Chúa Nhật (16-04-2023) – Trang suy niệm

15/04/2023

Lời Chúa Hôm Nay

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – NĂM A

BÀI ĐỌC I: Cv 2, 42-47

“Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung”.

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 117, 2-4. 13-15. 22-24

Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).

1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”.

2) Tôi đã bị đẩy, bị xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Đấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.

3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.

BÀI ĐỌC II: 1 Pr 1, 3-9

“Nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”.

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Đức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 20, 29

All. All. – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – All.

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

16/04/2023 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – A

Kính Lòng Chúa Thương Xót       

Ga 20,19-31

THƯƠNG XÓT ĐEM LẠI BÌNH AN

“Bình an cho anh em, rồi Người bảo ông Tôma: đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy….” (Ga 20,26-27)

Suy niệm: Thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã đặt Chúa Nhật II Phục sinh làm ngày kính lòng Chúa thương xót. Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta dung mạo của lòng thương xót của Chúa. Chúa Ki-tô, Đấng phục sinh hiện ra với các tông đồ một lần nữa, lần này có cả Tô-ma, người đã không tin. Chúa không trách mắng các môn đệ vì họ đã nhát sợ trốn chạy khi Ngài chịu khổ nạn. Ngài đến để củng cố lòng tin yếu kém của họ. Ngài chiều ý cả Tô-ma, cho phép ông đụng chạm đến dấu đinh và vết thương cạnh sườn để phá tan sự sợ hãi, hoài nghi của ông. Lòng thương xót của Chúa không muốn bất cứ ai, dù chỉ một người, bị loại khỏi cộng đoàn những người tin để được cứu độ. Chính lòng thương xót đó đã giúp Tô-ma được biến đổi hoàn toàn, và ông đã tuyên xưng thật mạnh mẽ: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi.”

Mời Bạn: Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chứng tích tình yêu của bạn đi! M. Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế. Thật vậy để làm chứng cho lòng thương xót Chúa Giê-su Phục Sinh, chúng ta chỉ cần thực hiện giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

Sống Lời Chúa: Đem lời chúc bình an trong thánh lễ thành việc làm đem bình an đến cho những người bạn gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh! Xin xua tan bón đêm sợ hãi trong tâm hồn chúng con và ban cho chúng con bình an của Chúa. “Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su Ki-tô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới!”

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Sau khi bà Maria Mácđala đi kể lại cho các môn đệ

chuyện bà đã thấy Chúa phục sinh hiện ra với mình thế nào,

họ cũng không có vẻ gì thay đổi.

Họ vẫn ở với nhau, cửa đóng chặt vì sợ những kẻ đã giết Thầy.

Đức Giêsu thấy các môn đệ cần có một kinh nghiệm như bà Maria,

nên vào buổi chiều ngày gặp bà, Ngài đã đến gặp các môn đệ.

 

Đức Giêsu bây giờ vừa là Người Thầy đã chết cách đây mấy ngày,

với tay chân bị đóng đinh và cạnh sườn bị đâm thủng,

vừa là Đấng đã được phục sinh, với thân xác được biến đổi.

Đấng đang đi vào một thế giới mới, trong một tình trạng mới,

Đấng có thể vào nhà dễ dàng dù cửa vẫn đóng kín.

Đức Giêsu đem đến cho các môn đệ những món quà.

Món quà đầu tiên là sự hiện diện của Ngài như một người đang sống.

Thân xác được phục sinh của Ngài vẫn mang dấu tích

trên tay chân và cạnh sườn của mình.

Đức Giêsu hiện ra cho các môn đệ với sự dịu dàng thân ái.

Cử chỉ và lời nói của Ngài làm cho họ thấy họ đã được thứ tha.

Đấng phục sinh chẳng còn nhớ gì đến vấp ngã của họ trong quá khứ.

Rồi Ngài ban cho họ những món quà đã hứa trước đây.

Quà bình an: Thầy để lại bình an cho anh em,

Thầy cho anh em bình an của Thầy (Ga 14,27),

Quà Thánh Thần: Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ phái đến (Ga 14,26),

Thánh Thần mà Thầy sẽ ban khi Thầy được tôn vinh (Ga 7,38-39).

Thánh Thần ấy sẽ giúp anh em làm chứng về Thầy (Ga 15,26-27).

Quà sứ vụ: Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,

Con cũng sai họ đến trong thế gian (Ga 17,18).

Cuối cùng, các môn đệ có được kinh nghiệm của bà Maria:

“Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).

 

Sự hiền dịu của Đức Giêsu còn được bày tỏ một cách tuyệt vời

khi Ngài hiện ra như chỉ để gặp riêng ông Tôma.

