Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần V Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: Is 6, 1-2a, 3-8
“Này tôi đây, xin hãy sai tôi”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Năm vua Ozias băng hà, tôi nhìn thấy Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người bao phủ đền thờ. Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, và luân phiên tung hô rằng: “Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy vinh quang Chúa”. Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và nhà cửa đều đầy khói.
Lúc bấy giờ tôi mới nói: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh”. Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha”. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi liền thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3.4-5. 7c-8
Đáp: Lạy Chúa, trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa (c. 1c).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa, con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. – Đáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. – Đáp.
3) Lạy Chúa, các vua địa cầu sẽ ca ngợi Chúa, khi họ nghe những lời miệng Chúa phán ra; và họ sẽ ca ngợi đường lối của Chúa: “Thực, vinh quang của Chúa lớn lao!” – Đáp.
4) Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 15, 1-11 (bài dài)
“Chúa hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không anh em đã tin cách vô ích. Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ.
Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi. Dù tôi, dù là các Đấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 15, 3-8. 11
Anh em thân mến, tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Dù tôi, dù là các Đấng, chúng tôi đều rao giảng như thế cả, và anh em cũng đã tin như vậy. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Con của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 5, 1-11
“Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Đức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng. Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá”. Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
06/02/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 5 TN – C
Lc 5,1-11
BƯỚC THEO THẦY GIÊ-SU
Thế là họ đưa thuyền vào bờ và bỏ hết mọi sự mà đi theo Người. (Lc 5,11)
Suy niệm: Chúa Giê-su xuống thế làm người không như một khách đến tham quan thoáng chốc rồi rời đi. Trái lại, Ngài đến để ở lại, đồng hành, và chia sẻ cuộc sống với con người và để nâng con người lên tầm cao mới. Ngài gặp gỡ dân chúng ngay giữa cuộc sống xô bồ của họ bên hồ Ghen-nê-xa-rét. Ngài kêu gọi các môn đệ khi họ vừa đánh cá về và đang giặt lưới. Ngài mượn thuyền của họ để hỗ trợ việc giảng dạy dân chúng. Thế rồi ngay trên con thuyền ấy, Ngài tỏ quyền năng qua mẻ cá lạ lùng, và các ông đã được Ngài thu phục. Bỏ mọi sự đi theo Chúa, các ông vẫn là ngư phủ, nhưng là ngư phủ của Nước Trời (x. Mt 13,47-50); các ông vẫn thả lưới, nhưng không phải bắt cá mà là “thu phục người ta” (Lc 5,10).
Mời Bạn: Chúa kêu gọi bạn làm môn đệ của Ngài ngay trong đời thường của bạn. Bạn được Ngài sai đi không phải đâu xa, mà ngay trong môi trường gia đình, nghề nghiệp đời thường của bạn. Qua Bí tích rửa tội, bạn được trở nên con cái Chúa, không phải để được cất lên trời mà là vẫn ở lại giữa trần gian nhưng được biến đổi lên “tầm cao mới”; nhờ đó, bạn vẫn là công nhân, nhưng là một công nhân tông đồ; vẫn là giáo viên, nhưng là giáo viên tông đồ… Bạn vẫn là bạn, nhưng mang sứ mạng tông đồ để loan báo Tin Mừng ngay trong môi trường đời thường của bạn.
Sống Lời Chúa: Lan toả tình yêu Chúa bằng cách chu toàn việc bổn phận hằng ngày với tinh thần phục vụ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con biết sống theo Thần Khí Chúa soi dẫn để trở nên chứng nhân cho Chúa trong ngày hôm nay. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp.
Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay.
Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này
lại lọt vào cặp mắt của Ðức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông.
Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng
và thấy một số phép lạ Ngài làm.
Ðôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường,
nên Ðức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon,
và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu.
Ðây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá
thì đánh cá ban ngày cũng uổng công.
Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả.
Lưới đã được giặt và đem phơi…
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác,
kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Ðức Giêsu.
Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông.
Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Ðiều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn.
Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Ðức Giêsu tỏ mình cho ông.
Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa.
Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Ðấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông,
thí Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng.
Ngài mở đời ông sang một trang mới:
“Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta.”
Không phải bắt để làm chết như bắt cá,
nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Ðức Giêsu:
kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin,
kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ,
kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Ðức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ.
Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường,
vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa.
Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa
và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Ðức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác.
Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG HAI
Đối Diện Với Sự Thật Chứ Không Quanh Co Lẩn Tránh
Giữa bao chuyển biến và bao vấn đề đang nổi lên trong thời đại chúng ta, không thể có bất cứ gì cho phép ta sút giảm lòng tôn trọng đối với sự thật. Sự thật cần phải được tôn trọng một cách hoàn toàn và tuyệt đối. Không thể hàm hồ đối với sự thật. Tiếng gọi này đặc biệt dành cho những người làm việc trong lãnh vực truyền thông. Phải trung thành với sự thật!
Thật vậy, nhận hiểu mãnh lực và tốc độ thông tin liên lạc của thời đại hôm nay, người làm công tác truyền thông không thể không cảm thấy gánh nặng trách nhiệm đối với toàn xã hội. Vì thế, họ phải là những con người của sự thật.
Thái độ đối với sự thật của một nhà báo, chẳng hạn, là chính chuẩn mực cho biết anh ta là nhà báo đích thực đến mức nào. Lương tâm nghề nghiệp của anh ta như thế nào – điều đó tùy thuộc vào sự ngay thẳng của anh, tùy thuộc vào mối ràng buộc của anh đối với sự thật. Anh phải không ngừng nắm giữ lấy hai sự trung thành trong công việc của anh. Trước nhất, anh phải trung thành với sứ mạng của chính mình trong tư cách là một người cung cấp sự thật. Thứ hai, anh phải trung thành với sự tín nhiệm của công chúng – sự tín nhiệm mà anh kiến tạo được với độc giả hay khán giả của anh.
Nhà báo phải quyết liệt và thẳng thắn vạch trần những sai lầm và giả dối. Sứ mạng ấy càng đặc biệt khẩn thiết trong liên hệ với những vấn đề hiện nay của chúng ta. Nhìn thẳng vào sự thật và gạt bỏ mọi dối trá, đó là điều kiện tiên quyết để chúng ta giải quyết những vấn đề của chúng ta hôm nay.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 06/2
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN
Is 6, 1-2a. 3-8; 1Cr 15, 1-11; Lc 5, 1-11.
LỜI SUY NIỆM: “Giảng xong; Người bảo ông Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.”
Theo thói quen và quan niệm của trần gian, thì những kẻ chuyên nghiệp bắt cá biển chỉ có các ngư phủ, và hoàn cảnh thuận tiện đó là lúc trời tối. Nhưng với Chúa Giêsu với quyền năng của Người, thì mọi thời gian và môi trường không ràn buộc được Người. Đối với Phêrô, với lòng tin và sự vâng phục vào Chúa Giêsu, ông đã thả lưới và đã bắt được rất nhiều cá.
Lạy Chúa Giêsu. Phêrô đã không xin Chúa một lưới đầy cá, nhưng Chúa thấy và biết Phêrô và đồng bạn trên thuyền đã lao nhọc suốt đêm mà không bắt được con cá nào cả. Lạy Chúa Giêsu, trong hoàn cảnh dịch bệnh hiện tại của nhân loại đang phải gánh chịu; Giáo Hội đã mời gọi tất cả con cái trong Giáo Hội Kêu cầu đến Chúa và nhờ lời Đức Mẹ chuyển cầu. Xin Chúa ban sự bình an cho toàn thể nhân loại hôm nay thoát được cơn dịch bệnh..
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 06-02: Thánh PHAOLÔ MIKI
và các bạn tử đạo (1597)
Thánh Phanxicô Xavier là nhà truyền giáo đã đem Tin Mừng cho nước Nhật. Nửa thế kỷ sau các Kitô hữu vẫn còn giữ đức tin của mình, khi năm1597 một cuộc bách hại bùng nổ dữ dội. Lúc ấy Hideyeshi, một viên chức có thế lực đã dựa vào tiếng la hét điên khùng của một thuyền trưởng Tây Ban Nha rằng, các thừa sai đang dọn đường cho cuộc chinh phục Nhật bản của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để khích động cuộc bách hại. Vua Taicosme tin điều đó. Sáu linh mục dòng Phanxico bị bắt giữ cùng với những người Nhật thuộc dòng ba Phanxicô giúp việc truyền giáo.
Trong số những người Nhật này có ba nhi đồng tuổi thừ 12 tới 15 là Lu-y , Antôn và Toma Cosaki. Người ta đề nghị Lu-y nên trốn đi nhưng Lu-y từ chối. Em nói với cha mẹ đang khẩn khoản xin em chạy trốn cái chết:- Chúa sẽ cho con đầy đủ can đảm để chiến đấu.
Khi vị quan xét hứa ban cho em của cải, nếu em bỏ đạo. Em khinh bỉ tuyên bố: – Thánh giá tôi không sợ, vì tình yêu Chúa tôi còn ao ước nữa là khác .
Ba tu sĩ dòng tên góp vào sổ các vị tử đạo là: Phaolô Miki, Gioan Gottô và Giacôbê Kissi. Họ bị dẫn tới công trường Mêaco. Nhà vua truyền lệnh cắt mũi, cắt tai các tù nhân và chở xe qua các thành phố chính rồi đóng đính vào thập giá tại Nagasaki. Nhìn ba chị em máu me bê bết, nhưng vẫn thản nhiên tươi cười, dân chúng cảm động. Các Kitô hữu phủ phục xin ban phép lành và trong cơn nhiệt hành, có người còn xin lính gác cho được lên chung một chiếc xe nữa mà không được. Phaolô Miki và Gioan tẩy giả, bề trên dòng Phanxicô, vẫn rao giảng suốt dọc đường xe đi qua. Cuộc du hành thảm khốc chiếu tỏa ánh sáng tình yêu. Các vị tử đạo không ngừng cùng gọi các linh hồn trở về với Chúa.
Cuối cùng các vị đã tới đỉnh Calvê, nơi họ được đồng hóa với đức Kitô, chính vì Ngài mà họ chịu chết. Trên một ngọn đồi quay ra biển, các cây thập tự đang chờ đợi họ.
Bé Lu-y hỏi xem cây thánh giá nào của mình. Em hăm hở chạy tới. Khi chịu đóng đinh. Em không dứt nụ cười.
Người ta nghe rõ một giọng nói nhiệt thành lặp lại lời người trộm lành: “Lạy Chúa xin nhớ đến con”.
Một tu sĩ dòng Tên từ trên thánh giá, đã giảng bài cuối cùng và thêm: – Tôi tha thứ cho những người chủ mưu gây nên cái chết của tôi. Tôi khấn nguyện cho họ được lãnh phép rửa tội.
Bạn trẻ Antôn cố gắng dùng sức tàn để hát lên lời ca: Hỡi trẻ em hãy ca tụng Chúa. Nhưng Ngài đã không đủ thời gian để ca hết bài. Một lưỡi đòng đã đâm thủng tim Ngài.
Tất cả 26 vị được tôn phong hiển thánh năm 1862.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
06 Tháng Hai
Hướng Về Nagasaki
Nagasaki là một thành phố đã bị trái bom hạt nhân thứ hai tiêu hủy cùng với hàng trăm ngàn sinh linh vào năm1945. Khoảng 350 năm trước đó, vào tháng 2 năm 1597, 26 vị tử đạo đã bị treo vào thập tự trên một ngọn đồi quay mặt hướng về thành phố Nagasaki. Họ là những linh mục truyền giáo, tu sĩ, giáo dân. Họ là những người thuộc dòng Thánh Phanxico, dòng Tên và thành viên của dòng 3 Phanxico. Họ thuộc loại giai cấp xã hội: là những giáo lý viên, nông dân, y sĩ, những người giúp việc và ở mọi lứa tuổi, nhưng tất cả 26 vị được kết hợp trong cùng với một đức tin và một tình yêu Thiên Chúa và Giáo Hội.
Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật vào những năm 1860, họ ngỡ là sẽ không tìm thấy một dấu vết nào của Thiên Chúa Giáo nữa. Nhưng sau khi đã thiết lập được vài công đoạn bé nhỏ, các Ngài ngạc nhiên khám phá ra hàng ngàn tín hữu sinh sống quanh thành phố Nagasaki vẫn âm thầm, lén lút giữ vững Ðức Tin mà 26 vị tử đạo đã anh dũng tuyên xưng.
Vào năm 1617, 26 vị này được phong á thánh và cuối cùng được tôn phong hiển thánh vào năm 1862.
“Bản án tử hình của chúng tôi có để lại: những người bị hành quyết này đã đến từ Phi Luật Tân. Nhưng tôi, tôi không đến từ Phi Luật Tân. Tôi là người Nhật chính tông. Lý do tôi bị xử án là vì tôi đã rao giảng đức tin Kitô và thật đúng như vậy, tôi đã rao giảng Tin Mừng này. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được chết vì rao truyền danh Ngài. Tôi tin tưởng là tôi đã rao giảng sự thật và muốn nói với các bạn những lời cuối cùng này: Hãy cầu xin ơn Thiên Chúa giúp các bạn được hạnh phúc. Tôi vâng lời Chúa Giêsu và vâng lệnh Ngài, tôi tha thứ cho những người xử tử tôi. Tôi không hờn ghét họ. Tôi cầu khẩn Thiên Chúa thương xót tất cả các bạn và tôi hy vọng máu tôi sẽ tuôn rơi trên đồng bào tôi như là những giọt mưa giúp phát sinh nhiều hoa trái”.
Ðó là lời phát biểu cuối cùng khi đang bị treo trên thập tự của thầy Phaolô Miki, người Nhật thuộc dòng Tên, người được biết đến nhiều nhất trong số 26 vị tử đạo tại Nhật.
Ngày nay, một thời đại mới đã khởi đầu cho Giáo Hội Nhật. Tuy là một thiểu số khiêm nhường, nhưng những người Công Giáo tại Nhật được mọi người kính nể và được hưởng tự do hoàn toàn tiếp tục rao giảng Tin Mừng và Niềm tin Thánh Phaolô Miki đã rao giảng trong cuộc sống của Ngài và trong những giây phút sắp lìa trần.
Ước gì sự xác tin, lòng can đảm va sự sẵn sàng tha thứ của Thánh Miki được tiếp tục sống mãi trong tâm hồn các anh chị em tín hữu Nhật và trong tất cả chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 5 – Năm C – Thường Niên
Bài đọc: Isa 6:1-2a, 3-8; I Cor 15:1-11; Lk 5:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác với Ngài để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự cách kỳ diệu và khôn ngoan. Ngài có thể làm tất cả; nhưng lại muốn dùng con người để mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài gọi mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau, và trao sứ vụ mang ơn cứu độ đến cho tha nhân bằng những cách thức khác nhau. Người được gọi phải có một kinh nghiệm sâu xa với Thiên Chúa trước khi đáp trả lời mời gọi của Ngài. Họ phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ, sự bất toàn của bản thân, sự thánh thiện của Thiên Chúa, sự quan trọng và thúc bách của ơn cứu độ.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng việc Thiên Chúa gọi một số nhân vật để cộng tác với Ngài trong việc loan truyền ơn cứu độ đến cho muôn người. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa gọi Isaiah đang khi ông tham dự phụng vụ thánh trong Đền Thờ. Ông được nhìn thấy sự thánh thiện và vinh quang của Thiên Chúa cũng như nhận ra sự ô uế của mình; nhưng sứ thần của Thiên Chúa đã thanh tẩy ông bằng than hồng, trước khi ông tình nguyện để được sai đến với con cái nhà Israel. Trong Bài Đọc II, Phaolô tường thuật lại sự kiện ông được Đức Kitô gọi và trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Ông được gọi làm tông đồ khi đang trên đường bắt bớ các tín hữu tại Damascus; nhưng Đức Kitô đã hiện ra với ông và làm ông bị ngã ngựa và bị mù. Sau đó Ngài sai người đến mở mắt, huấn luyện, và trao cho ông sứ vụ mang Tin Mừng. Phaolô cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa và sự bất toàn của mình; nhưng ơn thánh của Thiên Chúa đã lấp đầy những bất toàn và giúp cho sứ vụ của ông được thành công. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chuẩn bị tâm hồn Phêrô bằng cách cho ông chứng kiến cảnh con người khao khát được nghe Tin Mừng và mẻ cá lạ lùng. Phêrô cảm thấy mình tội lỗi và bất xứng nên xin Đức Kitô tránh xa ông; nhưng Ngài đã gọi và biến đổi ông thành người chinh phục tha nhân về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gọi Isaiah làm ngôn sứ.
1.1/ Hoàn cảnh của Isaiah: Ông là công dân của vương quốc Judah, có vợ và ít nhất hai người con. Ông sống trong một thời kỳ rất khó khăn của đất nước: sự kiện vua Uzziah băng hà chấm dứt thời huy hoàng của Judah và bắt đầu một thời kỳ gian nan với sự cai trị của các vua Jotham, Ahaz, và Hezekiah. Ông đã chứng kiến cảnh vương quốc Israel miền Bắc bị rơi vào tay của quân đội Assyria năm 721 BC, và cảnh suy sụp về đạo nghĩa của vua quan cũng như dân trong xứ Judah sẽ đem đến thảm cảnh cho vương quốc Judah sau này (587 BC). Trình thuật hôm nay tường thuật một thị kiến xảy ra trong Đền Thờ và bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của Isaiah.
1.2/ Kinh nghiệm của Isaiah: Thiên Chúa cho ông nhìn thấy sự vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa. Ông kể lại thị kiến: “Tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Seraphim đứng chầu. Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” Tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển; khắp Đền Thờ khói toả mịt mù.” Ba lần tung hô “Thánh! Thánh! Chí Thánh!” là truyền thống Do-thái diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa. Khói tỏa mịt mù nhắc cho ông biết về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ, như con cái Israel từng có kinh nghiệm về “cột mây” suốt 40 năm trong sa mạc.
Khi nhận ra sự thánh thiện của Thiên Chúa, ông cũng đồng thời cảm thấy mình ô uế tội lỗi; nên ông thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” Truyền thống Do-thái vẫn tin: không ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống. Trường hợp của Isaiah là một trường hợp đặc biệt, vì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến để thanh tẩy miệng lưỡi của ông, như ông tường thuật: “Một trong các thần Seraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.””
1.3/ Isaiah tình nguyện để được sai đi: Quang cảnh Isaiah được chứng kiến là cảnh triều đình của Thiên Chúa với các thiên thần. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa hỏi ý kiến của các ngài: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Ngài không trực tiếp gọi Isaiah; nhưng Isaiah bị thôi thúc để đáp trả: “Dạ, con đây, xin sai con đi.” Lý do bị thúc đẩy có lẽ vì Isaiah được chứng kiến vinh quang thánh thiện của Thiên Chúa và được thiên thần sốt mến Seraphim thanh tẩy. Khi con người cảm nhận được tình yêu và sự tốt lành của Thiên Chúa, họ muốn đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng cách rao truyền tình yêu này cho mọi người.
2/ Bài đọc II: Đức Kitô chọn Phaolô làm tông đồ Dân Ngoại.
2.1/ Hoàn cảnh của Phaolô: Ông là một người Pharisee nhiệt thành với Lề Luật, sinh sống tại Tarsus, trong tỉnh bang Cicilia, và hành nghề chế tạo lều. Ông đang trên đường đi Damascus để truy nã các tín hữu của Đức Kitô. Lý do ông truy nã các tín hữu vì ông tin như bao người Do-thái khác: chỉ có người Do-thái mới xứng đáng được hưởng ơn cứu độ bằng cách giữ cẩn thận các luật lệ của tiền nhân để lại. Ông không được nghe trực tiếp từ Đức Kitô; nhưng qua những lời tố cáo của những người khác, ông nhìn Chúa Giêsu và các tín hữu như những kẻ thù đe dọa niềm tin của Do-thái Giáo.
Nhưng biến cố gặp gỡ Đức Kitô trên đường đi Damascus đã thay đổi toàn bộ đời sống của Phaolô. Ông bị té ngựa bởi một luồng sáng cực mạnh từ trời, bị mù lòa, và được nghe tiếng Đức Kitô cho biết Ngài chính là Người mà ông đang truy nã. Ngài cũng cảnh cáo cho ông biết “khốn cho những ai cứ giơ chân đạp mũi nhọn!” Sau đó, ông được sai tới với Ananiah, môn đệ của Đức Kitô, để được chữa lành và trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng, cách riêng cho Dân Ngoại.
2.2/ Kinh nghiệm của Phaolô: Khi suy niệm về biến cố ngã ngựa đó, Phaolô cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng với tình yêu của Đức Kitô. Thứ nhất, ông là kẻ thù đáng chết của Đức Kitô, vì ông đang truy tố các tín hữu của Ngài; thế mà Ngài đã không bắt ông phải chết, lại còn chữa lành sự mù lòa của ông về thể xác cũng như tinh thần. Ngài cho ông nhìn thấy sự thật về những mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trước đó ông đã lầm lẫn. Thứ đến, Ngài còn ban cho ônh đặc quyền được làm tông-đồ. Phaolô thú nhận: “tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.” Sau cùng, Ngài ban muôn ơn thánh để giúp ông hoàn thành sứ vụ được trao phó: “tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.”
2.3/ Phaolô thực thi sứ vụ tông đồ: Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô đã gặp nhiều chống đối từ mọi phía: từ phía các tín hữu và từ người Do-thái. Các tín hữu không thể tin Phaolô, một người đang nhiệt thành bắt đạo, có thể trở thành người rao giảng Tin Mừng. Những người ghen tị tố cáo Phaolô giảng dạy giáo lý sai lạc. Họ nêu lý do vì Phaolô không thuộc Nhóm Mười Hai nên không thấu hiểu đạo lý của Đức Kitô. Trong trình thuật hôm nay, Phaolô nêu bật những điều quan trọng mà mọi người phải tin: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại đúng như lời Kinh Thánh. Sau đó, Đức Kitô đã hiện ra với nhiều người: với ông Kêpha và với Nhóm Mười Hai, với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ, và sau cùng với chính ông trên đường đi Damascus. Tất cả đều làm chứng Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Phaolô kết luận: “Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy.”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi Phêrô trở thành kẻ “lưới người như lưới cá.”
3.1/ Hoàn cảnh của Phêrô: Ông là người quê ở Betsaida và đang hành nghề đánh cá trên Biển Hồ Galilee. Theo trình thuật của Lucas hôm nay, Chúa Giêsu muốn Phêrô chứng kiến hai điều quan trọng:
(1) Dân chúng khao khát được nghe Tin Mừng: Vì dân chúng phải chen lấn nhau đến gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Phêrô chứng kiến nhu cầu khao khát được nghe Lời Chúa của dân chúng; nhưng chắc ông không bao giờ dám mơ tưởng một người ngư phủ như ông có thể trở thành người rao giảng Tin Mừng.
(2) Chúa Giêsu cho Phêrô bắt được một mẻ cá lạ lùng: Giảng xong, Người bảo ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Ông nghĩ với kinh nghiệm của một ngư phủ hành nghề lâu năm, ông sẽ cho Chúa Giêsu thấy lệnh truyền của Ngài vô ích; nhưng Chúa Giêsu chứng minh cho Phêrô thấy uy quyền của Thiên Chúa. “Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.”
3.2/ Kinh nghiệm của Phêrô: Ông nhận ra sự bất toàn của mình và uy quyền của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ có uy quyền trong việc giảng dạy Lời Chúa; nhưng còn có uy quyền trên biển cả, mà ngay cả những ngư phủ kinh nghiệm như ông, đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào cả. Ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”
3.3/ Sự đáp trả của Phêrô: Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” Ông đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. Khi gọi ông theo Ngài, Chúa Giêsu muốn Simon dùng kinh nghiệm ông có sẵn trong nghề đánh cá để áp dụng vào việc rao giảng Tin Mừng. Đánh cá đòi hỏi sự kiên nhẫn và thói quen thức khuya dạy sớm; người ngư phủ phải biết giờ nào cá đi tìm mồi và chỉ bắt cá trong những giờ đó. Việc chinh phục con người về cho Thiên Chúa cũng vậy, người rao giảng không phải chỉ biết đạo lý Nước Trời, nhưng còn phải biết tâm lý con người, và phải kiên nhẫn để hoán cải những tâm hồn ngoan cố.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mỗi người chúng ta đều đã được Thiên Chúa kêu mời để cộng tác với Ngài trong việc mang ơn cứu độ đến cho chính mình và cho tha nhân.
– Chúng ta không xứng đáng với tình yêu, ơn gọi, và ơn cứu độ của Thiên Chúa; nhưng chúng ta đừng lo lắng, vì Chúa sẽ lấp đầy mọi thiếu thốn của chúng ta với ơn thánh của Ngài.
– Chúng ta hãy nhiệt thành đáp trả và cố gắng hết sức để chu toàn sứ vụ được trao phó. Khó khăn chắc chắn sẽ có; nhưng Thiên Chúa sẽ ban ơn thánh để chúng ta vượt qua tất cả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************