Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần IV Mùa Thường Niên Năm A
Dâng Chúa Vào Đền Thờ
BÀI ĐỌC I: Ml 3, 1-4
“Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người”.
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: “Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!” Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: “Này đây Người đến”. Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Đó là lời Chúa toàn năng phán. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Đáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng:
1)Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. – Đáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. – Đáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. – Đáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Đế hiển vinh. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 2, 14-18
“Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! – Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 22-32 hoặc 22-40
“Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
02/02/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – A
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Lc 2,22-40
ĐƯỢC ÂN NGHĨA CÙNG CHÚA
Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa. (Lc 2,40)
Suy niệm: Hài Nhi Giê-su được thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thánh không chỉ là một việc làm chiếu theo luật Mô-sê: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa” (Lc 2,23). Là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su luôn hiệp nhất với Chúa Cha. Giờ đây, bản tính nhân loại nơi Ngài được thánh hiến để thuộc trọn về Chúa và nhờ đó “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” Hẳn nhiên trong thân phận con người, Hài Nhi Giê-su cũng gặp nhiều khó khăn thách đố trong cuộc sống; nhưng chính nhờ “trải qua nhiều đau khổ” Ngài đã “học biết thế nào là vâng phục” (Dt 5,8) để trưởng thành tới mức thập toàn và sẵn sàng thực hiện kế hoạch cứu độ con người.
Mời Bạn: Chúa Giê-su được dâng hiến trong đền thánh trở nên mẫu mực cho bạn để “hướng tới sự trưởng thành toàn diện” (Chủ đề mục vụ năm 2020). Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, bạn cũng được thánh hiến cho Thiên Chúa và được thông phần chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Ki-tô. Đó chính là ơn gọi nên thánh của mọi ki-tô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, qua việc sống chứng nhân cho Chúa trong bậc sống và việc bổn phận hằng ngày của mình.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày ý thức phục vụ trong yêu thương để cảm nghiệm được niềm vui trong ơn gọi nên thánh của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết dâng hiến trong vui tươi, hạnh phúc và bình an để dần trưởng thành và nên giống Chúa, được vững mạnh, khôn ngoan và đầy ân sủng của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG HAI
Uy Quyền
Aån Giấu Trong Cái Đơn Sơ
Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.
Tất cả biến cố này là một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần hằng ngự trên ông già này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa là, Si-mê-on đã lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người ta sửng sốt. Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ biết bao khi đó là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực. Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính là Vua Vinh Hiển.
Nhưng, vị vua vinh hiển này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng cách nào đây? Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn nạn trên khi ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).
Những lời ấy bộc lộ toàn bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc chết trên thập giá. Người là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một dấu chống đối của mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.
Các ngôn sứ của It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận của Gio-an Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người. Giê-su đã thực hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người hóa bánh và cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho giông tố im lặng, và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng dạy với uy quyền. Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ không chịu mở lòng trí ra để đón nhận Người.
Rốt cục, sự chống đối của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết thập giá của Đức Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng nghiệm.
Sấm ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi nơi và mọi thời.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02/2
CHÚA NHẬT IV Thường Niên.
DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH
(LỄ NẾN).
Ml 3,1-4; Dt 2:14-18; Lc 2,22-40
Lời Suy Niệm: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa.”
Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người có tư cách là “Con Đầu Lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng cả Ngài. Cùng với ông Simêon và bà Anna, toàn thể dân Ítraen đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (theo truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Messia được mong đợi đã lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ítraen”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng”. Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Maria, loan báo một dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất trên thập giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.” (GL số 529)
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay trên tay chúng con đều đang cầm một cây nến được thắp sáng, nhắc nhở cho chúng con ngày chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Xin cho tất cả đều biết giữ mình trong sáng, để dâng hiến đời mình cho Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA GIÊSU trong Đền Thánh
Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Gierusalem đã mừng kính lễ này, hướng tới việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và việc thanh tẩy Đức Trinh Nữ. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Roma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria. Đức Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ “dâng Chúa vào đền thánh”, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi sanh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái. Trong những ngày ấy họ không được vào đền thờ và không được chạm đến vật dụng nào đã thánh hiến cho Thiên Chúa.
Hết những ngày kiêng cữ trên, họ đến đền thờ để được thanh tẩy. Họ phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu hay hai con chim gáy hoặc bồ câu non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp vượt qua đất Ai cập. Lúc các con đầu lòng của loài người hay là của loài vật đều phải dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2). Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và thánh Giuse “khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” và các Ngài “dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai con bồ câu” (Lc 2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh diễn ra một cách bình thường dưới mắt người đời. Nhưng trong lịch sử cứu độ, đây là việc thực hiện lời tiên báo của tiên tri Malaki: “Thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi, và thần sứ giao ước mà các ngươi ước nguyện, này vị ấy đến” (Ml 3,1). Chúa đã đến trong đền thờ Người. Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ này. Nhưng như chính tiên tri Malaki trước tự hỏi: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến ? Ai đứng vững được khi Người hiện ra ?” (Ml 3,2).
Dĩ nhiên khó ai nhận biết được Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người như chúng ta. Phải có sự soi sáng của Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna là những người công chính và mộ đạo đã được hường đặc ân này. Được linh cảm, Siméon “đến đền thờ, khi cha mẹ bồng hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật dạy về Người” (Lc 2,27).
Am lấy Hài nhi trên tay, Siméon đã chúc tụng Chúa và nói:
“Mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người” (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna, “không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của Gierusalem” (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh còn được gọi là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép những cây nến và phân phát cho giáo dân. Cầm nến sáng trong tay và tiến vào thánh đường, mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối chúng ta vào trong cung điện Người. Những “cây nến phép” này sẽ được cất giữ trong các gia đình để dùng vào dịp lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên thi hài người quá cố trong gia đình.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Sop 2:3; 3:12-13; 1 Cor 1:26-31; Mt 5:1-12a.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hạnh phúc là biết khiêm nhường tìm nương ẩn nơi Thiên Chúa.
Các bài đọc của Chủ Nhật tuần này tập trung trong một bài học căn bản và quan trọng nhất của cuộc đời: nhận ra mình chỉ là con số không trước mặt Thiên Chúa, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Ngài. Đây là một bài học rất khó cho người xưa cũng như nay, vì con người luôn hãnh diện về những thành quả đã gặt hái được là do công sức của họ, mà quên đi rằng: nếu không có Thiên Chúa trợ giúp ban ơn, không bao giờ họ đạt được những thành quả đó. Người tự nhận thành công là kiêu ngạo và đánh cắp công ơn của Thiên Chúa. Người kiêu ngạo là người đánh lừa chính mình, tha nhân, và Thiên Chúa, vì dám nhận những điều mình không có hay không phải là của mình. Người khiêm nhường, ngược lại, nhận biết tất cả những gì mình có được là do công ơn của Thiên Chúa. Họ tin nếu không có Thiên Chúa giúp sức, họ không thể thành công dù chỉ một việc bé nhỏ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường.
1.1/ Anh em hãy tìm kiếm Người: Ngôn sứ Sophonia sống trong thời gian trước cuộc lưu đày Babylon. Ông đã chứng kiến biết bao cảnh vua quan cũng như dân chúng kiêu ngạo vì những thành công của họ, chối bỏ Thiên Chúa, và chạy theo các thần ngoại để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của họ. Ông cảnh cáo dân chúng: “Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.” Từ ngữ nghèo hèn ông dùng ở đây là anawim, không có nghĩa là nghèo khổ về phần xác, nhưng là những người “nghèo” về tinh thần, như chúng ta đã nói ở trên. Người công chính sống không phải bởi niềm tin vào sức mạnh hay khả năng của mình, nhưng bởi đức tin vào Thiên Chúa (Hab 2:4). Người khiêm nhường nhận biết mối tương quan của mình với Thiên Chúa và tha nhân, và biết cách hành xử cho xứng thứ bậc.
1.2/ Con người phải trải qua gian khổ mới biết nhận ra quyền năng của Thiên Chúa: Dân chúng đã không chịu nghe lời khuyên bảo của các ngôn sứ, hậu quả là họ đã bị mất nước và bị lưu đày. Tuy nhiên, các ngôn sứ vẫn cung cấp niềm hy vọng cho dân, họ luôn nói về “số còn sót lại.” Đây không phải là những người sống sót sau chiến tranh và lưu đày; nhưng là những người anawim: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.” Số còn sót lại sẽ biết sống theo sự thật, chứ không còn dám mon men theo đường nẻo gian ác nữa.
2/ Bài đọc II: Không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.
