Mt 1,18-24: Chúa Giêsu Kitô giáng sinh như sau: Maria mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, trước khi chung sống với nhau, bà đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Nhưng Giuse chồng bà, vì là người công chính§ và không muốn tố cáo bà, nên muốn lìa bỏ bà cách kín đáo. Đang khi suy tính điều ấy, thì này đây thiên thần Chúa hiện ra trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse, con Ðavít, đừng ngại nhận Maria làm vợ mình. Vì bà thụ thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ con trai, và ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu: vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội”. Tất cả đã xảy ra, để ứng nghiệm Lời Chúa đã phán qua vị Ngôn Sứ rằng:
“Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel”, nghĩa là Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta.
Khi tỉnh giấc, Giuse đã làm như thiên thần Chúa truyền, ông đón nhận vợ mình.
Gia phả của Chúa Giêsu khởi từ thời Abraham, đến Đavít và cao điểm là việc Người sinh ra (1,1-17). Sau đó Matthêô trình bày việc Chúa Giêsu giáng sinh để hoàn tất lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa đối với dân Người (2,1-12). Trình thuật về Giuse (1,18-25) là đoạn chuyển tiếp giữa hai đoạn về gia phả và giáng sinh. Chủ đề chính của đoạn là Chúa Giêsu Kitô từ Thiên Chúa mà đến và sứ mạng cứu chuộc của Người. Phần Giuse, ông được tham dự vào sứ mạng cứu độ của Người bằng việc đem mẹ Maria về nhà, đặt tên cho Chúa Giêsu, và qua ông Chúa Giêsu được kể là thuộc dòng tộc Đavít. Những từ liên kết đoạn nầy với hai đoạn trước và sau là: “sự sinh ra” genesis (1,1.18), “sinh ra”, gennaō (1,2; 2,1); Iēsous (1,1.18.25; 2,1). Câu 1,17 như là bảng tổng kết của gia phả, trong khi những gì được trình bày trong câu 1,16 sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn về câu chuyện Giuse (1,18-25).
Bố cục của đoạn nầy: – Dẫn nhập: lập lại bối cảnh của việc Chúa Giêsu giáng sinh (1,18); – Giuse và sứ mạng của ông đối với việc giáng sinh của Chúa Giêsu (1,19-25). Iēsous (1,18.21.25) và Iōsēph (1,18.19.20.24) là từ xuất hiện nhiều nhất trong đoạn nầy, qua đó Giuse được bàn đến trong tương qua chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Được cưu mang bởi Chúa Thánh Thần (1,18)
Câu 1,16 chỉ ghi nhận sự kiện cách khách quan là sự sinh ra của Chúa Giêsu, trong khi câu 1,18b tập trung vào trường hợp nào Người được cưu mang. Tên “Giêsu Kitô” trở thành tên kép của Đấng được sinh bởi mẹ Maria ở đây. “Giêsu Kitô” nầy là “con của Đavít, con của Abraham” (1,1). Có một phân biệt tinh tế ở đây là Giuse được giao nhiệm vụ đặt tên cho Đấng sẽ được sinh ra nầy là “Giêsu” (1,21.25), trong khi tước hiệu “Kitô” thì do Thiên Chúa. Cụm từ “được gọi là Đấng Kitô” trở thành yếu tố cần thiết để xác định căn tính của “Giêsu” (x. 1,16; 27,17.22). Trong khi tên “Kitô” thường được gắn liền với “Con Thiên Chúa” (16,16; 26,63), tên “Giêsu” gắn liền với Giuse (13,55), chỉ nguồn gốc nhân loại và thuộc dòng tộc Đavít của Người (9,27; 12,23; 20,30.31; 21,9.15). Rất có thể Matthêô đưa tên kép “Giêsu Kitô” vào ngay trong câu dẫn nhập nầy để khẳng định nguồn gốc thiên tính của Chúa Giêsu khi bàn về mẹ Maria mang thai “bởi Chúa Thánh Thần”. Điều nầy được thiên sứ xác định lại với Giuse trong giấc mộng (1,20).
