Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: 2 V 5, 14-17
“Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông”.
Tiên tri trả lời rằng: “Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu”. Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Đáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. – Đáp
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. – Đáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 2, 8-13
“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Đức Kitô”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Đavít, đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Đức Giêsu Kitô.
Đây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17, 11-19
“Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
09/10/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 28 TN – C
Lc 17,11-19
ĐỪNG TƯỞNG MÌNH XỨNG ĐÁNG
Đức Giê-su nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18)
Suy niệm: Mười người phong hủi kêu xin lòng thương xót, và cả mười được Chúa Giê-su đoái thương chữa lành. Mười người ấy gồm cả người Ít-ra-en lẫn người Sa-ma-ri vốn bị coi là ‘dân ngoại’. Điều đáng ngạc nhiên là chỉ có một người, mà lại là người Sa-ma-ri, quay lại tạ ơn và tôn vinh Chúa vì được chữa lành. Quả thật, tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa không phụ thuộc chúng ta là ai, hoặc thái độ của chúng ta thế nào cũng không phải vì chúng ta có xứng đáng hay không. Ngài ban ơn chữa lành cho 10 người phong cùi dù họ chưa nhận biết và ngay cả khi họ đáp lại bằng sự vô ơn. Việc tạ ơn Chúa không thêm gì cho Ngài nhưng lại là dịp cho chúng ta được nên công chính.
Mời Bạn: Lòng biết ơn chỉ thực sự xảy đến với những ai ý thức mình không xứng đáng mà vẫn được yêu. Và ơn công chính chỉ hữu hiệu với ai ý thức mình không xứng đáng như vậy: người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện (Lc 18, 9-14); viên sĩ quan ngoại giáo từng thưa với Chúa Giê-su: “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (Lc 7,6); và đặc biệt với Đức Ma-ri-a: “Phận nữ tỳ hèn mọn, được Chúa thương nhìn tới…” (Lc 1,48).
Sống Lời Chúa: Học thái độ biết ơn của người Sa-ma-ri để áp dụng sau mỗi lần lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã yêu chúng con, cho dù chúng con bất xứng, yếu hèn, lầm lỗi, và thậm chí là vô ơn… xin đừng xét theo công trạng chúng con, nhưng theo lượng từ bi Chúa mà cứu chữa chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Mười người phong đón gặp Ðức Giêsu.
Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót.
Ðức Giêsu không chữa cho họ ngay,
Ngài muốn thử thách lòng tin của họ.
Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế
như thể họ đã được khỏi bệnh rồi.
Mười người phong đã vâng phục lên đường,
và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người.
Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình,
trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Ðức Giêsu khiến anh quay lại,
sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Ðức Giêsu,
nhưng họ quên Ðấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng,
nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh,
nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn,
vì là gặp lại chính Ðấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn.
Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ,
và trao cho họ chính con người Ngài.
Ðiều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu
để ta gặp gỡ Ðấng ban ơn,
và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người.
Tôi quá quen với những ơn Chúa ban,
đến độ thấy đó là chuyện bình thường,
đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu
chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng.
Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận,
là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu,
và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Ðức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa
từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Ðời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi.
Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ
vì những gì Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG MƯỜI
Vừa Phong Phú Vừa Nguy Hiểm
Chúng ta thấy rằng lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm. Vì thế, các mục tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng. Nhưng các ngài cần thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ. Như thánh Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức tôn sùng các thánh: “Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải biết bao dung đối với những điều lệch lạc” (Contra Faustum 20,21 : CSEL 25,263).
Điều quan trọng là phải nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy tự bộc lộ ra bằng những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng tinh luyện nó và làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà xưa nay Giáo Hội vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản địa ngoài Kitô giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức sùng ngưỡng bình dân.
Đó là cách mà Giáo Hội đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc chỉ của Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man di ở châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế nếu muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của các dân tộc khác nhau.
Chúng ta không bao giờ được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh Augustinô thành Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: “Không được phá hủy các đền thờ ngoại giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho Thiên Chúa; cũng phải làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã quen cử hành để đánh dấu các biến cố trong đời họ” (Gregory Cả, Regesta Pontificum, 1848, thư đề ngày 10 tháng 7, 601).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 09/10
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN
2V 5, 14-17; 2Tm2, 8-13; Lc 17, 11-19.
