Chúa Nhật IV Mùa Chay A – Tôi Phải Làm Việc Của Đấng Đã Sai Tôi – Giải thích bản văn Tin Mừng

19/03/2020

Ga 9,1-41: Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” Chúa Giêsu đáp: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa” (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Đúng hắn!” Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”. Họ hỏi anh: “Làm thế nào mắt anh được sáng?” Anh ta nói: “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy”. Họ lại hỏi: “Ngài ở đâu?” Anh thưa: “Tôi không biết”.

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: “Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Đó là một tiên tri”.

Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: “Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?” Cha mẹ y thưa rằng: “Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy”. Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”.

Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”. Anh ta trả lời: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Họ hỏi anh: “Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?” Anh thưa: “Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?” Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: “Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Anh đáp: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

 Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: “Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù”. Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: “Thế ra chúng tôi mù cả ư?” Chúa Giêsu đáp: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói ‘Chúng tôi xem thấy’, nên tội các ngươi vẫn còn”.    

Chương 9 thuật lại việc thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh và những bàn luận liên quan đến Người. Có thể chia chương nầy thành hai phần chính: – Người mù và việc chữa lành (9,1-7); – Các tranh luận và thái độ của những người liên quan đến việc chữa lành nầy (9,8-41). Chương nầy được kết cấu theo các cuộc tranh luận liên tiếp nhau. Người tham gia tranh luận thay đổi khác nhau trong mỗi tranh luận. Chủ đề của mỗi tranh luận cũng thay đổi ít nhiều. Chương 9 phân chia như sau:

1/ Chúa Giêsu, người mù và việc chữa lành (9,1-7)

2/ Những người láng giềng và cha mẹ người mù được chữa lành (9,8-12)

3/ Các Pharisêô và người được chữa lành (9,13-17)

4/ Các người do thái và cha mẹ người được chữa lành (9,18-23)

5/ Các người do thái và người được chữa lành (9,24-34)

6/ Chúa Giêsu và người được chữa lành (9,35-38)

7/ Chúa Giêsu và các Pharisêô (9,39-41)

Theo Johannes Beutler (xem Gesù a Gierusalemme (Gv 9-12), Lezione al Pontificio Istituto Biblico, Roma 2001-2002, p. 27) có thể nhận ra một cấu trúc đối đảo trong chương 9 nầy, trong đó các cảnh tương ứng với nhau như sau:

A  9,1-7; B 9,8-12; C 9,13- 17; D 9,18-23; C’ 9,24-34; B’ 9,35-38; A’ 9,39-41

Chúa Giêsu chữa lành người mù (9,1-7). Bối cảnh không gian và thời gian của đoạn bắt đầu từ câu 8,59b “Nhưng Chúa Giêsu ẩn mình, và đi ra khỏi đến thờ”, và trong câu 9,1 thêm yếu tố nhân vật: Chúa Giêsu và người mù bẩm sinh, “Người đi ngang qua đó và gặp một người mù từ lúc mới sinh”. Hành động chữa lành chủ yếu của Chúa Giêsu được mô tả trong các câu 6 và 7. Những câu còn lại đề cập đến nguồn gốc/nguyên nhân của sự mù loà, trong đó cho thấy quan niệm của người thời đó và Chúa Giêsu (cc. 2 và 3), và căn tính của Người (c. 5). Sứ điệp chính yếu nói đến sứ mạng của Chúa Giêsu ở câu 4: “Bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào việc của Ðấng đã sai Tôi; rồi đêm đến, bấy giờ không ai còn có thể làm công việc gì”. Hai phần 9,1-7 và 9,8-41 liên kết rất chặt chẽ với nhau và soi sáng cho nhau; do đó những sự kiện và lời nói trong đoạn 9,1-7 sẽ được bàn rộng trong các cuộc tranh luận trong 9,8-41.

Cảnh chữa lành (9,1.6-7) và đoạn liên hệ 9,39-41. Chủ đề trong phần nầy là “mù” (cc. 1 và 41), và “thấy” (7 và 40-41). Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh và cho người nầy được thấy. Trong khi đó, các Pharisêô là những người đang thấy, lại trở nên mù lòa. Lời kết luận của Chúa Giêsu: “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!” (c. 41).

Căn tính của Chúa Giêsu và người được chữa lành (9,2 và 6) và đoạn liên hệ (9,8-12 và 35-38). Chủ đề trong phần nầy: Người chữa lành cho người mù là ai? “Người gọi là Giêsu” (c. 11); “Người Con của Nhân Loại” (c. 35). Thoạt đầu người được chữa lành chỉ biết người đã chữa lành ông có tên là “Giêsu”; tên nầy được lập lại thêm hai lần với ý nhấn mạnh trong các câu 35 và 37. Trong gặp gỡ khác, Chúa Giêsu cho ông biết Người là ai qua tước hiệu “Người Con của Nhân Loại”. Ông đã tin và “sấp mình thờ lạy Người” (c. 38). Tin vào Người là cao điểm của việc chữa lành cho người mù bẩm sinh, vì Người đòi hỏi điều nầy (c. 35).

Những câu hỏi về nguồn gốc (9,3 và 5) và đoạn liên hệ (9,13-17 và 24-34). Chủ đề trong phần nầy: nguồn gốc của sự mù loà (cc. 2-3) và nguồn gốc của Chúa Giêsu (c. 5). Các môn đệ đặt vấn đề là có phải người nầy bị mù loà bẩm sinh là do tội lỗi của chính người nầy hay của cha mẹ anh (c. 2). Đó là suy nghĩ của người thời ấy. Chúa Giêsu không theo hướng nầy. Người khẳng định tội, của người nầy hay cha mẹ anh, không phải là nguồn gốc của sự mù loà (c. 3). Về nguồn gốc của Chúa Giêsu, Người khẳng định “Tôi  ở trong thế gian, Tôi là ánh sáng thế gian” (c. 5). Là  “Ánh sáng”, phōs, Chúa Giêsu muốn nói Người đến từ Thiên Chúa, và sứ mạng của Người là soi sáng cho thế gian (1,4.5.9; 3,19; 8,12). Về phần những người chống đối Chúa Giêsu, các Pharisêô quả quyết Người không đến từ Thiên Chúa, vì Người đã chẳng giữ luật ngày hưu lễ (c. 16). Cũng thế, người do thái quả quyết  Chúa Giêsu là một “người tội lỗi” (c. 24) và họ không biết Người từ đâu mà đến (c. 29). Họ chỉ lắng nghe Môsê mà thôi (c. 29). Phần người được chữa lành, anh tuyên xưng công khai Chúa Giêsu là một “ngôn sứ” (c. 17) và làm chứng là Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, và Người đã chữa lành anh với quyền năng của Thiên Chúa (cc. 30-33). Anh hành động như là một môn đệ làm chứng cho Thầy mình (c. 28).

Làm việc của Thiên Chúa (9,4) và đoạn liên hệ 9,18-23. Câu 4 nằm ở trung tâm của đoạn 9,1-7, và đoạn 9,18-23 ở trung tâm của chương 9. Sứ điệp chính của chương nằm ở đây. Chúa Giêsu cho biết nội dung sứ mạng của Người khi đến trần gian là làm việc của Cha Người. Gioan nói nhiều về “việc của Thiên Chúa” (4,34; 5,36) mà Chúa Giêsu phải thực hiện. Việc ấy có thể là phép lạ. Phép lạ có mục đích là làm cho người ta tin vào Chúa Giêsu (x. 10,25.32). Ngay cả nếu không tin vào Người, ít là tin vào phép lạ để nhận biết và hiểu là Chúa Cha ở trong Người và Người ở trong Chúa Cha” (19,38). Lời tuyên bố của Chúa Giêsu là Người làm việc của Thiên Chúa muốn nói là Người có Chúa Cha ở trong Người (x. 14,10-11). Bởi đó, “làm việc của Thiên Chúa” là làm cho con người tin vào Đấng được sai đến (x. 6,29). Trong đoạn 9,18-23, Gioan cho thấy cách tiêu biểu thái độ của hai hạng người. Người do thái không tin ngay cả phép lạ người mù bẩm sinh được sáng mắt (c. 18); qua đó họ không tin vào Chúa Giêsu. Cha mẹ của người được chữa lành thì sợ, không dám mạnh dạn tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu (c. 22); trong khi đó bởi nhận biết Thiên Chúa ở và hành động trong Chúa Giêsu người được chữa lành đã tin vào Người. Vậy “việc của Thiên Chúa” là làm cho người ta phải chọn một thái độ đối với Người. Nếu tin, thuộc về ánh sáng. Nếu không tin, thuộc về bóng tối.

Chúa Giêsu là trung tâm của trình thuật về người mù bẩm sinh. Người để trần gian để làm công việc của Thiên Chúa. Là ánh sáng, Người mở mắt cho con người thấy để có thể tin vào Người. Những người tự cho mình sáng mắt, không thể nhìn thấy và tin vào Người. Như thế, việc Người xuất hiện trên trần gian như là ánh sáng đã là một sự phán xét cho trần gian.

Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến