Lc 21,5-19: Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”. Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?” Người phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: ‘Chính ta đây và thời giờ đã gần đến’. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu”.
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.
Đoạn nầy nằm trong văn mạch lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong Đền thờ (19,47-21,38); diễn từ nầy chia làm hai ở câu 21,4. Phần thứ hai 21,5-36 bàn về số phận của Giêrusalem và Đền thờ (x. Mc 13,5-37; Mt 24,1-36), và có thể chia làm ba phần: Bối cảnh của lời tiên báo (21,5-7); Lời tiên báo (21,8-28); Khuyến dụ tỉnh thức và dụ ngôn cây vả (21,29-36). Đoạn về nội dung của lời tiên báo (21,7-28) nói đến những biến động: Kitô giả (cc. 8-9), chiến tranh (cc. 10-11), bắt bớ (cc.12-19); Đền thờ sụp đổ (cc. 20-24); Những dấu hiệu của việc Người Con Nhân Loại trở lại (cc. 25-28).
Trong tin mừng Luca, nhiều lần Chúa Giêsu nói đến ngày Người đến. Trong 12,35-48, Người khuyến dụ mọi người phải tỉnh thức, trung tín và sẵn sàng. Trong 17,20-37, Người nhấn mạnh điều nầy là không ai có thể biết được khi nào Người Con của Nhân Loại đến. Liên quan đến đền thờ Giêrusalem, Người đã khóc cho nó vì sẽ đến ngày bị bỏ hoang phế (13,34-35). Trong diễn từ nầy, Luca đặt việc tàn phá Giêrusalem (21,6.20-24) trong tương quan chặt chẽ với ngày Con Người sẽ đến (21,25-28). Luca đã ghi nhận trước điều nầy là khi thấy Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, người ta nghĩ là Nước Thiên Chúa đã đến (19,11). Vậy đền thờ Giêrusalem và những biến cố chung quanh việc tàn phá nầy liên quan rất trực tiếp với Chúa Giêsu và việc Người sẽ đến.
Bối cảnh của lời tiên báo về số phận của đền thờ Giêrusalem (21,5-7). Chúa Giêsu ở trong Đền thờ và giảng dạy (x. 19,47; 20,1; 21,37-38). Đền thờ đang được nói đến là đền thờ thứ hai, sau đền thờ do Salômon xây, và bị tàn phá bởi người Babylon năm 587 trước Chúa Kitô. Sau thời kỳ lưu đày, Giêrubbabel (Esdra 3-6) và Haggai (Hag 1-2) cho khởi công xây dựng lại đền thờ, và hoàn tất khoảng năm 515 trước Chúa Kitô. Dưới thời Hêrôđê Cả, đền thờ được tái thiết, khởi từ năm 20 trước Chúa Kitô (x. Gio 2,20) tiếp tục cho đến năm 63 sau Chúa Kitô. Về các phiến đá xinh đẹp, đồ sộ và những trang hoàng trong đền thờ, xem Josephus B.J. v. 5. Chúa Giêsu nói về “ngày sẽ đến” (c. 6). Đó là ngày Thiên Chúa sẽ đến (19,44), và cũng là ngày của Con Người (17,22.30). Sự hủy diệt sẽ đi trước ngày ấy; Luca ví chuyện nầy như thời ông Noê (17,26-29). Như thế, trong khi người ta hãnh diện về sự huy hoàng của đền thờ, Chúa Giêsu loan báo sự tàn phá của nó; “dei”, “phải”, chỉ ý muốn của Thiên Chúa (21,9).
Nội dung của lời tiên báo (21,8-19). Mở đầu phần nầy là câu hỏi về thời điểm và những dấu lạ đi trước biến cố ấy (c. 7). Để trả lời, Chúa Giêsu nói đến ba điều: liên quan đến những người lấy danh Chúa đến và kêu gọi người ta đi theo họ (21,8-9); liên quan đến chiến tranh giữa các nước, những thiên tại và đói kém trên mặt đất (21,10-11); liên quan đến việc bắt bớ các môn đệ của Chúa Giêsu (21,12-19).
Về việc những người lấy danh Chúa mà đến và kêu gọi môn đệ (21,8-9). Mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra trước: “Hãy coi chừng đừng để bị lừa gạt” (c. 8). Động từ “planaō” có nghĩa là “dẫn lạc đường”; động từ nầy chỉ xuất hiện một lần ở đây trong Luca. Trong Marcô, động từ nầy liên hệ đến sự hiểu biết Thiên Chúa. Nếu không biết Sách Thánh viết về Người, sẽ bị rơi vào lầm lạc; Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ không phải của kẻ chết (Mc 12,24.27; Mt 22,29). Vậy, mệnh lệnh nầy kêu gọi các môn đệ của Chúa Giêsu phải lắng nghe Chúa Giêsu để khỏi bị dẫn đi sai đường. Cách dùng chữ “Những người đến lấy danh của tôi” tương tự lời tung hô của dân chúng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (19,38). Lấy danh của ai là đại diện và hiện thân của người đó. Thành ngữ “đến nhân danh Chúa” ám chỉ Đấng Messia của Thiên Chúa. Đã có những người lấy danh của Người mà trừ quỷ (9,49). Những người ấy sẽ lập lại những lời nói của Chúa Giêsu: “Tôi đây” cách nói Chúa Giêsu thường dùng (22,70; 24,39; đặc biệt trong tin mừng Gioan 4,26; 6,20; 6,35; 6,41…); “Thời buổi đã gần bên” chính Chúa Giêsu đã rao giảng (10,9.11; Mc 1,15). Như thế, ở đây không ám chỉ Đấng Messia, mà “Kitô” giả (x. Mt 24,5). Họ muốn thay thế Chúa Kitô và kêu gọi các môn đệ đi theo họ; thành ngữ “đi theo sau” chỉ việc trở thành môn đệ (x. 9,23; 14,27).
Chúa Giêsu dùng ngôn ngữ khải huyền khi nói về những chuyện sẽ xảy ra trước khi Đền thờ bị tàn phá. Về chiến tranh (c. 9) Người nói cách mơ hồ, và ám chỉ Đaniel 7:22tt. Những sự kiện nầy phải xảy ra trước khi kết thúc với Đền thờ bị tàn phá (Đaniel 2,28tt. 45). Về các thiên tai (cc. 10-11), cũng bằng ngôn ngữ khải huyền (x. Is 19,2; 2 Sử biên 15,6; Ezk 38,19-22).
Về việc bắt bớ các môn đệ Chúa Giêsu (cc. 12-16). Chúa Giêsu báo trước những bắt bớ các môn đệ của Người phải chịu, hoặc do người do thái, vua chúa và quan quyền (c. 12; 12,11), hoặc do gia đình, bạn bè và thân nhân (c. 16). Tất cả đều lấy “danh của Người” mà làm điều ấy. Người muốn các môn đệ dùng cơ hội nầy mà “làm chứng cho Người (c. 13). Phần Người, Người bảo đảm cho họ sự khích lệ (c. 14) và nâng đỡ (c. 15); đồng thời bảo đảm cho họ sự sống đời đời nếu họ kiên trì trong sự bắt bớ nầy (cc. 17-18). Về việc bắt bớ bởi người do thái, Luca ghi nhận những sự kiện trong Công vụ tông đồ 4,16-18; 9,1b; 12,1-5; 12,1-11; 25,13:26,32. Liên quan đến “hội đuờng”, thời Chúa Giêsu những ai tin vào Người, sẽ bị trục xuất ra khỏi hội đường (x. Gio 12,42). Bị bắt bớ bởi vua chúa và quan quyền: Felix (Cv 23,24-24:27), Porcius Festus (Cv 24,27-26,32). Các tông đồ bị bắt, giết chết: Stêphanô (Cv 6,8-7:60), Phêrô (Cv 12,3), Giacôbê (Cv 12,2), Phaolô (Cv 23,12.14.18; 24,27).
Kết luận (c. 19). Hypomonē, do chữ hypo-menō có nghĩa là “ở bên dưới”, chỉ sự kiên trì, bền bỉ trong mọi tình huống, nhất là biết thời gian thử thách hiện tại sẽ qua đi. Luca hình tượng hoá điều nầy bằng hình ảnh hạt giống. Nó kiên trì chịu mục nát, biến đổi để trở thành mùa màng trĩu hạt (x. 8,15). Vậy, bắt bớ sẽ qua đi. Cần kiên trì chịu thử thách ấy, sẽ được nhận ơn cứu độ.
Cần đọc trọn vẹn diễn từ mới hy vọng hiểu rõ ý nghĩa và mục đích của những điều được tiên báo. Xin gợi ý một vài điều để suy nghĩ thêm. Giêrusalem và đền thờ là điểm trung tâm diễn từ nầy nhắm đến. Đền thờ được ca ngợi bởi những trang hoàng đẹp đẽ của nó (c. 5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu tiên báo nó sẽ bị sụp đổ (c. 6). Cùng với đền thờ bị tàn phá, thành Giêrusalem sẽ bị vây hãm, chiếm đóng và dân trong thành bị đi đày (x. 21,20.24). Những ngày đầu tiên Chúa Giêsu đến Giêrusalem và giảng dạy trong đền thờ, Người đã bị các thượng tế và kinh sư mưu đồ giết hại Người (x. 19,47). Trong lời tiên báo về Đền thờ, Người nói đến việc các môn đệ của Người sẽ bị bắt và dẫn đến hội đường. Họ chung một số phận với Người. Người kêu gọi họ kiên trì để được cứu độ. Sau khi đền thờ bị phá hủy và thành Giêrusalem bị tàn phá, Người nói đến việc Người Con Nhân Loại đến (21, 25-28), và Người tuyên bố “ơn cứu độ đã đến gần” (21,28).
Diễn từ nầy đặt trước trình thuật về cuộc thương khó (22,1-23,56) ngụ ý rằng cuộc thương khó là thời kỳ đi trước sự phá hủy Đền thờ. Trong thời kỳ nầy, Người sẽ chịu bắt bớ, và những biến cố trời đất cũng sẽ xảy ra như lời tiên báo (x. 23,44-46). Thời kỳ nầy sẽ diễn ra lâu dài hơn trong lịch sử của các môn đệ Người. Người sẽ bị giết, cũng như một số người trong các môn đệ Người sẽ bị giết (21,16). “Màn Đền thờ bị xé ra” (23,45) chính là lúc Đền thờ cũ bị hủy bỏ và thay thế bằng Đền thờ mới là Chúa Giêsu (x. Mc 14,58). Vậy, trong khi tiên báo sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu tiên báo ngày Người đến. Muôn thiên hạ sẽ thấy Người trong quyền năng và vinh quang, thay thế cho vẻ đẹp huy hoàng của đền thờ Giêrusalem.
Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến