Lời Chúa Hôm Nay
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BÀI ĐỌC I: Is 35, 4-7a
“Tai người điếc sẽ mở ra và người câm sẽ nói được”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 2a)
1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
BÀI ĐỌC II: Gc 2, 1-5
“Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?”
Bài trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này”. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”. Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao? Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12b
All. All. – Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. – All.
PHÚC ÂM: Mc 7, 31-37
“Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Ðoạn ngước mặt lên trời, Người thở dài và bảo: “Effetha!” (nghĩa là “Hãy mở ra!”), tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”
Ðó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
08/09/2024 – CHÚA NHẬT TUẦN 23 TN– B
Mc 7,31-37
QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả.” (Mc 7,37)
Suy niệm: Một số học giả nhận xét dân ta có tinh thần tôn giáo cao độ nhưng đồng thời cũng pha lẫn óc thực dụng. Điều đó được thể hiện qua nét tâm lý thường tình: mỗi khi có những “sự cố, vấn đề” đụng chạm đến cuộc sống như bị bệnh hoạn tật nguyền chẳng hạn, thì “hữu sự vái tứ phương”, thầy thuốc nào cũng chạy chữa, thần phật nào cũng cúng vái, đền chùa nào cũng khấn xin. Dân Do Thái cũng mang tâm trạng đó: có ai đau ốm tật nguyền đều đem đến Chúa Giêsu mong được chữa lành. Phúc Âm Mác-cô ghi lại tâm trạng “kinh ngạc” kèm theo lời tán tụng: “Ngài làm việc mọi việc đều tốt đẹp” như một lời vang vọng từ sách Sáng Thế: “Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp.” Hiểu được điều này chúng ta mới nhận thấy Chúa Giê-su chứng tỏ thần tính của mình khi Ngài thực thi sứ vụ cứu thế như một cuộc sáng tạo mới: Ngài không chỉ chữa lành thân xác, cứu giúp những nhu cầu thể chất mà còn phục hồi con người toàn diện và biến đổi họ thành con người mới trong Nước Thánh Tẩy.
Mời Bạn: Hãy nhìn lên thập giá để tìm gặp “Đấng chữa lành”, nơi đó, chúng ta gặp được Đức Ki-tô, Đấng có khả năng chữa lành những thương tích, đặc biệt là những thương tích do tội lỗi gây ra là tiêu huỷ nơi chúng ta cuộc sống đời đời với Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tiếp tục “những việc tốt đẹp của Thiên Chúa” bằng việc phục vụ nhằm nâng cao phẩm giá con người nhất là nơi người nghèo, bị bỏ rơi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con góp phần bày tỏ vinh quang của Chúa qua những công việc bác ái yêu thương của chúng con với anh em đồng loại.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
SUY NIỆM:
Thời Đức Giêsu, khi chữ viết và sách vở chưa phổ biến,
Một người bị điếc và ngọng sẽ gặp nhiều hạn chế.
Có thể nói hai cánh cửa quan trọng mở ra với tha nhân
là nghe và nói, như hoàn toàn bị khóa lại.
Người khiếm thính chẳng nghe thấy âm thanh gì.
Họ sống trong một sự thinh lặng âm u.
Chẳng những không nghe được tiếng chim hót
mà còn không nghe được tiếng người ta nói với nhau,
bởi đó cũng không học được ngôn ngữ của người khác.
Người điếc cuối cùng trở thành người câm hay ngọng.
Có một người điếc và ngọng như thế trong bài Tin Mừng.
Anh ấy ở vùng Thập Tỉnh, bên kia sông Giođan.
Trước đây Đức Giêsu đã có lần đến vùng này (Mc 5,20),
và đã chữa lành một người bị quỷ ám sống nơi mồ mả.
Người ấy đã đi rao truyền ở vùng Thập Tỉnh về chuyện đó.
Có lẽ vì thế khi Đức Giêsu trở lại vùng này,
Người ta đem đến ngay cho Ngài một anh điếc và ngọng.
Ngài đã không đặt bàn tay trên anh như họ yêu cầu,
cũng không chữa cho anh trước mặt đám đông (Mc 7,33).
Nhưng Ngài làm cho anh những cử chỉ khác thường:
đặt ngón tay vào lỗ tai, lấy nước miếng bôi vào lưỡi.
Anh cảm được những đụng chạm gần gũi thân thương ấy
dù anh không nghe được câu nói “Ép-pha-tha” của Ngài.
Đức Giêsu không chữa bệnh bằng ma thuật và bùa chú.
Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện với Chúa Cha,
như Ngài đã làm trước khi bẻ bánh cho dân chúng (Mc 6,41).
“Ép-pha-tha” có nghĩa là “Hãy được mở ra !”
Anh khuyết tật không tự mở tai hay miệng cho mình được.
Đấng mở ra cho anh là Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã ban điều kỳ diệu ấy cho anh qua Đức Giêsu.
Phép lạ của Đức Giêsu diễn ra ngay lập tức (Mc 7,35).
Hai tai anh được mở ra, lưỡi của anh được tháo cởi.
Lập tức anh nghe được và nói được rành mạch rõ ràng.
Cả một thế giới mới mẻ ngập tràn âm thanh ùa đến.
Anh ngây ngất vì những tiếng reo vui của mọi người.
Anh thấy mình nói, và ai nấy đều hiểu.
Những chiếc cầu đã được bắc khiến người ta ôm lấy nhau.
Thiên Chúa đã mở cửa cho đời anh rồi,
những cánh cửa khép kín từ lâu làm anh cô đơn, buồn tủi.
Anh không còn khuyết tật nữa, nhưng trở nên bình thường.
Anh có thể tìm được một việc làm xứng đáng,
và có thể sống bằng đồng lương của mình.
Anh có thể đến hội đường, nghe được những lời cầu nguyện,
và thưa chuyện với Chúa bằng tiếng nói từ miệng mình.
Đời anh đã sang một trang mới.
Đức Giêsu không thể cấm dân ngoại ca ngợi mình.
Càng cấm thì họ càng loan đi khắp nơi.
Như Thiên Chúa, Ngài đã làm mọi sự tốt đẹp (St 1,25).
Ngài là Đấng Mêsia làm người điếc được nghe
và miệng lưỡi người câm reo hò (Is 35,5-6).
Thế giới hôm nay không thiếu những người khuyết tật.
Nói chung ai cũng khuyết tật về một mặt nào đó.
Thiên Chúa vẫn muốn mở những cánh cửa bị đóng:
mở mắt, mở tai, mở miệng, mở tay, mở trái tim.
Ép-pha-tha ! Hãy để Chúa mở tung cuộc đời ta.
Đôi khi ta không dám cho Ngài mở, vì thấy khép mới an toàn.
Để phòng ngừa dịch bệnh, nhiều hoạt động phải đóng cửa,
nhưng đây lại là lúc tốt nhất để mở tay, mở lòng.
Xin Chúa chạm vào tai và mắt tôi
để tôi mở ra trước nỗi thống khổ mênh mông của thế giới.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa,
Đây là ước mơ của con về thế giới.
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
Không còn những Ladarô đói nằm ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những người thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con cùng bao người thực hiện những ước mơ đó.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG CHÍN
Một Hành Trình Đức Tin
Đức Giê-su Kitô nói với chúng ta: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6). Lời ấy qui chiếu đến cuộc lữ hành của chúng ta trong đức tin. Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa trên con đường đức tin. Con đường mà chúng ta đang bước đi chính là Đức Kitô.
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, và Ngài cùng chia sẻ một bản tính thần linh với Chúa Cha. Vốn là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Aùnh Sáng bởi Aùnh Sáng, nhưng Ngài đã làm người để trở thành con đường dẫn chúng ta đến cùng Cha. Trong cuộc sống dương thế của Người, Chúa Giêsu luôn nói về Cha. Người dẫn dắt ý nghĩ và tâm tư của những người lắng nghe Người hướng về Chúa Cha. Có thể nói, Người chia sẻ với họ mối tương quan cha-con với Thiên Chúa. Đặc biệt, Nguời dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.
Vào cuối sứ mạng dương thế của Người, chính hôm trước khi chịu khổ nạn và chịu chết, Đức Giêsu nói với các tông đồ : “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Vả chăng, Thầy đã nói với anh em rồi, rằng Thầy đi dọn chỗ cho anh em.” (Ga 14,2). Nếu Phúc Âm mạc khải rằng đời sống con người là cuộc hành hương đi về nhà Cha, thì đồng thời đó cũng là một lời mời gọi đức tin. Vâng, chúng ta đang bước đi như những khách hành hương. Chúng ta được mời gọi bước đi trong hành trình đức tin.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 08/9
Chúa nhật XXIII Thường Niên
Is 35, 4-7a; Gc 2, 1-5; Mc 7, 31-37.
LỜI SUY NIỆM: “Họ hết sức kinh ngạc, và nói: Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả; ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7,37)
Lời chứng kiến của những người nhìn thấy việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Chúa Giêsu nói, đã nói lên một sự tạo dựng mới của Thiên Chúa. “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là tốt đẹp” (St 1,31). Điều này giúp cho mỗi người trong chúng ta phải biết dùng đến cặp mắt, đôi tai của chính mình để nhìn, nghe mà cảm nhận sự ngạc nhiên, chứ không phải tất cả là sự tự nhiên, hay tình cờ, để rồi suy nghĩ với sự khôn ngoan ngay chính, mà biết dùng miệng lưỡi của mình ta tôn vinh, ngợi khen Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cứu chữa đôi mắt tối tăm của chúng con trước những người nghèo khó, đôi tai đang điếc trước những lời của chân lý và sự thật. Cũng như đang câm nín trước những bất công mà người anh em đang phải gánh chịu. Để chúng con trở nên chứng nhân của Chúa giữa xã hội hôm nay. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
NGÀY 08-09 LỄ SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Giáo hội không mừng ngày sinh của các thánh. Ngày sinh của con cái Adam là một ngày u buồn tràn đầy nước mắt, và cái di sản thảm khốc của tội lỗi mà chúng ta mang theo khi vào đời. Nhưng trong lịch sử phụng vụ công giáo, chúng ta thấy có ba lễ mừng sinh nhật: của chính đức Giêsu, của Trinh Nữ Maria và của thánh Gioan Tẩy giả. Đối với thánh Gioan Tẩy giả, vì được thánh hoá ngay từ khi còn trong lòng mẹ, việc chào đời của Ngài là một biến cố vui mừng đặc biệt. Riêng với Đức Trinh nữ Maria, những lễ kính Ngài là “Những lễ kính nhớ biến cố sinh ơn cứu rỗi, trong đó Giêsu và Mẹ Maria đi liền với nhau, như lễ sinh nhật Đức Maria, ngày mà hy vọng và vầng cứu rỗi ló dạng trên trần gian” (Marialis cultus. 7): bởi vậy, nhưng ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, Giáo hội hân hoan ca tụng.
– “Lạy Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, việc Mẹ sinh ra loan báo niềm vui cho cả thế gian. Vì từ lòng mẹ phát sinh mặt trời công chính là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Đấng xóa bỏ án phạt mà ban chúc lành, tiêu diệt sự chết và ban sự sống đời đời cho chúng con” (ad Bened, ad laudes)
Niềm vui mừng trong ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria phát xuất từ niềm mong đợi lâu đời của nhân loại tội lỗi. Chính Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chúng ta niềm hy vọng này khi Chúa phán với con rắn cám dỗ:
– “Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng dõi ngươi và giòng giống nó. Giòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St 3,15).
Lời hứa ấy còn được lập lại nhiều lần để nuôi dưỡng niềm tin của dân Chúa. Chẳng hạn Isaia báo trước hình ảnh Đấng sẽ sinh ra Đấng cứu thế: – “Này cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên là Emmanuel” (Is 7,14).
Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh (x. Lc 1,270. Như vậy Thiên Chúa đã dự liệu cho con Ngài. Một người mẹ đặc biệt. Maria còn được giữ cho khỏi vương nhiễm tội nguyên ngay từ buổi hình thai, để xứng đáng tước vị Mẹ Thiên Chúa. Theo truyền sử, cha mẹ Ngài là ông Gioanchim và nà Anna, những người đạo đức thuộc dòng dõi vương giả David, và tư tế Aaron, nhưng lại son sẻ.
Dầu sao đi nữa, chính Maria có một nét đẹp lạ lùng của ơn thánh. Giáo hội ca tụng Mẹ: – Ôi Maria ! Mẹ đẹp tuyệt vời. Hơn hết mọi người.
Ngày Đức Trinh nữ Maria chào đời, mọi người thán phục. Hơn nữa biến cố này còn là khởi đầu cho ngày cứu rỗi, vì Ngài như “sao mai” dẫn lối loài người, như “rạng đông” báo hiệu mặt trời. Vì vậy ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Mẹ. Đến thế kỷ X lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các Ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật, để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức giáo hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lới hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria loan báo niềm vui cho toàn thế giới, chúng ta cùng chiêm ngắm và tha thiết nguyện cầu cho được niềm vui thiêng liêng từ biến cố này.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
08 Tháng Chín
Cuốn Sách Một Chữ
Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng… Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
– Chồng bà đã được cứu thoát. Qúa ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
– Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:
– Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.
– Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
– Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
– Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?
Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 23 – Năm B – Thường Niên
Bài đọc: Isa 35:4-7a; Jas 2:1-5; Mk 7:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác.
Con người bị bao vây bởi biết bao những nguy hiểm về phần hồn cũng như về phần xác. Về phần hồn, những chước cám dỗ của ma quỉ và thế gian làm con người xa lìa Thiên Chúa và sống theo những dục vọng của xác thịt. Về phần xác, con người phải đương đầu với các thiên tai bên ngoài như hạn hán, bão lụt, núi lửa, sóng gió, động đất, chiến tranh; thêm vào đó, các bệnh phần xác như mù, điếc, câm què. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm này, con người dễ rơi vào hai thái độ:
(1) Từ chối Thiên Chúa: Tại sao một Thiên Chúa nhân lành lại để những đau khổ như thế xảy ra cho con người? Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ không tin Thiên Chúa; và tìm cách giải quyết theo cách thức trần gian.
(2) Nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc đời: Thiên Chúa để đau khổ xảy ra cho con người để họ nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời họ và biết yêu thương tha nhân hơn. Tục ngữ Việt-nam có câu: “có đau mắt mới biết thương người mù;” “có mù mới biết sự quí trọng của ánh sáng.” Điều này xảy ra cho Phaolô khi ông bị té ngựa trên đường đi Damacus. Sau đó ông mới nhận ra sự mù lòa của mình và bắt đầu cuộc hành trình trở về với ánh sáng, và tin vào Đức Kitô. Chỉ Thiên Chúa mới có uy quyền giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm. Họ cần tin và chạy đến với Ngài để được chữa lành.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào những nguy hiểm con người phải đương đầu với, và cách thức để được chữa lành. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết với dân Do-thái khi họ sống trong cảnh lưu đày: Thiên Chúa chúng ta có thể làm được tất cả; vì thế, đừng sợ hãi và hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ đến và chữa lành tất cả. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu lên hai tội phần hồn cần được chữa trị là thành kiến và đối xử thiên vị. Đức Kitô là người giải phóng và chữa lành con người khỏi hai bệnh phần hồn này. Trong Phúc Âm, khi người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa câm vừa điếc để xin Chúa Giêsu đặt tay trên anh, Ngài đã dẫn anh ta ra một nơi và chữa anh khỏi bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người sẽ đến cứu anh em.
1.1/ Lời loan báo Chúa sẽ đến để giải phóng dân Ngài: Hoàn cảnh lịch sử đàng sau lời loan báo này là cuộc lưu đày của dân Do-thái vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Sống trong nơi lưu đày, con cái Israel mất hết hy vọng: quê hương, Đền Thờ, và niềm tin nơi Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đến để cứu dân Người khỏi cảnh lưu đày, nên ông loan báo tin mừng cho dân: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Lời sấm này có thể áp dụng trong hai giai đoạn:
(1) Thiên Chúa giải phóng dân và cho hồi hương để tái thiết xứ sở và xây dựng lại Đền Thờ. Điều này xảy ra khi Cyrus, vua Ba-tư, phóng thích dân Do-thái, và cho họ hồi hương, bắt đầu vào năm 487 BC.
(2) Chính Đấng Thiên Sai sẽ đến để chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho dân. Điều này đã xảy ra khi Đức Kitô đến.
1.2/ Những gì sẽ xảy ra khi Thiên Chúa đến: Hình ảnh được mô tả ở đây gợi lại những gì khi Đức Kitô đến: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” Và biến cố dân xuất hành của dân Do-thái ra khỏi đất nô lệ Ai-cập: “Có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra.”
Những điều này xảy ra trên cả hai bình diện: thể lý khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh tật của thân xác như mù, què, câm, điếc; và tâm linh khi Ngài chữa lành các bệnh tật của linh hồn như kiêu căng, ganh tị, và giả hình.
2/ Bài đọc II: Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, thì đừng đối xử thiên tư.
2.1/ Không được có thành kiến với người nghèo và đối xử thiên tư với người giầu: Theo tiêu chuẩn của thế gian, con người có khuynh hướng “tham phú, phụ bần;” nhưng đối với các tín hữu thì không được như thế. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: “Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư.”
Ngài đưa ra một trường hợp thực tế: “Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này,” còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó!” hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây!” thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?”
(1) Thành kiến: là những gì một người nghĩ về người khác mà không chịu suy xét cẩn thận xem có đúng hay không. Ví dụ, khi nhìn một người ăn mặc tồi tàn, họ vội kết luận là người đó nghèo; nhưng họ biết đâu có những người không muốn lệ thuộc vào thời trang, họ muốn ăn mặc đơn giản, và để dành tiền làm những chuyện khác hữu ích hơn. Hay khi các kinh-sư và biệt-phái đoán xét Chúa Giêsu, họ chỉ xét Ngài về nguồn gốc và gia cảnh, mà bỏ qua bao nhiêu những lời dạy dỗ khôn ngoan và uy quyền làm các phép lạ của Ngài. Thành kiến giam hãm họ trong cái nhìn thiển cận, và ngăn cản không cho họ nhận ra và tin vào Đức Kitô.
(2) Đối xử thiên tư: Tin thế nào sẽ hành động như vậy. Vì chỉ biết đoán xét theo cách thức bên ngoài; nên họ coi trọng người ăn mặc cách sang giầu và khinh thường những người ăn mặc nghèo nàn. Thực tế nhiều lần chứng minh tai hại của cách đoán xét bề ngoài; ví dụ, chọn lấy những người đẹp trai, giầu có, khỏe mạnh; để rồi khi khám phá ra tính lưu manh và phản bội thì đã quá muộn màng. Ngược lại, nhiều người tuy không có sự sang trọng bên ngoài, nhưng ẩn giấu một tâm hồn cao thượng và nhân từ, lại trở thành những người chồng hay vợ đảm đang và mang lại hạnh phúc cho gia đình.
2.2/ Thiên Chúa yêu thương kẻ khó nghèo: Để vạch ra cho các tín hữu biết sự sai lầm của những đoán xét bề ngoài, thánh Giacôbê lặp lại mối phúc đầu tiên của Bát Phúc mà Đức Kitô đã dạy: “Anh hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?”
+ Người có tinh thần nghèo khó không đặt niềm trông cậy vào bất cứ ai hay vật gì, nhưng chỉ biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, họ được Ngài ban cho cả Nước Trời, mà tập hợp của các tài sản thế gian cũng không thể nào so sánh nổi. Chúa Giêsu đã đề cập đến điều này khi so sánh Nước Thiên Chúa như kho tàng giầu trong ruộng.
+ Chính Đức Kitô đã sống một cuộc đời khó nghèo trên dương thế: Ngài là Con Thiên Chúa, có trong tay mọi sự trên trời dưới đất; thế mà Ngài lại tự nguyện chọn sống khó nghèo: chọn sinh ra từ hai cha mẹ nghèo hèn, chọn nơi hang đá để sinh ra, chọn chết trần trụi trên Thập Giá, và để người ta chôn cất trong phần mộ không phải là của mình. Mục đích là để làm gương và cho chúng ta được trở nên giầu có, khi được hưởng ơn cứu độ.
3/ Phúc Âm: Đức Kitô làm việc gì cũng tốt đẹp cả.
3.1/ Chúa Giêsu làm trọn lời ngôn sứ Isaiah loan báo: Sau khi đã chữa lành con gái của người đàn bà dân ngoại xứ Phoenecia khỏi quỉ ám vì niềm tin vững chắc của Bà, Chúa Giêsu đi trở xuống biển hồ Galilee và vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Hai bệnh điếc và ngọng thường đi đôi với nhau. Để tránh cho anh khỏi bị xấu hổ trước đám đông, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Epphatha,” nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Tiên tri Isaiah trong Bài Đọc I đã nói trước những gì sẽ xảy ra khi Đấng Thiên Sai tới: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” Đọc Tin Mừng, tất cả những điều này đã được làm nhiều lần bởi Chúa Giêsu. Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng nhắc lại những lời tiên tri Isaiah nói về Ngài khi Ngài về Nazareth và giảng dạy trong hội đường (Lk 4:16-21).
3.2/ Chúa Giêsu không thích danh vọng và tiếng khen: “Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Thiên Chúa dựng nên con người và mọi sự đều rất tốt đẹp (Gen 1:31); nhưng tội lỗi của con người đã làm đảo lộn các trật tự của thiên nhiên và gây ra biết bao điều tai hại và sự chết. Nhưng Thiên Chúa đã có Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua Đức Kitô. Ngài hiện diện cùng Thiên Chúa khi tạo dựng, và chính Ngài sẽ khôi phục lại trật tự như ban đầu cho con người và cho vũ trụ, và sẽ trao lại vương quốc tốt đẹp cho Thiên Chúa.
Ngược lại với con người luôn tìm cách phá hủy và tiêu diệt, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn tìm cách bảo vệ và chữa lành. Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận noi gương các Ngài để luôn bảo vệ sự sống, tìm mọi cách để chữa lành, và tôn trọng những gì Thiên Chúa đã dựng nên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người. Ngài không ngừng quan phòng mọi sự cách khôn ngoan, nhất là đã gởi Đức Kitô đến để chữa trị mọi vết thương hồn xác cho con người.
– Khi phải đương đầu với đau khổ trong thế gian, chúng ta đừng sợ hãi và ngã lòng trông cậy; nhưng hãy tin tưởng vững vàng nơi Thiên Chúa.
– Chỉ có Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác. Không ai có thể thay thế vai trò của Ngài trong Kế Hoạch Cứu Độ.
– Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên những người bảo vệ sự sống, và chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác cho con người; nhất là giới thiệu họ đến với Đức Kitô, để họ cũng tin vào Ngài và được chữa lành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************