Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XXIX Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: Xh 17, 8-13
“Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: “Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi”. Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Đáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Đấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng:
1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Đấng tạo thành trời đất. – Đáp.
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Đấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Đấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. – Đáp.
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Đấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. – Đáp.
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 3, 14 – 4, 2
“Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Đức Kitô, Đấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 18, 1-8
“Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc’ “.
Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
16/10/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 29 TN – C
Lc 18,1-8
NIỀM TIN VÀ CẦU NGUYỆN
“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18,7)
Suy niệm: Có người nhận xét các tín hữu mở miệng cầu nguyện là xin, xin hết điều này đến điều khác: Chữ cầu chả đi liền với chữ xin là gì! Vậy mà Chúa Giê-su vẫn khẩn khoản kêu gọi các môn đệ phải cầu nguyện nhiều hơn, phải cầu nguyện luôn, không được sờn lòng nản chí, bởi vì Ngài khắc khoải mong cho loài người được cứu độ. Ngài đưa ra hai hình ảnh hết sức tương phản để sánh ví: bên này ông quan toà bất lương rốt cuộc cũng phải xử vụ kiện cho bà goá chỉ vì bà kiên trì nài xin; bên kia là Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu, chắc chắn Ngài sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta cách mau chóng và đại lượng gấp vạn lần ông quan toà bất lương kia.
Bạn thân mến: Thiên Chúa muốn chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Ngài để luôn kiên trì cầu xin. Thế nhưng lắm khi chúng ta đã xin không đúng, hoặc có khi chúng ta không đủ kiên trì: Ta thường cầu xin cho được như ý của mình chứ không phải như ý Chúa. Và đã xin thì ta muốn phải được nhãn tiền. Nếu không được có khi chúng ta kêu trách và bỏ cuộc. Phải chăng vì thế mà Chúa không thôi lo lắng: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Sống Lời Chúa: Trong mọi sự luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa để luôn bình an trước mọi nghịch cảnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con rất dễ nản lòng, mất niềm tin vào Thiên Chúa khi những lời cầu xin của chúng con không được như ý. Xin Chúa gia tăng niềm tin cho chúng con. Để nhờ đó, chúng con thêm can đảm bày tỏ niềm tin cho anh chị em.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
SUY NIỆM :TÌM THẤY LÒNG TIN
Người tín hữu dễ mất đức tin
khi họ xin những điều rất bình thường tự nhiên
mà không được Chúa nhậm lời.
Họ mất đức tin, vì nếu Thiên Chúa có thật,
hẳn Ngài phải giải thoát họ khỏi cảnh cùng khốn,
và giúp họ thắng được kẻ áp bức bạo tàn.
Nếu Ngài thật sự là Đấng yêu thương và toàn năng,
Ngài không thể để kẻ dữ tha hồ tác oai tác quái.
Chúa Giêsu biết lòng tin con người mong manh,
nên Ngài đã kể dụ ngôn sau đây để minh họa.
Có hai nhân vật trong cùng một thành phố
Một ông quan tòa bất chính và một bà góa.
Quan tòa bất chính vì không có hai điều
quan trọng và cần thiết cho chức vụ của ông.
Đó là kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng con người.
Bà góa vốn là người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Bà không còn người chồng để tựa nương,
nên bà dễ bị chèn ép và đối xử bất công.
Nhưng bà góa trong dụ ngôn này lại rất kiên quyết.
Bà đã làm đơn để kiện người làm hại mình.
Nhiều lần, bà đi gặp thẳng quan tòa,
đòi ông phải giải quyết vụ việc.
Quan tòa có vẻ không để tâm đến chuyện này.
Ông cứ lần lữa một thời gian khá lâu.
Nhưng cuối cùng, ông quyết định sẽ xử lý ổn thỏa,
đơn giản vì ông không muốn bị bà quấy rầy nữa,
và cũng không muốn chịu những hậu quả tồi tệ.
Như thế dụ ngôn trên đã có một cái kết tốt đẹp,
nhưng ta vẫn phải tiếp tục suy nghĩ về ý nghĩa của nó.
Đức Giêsu có lúc đã ví chuyện Ngài đến như kẻ trộm,
nghĩa là đến bất ngờ, không báo trước.
Bây giờ Ngài lại dùng hình ảnh ông quan tòa bất chính
để nói về Thiên Chúa là Đấng công chính.
