Mt 22,34-40: Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.
Đoạn 22,34-44 nằm trong văn mạch của các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các vị lãnh đạo Do thái (21,23-46): dụ ngôn hai người con (21,28-32); dụ ngôn các tá điền (21,33-46); dụ ngôn tiệc cưới (22,1-14); vấn đề nộp thuế (22,23-33); kẻ chết sống lại (22,23-33); Giới răn lớn nhất (22,34-40) và câu hỏi về Đấng Mêssia (22,41-46). Đoạn 22,34-44 có thể phân chia như sau: – Dẫn nhập ngắn (c. 34), – Vấn đề đặt ra (cc. 35-36); – Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 37-40).
Đoạn 22,34-40 bắt đầu bằng câu chuyển tiếp nhắc đến kết quả của cuộc tranh luận trước về việc sống lại giữa Chúa Giêsu với nhóm Sađucêô (c.34). Họ đã bị Chúa Giêsu khóa miệng. “Khóa miệng”, phimoō, là làm cho không nói được lời nào nữa. Nhóm Sađucêô đi, nhóm Pharisêô lại vào cuộc. Họ đã tranh luận với Chúa Giêsu nhiều lần từ khi Người vào đền thờ (21,23). Cách nói “nhóm họp lại một nơi” gặp thấy trong Cvtđ 4,26 và Tv 2,2 và chỉ việc “các quan quyền vây cánh liên minh chống lại Chúa và chống lại Đức Kitô của Người”. Việc nhóm họp nầy báo trước ý định xấu xa của họ là “thử Người” (c.35), như họ đã từng làm trước đó là “tìm cách bắt Người” (21,46) và “gài bẫy Người” (22,15.18). “Thử Người” là hy vọng tìm được những sai lỗi căn bản trong lời giải thích của Người.
Việc người Pharisêô quy tụ cũng sẽ là khung cảnh cho đoạn tiếp theo sau, khi họ hỏi về nguồn gốc của Đấng Kitô (c. 41). Nomikos “người thông luật”, “luật sĩ”, là người hiểu biết về lề luật. Họ là người giải thích và dạy lề luật Môsê. Nomikos tương đương với grammateus trong câu song song ở Marcô (Mc 12,28). Người thông luật nầy thuộc về nhóm Pharisêô, và được gởi đến để hỏi Chúa Giêsu về lề luật Môsê.
Câu hỏi của người thông luật liên quan đến Lề luật Môsê. “Thưa Thầy, giới răn nào là lớn nhất trong lề luật?” (c. 36). Trong Matthêô không đưa ra định nghĩa nomos, “lề luật” là gì, mà chỉ nói đến việc tuân giữ và thực hành lề luật (5,19; 15,3). Trong sách Đệ Nhị Luật, lề luật là con đường Thiên Chúa đặt ra trước dân Người để họ bước đi theo đó, được sống và được vào đất hứa (x. Đnl 30,15-20). Matthêô dùng chữ “lớn nhất”, megalē, thay vì “trên hết”, prōtē, như trong câu song song ở Marcô (Mc 12,28). Trong Lề Luật của Môsê, có tất cả 613 giới răn: 248 giới luật, 365 điều cấm kỵ. Mỗi rabbin có một quan điểm riêng về việc phân biệt các giới răn lớn và nhỏ khác nhau, và họ không thống nhất với nhau về cách sắp xếp nầy. Bởi đó, khi hỏi Chúa Giêsu và gọi Người là Thầy “didaskalos”, họ muốn biết Người nghĩ như thế nào về vấn đề nầy. Vậy câu hỏi của thầy thông luật là muốn biết Thiên Chúa muốn gì nhất nơi con người.
Trong câu trả lời trích dẫn Đệ Nhị Luật 6,5 về giới răn yêu Chúa không có lời kinh Shema, “Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Chúa độc nhất” (Mc 12,29) mà người do thái đọc hai lần sáng tối mỗi ngày. Lời trích dẫn của Matthêô giống nguyên văn với bản văn LXX, và chỉ gồm ba phần: “hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết sức lực ngươi” (c. 37). So với Marcô, Matthêô thay đổi “bởi tất cả tâm hồn” thành “với tất cả tâm hồn”, và “sức lực”, dunameōs, thành “trí khôn”, dianoia.