Lời Suy Niệm: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
Qua câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phung hủi được lành, nhưng chỉ có người ngoại bang trở lại tôn vinh Thiên Chúa còn chín người kia không trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc nhở mỗi người Kitô hữu hôm nay, luôn cần phải biết tạ ơn Thiên Chúa trong từng giây phút sống của mình, vi muôn hồng ân của Chúa đang ban xuống trên chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta chỉ cần nhìn lại số phận và hoàn cảnh của những con người đang sống chung quanh với chúng ta trên trái đất này; với nhìn lại chính mình, gia đình mình và con cái của mình; thì sẽ thấy được muôn ơn lành Chúa đã ban, để luôn phải luôn tạ ơn Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn nhận ra tình yêu thương của Chúa đã dành riêng cho mình, để luôn biết tạ ơn và tôn vinh Ngài.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 09-10
Thánh ĐIONYSIÔ Và Các Bạn Tử Đạo
Thánh Dionysiô, giám mục Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm.
Câu nói trên đây của thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Dionysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:
Vào năm 251, đức giáo hoàng Fabianô đã sai bảy giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules. Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết các Ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Dionysiô đã muốn tới đó.
Dionysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế Rusticô, Dionysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc.
Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Chúa Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ong đã cho thánh Dionysiô trú ngụ và biến gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến rao giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận bí tích rửa tội. Thánh Dionysiô phong chức cho nhiều tác viên mới.
Dùng của cải dân Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sẽ thánh thánh đường kính thánh Beneditô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó những dòng chữ này: “Trong nguyện đường này, thánh Dionysiô đã khởi sự yêu cầu Chúa Ba Ngôi”, một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện đường thứ ba đâng kính thánh Têphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà (nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).
Thánh Dionysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực tức. Họ than phiền với quan chức của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang quân qua xứ Gaules, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông đồ cùng với hai vị bị điệu ra tòa.
Ngài trả lời rằng: – Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô .
Thánh Dionysiô cùng hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh đường thánh Dionysiô thành Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến chảy máu, thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên xiết, Ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương búa, múa roi trước mặt Ngài, nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn đầy tin tưởng và êm dịu trả lời: – Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi sớm được hạnh phúc với Chúa Kitô.
Ngài bị ném cho thú vật xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên thập giá, nhưng từ trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người dấy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật.
Nhưng có huyền thoại kể rằng: thánh Dionysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn chôn cất và là tu viện của Ngài.
Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Dionysiô) bà dựng một nguyện đường bằng gỗ, nhưng rồi thánh Ghenevière đã xây lại bằng đá. Dagobert sẽ xây cất một thánh đường và một tu viện ở đó.
**********
Ngày 09-10
Thánh GIOAN LEONAĐÔ
Linh Mục (1541 – 1609)
Thánh Gioan Leonađô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục.
Hồi đó tại Luca, tinh thần đạo đức của dân chúng lai còn bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bernadinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ còn đấy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.
Tuy nhiên, là giáo dân, các hội viên của hộ giáo lý còn bị nhiều giới hạn và không thề làm được hết mọi việc. Năm 1574, thánh Gioan Leonarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Đức giáo hoàng Clêmentê VIII đã châu phê luật dòng Chúa Đức giáo hàong Phaolô V đặt tên cho hội dòng là “các giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa”. Năm 1621, Đức giáo hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác.
Nhiệt tình của thánh Gioan Leonađô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Luca để về Roma, tại đây Ngài được Đức giáo hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri. Là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Leonađô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Roma, thánh Gioan Leonađô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiêu giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức giáo hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Leonađô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Leonađô từ trần, trong khi nhiệt thành chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh dịch. Năm 1706, Giáo hội mới lập hồ sơ tuyên thánh cho Ngài. Năm 1861 Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 được phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
09 Tháng Mười
Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.
Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 28 – Năm C – Thường Niên
Bài đọc: 2 Kgs 5:14-17; 2 Tim 2:8-13; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng biết ơn.
Không ai thích người vô ơn; nhưng nhiều khi chính chúng ta lại là những người vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với tha nhân. Để biết ơn, chúng ta cần phải nhận ra ơn, chứ đừng bao giờ nghĩ mọi sự phải xảy ra như vậy: Thiên Chúa phải ban ơn, cha mẹ phải săn sóc con cái, các nhà lãnh đạo phải lo cho dân… Công ơn mình đang hưởng có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Có những người sợ phải biết ơn vì họ sợ sẽ phải đền ơn; vì thế họ vô ơn. Họ quên đi rằng khi con người biết ơn, họ sẽ được lãnh nhận nhiều ơn hơn, và cuộc đời họ sẽ thăng tiến. Người vô ơn sẽ càng ngày càng lụi bại dần, và sẽ bị mọi người xa lánh.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong hai khía cạnh quan trọng của việc biết ơn: (1) nhận ra những gì ân nhân đã làm cho mình; (2) cám ơn bằng việc làm cụ thể. Trong bài đọc I, tướng Syria là Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel là Người đã chữa ông khỏi bệnh cùi. Ông trở lại cám ơn ngôn sứ Elisha như khí cụ Thiên Chúa dùng để chữa lành, và cam kết từ nay sẽ không thờ phượng một Thiên Chúa nào khác. Trong bài đọc II, Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho con người và cho chính bản thân ông trên đường đi Damascus. Ông khuyên môn đệ Timothy trung thành chịu đau khổ để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Đức Kitô cho mọi người để họ cũng được hưởng sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, người bệnh phong xứ Samaria là người duy nhất trong 10 người đã nhận ra ơn lành Chúa Giêsu đã làm cho ông. Ông trở lại cám ơn Chúa Giêsu, và ông nhận được thêm ơn lành cứu độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.
1.1/ Tướng Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel đã chữa bệnh cho mình: Trước khi Naaman, tướng Syria, vâng lời dìm mình 7 lần trong sông Jordan, ông đã trải qua cuộc thử thách nội tâm: Tại sao ngôn sứ Elisha không chịu ra đón tiếp ông? Tại sao khinh thường ông đến độ chỉ sai đầy tớ ra đón ông với một mệnh lệnh đơn giản: “Xuống sông Jordan dìm mình 7 lần sẽ được sạch.” Tại sao phải dìm mình 7 lần trong sông Jordan của người Do-thái, trong khi có biết bao con sông ở Syria sạch sẽ hơn nhiều? Và ông đã giận dữ bỏ ra về…
Đoàn tùy tùng phải mở trí cho ông để ông nhận ra những vô lý của ông: Chính ông là người cần nhận ơn từ người của Thiên Chúa chứ không ngược lại. Đã vất vả qua Do-thái rồi, giờ chỉ cần nghe lời người của Thiên Chúa, khiêm nhường dìm mình 7 lần trong sông Jordan là được sạch. Tại sao ông không chịu làm công việc quá dễ dàng như thế để khỏi phải chịu một chứng bệnh nan y suốt đời?
Và ông đã nhận ra sự vô lý của mình, ông khiêm nhường làm theo lời của ngôn sứ Elisha: “ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.”
1.2/ Tướng Naaman tuyên thệ sẽ không thờ bất cứ thần nào ngoại trừ Thiên Chúa của Elisha: Khi tướng Naaman nhận ra đã được lành bệnh, ông thân hành trở lại đứng trước mặt ngôn sứ Elisha, người của Thiên Chúa, tuyên xưng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.” Ông không những đã được Thiên Chúa chữa lành phần xác là cho khỏi bệnh phong, ông còn được chữa lành phần hồn qua việc nhận ra Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, và bổn phận của ông là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa này mà thôi.
Khi Naaman dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, ngôn sứ Elisha không lãnh nhận, vì ngôn sứ biết rõ việc chữa lành là ơn của Thiên Chúa dành cho tướng Naaman, không phải do bởi ông. Ông không thể nhận quà tặng, vì như thế là đánh cắp công ơn của Thiên Chúa, và có thể làm cho người nhận ơn hiểu lầm. Đây phải là một bài học quan trọng cho chúng ta: Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Đừng bao giờ đánh cắp làm của mình. Cần phải nói cho người được ơn biết rõ lý do để họ cám ơn Thiên Chúa.
Tại sao Naaman muốn xin mang về hai xe đất? Có lẽ Naaman muốn dùng đất đó để xây dựng bàn thờ kính Thiên Chúa, vì theo như lời ông nói: “Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô, vị đại ân nhân của loài người.
1.1/ Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho loài người và cho chính ông: Để hiểu những gì Phaolô nói, chúng ta cần luôn trở về với biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Phaolô trên đường đi Damascus. Phaolô đã nhận ra những ơn Thiên Chúa ban cho ông:
– Ơn phần hồn: cho ông nhìn thấy chính Chúa phục sinh; giúp ông thay đổi não trạng kiêu ngạo để biết nhìn nhận: con người được cứu độ do bởi ơn thánh chứ không do bởi việc cố gắng giữ Lề Luật. Sự sống lại có thật; và như thế, tất cả những Lời dạy dỗ của Đức Kitô là sự thật.
– Ơn phần xác: ông được chữa khỏi mù và khỏi bị phạt chết.
Phaolô cũng nhận ra Đức Kitô là vị đại ân nhân của loài người, qua lời Phaolô khuyên môn đệ Timothy: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.” Ngài đã chết thay cho con người, Ngài đã tha mọi tội cho con người. Ngài đã mang lại cho con người sự sống đời đời đã bị đánh mất bởi tội.
1.2/ Phaolô cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn: Một khi Phaolô đã nhận ra tất cả các ơn Đức Kitô đã làm cho ông, ông quyết định dành trọn cuộc đời còn lại để báo đáp bằng cách chu toàn trọn vẹn sứ vụ Đức Kitô trao phó cho ông là rao giảng Tin Mừng. Phaolô có kinh nghiệm rất rõ trong ba cuộc hành trình, ông phải chịu nhiều đau khổ để mang Tin Mừng đến cho mọi người và để chứng minh lòng trung thành của ông với Đức Kitô.
Một trong những điểm quan trọng của thần học Phaolô là “Hãy bắt chước Phaolô như Phaolô bắt chước Đức Kitô.” Chúa Giêsu không có tội nhưng Ngài sẵn sàng chịu đựng đau khổ cho phần rỗi linh hồn của mọi người. Thánh Phaolô cũng sẵn sàng chịu đau khổ như một tên gian phi vì rao giảng Tin Mừng, “để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, và được hưởng vinh quang muôn đời.” Ngài viết Thư này cho Timothy khi đang bị xiềng xích tại Roma, để khuyên nhủ Timothy cũng phải sẵn sàng chịu đựng đau khổ để rao giảng Tin Mừng. Ngài khuyên Timothy noi gương ngài đừng để Lời của Thiên Chúa bị xiềng xích. Người ta có thể cầm tù người rao giảng; nhưng không ai có thể cầm tù Lời của Thiên Chúa, vì đó là Lời tồn tại muôn đời.
Chỉ trong gian nan một người mới biết ai là người trung thành với mình. Người trốn chạy bạn hữu khi gặp gian khổ không phải là bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu từng nói với các môn đệ: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy. Ai chối Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy” (Mt 10:32-33). Thánh Phaolô lặp lại lời tuyên xưng ấy với một nghĩa tương tự: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.”
3/ Phúc Âm: “Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
3.1/ Người cùi Samaria nhận ra Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Khi Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”
Mấy phong tục của người Do-thái chúng ta cần hiểu trước khi phân tích trình thuật này:
– Người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên trong cũng như bên ngoài; vì thế, những người phong cùi không được ở chung với dân chúng; mà phải sống cách biệt bên ngoài làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân, và phải dừng lại và la lớn để mọi người biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
– Ngày xưa không có y sĩ như bây giờ. Để chứng tỏ đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh hoạt bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.”
Chúa Giêsu thử thách cả 10 người khi bảo họ đi trình diện với các tư tế, vì khi họ đi, chưa ai trong họ được sạch cả. Chỉ đang khi đi thì họ mới nhận ra họ đã được sạch.
3.2/ Người Samaria được sạch trở lại cám ơn Chúa Giêsu.
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Chúa Giêsu nhận ra ngay anh ta là người Samaria và 9 người kia là người Do-thái. Đức Giêsu nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn. Chúa Giêsu nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Anh không chỉ được thanh sạch bên ngoài, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn; vì thế, họ vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với mọi người chung quanh. Những con người vô ơn bạc nghĩa sẽ không sống nổi trong cuộc đời, vì họ sẽ bị Thiên Chúa và mọi người khai trừ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải biết dùng trí khôn để nhận ra ơn và dùng trí nhớ để đếm tất cả những ơn lành đã nhận được. Lười biếng và vô tâm làm con người không nhận ra những ơn lành lãnh nhận.
– Biết ơn là điều kiện để nhận thêm ơn, nhiều khi những ơn đó còn cao cả hơn những ơn đã lãnh nhận. Người vô ơn không nhận được thêm ơn.
– Không phải chỉ biết ơn suông, nhưng còn phải nói lời cám ơn và tìm dịp để đền ơn.
– Con người không thể làm ơn cho Thiên Chúa, họ chỉ có thể làm cho tha nhân và được Thiên Chúa kể là làm cho chính Ngài. Những gì con người làm cho tha nhân không chỉ đáp đền ơn Thiên Chúa ở đời này, mà còn trở nên công trạng giúp cho con người ở đời sau. Vì thế, hãy ra sức giúp đỡ tha nhân bao nhiêu có thể làm được.
– Chúng ta phải biết ơn cha mẹ, những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ chúng ta trong suốt một phần tư của cuộc đời. Khi cha mẹ về già và không còn tự săn sóc mình được nữa, chúng ta phải phụng dưỡng và săn sóc các ngài. Đừng cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************