Có nét giống nhau giữa Thiên Chúa và ông quan tòa.
Cả hai đều lo việc xét xử,
đều phải lắng nghe người ta đến kêu oan.
Công việc của cả hai là đem lại sự công bằng,
người có tội bị trừng phạt, người bị hại được đền bù.
Thiên Chúa và ông quan tòa còn có điểm chung khác:
cả hai đều bắt người ta phải chờ lâu.
Ông quan tòa từ chối việc minh xét cho bà góa.
Thiên Chúa cũng trì hoãn trì hoãn việc minh xét
cho những kẻ được Người tuyển chọn.
Cuối cùng, ông quan tòa quyết định giúp bà góa.
Còn Thiên Chúa có minh xét cho con người không?
Nhìn vào thế giới hôm nay, có bao tiếng kêu xin
tương tự như tiếng nài nỉ của bà góa.
Bao phụ nữ hôm nay phải chịu những bất công.
Có những người bị lạm dụng mà không dám mở miệng.
Ở một số nước, phụ nữ không được đi học, đi làm.
Nhiều người vợ bị bạo hành trong gia đình,
và sống như cái bóng trong chế độ gia trưởng.
Họ đã kêu lên Chúa trong thời gian lâu dài,
kêu cả ngày lẫn đêm, nhưng chẳng thấy Ngài đáp lại.
“Nhưng khi Con Người đến,
liệu Người có tìm thấy lòng tin trên mặt đất chăng?
Đó là câu kết của bài Phúc Âm hôm nay,
một câu kết có phần bi quan từ chính Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như tự hỏi xem vào ngày Ngài trở lại,
có còn ai tin vào Ngài không, hay nản lòng tuyệt vọng.
Như bà góa, chúng ta kiên trì tin tưởng cầu xin Chúa
cứu chúng ta cho khỏi sự dữ và thần dữ.
Nhưng chúng ta không được bịt tai
trước tiếng kêu cứu của con người hôm nay.
Chúng ta biết mình phải chịu trách nhiệm
trước mọi bất công, chiến tranh, đói nghèo trên mặt đất.
LỜI NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Cha không cho phép.
Nhưng lắm khi chúng con không hiểu được
tại sao Cha cho phép chuyện tồi tệ đó xảy ra.
Dù sao chúng con tin rằng,
đối với những ai yêu mến Cha,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Lạy Cha đầy lòng thương xót,
chúng con tin rằng những gì Cha cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con,
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Cha đau đớn khi đôi khi phải dùng roi mà sửa dạy
như cha mẹ rầy la để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Cha muốn nhắc nhở,
và điều chỉnh lại đời mình cho hợp với ý Cha. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.
Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 16/10
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN
Xh 17, 8-13; 2Tm 3, 14-4,2; Lc 18, 1-8.
Lời Suy Niệm: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn ngày đêm hăng kêu cầu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”
Trong việc dạy cầu nguyên, Chúa Giêsu luôn kêu mời mỗi người tín hữu không được mệt mõi trong cầu nguyện. Bởi vì mỗi người trong chúng ta đều là những người đã được chính Thiên Chúa tuyển chọn để được trở thành là con cái của Ngài, và Ngài chính là Cha của mỗi người trong chúng ta. Ngài biết rất rõ mọi việc và mọi nhu cầu cần thiết cho cuộc sống và sự cứu độ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai của mỗi người với đầy quyền năng ban ơn và gìn giữ của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn giữ vững đức tin; đừng bao giờ bị lung lạc trong lời cầu nguyện của mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 16-10: Thánh MAGARITA MARIA ALACOQUE
Đồng Trinh (1647 – 1690)
Thánh Magarita sinh ngày 22 tháng 6 năm 1674 tại Lauthecour miền Charolais. Ngài là con thư năm của ông Claude Alacoque, một viên chức triều đình. Khác với các trẻ em cùng tuổi chỉ ham chơi, Magarita dường như hiểu rằng chỉ có yêu mến Chúa mới là điều quan trọng. Biết được điều gì không đẹp lòng Chúa là Ngài bỏ ngay. Mới 4 tuổi, Ngài đã lần chuỗi Mân côi hàng ngày và thường lẻn vào rừng để suy gẫm cầu nguyện.
Lên 8 tuổi, Magarita gặp thử thách lớn lao. Cha Ngài từ trần. Không đòi được tiền nợ. Mẹ Ngài phải dẫn con về quê ngoại, sống với những người tham lam quê mùa. Họ rút tỉa gia tài của gia đình Ngài đến nỗi phải đi ở đợ. Magarita được gửi học tại tu viện thánh Clara. Nơi đây, Ngài được rước lễ lần đầu và khoảng 9 tuổi.
Magarita lại gặp một thử thách nữa vào năm 14 tuổi. Khi ấy Ngài ngã bệnh nặng. Nhưng rồi Ngài đã được chữa lành sau khi khấn hứa sẽ trở thành con Đức Mẹ. Khỏi bệnh Ngài bị cám dỗ sống đời vui chơi phù phiếm. Không chịu thỏa hiệp với nếp sống như thế, Ngài bị người chung quanh đối xử tàn tệ. Muốn đi dự lễ, Ngài phải mượn áo. Có những ngày Ngài bị bỏ đói. Khi mẹ lâm bệnh, Ngài phải đi ăn xin để chạy chữa cho mẹ. Dầu vậy, Ngài chỉ ham đọc truyện các thánh và muốn bắt chước các Ngài, sống đời hy sinh bác ái.
Biết Chúa gọi mình, Magarita cố gắng để mình đỡ bất xứng với ơn gọi. Nhân dịp năm thánh, Ngài xưng tội chung và đã mất 15 ngày để xét mình. Hai mươi tuổi, Ngài được thêm sức và nhận thêm tên thánh Maria. Sau nhiều chiến đấu cực nhọc, ngay với chính mình, tháng 6 năm 1671, Magarita vào dòng thăm viếng ở Paray-le-Monnical, sống với 40 nữ tu quý phái mà một số không có ơn kêu gọi:
Trong cuộc tĩnh tâm dọn mình khấn dòng, Chúa nói với Ngài: – Này là vết thương cạnh sườn Cha, nơi đây con hãy ẩn náu bây giờ và mãi mãi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1672, Ngài khấn dòng. Ngài được Chúa Giêsu cho thấy một thánh giá phủ đầy hoa và nói: Đây là giường các bạn tình trinh khiết của ta nằm, dần dần hoa rụng xuống và chỉ còn lại những gai. Thị kiến này tiên báo cuộc đời đầy chông gai thánh nữ sẽ trải qua. Nhưng Ngài chỉ biết hiến thân cho Chúa “như một tấm vải căng trước mặt họa sĩ”. Ngài sẽ còn xuất thần và được nhiều thị kiến nữa.
Thị kiến đầu tiên trong bốn thị kiến quan trọng xảy ra vào dịp này, Chúa Giêsu tỏ trái tim Người ra: – Trái tim Cha cháy lửa yêu thương đối với loài người và cách riêng đối với con, đến nỗi không còn giữ trong lòng được nữa, ngọn lửa này con phải trải rộng ra.
Chúa Giêsu đã xin thánh nữ trái tim của Ngài và đặt vào lòng mình. Ngài cảm thấy như ở trong hỏa lò. Khi Chúa Giêsu trả lại trái tim, MAGARITA phải chịu mãi cơn đau đớn bên sườn và phải trích máu cho nhẹ bớt cơn đau.
Trong thị kiến thứ hai, thánh nữ viết: – Người quả quyết với tôi rằng: chúng ta phải tôn kính trái tim Chúa dưới hình thể trái tim con người.
Thị kiến thứ ba diễn ra ngày thư sáu đầu tháng nào đó không được rõ. Đức Kitô dạy Ngài rước lễ mỗi thứ sáu đầu tháng.
Những thị kiến này kéo theo một thứ đau đớn thân xác. Thánh nữ đều vui nhận hết. Tuy nhiên Ngài còn bị dằn vặt về tinh thần. Bề trên và chị em trong dòng cho rằng: Ngài bị ám ảnh vì bệnh hoạn, đến mùa thu năm 1674, Thiên Chúa hứa gửi một tôi tớ để trợ lực thánh nữ. Tháng 2 năm 1675, cha Claude la Colombiere khấn trọn tại Lyon. Ngay sau đó, cha được cử về làm bề trên dòng tên ở Paray, dưới sự ngạc nhiên của tất cả những ai đã theo dõi việc làm sáng giá của cha ở Paris.
Không hề có kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, cha có trí khôn rất bén nhậy và bằng lòng với việc yêu mến Chúa Kitô trong “mây mù của sự bất tri”. Khi gặp Magarita, cha đã nói với mẹ Samaise: – Chị là một linh hồn ưu tuyển.