Ngài chiều ông vì Ngài quý ông, Ngài không muốn mất ông. 

Thật ra đòi hỏi của ông không có gì quá đáng.

Ông chỉ đòi những điều các môn đệ khác đã được hưởng,

Đó là thấy các dấu đinh trên tay chân và dấu đâm ở cạnh sườn.

Và nhiều hơn một chút, ông đòi được chạm vào các vết thương.

Tội của ông không phải là tội đòi có một kinh nghiệm thấy-chạm,

mà là tội đã không tin vào kinh nghiệm của các anh em.

Đấng phục sinh đã thỏa mãn mọi điều ông yêu cầu.

Ngài mời ông làm những gì ông mong ước (Ga 20,27).

Tôma có dám làm không?

Tôma có đức tin hẳn không phải vì ông đã xỏ ngón tay hay đặt bàn tay,

nhưng vì ông thấy Thầy Giêsu quá dễ mến và tế nhị.

Thầy đến chỉ vì ông, để làm cho ông điều ông muốn.

Tôma đã ra khỏi sự cứng lòng của mình, để tin.

Ông thốt lên tuyên xưng: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!

 

Người ta tin những điều mình không thấy (Hr 11,1).

Nhưng Đức Giêsu nói với ông: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin.”

Tôma chỉ thấy các vết thương trên thân xác sống lại của Thầy,

nhưng ông đã tin và tuyên xưng Thầy là Chúa và là Thiên Chúa của ông.

Điều ông tin vượt quá điều ông thấy.

Chúng ta được hưởng mối phúc “không thấy mà tin”,

vì chúng ta không có kinh nghiệm như bà Maria, các môn đệ hay Tôma.

Nhưng chúng ta đã tin vào lời chứng của những người đã thấy,

và đã dám chết vì lời chứng của mình.

 

Cầu nguyện

 

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa,

Sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

 

Xin ban cho con bình an của Chúa,

Bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

 

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

Niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

Hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

16 THÁNG TƯ

Bảo Toàn Ơn Tinh Sạch Do Phép Rửa

“Tảng đá mà những người thợ xây loại bỏ đã hóa nên tảng đá góc tường” (Tv 118,22). Giáo Hội nhận chính sự sống của mình từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Thực tại này được chuyển tải trong phụng vụ, đặc biệt phụng vụ Mùa Phục Sinh.

Chẳng hạn, chúng ta có một truyền thống về Chúa Nhật in Albis Depositis. Tên gọi ấy bắt nguồn từ một nghi thức đã được thực hành thuở xa xưa trong Giáo Hội vào ngày thứ bảy sau Chúa Nhật Phục Sinh. Về sau, nghi thức ấy được cử hành vào Chúa Nhật sau Phục Sinh. Vào ngày này, những người tân tòng trả lại chiếc áo choàng trắng mà họ đã nhận trong nghi thức Phép Rửa buổi tối Vọng Phục Sinh. Khi lãnh Phép Rửa, họ đã bỏ lại sau lưng y phục cũ của họ để nói lên rằng linh hồn họ đã được thanh tẩy bởi Đức Kitô. Giờ đây, họ trả lại chiếc áo choàng trắng của Phép Rửa sau Tuần Lễ Phục Sinh để làm biểu tượng cho sự cam kết rằng họ sẽ gìn giữ ơn tinh sạch do Phép Rửa ấy trong cuộc sống hằng ngày của họ.

Trong nghi thức Phép Rửa của chúng ta ngày nay cũng thế, em bé được mặc áo trắng – để nói lên rằng Phép Rửa không duy chỉ có nghĩa một sự thay đổi bên ngoài. Không, đó là một sự chuyển hóa đụng chạm đến gốc rễ của hữu thể chúng ta. Làm mới lại Phép Rửa của mình có nghĩa là chúng ta cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô.

Đức Kitô thanh tẩy và tái sinh chúng ta. Người mặc chính Người cho chúng ta bằng cách tháp nhập chúng ta vào thân thể Người. Và như vậy, được làm con trong Chúa Con, chúng ta bước đi trong sự sống mới. Chúng ta sống một cuộc sống đã được cứu độ. “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, khiêm nhu, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại.” (Cl 3,12)

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 16/4

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

(KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA)

Cv 2, 42-47; 1Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31.

LỜI SUY NIỆM: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con!”

          Với lòng thương xót của Chúa, Chúa không muốn mất một ai trong chúng ta, cho dù chỉ là một người. Chúa sẽ đến với từng người trong từng hoàn cảnh sống, giúp họ nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

          Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gìn giữ bà Maria Mác-đa-la, hai môn đệ trên đường Emau, Nhóm Mười Một đặc biệt với Tôma. Xin Chúa thương đến mỗi người trong chúng con, ban ân sủng của Chúa, để chúng con nhận ra Chúa trong cuộc sống của chúng con cũng như nhận ra Chúa nơi người anh em, cũng như qua các thụ tạo chung quanh chúng con. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

16 Tháng Tư

Không Quyền Lực Nào

 “Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền klực nào!”. Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.

Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.

Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.

Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…

Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.

Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật II – Năm A – Phục Sinh – LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Bài đọc: Acts 2:42-47; 1 Pet 1:3-9; Jn 20:19-31.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin của các môn đệ vào Tin Mừng Phục Sinh

Nếu cuộc đời con người chấm dứt với cái chết, con người cứ việc ra sức ăn chơi, mua sắm, và hưởng thụ mọi thú vui trên đời; nhưng nếu con người biết có một cuộc sống vĩnh cửu mai sau, con người phải biết suy xét, và làm mọi cách để đạt được cuộc sống mai sau đó. Lý do đơn giản vì đó là cuộc sống mai sau là cuộc sống hạnh phúc và vững bền mãi mãi.

Tuần trước chúng ta đã được chứng kiến Tin Mừng Phục Sinh qua các bài đọc. Tuần này, các bài đọc cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của niềm tin vào sự phục sinh. Trong bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cho chúng ta một cộng đoàn lý tưởng, sống hạnh phúc với nhau đặt căn bản trên niềm tin của sự phục sinh. Tác giả muốn cho chúng ta thấy niềm tin vào sự phục sinh mai sau có sức mạnh biến đổi các cá nhân và cộng đoàn, để sống theo một lý tưởng tuyệt vời: để mọi sự làm của chung và sống tình hiệp thông huynh đệ trọn hảo với nhau. Trong bài đọc II, thánh Phêrô chúc tụng Thiên Chúa đã ban cho con người Đức Kitô để chịu chết thay cho con người. Nhờ Ngài, con người sẽ không phải chết đời đời; nhưng được hy vọng để đạt tới cuộc sống muôn đời. Để đạt được ơn cứu độ, đức tin con người cần được tinh luyện bằng những thử thách; nhưng đức tin sau khi được tinh luyện sẽ đem lại cho con người thành quả tuyệt vời là ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Thomas được Chúa Giêsu cho thấy bằng chứng để ông tin, nhưng Ngài cũng quở trách Thomas, và là lời răn dạy cho những người đòi bằng chứng trước khi tin: “Phúc cho những người không thấy mà tin.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Trình thuật ngắn gọn của sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta cái nhìn bên trong vào cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy, và hai nguyên tắc cốt yếu để xây dựng và làm cho cộng đoàn mỗi ngày mỗi lớn mạnh lên.

1.1/ Để thỏa mãn những nhu cầu tâm linh, họ làm ba việc:

(1) Chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy: Cộng đoàn đầu tiên phải ý thức rất rõ lời dạy của Chúa Giêsu, khi ma quỉ cám dỗ Ngài: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Các Tông-đồ không chỉ nhớ những lời giảng dạy của Thiên Chúa, nhưng đức tin của các ông còn được vững mạnh qua việc chứng kiến Chúa Giêsu Phục Sinh. Nghe và thực hành những gì Chúa dạy qua các Tông-đồ sẽ giúp xây dựng đời sống cá nhân, và như một hệ quả, cũng sẽ xây dựng đời sống cộng đoàn.

(2) Siêng năng tham dự Lễ Bẻ Bánh: Vì sách Công Vụ Tông Đồ được viết rất sớm (khoảng 50 AD), nên cộng đoàn đầu tiên phải thực hành lời Chúa Giêsu dạy trong Bữa Tiệc Ly chỉ ít năm sau khi Chúa Phục Sinh: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.” Lễ Bẻ Bánh cung cấp sức sống cho cá nhân, và như một hệ quả, cũng cung cấp sức sống cho cộng đoàn. Lời Chúa và Lễ Bẻ Bánh trong cộng đoàn đầu tiên là hai yếu tố chính giúp hình thành cấu trúc của Thánh Lễ sau này.

(3) Cầu nguyện không ngừng: Giống như Chúa Giêsu, cộng đoàn đầu tiên phải đương đầu với nhiều nguy hiểm từ phía Thượng Hội Đồng, các hoàng đế Rôma, và ngay cả trong nội bộ. Họ vâng lời Chúa Giêsu dạy bằng cách cầu nguyện không ngừng để khỏi sa vào những chước cám dỗ.

1.2/ Để bày tỏ tình bác ái với nhau, họ cũng làm ba việc:

(1) Sống hiệp thông với nhau: Lễ Bẻ Bánh là căn nguyên của đời sống hiệp nhất. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho muôn người được ăn. Khi họ ăn Mình Thánh Chúa, tất cả cùng trở nên các chi thể của thân thể Ngài. Để giữ cho thân thể Chúa được vẹn toàn, sự hiệp nhất là điều không thể thiếu. Hiệp nhất cần để gìn giữ cộng đoàn khỏi những chia rẽ đến từ bên ngoài lẫn bên trong.

(2) Họ để mọi sự làm của chung: “Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” Đây là lý tưởng tuyệt vời và cũng là ý định của Thiên Chúa. Ngài dựng nên mọi sự cho tất cả mọi người hưởng dùng, chứ Ngài không muốn của cải nằm trong tay một số người trong khi những người khác phải thiếu thốn đau khổ. Cộng đoàn các Kitô hữu đã được trang bị đức tin đầy đủ để sống theo lý tưởng này. Nếu cộng đoàn các Kitô hữu không sống được lý tưởng này, sẽ không có một cộng đoàn hay chính thể nào trên thế giới có thể làm chuyện đó.

(3) Họ dùng bữa với lòng đơn sơ, vui vẻ: “Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ.” Khó có thể xác định Lễ Bẻ Bánh và bữa ăn huynh đệ là một hay hai biến cố khác nhau trong cộng đoàn đầu tiên; nhưng chúng ta có thể chắc chắn là họ dùng bữa với nhau với tâm hồn đơn sơ và vui vẻ.

2/ Bài đọc II: Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động.

2.1/ Sự sống đời đời được thực hiện nhờ Đức Kitô.

(1) Đức Kitô mang cho chúng ta niềm hy vọng là cuộc sống đời đời: Tác giả Thư Phêrô I dâng lời cảm tạ lên Thiên Chúa: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại.” Trước khi Đức Kitô tới, con người không có hy vọng được hưởng cuộc sống đời đời; nhưng vì yêu thương, Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài chịu chết để đền tội cho nhân loại. Nhờ cái chết và sự phục sinh, Ngài mang lại cuộc sống đời đời cho con người.

(2) Đặc điểm của gia tài của Đức Kitô: Tác giả nói cho chúng ta một số những chi tiết quan trọng về kho tàng là cuộc sống đời đời:

+ Không thể hư hại: Những gì thuộc về trái đất sẽ bị hư hại và hủy diệt; những gì thuộc thượng giới sẽ tồn tại muôn đời.

+ Không thể vẩn đục: Cuộc sống nơi trái đất có nhiều ô nhiễm, bệnh tật; cuộc sống trên thượng giới giải phóng con người khỏi mọi ô nhiễm của đời này.

+ Không thể tàn phai: Những gì là vật chất sẽ có ngày phai tàn; những gì thuộc thượng giới sẽ vĩnh viễn mãi mãi.

+ Được lãnh nhận trong Ngày sau hết: Con người chỉ có được kho tàng này sau khi chết.

2.2/ Phải trung thành trong mọi thử thách mới hy vọng đạt sự sống đời đời: Tác giả liệt kê một điều kiện cần thiết để đạt được kho tàng: Phải trung thành giữ vững đức tin vào Đức Kitô. Theo Tin Mừng, con người cần tin vào Đức Kitô; nhưng đức tin này sẽ bị thử thách vì những giá trị hào nhoáng của thế gian và của ma quỉ. Khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự cho người tin. Một điều khó cho con người là họ phải tin và yêu Đức Kitô dù chưa thấy mặt Ngài; nhưng chính vì điều này, con người sẽ lãnh nhận phần thưởng của mình. Tác giả viết: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.”

3/ Phúc Âm: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”

3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.

(1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.

(2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.

3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.

(1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Thomas đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự thật.

(2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: “Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Thomas: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”

Ông Thomas thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. ” Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức tin giúp biến đổi mỗi cá nhân và cộng đoàn. Để có thể trở thành một cộng đoàn lý tưởng, mọi thành phần đều phải không ngừng thăng tiến niềm tin.

– Gian nan thử thách không thể thiếu để tôi luyện đức tin. Vì thế, chúng ta đừng sợ phải đương đầu với chúng, nhưng hãy khôn ngoan dùng sức mạnh của niềm tin để vượt thắng chúng. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************