Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần IV Mùa Phục Sinh Năm C
BÀI ĐỌC I: Cv 13, 14. 43-52
“Đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Đến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy. Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất”. Nghe vậy các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ thì đầy hân hoan và Thánh Thần. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 99, 2. 3. 5
Đáp: Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. – Đáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. – Đáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới muôn muôn thế hệ. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 7, 9. 14b-17
“Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã xem thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế.
Và một bô lão đã nói với tôi: “Đây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 10, 27-30
“Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
08/04/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 PS – C
Cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ
Ga 10,27-30
LÀ MỤC TỬ CHÍNH DANH
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời.” (Ga 10,27-28)
Suy niệm: “Con người mất hai năm để học nói, nhưng dành cả cuộc đời để lắng nghe.” Lắng nghe là kỹ năng phải luyện tập mới có, mới hoàn thiện. Lắng nghe ai đó không đơn giản là thâu nhận âm thanh, nhưng nhất là thấu cảm để hiểu ý của người muốn nói với mình. Qua lối nói ẩn dụ trong Tin Mừng, Chúa Giê-su dạy những ai được quy tụ trong ràn chiên của Ngài kỹ năng lắng nghe và nhận biết Ngài là người Mục tử chính danh: Ngài yêu thương chăm sóc chiên không phải cách chung chung mà Ngài biết và gọi tên từng con chiên, và dám hy sinh mạng sống mình để chiên được sống và sống dồi dào. Đối lại từng con chiên cũng có được kỹ năng lắng nghe, nhận biết tiếng chủ chiên của mình và đi theo ông chứ không đi theo người lạ “vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”.
Bạn ơi, Chúa Giê-su biết con người bạn, biết cả tính cách, nội tâm bạn; ngay cả trước khi bạn thành hình trong lòng mẹ, Chúa đã biết (x. Gr 1,5). Người biết rõ bạn mong chờ hay khao khát điều gì. Điều Người mong muốn là bạn được sống dồi dào. Nhưng để có sự sống dồi dào ấy, bạn cần phải biết nghe. Ý thức “nói là gieo, nghe là gặt,” bạn xin ơn biết lắng nghe Lời Chúa, đem ra thực hành, để đời sống thiêng liêng của bạn gặt được nhiều bông lúa trĩu hạt.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành thời gian thinh lặng suy niệm Lời Chúa để lắng nghe và nhận ra ý Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Mục tử, xin cho con nhận ra tình yêu hy sinh, tự hiến của Chúa. Nhờ đó con sống lòng biết ơn, đáp trả cân xứng bằng việc lắng nghe và tuân giữ Lời Ngài. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
“Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa,
các thiên thần của bình an và hoan lạc,
xin hãy ném cho nhau những bông hồng, bông súng,
những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương;
và xin hãy đổ tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc
trên những nữ tì của Chúa.”
Ðó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp,
thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời.
Ông đã viết bài này gần ba tuần trước khi mất
để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh
đã chăm sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu
đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó
chút hương thơm của Tuyệt Ðối, chút ngọt ngào của Vô Cùng,
để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc,
Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa:
cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên,
cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng,
cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm
cần bàn tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương,
và trên hết cần những trái tim không san sẻ,
dám yêu hết mình, dám sống hết tình,
hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người,
đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả nước ta có gần 2,000 linh mục và khoảng 7,000 tu sĩ,
một con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân.
Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu cho ơn thiên triệu,
chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn
và hãy giúp cho họ nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu,
nhưng cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ,
và họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu,
một giọng nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường
để theo sát Ngài hết sức có thể,
một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh.
Họ vui lòng bỏ lại những gì họ quý yêu.
Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát.
Nhờ sống nghèo, họ được giải thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt.
Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn bành trướng.
Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng.
Như thế ràng buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi,
bởi lẽ họ thuộc về Ngài cách đặc biệt.
Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Cầu Nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG NĂM
Một Tặng Phẩm Của Cuộc Phục Sinh
Trong phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói với các Tông Đồ về cuộc ra đi của Người và Người giải thích tại sao Người phải ra đi. “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em. Nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7).
Sau những lời ấy, Đức Giêsu chia tay với các môn đệ. Người từ giã thế giới này bằng một cách thê thảm nhất mà trí tưởng tượng người ta có thể hình dung: bị xét xử như một tên tội phạm, một kẻ gian manh, bị kết án tử và bị đóng đanh. Thật không có gì phải ngạc nhiên khi cuộc Thương Khó của Đức Kitô đã là nỗi hãi hùng của các Tông Đồ đến thế. Cứ theo suy nghĩ của loài người, thì đó là cả một nỗi ê chề thất vọng.