Những chi tiết về Maria được đưa ra khá đầy đủ trong câu nầy: “đã đính hôn”, “mẹ của Người”, “trước khi về chung sống”, và đáng chú ý hơn cả là Maria “được thấy mang thai (dịch theo từ ngữ là “có trong bụng”) bởi Chúa Thánh Thần”. Trước hết cách dùng động từ “heuriskō”, “được tìm thấy” ở thể thụ động chỉ một tình trạng hay sự kiện được Thiên Chúa hoặc con người khám phá ra. Khó có thể cho rằng Maria là chủ từ của động từ nầy (x. Lc 1,28-38), càng không thể là dân chúng, dựa trên những điều Giuse suy nghĩ có thể sẽ làm (1,19). Chỉ có thể là Giuse, từ đó mới dẫn ông đến những quyết định. Rồi theo cách trình bày của Matthêô, chỉ người cha mới “sinh con”, gennaō; trong khi người mẹ tham gia vào việc nầy. Giới từ “ek”, “bởi” với sở hữu cách (genitive) của người mẹ chỉ nguồn gốc của người được sinh ra: bởi Tamar (1,3), Rahab, Ruth (1,5), vợ của Uria (1,6), Maria (1,16), Thánh Thần (1,18.20). Rất hiếm khi nói là người mẹ sinh con; chỉ thấy trong Luca 1,13.57; 23,29; và Gioan 16,21. Với Chúa Giêsu, Matthêô dùng động từ gennaō nầy luôn luôn ở thể thụ động “được sinh ra” (1,16.18.20; 2,1.4) để chỉ Thiên Chúa Cha sinh ra Người. Hơn nữa trong câu 1,20 có một chút dị biệt so với 1,18 là “Người được sinh ra, gennaō, trong vợ ông (Maria) bởi Chúa Thánh Thần”. Matthêô nhất quán với mình là ngay cả mẹ Maria cũng không sinh ra Chúa Giêsu, nhưng Người được Chúa Cha sinh ra trong mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần. “Bởi Chúa Thánh Thần” có thể dẫn đến kết luận là Thánh Thần đóng vai trò như người mẹ trong việc sinh ra Chúa Giêsu Kitô. Sau cùng, không nên tách rời “được thấy mang thai” khỏi “bởi Chúa Thánh Thần”. Việc biết nầy phải là “mang thai bởi Thánh Thần”, chứ không phải chỉ là “mang thai”, bằng không sẽ dẫn đến chuyện hiểu sai những quyết định của Giuse. Và hai yếu tố “đã đính hôn” và “trước khi về chung sống” ra hiệu cho biết mẹ Maria mang thai không bởi Giuse. Trong câu kết luận 1,25 Matthêô còn nhắc lại lần nữa là “Ông không biết bà cho đến lúc bà sinh con”. Điều nầy chỉ muốn nói là Giuse không tham dự chút nào vào việc hình thành thai nhi trong lòng mẹ, và mẹ Maria là trinh nữ khi mang thai Chúa Giêsu Kitô và cho đến lúc sinh hạ Người. Điều nầy sẽ được khẳng định lại trong lời của thiên sứ khi nhắc lại Is 7,14 “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con”. Vậy, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã được hình thành trong lòng mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần và Giuse không dự phần vào việc nầy.
Con người và quyết định của Giuse (1,19)
Giuse được khẳng định là “chồng”, anēr, của mẹ (1,16.19) và mẹ Maria được gọi là “vợ”, gynē, của ông (1,20.24) hay là “mẹ của Người/con trẻ” (1,18; 2,13). Khó khăn trong chú giải là làm sao giải thích được tương quan của hai mệnh đề phân từ trong câu nầy: “Giuse là người công chính” và “và ông không muốn tố giác bà, quyết định lìa bỏ bà cách kín đáo”. Những câu hỏi được đặt ra là hiểu thế nào là “công chính”? Nếu đi tố giác mẹ Maria, Giuse vẫn là người công chính? Giuse không muốn tố giác mẹ, nhưng bỏ mẹ mà đi cách kín đáo; đó không phải là một cách tố giác gián tiếp sao? Nếu không đi tố giác và âm thầm bỏ đi vì là người công chính, việc Giuse nghe lời thiên sứ đón nhận Maria về nhà sẽ làm cho ông hết là người công chính? Nếu Giuse biết mẹ Maria mang thai bởi Chúa Thánh Thần, sao lại đi tố giác? Bất cứ một cố gắng giải thích tiêu cực nào về quyết định và hành động của Giuse đều gặp phải khó khăn.
Để giải quyết, trước tiên cần tìm hiểu từ “công chính” áp dụng cho Giuse. Dikaios, “công chính”, 17 lần, và dikaiosynē 7 lần được dùng trong Matthêô theo nhiều nghĩa khác nhau. Trước tiên, “công chính” dùng để phân biệt cách chung với những người không công chính, cũng như người tốt lành đối nghịch với người xấu (5,45; 13,49); rồi chỉ những người sống theo luật Chúa trong Cựu ước (13,17; 23,29.35[2x]); chỉ những người tự cho mình là công chính (x. 9,13; 28,38); sau cùng là những người sống theo đòi hỏi và tinh thần của Chúa Giêsu (5,45; 10,41; 25,37.46). Giuse là người công chính không chỉ vì ngài tuân giữ luật Chúa như những người do thái tốt lành thời ấy, mà còn hơn thế nữa. Sự công chính của ngài chắc chắn vượt hơn hẳn sự công chính của các thầy thông luật và những người nhóm Pharisêô (5,20). Bởi đó, ngài không thể là công chính theo nghĩa vì tuân theo lề luật mà đem mẹ Maria ra bêu xấu trước mặt công chúng (Đnl 22,20-21.23-24). Ngài không thể làm như các thầy thông luật và Pharisêô đã làm khi đem người phụ nữ ngoại tình ra trước mặt Chúa Giêsu và mọi người để xét xử theo luật (Ga 8,3-11). Chính Chúa Giêsu không làm theo ý họ, mà còn bênh vực cho người phụ nữ nầy. Cũng không thể hiểu theo nghĩa là vì người công chính có lòng thương xót vị hôn thê, nên Giuse không đi tố giác. Việc âm thầm bỏ đi đã là một tố giác trực tiếp rồi. Nếu thật sự có lòng thương xót, Giuse phải ở lại với mẹ Maria.
Động từ “deigmatizō” là một từ hiếm (hapax legomenon) trong tin mừng nhất lãm. Chỉ xuất hiện duy nhất ở đây, và trong thư gởi cho các tín hữu Côlôsêô 2,15. Ý nghĩa căn bản của động từ nầy là “trưng bày”, “đưa ra cho công chúng thấy”; “deigma” có nghĩa là “mẫu” “sự hiển nhiên”. Bởi đó, động từ có nghĩa trung tính là trình bày cho mọi người đều thấy sự hiển nhiên, chứ không có nghĩa là “tố giác” hay “làm cho ai xấu hổ trước mặt công chúng” (x. Côl 2,15). Nếu động từ nầy có “para-” đi trước thì có thể hiểu theo nghĩa trên là “tố giác” (x. Do thái 6,6; Ds 25,4; Giêr 13,22; Êzêk 28,17). Giuse không muốn cho mọi người biết sự kiện Đấng Kitô đang được cưu mang trong lòng mẹ Maria bởi Thánh Thần. Ông không nói ra vì phải tôn trọng công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ không được nói cho mọi người biết Người là Đấng Kitô sau lời tuyên xưng của Phêrô (x. 16,20). Giuse quyết định li dị mẹ Maria vì ông biết mẹ Maria cưu mang Đấng Kitô bởi Thánh Thần (xem trên). Ông li dị vì ông sợ nhận Maria vợ ông. Cụm từ “nhận Maria về nhà” (1,20.24) đóng khung sứ điệp của thiên sứ (1,20-23), trong đó thiên sứ nói đến con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, và cả bổn phận đặt tên của ông cho con trẻ. Giuse sợ và không muốn nhận Maria làm vợ mình nữa, vì Maria đã trở thành mẹ của Đấng Kitô. Ông thấy mình bất xứng với người ông đã đính hôn, nên phải rút lui. Đây là thái độ đúng của người công chính. Mẹ Maria cũng sợ khi thiên sứ truyền tin (x. Lc 1,30), dân chúng sợ khi thấy điều kỳ diệu Chúa Giêsu làm cho người bại liệt (9,8). Như thế, chính quyết định của Giuse cho thấy cách hiển nhiên ông là người công chính trước khi ông được củng cố lòng tin và mời gọi tham dự vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Hai cuộc truyền tin của Giuse và mẹ Maria tương tự nhau. Cả hai đều sợ trước lời mời gọi cộng tác trực biết vào việc nhập thể của Con Thiên Chúa. Tuy không nói, Giuse đã làm như mẹ Maria là thi hành ý muốn của Thiên Chúa là “đem mẹ về nhà mình”. Đứng trước Thiên Chúa ai mà không run sợ và thấy mình bất xứng?
Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến