Chúa Nhật (10-11-2019) – Trang suy niệm

09/11/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XXXII Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: 2 Mcb 7, 1-2. 9-14

“Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời”.

Trích sách Macabê quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, có bảy anh em bị bắt làm một với mẹ mình, và bị vua cho đánh bằng roi da và roi gân bò, bắt ép ăn thịt heo mà lề luật đã cấm. Nhưng người anh cả của chúng tâu vua rằng: “Bệ hạ còn hỏi han và muốn dò xét chúng tôi làm chi? Chúng tôi sẵn sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền cho tổ phụ chúng tôi”.

Khi sắp thở hơi cuối cùng, người con thứ hai tâu vua rằng: “Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời”.

Sau khi người con thứ hai chết, thì đến người con thứ ba chịu cực hình, tên lý hình bảo cậu le lưỡi, cậu liền le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: “Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy”. Nhà vua và những kẻ tuỳ tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không.

Người con thứ ba chết rồi, thì người ta bắt người con thứ tư chịu cùng một cực hình. Lúc sắp chết, cậu nói rằng: “Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15

Đáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa (c. 15b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành. – Đáp.

2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. – Đáp.

3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 2 Tx 2, 15 – 3, 5 (Hl 2, 16 – 3, 5)

“Chúa làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica. 

Anh em thân mến, nguyện xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.

Anh em thân mến, ngoài ra, xin anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Thiên Chúa chóng lan tràn và được vinh hiển như việc đã thể hiện nơi anh em, và để chúng tôi thoát khỏi tay những kẻ lầm lạc và xấu xa: vì không phải hết mọi người đều có lòng tin. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người sẽ làm cho anh em được kiên vững và gìn giữ anh em khỏi sự dữ. Chúng tôi tin tưởng anh em trong Chúa: những điều chúng tôi truyền dạy, anh em hiện đang thi hành và sẽ còn thi hành. Nguyện xin Chúa hướng lòng anh em đến tình yêu Thiên Chúa và lòng kiên nhẫn của Đức Kitô. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 21, 36

Alleluia, alleluia! – Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 20, 27-38

“Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ”.

Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”. Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này: Lc 20, 27. 34-38

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

10/11/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 32 TN – C

Lc 20,27-38

CHO MỘT CUỘC SỐNG MAI SAU

“Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng… Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,34-35)

Suy niệm: Cưới vợ lấy chồng là việc bình thường và còn là nghĩa vụ của con người sống trong cõi đời này. Còn trong cõi vĩnh hằng, khi con người sống lại từ cõi chết, người ta sống như các thiên thần (x. Lc 20,36), chuyện vợ chồng không còn cần thiết nữa. Như thế, người sống bậc độc thân cũng như bậc gia đình, có thể và có bổn phận theo cách thế của mình, sống cuộc sống đời này để làm chứng cho một cuộc sống mai sau. Người sống bậc độc thân tiên báo cuộc sống hoàn toàn siêu thoát mọi ràng buộc đời tạm này để có thể yêu thương một cách không giới hạn. Người sống đời đôi bạn làm chứng cho tình yêu hoàn hảo và vĩnh cửu là tình yêu của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh.

Mời Bạn: 1. Loại trừ mọi quan niệm lệch lạc : – cho rằng tu là chán đời, trốn đời, là “một thứ cung đàn lạc điệu”; – cho rằng đời sống vợ chồng là tội lỗi, thua kém so với đời tu. 2. Xác tín rằng mọi người, tu trì hay hôn nhân đều phải sống để làm chứng cho một cuộc sống mai sau.

Sống Lời Chúa: – Nếu còn “thong dong” (chưa kết hôn), bạn hãy tìm ý Chúa, để biết Ngài chọn gọi bạn dấn thân theo ơn gọi nào, tu trì hay hôn nhân. – Nếu bạn thuộc loại “ván đã đóng thuyền” (đã kết hôn hoặc đã cam kết trong đời sống tu trì), hãy thành khẩn xin Chúa trợ giúp để trung thành làm chứng cho Chúa trong bậc sống của mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn bổn phận hằng ngày để làm chứng nhân cho Chúa nhờ đó con được nên thánh, và xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

10 THÁNG MƯỜI MỘT

Kỹ Thuật: Tai Họa Hay Là Tiến Bộ?

Những khả năng vô song ấy của tai họa khủng khiếp hay của sự tiến bộ ngoạn mục mời gọi thế hệ chúng ta khám phá lại những giá trị lớn lao mà nền văn minh của mình cắm rễ trong đó.

Rất nhiều giấc mơ của con người hàng bao thế kỷ đã trở thành hiện thực nhờ những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật. Chúng ta có thể chặn đứng sự bành trướng của sa mạc và biến đổi chính sa mạc. Chúng ta có khả năng chế ngự được hạn hán và sự đói kém. Chúng ta có khả năng làm giảm bớt gánh nặng của sự làm việc vất vả lâu giờ. Chúng ta có khả năng giải quyết một số vấn đề về tình trạng kém phát triển và nhờ đó có thể có được một sự phân phối công bằng hơn về các nguồn tài nguyên của thế giới.

Nhưng cũng chính kho tàng kỹ thuật ấy hiện đang đe dọa con người với những tai họa khủng khiếp. Trái đất có thể sẽ không còn cư ngụ được; biển có thể trở thành vô dụng; bầu không khí có thể trở nên độc hại …

Đứng trước vô số những khả năng tích cực và tiêu cực đó, kỹ thuật không được phép quên con người! Ngày nay, hơn lúc nào hết, chúng ta khẩn thiết cần đến những giá trị đạo đức ưu tiên trên những giá trị khoa học, và chúng ta khẩn thiết cần có sự hiệp nhất giữa mọi người chúng ta. Tất cả chúng ta cần liên đới với nhau vượt qua cả những ranh giới quốc gia – bởi vì mọi người trên hành tinh này sẽ cùng chia sẻ với nhau những số phận tốt hoặc xấu. Tất cả chúng ta đều cùng ở trong một vòng ảnh hưởng.

Tương lai chúng ta cần phải được dẫn dắt bởi những giá trị lớn của nền văn minh Kitô giáo. Các giá trị ấy phải đóng vai trò như người bảo vệ chống lại những khả năng tàn phá và hủy diệt. Sự phát triển của các kỹ thuật mới phải giúp thế hệ chúng ta khám phá lại những chuẩn mực đạo đức nền tảng của văn minh chúng ta. Chúng ta phải ý thức lại bản tính của con người, phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị và phải tôn trọng sự sống.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 10/11

Chúa Nhật XXXII Thường Niên

2Mcb 7, 1-2. 8-9. 12; 2Tx 2, 16-3,5; Lc 20, 27-38.

LỜI SUY NIỆM: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thế, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.”

          Những người của nhóm Xađốc họ là những người chủ trương không có sự sống lại, họ đã đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra một câu chuyện không tưởng để bảo vệ lập trường của họ; nhưng đã được Chúa Giêsu cho biết: sự sống ở đó sẽ hoàn toàn khác, bởi mỗi người khi sống lại sẽ hoàn toàn khác khi sống trên trần gian này, họ giống như các thiên thần.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con tránh được suy nghĩ sai lầm như nhóm người Xađốc; nhưng trao trọn đời sống và đức tin của mình vào tình yêu thương của Thiên Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 10-11

THÁNH LEO CẢ

Giáo Hoàng Và Tiến Sĩ Hội Thánh (-461)

Người ta không biết được thánh Lêo sinh ra ngày nào và cả nơi sinh của Ngài cũng không được biết chắc. Có lẽ Ngài là người Roma. Chúng ta chỉ biết được rằng: Ngài là một phó tế góp phần cai quản dưới hai triều Giáo hoàng Cêlestinô I và Sixtô III và được bầu làm giáo hoàng năm 440. Được chọn làm giám mục Roma, phải đợi 40 ngày sau Ngài mới được trở về.

Trước trách nhiệm chất đầy, Ngài đã sợ: – Lạy Chúa, có sự cân xứng nào giữa gánh nặng Chúa trao và sự yếu hèn của con, giữa sự cất nhắc và sự hư không của con ?

Và Ngài tiếp: – Chúa đã đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng đỡ con.

Công cuộc Ngài làm thật lớn lao và đa diện khó có thể tóm kết lại được mà không bất công. Dầu vậy, có thể nói công cuộc này qui về 4 hình thái chính: kiểm soát lạc giáo bên Tây phương, can thiệp về giáo thuyết quan trọng bên Đông phương, bảo vệ Roma khỏi cuộc tấn công của dân rợ và những nỗ lực của một mục tử và một nhà giáo dục.

Thánh Lêô đã phải có biện pháp đối với không dưới ba lạc giáo. Không còn dễ dãi cho những người theo Pêlagiô được hiệp thông nữa và đòi phải công khai tuyên xưng đức tin trước khi được nhận là phần tử đầy đủ của Giáo hội. Những người trốn thoát cuộc tấn công của Valda Phi Châu đã mang thuyết Manichêô đến Roma. Thánh Lêô thấy rằng: cộng đoàn bí mật này phải được công khai đưa ra ánh sáng. Ngài cũng nhiệt liệt ủng hộ các giám mục Tây Ban Nha và Phi Châu chống lại thuyết Priscillanô, những cuộc tranh luận về giáo thuyết tại Giáo hội bên Đông phương liên quan tới chính bản tính của Chúa. Hai nhà tiền phong của cuộc tranh luận là Eutiches, một tu viện trưởng ở Constantinople và thánh Plavianê, thượng phụ giáo chủ Constantinople là người trong cuộc chiến đã bị những người theo Eutiches hành hạ cho đến chết.

Năm 451, một cộng đồng qui tụ trên 600 giám mục về Chalcedonia. Thánh Lêô đã viết lá thư danh tiếng gởi Plavianô, trình bày giáo thuyết về ngôi vị và bản tính của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã đặt bức thư này trên mộ thánh Phêrô, vị thủ lãnh tiên khởi của Giáo hội và ăn chay cầu nguyện suốt 40 ngày. Bức thư được đọc tại công đồng và đã được nhận như một bản tuyên xưng đức tin. Quyền tối thượng của Đức giáo hoàng tỏ hiện khi giám mục đồng thanh kêu lớn: – Chính thánh Phêrô đã nói qua Lêô.

Như thế đứng đầu các giám mục không mấy quan tâm tới quyền tối thượng của Roma. Ngài đã cất giữ được sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đã viết: “Đức tin của Phêrô đã được chính Thiên Chúa mặc cho sự kiện vững không thể lay chuyển nổi. Dù cho sự cúng lòng của các lạc giáo hay sư man rợ của lương dân cũng sẽ không bao giờ đảo lộn được đức tin này”.

Trong số các quyết định, Ngài đã tạo được sự đồng ý giữa Đông Tây cử hành lễ phục sinh vào cùng một ngày ở khắp nơi.

Một cuộc chiến khác chờ đón Đức Giáo hoàng Attila và rợ Hung Nô võ trang hùng hậu, gieo rắc những khủng khiếp chiến tranh và tàn phá. Người ta nói rằng: những người man di này khi sinh ra là mẹ họ nghiền mặt đi cho hợp với nón sắt, và chính họ xẻ má cho râu hết mọc nổi. Họ thờ thanh gươm khắc sâu vào bàn thờ, tưới máu các tù nhân trên đó và làm một thiết đồ bằng đầu các địch thủ. Năm 452, họ đổ vào miền Bắc Italia gieo rắc tàn phá trên đường tiến quân. Không một đoàn quân nào có sức bảo vệ Roma. Các tướng lãnh và hoàng đế Valentinô III run sợ chỉ biết đặt niềm tin tưởng vào Đức giáo hoàng.

Thánh Lêô sau 3 ngày cầu nguyện chay tịnh đã ra đón người gieo vãi kinh sợ trên thế gian. Và điều gì đã xảy ra ? Người ta có thể tưởng tượng được một Attila hùng hổ với đoàn quân đông đảo đối diện với người cha chung của các Kitô hữu mặc phẩm phục giáo hoàng và chỉ có tình yêu trong lòng làm khí giới. Attila tiến đến Roma với những dự tính đẫm máu, nhưng Đức Lêô đã đổi lòng hắn. Vương quốc được bình an với lễ vật triều cống hàng năm. dân Hung Nô trở lại Pannonnia. Đức Giáo hoàng nói với nhà vua: – Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu chúng ta khỏi tai họa khủng khiếp.

Đối với dân chúng vui mừng sung sướng, Ngài truyền cho họ phải cảm tạ Chúa.

Nhưng lòng nhiệt thành và biết ơn ban đầu đã không tồn tại được lâu. Dân chúng vô ơn và sa đọa, khi nỗi sợ qua rồi họ quên rằng lòng thương xót họ đã cứu vương quốc và họ lao mình vào các cuộc chơi bời phóng đãng. Cả đến nhà vua Valentinô cũng làm gương xấu cho dân chúng. Những lời trách cứ của đức giáo hoàng không được đến xiả tới. Và ba năm sau, những rợ Vandales dưới quyền vua Ghenséric kéo quân tới. Các nhân vật lớn chạy trốn, cửa thành bỏ ngõ và Đức giáo hoàng một mình ở lại với dân Roma. Ngài một lần nữa ra đón quân xâm lăng. Lần này họ ít bị khắc phục hơn lần trước.

Dầu vậy, ảnh hưởng của thánh Lêô cũng đáng đủ để kiềm chế bớt cuộc chém giết và sự tàn phá, các nhà thờ được tôn trọng. Trái với lời hứa hẹn, nhiều dân thành vẫn bị bắt. Đức giáo hoàng đã chuyển đồ cứu tế cho họ, sai các linh mục tới nâng đỡ họ và còn mua chuộc lại một số lớn các tù nhân.

Những năm cuối đời Ngài dành sửa sang lại các tai họa do các cuộc xâm lăng gây nên, xây dựng lại các tu viện mà với cảm quan về nghệ thuật, Ngài đã làm giàu thêm bao nhiêu là họa phẩm. Ngài để lai nhiều bài giảng, nhiều thư từ rất quan trọng, ngày nay chúng ta còn đọc được.

Thánh Lêô từ trần năm 461. Ngài xứng đáng được mệnh danh là người đầu tiên được chôn cất trong đại vương cung thánh đường thánh Phêrô. Đức giáo hoàng Sergiô I ghi trên bia mộ của Ngài: “Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên”.

Đây là lời thánh Lêô để lại: – “Các con được thấm nhập vào Chúa”.

– ” Trong tâm hồn mỗi tín hữu còn có cái trên trời mà người ta thán phục”.

– “Nước Trời không đến với những người ngủ mê.

Năm 1754, Ngài được suy tôn lên bậc thánh tiến sĩ trong Giáo hội.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

10 Tháng Mười Một

Hôm Nay Là Ngày Của Chúa 

Khi Ðức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Ðức Gioan 23 biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì thế ngài nói: “Tôi đã dọn sẵn hành trang”.

Ông Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Ðức Gioan 23 như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Ðức Thánh Cha đến bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy thế nào. Ðức Gioan 23 trả lời: “Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo”.

Linh mục Capovilla thưa: “Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ…”. Ðức Gioan 23 ngắt lời hỏi: “Họ đã nói với con những gì?”.

Nghẹn ngào, linh mục bí thư của ngài nói: “Thưa Ðức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay cha sẽ được về Thiên Ðàng”.

Nói xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói: “Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở nên mềm nhũn. Cha đã nói với người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay cha sẽ được vào Thiên Ðàng”.

Chúng ta đang sống trong tháng 11:

– Ðây là tháng Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.

– Ðây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng sống thành lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.

Nhưng, vào tháng 11 hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ bến bờ chúng ta phải tới, nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi.

– Ðó là từ giã cõi đời.

– Ðó là nhắm mắt xuôi tay.

– Ðó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.

Ước gì chúng ta có được sự bình thản trong giờ lâm tử như Ðức Gioan 23 . Ước gì, như ngài, chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn và có niềm hy vọng để tin tưởng rằng: lời Chúa Giêsu phán với người trộm lành cũng được áp dụng cho chúng ta: “Hôm nay con sẽ được cùng Ta về Thiên Ðàng”.

Nhưng, nếu Thiên Ðàng là bến bờ, là Ðức Mến, thì cuộc sống của chúng ta phải định hướng theo đó.

Nếu Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng, thì trong những chuỗi ngày sống, chúng ta cũng phải hướng mục và xây dựng theo tiêu chuẩn đó.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 32 Thường Niên, Năm C

Bài đọc: 2 Mac 7:1-2, 9-14; 2 Thes 2:15-3:5; Lk 20:27-38.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống trường sinh

Con người làm việc là làm việc cho một mục đích. Trước khi biết phải sống thế nào, con người cần phải biết đâu là mục đích của cuộc đời? Nếu mục đích của cuộc đời là cuộc sống đời đời, con người sẽ sống cuộc sống đó làm sao? Con người cần phải làm gì ở đời này để đạt được cuộc sống đời đời mai sau? Đây là những câu hỏi tối quan trọng của đời người mà mọi người phải cố gắng để tìm ra.

Các bài đọc trong những tuần phụng vụ cuối năm tập trung trong việc cung cấp cho con người những câu trả lời của những câu hỏi nêu trên. Bài đọc I tường thuật cuộc tử đạo của một số anh em nhà Maccabees. Họ sẵn sàng hy sinh cuộc sống đời này để trung thành giữ Lề Luật của tiền nhân, vì họ biết Thiên Chúa sẽ cho họ sống lại và sống đời đời bên Ngài. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Thessalonica hãy noi gương Đức Kitô để biết sống làm sao trong cuộc đời. Ngài đã trung thành đến giọt máu cuối cùng để làm trọn thánh ý Chúa Cha, để mang lại cuộc sống đời đời cho mọi người. Trong Phúc Âm, những người Sadducees dùng trí khôn lý luận để chứng minh với Chúa Giêsu không có sự sống đời đời. Chúa Giêsu dùng chính niềm tin của họ vào các tổ phụ để chứng minh ngược lại: Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ không phải của kẻ chết. Đồng thời, Ngài cũng mặc khải sơ qua về cuộc sống đời sau đó.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.

1.1/ Niềm tin của 7 anh em nhà Maccabees: Qua những câu trả lời của họ cho vua Antiochus, chúng ta có thể dẫn chứng những niềm tin của họ như sau:

+ Họ tin có cuộc sống đời đời khi trả lời: “vì chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.”

+ Họ tin Thiên Chúa sẽ ban cuộc sống đời đời cho những ai tin tưởng và trung thành làm chứng cho Ngài.

+ Họ tin chết vì Lề Luật là làm chứng sự trung thành của họ với Thiên Chúa.

+ Họ tin Thiên Chúa là chủ cả cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau.

+ Họ tin ác nhân có thể lấy đi thân xác, nhưng không tiêu diệt được linh hồn; nhưng Thiên Chúa sẽ ban lại cho họ cả hồn lẫn xác: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” Đây là lần thứ nhất niềm tin tưởng vào thân xác sẽ sống lại được ghi chép trong Sách Thánh, Dan 7:14 chỉ mặc khải về cuộc sống đời đời.

+ Họ tin ác nhân sẽ phải đền tội vì tước đi sự sống của người vô tội. Những người làm như thế sẽ không được hưởng cuộc sống đời đời.

1.2/ Cuộc sống chứng nhân của 7 anh em nhà Maccabees: Thông thường, ai cũng ham sống và sợ chết; nhưng tại sao 7 anh em nhà Maccabees lại sẵn sàng chấp nhận tù đày, roi đòn, và ngay cả cái chết, đến nỗi ngay cả những kẻ đang hành hạ và tước đoạt mạng sống của họ cũng phải sửng sốt vì lòng can đảm của những người thanh niên đã dám coi thường đau khổ.

Thực ra, việc ăn thịt heo không phải là vấn đề của các Dân Ngoại; nhưng theo luật Kosher của người Do-thái, họ không được ăn thịt heo, vì heo được coi là một thú vật dơ bẩn; khi ăn thịt heo, họ đã để cho người ra ô uế, và như vậy, họ không thanh sạch để vào Đền Thờ và dâng của lễ cho Thiên Chúa (Lev 11:4-7).

2/ Bài đọc II: Hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em.

2.1/ Niềm cậy trông của thánh Phaolô vào lời hứa của Thiên Chúa

Theo thánh Phaolô, Thiên Chúa đã đặt vào linh hồn con người niềm cậy trông vào cuộc sống đời đời. Khát vọng này không có gì có thể dập tắt nổi cho dù tội Nguyên Tổ và bao nhiêu tội lỗi chồng chất của con người. Đức Kitô đã chịu chết và sống lại là bảo đảm chắc chắn của niềm cậy trông vào cuộc sống đời đời, vì Ngài đã xóa bỏ tội cho con người và hòa giải họ với Thiên Chúa.

Các tín hữu cần nắm giữ chắc chắn niềm hy vọng này và đừng bao giờ để ba thù mê hoặc làm đánh mất niềm cậy trông vĩnh cửu đó. Thánh Phaolô biết các tín hữu của Ngài bị đe dọa bởi mọi học thuyết làm họ quên đi niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu, nên Ngài tha thiết khuyên họ như sau: “Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp. Xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.”

2.2/ Cuộc sống chứng nhân của Phaolô: Khi đã hiểu rõ và nắm vững niềm cậy trông vào cuộc sống vĩnh cửu, Phaolô dốc toàn bộ thời gian và nỗ lực cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng, sao cho càng ngày càng nhiều người có được niềm cậy trông đó. Phaolô kiên tâm chịu đựng đau khổ từ những người ác độc xấu xa, nhưng không bao giờ nguyền rủa họ. Ông tin Thiên Chúa và Đức Kitô sẽ bảo vệ ông khỏi mọi nguy hiểm.

Theo Phaolô, các tín hữu không chống chọi một mình, họ được sự hỗ trợ đắc lực từ Thiên Chúa và từ Đức Kitô. Để có thể chiến thắng, các tín hữu cần cộng tác với Thiên Chúa. Đặt căn bản trên những gì Phaolô khuyên các tín hữu, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ hỗ tương giữa Thiên Chúa và các tín hữu như sau:

(1) Phần Thiên Chúa: Người sẽ làm 2 điều:

– Thứ nhất, Ngài cho các tín hữu được vững mạnh nhờ ơn thánh: Con người không có sức mạnh để giao chiến với ba thù – ma quỉ, thế gian, và các thịt. Đó là lý do Thiên Chúa ban cho con người sức mạnh của ơn thánh qua các bí tích Chúa Giêsu đã thiết lập và đời dống cầu nguyện. Nếu con người không năng chạy đến lãnh nhận ơn thánh qua các bí tích và cầu nguyện, họ sẽ không tìm đâu ra sức mạnh để chiến đấu.

– Thứ hai, Ngài bảo vệ các tín hữu khỏi ác thần: Đức Kitô đã chiến thắng mọi mưu mô của ác thần, nhất là tội lỗi và sự chết. Các tín hữu trung thành theo Đức Kitô sẽ được Ngài bảo vệ khỏi mọi âm mưu của ác thần và tai hại của tội lỗi.

(2) Phần các tín hữu: Để trung thành với Thiên Chúa, các tín hữu cũng cần làm 2 điều.

– Thứ nhất, họ phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự; đừng yêu mến những sự thế gian hơn Thiên Chúa. Nếu các tín hữu để lòng ham mê những sự thế gian, họ sẽ dần dần mất đi đức tin vào Thiên Chúa, niềm cậy trông vào Nước Trời, và lòng yêu mến dành cho Thiên Chúa.

– Thứ hai, họ phải nhẵn nại chịu đựng đau khổ như Đức Kitô: Để chứng tỏ lòng tin yêu Thiên Chúa, họ phải chịu đựng đau khổ và vượt qua mọi thử thách. Đây là con đường Thiên Chúa muốn; đây là con đường Đức Kitô đã đi qua, các thánh qua bao thời đại đã đi qua; đây cũng là con đường các tín hữu phải đi qua trước khi đạt tới Nước Trời.

3/ Phúc Âm: Họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần.

3.1/ Câu hỏi khó của Nhóm Sadducees nhằm chứng minh không có sự sống lại:

Truyền thống lâu đời của Do-thái tin cuộc sống đời này là tất cả những gì họ có; một khi họ mất đi, sẽ không còn gì tồn tại nữa. Chúng ta có thể thấy sự trăn trở của niềm tin này trong các Sách Khôn Ngoan như Job và Giảng Viên (khoảng 5, 6 BC). Bắt đầu thế kỷ 1-2 BC, niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời mới bắt đầu thấy có trong các Sách Khôn Ngoan, Daniel, và Maccabees. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người Do-thái đều tin như thế; điển hình, những người nhóm Pharisees tin vào cuộc sống đời sau trong khi những người nhóm Sadducees thì không. Nhóm thứ hai chỉ tin vào Sách Luật Moses và không tin có sự sống lại; đó là lý do tại sao họ đến và hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi để chứng minh với Ngài là không có sự sống lại: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình” (Deut 25:5). “Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi của họ tuy dựa trên Lề Luật, nhưng không thực sự xảy ra trong cuộc đời. Tuy nhiên theo họ, nếu có sự sống lại, nàng sẽ thuộc về ai trong 7 người anh em?

3.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu tách rời 2 vấn đề của họ: chuyện vợ chồng và sự sống lại; đồng thời Ngài sửa sai niềm tin của họ:

(1) Chuyện vợ chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Vợ chồng chỉ xảy ra khi còn ở dương gian; tất cả là anh chị em với nhau trong cuộc sống mai sau. Con người không có nhu cầu để cưới vợ lấy chồng trên Thiên Đàng như người Hồi-Giáo tin.

(2) Cuộc sống trường sinh: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” Tuy có thân xác, nhưng không phải là thân xác trên dương gian; nhưng là một thân xác như Đức Kitô Phục Sinh, sẽ không còn bị ảnh hưởng bởi thời gian và các định luật trong vũ trụ nữa.

(3) Dùng Luật họ tin để bắt bẻ sự tin sai của họ: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Moses cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai (Exo 3:1-6), khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacob. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Nếu họ tin “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống;” họ phải tin các tổ phụ Abraham, Isaac, và Giacob vẫn đang sống. Nói cách khác, họ phải tin có sự sống lại.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Con người khao khát được sống và sống mãi. Thiên Chúa đã đặt sự khao khát này trong linh hồn con người, và Ngài làm trọn nỗi khao khát này qua cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.

– Để đạt được cuộc sống vĩnh cửu này, con người cần đặt trọn vẹn niềm tin vào Đức Kitô và trung thành giữ những điều Người dạy bảo.

– Trong Ngày Tận Thế, thân xác chúng ta sẽ sống lại và nhập làm một cùng với linh hồn. Chúng ta sẽ sống như các thiên thần, chứ không sống lệ thuộc vào vật chất như cuộc sống hiện giờ.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************