Cha đã xác quyết cho thánh nữ về đường lối của Ngài.
Thị kiến trọng đại nhất diễn ra trong tuần bát nhật kính Mình thánh Chúa năm 1676. Trước Thánh Thể trưng kính trên bàn thờ, thánh nữ đã nghe những lời này: – Này là trái tim đã yêu thương loài người không còn tiếc rẻ gì, đến độ mỏi mòn tiêu hao để làm chứng tình yêu đối với họ.
Và xin thánh nữ dành riêng ngày thứ sáu sáu tuần bát nhật kính Thánh thể, để tôn thờ trái tim Người. Hôm đó, người ta rước lễ và long trọng làm việc đền tạ. Cha Lolombière dạy thánh nữ viết ra tất cả các thị kiến của Ngài rước khi cha dời đi Luân Đôn .
Cuộc bách hại của cộng đoàn lên tới cao điểm ngày 20 tháng 11 năm 1677, Chúa đã đòi thánh nữ Magarita dâng mình làm hiến vật cho sự công thẳng của Chúa, để đền bù những tội phản nghịch cùng đức ái của cộng đoàn. Khi thánh nữ quỳ xuống để làm như vậy, thì mọi người nghĩ rằng: Ngài bị mất trí. Đêm hôm sau thật khó tin nổi. Ngài nói rằng: đau khổ trong đời gộp lại cũng không thể sánh nổi với những gì Ngài đã phải chịu đêm ấy.
Lễ lên trời năm 1678, mẹ Saumaise rời chức vụ. Ngày 17 tháng 6 mẹ Greyfié được Chúa quan phòng đưa lên để làm sáng tỏ vấn đề. Trắc nghiệm thánh nữ, mẹ thấy thánh nữ rất mực khiêm tốn. Mẹ còn quyết định rằng: thánh nữ phải được lành bệnh hoàn toàn trong một thời gian nhất định, để chứng tỏ rằng các thị kiến là chân thực.
Năm 1684, mẹ Greyjié rời Paray, một thế hệ các nữ tu trẻ xuất hiện. Magarita được chỉ định làm giáo tập. Ngày 20 tháng 6 năm 1685, lễ thánh Magarita nhằm ngày thứ sáu, Magarita dạy các tập sinh, thay vì tặng quà cho Ngài, hãy dâng cho Chúa một vinh dự. Họ dọn một bàn thờ nhỏ và đặt hình Trái tim bị thương tích có mão gai và lửa chung quanh. Tháng 6 năm 1686, các nữ tu tôn kính trái tim Chúa trong nguyện đường. Ngày 07 tháng 9 năm 1688, một nguyện đường nhỏ đầu tiên trong vườn được thánh thiến để kính trái tim.
Ngày 08 tháng 10 năm 1960, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.
*************************
Ngày 16-10: Thánh HEDVIGA
Nữ Tu (1174 – 1243)
Thánh nữ Hedviga sinh tại Bavaria vào khoảng năm 1174. Ngay từ hồi 4 tuổi, Ngài đã được gửi học tại tu viện. Lên 12 tuổi, Ngài kết hôn với Henri, bá tước miền Silêsia.
20 tuổi, thánh nữ Hedviga đã là mẹ của sáu người con, ba trai ba gái. Năm 1209, họ quyết định hiến thân cho Thiên Chúa để sống đời khiết tịnh nhưng vẫn chu toàn trách vụ thuộc bổn phận mình. Họ sống như anh em, lo cho con cái lẫn các gia nhân sống đạo đức mà không dung túng cho bất cứ một chuyện dèm pha nào. Mỗi ngày nữ bá tước nuôi cho 13 người ăn, để kính Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ngài mặc một áo nhặm bên trong các y phục thường ngày, khiến Ngài phải chịu nhiều hy sinh lớn lao.
Nhưng các đau khổ tinh thần còn lớn lao hơn, như xé nát lòng người. Vị bá tước dầu đáng kính nhưng lại có khuyết điểm là thương riêng Conrad, người con thứ hơn các người con khác. Ông coi Conrad như người kế vị mình. Sự thiên tư này đã là nguồn gốc gây nên mối thù oán… dữ dằn giữa người anh út với anh mình. Họ gây chiến đấu với nhau và Conrad bại trận. Sau đó ít lâu, Conrad từ trần trong tinh thần sám hối. Nhưng những tranh chấp tương tàn và những cái tang này đã làm cho vị bá tước còn tránh xa thế sư hơn nữa.
