chấm dứt. Vì vậy, một số trong các môn đệ trở lại nghề cũ, một số khác bỏ trốn về quê…
Thế rồi, sau khi thấy Chúa Phục Sinh, thái độ của họ thay đổi hoàn toàn. Bà Maria Mađalêna vội vã chạy về báo tin cho các Tông đồ. Phêrô và Gioan vội vã ra mồ. Khi thấy mọi sự trong mồ được xếp đặt gọn gàng, Gioan nhớ lại những lời Kinh thánh và ông đã tin. Hai môn đệ đi đường Emmau khi đã gặp Chúa Phục sinh, vội vã trở lại báo tin cho các Tông đồ khác.
Trước đây Phêrô đã nhát gan chối Chúa ba lần, nhưng giờ đây ông đã mạnh dạn rao giảng Tin mừng không biết mệt mỏi, không sợ quyền thế. Chính ông đã khẳng khái nói: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5, 29).
Khi Chúa Phục sinh hiện ra bảo Tôma xỏ ngón tay vào lỗ đinh và cạnh sường Người, ông đã tuyên xưng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”(Ga 20, 28).
Tóm lại, khi nhận ra Chúa Kitô đã sống lại thật, các môn đệ đã mạnh dạn rao giảng Tin mừng và sẵn sàng chết để làm chứng cho niềm tin của mình.
4. Niềm tin Phục sinh giúp gì cho chúng ta
1) Niềm tin Phục sinh giúp chúng ta vượt qua được thử thách, đau khổ:
Dịp Mùa Chay vừa qua, tôi có dành thời gian đi thăm những người già cả, ốm đau, bệnh tật. Tôi gặp một cụ bà đã trên 80 tuổi, nằm liệt giường hơn chục năm nay. Dầu vậy, tôi thấy tâm trạng của cụ luôn điềm tĩnh và bình an. Cụ tâm sự với tôi: “Suốt mười mấy năm qua, nhiều lúc con đau đớn lắm. Nhưng mỗi lần cơn đau hoành hành, con nhìn lên Thánh giá Chúa và tự nhủ mình rằng, Chúa cả trời đất, không có tội lỗi gì mà Ngài còn phải trải qua đau khổ mới tới ngày Phục Sinh. Phần con, là kẻ tội lỗi đáng phải chịu đau khổ trăm ngàn lần nữa. Suy nghĩ như thế, nên con cố gắng chấp nhận đau khổ để ngày sau cùng được phục sinh với Chúa”. Tôi thăm một bệnh nhân khác, đó là một chàng thanh niên 23 tuổi, bị liệt toàn thân do một vụ tai nạn xe máy. Anh vui vẻ kể lại cho tôi nghe vụ tại nạn xảy ra cách đây gần một năm. Tôi hỏi anh: “Từ một thanh niên khoẻ mạnh, bây giờ phải nằm liệt giường như vậy, con cảm thấy như thế nào?” Anh trả lời một cách xác tín rằng: “Chúa gửi thập giá tới thì phải vui lòng vác thôi Cha. Con hy vọng cùng chịu đau khổ với Chúa để ngày sau được gặp Ngài trên Thiên Đàng”. Đúng là câu trả lời của một người có niềm tin thực sự. Niềm tin có Chúa, niềm hy vọng vào sự Phục Sinh.
Thật vậy, nếu chúng ta biết nhìn lên Thánh giá mà nhớ lại rằng: Chính Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua đau khổ, thất bại, đòn vọt, chịu đội mạo gai và chết nhục nhã trên Thánh giá mới bước vào vinh quang Phục sinh. Những lúc đó, ánh sáng Phục Sinh sẽ len lỏi vào cõi lòng của chúng ta. Niềm hy vọng Phục sinh sẽ vụt lên trong tâm hồn của chúng ta, giúp chúng ta vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống.
2) Niềm tin Phục sinh giải thoát chúng ta khỏi tội: Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 1). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là gì nếu không phải là tâm trí luôn hướng về niềm hạnh phúc Thiên Đàng. Khi chúng ta nghĩ tới hạnh phúc Thiên Đàng, nghĩ tới sự sống lại, chắc chắn chúng ta sẽ chống trả được những cơn cám dỗ, tránh xa được những thói hư tật xấu, đam mê tội lỗi. Nếu có sa ngã phạm tội thì nhờ hướng tới hạnh phúc Thiên Đàng mà chúng ta quyết tâm thống hối ăn năn và đi xưng thú tội lỗi của mình để làm hoà cùngThiên Chúa.
3) Niềm tin Phục sinh giúp chúng ta biết sống tha thứ, yêu thương mọi người hơn: Khi chúng ta bị bỏ vạ cáo gian, bị đánh đập, bị ghét bỏ, bị lên án, bị đối xử tệ bạc bất công, chúng ta không phàn nàn kêu trách, không trả thù, trái lại yêu thương, cầu nguyện, lấy ơn đền oán là chúng ta đang hướng tới sự Phục sinh của Chúa.
Như vậy, niềm tin vào sự Phục sinh rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi người chúng ta. Tin vào sự Phục sinh sẽ giúp chúng ta vượt qua được mọi đau khổ; chống trả được các chước cám dỗ; giải thoát khỏi tội lỗi; dễ dàng chấp nhận những thiệt thòi mà người khác gây nên cho mình. Tin vào sự Phục sinh giúp chúng ta cố gắng sống tốt hơn, tha thứ và yêu thương mọi người hơn.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, Chúa đã từng mời gọi mọi người rằng: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”(Ga 11, 25). Xin cho mỗi người chúng con luôn xác tín vào sự Phục Sinh của Chúa để sống niềm tin đó ở đời này và ngày sau được Phục sinh với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ lễ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư.
Cv 10: 34a, 37-43
Đoạn sách Công Vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn sách Công Vụ nầy.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, khởi điểm đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng Thứ Ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, một Ki-tô hữu trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng cũng có thể là một nhân vật hư cấu biểu tượng “người Chúa thương mến” mà bất kỳ tên người Ki-tô hữu nào có thể điền tên mình vào đây.
Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
1. Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), nay sóng gió đã qua đi. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ lắng dịu nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
2. Thánh Phê-rô lần đầu tiên đến nhà một người ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô đang ở nhà tại Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Thánh Phê-rô đến nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm của thế giới ngoại giáo vào dân Chúa, nhưng dần dần lệnh cấm nầy phổ biến và tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.
3. Bài diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ đã minh chứng cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những người chứng kiến những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là cuộc Phục Sinh của Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử cả người sống lẫn kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến độ Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải tuyên xưng biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô phục sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
2. Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn. Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên. Chính kinh nghiệm này đã mở mắt họ và đã khai lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh.
Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác vẫn in dấu những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm củng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tận mức nầy cho đến phải hy sinh mạng sống của mình.
1. Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng Gioan dâng hiến cho chúng ta một bài trình thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, một bài trình thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.
2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong số các người phụ nữ đã cũng đi với Đức Giê-su và nhóm Mười Hai trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài khắp miền Ga-li-lê (Lc 8: 1-3); “các bà đã chứng kiến” cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su (Lc 23: 49); các bà cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, kiên vững bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25); và “các bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào” (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, các bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng các bà đến mộ “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà thúc đẩy bước chân dạn dĩ của bà ra đi càng sớm chừng nào có thể để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
Ở đây, Tin Mừng Thứ Tư chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, chính bản văn làm chứng rằng còn có các người phụ nữ khác cùng đi với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20: 2). Thật ra, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28: 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16: 1), riêng thánh Lu-ca còn kể ra nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24: 1). Nhưng trong số những người phụ nữ đó, bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh đầu tiên.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó). Bà là người được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật, và bà cũng là người đầu tiên được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ; vì thế, chẳng lạ gì truyền thống Giáo Hội gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, theo kiểu nói tuyệt đối của người Do thái, nghĩa là bà là “người được sai đi tuyệt hảo”.
3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình, nhất là cuộc phục sinh của anh La-da-rô, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy.
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế thánh nhân không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng bên ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước tiên. Ở nơi sự kiện này, thánh ký hàm ý rằng thánh Gioan nhận ra quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô. Thật ra, theo Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội sẽ được công bố chỉ sau khi Đấng Phục Sinh gặp gỡ các ông bên bờ hồ Ti-bê-ri-a vào bữa ăn mà chính Ngài đã dọn sẵn cho các ông trong sương mờ sáng sớm (Ga 21: 15-17), tuy nhiên đã được hàm chứa rồi ở nơi cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô khi Ngài long trọng đổi tên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha, tức là Phê-rô” (Ga 1: 42) và ở nơi sự kiện trước ngôi mộ này.
Như vậy, cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
4. Những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi.
Một mặt, hai ông không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng còn thấy những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này được lập lại đến hai lần (20: 5 và 6-7) đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm và khăn che đầu có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44)? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị những băng vải liệm buộc chặt thân thể của Ngài, biểu tượng xích xiềng của tử thần. Như vậy, La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của tử thần nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi tử thần từ nay không có quyền hành gì trên Chúa Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại tử thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và xao động đến mức thánh nhân đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến “gắn bó trọn vẹn” với Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống cùng với những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại gọn gàng và xếp riêng ra một nơi. Dù trước đây niềm tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy, tình yêu của thánh nhân đã không hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi bước theo từng bước chân của Thầy lên đến tận đỉnh đồi Sọ và chứng kiến giây phút đau thương sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này giờ đây dẫn đưa thánh nhân đến niềm tin vào sự Phục Sinh của Thầy ngay tức khắc. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân sẽ là người đầu tiên nhận ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên lại tin cái tối đa. Độ nhạy bén của con tim hỗ trợ cho thánh nhân rất nhiều để hiểu biết con người và sự vật. Quả thật, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của nó mà lý trí không sao hiểu được”.
5. Theo lời Kinh Thánh.
Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần đến ánh sáng của lý trí: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”. Lời này ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng khai lòng mở trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (x. Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí hai ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Thánh Vịnh 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2: 24-31). Quả thật, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh 16 những hàng nầy:
“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).
Vì thế, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo.
Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu sống lại hoặc tay cầm thánh giá nhỏ, hoặc lưng tựa vào cây thánh giá lớn. Đó là một sáng kiến gợi ý. Bởi vì sự phục sinh của Đức Kitô không thể tách rời khỏi thập giá. Hơn nữa, nhờ việc Đức Kitô sống lại, cây thánh giá không còn là biểu tượng của sự thất bại, mà đã trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng.
Thực vậy, khi các thượng tế và luật sĩ chủ mưu tiêu diệt Đức Kitô bằng bản án thập giá, họ ghét con người Đức Kitô thì ít, mà ghét chủ trương và đường lối của Người thì nhiều. Chủ trương của Người là bác ái. Đường lối của Người là cơi mở, bao dung, để phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, là tình yêu giàu lòng thương xót. Chủ trương ấy, đường lối ấy không phù hợp với họ. Hơn nữa, chủ trương ấy, đường lối ấy đã đụng chạm tới cái tôi ích kỷ, hẹp hòi và tự mãn của họ. Đó chính là những động lực thúc đẩy họ tiêu diệt Đức Kitô.
Thiết tưởng trong họ cũng có chúng ta. Vậy chúng ta đừng bao giờ chúng ta quên điều đó. Dù bị kết án oan và dù biết mình có sức thoát khỏi cuộc tử nạn, nhưng Đức Kitô, vì yêu thương, vẫn đễ cho các làn sóng hận thù, ghen ghét vùi dập Người cho đến chết. Kiêu căng và ích kỷ xem ra như đã thắng. Và thập giá bị coi như là dấu ấn thất bại được dành cho Đức Kitô.
Tuy nhiên, không phải là như thế, cái chết trên thập giá không phải là tiếng nói sau cùng. Bởi vì Đức Kitô đã sống lại vinh hiển. Khi sống lại rồi, Đức Kitô không oán thù ai, không phô trương gì cả, Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối và chủ trương của bác ái, của khiêm nhường, của bao dung, như những tháng năm về trước. Ngài vẫn dạy các môn đệ Ngài hãy sống như Ngài đã dạy và đã làm gương. Bởi vì chỉ tình thương mới có sức cứu độ, chỉ bác ái mới có sức phục sinh.
Như thế, nhờ sự sống lại của Đức Kitô, cây thập giá đã trở nên Tin Mừng, làm chứng cho một tình yêu chiến thắng. Chiến thắng bằng những phấn đấu gay go, dũng cảm và kiên trì chống lại những tội lỗi và những khuynh hướng xấu xa. Chiến thắng bằng những việc làm bác ái, cởi mở, bao dung, thăng tiến có kế hoạch và chấp nhận hy sinh.
Từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài, chúng ta đi đến một kết luận quan trọng, đó là kể từ nay, dù là ai, và dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng được Ngài lắng nghe, đón nhận và yêu thương, bởi vì Người là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Người đến để chúng ta có sự sống và được sống dồi dào. Người đã thắp lên trong cõi lòng chúng ta niềm vui mừng và hy vọng, bởi vì thập giá của Người là nguồn ơn cứu độ và cách sống của Ngài là con đường dẫn tới phục sinh. Hãy hân hoan bước theo Người và hãy vui mừng được thuộc về Người. Chính trong chiều hướng đó mà tôi xin cầu chúc cho mỗi người một lễ phục sinh đầy vui mừng và hy vọng với ơn lành và tình yêu thương của Đức Kitô.
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.
Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan. Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?
Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước, nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén, Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã tin.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy gồm những người như Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?
(Suy niệm Lễ Vọng Phục Sinh của Lm. Inhaxio Trần Ngà)
Hàng ngàn hành khách vượt Đại Tây Dương trên một con tàu biển lớn, không may, tàu bị va mạnh vào tảng băng trôi khổng lồ. Tảng băng đâm thủng thân tàu, nước biển tràn vào tàu dữ dội làm cho tàu ngập nước và chìm dần xuống biển.
Hàng ngàn hành khách tìm cách thoát ra khỏi chiếc tàu đang chìm đắm và đang chơi vơi giữa biển khơi giá buốt. Tất cả mọi người đều lo âu hoảng sợ. Người không biết bơi thì sau mươi phút uống nước đầy bụng là chìm. Người biết bơi cũng chỉ cầm cự được mươi tiếng đồng hồ rồi cũng chết, hoặc vì đói mà kiệt sức, hoặc vì nước biển quá lạnh nên phải chết cóng, hoặc vì phải làm mồi cho bầy cá mập háu ăn.
Trong cơn gian nguy đó, nhìn chung quanh chỉ thấy biển cuộn sóng mênh mông, nhìn xuống chỉ thấy nước sâu thăm thẳm, nhìn lên chỉ thấy bầu trời kéo mây đen nghịt. Nhìn chung quanh chỉ thấy bao nhiêu người khác cũng sắp chết đuối như mình.
Biết bám víu vào ai bây giờ? Sớm muộn gì rồi cũng làm mồi cho cá. Biết cậy nhờ ai bây giờ?
Giá như có một bàn tay to lớn mạnh mẽ nào đó từ đám mây đen thò xuống để cho những người sắp chết đuối nắm lấy thì hạnh phúc biết bao!
***
Con người sống trên đời nầy cũng như những người bị đắm tàu đang chơi vơi giữa đại dương đầy sóng gió. Số phận mỗi người chẳng khác gì số phận của người đắm tàu trên đây. Không sớm thì muộn, không nay thì mai, ai nấy đều phải chìm vào biển chết.
Có người phải chết sớm; số phận họ như số phận những người không biết bơi, hì hụp chốc lát rồi chết đuối. Có người được sống lâu hơn, số phận họ như số phận những người biết bơi, nổi lên được một thời gian, nhưng rồi cũng phải đắm chìm trong lòng biển chết.
Trước tình trạng đau thương và bi đát này, con người biết cậy dựa vào đâu? Ai có thể cứu vớt con người khỏi biển chết đang vây bọc tư bề? Tìm đâu ra một điểm tựa vững bền trên cõi đời này?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật, tai ương và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Tựa vào khoa học kỹ thuật tiên tiến ư? Các khoa học gia hàng đầu cũng đã lần lượt lìa đời vì chết chóc và bệnh tật.
Con người cũng không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo, sắp chết đuối như mình.
Vậy thì cần phải có một “Bàn Tay” đầy quyền năng từ trời cao vươn xuống mới có thể cứu vớt loài người đang đắm chìm trong biển chết.
Hạnh phúc cho chúng ta là những người may mắn tìm thấy “Bàn Tay” cứu vớt từ trời cao.
Chúa Giê-su chính là “Bàn Tay” đầy quyền năng của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn xuống để cứu vớt loài người đang chơi vơi giữa lòng biển chết.
Trong đại lễ phục sinh này, chúng ta hãy hân hoan vui mừng khôn xiết vì nhờ cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của mình, Chúa Giê-su trở thành “Bàn Tay” cứu độ, đang chìa ra để cứu vớt mọi người trên khắp thế gian.
Tuy nhiên, chỉ có những ai chấp nhận nắm lấy “Bàn Tay” từ trời này thì người đó mới được cứu độ mà thôi, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người và Ngài không thể cứu vớt những ai không muốn Ngài cứu vớt.
Muốn được cứu vớt khỏi biển chết đời đời thì chúng ta hãy nắm lấy “Bàn Tay” Chúa Giê-su, nghĩa là phải phó dâng đời mình cho Chúa và phải sống theo luật mến Chúa yêu người. Ai không mến Chúa yêu người như Chúa Giê-su truyền dạy, người đó tự xa lìa Chúa, nên không thể được cứu độ.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh,
Chúa chính là “Bàn Tay” thần diệu đầy quyền lực của Thiên Chúa Cha từ trời cao vươn tới mọi người sắp đắm chìm trong biển đời đầy sóng gió này.
Xin cho chúng con biết nắm chặt lấy bàn tay cứu độ của Chúa bằng đức tin, bằng lòng mến Chúa yêu người thật thiết tha mạnh mẽ, nhờ đó, chúng con sẽ được cứu thoát khỏi biển chết đau thương và được đưa vào vương quốc hằng sống muôn đời.
17. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
18. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du).
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Ga 11, 25).
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo Alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.
19. Chúa Phục Sinh là Tin Mừng cho nhân loại
(Suy niệm của Ngọc Biển)
LỄ VỌNG PHỤC SINH (Lc 24, 1-12)
“Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15, 14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15, 19),
Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.
Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.
Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.
1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ
Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác…
Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!
Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24 5-7).
Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).
Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.
Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.
Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!
Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài…(x. Mt 4, 18-22).
2. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta
Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.
Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo… nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.
Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.
Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.
Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.
Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.
Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước…
Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.
20. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
ĐỨC GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI THẬT VÀ CÁC CUỘC ĐỔI ĐỜI
Câu nói nổi tiếng của thánh Phaolô đã thể hiện niềm tin tuyệt đối, niềm hy vọng chắc chắn của ngài vào Đức Kitô Phục Sinh, ngài nói: “… nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14); “Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Ðức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 17-19). Đúng thế, nếu cả cuộc đời của mỗi chúng ta, sự hy sinh dài lâu cho một con người mà chính người đó lại kết thúc cuộc đời của họ qua cái chết thì quả là một điều vô lý, hão huyền, thua thiệt và dại dột. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng mà các môn đệ tin; nhiều người Dothái tin; Giáo Hội tin; và chúng ta tin, Ngài đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã sống lại thật.
Như vậy, niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu quả là khôn ngoan và có cơ sở vững vàng. Vậy tại sao biết được Đức Giêsu chết thật, và luận cứ gì làm bảo chứng cho niềm tin Ngài đã sống lại? Việc Ngài chết và đã phục sinh có để lại dấu ấn gì nơi những người tin hay không?
1. Đức Giêsu đã chết?
Đức Giêsu đã chết thật. Đây là lời khẳng định rõ ràng qua các chứng cứ sau:
Cái chết của Ngài là hệ quả của những phiên tòa do những tác động gây sức ép từ phía dân chúng, khiến những nhà lãnh đạo tôn giáo Dothái thời bấy giờ kết án tử Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã bị xử tử theo trình tự như: bị đánh đòn; vác thập giá; bị đóng đinh với hai tên gian phi trên đỉnh đồi Canvê.
Khi họ đóng đinh xong, Đức Giêsu đã chết thật, nên quân lính không đánh dập ống chân Ngài nữa, tuy nhiên để cho chắc ăn, một người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh nương long Đức Giêsu, tức thì máu và nước đã vọt ra cho thấy nhát đâm của người lính này đã đâm trúng tim của Đức Giêsu.
Sau đó, có các môn đệ thầm lặng của Ngài như Giuse Arimathia đến xin lĩnh xác Đức Giêsu để táng xác. Philatô đã đồng ý, nhưng ông vẫn phải hỏi lại viên sĩ quan phụ trách thi hành án xem Đức Giêsu đã chết thật chưa? Khi được trả lời là đã chết thật, Philatô mới cho phép tháo xác Đức Giêsu xuống để an táng. Và, họ đã an táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới.
Như vậy, Đức Giêsu đã chết thật. Không thể không tin vào chuyện này được. Tuy nhiên, nếu cái chết là điểm đến, là kết cục, thì nó là chuyện vô lý, không có gì để chúng ta bàn nữa. Nhưng cái chết đã không còn quyền chi đối với Đức Giêsu khi Ngài đã phục sinh.
2. Ngôi mộ bị bỏ trống
Trong kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu: “… ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Ngài đã sống lại và đã ra khỏi mồ. Vì thế, sự kiện ngôi mồ trống là điều mà mỗi người chúng ta cần quan tâm.
Tin Mừng cho thấy vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đi ra mồ, khi tới nơi, họ không còn thấy xác Đức Giêsu trong đó nữa. Các bà thì ngỡ ngàng và không hiểu tại sao lại như vậy? Phải chăng Ngài đã phục sinh như lời Ngài đã phán trước? Và thật thế, Thiên Thần đã trấn an các bà, để các bà khỏi hoảng hốt, khiếp đảm và bỡ ngỡ, Thiên Thần nói: “Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. (Mt 28, 5-6).
Còn đối với những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu thì có sẵn những âm mưu từ trước nên đã gán cho sự việc này giả thiết như sau: có thể các môn đệ của ông ấy đến ăn cắp xác Đức Giêsu và phao tin Ngài đã sống lại? Và những Thượng Tế, Kỳ Lão đã cho tiền quân lính để chúng đồng thuận với họ về ý tưởng này.
Tuy nhiên, giả thiết này đưa ra thật không có bằng chứng và đáng ngờ vì những lý do:
– Thứ nhất, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ họ đã nghe biết Đức Giêsu nói là sẽ sống lại, nên họ đã đề phòng cẩn thận, bởi vì nếu không lường trước sự việc, thì không khéo điều đó diễn ra thật thì chẳng khác gì như một cú tát, bát nước lạnh tạt vào mặt những kẻ kết án Đức Giêsu, còn với chính họ, chẳng khác gì tự mình ngửa mặt lên và nhổ nước miếng…?Vì thế, họ đã đặt một đội lính canh tinh nhuệ để trông chừng, phòng chống những rủi ro sẽ sảy ra.
– Thứ hai, nếu gán rằng có kẻ thù ăn cắp xác Đức Giêsu thì lại càng không ổn, vì nếu làm nhưu vậy thì vô hình chung lại là điều kiện tốt cho việc phao tin Đức Giêsu sống lại. Và tỷ lệ thuận là điều có thể xảy ra đối với những người đã từng cảm phục Đức Giêsu lúc Ngài còn sống.
– Thứ ba, điều này rất khó xảy ra vì các Tông đồ phần đông là dân chài lưới, ít học, lại kém tin nữa. Bằng chứng là khi cuộc thương khó của Đức Giêsu đến, các ông đã bỏ trốn, có kẻ còn trút lại cả quần áo để miễn sao thoát thân, rồi Phêrô là Tông đồ trưởng nhưng đã vì lo sợ mà trối cả Thầy mình, rồi sau khi Đức Giêsu chết, họ tụ họp với nhau nhưng cửa đóng then cài vì sợ người Dothái…, tiếp theo là sự thất vọng được lộ rõ trên khuôn mặt của hai môn đệ trên đường Emmau. Như vậy, không có lý do gì mà các môn đệ của Đức Giêsu làm được chuyện này trước một đội lính tinh nhuệ và có bề dày kinh nghiệm…
Như vậy, Đức Giêsu đã sống lại thật và sự kiện ngôi mồ trống là bằng chứng. Đây là dấu chỉ thứ nhất. Dấu chỉ thứ 2 là những lần hiện ra với nhiều người, nhiều nơi và cùng lúc, cũng như những người đó lần lượt nhận ra Ngài với những kỷ niệm và những dấu hiệu mà họ đã biết trước đó.
3. Những cuộc hiện ra
Điều đáng nói và cũng là quan trọng nhất, đó là tất cả những diễn biến qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Đức Giêsu đều được Kinh Thánh báo trước. Khi thì qua hình ảnh, dấu chỉ, tiên báo, hay do chính Ngài loan báo với các môn đệ: Thầy “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Và hôm nay, Ngài đã sống lại, đã hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28, 9-10; Mc 16, 9; Ga 20, 11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau (x. Mc 16, 12-13; Lc 24, 13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20, 19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28, 16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20, 16); những hành động Ngài làm (x. Lc 24, 35); hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24, 27.45)…
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28, 9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24, 15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20, 14;21, 4).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi…thì mới không tin mà thôi.
4. Những cuộc đổi đời
Cuối cùng, như trong phần mở đầu đã đề cập đến lời tuyên xưng của thánh Phaolô khi nói: “… nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14). Cũng vậy, nếu Đức Giêsu đã không sống lại thì làm sao có những cuộc đổi đời ngay tức khắc như vậy?
Các Tông đồ, là những người nhát đảm sợ sệt, ấy vậy mà sau biến cố phục sinh của Đức Giêsu, các ông đã trở nên mạnh dạn khác thường.
Nếu trước kia họ chỉ là người đi theo Thầy của mình, thì từ ngày Thầy mình phục sinh, các ông đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng bị đóng đinh và đã sống lại để rao giảng chân lý Tin Mừng.
Nếu trước kia, các ông là những người ít học, khô khan, kém hiểu biết, thì sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông đã hiên ngang, hùng hồn, uyên thâm khi rao giảng về Đấng đã bị chính dân mình giết chết.
Nếu việc Đức Giêsu sống lại chỉ là chuyện bịa đặt thì làm gì các ông lại dại dột mà đi phỉnh lừa người khác, trong khi mình còn biết bao chuyện phải lo… và các ông cũng đều biết rằng việc các ông rao giảng về Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc lãnh nhận sự liên klụy và sẽ có nguy bị giết chết.
Nhưng không! Các ông đã không sợ, bởi vì giờ đây, các ông mới hiểu rõ rằng Đức Giêsu là Chúa; là đường, là sự thật và là sự sống. Nên không có gì tách các ông ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là gian truân, thử thách, gươm đao và ngay cả cái chết, bởi vì mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, nên vì Ngài, các ông đành mất hết để được tất cả, và đỉnh cao của cái được đó là đồng hiển trị với Ngài trong Vương Quốc của Ngài.
Rồi trải qua biết bao thế hệ, trên khắp thế giới, có biết bao nhiêu con người đã bất chấp hiểm nguy, rừng thiêng núi độc, hiểm trở trăm bề, nhưng vẫn quyết chí lên đường để đi và đến nhằm loan báo Tin Mừng về một Đức Giêsu đã chết, đã phục sinh hầu cứu chuộc nhân loại…, và nếu cần thiết, các ngài sẵn sàng lấy mạng mình để minh chứng điều mình tin là thật. Các thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta là một điển hình.
Như vậy, không ai và cũng không thể nào kéo dài cả hơn 2000 năn nay với một câu chuyện, một niềm tin vô lý được! Và nếu tồn tại đi chăng nữa thì chúng ta là những kẻ ngu dốt nhất trong thiên hạ vì đã tin vào cái xác chết. Nhưng không! Chúng ta tin vào Đấng đã chết và đã phục sinh, và Đấng ấy có đủ quyền năng để dẫn đưa những ai cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh, vì Ngài đi trước dọn chỗ cho chúng ta.
Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thêm đức tin và vững lòng trông cậy theo Chúa đến cùng để được Ngài cho phục sinh vinh hiển. Amen.
21. “Chúa đã sống lại! Halleluya!”
(Suy niệm của Ngọc Biển)
Tin mừng Ga 20, 1-9: Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca “Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại? Dựa vào đâu để xác tín điều đó?
1. Ngôi mộ bị bỏ trống?
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Mácđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan. Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Mácđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế…và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt28:13-15).
Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không khả tín cho lắm vì những lý do:
– Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch (x. Mt 27, 62-66; 28, 13-15).
– Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế…Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén (x. Mt 27, 62 – 66).
– Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được (x. Ga 20:18-19).
– Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những người chủ động…
Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự phục sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa?
2. Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước
Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28, 9-10; Mc 16, 9; Ga 20, 11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emau (x. Mc 16, 12-13; Lc 24, 13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20, 19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14). v.v…; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28, 16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
– Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27);
– Nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20, 16);
– Những hành động Chúa làm (x. Lc 24, 35);
– Hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24, 27.45).
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28, 9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24, 15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20, 14;21, 4).
Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài đã được tông đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” (Ga 20, 28). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi…thì mới không tin mà thôi.
Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước.
3. Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta
“Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các tông đồ…, và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1Cr 15, 19), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã phục sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.
Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu […] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng đức tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.
22. Suy niệm các ngày trong tuần Bát Nhật PS.
* Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI – Đừng giữ Thầy lại! (Mt 28, 8 -15)
Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ, anh chị em hay con cháu của chúng ta, thường chúng ta hay ra mộ để cắm nhang, đốt nến… rồi khóc lóc thảm thiết… Hành vi này là lẽ thường tình và nó cũng rất nhân văn! Qua nghĩa cử này, người ta vừa biểu lộ niềm tiếc thương, vừa diễn tả tâm tình biết ơn với người đã khuất.
Cũng trong tâm trạng ấy, nên hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc các phụ nữ đi ra mộ để khóc thương và xức thêm dầu thơm vào xác Chúa. Họ là những người đã từng lặn lội theo Đức Giêsu trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, vì thế, tình cảm Thầy và trò thật thắm thiết, keo sơn, nên chuyện đi ra mộ để làm những việc trên là chuyện đương nhiên nơi một người có lòng mến…
Tuy nhiên, những gì diễn ra trước mắt các bà khi các bà đi ra mộ và chứng kiến đã là điều bất thường và không khỏi ngỡ ngàng! Ngôi mộ thì trống; xác thì mất; lại xuất hiện các thiên thần kèm theo lời loan báo giật gân: Chúa đã sống lại! Sự hốt hoảng, hoang mang chen lẫn vui mừng đang mãnh liệt xâm chiếm tâm hồn các bà.
Khi các bà còn đang quá bối rối, thì Đức Giêsu đã hiện ra với các bà và cất lên tiếng nói thân thương hồi nào: “Chào chị em!”. Khi nhận ra Chúa, các bà hết đỗi vui mừng và sụp lạy Ngài. Hành vi này cho thấy thái độ trân trọng, yêu mến và tôn thờ mà các bà dành cho Đức Giêsu. Thái độ này đi ngược hẳn với những động thái của nhóm Thượng tế và Kỳ mục! Họ là những người vốn đã có kế hoạch xóa sổ con người Giêsu cũng như những ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng và trong xã hội. Vì thế, họ lại tiếp tục đưa ra những kế sách mới, vu khống cho các môn đệ là đang đêm đến lấy xác Đức Giêsu và loan tin đồn là Ngài đã sống lại!
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, vì thế, Đức Giêsu đã hiện ra trực tiếp với các phụ nữ và trấn an các bà. Đồng thời ngay lập tức, Ngài muốn cho các bà vượt qua tâm lý, tình cảm tự nhiên, để đi đến một tình cảm trưởng thành và một tình yêu sứ vụ. Vì thế, Ngài nói: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
Sứ điệp của Đức Giêsu trao ban cho các phụ nữ cũng chính là sứ điệp cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: sống và loan truyền Chúa chịu chết, tuyên xưng Chúa sống lại cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết như mẫu gương của các phụ nữ hôm nay. Xin Chúa giúp cho chúng con khi đã yêu mến và tin tưởng vào Chúa, thì cũng can đảm ra đi chia sẻ niềm tin ấy cho người khác, để họ cũng gặp được niềm vui cứu độ như chúng con. Amen.
THỨ BA – Yêu để tin và làm chứng (Ga 20, 11-18)
Chuyện kể rằng: sau khi Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận bị bắt một thời gian, người ta không còn cách nào liên lạc được với ngài. Ngài đã đi vào cõi biệt vô âm tín. Vì thế, giáo dân nghĩ là ngài đã chết trong tù, nên nhiều người có lòng quý trọng, yêu mến và cảm phục ngài bởi nhân đức anh hùng, nhất là lòng đạo đức, nhân từ, hiền hậu và yêu thương, vì thế họ đã diễn tả lòng biết ơn và kính trọng của họ với ngài bằng cách: cầu nguyện và xin lễ cầu hồn cho ngài. Tuy nhiên, một thời gian sau, ngài được trả tự do và xuất hiện trước công chúng… Tin vui mừng này loan đi cách nhanh chóng, vì thế, chẳng mấy chốc, nhiều người đã biết được tin và họ không ngừng tạ ơn Chúa, trong số những người vui mừng nhất, có lẽ phải kể đến, đó chính là thân mẫu Đức Hồng Y.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy cảnh tang tóc, sầu thương, u buồn, tuyệt vọng đang bao phủ tâm trạng Maria Madalena! Bà buồn vì tình cảm mà bà dành cho Đấng đã yêu thương và cứu thoát bà khỏi chết, thoát ra khỏi con đường tội lỗi, ban những lời dạy tuyệt vời…, hơn nữa, sự hy vọng của bà vào Đấng đã chữa lành mọi bệnh tật, làm cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều… sẽ đem lại cho bà một chỗ dựa vững chắc… Nhưng sau những trận đòn chí mạng, những mệt nhọc của chặng đường lên Gôngôtha, và cuối cùng là cái chết trên thập giá và được an táng trong mộ như bao nhiêu người khác… đã làm cho bà thất vọng. Sự tuyệt vọng ấy đi đến đỉnh điểm là ngay cả xác chết rồi mà cũng còn bị mất… Như thế, đặt mình vào tâm trạng của bà, chúng ta mới thấy được sự xót xa buồn tủi là dường nào!
Tuy nhiên, giữa cảnh sầu thương tang tóc ấy, đã bừng lên một niềm vui vô đối, không gì có thể sánh bằng, đó là Tin Mừng Phục Sinh. Phần thưởng của Đức Giêsu dành cho bà chính là cho bà thấy Ngài và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào: “Maria”.
Gọi tên là dấu chỉ thân mật của Thầy và trò, của cha mẹ với con cái, của người mục tử với đoàn chiên. Gọi tên là dấu nhận và biết cách cụ thể, là bảo vệ chở che.
Vì thế, khi vừa nghe thấy Thầy gọi tên mình, bà đã vội vàng thưa: “Rapbuni” (nghĩa là: lạy Thầy).
Nếu việc gọi tên là dấu chỉ, cách thức cho biết người được gọi thuộc về người gọi và người gọi phải có bổn phận với người mà họ đã gọi, thì khi người được gọi nghe thấy và thưa lại chính là sự xác minh cách cụ thể mối tương quan trên.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta về Bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Khi lãnh nhận Bí tích này, chúng ta được đổi tên thành Kitô hữu và được gọi vào hàng con cái của Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Đức Kitô phục sinh.
Đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không ngừng tạ ơn Chúa và lo sống xứng đáng bổn phận của mình. Nhất là trở nên chứng nhân của Chúa phục sinh trong môi trường và xã hội hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban cho chúng con biết nhận ra tình thương của Chúa khi Chúa phục sinh chúng con từ đau khổ, tội lỗi thành bình an, hạnh phúc và niềm vui qua Bí tích Rửa Tội khi mỗi người chúng con được mang một tên mới và thuộc về Chúa. Amen.
THỨ TƯ – Lời Chúa đem lại niềm vui và hy vọng (Lc 24, 13-35)
Có những dấu chỉ, biến cố, sự kiện, khi nhắc đến, người ta nghĩ ngay tới một người hay nhóm người liên hệ.
Cũng vậy, hôm nay, khi nói đến làng Emmaus, người ta nghĩ ngay đến sự kiện, biến cố liên quan trực tiếp đến Đức Giêsu phục sinh. Emmaus cách Giêrusalem khoảng 29 km. Đây là đoạn đường mà hai môn đệ đã đi sau cái chết của Đức Giêsu.
Con đường Emmaus mà hai môn đệ hồi hương lần này là con đường mang đậm tâm trạng buồn chán và côi cút của hai môn đệ khi các ông trở về trong nỗi thất vọng vì lý tưởng sụp đổ. Buồn vì người Thầy quý yêu đã bị người ta giết chết cách oan nghiệt, phũ phàng. Thất vọng vì Thầy mình đã bị ngã gục cách ê chề dưới bàn tay hung ác của con người. Vì thế, tương lai, lý tưởng, vận mạng của mình cũng sụp đổ tan tành.
Những bước đi thất thểu và lầm lũi khi trời đã về chiều, cộng thêm sự cực nhọc, đói khát đã làm cho tinh thần và thể xác, cả hai cùng uể oải.
Đang mang tâm trạng u ám như vậy, Đức Giêsu đã hiện ra với hai ông và bộ hành cùng họ. Ngài nhỏ to chuyện đời, chuyện đạo với các ông. Tuy nhiên, vì nỗi kinh hoàng của cuộc khổ nạn, và nhất là cái chết tức tưởi trên thập giá của Thầy mình, nên các ông không hề nghĩ rằng Đấng đã chết thì cũng là Đấng Phục Sinh đang hiện ra và trò chuyện với các ông.
Tuy nhiên, lòng họ chỉ bừng sáng lên khi Ngài kể chuyện Kinh Thánh, và nhất là niềm hy vọng được nhóm lên nhờ việc Ngài soi sáng để các ông hiểu được về sứ vụ của Đấng Cứu Thế qua những đoạn Thánh Kinh nói về Ngài. Nhưng lòng họ vẫn nặng trĩu u buồn, nên Đức Giêsu giờ này vẫn chỉ là một vị khách quý trong tâm tưởng của họ.
Chỉ khi trời đã tối và các ông mời Ngài ở lại với và dùng bữa với tư cách là khách mời, rồi cũng lúc này, Đức Giêsu làm những cử chỉ quen thuộc như lúc sinh thời, khi ấy họ mới nhận ra và lòng họ bừng cháy lên niềm tin tưởng, hân hoan vì những lời Kinh Thánh nói về Ngài đã thực sự ứng nghiệm.
Tâm trạng của hai môn đệ này được ví như thửa đất khô cằn nay được nước tưới…, nên lập tức, họ đã quay lại với cộng đoàn và không ngừng tuyên tín những điều đã thấy, đã nghe cho những anh em còn ở lại Giêrusalem.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay dạy cho ta những bài học sau:
Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi.
Thánh Thể là niềm hy vọng, an ủi, là chóp đỉnh của cuộc đời chúng ta.
Khi đã lãnh nhận được niềm vui của Lời Chúa và sức sống nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng hãy lên đường để làm chứng và loan báo về Chúa cho người khác như hai môn đệ trên đường Emmaus hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy đến và hiện diện trong cuộc đời chúng con, để cuộc đời chúng con có Chúa là niềm vui, bình an, hạnh phúc. Xin cũng cho chúng con biết sẵn sàng lên đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa đến với những người đang thất vọng và đau khổ. Amen.
THỨ NĂM – “Bình an cho anh em” (Lc 24, 35-48)
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều người vênh vang tự đắc, kiêu ngạo, ích kỷ, bất nhân và luôn tìm cách hại người khác bằng nhiều thủ đoạn…! Lại có những người tự ty, buồn khổ, chán trường, thất vọng và đôi khi lại tìm đến cái chết để kết liễu cuộc sống mà họ cho là “bể khổ” trần ai.
Cả hai lựa chọn trên đều không tốt và không có hậu. Như thế, họ đều là những người gây gương xấu. Nguyên nhân cốt lõi của vấn đề khiến cho họ có những lựa chọn như vậy là: không có bình an thực sự trong tâm hồn.
Hôm nay, Tin Mừng thánh Luca trình thuật nỗi sợ hãi bao trùm lên các Tông đồ, mặc dù các ông đang được hai môn đệ trên đường Emmaus báo tin Chúa đã sống lại và đã hiện ra với các ông.
Nỗi sợ hãi của các môn đệ càng dâng lên tột độ khi thấy Đức Giêsu hiện ra và đứng giữa các ông.
Biết được tâm lý nơi môn sinh của mình, nên sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các ông và câu đầu tiên Ngài ban cho các ông là: “Bình an cho anh em”.
Đây là lời trấn an, sau hàng loạt những ngày đen tối trong lo âu sợ hãi…
Khi ban bình an cho các ông, Đức Giêsu muốn gạt đi nơi họ lòng sợ hãi đến tự ty, sự ngờ vực đến thất vọng… và khơi gợi lên trong lòng họ niềm tin và sự gắn bó với sứ vụ mà Ngài sắp trao phó.
Cũng từ đây, Đức Giêsu đã khai mở lòng trí để họ nhớ lại những đoạn Kinh Thánh đã nói trước về Ngài cũng như sứ vụ cứu chuộc mà Ngài đã thi hành.
Đến đây, các ông xác tín chính là Thầy mình đang hiện diện ở giữa họ, nên họ vui mừng khôn tả.
Chính niềm vui và bình an của Chúa phục sinh đã làm cho các môn đệ quên hết sợ hãi và lo lắng, vì thế, các ông đã sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, bất chấp mọi gươm đao hay đầu rơi máu đổ. Hơn nữa, các ngài còn coi những đau khổ đó là phần thưởng Chúa ban. Điều này đã được sách Công Vụ Tông Đồ nghi lại: “Chúng tôi vui mừng hân hoan vì thấy mình xứng đáng được chịu khổ vì Đức Kitô”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa. Trở thành nhân chứng của Ngài khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Nhưng trước hết, chúng ta phải có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn, để đẩy lui những lo lắng, sợ hãi, bực bội, tức giận, hận thù, ganh ghét, kiêu ngạo…, có thế, chúng ta mới trở nên chứng nhân của Chúa cách đúng nghĩa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban bình an của Chúa xuống cho chúng con, xin cho chúng con sau khi đã đón nhận được bình an của Chúa thì cũng biết chia sẻ bình an đó cho anh chị em chúng con. Amen.
THỨ SÁU – “Chúa đó!” (Ga 21, 1-14)
Sau khi nhận tin báo từ Maria Madalêna là các ông sẽ được thấy Đức Giêsu phục sinh tại Galilê (x. Mt 28, 10). Tuy nhiên, ngày và giờ thì không biết, nên trong khi chờ đợi, các ông đã tranh thủ đi đánh cá. Tuy nhiên, lần ra quân đầu tiên của các ông đã thất bại.
Thánh sử Gioan trình thuật: họ thức suốt đêm để đánh cá, nhưng tới sáng, họ vẫn trắng tay, không bắt được con cá nào!
Vì thế, họ sửa soạn giặt lưới để đi nghỉ sau một đêm vất vả cực nhọc. Đúng lúc ấy, Đức Giêsu hiện ra và đứng trên bãi biển gọi các ông với những từ rất thân thương, gần gũi: “Này các chú, không có gì ăn ư”. Khi họ đáp không có, Đức Giêsu truyền lệnh cho họ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Kết quả đúng như lời Đức Giêsu nói. Tổng tất cả là 153 con. Ngay lập tức, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nhận ra Thầy của họ và reo lên: “Chúa đó!”.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tác giả cho biết đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Tuy nhiên, lần này có những điểm đặc biệt vì ngoài việc củng cố niềm tin, chúng ta thấy có những tình tiết khác:
Thứ nhất, vâng lời Chúa thì sẽ được thành công cách mỹ mãn hơn cả suy tính của con người. Có Chúa mọi chuyện sẽ được êm đẹp. Thuyền đầy cá và lưới không rách chứng minh điều đó.
Thứ hai, qua mẻ cá lạ với 153 con, muốn nói lên các ông sẽ là lưới người như lưới cá và ơn cứu độ phải được loan đi đến với hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.
Thứ ba, công cuộc truyền giáo là của mọi người, không riêng rẽ. Vì thế, sự hiệp nhất để cùng nhau thi hành sứ vụ là điều cần thiết. Một mình không thể chu toàn. Lưới đầy cá và phải nhờ các thuyền khác cùng kéo lên cho thấy đặc tính này.
Cuối cùng, yêu mến thì sẽ nhận ra Chúa và đi vào mối tương quan mật thiết với Ngài cách đặc biệt như Gioan.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Sống tín thác vào Ngài ngay trong những biến cố đau buồn, thất vọng nhất của cuộc đời. Sống tình hiệp nhất, yêu thương và làm chứng cho Chúa trong thời đại chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin củng cố lòng mến và ban cho chúng con những ơn cần thiết để chúng con chu toàn trách nhiệm Chúa trao phó trong cuộc đời. Amen.
THỨ BẢY – Hãy đi và loan báo (Mc 16, 9-15)
Tại nhiều công ty, xí nghiệp, cuối năm, người ta hay có buổi tổng kết để rút ưu – khuyết điểm cho năm tới.
Hôm nay, tác giả Máccô cũng trình thuật một bài tổng hợp các lần hiện ra của Đức Giêsu với cá nhân; tập thể; với phụ nữ và đàn ông, cũng như diễn biến tâm trạng của từng lần… Cuối cùng là lệnh truyền sai đi để loan báo Tin Mừng mà các ông đã chứng kiến và tin: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”.
“Hãy đi”: đây chính là mệnh lệnh chứ không phải là lời khuyên. Lệnh truyền này được khởi đi sau khi Chúa đã phục sinh. Điều này cho thấy: Tin Mừng và niềm vui phục sinh phải là đích đến của người tông đồ.
“Loan báo Tin Mừng”: khi loan báo, Đức Giêsu – Kitô phải là điểm quy chiếu, là nội dung của lời rao giảng, chứ không phải là đối tượng hay tin nào khác…
“Loan báo cho mọi loài thụ tạo”, điều này muốn nói lên 3 chiều kích của sứ vụ: chiều dài tức là mọi lúc, chiều ngang là mọi nơi và chiều sâu là mọi người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy:
Mỗi người đều được Chúa tin tưởng và yêu thương để trao phó sứ vụ loan báo Tin Mừng của Ngài cho muôn dân.
Tuy nhiên, muốn rao giảng về Chúa cho mạnh mẽ thì người rao giảng phải là người xác tín mạnh mẽ như Maria Mácđala, hai môn đệ ở Emmau và các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Tin Mừng phục sinh của Chúa luôn được chúng con loan báo đến tận chân trời góc bể. Nhưng tiên vàn, xin cho cả cuộc sống chúng ta trở thành sứ điệp Phục Sinh cho mọi người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên biến cố Phục Sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó, Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, trò chuyện, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.
Đại lễ Phục Sinh giúp chúng ta tưởng niệm lại biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại; ngày Chúa sống lại ra khỏi mồ một cách vinh hiển. Biến cố ấy chính là niềm hy vọng, là điểm đến và mong ước của toàn thể nhân loại. nếu Chúa Giêsu không sống lại thì bao nhiêu hy sinh mơ ước của con người ở trần thế này không còn ý nghĩa gì nữa.
Để nói về sự Phục Sinh! là một điều rất khó thuyết phục cho những kẻ cứng tin, hay cho những người chống đối. Cũng còn một số những người tin đó là một biền cố thật sự thì lại cố ý bóp méo hoặc nói sai lệch đi vì một nguyên nhân nào đó, như những tên lính canh chẳng hạn. Còn cuộc sống tân tiến như ngày nay thì họ xem cuộc sống lại mai sau là một cái gì huyền bí giả tưởng. mọi điều ophải được chứng thực bằng mắt thấy tai nghe, bằng những phương pháp mà họ có thể thử nghiệm được thì họ mới tin. Cho dù chúng ta tin hay không thì Thiên Chúa chết và sống lại cũng là một chân lý mà tất cả sự kiện và lịch sử đó đã được xảy ra hơn hai ngàn năm nay. Và trong thực tế cũng có rất nhiều lý chứng xác nhận Đức Giêsu Phục Sinh là sự thật.
Ngôi mồ trống và khăn liệm.
Người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống là Maria Madalena, bà đã nhìn vào trong mồ và thấy ngôi mộ trống, mà cho dù ngôi mộ cố trống thì cũng không thể khẳng định là Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng lúc đó bà Madalêna cũng không nghĩ là Chúa đã sống lại thật. Bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là: “người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ”. Vật chứng tiếp thao là khăn liệm, một vật chứng rất có giá trị về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, hiện nay vẫn còn được giữ tại nhà thờ thánh Gioan, ở Turin Bắc nước Ý. Bên trong trong mồ các khăn liệm vẫn còn khác với Lazarô khi sống lại “chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn”. Khi sống lại Chúa Giêsu không cần đến sự trợ giúp của ai khác, Vì chính Người đã lăn tảng đá đóng kín mồ thề nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thế ấy. Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết của Madalena, cũng như những người cho rằng xác Chúa đã bị đánh cắp. Vì không đời nào người trộm xác lại có thời gian thảnh thơi lột các khăn liệm ra sắp xếp lại cho ngay ngắn rồi mới ôm xác đi. Điều đó thật vô lý.
Như vậy khăn che mặt còn là một dấu chỉ vững chắc cho việc Chúa sống lại. Cũng nhờ dấu chỉ này mà Gioan đã tin Chúa sống lại ngay khi vừa mới bước vào trong mồ. Đây cũng là dấu chỉ cho tất cả những người đang còn nghi ngờ về sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta không đích thân thấy Chúa sống lại để tin, thì chúng ta cũng phải biết nhìn vào các dấu chỉ này để tin.
Đời sống chứng nhân.
Đức tin cũa chúng ta chỉ có thể đặt trên nền tảng của các nhân chứng, của những người đã được sống với Chúa. Có thể nói họ là những người gần gũi với Chúa như “hình với bóng”. Hằng ngày họ được tiếp cận, gặp gỡ và hiểu Ngài hơn ai hết. Chính họ là những người đã chứng kiến tận mắt và sờ tận tay cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Người, và chứng từ của họ đã được chứng minh bằng chính giá máu, bằng chính cuộc sống của họ. Và như thề, chứng từ của họ là sự thật, vì không bao giờ có ai sẵn sàng chết cho một sự dối trá lừa đảo. Nhất là chứng thực của Thánh Phaolô. Ngày xưa Chúa vẫn là kẻ thù của Chúa, đi bắt đạo khắp nơi. Thế mà bỗng dưng ông thay đổi thái độ, bỏ chức quyền giàu sang, trở thàh thù địch của dòng họ chỉ vì tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Trước đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa Phục Sinh của ông và của các tông đồ, không còn có thể nói rằng chân lý ấy là một sự lường gạt dối trá nữa.
Cuối cùng ta cò thể kết luận: chúa giêsu đã sống lại và không ai có thể chối cãi. Những bằng chứng về sự Phục Sinh rất nhiều hiển nhiên, với hơn hai ngàn năm lịch sử, nếu là một chuyện hoang đường về một người tử tội sống lại sẽ không còn tồn tại như thế.
Lạy Chúa, biến cố Phục Sinh đã thắp lên trong tâm hồn con niềm hy vọng chứa chan, bởi vì nếu trung thành phụng sự Chúa, con cũng sẽ được chia sẻ. được sống lại trong vinh quang với Chúa. Amen.
25. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
CHÚA KITÔ SỐNG LẠI, NỀN TẢNG CỦA NIỀM TIN KITÔ GIÁO
Trong ba ngày qua, chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã chết thật và được mai táng trong mồ ba ngày. Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Kitô Phục Sinh. Đó là một biến cố gây ngạc nhiên, một sự kiện có một không hai trong lịch sử nhân loại và là nền tảng niềm tin của chúng ta.
Thánh Phaolô đã xác tín: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng”. (1 Cr 15, 14).
Niềm tin của chúng ta căn bản là tin vào Đấng Phục sinh và chúng ta đặt hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa Hằng Sống (1Tm 4, 10). Thánh Agustinô nói rằng: “Lòng tin của Kitô hữu là sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi tin Chúa Kitô đã chết thì không có gì là khó khăn cả, kẻ ngoại đạo cũng tin như vậy, và tất cả mọi người cũng đều tin như vậy. Nhưng điều cao cả hơn hết là tin Chúa Kitô đã sống lại thật”.
Nhưng tin vào Chúa sống lại không phải là một việc dễ dàng, vì chúng ta vẫn thường nghi ngờ làm sao có chuyện người chết sống lại? Vậy đâu là bằng chứng và nền tảng của niềm tin vào Chúa Kitô đã phục Sinh?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể giải thích sự sống lại của Chúa Kitô như một biến cố lịch sử, nghĩa là biến cố Chúa sống lại là một biến cố đã thực sự xẩy ra.
Những sự kiện sau đây có thể chứng minh sự sống lại của Chúa là có thật:
– Trước hết, Chúa Giêsu đã Chết thật
Bốn Phúc Âm đã kể lại vụ án và cái chết của Chúa xảy ra ngoài thành Giêrusalem là có thật. Chúa đã chết cùng với hai tội nhân và được mai táng trong mồ. Sử gia ngoại giáo là Giusepus cũng nói đến cái chết của ông Giêsu. Nếu Chúa không chết thì làm sao có chuyện phục sinh.
– Sự cứng lòng tin của các tông đồ
Các tông đồ là những người có thật, những người đánh cá đã theo Chúa. Khi thấy Chúa bị bắt và đem đi giết, rồi nhìn thấy Chúa chết trên thập giá, các tông đồ nghĩ rằng mọi sự đã kết thúc và ai nấy bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lúc đầu các ông không hề chờ đợi một sự sống lại, họ có tin đâu! Chúa Giêsu phải trách móc họ: “Ôi những kẻ kém lòng tin!” Họ chính là những người lúc đầu có quan niệm là bị Chúa lừa gạt. Nhưng sau đó họ đã tin là có thật. Nếu Chúa không sống lại thì làm sao họ có thể chịu bị bách hại và chịu chết vì Chúa được? Họ được lợi lộc gì khi phải chịu hy sinh như vậy?
– Ngôi Mộ trống cũng là một lời chứng về Chúa Phục Sinh
Chúa được chôn trong một ngôi mộ và việc Chúa chổi dậy và ra khỏi mồ cũng là một bằng chứng. Tin Mừng Luca kể các phụ nữ ra mộ Chúa. Các bà hoảng sợ vì không thấy xác Chúa mà thấy một người thanh niên ngồi bên phải nói rằng: Người đã chổi dậy rồi không còn đây nữa (Lc 16, 6).
– Và một bằng chứng rất quan trọng đó là các lần hiện ra của Chúa Kitô phục Sinh
Chúa hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emaus. Rồi sau hiện ra với các tông đồ và nhiều người khác, Chúa cho Tôma xem các dấu đanh vì ông nghi ngờ.
Chứng tá xưa nhất về Chúa Kitô sống lại là của thánh Phaolô khi Ngài nói: “Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh, Người đã hiện ra với ông Kê Pha rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó phần đông hôm nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến Người cũng hiện ra với ông Giacôbê rồi với tất cả các Tông đồ. Sau hết Người cũng đã hiện ra với tôi là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cor 15, 3-8). Những lời này được viết ra vào năm 56 hay 57 sau C.N. Vì Phaolô đã gặp Đấng Phục sinh trên đường đi Đamas để bắt bớ giáo hội vào khoảng năm 35 sau C.N, nghĩa là khoảng 5 năm sau khi Chúa Kitô chết. Vì thế, đó là một chứng nhân lịch sử rất có giá trị.
Những cuộc hiện ra này chứng minh những điều mới mẻ về Chúa Kitô Phục Sinh. Ví dụ không phải ai cũng có thể thấy Chúa được nhưng chỉ những người Chúa cho thấy mới thấy Chúa được mà thôi. Thân thể Chúa hoàn toàn khác biệt với ngày trước. Chúa không còn lệ thuộc vào những định luật vật chất. Chúa đi ra vào mà cửa nhà vẫn đóng kín; cũng như Chúa hiện ra và biến đi.
Đây là những bằng chứng khách quan về sự sống lại của Chúa Kitô. Nhưng biến cố Chúa Phục sinh phải được đón nhận bằng đức tin mà thôi vì lý trí không thể lý giải được tại sao. Cho nên chúng ta cần phải có đức tin để hiểu biết và đón nhận biến cố quan trọng này.
Xin Chúa Kitô phục sinh ban cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và vững vàng để chúng ta sống và làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh trong thế giới hôm nay. Amen.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Chúa Kitô đã chết và sống lại như các vị thần Osiris, Adonis trong các tôn giáo cổ xưa bên Ai Cập hoặc như Sơn Tinh, Thủy Tinh trong thần thoại Việt Nam? Không phải. Các vị thần nầy chỉ là huyền thoại biểu tượng cho sức sống của thiên nhiên, họ chết đi và sống lại mỗi năm theo mùa. Trái lại, Chúa Kitô là một nhân vật hiện thực, đã chết và sống lại chỉ một lần cho mãi mãi.
Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Người đã chết thực, nhưng hình ảnh Người còn sống động trong tâm hồn tín hữu giống như văn hào Nguyễn Du đối với người Việt, hoặc công chúa Diana đối vối bao nhiêu người mộ mến cô? Không phải. Những người này đâu còn sống nữa, chỉ còn lại tác phẩm hoặc hình ảnh của họ thôi. Trái lại, Chúa Kitô đã chiến thắng cái chết và sống thực sự.
Chúa Kitô sống lại. Phải chăng sau khi Người chết, Thiên Chúa đã cho Người sống tiếp tục như trước kia, giống như phép lạ xảy ra cho chàng thanh niên ở Naim hoặc ông Ladarô? Không phải. Những người nầy do phép lạ được sống lại, nhưng vẫn mang thân phận con người và sau đó cũng đã chết. Trái lại, Chúa Kitô sống lại có một cuộc sống mới mà cái chết không còn quyền lực gì trên Người nữa.
Chúa Kitô sống lại. Phải chăng có nghĩa là linh hồn Chúa Kitô rời khỏi xác để về quê trời? Không phải. Bởi vì linh hồn mọi người, ít nhất là các người công chính, sau cái chết cũng đều được như thế. Trái lại, sự sống lại của Chúa Kitô hiển nhiên là một biến cố duy nhất, có một không hai.
Vậy Chúa Kitô sống lại có nghĩa là gì? Có nghĩa là Chúa Giêsu đã bị xử án và chịu tử hình, nay sống lại một cách mới mẻ qua tác động quyền năng của Thiên Chúa. Có nghĩa là biến cố này không chỉ ăn thua đến cá nhân Người: được Thiên Chúa cứu độ; nhưng hơn nữa, Phục Sinh là một biến cố liên quan đến tất cả chúng ta: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta và Người đã sống lại đi trước chúng ta. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên Thánh Thần Người ngự trong chúng ta, tác động giúp chúng ta chỗi dậy sau những thất bại hoặc ngã lòng. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên sức sống của Người ở trong chúng ta, sức sống đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu như Người.
Nói đến niềm tin của Giáo Hội trước tiên là nói đến niềm tin của các vị tử đạo.
Trước tiên là những người đã chứng kiến cái chết của Chúa Kitô trên đồi Golgôta, trước kia họ đã đặt một niềm hy vọng lớn lao nơi Người và sau đó họ đã thất vọng khi Người chết: bà Mađalêna, ông Phêrô và các tông đồ. Sự biến đổi lớn lao trong niềm tin của họ đã xảy ra chính ở cuộc gặp gỡ Đấng Phục sinh: Người đến với họ mỗi người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.
Với những tông đồ nhút nhát sợ sệt, trốn tránh ở Giêrusalem, Người hiện ra cho họ xuyên qua cửa đóng kín;
với những ngư phủ đã trở lại nghề đánh cá cũ vùng Galilêa, Người hiện ra cho họ ở bờ hồ;
với hai môn đệ thất vọng rời Giêrusalem để đi về Emmau, Người hiện ra cho họ trên đường đi;
với người đàn bà đau buồn vì tang tóc, Người hiện ra cách riêng ở khi vườn gần mồ;
với Phaolô, kẻ tiếp tục bắt giết Người, Người hiện ra cho ông như là kẻ “đã yêu thương ông và hiến mạng cho ông”. Đấng Phục Sinh đã gặp họ, và, do đó, họ đã biến đổi hoàn toàn.
Họ chứng minh niềm tin Phục sinh đó bằng lời nói, bằng lòng can đảm, bằng chính mạng sống họ, từ thuở đầu tiên, trải qua nhiều thế kỷ mãi cho đến những vị tử đạo ngày nay. Đó là niềm tin Giáo hội cử hành trong ngày lễ hôm nay.
Chúa Kitô luôn tiếp tục đến với mỗi người trong chúng ta, xin Người biến đổi chúng ta nên những chứng nhân của Người.
28. Niềm vui thay đổi lòng người
Người ta thường nói: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Niềm vui sẽ làm cho con ng ười người ta phấn khởi và sống lạc quan hơn. Hơn nữa, niềm vui còn có sức làm thay đổi lòng người. Chúng ta đã qua Mùa chay của năm Phụng vụ 2008 và chúng ta đang cùng với Giáo hội bước sang mùa Phụng vụ mới – mùa Phục sinh. Ðây là mùa vui nhất trong cả năm Phụng vụ. Vui mừng vì Ðấng Cứu Chuộc chúng ta thật sự đã sống lại. Vui mừng vì Thầy của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vui mừng vì ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang như Chúa của mình.
Như chúng ta đã từng học trong giáo lý có hai dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thật sự sống lại: một là ngôi mộ trống với khăn liệm xếp ngay ngắn; hai là Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với nhiều người. Chẳng hạn như với Phêrô, Gioan hay như với Mađalêna.
Có một dấu hiệu khác mà có lẽ chúng ta ít để ý nhưng lại hết sức quan trọng. Ðó là sự thay đổi thái độ của các Tông đồ. Như chúng ta biết khi Chúa Giêsu bị bắt thì các Tông đồ như rắn mất đầu. Các ông chỉ còn biết trốn vào phòng đóng kín cửa mà không dám ra ngoài. Chỉ có Gioan là theo Chúa Giêsu tới cùng. Phêrô chạy theo nhưng khi bị người ta hỏi thì đã vội chối leo lẻo đến 3 lần. Còn các Tông đồ khác thì chẳng ai dám theo. Thế nhưng, Tin mừng phục sinh đã làm thay đổi hẳn thái độ của các ông. Từ những người nhút nhát sợ sệt chuyển sang can đảm, hăng hái đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Tâm lý thông thường khi có niềm vui thì chúng ta khó mà giữ riêng được cho mình. Chúng ta phải tìm mọi cách để cho nhiều người biết càng tốt. Bởi lẽ, “niềm vui chia sẻ thì nhân đôi còn nổi buồn chia sẻ thì vơi đi một nửa “. Các Tông đồ cũng thế, với Tin mừng phục sinh – một Tin mừng trọng đại các ông không thể ở mãi trong phòng được. Giờ đây các ông đã mạnh dạn mở toang cửa và chia mỗi người một ngã đi loan Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Qua Mùa Chay, Chúa và Giáo hội đã cho chúng ta nhìn ra được con người thật của mình: là một thụ tạo yếu đuối không hơn không kém. Dầu vậy chúng ta được chính Ðấng Tạo Hóa yêu thương là dường nào. Bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta cảm thấy vui mừng. Lại nữa Chúa Giêsu còn hứa: “Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 3). Cho nên, nếu nh ư Chúa của chúng ta đã phục sinh vinh hiển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Người. Ðó là niềm tin của người mỗi người tín hữu chúng ta. Là những người tín hữu, chúng ta hãy sống như thế nào để mọi người xung quanh nhận thấy được đạo của chúng ta thật sự là đạo của niềm vui. Một gương mặt nhăn nhó, một lời nói xúc phạm đến danh dự của người khác hay một cử chỉ lừa dối chắc không thể loan báo Tin mừng phục sinh được.
Trong gia đình vợ chồng con cái biết hy sinh, đùm bọc, tha thứ và nhường nhịn nhau.
Trong cùng lối xóm biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Bởi lẽ “Bà con xa không bằng láng giềng gần”.
Trong cùng họ đạo sống đoàn kết và lắng nghe nhau.
Khi sống tốt như vậy là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình cũng như đang loan báo Tin mừng Phục sinh.
Nguyện xin niềm vui phục sinh luôn ở mãi với gia đình cũng như từng người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Sợi chỉ đỏ:
Những lời chứng về việc Chúa Giêsu sống lại:
– Bài đọc I (Cv 10, 34a.37-43): Lời chứng của Thánh Phêrô
– Tin Mừng (Ga 20, 1-9): Lời chứng của Thánh Gioan tông đồ
– Bài đọc II (Cl 3, 1-4; hoặc 1 Cr 5, 6-8): Lời chứng của Thánh Phaolô
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
– Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
– Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Cv 10, 34.37-43)
Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết: việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người: “Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội”. Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.
2. Đáp ca (Tv 117)
Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường”
3. Tin Mừng (Ga 20, 1-9)
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này: Maria Mađalêna, Phêrô và “người môn đệ kia” (tức tông đồ Gioan).
– Khi ấy là “sáng sớm khi trời còn tối”: họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
– “Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”: “địa chỉ” của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (1, 38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi “Thầy ở đâu?” lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết “địa chỉ” của Ngài.
– Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều “chạy”: Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan “cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn”. Họ “chạy” để làm chi? Để tìm đến “địa chỉ” Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
– Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình “môn đệ kia” đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên “đã thấy và đã tin”. Gioan đã tìm được “địa chỉ” của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến “địa chỉ” này (“Thầy về cùng Cha Thầy”: xem Ga 7, 33-34 8, 21 13, 33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Cl 3, 1-4; hoặc 1 Cr 5, 6-8)
Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. “Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô”
Đức tin của chúng ta thường có tính cách “quy thần”, nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.
Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào?
Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô:
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn: Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành “Đức Chúa”, “Thiên Chúa của sự sống”, luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người: cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta: nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, “và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa” (Bài đọc II), vì thế chúng ta “hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới”.
2. Đi thăm mộ
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
– Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.
Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật: Thầy của họ đã chết thật rồi !
Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo “Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại”. Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.
– Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự: Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)
3. Kỷ nguyên cứu rỗi
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ…
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo:
– Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích:
– Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
***
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23, 5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ “đang “tập họp trong nhà cửa đóng kín, ” – trên bờ biển Tibêria. Và Người” vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ “tin vào” Người, ” ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo?” (Rm 8, 35).
Vì thế,
Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết: Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)
4. Mầu nhiệm Vượt qua
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.
Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc:
– Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
– Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
– Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.
Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.
Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.
Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng “Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy” (1Pr.1, 3-9).
Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng: “Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa” (Pl.3, 1).
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.
Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.
Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.
5. Lăn tảng đá ra khỏi mộ
Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây?”
Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.
Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)
6. Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ
Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân.
Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.
Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an.
Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời.
Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.
Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.
7. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu (+ 407)
Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.
Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.
“Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ” (Mt 28, 6), nghĩa là “Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.
“Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy” (Mt 28, 10), nghĩa là “Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng”.
Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng “Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng”
Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.
2. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.
3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.
4. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần là Đấng cho chúng ta được tham dự vào sự sống và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Vậy chúng ta hãy kết hợp với Chúa Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha những lời cầu nguyện do chính Chúa Giêsu dạy.
– Sau Kinh Lạy Cha: “…. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Chúa Giêsu phục sinh luôn chúc cho các môn đệ…”
VII. GIẢI TÁN
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong thế giới. Chúng ta hãy làm chứng cho Ngài, làm chứng về niềm vui và sự bình an của Ngài. Alleluia, alleluia.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Tour de France thường được xem như là cuộc đua xe đạp khó khăn nhất thế giới mặc dù thật ra địa hình đường đua không đòi hỏi cao hơn hai cuộc đua xe đạp vòng quanh quốc gia khác: Giro d’Italia (Vòng đua nước Ý) và Vuelta a Espana (Vòng đua Tây Ban Nha). Đúng ra chính là các tay đua đã làm cho cuộc đua khó khăn hơn: ở đây người ta đua nhanh hơn, cứng rắn hơn và không nhân nhượng nhiều hơn tất cả các cuộc đua xe đạp khác.
Cuộc đua bắt đầu từ năm 1957 bằng phần gọi là prologue (khởi đầu), phần đua cá nhân tính giờ (khoảng 5 đến 10 km). Trong 20 chặng đua tiếp theo đó, sau mỗi chặng thường có 1 đến 2 ngày nghỉ, nước Pháp được luân phiên chạy vòng theo chiều kim đồng hồ hay ngược lại. Sau vụ tai tiếng về chất kích thích (doping) trong năm 1998, chiều dài tổng cộng được giảm còn vào khoảng 3.500 km. Đường đua và các địa điểm cho từng chặng thay đổi hằng năm, chỉ có đại lộ Champs Élysées ở Paris, địa điểm chấm dứt Tour de France từ năm 1975 là không thay đổi. Một số đèo qua núi cao cũng được đưa vào đường đua hầu như mỗi năm.
Các ngày đầu tiên của Tour de France hầu như lúc nào cũng mang dấu ấn của các chặng đường bằng phẳng miền bắc nước Pháp, thích hợp cho các cuộc so tài ở tốc độ nhanh trước khi kết quả chung cuộc được quyết định trên các vùng núi cao Pyrénées và Alpes. Ngoài ra trong Tour de France còn phải đua tính thời gian cá nhân hai lần và từ năm 2000 lại có đua tính thời gian thời gian đồng đội.
Ngay từ thời kỳ đầu, đường đua đã vượt biên giới nước Pháp trong vài chặng riêng lẻ, từ năm 1954 địa điểm xuất phát cũng được tổ chức trong các nước lân cận không theo một quy luật nhất định (cho đến nay là ở Đức, Tây Ban Nha, Ý các nước thuộc nhóm Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan, Luxembourg), Thuỵ Sĩ, Anh và Ireland. Kế hoạch tổ chức xuất phát Tour de France từ New York hay từ các phần đất nước Pháp ngoài Châu Âu tuy đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa được thực hiện, vì các vấn đề về tiếp vận quá lớn. (Wikipedia)
Cuộc đua Tour de France tranh chiếc áo vàng, cùng tiền thưởng sôi động hằng năm, có thể gợi ý cho Tín hữu Kitô nhớ đến cuộc chạy của quý bà đạo đức, hai môn đệ Phêrô và Gioan, hối hả không kém, cùng chạy ra ngôi mộ trống tìm Chúa Phục Sinh. Tuy chẳng danh lợi, nhưng phần thưởng cực kỳ cao quý. Mỗi người tham gia đều nhận được một phần thưởng riêng, tuỳ theo thành quả đạt được từ tình yêu, tâm hồn nhiệt thành và quyết tâm tích cực.
Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca của đêm vọng Phục Sinh, không nhắc đến kết quả mỹ mãn của bà Maria Mắcđala, nhưng các thánh sử Matthêu, Marcô và Gioan đều công bố bà Mắcđala đã được gặp Đức Giêsu sống lại. Vậy bà chính là người đầu tiên được diễm phúc hạnh ngộ với Chúa Phục Sinh. Nhờ đâu bà được diễm phúc như thế?
Lửa mến
Thánh sử Luca chỉ vắn tắt kể về bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đi viếng mộ. “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn…” (Lc 24, 1-11) Ba thánh sử còn lại đều tường thuật tương tự, nhưng khá chi tiết hơn. Chính xác, thánh sử Máccô còn quả quyết khẳng định: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mắcđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc 16, 9) Thánh sử Gioan còn đặc biệt dành riêng một trường đoạn tường thuật khá tỉ mỉ cuộc hạnh ngộ: ”…. Bà Maria Mắcđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20, 11-18)
Sau khi được Đức Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ ám, khỏi những tội lỗi chế ngự, bà Maria Mắcđala hân hoan đón nhận ơn gọi theo Chúa ngay từ Galilê. Hăng say, nhiệt thành, rộng rãi, bà đóng góp của cải, lẫn công sức vào hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Thời gian sau đó, Ngài rảo qua các thành, các làng, mà rao giảng và loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Có nhóm mười hai đi với Ngài, và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỉ dữ cùng đau yếu: Maria gọi là người Mắcđala, có bảy quỉ đã xuất ra khỏi bà và Yoanna vợ của Khuza, viên quản lý của Hêrôđê, và Susanna cùng nhiều bà khác: họ đã lấy của cải của mình mà trợ giúp Ngài.” (Lc 8, 1-3)
Trong khi các môn đệ đồng loạt trốn chạy, bỏ rơi Đức Giêsu cô đơn chịu khổ nạn, bà Maria Mắcđala và các bà đạo đức vẫn âm thầm đồng hành với Người suốt chặng đường thập giá. Cả bốn thánh sử đều ghi tỏ tường bà Măcđala và các bà đứng chứng kiến giây phút sầu thảm trên đỉnh đồi Golgotha. (Mt 27, 55-56; Mc 15, 40-41 & Lc 23, 49) Dưới chân thập giá, ngoài Đức Mẹ Maria và môn đệ Gioan, vẫn không thiếu vắng Maria Mắcđala. (Ga 19, 25)
Rồi bà Maria Mắcđala và các bà cũng tiếp tục hiện diện trong cuộc mai táng Đức Giêsu trong mồ do ông Giôxếp chủ trì tẩm liệm, với “chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương”. (Mt 17, 57-61; Mc 15, 42-47; Lc 23, 50-55). “Cùng đi với ông Giôxếp có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày Sabát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền.” (Lc 23, 55-56)
Chỉ có thể lý giải vì lửa mến hừng hực, nồng nàn, mãnh liệt, bà Maria Mắcđala mới có thể trung thành, kiên trì theo Chúa từ Galilê đến tận đỉnh Golgotha. Chẳng lo ngại tính mạng, chẳng sợ bạo lực quân dữ, lẫn cơn say máu của giới lãnh đạo tôn giáo và quần chúng điên cuồng, bà Maria Mắcđala và quý bà đấm ngực, đau đớn, khóc lóc than thở, đều can đảm đồng hành với Chúa chịu khổ hình, đến tận Núi Sọ. “Ði theo Ngài, có đám dân đông đảo cùng phụ nữ: các bà này đấm ngực và khóc than Ngài.” (Lc 23, 27)
Tình yêu còn thêm đậm đà ngát hương từ bình dầu thơm, mang ra mộ vào sáng sớm tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần. Thánh Luca có lẽ muốn diễn tả lửa mến rất nồng thắm, thuần khiết, tinh tuyền và bền vững của bà Maria Mắcđala dành cho Đức Giêsu.
Niềm tin
“Làm sao các ngươi đi tìm Ðấng sống giữa những người chết? Ngài không có đây, nhưng đã sống lại. Các ngươi hãy nhớ lại Ngài đã nói làm sao với các ngươi, khi còn ở Galilê, rằng: “Con người phải bị nộp trong tay những người tội lỗi, bị đóng đinh thập giá, và sống lại ngày thứ ba.” Lời thiên sứ phán dạy, mặc khải trực tiếp mầu nhiệm Phục Sinh cho bà Maria Mắcđala và những người đi cùng.
Đồng thời thiên sứ trao cho họ trách nhiệm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh. Nhờ tình yêu Chúa dẫn dắt, họ sớm được vinh dự đón nhận hồng ân tin cậy vào Lời Chúa. “Và họ đã nhớ lại các lời của Ngài.” Vội vàng trở về, Bà Maria Mắcđala đã thành chứng nhân, Tông đồ cho các Tông đồ (Apostola Apostolorum). “Ði thăm mộ về, họ đã nói lại hết các điều đó cho nhóm Mười một, và các kẻ khác hết thảy, Ðó là các bà Maria người Mắcđala, Gioanna, và Maria mẹ của Giacôbê. Và các bà khác làm một với họ, đều nói các điều đó với các tông đồ. Nhưng trước mắt các tông đồ, các lời nói ấy có vẻ là lời nói sảng, và họ không tin các bà.”(Lc 24, 9-11)
Tiếc thay, các đấng còn nặng nề thành kiến, kỳ thị, phân biệt giới tính, không hề tin họ. Bất ngờ cuộc đua marathon xảy ra tự phát giữa các ông Phêrô, Gioan và bà Maria Mắcđala. ”Nhưng Phêrô chỗi dậy chạy đến mồ. Cúi mình nhìn vào, ông thấy chỉ có những dải vải mà thôi. Và ông lui về nhà, kinh ngạc về sự đã xảy ra.” (Lc 24, 12)
Hạnh ngộ
Chung cuộc, chỉ có ông Gioan“đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 8) Còn ông Phêrô vốn thủ lãnh, thì chỉ dám dè dặt ghi nhận sự kiện nóng bỏng ngôi mộ trống, cùng băng vải và khăn che đầu đã cẩn thận sắp xếp lại. “Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.” (Ga 20, 10)
Chỉ còn lại kiên trì một mình bà Maria Mắcđala, nước mắt giọt vắn giọt dài, vừa thống hối tội lỗi mình, vừa thương nhớ Đức Giêsu, lẫn hy vọng trông cậy. “Bà Maria Mắcđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ.” (Ga 20, 11) Bà lại thấy hai thiên thần mặc áo trắng xoá. “Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu. Nói xong, bà quay lại và thấy Ðức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20, 13-15)
Trước lửa mến nồng nàn, tuyệt đỉnh yêu thương, Đức Giêsu không thể nào nhẫn tâm làm ngơ, chẳng nỡ từ chối lòng khao khát cháy bỏng. Bà Maria Mắcđala liền được diễm phúc hạnh ngộ, được Người thương yêu đáp lại, gọi đích danh. “Ðức Giêsu gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!”nghĩa là “Lạy Thầy, ” Ðức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20, 16-17)
Tình yêu dẫn đến niềm tin, rồi niềm tin dẫn đến cậy trông, hy vọng và tình yêu đáp lại. Bà Maria Mắcđala đã chân thành yêu Chúa, hoàn toàn tin Lời Chúa và đã hạnh phúc gặp được Chúa Phục Sinh. Bà đã nghe, đã sống trọn vẹn Tin Mừng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Lc 11, 9-10)
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh hằng sống, Chúa đang hiện diện bên con, đang ẩn giấu trong anh chị em tha nhân. Xin Chúa mở mắt, mở tai, mở tâm hồn chúng con, để chúng con hạnh phúc như bà Maria Mắcđala, được gặp Chúa, nhìn thấy Chúa, cũng như lắng nghe được tiếng Chúa luôn mời gọi chúng con mãi đi theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, suốt đời Mẹ đồng hành cùng Chúa, nhất là trong mầu nhiệm thương khó và Phục Sinh. Xin Mẹ san sẻ, thương ban cho chúng con tình yêu Mẹ dành cho Con Mẹ, để tâm hồn chúng con bùng lên, nóng hổi lửa mến, niềm tin, đức cậy, để luôn được hạnh ngộ cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
32. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.
Nẻo đường của ông Phêrô
Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa. Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó. Vẫn hăng hái và nhiệt thành. Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.
Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ. Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa. (ĐGM Fulton Sheen)
Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển. Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá. Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Tức thời trúng thật đậm. Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.
Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại. Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.
Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn. Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi. Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?
Nẻo đường của ông Gioan
Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (Ga 20, 5) Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt. (Mc 14, 51) Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong. (Ga 18, 16). Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.
Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến. Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này. Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh? Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng? Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?
Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi… Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20, 7- 8)
Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc. Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.
Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn. Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.
Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa. Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không? Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?
Nẻo đường của bà Maria Mácđala
Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3). Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo. Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn. Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu. (Ga 19, 25), Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ. (Lc 24, 55)
Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài. Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra. Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.
Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh. Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng. Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện. Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn. Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại. (Ga 20, 16)
Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian. “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20, 17)
Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han. Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.
Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài. (Đường Hy Vọng, 964)
Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.
33. Phục sinh niềm hy vọng của nhân loại
Hôm nay toàn thể Giáo hội cử hành đại lễ Phục sinh. Đây là ngày mà Đức Kitô, người anh của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và chỗi dậy vinh quang tử nấm mồ. Ngài đã thực hiện điều này không phải cho chính Ngài nhưng là cho tất cả chúng ta. Ngài muốn chúng ta cũng được thông phần, sẻ chia chiến thắng vĩ đại trên tội lỗi và bóng đêm sự chết bằng cách tin cậy và hy vọng vào Ngài.
Đúng thế! Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì lý do của chúng rất đơn giản. Vì dù là biến cố vĩ đại, nhưng biến cố này đã được Đức Kitô thực hiện cách âm thầm, khiêm tốn. Chúa Giêsu phục sinh không xuất hiện một cách long trọng, vẻ vang trong đền thánh Giêrusalem để cho những người nỗi nang trong xã hội Do thái thời bấy giờ chiêm ngưỡng. Nhưng Ngài xuất hiện cho những người tầm thường, những người do chính Ngài ọi tên, những người cùng Ngài bẽ bánh, những người biết lắng nghe những lời bình an của Ngài… đặc biệt là những người biết ý thực được sự xuất hiện của Ngài. Và thậm chí họ là những người đã từng gặp khó khăn trong niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Tin vào biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu đã là một điều không phải dễ. Nhưng sống niềm tin ấy lại là một việc vô cùng khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại hành trình đức tin và thái độ của Phêrô, Gioan và Maria Macđala trước biến cố Phục sinh của Chúa.
Thời Chúa Giêsu, chắc chắn có rất nhiều người đến nghe Ngài rao giảng. Và chắc chắn tất cả những người trong nhóm họ ít hay nhiều cũng đã từng nghe qua lời loan báo Phục sinh của Chúa. Đặc biệt là các tông đồ, nhòm đông đảo môn đệ từng kề cận bên Ngài suốt những chặng đường rao giảng mà Chúa đã đi qua.
Nhưng sáng hôm nay, chỉ có một mình Maria đi thăm mồ Chúa từ sáng sớm. Việc thăm mồ của bà không phải hoàn toàn để tìm Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng bằng con tim dạt dào lòng mến đối với vị thầy Giêsu chí thánh đã từng tha thứ và hướng cuộc đời bà rời xa bóng đêm tội lỗi, lật sang trang mới. Chính lòng cảm mến đó đã thúc đẩy bà lên đường viếng mộ Chúa, đây chỉ là việc thăm viếng bình thường. Nhưng đau thương chồng chất đau thương, bà hốt hoảng, xót xa khi nhận ra xác Thầy không còn nữa. Bà không nghĩ rằng Chúa đã sống lại, đã quên lời Thầy báo trước hôm nào. Bằng linh tính của người phụ nữ và bằng cảm thức của một con tim dạt dào tình yêu đối với Chúa Giêsu làm bà lo âu khắc khoải. Bà nghĩ ngay “xác Thầy đã bị đánh cắp”. Niềm hy vọng của bà hiện nay là làm sao tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, cả ba hối hả chạy đến mồ. Không thấy xác Thầy đâu, chỉ còn lại nấm mồ trống trơ, lạnh vắng với những khăn vải liệm được xếp ngăn nắp. Đứng trước mồ Chúa, ba người có ba thái độ khác nhau.
Nhìn những tấm khăn vải liệm được xếp ngăn nắp, Gioan tin Thầy mình đã sống lại. Vì chẳng ai ăn cắp xác Chúa lại phải tốn giờ sắp gọn gàng khăn liêm như thế!
Còn Phêrô thì không thấy Tin Mừng ghi lại một lời nào trước ngôi mộ trống. Chúng chỉ biết thánh Phêrô trở về nhà trong sự thinh lặng và chìm sâu trong suy nghĩ. Không phải ngài cứng lòng tin. Nhưng có lẽ vì là thủ lãnh tông đồ đoàn nên ngài cần thận trọng khi tuyên bố những gì về đức tin. Vì lời tuyên xưng của ngài có ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội. Còn Maria thì vẫn là bâng khuân với suy nghĩ “xác Thầy đã bị đánh cắp”.
Giờ đây, Chúa đã phục sinh! Cái chúng ta cần làm hôm nay chính là sống niềm tin ấy. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của Maria Macđala, nhưng cũng cần phải có sự nhạy cảm của Gioan để nhận ra dấu chỉ của Chúa và cần có sự thận trọng của Phêrô để khỏi rơi vào lầm lạc và mê tín. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh là biết nhận ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời nhất là ý nghĩa của đau khổ và sự chết. Chúng ta cần phải có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng trước những thất bại, dổ vỡ, mất mát trong cuộc đời. Tất cả những gì chúng ta đang tìm kiếm rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng chúng ta cần phải nhìn thấy sự phục sinh của Chúa ngang qua những gì hư nát. Như Gioan nhận ra Chúa đã sống lại khi nhìn những mãnh khăn liệm.
Niềm tin vòa Chúa Giêsu phục sinh chính là nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống vĩnh cữu. Chính niềm hy vọng này là sức mạnh giúp chúng ta kiên tâm, bền chí để vượt qua những thử thách nghiệt ngã, ngang trái trong cuộc đời. Qua đó, chúng ta có được một niềm vui âm thầm, lặng lẽ và cảm nhận được sự bình an sâu sắc từ trong sâu thẳm của tâm hồn. Vì chúng ta biết rằng: Tình yêu mạnh hơn sự sợ hãi, sự sống mạnh hơn cái chết và niềm hy vọng vượt thắng nỗi thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc vượt qua của Chúa. Xin cho chúng con biết sống cuộc vượt qua của đời mình.
Vượt qua sự nhỏ mọn ích kỷ,
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống,
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã,
Vượt qua nhưng đêm tối cô dơn của vườn cây dầu đời con,
Vượt qua những nỗi khắc khoải, nghi ngờ trong niềm tin,
Vượt qua những thành kiến của con đang áp đặt cho người khác.
Ước gì chúng con biét noi gương Chúa Phục sinh, luôn biết gieo rắc bình an, hy vọng,
Tin tưởng và niềm vui khắp muôn nơi.
Ước ước gì mọi người khi gặp con cũng nhận ra sự sống mãnh liệt của Chúa. (Rabbouni).
34. Đức Giêsu vẫn sống – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Maccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Thomas không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí” (1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
2. Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
Tác giả Khái Hưng, một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có để lại cho chúng ta tác phẩm mang tên “Anh Phải Sống”. Trong tác phẩm có kể lại câu chuyện của đôi vợ chồng nghèo ở ven sông, họ có một chiếc xuồng nhỏ, hằng ngày đi vớt củi trên dòng sông. Một hôm cũng với công việc hằng ngày như thế; hai người đang cùng với chiếc xuồng trên sông, thì mây đen kéo đến thật nhanh. Dòng nước trước đây hiền lành, giờ đây giống như con thú dữ nhìn thấy con mồi, cứ chồm lên. Chiếc xuồng nhỏ không thể chịu đựng được những cú nhảy của cơn sóng dữ, nó hất tung hai người xuống nước. Người chồng cố tìm kiếm và gặp được vợ; anh bảo vợ cố bám vào anh để tìm đường vào bờ. Với dòng nước chảy mạnh, những hạt mưa từ trên đổ xuống, thêm những cơn gió mạnh rít từng cơn làm cho dòng nước thêm giận dữ, gây khó khăn cho cuộc đua vào bờ của hai người. Người vợ chợt nhớ đến đứa con thơ, còn đang nhờ người trông chừng: không biết nó sẽ ra sao khi cả hai không vào bờ được. Nghĩ thế, nàng từ từ buông lơi bàn tay ra. Người chồng đang mệt nhoài vì chống chọi với giòng nước miệng cứ la lớn: cố lên, bám chặc vào… cố lên bám chặc vào. Bỗng nhiên anh cảm thấy như tăng thêm sức mạnh, anh bơi nhanh hơn, anh cố bơi và tìm đến bờ sông an toàn. Bỗng anh chợt nhận ra, thì người vợ thân yêu không còn bên cạnh anh nữa. Anh đi dọc theo bờ sông, nhưng không còn nhìn thấy gì nữa.
Đứa con sau này sẽ nghĩ gì, khi biết được câu chuyện yêu thương như thế? Chắc nó sẽ cố gắng sống cho thật xứng đáng, để không làm cho cái chết của người mẹ trở nên vô ích.
Chúng ta đang mừng Chúa Phục Sinh. Nhưng tại sao lại Phục Sinh. Thưa vì Ngài đã chết nên mới Phục Sinh. Tại sao lại phải chết? Thưa Ngài phải chết vì những cơn giận dữ không biết kiềm chế của con người. Ngài chết vì sự phản bội của con người, vì họ không biết tôn trọng nhau. Ngài chết vì con người hèn nhát không dám bênh vực cho công lý, lo sợ mất đi những quyền lợi, sợ mất đi những gì mình đang có. Ngài còn chết vì con người quá hờ hững, không nhận ra Ngài đang kêu mời họ đến với Ngài. Chết vì yêu thương.
Thật thế Ngài chết vì những người mà Ngài yêu thương, Ngài chết để cho họ được sống. Nhưng Ngài không để họ sống cô đơn, nên Ngài đã sống lại, để mang sự sống bất diệt đến cho họ.
Tất cả chúng ta đang sống vì Con Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta, chúng ta đang sống trong sự sống mới của Ngài. Nhưng những cơn giận dữ vẫn còn mãi và đang hoạt động mạnh mẽ trong mỗi người. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần phản bội tình yêu của Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta. Chúng ta vẫn cứ yên lặng trong sự hèn nhát của mình vì biết bao nỗi lo sợ ám ảnh cuộc sống. Còn nữa, sự ích kỷ chỉ nhìn thấy và chỉ biết có chính mình, làm cho chúng ta hờ hững với những người chung quanh, hờ hững với bao tiếng kêu than trách phiền. Như vậy chúng ta vẫn muốn cho cái chết của Đấng yêu thương chúng ta trở nên vô giá trị sao? Đứa con trong tác phẩm Anh Phải Sống của Khải Hưng có làm như thế không?. Chúng ta cũng phải sống sao cho xứng đáng với những gì mình nhận được.
Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào đó chúng ta nhận được sự vui mừng, như những người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu và được lệnh truyền đi loan báo tin vui mừng cho người khác; nếu sự hiện diện của chúng ta là một niềm vui cho người khác thì hạnh phúc cho chúng ta biết dường nào, hoặc những lời nói, những việc làm của chúng ta đem lại niềm vui cho người khác, thì lúc đó, chúng ta đang thực hiện lời Chúa Giêsu đi loan báo Tin Mừng cho người khác. Nếu trong đời sống chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, để biết đem tình yêu đó đến với mọi người; nếu chúng ta nhìn thấy được những người cần giúp đỡ và không ngần ngại, cho đi một chút thời gian, một chút tiền bạc, một chút gì mình có mà người kia đang cần. Nếu chúng ta biết dừng lại những lời nói không hay, mà nói lên những lời động viên an ủi để làm cho người trước mặt có thêm sức sống. Đó là chúng ta đang mang tình yêu thương của Đấng yêu thương chúng ta đến cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đang sống sự sống mới của Đấng Phục Sinh.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm vui Phục sinh và mang niềm vui đến cho mọi người.
36. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, – “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
Tôi muốn nhìn toàn bộ biến cố Phục sinh trong khía cạnh tình yêu để thấy được rằng, kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa là một kế hoạch của tình yêu từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan tông đồ đã viết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3, 16-17). Như vậy, chúng ta thấy được rằng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể từ Giáng sinh cho đến chịu nạn chịu chết và Phục sinh là một chu trình khép kín của tình yêu. Chúa Cha yêu thế gian nên sai Con của mình xuống nhằm cứu chuộc thế gian. Rồi đến lượt mình, Đức Giêsu đã hoàn thành mọi sự theo ý Chúa Cha cũng vì tình yêu: Yêu mến Chúa Cha và yêu thương con người. Và kế hoạch yêu thương ấy sẽ còn tiếp diễn cho đến ngày tận thế.
Trong biến cố tử nạn của Đức Giêsu, rất nhiều người trong chúng ta hiểu cách sai lệch về Chúa Cha. Chúng ta nghĩ rằng: Thiên Chúa Cha là một bạo chúa khi bắt con của mình khi bắt con của mình đi vào con đường chết và chết một cách thê thảm như thế. Chúng ta có thể có quan niệm như thế là vì những từ ngữ được dùng trong thần học và Giáo lý như: giá chuộc, cứu chuộc, chuộc tội… Những từ ngữ ấy rất có thể làm chúng ta nghĩ sai lệch về Thiên Chúa Cha, bóp méo hình ảnh và khuôn mặt của Chúa Cha trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng thật ra, toàn bộ kế hoạch cứu chuộc con người là một kế hoạch của tình yêu. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, thì Chúa Cha là Tình yêu đóng đinh, còn Chúa Giêsu Kitô là Tình yêu bị đóng đinh. Chúa Cha không hề bỏ rơi Con của mình, cũng không bao giờ muốn Con của mình phải chết cách nhục nhã và đau đớn đến tột cùng như thế mới hả giận, mới tha thứ tội lỗi cho con người. Nhưng tất cả chỉ vì tình yêu dành cho con người mà thôi: “Thiên Chúa yêu thế gian”Trong vụ án Đức Giêsu và nhất là trên đỉnh đồi Calvê, hình như xung quanh Ngài chỉ toàn những kẻ chống đối, kết án và muốn loại trừ Ngài mà thôi. Còn những gương mặt yêu mến Ngài, những người kề vai sát cách với Ngài hầu như im hơi lặng tiếng. Trong giờ phút não nề và ô nhục đó, hình như tội ác đã chiến thắng, sự dữ đã lên ngôi và đè bẹp sự thiện. Vì thế, Đức Giêsu cảm thấy cô đơn tột cùng và Ngài có cảm tưởng như chính Chúa Cha cũng đã lìa bỏ Ngài nữa: “Lạy Cha, cả Cha cũng bỏ con sao?”. Nhưng sau những giây phút kinh hoàng ấy, sau những giây phút lên ngôi tạm thời ấy, tội ác, sự dữ và tử thần bị đánh bại. Tình yêu sau những phút giây tạm thời mờ nhạt ấy giờ đã toả sáng. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần và đã Phục sinh khải hoàn vinh hiển! Tình yêu lên ngôi đã kéo theo những ai từng yêu và được yêu bắt đầu xuất hiện.
Trước hết là một gương mặt quen thuộc đã được Tình Yêu cứu vớt là Maria Mađalêna. Người phụ nữ này đã được tình yêu của Chúa bao bọc cách đặc biệt nên tâm hồn của bà luôn hướng về Chúa. Và chính tình yêu đã thôi thúc bà lên đường, ra đi viếng mộ Chúa từ lúc sáng sớm khi trời còn tối. Rồi khi nhận ra sự việc bất thường, tình yêu đã khiến đôi chân bà chạy thật nhanh “Xăm xăm quay gót băng đồng” để về báo tin cho 2 môn đệ là Simon Phêrô và Gioan.
Kế đến là Phêrô và Gioan, 2 người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến cách riêng. Tình yêu Chúa Giêsu nơi các ông đã khiến cho những bước chân của mình như nhanh hơn trong lúc chạy đến mộ Chúa. Gioan chạy nhanh hơn có lẽ vì ông còn trẻ hơn Phêrô, nhưng chắc chắn là ông được động lực của tình yêu thúc đấy nữa. Rồi cũng vì tình yêu sâu đậm với Thầy Giêsu nơi ông, ông đã tin vào lời Chúa Giêsu đã nói: “Sau 3 ngày, Thầy sẽ sống lại”. Tình yêu đã khiến cho mắt tâm hồn ông sáng hơn để nhận ra sự thật và hết lòng tin tưởng vào sự Phục sinh của Thầy mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng là những con người được Thiên Chúa yêu thương, là “con yêu quí của Chúa Cha”, chúng ta có bừng sáng niềm tin và hy vọng trong biến cố Phục sinh huy hoàng của Đức Giêsu Kitô hay không? Nếu chỉ xét về lý mà thôi hay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể theo kiểu của Tôma ngày xưa, thì có lẽ chúng ta trở thành những kẻ dửng dưng với biến cố Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng nếu chúng ta có niềm tin và lòng yêu mến nơi Ngài, thì mắt tâm hồn của chúng ta sẽ sáng lên và sẽ nhận được niềm vui Phục sinh đang tràn lan trong tâm hồn chúng ta cũng như nơi toàn thể vũ trụ này nữa.
Chúa đã Phục sinh là sự thật. Các tông đồ và những môn đệ được Chúa yêu đã minh chứng cho chúng ta sự thật ấy. Thật ra, nếu chúng ta là những kẻ mạnh tin, thì chẳng cần gì đến những chứng cứ theo kiểu thế gian nữa, chỉ cần tin vào Lời Chúa là đủ. Ước gì sự thật “Chúa Phục sinh” luôn là động lực giúp ta hoàn thành cuộc đời cách ý nghĩa và tích cực nhất. Ước gì sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta. Ước gì chúng ta là những kẻ được Chúa yêu cách đặc biệt luôn nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống động trong cuộc đời của mình qua mọi biến cố hằng ngày. Amen.
Anh chị em thân mến,
Xin được kể một câu chuyện: Một người đàn bà nhà quê đến hôn chân Chúa Giêsu nằm trên Thánh giá. Một anh lính sô viết đến hỏi bà: “Tại sao bà không đến hôn chân vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, mà lại hôn chân một người chết trần trụi như thế?” Bà trả lời: “Có chứ, tôi sẽ hôn chân vị lãnh tụ, nếu ông ấy chịu đóng đinh vì tôi…” Thật, đúng như lời người đàn bà này nói: người Kitô hữu hôn chân Chúa Giêsu, nghĩa là tin nơi Chúa, chính vì Chúa đã chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại vì mọi người. Niềm vui của ngày lễ Phục sinh hôm nay, chính là Hội Thánh muốn mọi người hiểu rõ được chân lý đó. Trân trọng kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Chúng ta cần tìm hiểu vài câu:
Ngày đầu tuần, Maria Magdala đi ra mồ từ sáng sớm và thấy mộ trống: ngày đầu tuần: người Do thái lấy ngày thứ Bảy là ngày lễ, ngày nghĩ, nên ngày đi sau ngày thứ Bảy họ coi là ngày đầu tuần. Đó là ngày Chúa Nhật. Chỉ sau này, với lịch phụng vụ Rôma, người ta mới lấy ngày Chúa Nhật làm ngày đầu tuần…
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: theo lời mấy bà, trong đó có bà Maria Magdala, họ ra mồ Chúa từ sớm, nên họ thấy mồ trống; vì vậy họ chạy về báo tin cho các tông đồ hay, nên Phêrô và Gioan liền chạy ra mồ xem thực hư…
Ông đã thấy và tin. Trước đó hai ông không hiểu rằng: theo Kinh Thánh người phải chỗi dậy từ cõi chết… hai ông này đã chạy ra mồ, và thấy sự việc như lời các bà nói. Hai ông còn thấy băng vải liệm còn để đó; cả khăn che đầu cũng còn và được cuộn lại xếp qua một bên; đó là dấu chỉ cho biết Chúa đã sống lại, vì nếu Chúa không sống lại, hoặc ai đem xác Chúa đi giấu, không lẽ họ lại để khăn vải liệm ở lại, ngay trong mồ Chúa?
b/. Lễ Phục sinh không chỉ là cao điểm của mùa Phục sinh, mà còn là điểm cuối cùng của cả năm phụng vụ. Ngày lễ này, ngoài ơn lành Chúa ban cho, còn đem lại điều quan trọng hơn nữa vì đem lại sự sống thật cho người tín hữu: “nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin anh em thật là vô ích…”. Đó chính là lời rao giảng rõ ràng của vị Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại trong thư thứ I gởi cho giáo đoàn Côrintô (ICor 15, 17). Thật vậy, nhờ việc Chúa sống lại, người ta mới hiểu được giáo lý Chúa Giêsu đã dạy, mới hiểu được cuộc sống của Người ở trần thế.
Vì vậy, Hội Thánh không chỉ kỷ niệm lại biến cố phục sinh mỗi năm một lần, mà hàng tuần vào ngày Chúa Nhật nữa. Có một điều mà nhiều khi người Kitô hữu chúng ta không hiểu, mà cũng là một thách thức cho niềm tin chúng ta, đó là: Biến cố phục sinh quan trọng và lớn lao như vậy, lại không dựa vào những chứng cứ lịch sử cụ thể, rõ ràng, mà lại dựa vào lòng tin, căn cứ vào những chứng tích cá nhân, vào lời Kinh thánh đã tiên báo, vào lời Chúa đã nói trước (Mt 18, 6) v.v…hoặc dựa vào chính máu đào của các tông đồ, họ đã tự nhận đã thấy và làm chứng để mọi người cùng tin(Cv 2, 32)… Đúng là một mầu nhiệm, Thiên Chúa, chỉ hé lộ cho người thấy chút ít ở trần gian. Chỉ sau này trên nước trời, ta mới hiểu rõ ràng; vì khi còn ở trần gian, nếu ta hiểu rõ ràng cả, thì còn chi là công nghiệp nữa….
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự đã sống lại, điều này ta có tin không? Bà Maria và các tông đồ đã đồng hành với Chúa, đã trải qua cuộc khổ nạn của ngày Thứ Sáu, nghĩa là nhận ra Chúa vì yêu họ mà đã chết cho họ, nên họ đã tin Chúa phục sinh. Phần chúng ta, nếu chúng ta tin, thì tại sao nhiều lúc chúng ta vẫn sống thờ ơ, nguội lạnh, sống trong tội, sống như là không có Chúa hiện diện vậy? Ta nghĩ làm sao đây?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
40. Đường Emmau, Đường Thương Xót
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt – Đan viện Châu Sơn – 2016)
Đại Lễ Phục sinh Năm Thánh 2016 (Cv 10, 34a.37-43; 1Cr 5, 6b-8; Lc 24, 13-35)
Lời Chúa hôm nay nói về những con người mới. Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô trở nên người mới sau khi gặp Chúa Phục Sinh. Tin mừng trình bày chi tiết hai môn đệ buồn phiền chán nản đến tuyệt vọng: Bỏ Giê-ru-sa-lem; Bỏ lý tưởng; Bỏ cộng đoàn; Bỏ Chúa. Họ đi vào đêm đen, tâm hồn chìm trong bóng tối, không lối thoát. Họ đang chết. Nhưng, Chúa đã đến. Chúa làm ấm lên cõi lòng băng giá; Chúa làm sáng lên đêm đen; Chúa làm sống lại hi vọng. Họ trở lại: với Chúa, với anh em, với lý tưởng và với sự song.
Chúa Giê-su đã phục sinh các tâm hồn nhờ những phương thuốc thần diệu sau:
1. Chúa phục sinh. Họ chết vì nghĩ rằng Chúa đã chết. Họ sống lại ngay khi biết Chúa sống lại. Nhưng để phục sinh Chúa đã phải trải qua khổ nạn, trải qua cái chết, trải qua nhục nhã, trải qua thất bại.
2. Chúa đi tìm. Con người cô đơn và buồn phiền. Đi trên con đường tăm tối bất định. Họ không thể tìm Chúa nên Chúa đi tìm họ. Chúa đến gặp họ, ngay trên đường họ đi, ngay trong nỗi buồn của họ.
3. Lúc trời đã tối. Buổi tối là lúc nghỉ ngơi. Chẳng ai làm việc buổi tối, nhất là phải ra đường thì rất nguy hiểm. Nhưng Chúa đã lên đường lúc trời tối vì Chúa thương những tâm hồn tăm tối hơn bóng tối.
4. Chúa chia sẻ. Chúa đến chia sẻ những ưu tư lo lắng của họ. “Các anh có chuyện gì mà buồn thế”? Chúa để họ chia sẻ nỗi niềm. Họ được dịp giãi bầy. Chúa lắng nghe. Chúa giải nghĩa Thánh Kinh suốt chặng đường dài mấy giờ đồng hồ.
5. Chúa trở nên người bạn. Từ người xa lạ Chúa đã trở thành thân thiết. Đến nỗi họ không muốn rời xa Chúa nữa, vì Chúa hiểu họ và giúp họ.
Đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót nhìn thấu nỗi cô đơn tuyệt vọng; Quan tâm đi tìm những tâm hồn lạc lõng bơ vơ; Chiếu sáng và sưởi ấm giữa đêm đen lạnh lẽo; Cảm thông chia sẻ với những tâm hồn cô đơn; Chữa lành những tâm hồn bị thương tích; Phục sinh những tâm hồn đang chết dần mòn.
Thế giới hôm nay tràn đầy những con người như thế: buồn sầu, tuyệt vọng nhưng chẳng có ai cứu giúp. Vì con người ngày nay quá bận rộn, chỉ chú ý đến bản thân, không có thời giờ cho người khác. Mỗi con người đang trở thành một con đường cô đơn đi về sự chết, cần có Chúa, cần có Lòng Thương Xót để đường Em-mau trở thành đường yêu thương gặp gỡ, đường sự sống. Ta hãy thực hành những gì Chúa đã làm. Đó là:
– Hãy đi tìm. Biết bao anh em đang cô đơn lạc lõng giữa ngã ba đường, đang khao khát được gặp gỡ, được chia sẻ.
– Hãy khẩn cấp lên đường. Dù giữa đêm khuya. Biết bao người sắp chết đang chờ đợi ta.
– Hãy trò chuyện. Hãy lắng nghe. Biết bao nỗi lòng cần được giãi bầy, cần được cảm thông.
– Hãy làm bạn. Một người bạn sẵn sàng chia vui sẻ buồn, sẵn sàng hiện diện. Có mặt dù chỉ để cảm thông, chỉ để ăn một bữa cơm, chỉ để nói một câu chuyện, hoặc giản đơn chỉ để ở bên nhau dù không làm được gì.
Nhưng trước hết và trên hết ta hãy phục sinh chính mình. Thánh Phao-lô mời gọi ta hãy chết cho con người cũ để “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” được tỏ hiện. “Đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ”.
Hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Chúa Phục Sinh. Hãy đem Lòng Thương Xót gieo rắc khắp nơi để bất cứ con đường nào ta đi cũng trở thành Đường Em-mau, Đường của Lòng Thương Xót; để bất cứ ai gặp ta cũng gặp được Lòng Thương Xót, gặp được lòng tốt, gặp được sự cảm thông chia sẻ, gặp được một người bạn.
Lạy Chúa, hằng ngày Chúa đi bên cạnh con mà con không nhận biết Chúa. Xin cho con nhận ra Chúa trong những người anh em sống chung với con, đi bên cạnh con, cùng làm việc với con. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
Cái chết của Đức Giêsu Nazareth là sự thất bại quá lớn trước mắt mọi người, kể cả các tông đồ. Thật vậy, thế lực của đền thờ bắt tay với quyền bính xã hội đã treo Đức Giêsu lên thập giá, như một tên tội phạm đáng nguyền rủa. Nhưng với Đức Giêsu, đó chính là con đường mà Ngài phải đi qua, vì Ngài đã từng ví von: “Nếu hạt lúc gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Gn 12, 24).
Vâng, vũ trụ như ngưng lại, im lìm vì than khóc Con Thiên Chúa. Thế nhưng hôm nay, sự im lặng ấy bị phá tan do lời công bố: “Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết!” (x. Mt 28, 7). Muôn vật mừng rỡ hân hoan trước biến cố huy hoàng ấy. Khi đó, mọi người hiểu rằng hy lễ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở cái chết mà hướng đến sự Phục Sinh. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu không phải là một cuộc chiến bại mà là một chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi. Với niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Giáo Hội đã long trọng tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (kinh Tin Kính).
Ngày nay, con người tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Nhưng nếu nhìn sâu vào đời sống của xã hội loài người, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại nhiều mưu mô cám dỗ, nhiều cạm bẫy của thế lực ma quỷ chờ chực, lôi kéo con người trở lại với những gì là thấp hèn, bỉ ổi của thú tính. Nhìn xem trên các phương tiện truyền thông, chúng ta không khó để tìm thấy những tin tức về chiến tranh, áp bức, thác loạn… Mọi người vẫn đang chứng kiến bao cảnh khó khăn của đồng loại, bao bất công của xã hội loài người. Tất cả chỉ vì con người vẫn mãi tìm kiếm những gì thấp hèn thuộc hạ giới.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Đức Giêsu đã mở ra. Từ đó, nhưng hòn đá chôn vùi cuộc đời ta cũng sẽ được lăn đi. Đó có thể là hòn đá ích kỷ, tham lam, lãnh đạm, thiếu tình thương… Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp ta lăn những hòn đá ấy đi, để ta mạnh dạn sống niềm tin qua việc dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, thực thi bác ái tích cực hơn.
Do đó, để thực sự sống lại với Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy trở lại với cõi lòng mình để xét xem những hòn đá nào cần được lăn đi. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy vứt nó ra khỏi cuộc đời mình, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Bên cạnh đó, mỗi người cũng cần phải trở nên công cụ trợ lực cho nhau, để mọi người cùng hưởng chung niềm vui Phục Sinh.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống, và Ngài đã phục sinh để năng đỡ niềm tin của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng. Chúng ta quyết tâm tiếp tục sống cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin, dám chết cho một cuộc tình. Chúng ta tin vững vàng vào Chúa và can đảm tận hiến đời mình cho luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em. Chắc chắn niềm hy vọng của chúng ta sẽ trở thành hiện thực khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại trong vinh quang.
43. Người Khách Lạ trên đường Emmaus
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Qua bài Tin Mừng, Thánh Luca cho biết hai môn đệ này không thuộc nhóm các tông đồ. Ông Clêôpát được nêu đích danh (câu 18), còn môn đệ kia thì không. Họ nhận được tin tức do các phụ nữ thuật lại (câu 22), và hình như họ cũng thường được nghe Đức Giêsu tiên báo, sau “ba ngày” sẽ có một điều gì đó xảy ra (câu 21) nhưng xem ra họ đã mất hy vọng (câu 21) và quyết định đi về Emmaus. Việc họ dứt khoát không chịu ở lại Giêrusalem một ngày nào nữa cho thấy họ không hiểu và cũng chưa tin vào lời Đức Giêsu đã tiên báo (18, 33-34) về cuộc phục sinh của Người. Câu chuyện trên đường Emmaus diễn tả tình yêu vô bờ bến mà Đức Giêsu đã dành cho các môn đệ. Các môn đệ đã bỏ mặc Đức Giêsu suốt ba ngày qua, nhưng rồi “chính Đức Giêsu đã tiến đến gần” giữa sự sợ hãi, ngờ vực và bối rối của họ. Bất chấp tất cả, Đức Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện với những người mà Ngài đã chết vì họ.
Thánh Luca đã ghi lại “đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ” (Lc 24, 15). Đức Giêsu không chỉ đến gần, mà “cùng đi với họ”. Điều này cho thấy Đức Giêsu không chỉ hiện diện với các môn đệ trước cuộc tử nạn, mà còn hiện diện với họ cả sau cuộc tử nạn nữa. Đức Giêsu không bỏ mặc những ai cần đến Người. Hôm qua cũng như hôm nay và cho đến muôn đời, Đức Giêsu vẫn luôn đến gần và cùng đi với những ai cần Người nâng đỡ.
Một câu chuyện mà chúng ta đã nghe rất nhiều lần: “khi thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu… anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “khi con thành công, hạnh phúc… Chúa lại đồng hành với con, đi với con… nhưng khi con thất bại, đau khổ… những lúc con cần Chúa thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”
Chúa Giêsu trả lời: “khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta đã vác con trên vai, cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.
Câu chuyện thật ấn tượng: quả vậy, Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.
Câu chuyện “người khách lạ trên đường Emmaus” nhắc nhở chúng ta điều này: coi chừng chính chúng ta cũng không nhận ra Đức Giêsu nơi những người chung quanh chúng ta.
Chúng ta sống với những người chung quanh, mà không bao giờ hoặc rất ít khi ta nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giêsu ở nơi họ. Dường như đối với ta, Thiên Chúa hay Đức Giêsu là người ở đâu đâu, ở trên trời, ở trong nhà tạm của nhà thờ, hoặc ở khắp nơi một cách thiêng liêng. Ngài có vẻ là một thực tại rất trừu tượng, nếu có cụ thể thì chỉ là những ảnh vẽ, những bức tượng bất động, vô hồn. Và tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng rất trừu tượng, chỉ được thể hiện bằng sự hướng thiện, bằng việc năng cầu nguyện, năng tham dự và lãnh nhận các bí tích. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một chân lý hết sức quan trọng: Thiên Chúa hay Đức Giêsu có thể chính là người bộ hành mà mình ngỡ là rất xa lạ. Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy những bộ mặt khác nhau, hình dáng khác nhau, với những tính tình khác nhau, tư cách điệu bộ khác nhau nơi những người ta gặp trên đời, nơi những người sống chung quanh ta. Và tình yêu của chúng ta – nếu có – đối với Ngài thì phải được thể hiện cụ thể nơi những con người cụ thể ấy, chứ không phải một cách trừu tượng.
Có thể nói: muốn yêu mến Thiên Chúa, thì cách tốt nhất, cụ thể nhất và chắc chắn nhất là yêu những người chung quanh ta, và bất kỳ người nào ta gặp trong cuộc đời. Và cũng có thể nói một cách chắc chắn: nếu ta không yêu những người ấy, thì ta không thật sự yêu Đức Giêsu hay yêu Thiên Chúa. Nếu ta tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giêsu bằng cách này hay cách khác, nhưng ta không hề yêu Ngài nơi những con người cụ thể chung quanh ta, thì tình yêu ấy chắc chắn chỉ là một ảo tưởng. Rất có thể ta đang yêu chính bản thân mình một cách ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy một hình thức khôn khéo là yêu Thiên Chúa hay Đức Giêsu một cách trừu tượng.
Thánh Gioan viết: “nếu ai nói: “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta chân lý quan trọng này: tha nhân chính là hình ảnh, hay một cách nào đó, là hiện thân của Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Thiên Chúa hay Đức Giêsu đang ở giữa chúng ta, ở với chúng ta qua những người chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, bài Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời, nó cho con thấy và nhắc lại cho con một chân lý kỳ diệu: những người gần gũi với con, sống chung quanh con một cách nào đó là hiện thân của Chúa, nếu con yêu mến Chúa tất nhiên phải yêu những người ấy. Và chỉ khi con yêu thương họ, con mới chứng tỏ được rằng con thật sự yêu mến Chúa. Lạy Chúa, xin giúp chúng con tâm niệm và thực hiện điều Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: “Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối” (Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong”(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh” (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5, 7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!
45. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
NHẬP LỄ
Chúa nhật là Ngày Của Chúa. Ngày đó, Chúa làm chủ, vì Chúa đã chiến thắng sự chết và đã sống lại. Chúa Nhật cũng là Ngày Thứ Nhất trong tuần. Thời sáng tạo, ngày thứ nhất Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng. Phục sinh, ngày thứ nhất Chúa cũng đem lại ánh sáng và sức sống mới cho nhân loại.
– Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là tinh thần hiệp nhất và sức sống liên kết (x.Cv 4, 32). Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa Ki-tô, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là lòng vâng phục và yêu mến Thiên Chúa (x.1Ga 5, 1). Xin Chúa Ki-tô thương xót…
– Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là bình an của ơn tha tội và được sai đi để ban ơn tha thứ của Chúa (x.Ga 20, 21). Xin Chúa thương xót…
GIẢNG
Chúa GIÊSU đã sống lại. Việc Chúa sống lại / không chỉ được chứng minh bằng ngôi mộ trống và các lần Chúa tỏ mình ra cho người này người khác, ở nơi này hay nơi kia. Đoạn Tin Mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta nghe hôm nay, còn cho chúng ta thấy những hiệu quả xác thực việc Chúa sống lại đó. Nhờ Chúa sống lại, mà đời sống của Giáo Hội có được sức sống mới.
Sức sống mới này được nhận thấy hiệu quả trước tiên là bình an và hoan lạc trong tâm hồn. Trước khi Chúa hiện diện, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20, 19a). Nhưng khi Chúa đến, “đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” thì mọi người đều vui mừng (Ga 20, 19b.20b). Sức sống mới là bình an và hoan lạc này, không ai có, mà có thể khư khư giữ lại cho riêng mình, nên niềm vui ấy đã được loan báo lại cho ông Tô-ma ~người không biết vì lý do gì vắng mặt chiều hôm ấy.
Sức sống mới ấy đã được đích thân Chúa GIÊSU truyền lại cho các môn đệ. Người ban “bình an cho anh em” và Người thổi hơi, ban Chúa Thánh Thần xuống cho: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20, 22). Thánh Thần của Chúa GIÊSU chính là Thần Khí đã tạo nên sự sống thời nguyên thuỷ. Thánh Thần của Chúa là nguyên uỷ của sự sống. Nhờ Chúa sống lại và hiện diện, ban xuống Chúa Thánh Thần, nên sức sống trong Giáo Hội đã được đổi thay.
Đổi thay, là con người từ nay được tha tội và được Chúa Phục Sinh sai đi để thực thi quyền tha tội: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20, 21b.23). Sức sống mới ấy, trước ngày Chúa sống lại, Giáo Hội làm gì đã có năng quyền và thẩm quyền?! Ngày nay, Giáo Hội thực thi thẩm quyền này, chính là một cách mạnh mẽ rao giảng và minh chứng quyền năng Chúa đã sống lại.
Sức sống mới ấy không chỉ ẩn sâu trong tâm hồn người tín hữu, nhưng nhờ Chúa sống lại mà “các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4, 32). Sức sống từ Chúa Phục Sinh hiện diện, đã biến cải tâm hồn con người, tạo cho các tín hữu ~những người đã tin Chúa sống lại~ một sự sống mới. Sự sống mới ấy có nghĩa là từ nay không ai sống cho riêng mình, nhưng sống cho mọi người, bởi vì Chúa cũng đã chết và sống lại cho mọi người. Tình yêu đích thật của Chúa đã chan hoà nơi lòng mọi kẻ tin thờ Chúa. Thánh Gioan viết: “Phàm ai tin rằng Đức GIÊSU là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng Sinh Thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5, 1).
Chúng ta đừng nghĩ rằng tất cả các tín hữu thời xưa đã có sự sống mới, nếp sống mới, đều là những người đã được thấy nhãn tiền Chúa Phục Sinh hiện diện. Cũng có rất nhiều người không được nhìn thấy Chúa như chúng ta ngày nay. Nhưng chúng ta nhớ Chúa đã nói với Thánh Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20, 29). Các tín hữu ấy đã tin lời các Tông Đồ truyền lại. Họ đã thay đổi nếp suy tư và cách sống.
Lời rao giảng của các Tông Đồ vẫn còn được tiếp tục truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay. Cho nên, nếu chúng ta tin, chấp nhận Chúa đã sống lại, thì nếp sống của chúng ta cũng phải được thay đổi, phải được biến chuyển:
– Chúng ta đón nhận mọi hoàn cảnh sống trong niềm vui hoan lạc và bình an,
– Chúng ta đón nhận Chúa trong việc lãnh nhận bí tích Hoà Giải, tạo cho mình một nếp sống tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần ~nghĩa là sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh, ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần,
– Chúng ta quảng đại, bao dung đón nhận anh em, sẵn sàng chia sẻ, cộng tác với mọi người trong một nếp sống chung tương thân tương ái.
Như thế là chúng ta đã tin nhận, đồng thời cũng là rao giảng Chúa sống lại và chấp nhận mệnh lệnh Chúa sai đi, như các Tông Đồ và các giáo hữu thời xưa vậy.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Có một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
– Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ. Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, thứ Ba, rồi thứ Tư vùn vụt trôi qua. Đến ngày thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
– Tôi rất cảm ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao không để đến thứ Bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
– Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân ở đây.
– Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về trễ. Tôi chỉ ngỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao nữa. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
– Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: ANH CÓ MÀI RÌU KHÔNG?
***
“Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6, 31). Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn là công việc. Người muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên mất “mài rìu”, vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì tời buổi kinh tế cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những biến cố, rà soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn được nhiều cây càng phải năng “mài rìu” cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: “Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Người xếp đặt cho tôi.” P. Doncocur đã quả quyết: “Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”. Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và định hướng..
***
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã “lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa: lắng đọng và bình an. Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen!.
47. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24, 1-12
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Một bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn Giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn Giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn Giáo ôn tồn bảo: Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình. Và ông giải thích: Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm, cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23, 5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng kín, trên bờ biển Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời đã xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại, để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức Giêsu Phục Sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gẫy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35). Vì thế, Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
48. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: “Ông thấy và ông đã tin”.
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình yên”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
49. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền – Lễ Đêm Vọng Phục sinh)
Đã có một thời người ta tưởng rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có một lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa. Nhưng rồi cho dù nhân loại có tốn bao nhiêu giấy mực, có tốn bao nhiêu công sức bỏ vào các công trình nghiên cứu đồ sộ để loại trừ Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn hằng hữu. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong thế giới quanh ta và trong lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn hiện diện như là một sự thật hiển nhiên mà chẳng có gì có thể che lấp được. Sự thật hiển nhiên đó được chứng tỏ qua các tôn giáo, qua các lễ nghi thờ tự phong phú nơi các dân tộc qua mọi thời đại. Có thể nói “nơi nào có con người là nơi đấy có những cách biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa khác nhau”. Thế nên, niềm tin vào Thiên Chúa đã gắn liền với bản tính con người. Con người là loài vật duy nhất có khả năng nhìn nhận Thiên Chúa và bày tỏ những hình thức tôn thờ Ngài. Đó là một chân lý mà không ai có quyền bác bỏ nơi anh em của mình. Đó là quyền tự do bất khả xâm phạm của con người mà những ai có lương tri đều phải nhìn nhận và tôn trọng.
Cách đây hơn hai ngàn năm, những quan chức Do Thái đạo lẫn đời đã từng tưởng rằng: cái chết của Chúa Giê- su sẽ kết thúc mọi lời rao giảng của Ngài, kết thúc mọi công trình mà Ngài đã xây dựng trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng. Chính những người Do Thái tưởng rằng sau cái chết của Giê su thì mọi sự sẽ tan rã như thân xác của Ngài cũng sẽ tan rã theo quy luật của thiên nhiên. Thế nhưng điều đó đã không xảy ra. Cửa huyệt đã bị bật tung. Huyệt lạnh chỉ còn tấm khăn liệm. Thân xác của Ngài không tan rã nhưng đã phục sinh và hiện ra với nhiều người. Sự Phục sinh của Ngài đã quy tụ lại tất cả các môn đệ trở về với mái nhà xưa, mái nhà tiệc ly, mái nhà của tình thầy trò, của tình hiệp nhất bằng hữu. Các tông đồ hôm qua đang tan nát cõi lòng vì Thầy đã chết hôm nay họ lại bừng lên một sức sống mới khi nghe tin Chúa đã sống lại. Sức sống mới đó càng trào dâng khi chính các ngài đã nhìn xem thấy Thầy sống lại và hiện ra với họ. Sức sống mới đó càng mãnh liệt hơn khi chính họ được nghe Chúa nói: “Tại sao các ngươi lại đi tìm kẻ sống nơi kẻ chết. Chúa đã sống lại”.
Vâng, Chúa đã sống lại, chúng ta hãy vui lên. Ưu sầu hãy đổi thành niềm vui. Thất vọng hãy nhường lối cho hy vọng được trồi sinh. Các tông đồ sau khi nhìn thấy nấm mồ đã bị bật tung, các ngài đã quên đi sợ hãi, quên đi ưu phiền để đem niềm vui Phục sinh đến cho anh em của mình. Lời rao giảng:”Chúa đã chết và đã sống lại” đã trải rộng khắp muôn nơi và đến tận cùng trái đất. Bất chấp mọi hiểm nguy, mọi đe doạ của các thế lực bạo quyền, các tông đồ vẫn trung thành với lời rao giảng về Chúa đã sống lại. Thánh Phê-rô thì bảo rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hay vâng lời vua quan trần thế”. Thánh Phaolo thì nói rằng: “Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kyto đang sống trong tôi”. Chính vì những xác tin đó mà các ngài đã vượt qua mọi sợ hãi, mọi gian nguy kể cả phải đi vào phong ba bão táp, tù đầy và bị giết, các ngài vẫn hiên ngang, vì tin rằng Chúa đã sống lại đó là niềm hy vọng và vui mừng của chúng ta, vì nếu chúng ta cùng chịu đóng đinh với Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại với người.
Ước gì niềm tin Phục sinh sẽ thay đổi đời sống chúng ta như đã từng thay đổi lối nghĩ, cách sống của các môn đệ. Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ giúp chúng ta dám vượt qua những cám dỗ thấp hèn để sống một cuộc đời cao đẹp hơn. Xin cho chúng ta dám làm chứng cho tin mừng Phục sinh của Chúa bằng đời sống lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống thường ngày. Amen.
51. Sự nhầm lẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc: “chúc mừng khai trương cơ sở mới”. Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: “Thành thật chia buồn”.
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trở về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “Ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: “Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
52. Chúa Phục Sinh và vụ cháy nhà thờ Đức Bà
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Sau trận hỏa hoạn kinh hoàng thiêu cháy nhà thờ Đức Bà Paris (Pháp), nhiều người tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại để mặc nó xảy ra mà không làm gì cả?
Đó là một thắc mắc tương tự hậu biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, khi đó, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và MC đã hỏi cô ta như sau:
“Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”
Câu trả lời của thiếu nữ này thật là thâm thúy: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đờisống của chúng ta. Ngài là người ‘quân tử’ nên đã lẳng lặng rút lui.
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã luôn đòi Ngài để mặc chúng ta tự quyết định?
Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh trên thế giới…, và tại Việt nam thì cướp của giết người, hiếp dâm, xì ke ma tuý xâm chiếm trên mọi ngõ ngách cuộc sống…, chúng ta có nghĩ rằng là do xã hội đã vắng bóng Chúa không?
Khởi đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy than phiền là không nên đọc kinh trong trường học nữa. Và chúng ta đã đồng ý!
Rồi lại một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, cũng chính quyển Kinh Thánh trong đó dạy chúng ta: ‘Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v…’, và chúng ta cũng đã đồng ý!
Điều Kỳ Lạ… là con người có thể loại trừ Chúa một cách dễ dàng rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới biến thành địa ngục. Thiên Chúa đâu sao không can thiệp khi chính mình đã loại bỏ Ngài?
Điều Kỳ Lạ… là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh nói.
Thiên Chúa là có thật. Ông Trời là có thật. Thần Thánh là có thật, tại sao chúng ta không tin mà là tin những giáo thuyết mơ hồ của người phàm để rồi con người chỉ lao vào đấu tranh giai cấp và loại trừ lẫn nhau?
Có một Thiên Chúa, một Ông Trời điều khiển con người và vạn vật hơn là để cho con người tự điều khiển mình dẫn đến một thế giới diệt vong trong đó con người đầy đoạ nhau.
Hôm nay chúng ta mừng Chúa sống lại là dịp để chúng ta tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa hằng sống. Chính Đức Ky-tô đã đi qua cái chết mà vào cõi sống đời đời để nhắc nhở chúng ta rằng Ngài vẫn đang sống và hiện diện bên cạnh chúng ta. Ngài vẫn đang đi vào từng cuộc đời chúng ta. Ngài đã gõ cửa từng tâm hồn chúng ta, nhưng liệu chúng ta có nhận ra Ngài hay không?
Kinh Thánh nói rằng: khi các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “Ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lạnh vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiến về nhà Cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trở về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Và ước gì nhân loại hôm nay hãy để Chúa dẫn dắt ngõ hầu sẽ được hưởng một nền hoà bình và một xã hội thịnh vượng tràn đầy niềm vui. Amen.
(Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem” (Cv 10, 39)
Khi đặt vấn đề Đức Giêsu lịch sử trong cái nhìn hiện đại, chúng ta ngay từ đầu sẽ vấp phải vấn nạn không dễ chấp nhận: đó là các Kitô hữu ban đầu đã xác tín rằng Đức Giêsu sau khi bị đóng đanh dẫn đến cái chết, đã sống lại. Thánh Phêrô đã tuyên bố “Họ đã treo Người trên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi, là những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, và là những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết”.
Lời chứng của các Kitô hữu về việc Chúa sống lại đặt căn bản trên những biến cố của lịch sử, nhưng làm sao để những lời chứng này am hợp với suy luận của lý trí con người ngày nay. Làm sao một con người với đầu óc lý luận thực tiễn có thể tin vào những lời chứng này? Bởi vì, theo suy luận mang tính duy nghiệm, người chết không thể sống lại được.
Tuy nhiên, Phêrô và nhiều tín hữu buổi sơ khai đã làm chứng rằng Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Họ xác quyết Ngài đã từng đồng hành với họ, trò chuyện với họ và ăn uống với họ. Có phải họ nói dối? Hay lầm lẫn? Hoặc hoang tưởng? Hay họ thêu dệt bịa đặt câu chuyện, chỉ vì hụt hẫng khi Thầy của họ đã mất mà còn cố gượng gạo muốn Thầy vẫn còn gắn bó với cuộc sống của mình? Tất cả những vấn nạn này do các học giả đưa ra khi nghiên cứu về Đức Giêsu lịch sử, thay vì dễ dàng chấp nhận những xác quyết của các Kitô hữu thuở sơ khai về việc Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, theo não trạng của những người thuộc thế giới cổ đại bấy giờ, cho dù nói chung họ thơ ngây và dễ tin, nhưng vẫn không phải dễ dàng và thông thường xác tín rằng người chết đã sống lại. Họ có nhiều kinh nghiệm cụ thể với thế giới người chết và tiếp cận với những người sắp chết hơn là những người Đông Phương hiện đại thời bây giờ. Họ hiểu thế nào là sự chết.
Với việc Đức Giêsu phục sinh, các môn đệ của Đức Giêsu thời sơ khai đã đồng lòng xác quyết một điều gì đó đã xảy ra, một điều rất lạ lùng, rất khác thường và tất cả đều trải nghiệm trực tiếp về điều lạ lùng và khác thường này. Ở đây chúng ta có thể đi đến kết luận, như cách nói của Ben Meyer “Mặc dù những người làm chứng cho một sự lạ đưa ra những lý chứng không mấy thuyết phục, hoặc có thể không trung thực hay tự đánh lừa chính mình, hoặc những lý chứng của họ không mấy tương hợp với sự xác tín hay với những tính chất đặc thù của sự kiện, nhưng như một định luật thiên nhiên không thể che đậy được, là họ đã thấy, họ đã tin và đã làm chứng như vậy. Tất cả mọi người: Phêrô, Maria Maddalêna, Salômê, Maria mẹ của Giacôbê, bà Gioanna, Giacôbê, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các Môn đệ khác… chẳng lẽ họ đều là những con người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình?
Các môn đệ Đức Giêsu đã không kỳ vọng vào việc sống lại. Cleopas trên đường đi Emmaus, đã nói giữa đám môn đệ về một cảm giác hụt hẫng “Chúng tôi kỳ vọng Ngài chính là người sẽ giải phóng Israel” (Lc 24, 21). Maria Maddalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi mang đi khỏi ngôi mộ, và chúng tôi không biết họ đặt Người ở đâu”. Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ rằng Ngài sẽ phải chịu đau khổ, phải chết và sau ba ngày sẽ chỗi dậy, nhưng họ không hiểu điều Ngài nói cho tới khi trực diện tiếp cận với Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh. Điều đã làm thay đổi đầu óc nơi họ, chắc chắn không phải là một lời nói dối, một lời hứa hão huyền, hay một ảo giác của cả một tập thể, nhưng là một kinh nghiệm có thật về Đức Giêsu – Đấng đã sống lại và ở giữa họ.
Nhưng để có được trải nghiệm về Đức Giêsu Phục Sinh, một sự kiện gây chấn động, họ phải mở rộng tâm hồn đón nhận thực tại Thiên Chúa. Họ phải mở lòng để đón nhận Thiên Chúa – Đấng đang tác động trong lịch sử, một Thiên Chúa thể hiện chương trình cứu độ đếm với con người, thông qua thân xác mong manh của Đấng bị đóng đanh, nhưng đã sống lại để khai mở một kỷ nguyên mới, một cuộc sống mới bất diệt. Nếu ai đó không tin vào Thiên Chúa, sẽ khó mà tin được Thiên Chúa đã sai gửi người con của Ngài, và hiển nhiên Ngài đã có một người con yêu dấu để trao ban cho chúng ta. Hơn nữa, nếu có ai không tin Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, sẽ khó mà chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử bằng cách cho người con của Ngài sống lại để cứu chuộc con người.
Các Môn đệ đã tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Đấng sẽ chuộc lại dân Israel. Tuy nhiên, khi Ngài tiến nhận cái chết, họ đã phải tự thẩm định lại xem họ đã tin gì và Đấng mà họ đã đi theo là ai? Sự tái thẩm định niềm tin đó đã mau chóng xảy ra khi đối diện trước những biến cố làm chao đảo những kỳ vọng nơi họ, và cuối cùng họ đã cảm nhận được mầu nhiệm Chúa phục sinh, chỉ vì biết mở lòng để Thiên Chúa tác động trong lịch sử hầu thực hiện kế hoạch cứu chuộc loài người. Sự phục sinh khiến họ thay đổi tận sâu thẳm tâm hồn, nhưng họ đã tin bởi vì họ đã trải nghiệm được điều chân thực này. Tất cả những việc còn lại cần phải làm và có thể làm, là họ sẽ mang chở chứng tá cho một thực tại rất rõ ràng “Đức Giêsu đã sống lại và đã đến ở giữa họ”.
54. Chúa Phục Sinh, Chúa Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Joemarie Hoàng, CRM)
Cuốn phim the Passion of the Christ của Mel Gibson đã trở thành cuốn phim bàn tán rất sôi nổi trong mấy tháng qua trên toàn thế giới và cũng là cuốn phim đã lôi cuốn thật nhiều người xem, đã đem nhiều lợi ích thiêng liêng đến cho rất nhiều người trong Mùa Chay Thánh. Một bạn trẻ đã tâm sự với tôi rằng, “đáng lẽ thì mỗi tối Thứ Sáu trong Mùa Chay tôi tới nhà thờ để cầu nguyện và suy ngắm đàng thánh giá. Nhưng tôi thấy xem cuốn phim Passion của Gibson làm tôi thật cảm động nên tôi đã đi xem phim này vào mỗi ngày Thứ Sáu trong suốt Mùa Chay năm nay để tôi có dịp suy ngắm những đàng thánh giá của Chúa một cách sống động hơn.”
Có người đã góp ý rằng giá Mel Gibson làm nổi bật cái biến cố Phục Sinh hơn qua những lần Chúa hiện ra với các phụ nữ và tông đồ, và đem lại cho họ những vui mừng, bình an, phấn khởi mới mẻ trong cuộc sống thì cuốn phim sẽ tuyệt vời hơn nhiều, vì nó liên kết mầu nhiệm đau khổ và Phục Sinh rõ ràng hơn.
Ý Nghĩa Phục Sinh
Thánh Phaolô nói rằng: “Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa cả những người an nghỉ trong Chúa Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” (1Cor. 15, 17-19).
Thật thế, nếu Chúa đã không sống lại thì chúng ta thật là những người đáng thương vì những đau khổ và cái chết của chúng ta chẳng cho chúng ta một hy vọng gì. Nhưng Thánh Phaolô cũng như Maria Madalêna, Phêrô và Gioan mà Phúc Âm nói đến hôm nay đều làm chứng nhân cho việc Chúa đã sống lại. Do đó tất cả những đau khổ, thánh giá và sự chết của chúng ta đều có ý nghĩa, vì Chúa đã thực sự phục sinh. Vì Chúa đã Phục Sinh nên Mẹ Maria, Maria Madalêna, và các tông đồ mới hân hoan vui mừng đầy sức sống để làm chứng cho sự Phục Sinh của Ngài. Vì sức sống phục sinh trào dâng trong lòng Mẹ và các Tông Đồ nên Giáo Hội được thành hình và lớn lên xinh đẹp.
Chúa Phục Sinh, Chúa của Lịch Sử Cứu Rỗi
Phúc Âm kể lại những dấu chứng việc Chúa đã sống lại từ cõi chết: chiếc mồ trống, khăn liệm trong mồ, những cuộc gặp gỡ giữa Chúa với Maria Madalêna và các tông đồ. Tất cả những chi tiết trong những lần hiện ra với Mary và các tông đồ đều liên kết với nhau và minh chứng Ngài đã sống lại thật.
Như thế việc sống lại của Chúa không phải là việc tưởng tượng, suy diễn, nhưng thực sự là biến cố lịch sử có nhân chứng thời gian và không gian. Những nhân chứng đó đã bổ túc và làm nên đức tin truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội trong hơn 20 thế kỷ qua. Việc tin Chúa Phục Sinh không phải chỉ là thuần túy của đức tin nhưng còn mang tính chất sự kiện lịch sử. Chúa đã làm biết bao nhiêu phép lạ cứu rỗi giải thoát con người khỏi tăm tối tội lỗi và đưa vào ánh sáng phục sinh cứu rỗi. Phêrô và các tông đồ say sưa đem bình an của Chúa Phục Sinh đến cho từng vạn từng ngàn người.
Biến cố lịch sử này đã và vẫn trở thành trung tâm điểm cho những sinh hoạt của Giáo Hội. Trọng tâm của sinh hoạt tu đức phụng vụ của Giáo Hội phát sinh từ biến cố này. Sức sống và đức tin của Giáo Hội được duy trì và phát triển hằng ngày nhờ việc cử hành mầu nhiệm biến cố này. Sứ mạng truyền giáo và sinh hoạt truyền giáo xoay quanh ý nghĩa của Phục Sinh. Các chương trình giáo dục huấn luyện của Giáo Hội cũng luôn lấy trung tâm mầu nhiệm cuộc thương khó và Phục sinh của để khai thác và đào sâu.
Những cuộc hiện ra của Mẹ Maria trên thế giới cũng đưa con người lơ là với Chúa đến với mầu nhiệm Phục Sinh qua Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể.
Chúa Phục Sinh, Chúa Hằng Sống
Chúa Giêsu thấy rõ Mẹ Ngài luôn ôm ấp và thực hành những gì Ngài đã dậy nên ngài đã đề cao Mẹ trong việc tin và giữ Lời Chúa. Mẹ Ta và anh em Ta là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành (Lk 8:21). Mẹ luôn tin điều Chúa dậy các tông đồ: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không bao giờ chết” (Jn. 11:25, 26).
Mẹ luôn hy vọng và hoàn toàn tin rằng Con Mẹ sẽ sống lại, dù người ta có đánh đòn và giết Ngài thì Ngài cũng sẽ sống lại như Ngài đã nhiều lần nói đến. Đó là lý do để Mẹ thêm can đảm đồng hành theo Chúa trong mọi biến cố khó khăn, đặc biệt trong cuộc thương khó của Ngài. Mẹ tin rằng Con Mẹ là Đấng Hằng Sống, người đời gian ác giết thân xác Ngài nhưng xác Ngài sẽ Phục Sinh khải hoàn.
Mẹ tin Con Mẹ và biết rằng Ngài sẽ phục sinh. Khi Maria Madalena và các Tông đồ còn đang hoang mang về việc phục sinh của Chúa khi thấy xác Chúa không còn trong mồ, thì Mẹ đã đang vui mừng với Con Mẹ vì Ngài đã phục sinh. Nhiều tài liệu trong thời Giáo Hội sơ khai đã đề cập tới Mẹ là người đầu tiên được Chúa hiện đến sau khi ngài Phục Sinh.
Mẹ đã đồng công trọn vẹn với Chúa trong cuộc hành trình cứu chuộc và đặc biệt trong biến cố thương khó vác thánh giá mà không hề nghi ngờ bỏ cuộc, nên Mẹ xứng đáng hưởng ơn Phục Sinh trước hết mọi người. Mẹ luôn tin rằng Con Mẹ là Thiên Chúa, Ngài đã chịu chết và sống lại vinh quang
Với Me. Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ là con người lịch sử của thời gian, của sách vở, nhưng là một Thiên Chúa làm người thật sự sống động trong mọi biến cố to nhỏ trong cuộc đời. Dù Chúa không còn ở với Mẹ như trong gia đình Nazareth xưa, nhưng Mẹ cảm nhận được Ngài vẫn đang sống trong lòng Me, trong đời Mẹ từng giây từng phút. Ở bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì Mẹ cũng cảm được Chúa đang sống trong Mẹ và với Mẹ, đặc biệt trong Thánh giá khổ đau và trong Thánh Lễ.
55. Mừng Vui Lên (Lc 24, 1-12)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên…hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42), đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” (Lc 24, 4) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” (Lc 24, 5). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại”(Lc 24, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” (Lc 24, 1), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ?” (Lc 24, 2). Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 24, 7).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” (Lc 24, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1, 8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37, 12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
56. Nguồn hy vọng sống lại – Cố Lm Hồng Phúc
Trong tuần vừa qua, một màn tang tóc đã bao trùm Giáo hội. Giáo hội mặc niệm cuộc Thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta đã chết để đền tội nhân loại.
Nhưng hôm nay, mùa tang đã hết. Giáo hội vui mừng hát lên lời Alleluia, vì Chúa đã toàn thắng sự chết và đã sống lại.
Phúc Âm kể rằng sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, các môn đệ đã hạ xác, liệm vào khăn, đặt vào mồ, lấy hòn đá lớn che lại và ra về. Người Do-thái đã nghe nói đến lời tiên tri Chúa phán về việc ngài sẽ sống lại, nên đâm bối rối. Và để ăn chắc, đã lấy ấn niêm phong cửa mồ và cho bộ đội canh phòng cẩn mật, làm một việc xưa nay chưa từng làm là canh chừng một xác chết vì sợ xác chết ấy sống lại.
Sáng Chúa nhật hôm ấy như sáng Chúa nhật hôm nay, khi trời còn tờ mờ sáng, Maria Madalena đi ra phần mộ. Bà thấy hòn đá đã lăn ra, liền chạy vội về báo tin cho các môn đệ. Các ông cho rằng đây là chuyện đàn bà dễ tin. Nhưng rồi Pherô và Gioan cũng quyết định chạy ra mộ xem sao. Đến nơi, họ nhận thức cảnh mộ trống. Mộ còn đó mà người nằm trong mộ biến đâu mất. Vậy sự kiện lịch sử đầu tiên về việc Phục Sinh là cảnh ngôi mộ trống. Nhưng dữ kiện ấy thôi không đủ để gây niềm tin. Vì biết đâu rằng mộ trống vì có người ăn trộm xác, rồi dấu tiệt đâu mất, như luận điệu người Do-thái tung ra để ém nhẹm sự Chúa phục sinh, sống lại. Vậy, với sự kiện mộ trống, còn kèm theo một sự kiện lịch sử thứ hai là người nằm trong mộ đã hiện ra. Vậy trong ngày trọng đại hôm nay, Đấng nằm trong mộ, Đấng mà dân Do-thái đã huyên hoang cho rằng họ đã giết chết, đã chôn chặt trong lòng đất, Đấng ấy đã phục sinh, đã sống lại, và đã hiện ra nhiều lần cho nhiều người xem. Ngài đã hiện ra với Madalena, với Pherô, với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các môn đệ đang họp nhau trong nhà cửa đóng then cài, kín bưng kín bít vì sợ người Do-thái.
Thánh Gioan viết: “Chúng tôi thấy và chúng tôi tin: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI”. Lòng tin của các môn đệ dựa trên hai sự việc như vừa nói: ngôi mộ trống và người chết nằm trong mộ đã hiện ra. Pherô, trong bài đọc I, đã long trọng tuyên bố: “Đức Giêsu mà Davit đã tiên báo thân xác Ngài không phải thấy mục nát. Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại. Chúng tôi hết thảy xin làm chứng” (Cv 2, 32). Và niềm tin ấy là niềm tin của Hội Thánh, là niềm tin căn bản của chúng ta.
1) Chúng ta là người tín hữu. Người tín hữu là người tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát ta khỏi vòng tội lỗi.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17). Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đạo thánh chúng ta đã tan ra mây khói từ lâu rồi.
Nhưng sự Chúa Phục sinh sống lại bảo đảm cho lòng tin của chúng ta, lòng tin dựa trên một Đấng là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Đấng mà trong cuộc đời đã 3 lần đến gần sự chết và đã phán một lời thì sự chết rút lui, người chết sống lại. Đấng ấy hôm nay đã toàn thắng sự chết nơi chính mình, đã phục sinh sống lại. Vì Ngài không phải chỉ là một người mà là một vị Thiên Chúa làm người nhập thể. Sự chết và sống lại của Ngài là niềm tin và nguồn hy vọng của chúng ta.
Ngày xưa, khi Đức Khổng Phu Tử qua đời, các đồ đệ vì thương nhớ Thầy đã xây nhà xây cửa xung quanh phần mộ Thầy để được gần Thầy. Là một nhà hiền triết, nhưng cũng là một người như ai, Đức Khổng cũng chỉ để lại một nắm xương tàn và với thời gian đồ đệ cũng tản mát bốn phương. Chúa Kitô sau khi sống lại đã qui tụ đàn chiên đang tản mát, đã khai sinh Hội Thánh và là nguồn hy vọng sống lại của chúng ta.
2) Người tín hữu còn là người Phục Sinh. Chúng ta đã chịu phép Rửa tội, và phép Rửa tội, như Phụng vụ Vọng Phục sinh tối hôm qua đã nói lên, là một sự chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa, một cuộc vượt qua biển máu tội lỗi để vào cuộc sống Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội dạy chúng ta xưng tội chịu lễ mùa Phục sinh để sống lại với Chúa trong đời sống thiêng liêng. Và như Chúa sống lại, Ngài không chết nữa, thì mỗi người chúng ta cũng phải xa lánh tội lỗi để giữ đời sống thiêng liêng.
Xưa Thiên Thần đã nói với người phụ nữ ra mộ: NON EST HIC – Ngài không còn ở đây nữa, thì nay Thiên Thần cũng chỉ vào quá khứ tội lỗi ta và nói như vậy. Người ấy không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại, Alleluia.
(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố bình thường, nhưng là biến cố “đức tin”. Những người không sẵn sàng mở rộng tâm hồn, những ký lục biệt phái và thượng tế không sẵn sàng đón nghe sự thật, không thể đón nhận thực tại “vô tiền khoáng hậu” này.
Tin Đức Giêsu phục sinh là điều rất khó
Đức Giêsu khi còn sống, Ngài đã cho một số người chết sống lại, như con gái ông Gairô (Lc.8, 40-56), con trai bà góa thành Naim (Lc.7, 14-15), Lazarô em của Matta và Maria (Ga.11, 43-44). Tuy dù Ngài đã báo trước ba lần rằng “Ngài sẽ chết và sống lại” (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33), nhưng khi Ngài sống lại không có tông đồ nào tin (Mc.16, 9-14) cho tới khi Ngài hiện ra cho các ông.
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Chúa phục sinh cho tới khi Ngài hiện ra cho ông vào tám ngày sau (Ga.20, 25-29), nhưng cả mười tông đồ khác cũng không tin cho tới khi họ được thấy Chúa vào buổi chiều (Ga.20, 19-24). Các tông đồ đã không tin vào lời các chị phụ nữ làm chứng đã thấy Chúa phục sinh!
Nếu chính các tông đồ, những người thân cận của Đức Giêsu, được báo trước Ngài sẽ sống lại, còn chưa dám tin Ngài sống lại, mãi cho đến khi được thấy Ngài, thì làm sao những ký lục biệt phái và các thượng tế có thể tin Đức Giêsu sống lại được?
Cũng không lạ, nếu con người ngày nay không tin Đức Giêsu sống lại. Đúng hơn không tin “người chết sống lại” mới là chuyện bình thường, còn “Đức Giêsu sống lại” mới là chuyện “bất thường”.
Tin Đức Giêsu sống lại, là một hồng ân vô cùng lớn
“Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29). Những người tin vào Đức Giêsu, là những người được chúc phúc. Họ là những người được một ơn lớn mà nhiều khi họ không ý thức. Làm sao tin người chết sống lại được, làm sao tin Đức Giêsu phục sinh được? Ấy thế mà các Kitô hữu tin.
Các Kitô hữu không chỉ gồm những người ít học, nhưng gồm cả những người có học, và hơn nữa có nhiều người thông thái. Họ không tin mù quáng. Họ biết điều họ tin là chuyện rất khó, nhưng họ đã được một ơn để tin. Tạ ơn Chúa vì hồng ân kỳ diệu này.
Thánh Phaolô nói: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần” (1Cor.12, 3). Là Kitô hữu là một hồng ân vô cùng lớn. Tạ ơn Chúa.
Được gì khi Đức Giêsu phục sinh
Nếu Đức Giêsu không sống lại, các tông đồ đã không đi rao giảng, và các ngài đã không phải “tử đạo”, và đã không có Kitô giáo như hôm nay, cũng không có nhiều “anh hùng tử đạo”, cũng không có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa, cũng không chắc “chúng ta như hiện tại”, có lẽ chúng ta không biết tha thứ và yêu thương!
Nếu Đức Giêsu không sống lại, những lời giảng dạy của Đức Giêsu về chính Ngài như Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), là những điều dối trá, và Ngài là kẻ bịp bợm thời danh.
Còn nếu Đức Giêsu sống lại, nghĩa là những điều Ngài nói là đúng sự thật, nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tha tội, Ngài có trước Abraham, Ngài là một với Thiên Chúa Cha, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha. Ngài là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người. Vì nếu Ngài nói dối, Ngài đâu phải là người của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài.
Và nếu Ngài là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là: Thiên Chúa yêu con người đến độ nhập thể làm người. Đức Giêsu phục sinh, bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn trình bày cho một người “ngoại” lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu sống lại?
2. Đâu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Bạn có thể làm gì để giúp một người tin Đức Giêsu phục sinh?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gioan ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.
Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.
Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.
Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.
Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phêrô lẫn của Gioan lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.
Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này: phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp lại?
Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15, 12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến thứ nhất, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
Mười hai ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ mười ba, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
63. Niềm tin khơi nguồn ơn phúc
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn, CSsR)
Báo chí Việt Nam từng đưa tin về tình trạng một số nghĩa trang tại Bình Thuận bị kẻ gian đào bới, và hài cốt của nhiều người bị mất cắp. Tìm hiểu lý do đào bới, người ta được biết: nào là để giả hài cốt Mỹ rồi bán cho những ai muốn đi ra nước ngoài, nào là đòi bà con họ hàng người chết chuộc lại hài cốt, nào là chôn dấu đâu đó rồi giả làm thầy bói chỉ cho người có thân nhân mất tích tìm tới đào lên. Lý do nào cũng đều chung một mục đích: kiếm tiền.
Hôm nay, sau khi đọc lại bài Tin mừng Phụs Sinh, tôi tự hỏi đây có phải là một mẩu tin như bao mẩu tin khác? Phải chăng cũng có một cuộc đánh cắp xác chết khiến cho thân nhân thăm mộ lo lắng hoang mang?
Xác Đức Giêsu đã bị đánh cắp. Đây chính là tin đồn mà các thượng tế cùng hàng niên trưởng đã tung ra. Số là sau khi được quân canh cửa mồ về báo cho biết những gì đã xảy đến, họ liền cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: “Các anh cứ nói: đang đêm các môn đệ của hắn đã đến trộm xác lúc chúng tôi đang ngu” (Mt 28:11-13).
Nhưng nếu quân canh ngủ gục, làm sao lại biết những người trộm xác là môn đệ Đức Giêsu? Canh phòng và biết người ăn trộm sao lại không ra tay ngăn lại?
Thành ra có một sự hàm hồ trong mẩu tin “trộm xác” này. Người tung tin là để không bị mất mặt, còn kẻ phao tin là để thu được một món tiền lớn.
Thế rồi đang khi quân canh chạy về trình báo và thi hành tất cả những gì các thượng tế và hàng niên trưởng căn dặn, một trong những người theo Chúa Giêsu lúc Ngài còn sống là Maria Mađalêna đã ra viếng xác Chúa. Nàng sững sờ khi thấy mồ trống. Chung quanh chẳng có một bóng người. Hoảng hốt, nàng chạy bay về báo cho Phêrô và Gioan: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu.”
Nghe thế, hai ông lập tức chạy phóng ra mồ. Phêrô bước vào huyệt trước và thấy các dải băng còn nguyên; khăn liệm quấn đầu để giữ quai hàm theo tập quán tẩm liệm Do thái vẫn còn đó. Không có dấu hiệu gì là trộm cắp hay bàn tay bên ngoài nhúng vào. Phêrô băn khoăn suy đoán nhưng vẫn không hiểu gì.
Song khi Gioan bước vào, ông đã thấy và tin.
Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của “người môn đệ Chúa Giêsu yêu” vào sự Phục sinh của Thầy mình. Tuy cô Maria Mađalêna là người đầu tiên loan báo biến cố mồ trống cho các môn đệ, nhưng nhận định của nàng cũng chỉ theo kiểu con người: “Ai đã lấy mất xác Thầy rồi.” Còn vị thủ lãnh tông đồ Phêrô tuy chứng kiến tường tận cảnh trí mồ trống nhưng lúc ấy cũng “chưa hiểu gì.” Chỉ riêng Gioan, qua những dấu chỉ bên ngoài của mồ trống và các dải khăn liệm, đã tiến đến một khám phá lớn lao: “Theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết”. Và ông đã tuyên xưng niềm tin sống lại đó.
Nhưng thử hỏi sự sống lại của Chúa Giêsu có khác với bao sự Phục sinh được nhắc đến trong Thánh kinh không? Vì trong thực tế, Lagiarô em của Matta và Maria cũng sống lại, con gái ông Giairô cũng sống lại, con trai bà góa thành Naim cũng sống lại, thế thì sự sống lại của Chúa Giêsu có gì đáng cho Giáo hội vui mừng công bố?
Lagiarô, con gái ông Zairô, con trai của bà góa thành Naim, tất cả đã sống lại, nhưng cũng chỉ sống lại trong sự giới hạn của thời gian và không gian, để rồi mấy mươi năm sau lại phải nằm xuống trong sự chết. Còn Đức Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, và là Tình Yêu đó sống lại “để không bao giờ chết nữa; sư chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6, 9). Như thế các chân lý và giá trị yêu thương mà Ngài mang đến cho nhân loại đã được Phục sinh để tồn tại đến muôn đời.
Và Gioan, người môn đệ Đức Giêsu yêu, đã nhận ra điều đó bằng đôi mắt đức tin. Qua Lời Chúa và các dấu chỉ bên ngoài, ông đã khám phá nội dung sâu xa ẩn chứa bên trong: Chúa đã phục sinh. Đây là cao điểm của niềm tin và lòng mến. Yêu thương làm tăng trưởng niềm tin, và tin nhau kiên vững tình yêu. Chắc hẳn nhờ lòng yêu mến Chúa Giêsu cách đặc biệt, Gioan đã nhạy bén với những dấu chỉ đức tin. Khi mà mồ trống, dải băng làm cho Phêrô khó hiểu và hoang mang, thì tình yêu đã khai mở niềm tin sống lại nơi Gioan, dù ông chưa thấy Chúa.
Như thế, Gioan không những khẳng định mình là người được Chúa yêu, song còn nhận mình là người có phúc. Bởi như lời tuyên bố sau này của Chúa Giêsu: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gn 20, 29), Gioan đã trở thành người tin và có phúc sau lúc bước vào mồ, dù khi đó Chúa Phục sinh chưa hiện ra.
Chính Gioan muốn thông truyền lại ơn phúc lớn lao đó cho nhân loại. Tin vào Đức Giêsu Phục sinh là khởi điểm đưa con người từ tuyệt vọng qua hy vọng, từ u sầu qua hân hoan, và từ sự chết qua sự sống. Có niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, không khổ đau gian lao nào có thể khuất phục con người, bởi như thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị” (2 Tim 2, 11). Và sẽ đến một ngày “Đức Kitô, sự sống của ta hiện tỏ, và khi ấy tất cả chúng ta sẽ được tỏ hiện làm một với Ngài trong vinh quang” (Col 3, 4).
64. Ánh Lửa Phục Sinh – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút “ông thấy” cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19). Ông cũng còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18:31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26:31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên khi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.
65. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
66. Ngôi mộ trống – Dấu chỉ Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện. Nhưng Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không. Trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng, không không “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1, 1-2).
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác: Ngày Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái hoang vu trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan đã thấy và đã tin.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Sau đó Phêrô, Gioan không còn thấy xác Đức Giêsu trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ, các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say, sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ. Phản ứng của Phêrô là thinh lặng, ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối, ông chưa hiều sống lại nghĩa là gì. Còn Gioan, Ông đã thấy và đã tin. Ông đã thấy gì? thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại, khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm, không rình rang giữa tiếng kèn trống, reo hò của toàn dân. Đức Kitô đã chiến thắng tử thần, thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài hôm nay đã được “Thần Khí Hoá” và từ đây Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6, 36).
Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Ngài không mặc lấy một thân xác khác, thân xác Phục Sinh của Ngài vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết thập giá, nay thân xác đó được biến đổi, thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới. Thân xác của Ngài được Thần Khí hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ để cũng cố đức tin cho họ chuẩn bị tâm hồn các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức thì chúng ta trở về với đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.
Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng người ta không nhận thấy được Ngài vì thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa“ (Mt 5, 8). Nói khác đi mỗi tâm hồn chúng ta là một ngôi mộ trống. Ngôi Mộ Trống là ngôi mộ không còn xác Chúa nhưng còn dấu chỉ Đấng Phục Sinh, đó là khăn liệm và khăn che mặt. Tất cả những gì nhân loại dùng để trói buộc Chúa Giêsu, che mặt Người, cần phải cởi ra và xếp gọn một bên.
Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống, ông nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Ông không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh, dầu vậy Ông vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người.Ta cũng có thể thấy Chúa trong trong tâm hồn khiêm nhu, tự hạ, quên mình, trong sự bình an thanh thản của nội tâm. Đó là những dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền, cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh, rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường …
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
67. Thánh Giá viết trên Cây Nến
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại.
Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
– “Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
– Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)
– Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)
– Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
– Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
– Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
– Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
– Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:
– Vì năm vết thương
– Chí thánh và vinh hiển.
– Xin Chúa Kitô
– Gìn giữ
– Và bảo vệ chúng ta.” (Sách Lễ Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: “Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ”. Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới”. Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo: “Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông”. Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa.Bởi vì“Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6, 14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Đêm Vọng Phục Sinh, cả nhà thờ lung linh ánh nến. Từ cây nến mẹ, nến Phục Sinh ánh sáng thắp lên các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh, thắp sáng cho nhau là một hình ảnh tuyệt đẹp. Đây là đêm rất đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người.
Ánh Sáng Phục Sinh đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người khi tất cả được nâng lên và được kéo về bình diện siêu nhiên qua Thánh Giá, trong tình yêu viên mãn của Đấng Cứu Độ. Chúa Kitô đã tỏa chiếu Ánh Sáng Tình Yêu qua toàn bộ hành vi yêu thương trên Thánh Giá.
Nếu như thập giá phô diễn bạo lực tội ác và đau thương thì Thánh Giá mạc khải Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong Tình Yêu ấy, Đức Kitô đã chỉ cho nhân loại con đường sống ngang qua cái chết. Trong Tình Yêu ấy, chúng ta ngắm nhìn, chiêm ngưỡng suy niệm để nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
68. Tạo vật mới trong Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm Trọng Thưởng, CRM.)
Tiến là một chàng sinh viên sắc sảo kiêu hãnh, tự cho mình vào loại trí thức cao, đã nghênh ngang tuyên bố với bạn bè rằng anh không tin bất cứ điều gì mà trí khôn anh không hiểu. Trung, một sinh viên khác sống ở nông trại gần trường, nói với Tiến:
– Hôm nay lái xe đến trường tôi chạy ngang qua một cánh đồng cỏ có đàn chiên đang ăn. Anh có tin không?
– Dĩ nhiên tôi tin.
– Và rồi cạnh đàn chiên có mấy con bê nhai cỏ xanh. Anh có tin không?
– Có chứ, sao không?
– Rồi chạy xuống dọc theo con đường có đàn ngỗng vừa ăn cỏ vừa kêu vang ầm ĩ. Anh có tin không?
– Có, tôi tin.
Trung hỏi tiếp:
– Vậy thì cỏ mà con cừu ăn trở thành len; cỏ mà con bê ăn trở thành lông bò; cỏ mà con ngỗng ăn biến thành lông chim. Anh có tin như vậy không?
Tiến trả lời:
– Anh nói đúng, tôi tin.
Trung hỏi vặn lại:
– Nhưng anh có hiểu tại sao không?
Lúc đó Tiến không còn giữ được vẻ cao ngạo, nhưng tỏ vẻ bối rối, trả lời:
– Ờ, không.
Trung khuyên nhủ:
– Anh biết không; nếu anh sống lâu trên đời, anh sẽ thấy rằng có rất nhiều điều anh tin mà anh không thể hiểu làm thế nào ra như vậy.
Mầu nhiệm Phục Sinh là điều chúng ta tin nhưng không thể giải nghĩa được vì nó vượt trên định luật tự nhiên, vượt trên lý lẽ của trí khôn. Tạo sao Chúa Kitô phải chết để mất công phải sống lại?
Mầu nhiệm Phục sinh chỉ cho ta thấy có một thế giới thần linh, mầu nhiệm mà mỗi người chúng ta đều mang mầm mống; có mầm sự sống không bao giờ chấm dứt chứa đựng trong mỗi người. Cuộc sống ở trần gian này không trọn vẹn được khát vọng của con người. Người ta mong hạnh phúc nhưng chỉ thấy bất hạnh, thèm khát, thiếu thốn dù là những người giầu sang. Người ta tìm cách để sống lâu, sống mãi nhưng cuối cùng cũng phải chết. Con người mang trong mình mầm sống hạnh phúc, mầm sống không bao giờ chấm dứt, nhưng thực tế khiến người ta thất vọng.
Qua mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Kitô đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã chịu chết để được sống lại, sống mãi mãi và sống hạnh phúc. Thánh Phaolô đã gọi Chúa Kitô là trưởng tử của một nòi giống tạo vật mới. Ngài là người đầu tiên chịu chết và được sống lại, để nhờ Ngài mà chúng ta đã được sống lại như Ngài, trở nên những tạo vật mới trong Ngài. Câu mở đầu bài Phúc âm miêu tả cho chúng ta cảnh huy hoàng của ánh bình minh ngày Phục Sinh: “Sau ngày Sabbat, khi ngày trong tuần vừa tảng sáng…” Sách Sáng Thế Ký đã miêu tả ngày đầu tiên Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng rồi phân rẽ ánh sáng và bóng thành ngày và đêm. Ca vịnh “Mừng Vui Lên” được Giáo Hội cất lên trong đêm Phục Sinh cũng nhắc đến cuộc giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng. Chúa Kitô là vị tướng lãnh sự sáng đã chiến thắng bóng tối sự chết và tội lỗi. Ánh ban mai ngày Phục Sinh chính là khởi điểm của công cuộc tạo dựng mới; một nòi giống tạo vật mới đã xuất hiện mà Chúa Kitô chính là Người Anh Trưởng của đàn em đông đúc. Nơi Chúa Kitô mầm sự sống hạnh phúc không bao giờ chấm dứt trong bản tính nhân loại được triển nở thành cây và đơm bông kết trái.
Mầm sự sống đời đời trong mỗi người chúng ta có thể bị giết chết vì vô tình, hờ hững đưa mình vào những hoàn cảnh sống bệnh hoạn, bị trói buộc bởi đam mê xác thịt, của cải, danh vọng… Hình ảnh Chúa Kitô Phục sinh nhắc nhở, kêu mời chúng ta hãy dõi nhìn vào tâm hồn mình để nhìn thấy phẩm giá cao quí của người con của Thiên Chúa được kêu gọi sống đời đời trong hạnh phúc với Ngài. Nơi mỗi người chúng ta có mầm sống vĩnh cửu cần được nuôi dưỡng bằng ơn thánh qua các bí tích, và đời sống cầu nguyện; đồng thời nó cũng cần được che chở khỏi biết bao ảnh hưởng bệnh hoạn giữa thế giới ngày nay, như những cơn bão tố đe dọa giết chết nó.
69. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn “Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy. Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên, phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
70. Xác nhận lòng tin – McCarthy
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16, 14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người”.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính cuộc chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay, vấn đề chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo lường được tình yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay đi với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân mật với nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh Thánh đã nói về việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ qua: Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự trong nhà chầu… là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn thờ Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin Chúa đang sống, Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu Phục sinh không chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn sống động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài mà thôi, nhưng chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện diện giữa chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên chúng ta không chỉ nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng hạn như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng nọ. Nhưng có một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người bình thường hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa Giêsu thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết Ngài và gặp gỡ Ngài một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta xác tín: Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài đang sống thật sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc: sống công bình và yêu thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là một lời ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn với ông ta sao?”. Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
75. Suy niệm của Lm. Hoàng Kim Toan
Niềm tin kính “Vì loài người chúng tôi” hôm nay hoàn tất trong lịch sử trần thế. Sự hoàn tất đang chín dần trên cõi thế. Lịch sử như là thời gian trải ra, chín dần mầm ơn cứu độ, nên lịch sử cũng bao hàm quá khứ, hiện tại và tương lai. Lịch sử có hướng đi xác định như một vectơ định hướng, ngày càng đi lên và ghi ấn biết bao biến cố mới mẻ.
Đêm Hoài Mong.
Có sự đi lên, có sự chín dần nên có sự hoài mong. Sự hoài mong mang đậm ước mong của dân tộc Israen, một dân đặc thù được tuyển chọn, để chuẩn bị cho một Dân mới, dân Duy nhất của Thiên Chúa hiện diện mọi dân nước trần gian.
Niềm hoài mong của Dân Cựu Ước đã được thực hiện nơi Dân Tân Ước, nhờ Chúa Kytô đã đến thành tựu mọi lời hứa của Thiên Chúa và thực hiện mọi lời sấm của các ngôn sứ. Hình bóng của Cựu Ước nhờ thế có một ý nghĩa đích thực, chung cuộc “để lời Kinh Thánh nên trọn.”
Ơn Cứu Độ đã được Chúa Kytô thực hiện trọn vẹn trong Lịch Sử, sở dĩ có sự chín dần mầm ơn cứu độ là đối với từng người qua nhiều thời đại còn mong đợi ơn cứu độ được thể hiện nơi mỗi người và tỏ hiện trong ngày Chúa Kytô lại đến.
Việc mong đợi đó cũng nói lên hành trình còn bóng tối chen lẫn với ánh sáng, lo âu với hy vọng, cần đến ánh sáng đức tin dấn bước. Gợi lại việc mong đợi, Giáo Hội cũng thắp trên niềm hy vọng, củng cố thêm đức tin, hun đúc niềm hân hoan sốt sắng trong đêm tỉnh thức và Đêm hồng ân Cứu thế.
Đêm Tỉnh Thức
Trong Thánh Kinh ý nghĩa Bóng tối không chỉ con người nhưng chỉ lãnh vực xấu thuộc quyền của Satan và những lãnh vực chống lại Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Ở đâu có ánh sáng, ở đấy đêm tối bị đẩy lui và ở đâu có đêm tối ở đấy thiếu ánh sáng. Đêm tối không ưa ánh sáng vì “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng” (Ga 3, 20).
Đêm theo nghĩa đen là thời điểm bất trung, tội lỗi của dân Israen quay mặt với Giavê, thi hành những điều trái với Lề Luật, đi ngược lại với Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với họ. Trong đêm tuyệt vọng ấy, Thiên Chúa hằng kêu gọi họ trở về và hứa ban lại cho họ “Ánh vừng nguyệt sẽ nên như ánh vừng ô, và ánh hừng ô sẽ tăng gấp bảy, như ánh sáng bảy ngày dồn lại, vào ngày Giavê băng bó vết thương cho dân Người và chữa lành những vết đòn hằn của nó.” (Ys 30, 26). Thiên Chúa đổi thay tự nội tâm cho những người quay về với Người, dù họ đã tả tơi vì điều họ đã xúc phạm nhưng Thiên Chúa đã chữa lành và thêm sức cho những bàn tay rã rượi, tăng cường cho đôi gối đã quỵ ngã. Một tương lai mới mở ra trước mặt, lòng người nao nức đáp lời gọi “Hãy bạt lối, trong chốn hoang giao hãy san bằng ngự lộ cho Thiên Chúa ta thờ. Mọi thung lũng sẽ dâng lên, mọi núi đồi sẽ lún xuống, gồ ghề sẽ thành bình nguyên, lồi lõm sẽ hoá ra đồng bằng.” (Is 40, 3-4).
Đêm không còn là đêm tối tuyệt vọng, bởi vì Chúa thương loài người, và cho dầu tội lỗi có vây bủa như đêm đen đi chăng nữa, thì Tình Thương của Người vẫn lớn hơn tội lỗi, công trình Cứu độ của Người vẫn không ngừng đi lên và chín dần theo năm tháng. Thiên Chúa là Đấng mở ngỏ tương lai, đi về phía trước mà quên đi chặng đường đã qua. Thiên Chúa không ngừng làm nên những cái mới. Tương lai mới dường như là một bài ca khải hoàn được hát lên từ những đổ vỡ, nay được dựng xây lại, và xác tín Thiên Chúa Cứu Độ cũng chính là Thiên Chúa Sáng tạo, luôn làm ra những cái mới, mở ra một cuộc xuất hành mới, đưa dân trở về lại với Yérusalem mới.
Là xuất hành mới nên đêm còn là đêm tỉnh thức, đêm Thiên Chúa giải cứu, đêm đưa dân ra khỏi Babylon, chốn tối tăm của dân nô lệ. Đêm của Thiên Chúa dùng Kyrô như khí cụ Giavê. “Ai đã cho chỗi dậy từ Phương Đông kẻ mà chính nghĩa hoan hô mọi nước? Trước mặt nó Người nộp các nước, Người cho nó chà đạp các Vua”. (Ys 41, 2) Đêm chờ đợi còn nhiều khiếp sợ vì bình minh chưa đến, nhưng khi tỉnh thức trong đêm họ được Thiên Chúa đáp cứu, phù hộ, quyền lực của đêm đen không còn làm gì được họ và nay “chúng sẽ phải xấu hổ thẹn thuồng, mọi kẻ giận dữ với ngươi, chúng sẽ ra như không và phải diệt vong những người gây hấn với ngươi” (Ys 41, 11). Đêm tỉnh thức “đừng sợ vì có Ta ở với ngươi, chớ hãi, vì Ta là Thiên Chúa của ngươi” (Ys 41, 10).
Đêm tỉnh thức sẽ hướng tới ngày loan báo “Đêm này kể với đêm kia” TV 18 tường thuật vinh quang Thiên Chúa, Đấng đã tác thành trời đất và trong niềm hân hoan của người loan báo “Đẹp thay trên các núi non, chân người sử giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan Tin Mừng, kẻ loan báo ơn Cứu Độ, kẻ nói với Sion: “Ngươi đã làm Vua, Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 51, 7)
Như đêm chong đèn chờ trời sáng, đêm của lính canh mong chờ hừng đông, đêm mong đợi ơn cứu chuộc của dân Israen. Sau những hình phạt và những tội bất trung của dân, chưa phải là tiếng nói sau cùng của Thiên Chúa, Người hứa ban cho một số sót còn lại sau những thử thách, là những mầm mống dân Thánh được hứa ban và Đấng Messia là Vua của họ. Đêm của thử thách sẽ qua, xin cho chúng con cũng vững tin vượt qua đêm hành trình trong tỉnh thức.
Đêm Hồng Ân
Đêm cũng là thời gian yên tĩnh, để phục hồi sức lực. Đêm của thời gian tích luỹ, tăng cường sự chờ đợi và đóng góp vào việc phát triển. Đêm của Thiên Chúa tụ họp đoàn dân tản mác của Người, chính tay Người dẫn dắt và cho nghỉ ngơi bổ sức. Đêm Thiên Chúa kết giao bình an với dân của Người, Đêm không còn là đêm hoành hành của thú dữ, nơi rừng rú chúng cũng ngủ được.” (Ed 34)
Đêm còn là thời gian chờ đợi của tân nương: Dân Israen còn được coi là tân nương được Thiên Chúa cưới về vì Tình Yêu của Người. “Vì ngươi cũng như thân gái bỏ rơi, lòng dạ bời bời khi Người gọi ngươi. Nhưng nào ai nỡ rẫy từ người vợ cưới lúc thanh xuân, Yavê Thiên Chúa của ngươi đã phán. Ta đã bỏ ngươi trong chốc lát nhưng Ta sẽ thâu họp ngươi lại bởi lòng thương xót bao la” (Is 54, 6-7). Thiên Chúa đã đặt cheo sính lễ “Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng công chính, công minh, nhân nghĩa, xót thương.” (Hs 2, 21).
Các điều ấy là những thái độ Israen phải có như một dân Giao Ước, để Thiên Chúa đính hôn mãi mãi. Hôn lễ ấy Thiên Chúa đã thực hiện trong đêm tỉnh thức của các mục đồng canh giữ chiên, họ được thiên thần loan báo “Này ta đem Tin Mừng cho các ngươi về một niềm tin to tát, tức là niềm vui cho toàn dân là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vì Cứu Chúa, tức là Đức Kytô Chúa “trong thành của Đavít” (Lc 2, 10-11). Đêm Thiên Chúa đưa dân của Người ra khỏi Ai Cập và cũng là đêm Thiên Chúa đưa dân Người ra khỏi thân phận nô lệ tội lỗi.
Đêm là khởi đầu cho ngày mới. Cũ đã qua kìa ngày mới đang thành sự, những tang thương sầu khổ đã nẩy mầm hân hoan, chốn u sầu đã thành nơi đại hội, thành nhỏ bé nay đã nức tiếng hoan hô. (Mc 5, 1), người đau khổ nay đã được vui mừng vì điều chờ đợi nay Thiên Chúa đã thành tựu. “Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng tôi., và “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi”.
Sứ điệp không còn bằng lời nữa, nay đã đích thân và hữu hình trong Con Một tự nơi Cha đã làm người ở giữa nhân loại. Sứ điệp cao trọng và viên mãn loan báo nơi Chúa Con được Chúa Cha sai đen để ai tin vào Con Thiên Chúa thì được trở nên con cái Thiên Chúa.
Một vinh quang xưa kia vô hình (Xh 33, 20) bây giờ lộ diện ngang qua nhân tính của Con Thiên Chúa (Ga 2, 11 & 3, 12) mạc khải lòng nhân nghĩa và sự trung tín Chúa Cha. (Xh 34, 6; Hs 2, 22).
Đêm Mẹ của mọi Đêm.
Đêm được Mặt trời công chính chiếu rọi, không còn là đêm nữa, bình minh đã rạng soi “Mặt trời của ngươi sẽ không lặn và mặt trăng sẽ không còn khuyết vì Giavê sẽ là ánh sáng vĩnh tồn của ngươi và sẽ chấm dứt những ngày tang tóc của ngươi” (Is 60, 20). Người đã đến hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa và các lời sấm của ngôn sứ, ngày mới đã thành tựu trong Con Một Thiên Chúa. “Người là Ánh sáng đích thật sáng soi cho mọi người” (Ga 1, 9). Người là Chúa Kytô, Đấng Mạc Khải độc nhất về Cha, vì Người là Con (Ga 3, 11), thế gian nhờ Người mà được cứu ” (Ga 3, 17).
Đêm đã qua đi vĩnh viễn và ngày đã là vĩnh hằng, những ai còn trong tối tăm thì chịu án xử “bởi chưng ai làm Sự Dữ thì ghét Sự Sáng, không đến với Sự Sáng, kẻo bị bắt lỗi về các việc của mình” (Ga 3, 20).
Hãy hân hoan trong đêm hồng phúc này, như lời tụng ca Exsultet vang lên trong đêm Thiên Chúa giải thoát. Thiên Chúa vì quá yêu thương loài người, tội lỗi, quyền lực tăm tối bị đẩy lui. Tội của con người lỗi phạm, trở nên tội hồng phúc. Huyền nhiệm sẽ ngất ngây bởi Tình thương của Chúa làm say ngất tâm hồn.
Đêm diễm phúc, đêm của mọi đêm báo trước ngày hừng sáng, Thiên Chúa vì yêu thương loài người đã tự phó nộp chính Con Duy Nhất của Người làm giá chuộc tội chúng ta.
Hãy Mừng Vui Lên!
Hãy hân hoan, hãy vui mừng Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta. Hãy kín múc tận nguồn ân sủng, hãy bước đi trong ánh sáng vì ngày mới đã xuất hiện. Hãy Vui lên và reo hò lên mừng Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Hãy làm cho môi miệng này tràn ngập những lời, vang lên câu tán tụng và vẫn là “chưa bưa chưa đã được chí muôn sao”. Hãy tán tụng bằng tất cả các âm điệu của trần thế, bằng tất cả những hỷ hoan trong ngày Chúa đoái thương, bằng những nhạc điệu trầm bổng và những Thánh Ca cùng Thánh Vịnh. Mừng vui lên!
Mừng vui lên, từ nay nhân loại bước đi không chỉ còn nhìn thấy dấu chân riêng của mình, cho dầu lịch sử có nhiều bóng tối như thế nào chăng nữa, ngày mới, ngày ánh sáng đã ló dạng bình minh. Mừng vui lên, Hãy đàn ca lên, hãy reo hò lên bởi lịch sử mới đã xuất hiện và ngày mới đã bắt đầu.
Hãy vui mừng, hãy hân hoan trong ngày Thiên Chúa giải thoát, từ nay nhân loại đã và đang vội vã đi về lòng Chúa yêu thương. Cái vội vã của những khám phá khi Chúa làm nên những cái mới, khi chính Người là Đấng Mới. Mừng vui lên, đừng ôm sầu lẻ bóng, đừng hát lại bản tình cũ, sống cuộc đời cũ nữa làm chi. Hãy đi về phía trước như bóng đêm không còn bao phủ khi bình minh ngày mới bắt đầu. Hãy vui mừng luôn trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta.
Lạy Chúa, Đêm thật diễm phúc được long trọng hát lên bài hát Exsultet. Mừng vui khôn tả, đọng trên từng đôi môi, vọng trong từng câu hát, thấm từ sâu trong tâm hồn lời tán dương Thiên Chúa: “Vì loài người chúng tôi”.
Xin cho con biết được một lần cúi đầu trước tình Thương của Người, để cuộc đời của con nhận ra chính Người là Đấng Cứu Độ con. Xin cho con mọi ngày sống trong hồng ân cứu độ của Chúa.
76. Ngày Giao ước hiệu lực – Phaolô Ngô Suốt
Ngày trọng đại, vui mừng, mang nhiều ý nghĩa nhất của Kitô Giáo đó là ngày đại lễ Phục Sinh hôm nay. Chính ngày hôm nay, tuy mang tính cách nội bộ, dành riêng cho “Dân Thiên Chúa”, nhưng làm cho tất cả các ngày lễ khác có ý nghĩa, kể cả lễ Giáng Sinh. Nếu như Chúa không sống lại từ cõi chết hôm nay, tất cả nền tảng đức tin của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, vô ý nghĩa; cuộc khổ nạn, bị đóng đinh vào thập giá của Chúa Kitô, trở thành một tin buồn khủng khiếp, chứ không phải là Tin Mừng.
Trong ngày thứ sáu chịu nạn, Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị giết chết và táng xác trong mồ, vì tình yêu vô biên, Thiên Chúa Cha không nỡ để mất con mình, đã làm cho con mình sống lại. Cũng chính nhờ vào tình yêu này mà người Kitô hữu sẽ được cứu thoát, được cho sống lại ngày sau hết. Sự kiện người đàn bà tội lỗi đã hoán cải, cũng như người môn đệ từng chối bỏ Ngài, được gặp gỡ Ngài trước tiên, khi Ngài từ cõi chết sống lại, cho chúng ta thấy tình thương lạ lùng của Ngài dành cho nhân loại. Nói cụ thể Chúa không hề bỏ rơi bất cứ ai, dù cho họ có bỏ rơi, chối bỏ Ngài. Giống như các môn đệ của Chúa, tuy họ không dự phần vào cuộc khổ nạn với Ngài, vẫn được Ngài chia sẻ vinh quang Phục Sinh của mình.
Nhờ sự sống lại của Ngài mà người Kitô hữu chúng ta có sự sống mới, trở thành tạo vật mới; nhờ vào đó tội lỗi của nhân loại được tha thứ. Chúng ta có thể tuyên tín rằng Ngài chính là Con Thiên Chúa làm người: khi bị đóng đinh và quằn quại chết trên thập giá Ngài đúng là con người bằng xương bằng thịt; khi sống lại từ cõi chết Ngài đúng là Thiên Chúa toàn năng. Hôm nay, ngày Giao Ước của Thiên Chúa và nhân loại thực sự bắt đầu có hiệu lực. Sự sống lại của Ngài là “Tờ Cam Đoan” của Thiên Chúa, đối với lời hứa cứu độ nhân loại của Ngài.
Chúa Kitô Phục Sinh đã chiến thắng thế gian với tất cả tội lỗi của nó. Đây là một đại phúc cho thế giới tội lỗi. Ngày xưa khi Adam phạm tội, bị đuổi đi, cửa thiên đàng đóng kín lại từ đó. Hôm nay khi Chúa sống lại, Ngài khải hoàn vinh hiển, cánh cửa thiên đàng lại được mở ra cho nhân loại. Qua cái chết khổ nhục rồi được sống lại, Ngài dạy chúng ta đừng trốn chạy thập giá, vì thập giá là nơi treo Đấng Cứu Độ, trốn tránh thập giá tức chúng ta quay lưng lại với tình yêu; trốn tránh thập giá chúng ta sẽ mất ơn cứu độ. Ngài dạy chúng ta tín thác vào Ngài, khi thật sự tín thác chúng ta sẽ lạc quan trong cuộc sống, cũng như không ngần ngại đặt hết tin tưởng vào tương lai của mình. Ngài đặt trong tâm hồn chúng ta lòng ao ước được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, từ nay chúng ta được tự do, được giải thoát khỏi sự buộc ràng của tội lỗi và cái chết.
Chúng ta vui mừng vì sự sống lại của Ngài, tin tưởng buổi sáng phục sinh rồi sẽ đến với từng người, dĩ nhiên hiện nay chúng ta còn rất nhiều đồi Canvariô phải leo, còn ngã quỵ nhiều lần với thập giá oằn vai, như Ngài từng trải qua. Ngày xưa ông Simon phải vác đỡ với Ngài, từ nay Ngài sẽ thay ông Simon để giúp bạn và tôi. Nói cách khác mỗi người sẽ phải đi theo con đường khi xưa Chúa đã đi qua. Tin như thế, đâu còn gì để chúng ta sợ hãi, lo âu. Chỉ cần trung tín với đức tin của Ngài, như Ngài đã trung tín, chắc chắn chúng ta được sống trong hy vọng và bình an viên mãn như Ngài hứa hẹn.
Tóm lại, Phục Sinh là mầu nhiệm cốt lõi, một bảo chứng hùng hồn nhất cho ơn cứu độ. Đây là tâm điểm, là chóp đỉnh và là hy vọng của những người tin vào Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã ban đất hứa cho dân Do Thái, đồng thời đã dẫn dắt họ tiến về vùng đất “sữa và mật” đó. Hơn cả ngày xưa, ngày nay Thiên Chúa không chỉ ban đất hứa vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng chính Ngài, khi Ngài từ cõi chết sống lại, đã trở thành Đất Hứa, là Ơn Cứu Độ, là Tin Mừng sống động cho nhân loại. Biến cố Phục Sinh là niềm vui của sự sống mới, là sự chiến thắng vĩnh viễn trên thần Chết – kẻ thù cuối cùng, và như thế là niềm vui lớn nhất của người tín hữu. Ước gì tình yêu của Thiên Chúa sẽ hiện hữu sống động trong tâm hồn từng người chúng ta, và niềm vui sướng Phục Sinh được trải rộng đến cho thân nhân, bạn bè. Chúng ta không quên cầu nguyện cho nhân loại sớm nhận biết ánh sáng Phục Sinh của Ngài, sớm nhận biết chân lý, để rồi được cùng nhau hân hoan tung hô “Chúa đã sống lại” Allêluia.
77. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị đã không chia gia tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm “eczema”, và kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, “Chỉ khi nào bà biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh ngứa.”
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện. Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét: một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:38). Điều mà Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế, quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những người đang mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là “Ai” trong mùa Phục Sinh? Và chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi “Linh hồn của Ngài sống mãi”, hoặc là “Tư tưởng của Ngài còn sống”, hay là “Ngài sống qua những người môn đệ.” Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này sẽ được mặc khải mà “mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu.” Khi tiếng loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: “Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô” (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng ta bằng tình yêu.
Tại công trường thánh Phêrô ở Rôma, có một đài tưởng niệm hoàng đế Caligula. Đài tưởng niệm này là một phiến đá cẩm thạch cao 30 thước, được mang về từ Ai Cập. Đỉnh cao là một cây thánh giá. Trên phiến đá này, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây:
Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat. Có nghĩa là Đức Kitô chiến thắng, Đức Kitô thống trị, Đức Kitô hiển trị.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ý tưởng thứ nhất: Đức Kitô chiến thắng.
Phải, Đức Kitô Phục sinh đã chiến thắng tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đồng thời, Ngài cũng đã chiến thắng kẻ thù của Ngài.
Đúng thế, kẻ thù của Ngài đang reo mừng ngạo nghễ vì đã nhìn thấy Ngài trút hơi thở cuối cùng một cách tủi nhục ê chề trên thập giá. Từ nay, Ngài không còn giảng dạy và hoạt động nữa. Từ nay họ có thể yên tâm ngủ quên trên tội ác của họ. Đức Kitô đã bị mai táng trong mồ. Thế nhưng, cũng chính từ ngôi mộ này mà Ngài đã bước ra để khởi đầu cho một trang sử mới, một trang sử bất tận.
Kẻ thù của Ngài reo mừng vì nghĩ rằng: Ngài cùng với giáo lý của Ngài đã bị chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh.
Dioclétien đã phát hành một loại tiền và trên loại tiền này có ghi hàng chữ:
– Kỷ niệm ngày quét sạch danh hiệu Kitô.
Thế nhưng, sự thật thì trái ngược hẳn lại. Dioclétien cùng với đế quốc Lamã của ông đã bị quét sạch khỏi mặt đất này từ lâu. Ông tưởng rằng mình đã huỷ diệt được Kitô giáo, nhưng nếu giờ đây được sống lại, ông sẽ phải ngạc nhiên vì trải qua 20 thế kỷ, Kitô giáo vẫn không ngừng phát triển, vẫn không ngừng lớn lên.
Vào thế kỷ 18, Voltaire đã nói:
– Chỉ 20 năm nữa, Đức Kitô sẽ bị chìm vào quên lãng.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chính 20 năm sau, Voltaire đã chết trong kinh hoàng khiếp hãi và phải ra trước toà án tối cao của Đức Kitô.
Rồi trong cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789 một ông bộ trưởng đã nói:
– Đức Kitô chỉ còn là một thây ma cho chúng ta đẩy xuống hố.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chẳng bao lâu chính ông bộ trưởng này đã bị xử tử và thi thể của ông đã bị đẩy xuống hố. Chống lại Đức Kitô là giơ chân đạp mũi nhọn. Chỉ những kẻ ngu xuẩn mới dám làm cái hành động liều lĩnh và dại dột ấy mà thôi.
Còn Đức Kitô, Ngài vẫn sống, vẫn tươi mới như mỗi độ xuân về của một năm, hay như mỗi khoảng bình minh của một ngày. Những bạo vương, những hoàng đế, những kẻ bách hại Ngài ở đâu bây giờ? Có ai còn nhắc đến họ và van xin họ? Lòng đất đã chôn vùi sự nghiệp của họ và thời gian đã đẩy họ vào quên lãng, như Nguyễn Du tiên sinh đã phát biểu:
– Bất tri tam bách du niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Có nghĩa là:
– Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Đức Kitô của chúng ta thì khác hẳn. Cho đến bây giờ, Ngài vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Người ta không ngừng học hỏi và tìm hiểu về Ngài. Và giờ đây, trong giây phút này, hằng triệu cặp môi vẫn còn cầu khẩn và ca tụng Ngài.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như một trò chơi của con trẻ. Vì tức giận với biển cả, nên đã cầm một cục đá và ném xuống lòng biển. Hòn đá được ném đi chỉ đủ gây nên một vài vòng tròn dao động trong thoáng chốc trên sóng nước mà thôi, còn biển cả thì vẫn bao la và hùng vĩ.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như hành động của một tên điên khùng. Hắn bực bội với mặt trời vì mặt trời luôn chiếu sáng. Vì thế vào lúc giữa trưa nắng gắt, hắn ngửa mặt lên và phun nước miếng vào mặt trời. Thế nhưng những giọt nước miếng do hắn phun ra thay vì rớt vào mặt trời thì lại rơi vào chính khuôn mặt của hắn.
Đức Kitô đã chiến thắng và chỉ mình Ngài mới trường tồn, mới bất diệt như lời thánh Phaolô Tông đồ:
– Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một.
Chúng ta hãy mượn lời thánh vịnh 73 như một kết luận:
– Lạy Chúa, Ngài là vua chúng tôi từ muôn thuở, Đấng đã từng chiến thắng trên toàn cõi địa cầu.
79. Biến đổi trở thành con người mới
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
– Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
– Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15, 14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15, 17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8, 11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6, 14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6, 6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4, 22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8, 13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12, 25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4, 24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3, 10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4, 23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12, 2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
82. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI
NHỮNG LẦN HIỆN RA
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hoá các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20, 8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20, 16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20, 20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hoá toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2, 22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
BÀ MARIA MACĐALA, ÔNG SIMON PHÊRÔ VÀ NGƯỜI MÔN ĐỆ KIA
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28, 1), ba bà (Mc 16, 1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24, 10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11, 31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn vã ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24, 12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, “ngày thứ nhất” trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ “dựng nên” công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21, 4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố”. Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20, 11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta “chạy”. Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho “môn đệ” không nêu rõ danh tánh: “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ “ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13, 24; 18, 12-16; 21, 20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: “ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24, 12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”.
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, “ông đã thấy và đã tin”.
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21, 7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau “quyền bính”, trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong “trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy “băng vải tuột ra” và “khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ”, nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng “trao ban đức tin” cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới “điều tin nhận”. Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: “Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?” Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống” và “những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: “Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết”.
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! “Ngôi mộ trống” chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6, 2; Tv 2, 7; Gn 2, I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
84. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp một quá trình “tiệm tiến gây ấn tượng”.
– Trước tiên đó là những “di chuyển” rất nhiều và rất nhanh: động từ “chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
– Kế đó là những “dấu chỉ” ngày càng rõ nét (với những động từ “nhìn”, “thấy”), và “lời giải thích” về các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
– Maria Madalêna “thấy” phiến đá lập cửa mồ “được cất đi”, và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã “bị lật đi”. Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, “cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó”.
– Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. “Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng ra”. Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự “kinh ngạc” của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: “Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết”.
– Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó “ông đã thấy và ông đã tin”.
2. Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, “Môn đệ kia” được trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; “Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; Người trong bữa Tiệc ly đã “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu”, với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người” (A. Marchadour, “Tin Mừng thánh Gioan”. Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã “thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời chứng của ông: “tin dù không thấy” (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài:
(‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: “Tin dù không thấy” và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân” (Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: “Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở đâu”. Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý “đã thấy và đã tin”.
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
2. Tại ngôi mộ để ngỏ (G. Boucher trong “Thiên đường tại thế”)
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục sinh đã báo trước.
85. Tình yêu gặp bối rối – William Barclay
Không ai yêu thương Chúa Giêsu bằng Maria Macđala. Luca cho chúng ta biết đã có bảy quỷ bị đuổi ra khỏi bà. Điều Chúa Giêsu làm cho bà không ai làm được và bà không thể nào quên. Có ý kiến vẫn cho rằng bà là tội nhân đáng ghê tởm mà Chúa Giêsu đã kêu gọi, đã tha thứ và thanh tẩy. Bà đã phạm tội nhiều, và cũng yêu mến nhiều, tình yêu thương là tất cả những gì bà cần đem đến.
Tại Palestine có phong tục viếng mộ người thân ba ngày sau khi thi hài được đặt vào phần mộ. Họ tin linh hồn người chết còn bay lượn và chờ đợi chung quanh phần mộ luôn ba ngày, sau đó mới bỏ đi, vì lúc đó thi thể không còn nhận diện được nữa, bởi đã bắt đầu thối rữa. Các bạn thân của Chúa Giêsu không thể nào không đến viếng mộ Ngài vào ngày Sabát là ngày thứ bảy của chúng ta. Vậy Maria đến mộ trước tiên vào ngày Chúa nhật. Bà đến thật sớm, chữ “rạng đông” là proi, chỉ canh chót trong bốn canh của đêm, từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Lúc Maria đến mộ, trời còn mờ mờ, vì quá nóng lòng bà không thể trì hoãn hơn nữa.
Khi đến mộ, bà vô cùng kinh ngạc. Mồ mả thời xưa thường không có cửa để đóng lại. Tại lối ra vào mộ có một đường rãnh dưới mặt đất, trên có một tảng đá tròn như chiếc bánh xe, tảng đá được lăn vào chặn vào chỗ xem như cửa mộ, để bảo đảm không có ai lăn tảng đá ấy đi (Mt 27, 26). Maria kinh hoàng khi thấy tảng đá đó đã bị lăn ra. Có hai điều xuất hiện trong trí bà. Bà nghĩ là người Do Thái đã lấy xác Chúa Giêsu đem đi nơi khác, vì họ chưa bằng lòng với việc giết Ngài trên thập giá mà còn muốn làm nhục thi thể Ngài thêm nữa. Cũng có một số người bất lương chuyên nghề đào mộ để ăn trộm xác. Có lẽ Maria nghĩ người ta đã lẻn vào trong mộ ăn cắp xác Chúa.
Đây là một tình cảnh mà Maria Macđala cảm thấy không thể đối phó được, nên chạy vào thành tìm Phêrô và Gioan. Maria là trường hợp tiêu biểu cho một người cứ tiếp tục yêu thương, cứ tiếp tục tin tưởng, dù mình không hiểu được. Đó là loại yêu thương, loại tin tưởng đến cuối cùng sẽ được tôn vinh.
PHÁT GIÁC QUAN TRỌNG
Câu chuyện ở đây cho thấy Phêrô vẫn còn là vị thủ lãnh mà các Tông đồ thừa nhận. Bà Maria đến tìm ông, bất chấp việc ông đã chối Chúa –việc chối Chúa của Phêrô hẳn là được loan truyền ra khắp nơi nhanh chóng lắm- Phêrô vẫn là người đứng đầu. Chúng ta vẫn thường nói đến nhược điểm và tính khí bất thường của ông, nhưng hẳn nơi con người ấy phải có một cái gì ưu việt hơn, mới khiến ông có thể đối mặt các đồng bạn sau cái vấp ngã tai hại biến ông thành kẻ hèn nhát. Nơi con người ông hẳn phải có một điểm gì đó khiến những người kia sẵn sàng thừa nhận ông vẫn là lãnh tụ sau biến cố đó. Sự yếu đuối nhất thời của Phêrô không thể bịt mắt chúng ta trước sức mạnh đạo đức cùng tầm vóc của ông, và trước sự kiện ông là người sinh ra để lãnh đạo.
Bây giờ, một điểm khác khiến Gioan chú ý: Các đồ khâm liệm không bị vứt bừa bãi vô trật tự, nhưng đều nằm y nguyên tại chỗ. Theo nguyên văn Hy Lạp có nghĩa là vải liệm nằm tại chỗ thi thể đã nằm, chiếc khăn nằm tại chỗ đặt cái đầu. Đồ khâm liệm không có vẻ gì là bị tháo ra và dẹp đi, nhưng đều nằm đúng chỗ vốn được sắp xếp, dường như chỉ có xác là biến mất khỏi đó. Khi thấy như vậy, Gioan biết ngay là có chuyện gì xảy ra và ông tin. Không phải những gì Gioan đã đọc trong Thánh Kinh thuyết phục ông tin Chúa Giêsu sống lại, nhưng chính những gì ông đang chứng kiến tận mắt.
Vai trò của tình yêu trong câu chuyện này thật phi thường. Chính bà Maria người yêu mến Chúa rất nhiều, đã đến mộ trước nhất. Chính Gioan, môn đệ được Chúa yêu mến và yêu Chúa, là người đầu tiên tin vào sự sống lại. Điều này luôn luôn là vinh dự lớn của Gioan. Ông là người đầu tiên hiểu và tin. Tình yêu đã cho cặp mắt ông đọc được các dấu hiệu, và tâm trí ông thấu hiểu sự việc.
Ở đây, chúng ta thấy quy luật quan trọng của đời sống. Bất luận việc gì, chúng ta không thể giải thích được tư tưởng của người khác, trừ phi giữa ta với họ có mối dây ưu ái, cảm thương nhau. Không ai có thể diễn thuyết hay viết lại thành công, cuộc đời, sự nghiệp của một người mà mình không thiện cảm. Các thính giả có thể thấy rõ một ca sĩ có thiện cảm với nhà soạn nhạc như thế nào qua tác phẩm đang trình diễn. Tình yêu là nhà lý giải vĩ đại. Tình yêu có thể biết ngay ý nghĩa sự việc mà nghiên cứu tìm tòi chẳng nhìn thấy. Người ta kể, có một hoạ sĩ trẻ đem tranh ông vẽ Chúa Giêsu đến để Dore cho ý kiến. Ông chần chừ, cuối cùng chỉ nói một câu: “Anh không yêu Ngài, bằng không anh đã vẽ Ngài đẹp hơn”. Chúng ta chẳng bao giờ hiểu Chúa Giêsu hoặc giúp người khác hiểu được Ngài, trừ phi chúng ta dành hết lòng và trí mình cho Ngài.
86. Chúa đã sống lại thật rồi!
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Ga 20, 1-9: Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mácta và Maria: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì lý do của chúng rất đơn giản. Vì dù là biến cố vĩ đại, nhưng biến cố này đã được Đức Kitô thực hiện cách âm thầm, khiêm tốn. Chúa Giêsu phục sinh không xuất hiện một cách long trọng, vẻ vang trong đền thánh Giêrusalem để cho những người nỗi nang trong xã hội Do thái thời bấy giờ chiêm ngưỡng. Nhưng Ngài xuất hiện cho những người tầm thường, những người do chính Ngài ọi tên, những người cùng Ngài bẽ bánh, những người biết lắng nghe những lời bình an của Ngài… đặc biệt là những người biết ý thực được sự xuất hiện của Ngài. Và thậm chí họ là những người đã từng gặp khó khăn trong niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Sự Phục Sinh của Ngài hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến giây phút cuối cùng.
Ta thấy một mình Maria đi thăm mồ Chúa từ sáng sớm. Việc thăm mồ của bà không phải hoàn toàn để tìm Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng bằng con tim dạt dào lòng mến đối với vị thầy Giêsu chí thánh đã từng tha thứ và hướng cuộc đời bà rời xa bóng đêm tội lỗi, lật sang trang mới. Chính lòng cảm mến đó đã thúc đẩy bà lên đường viếng mộ Chúa, đây chỉ là việc thăm viếng bình thường. Nhưng đau thương chồng chất đau thương, bà hốt hoảng, xót xa khi nhận ra xác Thầy không còn nữa. Bà không nghĩ rằng Chúa đã sống lại, đã quên lời Thầy báo trước hôm nào. Bằng linh tính của người phụ nữ và bằng cảm thức của một con tim dạt dào tình yêu đối với Chúa Giêsu làm bà lo âu khắc khoải. Bà nghĩ ngay “xác Thầy đã bị đánh cắp”. Niềm hy vọng của bà hiện nay là làm sao tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, cả ba hối hả chạy đến mồ. Không thấy xác Thầy đâu, chỉ còn lại nấm mồ trống trơ, lạnh vắng với những khăn vải liệm được xếp ngăn nắp. Đứng trước mồ Chúa, ba người có ba thái độ khác nhau.
Nhìn những tấm khăn vải liệm được xếp ngăn nắp, Gioan tin Thầy mình đã sống lại. Vì chẳng ai ăn cắp xác Chúa lại phải tốn giờ sắp gọn gàng khăn liêm như thế!
Còn Phêrô thì không thấy Tin Mừng ghi lại một lời nào trước ngôi mộ trống. Chúng chỉ biết thánh Phêrô trở về nhà trong sự thinh lặng và chìm sâu trong suy nghĩ. Không phải ngài cứng lòng tin. Nhưng có lẽ vì là thủ lãnh tông đồ đoàn nên ngài cần thận trọng khi tuyên bố những gì về đức tin. Vì lời tuyên xưng của ngài có ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội. Còn Maria thì vẫn là bâng khuân với suy nghĩ “xác Thầy đã bị đánh cắp”.
Phục Sinh của Đức Giêsu không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7, 11-17), như con gái ông Gia-ia (Lc 8, 40-56), và đặc biệt như ông La-za-rô (Ga 11, 1-45). Cả ba trường hợp này người chết đã sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, và một ngày nào đó họ cũng phải theo số phận chung của loài người là phải chết một lần nữa, phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền thống trị của sự chết.
Quả thật “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 4-5). Và chỉ đến khi đó, tôi mới thật sự vui mừng mà hoà chung tiếng hoan ca với mọi người: Chúa đã sống lại hiển vinh! Alleluia! Alleluia!
Sự Phục Sinh của Đức Giêsu là Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta. “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11, 24)
Niềm tin Phục sinh phải được loan báo cho muôn dâng bằng đời sống chứng nhân của các kitô hữu. Niềm tin Phục sinh phải được bày tỏ bằng một tình yêu xả thân trọn vẹn cho anh em.
Sống niềm vui Phục sinh là bằng lòng chết đi cho những đam mê của xác thịt; mai táng tính ích kỷ, tham lam, háo danh trong mộ đá, để được Phục sinh trong vinh quang với Người.
Sống niềm vui Phục Sinh là trỗi dậy sau những lần thất bại đắng cay, những mắt mát đớn đau trong cuộc đời để sống lại cùng với Đấng Phục sinh.
Cùng chết với Đức Kitô nghĩa là cùng chết đi con người cũ với những tính hư nết xấu để sống lại con người mới là con cái Thiên Chúa. Con người cũng phải chôn đi những tính xác thịt yếu đuối để từ khước những danh lợi thú mau qua. Nhất là con người cũng phải biết chết đi ý riêng của mình để ý Chúa được thục hiện trong cuộc đời chúng ta. Ý Chúa vẫn là tiếng mời gọi làm việc lành tránh điều dữ. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta sống có ích cho tha nhân qua tinh thần bác ái, dấn thân phục vụ.
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Người ngoài Kitô giáo cho rằng người Công giáo tin vào một người đã chết và sống lại, đó chỉ là chuyện hão huyền, mơ mộng và mị dân.
Nhưng đối với Kitô giáo thì đây lại là niềm tin. Bởi thế, Giáo Hội cử hành Lễ vọng Phục Sinh trong đêm nay, là trung tâm điểm của mọi cử hành đức tin của Giáo Hội. Lễ này được cử hành đêm nay được coi là đêm Mẹ của mọi đêm. Chúng ta qui tụ nơi đây để cùng với Giáo Hội tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, là Chúa của chúng ta đã chết và đã sống lại.
Niềm tin vào sự sống lại của Kitô giáo, bị các nhà triết học vô thần coi như một sự vong thân, cố quên đi thực tại, hiện sinh của con người. Kitô giáo bị coi ra ru ngủ, là thuốc phiện mê dân. Đối với những người này, con người chỉ là một hữu thể vật chất, kinh tế mà thôi!
Trung tâm niềm tin Kitô giáo biểu lộ là Đức Kitô tự nguyện chết để cứu độ nhân loại, Ngài đã phục sinh như Thánh Augustino ghi nhận rằng: “Lòng tin của Kitô hữu là sự Phục sinh của Chúa Kitô”.
Bởi vì sẽ không hiểu được những gì đã qua đi, và tương lai sẽ mịt mờ, nếu Niềm tin đó không được vững chắc như Thánh Phaolô tuyên tin: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em nữa cũng trống rỗng… và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15, 14.17). Trống rỗng tức không thể nào có tương lai, và quá khứ và hiện tại thế gian vẫn còn rên siết trong tội lỗi.
Thật vậy, Đức Kitô Phục sinh dẫn nhân loại vào cuộc sống mai sau – bất diệt, như Thánh Phaolô dạy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.
Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6, 4-5).
Qua những trang Thánh Kinh, ta thấy những điều Chúa Giêsu đã tiên báo trước: “Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”
Đức tin của chúng ta về việc Chúa đã sống lại, có nền tảng từ lời Thánh Kinh. Chúa Giêsu đã không ít lần nói xa, nói gần, nói bóng, nói gió về việc Ngài sẽ sống lại: “Nếu hạt lúa mì.”; “Hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại…”; “Một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, một ít lâu nữa các con sẽ chẳng thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha….”
Các phụ nữ ra viếng mồ, thấy mồ trống, khiến các bà sợ hãi vì các bà vẫn chỉ mang trong đầu cái chết ghê sợ của Thầy, và chính các bà là những người đã chứng kiến người ta chôn Thầy trong mồ và lăn tảng đá bít cửa lại, vì thế đối với các bà, hòn đá lấp cửa mộ chính là dấu chấm hết của một con người, cũng chính vì vậy trong tâm hồn các bà chỉ còn một Chúa Giêsu đã chết, và không còn một chút hy vọng nào.
Vì suy nghĩ như thế, nên sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần các bà còn đem theo dầu thơm để ướp xác Chúa. Kế đó, các bà thấy hòn đá đã được lăn ra khỏi mộ, không thấy xác Chúa đâu cả, rồi thấy hai người mặc áo trắng đứng đó, song các bà vẫn không thức tỉnh được đức tin. Tác giả Tin Mừng giải thích: Các bà sợ hãi cúi gằm mặt xuống đất, thì hai người kia nói: Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết?
Chính vì các bà cúi gằm xuống đất, nên các bà chỉ thấy những sự thuộc về đất chứ không thể nhìn thấy những sự việc ở trên cao, vì chỉ cúi gằm xuống đất nên đức tin của các bà cũng bị giới hạn nơi những sư việc thuộc về con người thuộc về đất, chứ không thể tiếp nhận được một đức tin mạc khải đến từ Thiên Chúa; Và vì các bà chỉ tìm kiếm một Đức Giêsu đã chết ở nơi nấm mồ chết chóc, nên các bà chỉ gặp được sự sợ hãi. Trái lại để đón nhận được niềm tin phục sinh, đòi chúng ta phải ngẩng cao đầu, phải ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa để đặt trọn niềm tin nơi quyền năng của Ngài thì chúng ta mới có thể đón nhận được tin vui lớn lao này.
Trong lúc các phụ nữ còn hoài nghi thì Sứ thần còn nói với các phụ nữ: các bà hãy nhớ lại những gì Người đã nói khi Người còn ở Galilea. Như vậy để đón nhận được tin vui phục sinh thì phải nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài, mà Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Ngài sẽ bị nộp vào tay người đời, bị giết chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Nhớ lại ở đây không chỉ là một hồi ức, mà còn là một sư xác tín vào Đức Giêsu và quyền năng của Ngài, Đấng có quyền trên sự sống và sự chết, trên biển cả và âm phủ, trên ma quỷ và thần dữ.
Thánh Luca cũng cho thấy thái độ của các tông đồ khi đón nhận tin vui phục sinh này có vẻ thận trọng hơn, các ông cũng không dễ tin ngay vào lời các phụ nữ nói, Phêrô trong vai trò người đứng đầu các tông đồ đã chạy ra xem, thì chỉ thấy còn khăn liệm ở đó thôi, ông trở về và giữ sự im lặng để suy gẫm và và chờ đợi để nhận ra ý Chúa và những dấu chỉ của Chúa.
Các phụ nữ báo tin cho môn đệ Tin Mừng Phục sinh, và các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng Chúa Phục sinh.
Những ai tin đã được Chúa biến đổi; Niềm hy vọng và sự can đảm hòa quyện vào nhau; còn kẻ không tin thì tìm cách chối bỏ các chứng cứ, kể cả việc dùng thủ đoạn! Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng không tin Môisen và các Ngôn sứ thì kẻ chết sống lại chúng cũng chẳng chịu tin đâu.”
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).
Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1Cr 6, 14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
Đức Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Đức Kitô và như Đức Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Đức Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Đức Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Vẫn mong niềm tin của mỗi chúng ta vào việc Chúa sống lại được cử hành long trọng trong đêm nay – và còn được kéo dài trong suốt 40 ngày tới – sẽ mang lại cho từng người niềm vui và hy vọng để vượt qua những cám dỗ, những rào cản, … của thế gian khi chúng ta dám đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa.
Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho ta, hầu biến những hành vi, lời nói hằng ngày của ta thành công cụ Loan báo Tin Mừng Phục sinh và Niềm hy vọng cho con người và thế giới hôm nay.
88. Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Tin mừng Ga 20: 1-9: Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất.
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Gioan viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức GIÊSU là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20, 31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan cho thấy Đức GIÊSU thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
CHÚ THÍCH:
– C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gioan viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20, 1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28, 1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16, 2); Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24, 1). + Maria Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Maria. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa GIÊSU (x. lc 8, 2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20, 1; Mt 28, 1; Lc 24, 10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19, 25; Mt 27, 56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27, 61; Mc 15, 47).
– C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phêrô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phêrô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Maria Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gioan. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Maria Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Maria không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28, 1).
– C 3-4: + Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước: Lý do Gioan chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phêrô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phêrô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
– C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức GIÊSU. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gioan ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phêrô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phêrô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phêrô … vào thẳng trong mộ: Phêrô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
– C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11, 43-44). Điều này cho thấy Đức GIÊSU không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gioan thấy Thầy GIÊSU đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gioan suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức GIÊSU đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức GIÊSU phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gioan và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16, 21; 17, 23; 20, 19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức GIÊSU và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16, 10; Tv 2, 7; Hs 6, 2).
CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật? 2) Về thời điểm bà Maria Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Maria Mác-đa-la? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai? Tại sao? 5) Qua câu nói với Phêrô và Gioan, bà Maria Mác-đa-la có tin việc Thầy GIÊSU đã phục sinh hay không? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phêrô và Gioan cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào? 7) Tại sao Gioan chạy nhanh hơn Phêrô? 8)Tại sao ông Gioan đến mộ trước Phêrô mà không vào bên trong mộ ngay? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức GIÊSU sống lại?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20, 8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Ngôi mộ trống của Đức Giêsu:
Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa GIÊSU”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Talpiot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên GIÊSU con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người GIÊSU thành Na-gia-rét? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?
Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên GIÊSU; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên GIÊSU con ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa GIÊSU chỉ là giả tưởng.
Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa.
Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và đang sống.
2) Về sứ vụ rao giảng Tin Mừng Phục Sinh:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức GIÊSU đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức GIÊSU rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra?” Người đáp: “Đúng vậy!” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phêrô, Gioan và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi?” Chúa GIÊSU trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
3) Mầu nhiệm Phục Sinh diễn tả tình thương vô biên của Thiên Chúa:
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được hưởng sự sống đời đời. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống với Ngài.
4) Gương can đảm tuyên xưng đức tin:
Một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.
Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.
“Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ:
– Chị biết hôm nay là ngày gì không?
Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:
– Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.
Nghe thế tôi tự hỏi:
– Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Lễ của niềm vui và của hy vọng nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã héo úa, khô cằn, còn niềm hy vọng thì ta để lại trong lòng và không dám suy nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề:
– Đức Kitô đã sống lại!
Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời:
– Ngài đã sống lại thật.
Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.
Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không có lò sưởi để qua cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ một con người mà họ cho là cuồng tín sẽ phải gục ngã.
Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam chung với chúng tôi. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào:
– Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam, những cái khác không quan trọng gì cho lắm.
Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn ánh lên như dạo nào”.
- SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gioan đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) Lòng mến đã thúc bách Maria Mácđala đi tìm Chúa:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Maria Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19, 25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27, 61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16, 2). Khi thấy mộ trống, Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan (x. Ga 20, 2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20, 13.15). Maria không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phêrô và Gioan chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Maria lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).
2) Lòng mến đã giúp Gioan nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:
Gioan là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4, 21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17, 1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13, 23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Maria làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19, 27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gioan đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21, 7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gioan chạy nhanh hơn Phêrô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phêrô (x Ga 20, 8).
3) Lòng mến làm Phêrô được tha tội và được trao quyền mục tử:
Phêrô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức GIÊSU trước hết (x. Mt 4, 18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19, 27-29; Lc 18, 28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10, 2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17, 1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8, 51), được ở gần Đức GIÊSU khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26, 37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức GIÊSU có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phêrô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1, 29). Phêrô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Nhờ đức tin đó, Phêrô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16, 17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22, 31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16, 22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14, 31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13, 6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26, 33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26, 69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phêrô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4, 18-20). Ông cũng thường được Đức GIÊSU hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17, 24-27). Có lần ông hỏi ý Đức GIÊSU về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18, 21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6, 68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18, 10). Ông đi theo Gioan để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18, 15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phêrô cùng Gioan chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phêrô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20, 8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24, 34; 1 Cr 15, 5). Khi được Gioan quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phêrô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21, 7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21, 15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21, 18-19).
4) Giá trị của đức tin và lòng mến:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Maria Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gioan nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phêrô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22, 32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20, 11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
- THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức GIÊSU sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” hay không? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy?
- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
– Lạy Chúa Giêsu. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt… vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.