Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm A
BÀI ĐỌC I: Is 5, 1-7
“Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Tôi sẽ ca tặng người yêu bài hát của cô bác tôi về vườn nho.
Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho, nhưng nó lại sinh toàn nho dại.
Vậy giờ đây, hỡi dân cư Giêrusalem và người Giuđa, hãy luận xét giữa ta và vườn nho ta. Nào còn việc gì phải làm cho vườn nho ta mà ta đã không làm? Sao ta trông mong nó sinh quả nho, mà nó lại sinh quả nho dại!
Giờ đây ta tỏ bày cho các ngươi biết ta sẽ làm gì đối với vườn nho ta: Ta sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó. Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích. Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 79, 9 và 12. 13-14. 15-16. 19-20
Đáp: Vườn nho của Chúa là nhà Israel (c. Is 5, 7a).
Xướng:
1) Từ Ai-cập Chúa đã mang về một gốc nho. Chúa đã đuổi chư dân đi để ương trồng nó. Nó vươn ngành ra cho tới nơi biển cả, vươn chồi non cho tới chỗ đại giang. – Đáp.
2) Tại sao Ngài phá vỡ hàng rào, để bao khách qua đường đều lảy hái nó, để lợn rừng xông ra tàn phá, và muông thú ngoài đồng dùng nó làm cỏ nuôi thân? – Đáp.
3) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. – Đáp.
4) Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. Lạy Chúa thiên binh, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Pl 4, 6-9
“Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.
Vả lại, hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy. Những điều anh em đã học biết, đã lãnh nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi, anh em hãy đem những điều đó ra thực hành, thì Thiên Chúa bình an sẽ ở cùng anh em. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 21, 33-43
“Ông sẽ cho người khác thuê vườn nho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: ‘Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó’. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?” Các ông trả lời, “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi”.
Chúa Giêsu phán: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: ‘Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta!’ Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
04/10/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 27 TN – A
Mt 21,33-43
Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA
“Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.” (Mt 21,42)
Suy niệm: Nói về những người có đầu óc thiển cận, hẹp hòi, ông cha ta thường sánh ví họ là “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung.” Các tá điền vườn nho trong câu chuyện dụ ngôn không chỉ thiển cận, tham lợi trước mắt để trở mặt với ông chủ; họ còn to gan cóc tía, dám đánh đập, giết chết những người ông chủ sai đến, thậm chí còn thủ tiêu luôn người con duy nhất của ông, với tham vọng “đoạt lấy cả gia tài” của cậu nữa. Dù vậy, lòng tham lam độc ác đến độ điên cuồng của họ cũng không thắng được sự khôn ngoan và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Từ “tảng đá bị loại bỏ” – kết quả của sự phản loạn của họ – Chúa đã biến đổi cách kỳ diệu thành “đá tảng góc tường.” “Người con thừa tự” mà họ tưởng đã tiêu diệt thành công lại trở nên nguồn cứu độ cho muôn người.
Mời Bạn: Dù con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương và phục hồi mối tương quan thân thiết với Ngài, và giữa con người với nhau nhờ Người Con yêu dấu là Đức Giê-su. Như tảng đá bị loại bỏ, Chúa Giê-su đã chịu chết trên thập giá và hiến mình trong bí tích Thánh Thể để trở thành đá tảng góc tường xây dựng toà nhà Hội Thánh, là Nước Trời, vương quốc của Tình Thương. Chúa Giê-su cảnh báo Ngài sẽ cất Nước Thiên Chúa khỏi những con người phản loạn. Bạn có còn cứng lòng thù nghịch với Thiên Chúa hay sẵn lòng cùng với Đức Giê-su sống tinh thần phục vụ để sinh lợi cho Nước Trời?
Sống Lời Chúa: Dành ít phút chiêm ngắm người con trai của ông chủ vườn nho, hình ảnh của Chúa Giê-su chịu khổ nạn và quyết tâm phục vụ tha nhân qua việc bổn phận hằng ngày của mình.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Israel trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Israel, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do Thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do Thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa :
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/10
Chúa Nhật XXVII Thường Niên
Is 5, 1-7; Pl 4, 6-9; Mt 21, 33-43.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu nói với họ: Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.”
Chúa Giêsu rất quan tâm đến sự hoán cải trong đời sống đức tin của giới lãnh đạo Do-thái Giáo; Người đã đưa ra “dụ ngôn hai người con” và Người đã đặt câu hỏi với họ, và họ đã trả lời đúng như ý của Người. Nhưng thực tế trong đời sống đức tin của họ lại đi ngược lại điều họ nghĩ, khi họ từ chối: Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa sai đến như ngôn sứ Isaia đã loan báo; cũng như lời mời gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả để đón nhận Đấng Cứu Thế. Như thế họ đã từ chối ơn Cứu Độ của Chúa. Trong lúc đó chính những người tội lỗi lại tin vào lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả và họ đã sám hối về những tội lỗi của mình theo sự chỉ dẫn của Gioan: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vây. Đối với những người thu thuế: Đừng đòi hỏi những gì quá mức đã ấn định. Đối với các binh linh: Chớ hà hiếp, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 11-14).
Lạy Chúa Giêsu, chính những người thu thuế và các cô gái điếm, đã tin Gioan Tẩy giả là sứ giả của Thiên Chúa gởi đến để dọn đường cho Chúa ngự đến, như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo và họ đã sám hối, cải thiện đời sống và đã được Chúa Cứu Độ. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn tỉnh thức và sám hối mà tin vào Tin Mừng để được vào Nước Trời.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-10: Thánh PHANXICÔ ASSISIS
(1181 – 1226)
Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm 1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân, ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu, thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.
Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân.
Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.
Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209, Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo, Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva, nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.
Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng, đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin. Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu, là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả, với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là các nữ tu Clara.
Không bao giờ Phanxicô muốn lập một “Hội dòng”. Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo mà Ngài gọi là “Hiền mẫu” hay là “tôi tớ” của các nhóm. Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.
Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ Ngài mãivề sau.
Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng núi Alpes.
Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan, đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì.
Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng lêng. Sau khi sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện. Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.
Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng 9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết “bài ca mặt trời”. Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc ân.
Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH grêgoriô IX tôn phong lên hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Mười
Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. “Tuổi tác không phải là điều kiện thể lý cho bằng bầu khí của tâm hồn”. Có lẽ thánh nhân không phải là người đã nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo lắng, không buồn giận.
Những khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ, các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
– Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
– Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
– Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
– Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn rã của trẻ em.
– Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
– Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà cũng như cảnh tuyết rơi.
– Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
– Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
– Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh Phanxicô Assisi?
Một tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 27 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Isa 5:1-7; Phil 4:6-9; Mt 21:33-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vườn nho của Thiên Chúa
– Trong cuộc đời không ai dại dột đến độ cứ tiếp tục kiên nhẫn đầu tư vào những gì không sinh hoa kết trái, nhưng sẽ chuyển hướng và đầu tư vào những gì có lợi hơn.
– Thiên Chúa cũng thế, Ngài trang bị cho con người tất cả những gì cần thiết để họ có thể sinh hoa quả tốt và kiên nhẫn đợi chờ để thấy những kết quả này. Nhưng nếu con người chẳng những đã không sinh hoa kết quả tốt mà còn sinh tòan những kết quả xấu; Ngài sẽ lấy đi tất cả những quà tặng đã ban và trao cho những người khác có khả năng làm sinh lợi ích cho Ngài.
– Bài đọc I và Phúc Âm hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy cách thức đầu tư của Thiên Chúa qua 2 câu truyện rất thú vị về vườn nho: Bài đọc I chú trọng đến nho dại trong khi Phúc Âm chú trọng đến cách hành xử ác độc của các tá điền đối với các đầy tớ, nhất là đối với người con trai của chủ. Bài đọc II chú trọng đến những lọai nho tốt và cách thức để có thể sinh những lọai nho này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi mong đợi trái tốt, tại sao chỉ thấy những nho dại?
Tiên tri Isaiah (thế kỷ 8th trước công nguyên) dùng câu truyện vườn nho để nói lên sự liên hệ giữa Thiên Chúa và dân tộc Do-Thái, cùng tất cả những gì sẽ xảy đến trong tương lai. Chủ vườn nho là chính Thiên Chúa, vườn nho là nhà Israel, giống nho quí là chi tộc Judah.
Trong nông nghiệp, đất và giống là hai yếu tố chính quyết định mùa màng. Chủ vườn nho đã có đất trên sườn đồi mầu mỡ và đã mang giống nho quí đem trồng sau khi đã ra sức cuốc đất nhặt đá. Ông còn xây giữa vườn một vọng gác để canh chừng sự phá họai từ bên ngòai và chuẩn bị cho mùa màng bằng cách khoét bồn đạp nho. Ông không hiểu lý do tại sao ông đã cố gắng làm hết sức mà không thấy kết quả như lòng mong ước: thay vì trái tốt thì nó lại sinh nho dại. Sau khi nhận thấy những cố gắng của mình không có kết quả, chủ vườn nho quyết định phá hủy hòan tòan vườn nho của mình bằng cách biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu.
Thiên Chúa đã dẫn dắt dân tộc Israel từ Ai-Cập vào vùng đất Canaan, vùng chảy sữa và mật. Ngài ban cho chi tộc yêu quí Judah vùng Jerusalem để thay Ngài lãnh đạo và cai trị dân Israel trong công bình và chính trực. Tất cả những gì cần để thực hiện điều đó Thiên Chúa đã chuẩn bị hết cho dân: các giới răn, Đền Thờ, giới lãnh đạo, các tiên tri …
Thế mà kết quả xảy ra hòan tòan trái ngược với những gì Thiên Chúa mong ước: “Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.” Sách Các Vua quyển thứ nhất, chương 21, tường thuật Vua Samaria Ahab đã chiếm đọat vườn nho của Naboth, bằng cách nghe theo kế họach nham hiểm của hòang hậu Jezebel để giết chết ông. Sách Các Vua quyển thứ hai, chương 11, tường thuật chuyện Vua David bày kế giết Uriah, bằng cách gởi ông ra chiến trận cho quân thù giết chết, để tước đọat vợ của ông là Bathsheba. Những câu truyện tương tự như thế đã xảy ra trên tòan cõi Israel và tiếng khóc than của dân nghèo vô tội đã kêu thấu đến Thiên Chúa. Chúa đã không ngừng gởi các tiên tri đến để cảnh cáo và kêu gọi dân chúng ăn năn quay trở về, nhưng họ đã không thèm nghe mà còn mạ lỵ và giết các tiên tri.
Vì thế, Thiên Chúa đã quyết định không che chở Israel nữa và để mặc cho quân ngọai bang xâm lấn. Đây là những gì đã xảy ra cho dân tộc Do-Thái sau khi Thiên Chúa quyết định để vườn nho Israel thành hoang dại: Vào năm 721 BC, vương quốc Samaria bị rơi vào tay Vua Assyria. Vua quan và dân chúng bị đưa đi lưu đày ở Assyria. Khi thấy sự kiện này xảy đến, lẽ ra vua quan của vương quốc Judah phải học được bài học mà quay trở về với Chúa; nhưng họ lại tiếp tục theo đường lối của mình. Kết quả là vào năm 587 BC, vương quốc Judah bị rơi vào tay Vua Babylon. Đền thờ Jerusalem bị phá hủy hòan tòan, tất cả nhà vua và triều thần cùng dân chúng bị đem đi lưu đày tại Babylon.
2/ Bài đọc II: Hãy cố gắng sinh trái tốt.
2.1/ Cách sinh nho tốt: Con người sinh nho dại vì con người không tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và tự lo lắng vun xới cho mình bất chấp những đau khổ của tha nhân. Để có thể sinh trái tốt, thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu.”
2.2/ Những nho tốt trong cuộc đời: Giống như tiên tri Isaiah trong Bài đọc I, thánh Phaolô liệt kê những lọai nho tốt: những gì là chân thật và cao quí, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh và đáng khen.
Để dẫn chứng những điều khuyên này không vượt quá sức con người, thánh Phaolô đưa ra một ví dụ cụ thể là chính cuộc đời của ngài: “Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.”
3/ Phúc Âm: Con ông chủ vườn nho bị bắt và giết chết.
3.1/ Vườn nho trong Tân Ước: Có thể nói trình thuật của Matthêu hôm nay là bài ca thứ hai tiếp nối bài ca thứ nhất của tiên tri Isaiah về vườn nho của Thiên Chúa. Người chủ vườn vẫn là Thiên Chúa, vườn nho vẫn là nhà Israel. Điểm khác biệt giữa hai bài ca là chủ vườn không tự canh tác nhưng cho các tá điền mướn để canh tác.
3.2/ Khi mùa màng tới, ông sai các người nhà của ông đến 3 lần để thu hoa lợi:
(1) Đầu tiên, ông sai các đầy tớ đến, nhưng bọn tá điền bắt các đầy tớ của ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Kế tiếp, ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Các đầy tớ này là hình ảnh các tiên tri của Chúa sai đến để cảnh tỉnh dân chúng và kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa. Họ đã không nghe lại còn mạ lỵ, đánh đập, và giết chết.
(2) Sau cùng ông sai chính con của mình vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta.” Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Người con này Chúa Giêsu muốn ám chỉ chính là Ngài mà Chúa Cha đã gởi tới để mặc khải và chuộc tội cho con người. Họ chẳng những đã không nghe Ngài, mà sẽ còn bắt trói, đánh đòn, đóng đinh và treo trên Thập Tự cho đến chết trong tương lai.
3.3/ Phản ứng của chủ vườn nho: Chúa Giêsu đặt câu hỏi với khán giả: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Chính khán giả đã ra bản án cho mình khi họ trả lời Chúa: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.”
Rồi Chúa Giê-su bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Tảng đá bị lọai bỏ đây chính là Chúa Giêsu, Ngài sẽ trở nên Tảng Đá góc tường của tòa nhà Giáo Hội trong tương lai. Vì người Do-thái từ chối không tiếp nhận Chúa Giêsu nên ơn Cứu Độ được loan truyền cho tất cả Dân Ngọai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ cần thiết để sống một cuộc đời xứng đáng với tước vị làm con Thiên Chúa và đạt được đích điểm của cuộc đời: (1) những nhà lãnh đạo tốt lành không ngừng che chở, kêu gọi, và hướng dẫn chúng ta đi trong nẻo chính đường ngay như cha mẹ, thầy cô, linh mục tu sĩ, Giáo Hội; (2) cuốn Kinh Thánh bao gồm tất cả mặc khải của Thiên Chúa và mọi vấn nạn cùng cách giải quyết về những gì xảy ra trong cuộc đời; (3) các Bí-tích để tha tội và ban ơn trong mọi trạng huống của cuộc đời con người; (4) Thập Giới và các giáo huấn của Giáo Hội để giúp con người ở trong vùng an tòan và đừng mạo hiểm bước ra vùng nguy hiểm của quỉ dữ; (5) Chúa Kitô đã yêu thương chịu chết và mở đường cho con người vào cõi trường sinh bất tử.
– Nếu con người biết lợi dụng tất cả những gì Chúa ban, con người sẽ sinh hoa quả tốt như lòng mong ước của Chúa. Nhưng nếu con người khinh thường và không biết lợi dụng những quà tặng Chúa ban và cố chấp sống theo những gì họ suy tưởng hay cám dỗ của quỉ dữ, họ sẽ sinh đủ mọi thứ hoa quả dại.
– Lý do con người sinh hoa quả xấu không phải do nơi Thiên Chúa vì Ngài đã trang bị tất cả những gì cần thiết, nhưng hòan tòan do con người đã không biết dùng những quà tặng của Ngài ban. Thiên Chúa sẽ kiên nhẫn chờ đợi trong một thời gian để con người ăn năn trở lại, nhưng nếu con người cố tình đi trong đường gian ác, Ngài sẽ lấy lại các quà tặng đã ban và cho những người biết quí trọng và sinh lợi cho Ngài.
– Mỗi người chúng ta cần xét mình để nhìn ra những hoa trái chúng ta đang sinh ra là những nho dại hay nho tốt?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************