Chúa Nhật (16-08-2020) – Trang suy niệm

15/08/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XX Mùa Thường Niên Năm A

BÀI ĐỌC I: Is 56, 1. 6-7

“Ta sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Đây Thiên Chúa phán: “Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện.

“Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8

Đáp: Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).

Xướng:

1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin tỏ ra cho chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. – Đáp.

2) Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu. – Đáp.

3) Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 11, 13-15. 29-32

“Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi Israel, thì Người không hề hối tiếc”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nói với anh em là những người gốc Dân Ngoại rằng: Bao lâu tôi là Tông đồ các Dân Ngoại, tôi sẽ tôn trọng chức vụ của tôi, nếu có cách nào làm cho đồng bào tôi phân bì, mà tôi cứu rỗi được ít người trong họ. Vì nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì sự họ được thâu nhận sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?

Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28

“Này bà, bà có lòng mạnh tin”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”. Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”. Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

16/08/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 20 TN – A

          Mt 15,21-28

MỘT LÒNG TIN MẠNH NHƯ THẾ

Chúa Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy.” (Mc 15,28)

Suy niệm: Người đàn bà nào có lòng tin “đáng nể” như thế, một lòng tin đến mức “muốn sao được vậy”? Bạn sẽ còn “nể mặt” bà ấy hơn khi biết bà không phải là người Do Thái mà là người Ca-na-an; bà cũng không sống trên lãnh thổ nước Do Thái, mà thuộc miền Ty-rô và Si-đon, vùng đất của dân ngoại. Bà ấy dám xin Chúa chữa lành cho con gái bà dù Chúa thử thách bà thật nặng nề: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà chứng tỏ lòng tin mạnh mẽ bằng câu trả lời kiên trì, khiêm tốn và hóm hỉnh nữa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Thế là lòng tin đã biến điều không thể thành có thể. Lòng tin mạnh mẽ đã được đền bù: Chúa không chỉ cho bà những mảnh vụn mà còn tặng bà cả một tấm bánh thật to: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Và con gái bà được khỏi từ lúc đó.

Mời Bạn: suy nghĩ về lòng tin của người đàn bà xứ Canaan: Lòng tin đó mạnh ở chỗ nào?

– lòng tin không biên giới, ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho dân Ít-ra-en mà cho bất cứ ai tin vào Đức Giê-su.

– lòng tin biểu hiện tâm tình thờ phượng đối với Đức Giê-su: bà bái lạy và cầu xin “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi.”

– Lòng tin bất khuất xuất phát từ tình thương: “Đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm.”

Chia sẻ: Đối chiếu niềm tin của bà này với lòng tin của bạn, bạn cần thăng tiến ở điểm nào?

Sống Lời Chúa: Đọc kinh Lạy Cha và dâng lên Chúa lời cầu xin tha thiết nhất của bạn ngày hôm nay

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám.
Bà là dân ngoại, còn Ðức Giêsu là người Do thái.
Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà.
Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Ðức Giêsu.
Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến,
con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.

Ðức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao.
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.

Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ,
đau vì nỗi đau của đứa con.
Nhưng Ðức Giêsu không đáp lại một lời.
Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau,
lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được?
Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế.
Chúng ta khắc khoải tự hỏi:
Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?

Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Ðức Giêsu.
Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi.
Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài,
và nài xin Ngài cứu giúp.
Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng:
“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.”
Bà có bị sốc không
khi Ðức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà
không đáng được hưởng phần bánh của con dân Ít-ra-en?
Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.

Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Ðức Giêsu.
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con,
chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống.
Bà không dám mong được phần ăn của các con.
Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi.
Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa,
và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.

Ðức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại
vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài:
Ngài chỉ được Cha sai đến với người ít-ra-en thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc.
Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ,
nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra,
ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ.
Ngài để cho mình bị chinh phục
và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí.
Thay đổi là trung thành và uyển chuyển
để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày,
và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.

 Cầu Nguyện

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ
vì những gì Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha
vì những gì Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

16 THÁNG TÁM

Cám Dỗ Tự Mãn

Nhìn con người trong thế giới hôm nay, ta thấy dường như hoàn toàn phi lý việc nghĩ rằng con người làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng vai trò làm chủ ấy sẽ được triển khai với sự giúp đỡ của sự quan phòng thần linh. Thật là một ảo tưởng hão huyền và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc sống mình và biến thế giới này thành một vương quốc chỉ phục vụ cho hạnh phúc của riêng mình và chỉ dựa vào sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ lớn mà con người hiện đại đang lún vào. Người ta quên rằng các qui luật tự nhiên đặt điều kiện ngay cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp của chúng ta (MV 26-27).

Nhưng thật dễ ngã vào cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước chứng tỏ quyền làm chủ của mình trên các sức mạnh của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến mức quên Thiên Chúa và thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng của Ngài. Trong thời đại chúng ta, sự táo tợn như thế xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi mà có những lúc xảy ra những hình thức khác nhau của sự lạm dụng về mặt sinh học, di truyền học và tâm lý học. Hãy coi chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật luân lý của Nước Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị tàn nhẫn của con người trên con người với những hậu quả vô cùng bi thảm.

Công Đồng nhìn nhận sự cao cả của con người hiện đại, nhưng Công Đồng cũng nhận ra những giới hạn của con người trong việc dàn xếp sự tự trị chính đáng của mọi vật thụ tạo (MV 36). Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc chúng ta nhớ đến chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người trong công cuộc xây dựng thế giới và phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này với Thiên Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng, con người có thể không ngừng khám phá lại căn nguồn ơn cứu độ của mình. Chúng ta hãy đến với Cha và đừng mù quáng cậy dựa vào sức mạnh và sáng kiến của riêng mình.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 16/8

Chúa Nhật XX Thường Niên

Is 56, 1.6-7; Rm 11, 13-15.29-32; Mt 15, 21-28.

LỜI SUY NIỆM: Người đáp: Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lủ chó con” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lủ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

          Trong ngày 9 tháng 8 vừa qua, tất cả chúng ta đều đã được nghe và suy niệm đoạn Tin Mừng này. Hôm nay chúng ta lại cùng nhau nghe và suy niệm về một khía cạnh: “Nhưng mà lủ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Qua câu thưa khiêm nhượng và nhận biết của người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan, gợi cho chúng ta nhớ lại lời chúc phúc của Thiên Chúa đối với Tổ phụ Ápraham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” (St 12,2-3)

          Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn dành để mọi ưu tiên cho chúng con là con cái của Chúa. Xin cho chúng con nhận ơn thánh này, với tinh thần trách nhiệm đối với những người đang sống chúng quanh chúng con, để tất cả đều được Chúa chúc phúc.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 16-08: Thánh STÊPHANÔ,

Người Hungary (977 – 1038)

Người Hung, gốc từ Á Châu, đã tiến vào lập cư trên bờ sông Danuble. Họ sống bằng chiến tranh cướp bóc, và dữ tợn như thú hoang. Vào đầu thiên niên kỷ này, Geysa, con cháu dòng Attila cai trị họ.

Hầu tước Geysa cưới Sarolta, một thiếu nữ công giáo và dưới ảnh hưởng của nàng, ông đã trở lại đạo công giáo. Nữ hầu tước rất nhiệt thành với đạo. Tương truyền rằng thánh Têphanô đã báo cho bà biết rằng người con bà trông đợi sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và sẽ tiêu diệt ngẫu tượng trong xứ.

Vì lòng sùng kính thánh tử đạo, bà thêm tên Têphanô vào sau tên Vaik của con trẻ. Mười năm sau, Geysa xin thánh Ađalbert rửa tội cho con trẻ và mời các nhà truyền giáo đến. Têphanô được trao cho các nhà thông thái và thánh thiện giáo dục. 15 tuổi Ngài đã chia sẻ với cha trách nhiệm trị nước và 22 tuổi Ngài kế nghiệp cha sau khi ông qua đời.

Lên cầm quyền chính, thánh Têphanô tìm thỏa hiệp với các lân bang và hiến thân cải hóa toàn dân. Nhưng các lãnh Chúa theo ngẫu tượng bất mãn vì việc phóng thích nô lệ đã coi dân Hungari là dân phản loạn. Têphanô chuẩn bị chiến tranh bằng lời cầu nguyện và sám hối cùng thi hành việc bố thí. Trên kỳ hiệu dẫn đầu binh đội, Ngài trưng hình thánh giá Martinô và Grêriô. Thắng trận Ngài cho xây tại chỗ là Vesprem một tu viện kính thánh Martinô.

Để chinh phục các thần dân cứng cỏi Ngài chạy đến các tu sĩ Cluny. Từ các tu viện, chính các tu sĩ mở mang văn hóa cho xứ sở do các trường học cạnh tu viện. Thánh Têphanô còn đề ra một chương trình ngoạn mục, Ngài sai sứ giả sang triều yết Đức giáo hoàng Sylvester III, xin nhận Hungari vào số các quốc gia Kitô giáo và phong vương cho Ngài. Đức giáo hoàng gởi cho Ngài một triều thiên và một thánh giá vàng, ban cho Ngài đặc ân dành cho các tông đồ. Thánh Têphanô được công nhận là vua và tông đồ. Thánh Astrik đã phong vương cho vua năm 1001.

Một thời gian sau Ngài đã hoàn thành được 10 giáo phận với một tòa tổng giám mục tại Esztergem. Rất có lòng tôn sùng Đức Mẹ, Ngài xây một thánh đường nguy nga kính Mẹ tại Székes-Féhéwaz.

Lòng bác ái của thánh Têphanô còn vượt ra ngoài biên giới Hungari. Ngài thiết lập nhiều nhà thương và tu viện ở Roma, Constantinople và Giêrusalem, cũng như các nhà cho khách hành hương Hungary. Trong lãnh thổ mình,

Ngài ra các sắc luật chống lại tội ác và lộng ngôn. Rất nghiêm khắc với những người lỗi luật Chúa, Ngài lại rất nhân hậu đối với những bất công Ngài lãnh chịu. Ngài ân cần săn sóc các người nghèo khổ, để hiểu rõ thực trạng, Ngài hay tàng hình đi tìm kiếm họ. Một lần bọn ăn xin xô tới hành hạ Ngài và cướp của. Tiếng đồn vang xa. Các lãnh chúa cười nhạo Ngài, nhưng Ngài càng hiến thân cho người cùng khốn nhiều hơn nữa. Người ta nói rằng: Ngài được ơn chữa bệnh và nói tiên tri. Đêm kia có tiếng bên trong giục Ngài sai người tới tin cho dân vùng biên giới rút lui khỏi làng mạc của họ để khỏi bị tấn công. Sự việc xảy tới, vì được báo trước kịp thời, dân chúng được cứu thoát.

Conrad, tấn vương Germany muốn xâm chiếm Hungary với một đội quân hùng hậu. Têphanô truyền cho binh lính ăn chay cầu nguyện. Binh đoàn của Conrad bị lạc giữa rừng cây, đầm lầy sông lạch, không thể tiếp tế được mà phải lui binh. Têphanô toàn thắng mà không phải chiến đấu. Thánh vương ao ước thanh bình, đã phải chiến đấu nhiều để bảo vệ thần dân. Ngài chiến đấu ở Balan, cùng Balkan. Dầu chiến thắng Ngài không ngừng cầu nguyện cho dân khỏi thảm hoạ chiến tranh. Thắng được hoàng tử Transyvania, Ngài thả tự do cho ông và chỉ đòi điều kiện là ông cho phép các nhà truyền giáo đến xứ ông. Sự Thánh thiện của Têphanô đã khuất phục được tất cả thủ địch lẫn những người thán phục Ngài.

Các thử thách lớn lao hoàn tất việc thánh hóa nhà vua. Ngài đã lập gia đình với nữ công tước Gisèle, con gái vua Henry II, bá tước miền Bavière. Hoàng hậu Gisèle là người đạo đức đã giúp vua Têphanô rất nhiều. Nhưng chẳng may con cái họ đều qua đời lúc tuổi còn xanh. Còn một mình hoàng tử Emeric sẽ kế nghiệp cha nhưng lại tử nạn trong một tai nạn lúc đi săn. Thánh Têphanô vượt cùng mọi đau đớn bằng cách nhiệt tâm với bổn phận. Ngài đã chịu bệnh trong một thời gian dài, lại còn bị ghen tương ám hại. Theo một tường thuật, các lãnh Chúa giận dữ và sự công thẳng của Ngài đã tìm cách sát hại Ngài. Kẻ sát nhân lận dao trong áo lẻn vào phòng Ngài. Nhưng khi vừa thấy Ngài hắn bỗng hối hận và tự thú ý định tội ác của mình. Vua chỉ nói: hãy giải hòa với Chúa và đừng sợ bị tôi trả thù.

Ngày lễ Mông Triệu 15 tháng 8, thánh Têphanô qua đời và được mai táng trong đền thờ Đức Bà ở Székes-Féhéwaz.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

16 Tháng Tám

Anh Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng Thành 

Ngày 16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem như là thần tượng của nhạc Rock tại Hoa Kỳ trong thập niên 70.

Xuất thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis thường trở thành trò cười cho bạn bè trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ trở thành ca sĩ, Elvis đã thắng được tính nhút nhát của mình để trở thành một ngôi sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ quốc…

Danh vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn bị cho mình một triết lý sống vững chắc. Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy xa hoa. Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết bao nhiêu thú vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn phiền…

Sự ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống vắng quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực để xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh…

Buổi sáng ngày 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách, Elvis đã được tìm thấy trong phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả mãnh liệt với tử thần… Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở vào bệnh viện.

Priscilla, người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau: “Cái chết của Elvis khiến tôi nghĩ nhiều về chính cái chết của tôi… Tôi chợt nhận ra rằng tôi cần phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành một ngôi sao trong nền âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang đến với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi chính những người ái mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa bao giờ sống như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng thành, anh chưa bao giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài”.

Bảo rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh phúc có lẽ cũng bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời này, rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề… Thánh Augustinô đã được coi như là một hiện thân của một cuộc tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc v.v…, tất cả chỉ để lại trong tâm hồn ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con chỉ ngơi nghỉ khi được yên nghỉ trong Chúa…”.

Phải, chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc trong lòng người… Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái chóng qua ở đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi không phải là tiền của, danh vọng, nhưng chính là Chúa và những giá trị của Nước Trời.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 20 Thường Niên, Năm A

Bài đọc: Isa 56:1, 6-7; Rom 11:13-15, 29-32; Mt 15:21-28

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Muôn dân sẽ được hưởng ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

Vì tình yêu thương, Thiên Chúa có kế hoạch Cứu Độ cho muôn dân. Theo kế hoạch này, ơn Cứu Độ sẽ bắt đầu từ số nhỏ rồi lan ra đến hết mọi người. Chúa chọn dân tộc Do-thái từ đầu làm Dân Riêng của Thiên Chúa. Từ dân tộc Do-thái, ơn Cứu Độ được lan ra hết các Dân Ngoại khắp nơi trên thế giới cho đến tận cùng trái đất.

Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta cái nhìn tổng quan về kế hoạch Cứu Độ này. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy trước ngày những người ngoại bang nào gắn bó cùng Thiên Chúa, yêu mến Thánh Danh của Ngài, tuân thủ giao ước… sẽ được Ngài chấp nhận và kể như dân của Ngài, và lời của họ cầu xin và lễ vật họ dâng sẽ được Ngài hoan hỷ chấp nhận. Trong bài đọc II, thánh Phaolô cắt nghĩa cho mọi người biết kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong giai đoạn đầu, Ngài đã chọn dân tộc Do-thái như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới. Khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài bắt đầu giai đoạn thứ hai là mang ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người, chứ không còn bị giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái nữa. Lý do một số người Do-thái không chịu tin Đức Kitô là để cho Tin Mừng được lan rộng đến Dân Ngoại; nhưng sau cùng, người Do-thái cũng sẽ trở lại và tin vào Đức Kitô để họ cũng được cứu độ. Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew cho chúng ta một ví dụ cụ thể: Một người đàn bà Canaan có đứa con gái bị quỉ ám và đến xin Chúa chữa. Sau thử đức tin của Bà, Ngài đã ban cho Bà theo như ý Bà xin.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.

Trình thuật của Isaiah hôm nay nằm trong phần mà một số học giả gọi là Isaiah đệ tam (chương 56-66), phần này được viết bởi môn đệ hay trường phái của Isaiah sau thời gian lưu đày. Hai điểm nổi bật trong trình thuật hôm nay:

1.1/ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa gần đến. Tác giả tuyên sấm: “Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.”

– Trên phương diện lịch sử, lời tiên tri này được ứng nghiệm khi Vua Cyrus nước Ba-Tư, sau khi được Thiên Chúa ban cho đánh bại đế quốc Babylon, đã ra chiếu chỉ ban phép cho dân Do-thái được hồi hương. Không những thế, ông còn tạo phương tiện để họ có vật liệu cần thiết xây dựng lại Đền Thờ Jêrusalem. Sự kiện này được sách Erza ghi lại như sau: “Cyrus, vua Ba-tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người đã trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi nhà ở Jerusalem tại Judah. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy lên Jerusalem tại Judah và xây Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel. Chính Người là Thiên Chúa ngự tại Jerusalem. Và mọi người còn lại ở bất cứ nơi nào họ đang trú ngụ, phải được dân địa phương cấp cho bạc vàng, của cải và thú vật, cũng như lễ vật tự nguyện, để dâng cúng cho Nhà Thiên Chúa ở Jerusalem” (Erz 1:2-4).

– Trên phương diện của lịch sử cứu độ, lời tiên tri này được ứng nghiệm khi Đức Kitô, Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đến để chuộc tội và mang ơn Cứu Độ cho muôn người. Câu này có thể bị cắt nghĩa sai là vì dân chúng sống công chính nên họ xứng đáng được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cắt nghĩa chính xác và rõ ràng hơn: Đức Kitô chính là sự công chính của Thiên Chúa (Rom 3:22). Con người được cứu độ không phải vì họ sống công chính; nhưng vì nhờ họ tin vào Đức Kitô (Rom 3:28).

1.2/ Ơn cứu độ không còn bị giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái, nhưng lan rộng đến mọi người: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày Sabbath mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.”

Nhà cầu nguyện của Thiên Chúa không còn giới hạn phải là Đền Thờ tại Jerusalem, vì như Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jerusalem” (Jn 4:21).

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.

Thánh Phaolô cũng quả quyết “Cả người Do Thái lẫn Dân Ngọai đều có thể được hưởng ơn Cứu Độ trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa.” Để hiểu bài đọc, chúng ta có thể chia làm ba giai đoạn chính trong kế hoạch này:

2.1/ Từ ban đầu cho tới khi Chúa Giêsu đến: Dân Ngoại là những người không tin và vâng phục Thiên Chúa. Thánh Phaolô lý luận:

(1) Tuy chưa được nghe về Thiên Chúa, nhưng Dân Ngọai vẫn bị kết tội vì vinh quang của Chúa biểu lộ khắp nơi qua việc sáng tạo và quan phòng vũ trụ. Họ có thể dùng trí khôn ngoan của họ để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và tin vào Ngài (Rom 1:19-21), nhưng họ đã không làm như thế.

(2) Người Do Thái rất hãnh diện vì có Chúa Tể trời đất là Thiên Chúa của họ và Ngài ban cho họ Lề Luật; nhưng có người Do-thái nào tuân giữ tất cả Lề Luật đâu. Vì thế, họ có thể bị luận phạt nhiều hơn vì có Luật mà không chịu giữ.

2.2/ Từ thời Chúa Giêsu đến cho tới thời Cánh Chung: Vì người Do Thái không tin, nên Tin Mừng Cứu Độ được rao giảng cho Dân Ngoại.

Thánh Phaolô được Chúa dùng đặc biệt để rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Chính người đã thú nhận: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc Dân Ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các Dân Ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi (người Do-Thái) phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó.”

Nhưng khi một số Dân Ngoại đã đón nhận Tin Mừng và tin nơi Thiên Chúa, họ lại kiêu hãnh coi thường hay ghét bỏ người Do-thái. Thánh Phaolô phải giải thích cho họ biết lý do tại sao họ không nên kiêu hãnh và coi thường chỗ đứng của người Do-thái trong kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?”

2.3/ Giai đoạn sau cùng: Chúa sẽ đưa người Do-thái trở về và cứu họ vì: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý. Lý do tại sao họ không vâng phục Thiên Chúa là để Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.”

Và thánh Phaolô kết luận: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người.” Con người chúng ta không thể hiểu nổi kế hoạch Cứu Độ nhiệm mầu của Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, biết cách xử dụng con người để hoàn tất kế hoạch Cứu Độ của Ngài.

3/ Phúc Âm: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Điểm chính trong Bài Phúc Âm không ở chỗ phép lạ, nhưng ở niềm tin của bà mẹ vào Chúa Giêsu. Bà phải vượt qua ba trở ngại trước khi con bà được chữa lành.

(1) Trở ngại thứ nhất: thành kiến. Tyre và Sidon (hai thành phố thương mại phồn thịnh của ANE ngày xưa, Lebanon ngày nay). Chúa và các tông đồ là người Do Thái, bà là người xứ Canaan, Dân Ngoại. Theo sử gia Josephus, người Canaan là kẻ thù của người Do Thái. Vì lòng thương con Bà đã vượt qua hàng rào thành kiến để đến với Chúa vì Bà biết chỉ có Chúa mới chữa được con Bà. Bà van xin: “Lạy Ngài là con vua David, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

(2) Trở ngại thứ hai: thinh lặng của Chúa Giêsu và xua đuổi của các môn đệ. Bà đã can đảm vượt thành kiến nhưng vẫn phải chờ thái độ của Chúa và các môn đệ. Chúa không đáp lại một lời và khi các môn đệ thúc bách: “Xin Thầy truyền cho bà ấy đi, vì Bà cứ kêu van đàng sau chúng ta” (câu 23b này có trong bản Hy-lạp, nhưng không có trong bản dịch của Việt Nam). Ngài đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Đây là lần duy nhất mà Phúc Âm Nhất Lãm tường thuật Chúa đi ra ngòai lãnh thổ Do-thái gặp người ngọai quốc. Nhưng không nản chí trước những thái độ khước từ, Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

(3) Trở ngại thứ ba: thử thách của Chúa Giêsu. Chúa thử đức tin bà trầm trọng khi Ngài nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Thử tưởng tượng phản ứng của chúng ta thế nào khi nghe người khác gọi con chúng ta là chó! Chúng ta có can đảm để đứng lại nài van xin ơn? Nhưng bà vẫn không bỏ cuộc và đáp lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Chúa Giêsu phải nhường bước trước đức tin vững mạnh của Bà và Ngài bảo: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Vì tình yêu thương, Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng ơn Cứu Độ. Chúng ta không được kỳ thị bất cứ một chủng tộc nào vì họ đều là con cái Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

– Nhân loại ở mọi nơi và mọi thời đều khao khát được nghe Tin Mừng, sứ vụ truyền giáo phải là sứ vụ của tất cả mọi người. Niềm tin chúng ta có được là do công sức của các nhà truyền giáo ngọai quốc, vì thế khi đến lượt, chúng ta cũng phải loan truyền niềm tin này.

– Năm Thánh Phaolô nhắc chở cho chúng ta biết noi gương Ngài, dám hy sinh tất cả vì lòng yêu mến Chúa Kitô để rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người.

– Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội phổ quát, dành cho hết mọi người. Chúng ta đừng ngại đối thoại với những người của các tôn giáo khác và mời gọi họ tham gia phụng vụ của chúng ta; nhưng chúng ta phải tôn trọng chân lý và không thể cho họ thông hiệp những bí-tích mà họ không có cùng niềm tin như chúng ta. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************