2.1/ Hãy xem xét tỉ mỉ cuộc đời của mình: Dân thành Corintô nổi tiếng về sự kiêu hãnh, vì họ giàu có và danh tiếng. Thánh Phaolô muốn nhắc các tín hữu Corintô tìm hiểu lý do tại sao Thiên Chúa chọn họ: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, đâu có mấy người quý phái.” Ngài cũng nhắc cho họ biết cách thức chọn lựa và làm cho thành công của Thiên Chúa rất khác với cách thức của thế gian: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.” Mục đích của thánh Phaolô là để cho các tín hữu nhận ra: “Tất cả là do bởi Thiên Chúa,” để rồi họ đừng tự hào về vinh quang cá nhân của mình.
2.2/ Đức Giêsu Kitô đã làm mọi sự cho con người: Điều con người cần phải tự hào là Đức Kitô, và con người phải cám ơn Thiên Chúa về món quà vô giá này, vì “chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, Đấng đã thánh hoá và cứu chuộc anh em.”
3/ Phúc Âm: Hãy học để nhận ra đường lối nên trọn lành của Thiên Chúa.
Có rất nhiều tác giả viết về bài Phúc Âm này, nhưng không ai cho cái nhìn sáng suốt và sâu xa bằng hai thánh Augustin và Thomas Aquinas. Theo hai vị này, chỉ có 7 mối phúc, chứ không phải 8 mối; vì mối cuối cùng chỉ là giảng nghĩa của mối thứ tư mà thôi. Hơn nữa, theo truyền thống Do-thái, con số 7 được coi là con số hoàn hảo nhất. Hai vị thánh so sánh 7 mối phúc với 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần, và họ tìm ra 7 món quà đó đi ngược chiều với 7 mối phúc. Họ cũng đặt một nhân đức tương xứng với mỗi mối phúc này. Sau cùng, khi họ so sánh với 7 lời xin trong Kinh Lạy Cha, họ cũng tìm thấy những lời này tương xứng với 7 mối phúc. Nói tóm, họ nhận ra sự tương xứng tuyệt vời và toàn hảo giữa Kinh Lạy Cha, 7 mối phúc, và 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi sẽ rất vắn tắt ở đây, nhưng sẽ khai triển rộng hơn trong những lần chia sẻ tới.
(1) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ: Nghèo khó không có nghĩa là về của cải vật chất, nhưng là nghèo khó trong tâm hồn; nghĩa là biết “kính sợ Thiên Chúa” (anawim). Người nghèo khó là người nhận biết mình chỉ là con số zero trước mặt Thiên Chúa, họ có được chút gì là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không do một chút gì công sức của họ. Mẹ Maria là mẫu gương sáng ngời cho mối phúc thứ nhất này. Mặc dù được ban tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã khiêm nhường tuyên xưng: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã thương nhìn tới. Từ nay đến muôn đời, thiên hạ sẽ khen tôi có phúc.” Ngược lại với sự nghèo khó trong tâm hồn này là tội kiêu ngạo, tội lấy mọi công ơn Thiên Chúa là của mình. Người kiêu ngạo đúng thực là người đánh cắp công ơn của Thiên Chúa, của cha mẹ, và của tha nhân. Con người cần có nhân đức khiêm nhường, tức là khó nghèo trong tâm hồn để tin tưởng vào Thiên Chúa, thay vì tin tưởng nơi mình. Sách Khôn Ngoan cho đây là nhân đức quan trọng nhất trong tiến trình giáo dục con cái. Cha mẹ cần tập luyện cho con cái nhân đức đầu đời này. Hễ con cái biết kính sợ Thiên Chúa, chúng cũng sẽ biết thảo hiếu và vâng lời cha mẹ. Một khi Thiên Chúa mà con cái không kính sợ, cha mẹ chúng cũng chẳng coi ra gì. Một người kiêu ngạo khinh thường Thiên Chúa, chẳng có tội gì mà họ không dám phạm.
Lời xin thứ nhất của Kinh Lạy Cha: “Xin cho Danh Cha cả sáng” phù hợp với mối phúc thứ nhất và nhân đức khiêm nhường. Tất cả là của Thiên Chúa; vì thế, con người cần phải làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn vinh Thiên Chúa và làm cho mọi người nhận biết Danh Thánh là bổn phận đầu tiên của con người.
(2) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Hiền lành là nhân đức cần thiết trong sự giao tiếp giữa người với người. Người hiền lành không ức hiếp tha nhân và đối xử bất công với họ; nhưng luôn luôn biết tôn trọng và trả lại cho tha nhan những gì thuộc về họ. Người có nhân đức này phải là người biết kính sợ và yêu thương Thiên Chúa, và vì kính yêu Chúa, họ cũng yêu thương tha nhân. Phần thưởng họ sẽ nhận được là cơ nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban trên nước Thiên Đàng.
Lời xin thứ hai cho “Nước Cha trị đến” tương xứng với nhân đức hiền lành và mối phúc thứ hai. Khi mọi người biết “mến Chúa yêu người,” nước Thiên Chúa quả thật đã đến ngay từ đời này, và chắc chắn đó cũng là Ngày Chung Thẩm mà Thiên Chúa và con người hằng ước mong.
(3) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Người có “kiến thức” càng nhiều càng dễ nhận ra tội lỗi họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Nhận ra tội lỗi là bắt đầu tiến trình hòa giải. Người không chịu học hỏi và tìm hiểu, sẽ không nhận ra tội lỗi của mình, và họ sẽ không cần xin lỗi để được hòa giải và tha thứ.
Lời xin thứ ba cho “Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời” tương xứng với mối phúc thứ ba và quà tặng về kiến thức của Chúa Thánh Thần. Người luôn biết ăn năn xám hối tội lỗi của mình dễ nhận ra thánh ý Thiên Chúa và tìm cách thực hiện, chứ không tìm cách thỏa mãn những ý muốn và dục vọng thấp hèn của mình.
(4) Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. Người công chính là người biết tin tưởng hoàn toàn nơi Đức Kitô, nhưng trung thành sống niềm tin này trọn cuộc đời không dễ dàng. Họ cần vâng giữ những gì Đức Kitô truyền dạy, và phải có nhân đức “can đảm” để làm chứng cho Ngài. Điều thường gọi là “Mối Phúc Thứ Tám” được bao gồm trong mối phúc thứ năm này, vì những người chịu truy tố và sẵn sàng tử đạo là những người phải có một niềm tin vững mạnh vào Đức Kitô.
Lời xin thứ tư cho “lương thực hàng ngày” tương xứng với nhân đức can đảm và mối phúc thứ tư. Khuynh hướng chung của con người là lo tích trữ của cải để hưởng thụ. Dám xin cho được chỉ có của ăn hằng ngày đòi một niềm tin mạnh mẽ và can đảm để vượt qua những ước muốn thấp hèn.
(5) Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Người biết xót thương là người biết mở rộng tâm hồn để tiếp nhận và hiểu biết người anh em đồng loại, chứ không khép kín tâm hồn để kết tội tha nhân. Người biết thương xót tha nhân sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Lời xin thứ năm “tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” rõ ràng quá phù hợp với mối phúc thứ năm và quà tặng “biết lắng nghe những lời khuyên bảo” của Chúa Thánh Thần. Người không biết tha thứ sẽ chẳng bao giờ nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
(6) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Một người càng giữ tâm hồn trong sạch bao nhiêu, người đó càng hiểu biết Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu, và cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ban cho họ phần thưởng là được nhìn thấy Thiên Chúa như Ngài là.
Lời xin thứ sáu “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” tương xứng với quà tặng “hiểu biết” và mối phúc thứ sáu. Để có thể vượt qua những chước cám dỗ, con người cần có sự hiểu biết tất cả những nguyên nhân đem tới và hậu quả sẽ phải lãnh nhận.
(7) Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Hòa bình được xây dựng trên hai nền tảng là sự thật và bác ái, chứ không phải chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh. Hòa bình không dựa trên sự thật mà chỉ dựa trên lòng thương xót là hòa bình giả tạo, sẽ không bền vững lâu dài, chỉ chờ đợi đến ngày chiến tranh sẽ bùng nổ. “Khôn ngoan” là quà tặng của Chúa Thánh Thần giúp con người nhận ra những gì thuộc về Thiên Chúa để cố gắng gặt hái cho kỳ được; đồng thời nhận ra những gì là giả trá và tạm thời để tránh xa.
Lời xin thứ bảy “cứu khỏi mọi sự dữ” đòi một người phải có nhân đức khôn ngoan của Chúa Thánh Thần trước hết để nhận ra những sự thuộc về Thiên Chúa và những sự thuộc về thế gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy cố gắng học cho kỳ được bài học căn bản và quan trọng này, để luôn biết cám ơn Thiên Chúa về mọi ơn lành Ngài đã đổ xuống trên chúng ta.
– Chúng ta đừng bao giờ kiêu ngạo nhận những gì không phải là của mình.
– Bảy Mối Phúc và Kinh Lạy Cha là con đường và những lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta hãy để tâm suy xét những lời dạy của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************