Trong tiếng hipri động từ “Yêu” mang ý nghĩa rất bao quát. Nó đi từ tình yêu phái tính, sang tình yêu đối với các thành phần trong gia đình, bạn bè, quan hệ trong xã hội và đến tình yêu đối với Thiên Chúa. “Yêu Thiên Chúa” theo Đnl 6,5 trước tiên là hành vi vâng phục và tuân giữ các giới răn của Người. Yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi dâng hiến cả con người.
Ba khả năng “con tim”, “linh hồn” và “tâm trí” tượng trưng cho toàn thể con người. Kardia, “con tim”, là trung tâm của đời sống thể lý và tinh thần. Psychē, “linh hồn”, là trung tâm của cảm giác, ước muốn, cảm tính. Dianoia, “tâm trí”, là khả năng của sự hiểu biết. Con người phải yêu mến Thiên Chúa với tất cả các khả năng nầy. Hơn nữa, bản văn luôn lập lại “của ngươi” (tính từ sở hữu ngôi thứ hai số ít) và “tất cả” ở mỗi khả năng trên: “hết lòng người, hết linh hồn người và hết trí khôn ngươi”. Điều nầy cho thấy đây là một đòi hỏi nơi mỗi người và là đòi hỏi trọn vẹn. Như thế, “yêu mến Thiên Chúa” không là một tình cảm, mà là sự dấn thân trọn vẹn và hướng trọn vẹn chính mình về Thiên Chúa qua việc nhận biết Người và sống cho Người.
Câu 38 là riêng biệt của Matthêô. Ông khẳng định tầm quan trọng của giới răn “yêu Chúa” và dùng cả hai chữ “lớn nhất” và “trên hết”. Làm như thế là ông đóng khung lại giới răn và muốn đặt ưu tiên cho giới răn nầy.
Chúa Giêsu nói đến giới răn thứ hai: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi” (22,39). Lần nữa, tính từ sở hữu “đồng loại của ngươi” và đại từ phản thân “chính ngươi” được đặt liên hệ với nhau. Giới răn thứ hai nầy trích từ sách Lêvi 19,18; Hai giới răn đã không được liên kết với nhau trong Cựu ước. Trong câu 5,43, plesiōn “đồng loại” “người lân cận” được đặt đối nghịch với “kẻ thù”, “Hãy yêu thương đồng loại và ghét kẻ thù”. Và tiếp sau đó ở câu 5,46 đối tượng của yêu thương là “yêu người yêu mình”. Như thế, plesiōn trước tiên là người mình có tình cảm hỗ tương; vì thế ở câu 19,19, plesiōn được đặt bên cạnh cha mẹ mà con người phải hiếu thảo. Trong Cựu ước, rēa‘ chỉ bạn bè, người lân cận, người đồng hương, người sống chung một lãnh thổ. Tuy nhiên, trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy tình yêu đối với tha nhân nầy vượt qua biên giới bà con, họ hàng, dân tộc. Tha nhân là người có nhu cầu và cần được giúp đỡ. Và “yêu thương tha nhân” là để tình yêu mỗi người có trong mình hướng dẫn mình làm mọi điều tốt cho người khác (x. 7,12).
Sau cùng Chúa Giêsu đã liên kết hai giới răn nên một và cho thấy tầm quan trọng của chúng: “Toàn thể lề luật và tiên tri đều qui về hai lề luật ấy” (c. 40). Chữ “qui về” dịch từ động từ kremannymi “treo vào” “gắn vào”. Động từ nầy gặp trong 18,6 nói về “treo cối đá vào cổ” (18,6); hay “một người bị treo vào thập giá” (Lc 23,39). Theo nghĩa đen, để có thể treo vào, cần một một vật chính làm điểm tựa hay cột trụ. Vật treo vào hoàn toàn lệ thuộc vào điểm tựa ấy. Ở đây, động từ kremannymi được dùng theo nghĩa bóng. Hai giới răn yêu thương là cột trụ. Toàn thể lề luật và tiên tri phải bám chặt vào hai giới răn nầy mới tồn tại và có ý nghĩa. Không gắn liền với hai giới răn yêu thương nầy toàn thể việc giữ luật sẽ rơi vào duy luật và mất hết ý nghĩa của nó.
Giới răn yêu thương Thiên Chúa và người khác là ý muốn lớn nhất và trên hết của Thiên Chúa. Người muốn con người đáp lại cách cá nhân và với trọn vẹn tình yêu của mình.
Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến