Tim Mừng Mt 2,1-12
Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu ? Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.
Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và một dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
************************************
CHO MỌI DÂN NƯỚC TRẦN GIAN
Rabindranath Tagore (1861-1941) là một đại thi hào không những của Ấn-độ mà còn cả thế giới. Nhờ đã sáng tác nhiều bài thơ có sắc thái thần bí (tôn giáo) hay ái quốc cũng như nhiều tiểu thuyết và bi kịch giá trị, ông đã được giải Nobel Văn chương năm 1913. Dù là người theo Ấn giáo, Tagore vẫn để lộ trong các tác phẩm mình (đặc biệt thi phẩm “Lời dâng”) niềm tin vào một vị Thượng Đế độc nhất và nhân hậu. Sau đây là một lời cầu nguyện trích từ thi phẩm đó: “Lạy Chúa, đây là lời cầu nguyện con dâng lên Chúa. Xin hãy đánh bật gốc bệnh hủi này trong trái tim con. Xin ban cho con sức mạnh đảm nhận cách nhẹ nhàng các nỗi buồn và niềm vui của con. Xin ban cho con sức mạnh làm cho tình yêu của con đầy những hoa trái phục vụ. Xin ban cho con sức mạnh là chẳng bao giờ hất hủi người nghèo khổ cũng như quỵ lụy trước cường quyền. Xin ban cho con sức mạnh nâng tâm trí mình lên khỏi những phù phiếm thường nhật. Và xin ban cho con sức mạnh đem dũng lực con tùng phục thánh ý Chúa với tình yêu”. Tagore quả đứng trong hàng ngũ lương dân đi tìm Thiên Chúa theo sau ba nhà đạo sĩ mà bài Tin Mừng nhắc nhớ hôm nay.
1. Ai là Vua đích thật ?
“Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì…”. Đó là những tiếng duy nhất, vắn gọn Mt dùng để nói về việc Giáng sinh. Quả là ít ỏi ! Khác với Lu-ca, Mát-thêu xem ra ít quan tâm đến biến cố xét như biến cố. Ngược lại, rõ ràng ông cố ý cho các độc giả biết “ý nghĩa” của việc sinh hạ này. Và ông trình bày ý nghĩa đó trong trình thuật các nhà chiêm tinh, một trình thuật được khai triển dài dòng, mà nếu chú ý, thì ta sẽ thấy như một thứ nhập đề cho toàn bộ Tin Mừng theo thánh Máttthêô.
Mới bắt đầu, Mt đã đặt cạnh nhau hai tước hiệu đối nghịch: vua Hê-rô-đê… vua dân Do-thái… Đây như hai thành phần hóa học gặp nhau thì nổ. Quả thế, câu hỏi được mấy ông ngoại quốc vừa đi vừa lặp lại trong các đường phố nhỏ hẹp của Giê-ru-sa-lem hẳn đã vang bên tai người Do-thái như một lời mỉa mai cay độc. Nên ta hiểu tại sao nó khiến Hê-rô-đê đa nghi phải bối rối. Nhờ lịch sử, ta biết ông đã trải qua suốt đời trong nỗi ám ảnh bị mất quyền lực, nhìn thấy âm mưu khắp mọi nơi, luôn ru rú trong các “pháo đài”, và đã ra lệnh giết ba con trai, mẹ vợ, thậm chí cả bà vợ Ma-ri-am-me yêu quý.
Nhưng ý nghĩa mà Mt gán cho tước hiệu “Vua dân Do-thái” thì sâu xa hơn nhiều, vì “Nước Trời” sẽ là một trong những chủ đề ưa thích của ông. Ngay từ khởi điểm, Mt đã loan báo vị Vua của Vương quốc ấy. Ngay trang đầu tiên của Tin Mừng ông, có một vương miện bị giành giật: ai thật sự là “vua” dân Do-thái ? Hê-rô-đê, chúa tể quyền lực, sát nhân và độc dữ ? Hay Giê-su nhỏ bé, yếu hèn, tay không, và sẽ chết như nạn nhân vô tội ? Chính vào trang cuối cùng của Phúc Âm ông, theo một phương pháp đóng khung rất thông dụng trong văn chương sê-mít, Mt sẽ gán cho Đức Giê-su tước hiệu “vua dân Do-thái này”: “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!”, binh lính sẽ nói vậy (Mt 27,29) ; “Người này là vua dân Do-thái”, Phi-la-tô sẽ cho viết thế trên đầu Đức Giê-su bị đóng đinh, để nêu rõ “lý do kết án Người” (Mt 27,37); “Nếu hắn là vua Ít-ra-en, hắn hãy xuống khỏi thập giá”, mọi ký lục và thượng tế sẽ cười ồ như vậy (Mt 27,42).
Ngay từ khi mới sinh, Mt gợi ý cho ta, Đức Giê-su chỉ là một ông vua khiêm tốn, hình ảnh của “Người Tôi trung Đau khổ” trong I-sai-a, “ông vua ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn thoáng qua ngày Lễ lá, ông vua không đến để “được hầu hạ nhưng để hầu hạ” (Mt 20,28) và sẽ yêu cầu môn đệ “chớ thống trị nhưng hãy làm đầy tớ” (Mt 20,25.26). Vương quyền ông vua này không thuộc thế gian, chẳng có gì giống vương quyền Hê-rô-đê cả: nó sẽ chỉ tỏ lộ cách ngược đời trong cuộc Khổ nạn.
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người”. Hôm nay, Giáo Hội liên kết với trình thuật Hiển linh này một bản văn của I-sai-a, được chọn trong vô vàn bản văn Thánh Kinh loan báo việc Đấng Thiên sai (Mê-si-a) đến như một “ánh sáng” (Bài đọc 1): “Đứng lên, bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước…” (Is 60,1-6). Ánh sáng Thiên sai ấy, chắc bạn còn nhớ, đã được hát mừng trong mùa Vọng và trong thánh lễ “đêm” Giáng sinh: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta” (Is 9,1.5).
Trong chủ đề “ngôi sao” có cả một ý nghĩa mà thánh Phê-rô sẽ khai triển khi nói đến đức tin như “sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2Pr 1,19). Ngôi sao thành thử tượng trưng cho ánh sáng, ân sủng, hành động của Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các đạo sĩ lương dân đang đi tìm Đấng Cứu Thế. Đừng băn khoăn tìm xem đó phải chăng là một sao chổi ! Trong đời tôi, cũng có một ân sủng hướng dẫn tôi đến chỗ khám phá Đức Giê-su. Phải chăng tôi có can đảm theo nó bất cứ nó đưa đi đến chỗ nào, thậm chí đến trước máng cỏ và thập giá, đến trước Hài nhi yếu đuối và Giê-su tử tội ?
2. Thái độ trước vị Vua này.
“Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại”. Chính giữa trình thuật Hiển linh, Mt đưa ra hai “thái độ” mà chúng ta thường gặp thấy lại suốt Tin Mừng của ông: * Một đàng là thái độ từ chối của các thủ lãnh chính trị và tôn giáo Do-thái. Lẽ ra họ phải là những kẻ đầu tiên thừa nhận Đấng Mê-si-a. Thế nhưng họ đã làm gì ? “Lo sợ”, “băn khoăn”, chẳng động đậy ! Ngay từ đầu, họ đã tìm cách giết Đức Giê-su. Ta tưởng như đã nghe tiếng la buồn thảm Người thốt ra trên thành thánh: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu… Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,27.37). * Đàng khác, là thái độ “đón tiếp” của các nhà chiêm tinh ngoại đạo này. Tuy ít được chuẩn bị để nhận ra Đấng Mê-si-a, chính họ đã động đậy, đã đi tìm Người, và cũng chính họ, thay vì “lo lắng”, đã cảm thấy “một niềm vui lớn lao”. Người ta tưởng đã nghe được chính kết luận của Tm Mt: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Trên thực tế, trang Tin Mừng này nhắm mục đích giải thích cho độc giả Ki-tô hữu gốc Do-thái trong các thế kỷ đầu tiên biết tại sao Giáo Hội phần lớn gồm Ki-tô hữu gốc dân ngoại, đang khi Thiên Chúa đã mạnh mẽ cam kết với Ít-ra-en. Mt cho thấy Đức Giê-su, Cứu tinh mong đợi, là Đấng đến cho mọi người, và “Ít-ra-en mới” gồm hết thảy những ai, Do-thái hay dân ngoại, “bái lạy” tôn thờ Đức Giê-su. Điều đó đã được loan báo bởi mọi lời sấm theo chiều hướng “cứu độ phổ quát” rồi: Giê-ru-sa-lem phải trở thành thủ đô của mọi dân tộc ; ơn cứu độ xuất phát từ đó nhưng không phải chỉ dành cho con cháu Áp-ra-ham: “Lạc đà từng che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60,6). Thánh vịnh 71, được hát lễ Hiển linh, lấy lại cùng chủ đề của lúc mở đầu: “Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về (Giê-ru-sa-lem) triều cống”. Và cũng chính Mt sẽ nói lại rằng chư dân “sẽ từ Đông Tây mà đến dự tiệc với Áp-ra-ham” (Mt 8,11). Một lần nữa, ta lại thấy cuốn Tin Mừng này được biên soạn ra sao.
Vâng, các “chiêm tinh gia” tượng trưng cho hết thảy dân ngoại mọi thời. Đừng hiểu từ “dân ngoại” này theo nghĩa xấu ! Trong số bạn hữu chúng ta, có lắm người hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, sống một đời chính trực, có ý thức công bằng và phục vụ rất cao, có một gia đình gương mẫu, và chu toàn phận sự nghề nghiệp của họ cách hoàn hảo. Tuy nhiên, họ không biết Đức Giê-su Ki-tô theo nghĩa mạnh. Hiển linh là lễ của tất cả những ai không biết Đấng Cứu Thế, của mọi ai có đức tin khác với chúng ta, mọi ai mà Thiên Chúa yêu thương, soi sáng, lôi kéo với ân sủng vô hình của Người, mà Tagore hay Gandhi là một ví dụ.
Nhưng vì cớ nào sao ngôi sao đã không trực tiếp dẫn các đạo sĩ trực tiếp tới Bê-lem, đến bên Đức Giê-su ? Vì cớ nào phải vòng qua Giê-ru-sa-lem, qua các “tư tế và ký lục” ? Vì Thiên Chúa trung tín với các lời hứa của Người, vì ơn cứu độ phải đi qua dân Do-thái (x. Rm 9,10-11) trước khi đến với toàn thể nhân loại. Việc vòng qua Giê-ru-sa-lem cũng còn một ý nghĩa nữa. Đó là vì không thể bỏ qua “Lời Chúa”, “Kinh Thánh” nếu muốn minh nhiên gặp gỡ Đức Ki-tô. Phần chúng ta thì sao ? Phải chăng chúng ta suy niệm Lời Chúa không mệt mỏi ?
Lm. Phê-rô Phan Văn Lợi