Nhưng rồi Đức Giêsu xuất hiện giữa họ, khai mở lòng trí họ để họ hiểu sứ mạng và mục đích của Người. Người khai mở tâm trí họ để giúp họ nhận ra Thánh Kinh hướng chỉ về Người như thế nào.
Song họ cần có Đấng Bảo Trợ, tức Chúa Thánh Thần, để giúp họ nhận hiểu trọn vẹn. Và kìa, Đức Kitô đã trao ban Thánh Thần cho họ – ngay trong ngày phục sinh, ngay cả trước khi “gửi” Thánh Thần đến vào dịp Lễ Ngũ Tuần. Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Như vậy, Thánh Thần đã được trao ban cho các Tông Đồ như là hoa trái của công cuộc cứu độ của Đức Kitô trên thập giá. Toàn bộ mầu nhiệm Vượt Qua được đóng ấn bằng tặng phẩm vĩ đại là Chúa Thánh Thần.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/5
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
CHÚA CHIÊN LÀNH
(Cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ)
Cv 13, 14. 43-52; Kh 7, 9. 14b-17; Ga 10, 27-30.
LỜI SUY NIỆM: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng bị diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” (Ga 10,27-28).
Chúa Giêsu cho biết dân của Ngài một cách công khai và hết sức rõ ràng là gồm những ai nghe tiếng của Ngài, và những con người này Ngài biết rõ về họ một cách tường tận và sâu thẳm, được chính tay Ngài săn sóc nuôi dưỡng và bảo vệ.
Lạy Chúa Giêsu. Thật là hạnh phúc cho chúng con, khi chúng con được làm dân của Ngài. Niềm tin của chúng con đặt trọn vào Chúa và đã kết hợp chúng con vào trong Mầu Nhiệm Thân Thể Chúa bền chặt hơn để có chung sự liên đới với nhau trong cầu nguyện và tế lễ, hằng tin tưởng và thương yêu nhau vì cùng con một Cha Trên Trời.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
08 Tháng Năm
Chữ Thập Ðỏ
Buổi sáng ngày 24/6/1859, Henri Dunant, một thương gia trẻ tuổi người thụy Sĩ, thức giấc với nhiều bận tâm. Từ mấy ngày nay, anh đang trọ tại một lữ quán nghèo thuộc miền Castiglione delle Stiviere bên Italia. Anh đến italia với một công tác rất táo bạo, đó là gặp cho kỳ được Hoàng Ðế Napoleon đệ tam của nước Pháp để xin cấp cho anh giấy phép được thiết lập một số nhà máy xay lúa tại Algerie, lúc bấy giờ đang là thuộc địa nước Pháp…
Từ trong quán trọ nhìn ra, anh thấy từng đoàn binh sĩ Pháp di chuyển về cánh đồng Solferino… Và những gì phải xảy ra đã xảy ra… 300 ngàn con người từ hai phía đã giáp chiến. Tiếng súng nổ, tiếng người la hét giãy giụa. Khi màn đêm xuống, tiếng súng thưa dần, người ta chỉ còn nghe thấy tiêng rên la của các thương binh từ hai phía… Giờ phút này Henri Dunant không còn nghĩ gì đến dự án thiết lập các nhà máy xay lúa tại Algerie nữa. Thay vào đó, nỗi oán ghét chiến tranh và sự cảm thông với các thương binh mỗi lúc một xâm chiếm tâm hồn anh, nhất là khi người ta bắt đầu di chuyển các thương binh vào các làng mạc…
Một người lính Pháp vừa lê lết vừa xin nước uống. Nguyên một bàn chân đãbị cắt đi khỏi thân thể. Dunant dìu anh vào quán trọ. Cùng với các y sĩ của các phe đang tham chiến, Henri Dunant đã động viên tất cả dân làng để mang thực phẩm và thuốc men đến cho các thương binh, bất kể họ thuộc bên nào.
Trong những ngày ấy, thay cho dự án kinh doanh, Henri Dunant đã dành thời giờ đê viết lại hồi ký về trận Solferino. Anh mô tả lại tất cả những gì anh đã chứng kiến và kêu gọi tất cả những người thiện chí trên thế giới hãy giúp anh để chấm dứt thảm cảnh ấy. Không mấy chốc, cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được gửi đến các Chính Phủ trên thế giới. Ngay tức khắc, một tổ chức nhân đạo tại Génève đã thỏa thuận trợ giúp cho công tác của Dunant. Anh đi khắp các thủ đô Âu Châu để thuyết phục các nhà cầm quyền ký vào một quy ước nhìn nhận quyền bất khả xâm phạm của các thương binh, các y tá và tất cả những ai phục vụ trong ngành quân y…
Ngày 26/10/1963, đại diện của 16 nước đãgặp nhau tại Génève. Tổ chức do Henri Dunant khai sinh được chính thức chào đời ngày hôm đó. Người ta gọi tổ chức này là Hội Chữ Thập Ðỏ, do biểu tượng của một chữ thập đỏ in trên nền trắng… Dấu hiệu này đã được treo trên các lều, các nhà cửa thuộc về phong trào này… Ðó là món quà lớn nhất mà Henri Dunant đã tặng cho nhân loại.
Trong tập hồi ký trận Solferino, Henri Dunant đã ghi lại như sau: Có nhiều binh sĩ Áo dưới quyền chỉ huy của Hoàng Ðế Prancois Joseph bị bắt làm tù binh. Henri Dunant đã săn sóc họ tận tình. Thấy thế, một bà cụ già trong làng đã phản đối vì cho rằng người Áo là kẻ thù. Henri Dunant đã nói với bà cụ già như sau: “Trong sự đau khổ, không còn khác biệt giữa bạn và thù nữa.. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau”.
Nhìn mọi người như anh em của mình, một cái nhìn như thế hẳn phải xuất phát từ một niềm tin rất sâu sắc…
Năm 1901, lần đầu tiên, giải thưởng Nobel hòa bình đã được trao tặng và người được danh dự ấy chính là vị sáng lập ra Hội Chữ Thập Ðỏ. Mười năm sau, con người đã trao tặng cho thế giới một món quà cao quý như thế đãqua đời trong một bệnh viện dành cho những người hành khất nghèo nàn bên Thụy Sĩ. Gia tài của ông đẻ lại là vài cuốn sách, năm ba lá thư và một di chúc thiêng liêng như sau: “Hoặc tôi là một môn đệ của Ðức Kitô giống như các tín hữu của những thế kỷ đầu hoặc tôi không là gì hết”.
Ðặc biệt của các tín hữu sơ khai và cũng là lý tưởng của Henri Dunant chính là lòng mến, lòng mến đã biến họ nhận ra mọi người như là anh em, con cùng một Cha trên Trời… Mỗi người Kitô chúng ta cũng có thể lập lại lời di chúc của vị sáng lập Hội Chữ Thập Ðỏ: “Hoặc tôi tôn trọng và yêu thương tha nhân hoặc tôi không là gì hết”.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV – Năm C – Phục Sinh – Kính Chúa Chiên Lành
Bài đọc: Acts 13:14, 43-52; Rev 7:9, 14b-17; Jn 10:27-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô là Mục Tử Nhân Lành duy nhất.
Thiên Chúa dựng nên con người với địa vị ngang hàng như nhau; nhưng nhiều người tự cho mình hơn người khác vì những đặc quyền họ sở hữu như: giầu có, danh vọng, uy quyền, sức khoẻ, sắc đẹp. Nhiều kẻ làm thuê đã nhân danh Mục Tử để tước đoạt lông chiên, thịt chiên; chứ không quan tâm đến tình trạng của những con chiên mà Thiên Chúa đã trao cho họ.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật vai trò quan trọng của Đức Kitô; Ngài là Mục Tử Nhân Lành được Thiên Chúa sai đến để chăm sóc đoàn chiên của Thiên Chúa: Ngài sẽ mang về những con chiên lạc, băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, dắt chiên đến đồng cỏ phì nhiêu và suối nước trong lành; nhất là Ngài cho chiên được hưởng cuộc sống đời đời. Trong bài đọc I, những người Do-thái ghen tức với Phaolô và Barnabas, vì đã làm cho đoàn chiên của họ bỏ họ và chạy theo hai ông; nên họ đã cấu kết với những phụ nữ quyền quí và những người có thế giá để trục xuất hai ông khỏi thành. Trong bài đọc II, những tín hữu nào đã trung thành đi theo để giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu của Con Chiên, sẽ không bao giờ phải chịu đói khát hay đau khổ nữa, vì Con Chiên là Mục Tử Nhân Lành sẽ luôn chăm sóc và an ủi họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành. Ai qua Người mà vào là kẻ chăn chiên thật, và tất cả những con chiên nào đi theo Người sẽ không bao giờ bị đói khát và đau buồn nữa, vì Ngài sẽ chăm sóc, bảo vệ, và cho hưởng cuộc sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người Do-thái sinh lòng ghen tức và phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông.
1.1/ Dấu hiệu của những người chăn chiên thật: Một số những dấu hiệu giúp các tín hữu nhận ra những người chăn chiên thật:
(1) Luôn tìm cách đưa các chiên về cho Thiên Chúa bằng việc rao giảng sự thật: Tiểu Á ngày xưa (Turkey ngày nay) là địa bàn truyền giáo của Phaolô và Barnabas. Đây là địa bàn quan trọng vì nó nối kết Châu Á và Châu Âu. Phaolô và Barnabas biết con người luôn tìm kiếm sự thật, đó là lý do mà vào hội đường của những người Do-thái mỗi ngày sabbath để rao giảng cho mọi người biết sự thật về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Lần đầu nghe, một số người đã nhận ra sự thật; họ mời hai ông trở lại để rao giảng lần sau. Tuần sau, họ kêu gọi gia đình và bạn bè đến nghe hai ông giảng; trình thuật kể “ngày sabbath sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.” Qua hai tuần rao giảng, Phaolô và Barnabas làm cho nhiều người Do-thái và Dân Ngoại tại Antiochia miền Pisidia tin vào Đức Kitô.
(2) Chỉ cho dân đường tới Thiên Chúa: Người chăn chiên thật không hướng chiên vào mình; nhưng luôn chỉ đường cho chiên đến với Thiên Chúa. Đối với những người đã tin vào Thiên Chúa, Phaolô và Barnabas “khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.” Đối với Dân Ngoại, hai ông chỉ cho họ thấy đích điểm của đời người là cuộc sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Nhiều dân ngoại đã nhận ra và tin theo những gì hai ông nói và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
(3) Không chán nản khi bị bách hại: Các tông đồ đã được Chúa Giêsu dạy: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Và, “Nếu họ bắt bớ anh em ở thành này, hãy trốn sang thành khác.” Khi bị những người Do-thái và nhà cầm quyền phản đối, Phaolô và Barnabas liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Iconium lòng tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
1.2/ Dấu hiệu của những người chăn chiên giả.
(1) Họ ghen tức khi đương đầu với sự thật: Ngôn sứ Ezekiel diễn tả rất hay về hạng mục tử này như sau: “chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta” (Eze 34:8). Họ ghen tức với Phaolô và Barnabas, vì những người Do-thái của họ và nhiều Dân Ngọai tin theo những gì hai ông rao giảng về Đức Kitô, không phải vì họ sợ đàn chiên của họ bị nhiễm những đạo lý sai lầm; nhưng họ sợ đàn chiên sẽ bỏ họ mà chạy theo Phaolô và Barnabas và họ sẽ mất những lợi nhuận vật chất mà đàn chiên mang lại. Đây cũng chính là lý do mà những người trong Thượng Hội Đồng thủ tiêu Chúa Giêsu.
(2) Tìm cách tiêu diệt sự thật: Trình thuật kể, khi thấy những đám đông như vậy đến nghe hai ông giảng, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Thay vì tranh luận với hai ông để tìm ra sự thật, họ “sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnabas, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.”
2/ Bài đọc II: Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
2.1/ Các tín hữu phải giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên: Trong đoạn văn này, tác giả Sách Khải Huyền mô tả các tín hữu được về hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa sau cuộc sống gian khổ trên dương thế. Một số biểu tượng chúng ta cần hiểu:
+ Ngai: tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Cha.
+ Con Chiên: là Đức Kitô. Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
+ Áo trắng: tượng trưng cho sự trong sạch và chiến thắng.
+ Nhành thiên tuế: tượng trưng cho chiến thắng.
Các tín hữu này là những người đã trải qua mọi gian khổ trên dương gian mà vẫn giữ được niềm tin yêu trung thành với Đức Kitô; vì thế, họ xứng đáng được Đức Kitô dẫn tới trước ngai Thiên Chúa, để xin Chúa Cha cho được hưởng hạnh phúc với Ngài muôn đời.
2.2/ Phần thưởng đạt được cho những tín hữu trung thành.
+ Được ở mãi bên Thiên Chúa và Con Chiên: Mục đích của đời người là ơn phúc kiến: được chiêm ngắm Thiên Chúa và thờ phượng Ngài muôn đời. Những người tín hữu đã chiến thắng được hưởng ơn phúc kiến này: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn.”
+ Không phải đói khát: cả phần hồn cũng như phần xác.
+ Không bị đau khổ hành hạ: Người tín hữu sẽ không phải chịu bất cứ một đau khổ phần hồn cũng như phần xác nào nữa.
+ Được Thiên Chúa lau sạch nước mắt: Người tín hữu sẽ không bao giờ bị than khóc vì chia ly hay phải cách biệt những người thân. Họ sẽ sống bên nhau muôn đời.
3/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.
3.1/ Mối liên hệ giữa Mục Tử và đoàn chiên: là mối liên hệ hai chiều.
(1) Mục Tử phải biết chiên của mình: Động từ “biết” trong tiếng Hy-lạp mang một ý nghĩa thâm sâu, chứ không phải chỉ biết các hời hợt bên ngoài. Mục tử biết tình trạng phần hồn cũng như phần xác của từng con chiên thì mới có thể giúp đỡ và săn sóc chúng được. Lời của ngôn sứ Ezekiel tiên báo về sứ vụ của Mục Tử Nhân Lành giúp chúng ta hiểu phần nào về sứ vụ Mục Tử của Đức Kitô: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” Một người chăn chiên mà không biết tình trạng chiên của mình, làm sao ông có thể hướng dẫn và giúp đỡ chiên được?
(2) Chiên phải nghe tiếng của Mục Tử: Chăn chiên trên đất Palestine là công việc rất khó khăn, vì ngoài việc phải lo tìm đồng cỏ xanh tươi và giòng suối trong, người mục tử còn phải bảo vệ chiên khỏi rơi xuống vực thẳm, khỏi tay của chó sói và của những người trộm cướp luôn đe dọa đàn chiên. Mục Tử luôn phải đi trước để nhận diện nguy hiểm trước khi hướng dẫn chiên tiến lên. Để được bảo vệ an toàn, đàn chiên phải tuyệt đối vâng lời làm theo những gì mục tử muốn; nếu không, chiên sẽ dễ dàng rơi xuống vực thẳm hay vào tay trộm cướp.
Trên phương diện phần hồn cũng thế, đàn chiên non dại không biết những nguy hiểm phần hồn đang đe dọa mình; người mục tử phải hướng dẫn chiên bằng lời sự thật của Đức Kitô, nuôi dưỡng bằng các bí tích để giúp chiên luôn vững mạnh, và luôn tỉnh thức để nhận ra những nguy hiểm đang đe dọa đàn chiên của mình và tìm các vượt qua. Đổi lại, đàn chiên phải biết vâng lời và làm theo những gì mục tử hướng dẫn; nếu không, chiên sẽ rơi vào bẫy của kẻ thù cho dù mục tử đã làm hết cách để bảo vệ chiên của mình.
Đức Kitô tuyên bố: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” Đây là một lời bảo hiểm vững chắc cho tất cả những chiên nào tin tưởng và vâng lời làm theo những chỉ dạy của Đức Kitô, Mục Tử Nhân Lành. Ngài hướng dẫn chiên không chỉ bằng những chăm sóc bên ngoài; nhưng bằng hướng dẫn yêu thương trong tâm hồn để chiên nhận ra những nguy hiểm, đồng thời Ngài cũng ban sức mạnh cần thiết để chiên vượt qua những nguy hiểm đó.
3.2/ Liên hệ giữa Chúa Cha và đòan chiên: Chúa Giêsu tiếp tục tuyên bố: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Đây là một mặc khải quan trọng của Đức Kitô cho con người. Trên phương diện thần học, lời này nói lên thiên tính của Đức Kitô: Ngài là Thiên Chúa và có uy quyền ngang hàng với Chúa Cha. Về phương diện mục vụ, lời tuyên xưng cho chúng ta thấy sự liên hiệp giữa Chúa Cha và Chúa Con trong việc bảo vệ con người. Người tín hữu là tài sản chung của cả Chúa Cha và Chúa Con: Chúa Cha đã ban người tín hữu cho Chúa Con, và Chúa Con đã làm hết cách để bảo vệ các tín hữu như đàn chiên của mình. Nếu địch thù không kéo chiên ra khỏi sự bảo vệ của Đức Kitô, chúng sẽ càng không kéo chiên khỏi sự bảo vệ của Ba Ngôi Thiên Chúa, vì chỗ nào có Con, cũng có Cha và Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mặc khải sự bảo vệ này trong diễn từ về bí tích Thánh Thể: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chỉ có Đức Kitô là Mục Tử Nhân Lành duy nhất. Cha mẹ và các cha chỉ là những người chăn chiên cho Thiên Chúa.
– Người chăn chiên thật phải đưa các chiên của mình tới Thiên Chúa; chứ không phải hướng vào mình hay tìm lợi ích cho mình.
– Bổn phận của đoàn chiên là phải lắng nghe để nhận ra và đi theo tiếng của người Mục Tử Nhân Lành; để đừng bao giờ bị rơi vào bẫy của những người chăn chiên giả và trộm cướp.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************