Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có “cầu vượt” dành cho các môn đệ. Biết là các môn đệ không dễ gì chấp nhận nổi “thập giá” nên Chúa muốn cho ba người đại diện thoáng thấy vinh quang phục sinh của Chúa. Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.
Đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor, Chúa Giêsu cho họ chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Người đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ.
1. Núi Tabor
Sách Thủ lãnh kể chuyện: Theo lệnh của Đêbôra, một nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh xứ Israel, “Ông Barắc từ núi Tabor đi xuống với 10.000 quân theo sau” (Tl 4,14) để đánh bại Giavin, vua Canaan, trị vì tại Khaxo. Đó là một trong những trận đánh do người Israel phát động nhằm chinh phục đất Canaan. Quân Israel chiếm đóng vị trí chiến lược này và tướng Xixôri dù có 900 chiến xa, không dám leo lên núi để tấn công quân Israel được. Barắc đánh bại quân thù, còn các chiến xa bị sa lầy (x.Tl 4,12-24).
Flavius Joseph, viên chỉ huy lực lượng Do thái ở Galilê, ngay từ đầu cuộc nổi loạn chống lại đế quốc Rôma vào năm 66 đã mô tả thành luỹ của núi Tabor.Nhiều pháo đài bao quanh ngọn núi, những vết tích còn thấy được, không hữu dụng bao nhiêu, vì thiếu nước nên dân chúng phải đầu hàng quân Rôma.
Những nhà thờ xuất hiện trên núi Tabor vào đầu thế kỷ thứ V. Tu viện được các tu sĩ Biển Đức xây dựng vào thời Trung Cổ nhằm chống lại các cuộc tấn công của Saladin. Tuy nhiên, các tu sĩ bị bắt buộc phải bỏ đi sau khi Hattin đại bại vào năm 1187. Tất cả cửa nhà đều bị vua Beybara san thành bình địa. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, các tu sĩ Phanxicô mới thu hồi và khôi phục lại.
Được xây dựng vào năm 1991, nhà thờ Chính Thống giáo Hy lạp Thánh Êlia mọc lên trên những vết tích thời Trung Cổ. Vương Cung Thánh đường Hiển Dung được thánh hiến vào năm 1924, là tác phẩm của kiến trúc sư Antôniô Barluzzi. Vương Cung Thánh Đường này nổi tiếng nhờ mặt tiền có hai tháp to lớn nối với nhau bằng một vòng cung theo kiểu Byzantin. Các cây cột chia bên trong thành 3 gian, gian giữa có một bức tranh khảm đá kể lại ước muốn của Thánh Phêrô xây dựng ba cái lều: một cho Chúa Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia. Các cha dòng Phanxicô cũng xây một tu viện hoành tráng và một cơ sở xã hội kế bên Vương Cung Thánh Đường.
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
2. Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Chúa hiển dung trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Ông Môsê tiêu biểu cho Lề Luật, ông Êlia tiêu biểu cho các Ngôn Sứ, cả hai đến chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, cả hai cùng đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng mà “Lề Luật và các Ngôn Sứ” đã loan báo. Sự kiện này trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Kỷ niệm ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
3. Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài. Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).
Lm.Giuse Nguyễn Hữu An