Thánh nữ Hedviga thiết lập một nhà dòng khổ tu ở gần Breslau… Gertrude, người con gái duy nhất còn sống cho tới khi thánh nữ từ trần sẽ làm bề trên tu viện này. Nơi đây các em gái mồ côi và nghèo túng tìm được chỗ dung thân, chúng được đào tạo để trở nên những bà mẹ tốt trong gia đình hơn là để theo đuổi ơn kêu gọi. Riêng thánh nữ Hedviga lại đóng vai trò người tôi tớ rửa chân cho các người phong cùi. Lời Ngài mang lại hạnh phúc cho những ai tới gần và gặp gỡ Ngài.
Trong một cuộc chiến, bá tước Henri bị bá tước miền Warzava cầm tù. Ong này từ chối mọi thỏa hiệp, để cứu cha, công tử Henri II muốn khởi binh. Nhưng thánh nữ Hedviga muốn tránh đổ máu nhiều hơn nữa, Ngài đích thân đến gặp kẻ chiến thắng. Gặp Ngài, ông ta bỗng dịu lại và chấp nhận thỏa hiệp. Vị bá tước được trả tự do. Nhưng vì vết thương quá trầm trọng, ông qua đời năm 1238.
Hedviga đau lòng, nhưng vâng ý Chúa, Ngài mặc áo dòng ở Treibnitz, và dù không tuyên bố lời khấn, Ngài trung thành với các bổn phận, dưới sự điều khiển của con mình là Gertrude. Làm những việc thấp hèn, phục vụ những người nghèo khổ, Ngài nói với các nữ tu: – Các chị là hôn thê của Chúa Giêsu, còn tôi chỉ là tôi tớ Người.
Sau ba năm goá bụa, thánh Hedviga còn chịu một nỗi thống khổ chót, đó là cái chết của Hênri II… Ông đã ngã gục trong cuộc chiến chống lại người Rartares. Thánh Nữ Hedviga đã linh cảm thấy trước về cái chết này. Một bản tường thuật ghi lại rằng, vào một buổi tối hôm khởi chiến, thánh nữ đánh thức một chị bạn và nói: – Demundis ơi ! chị biết, tôi đã mất con rồi. Đứa con yêu dấu đã xa tôi như con chim gãy cánh. Tôi sẽ không còn thấy nó trên trần gian này nữa.
Ba ngày sau, một nguồn tin xác quyết này, thánh Hedviga nói: – Đó là ý Chúa. Điều Chúa muốn và vui thỏa cũng phải làm cho chúng ta mãn nguyện.
Và vui mừng trong Chúa Ngài nói: – Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban cho con được những đứa con như vậy. Suốt đời nó thương mến con và không hề làm gì cho con đau lòng. Con muốn có nó trong đời. Nhưng con hết lòng chúc tụng Chúa về việc đổ máu của nó, khiến nó được kết hợp với Chúa trên trời là đấng tạo thành nên nó.
Thánh nữ vẫn tiếp tục theo đuổi con đường thăng tiến. Ngài đã trải qua những buổi cầu nguyện thâu đêm. Các sử gia còn ghi lại nhiều phép lạ thánh nữ đã thực hiện. Cuối cùng, Ngài được mạc khải cho biết trước giờ chết của mình.
Dầu không có gì trầm trọng, Ngài đã xin được lãnh các bí tích sau hết. Khi vừa rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện được hai tiếng: “Lạy Chúa, Lạy Chúa” thì Ngài từ trần. Hôm đó là ngày 15 tháng 10 năm 1243, năm 1267, nghĩa là 24 năm sau, Ngài được suy tôn lên bậc hiển thánh .
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
16 Tháng Mười
Xin Cho Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày
Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.
Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.
Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm… Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn… Thế giới của chúng ta quả là một nhân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.
Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.
Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 29 – Năm C- Thường Niên
Bài đọc: Exo 17:8-13; 2 Tim 3:14-4:2; Lk 18:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên trì cầu nguyện cho đến khi đạt được kết quả mong muốn.
Rất nhiều người chúng ta không hiểu đúng cách và giá trị của cầu nguyện. Nhiều người trách người cầu nguyện: Tại sao không dùng cố gắng của mình để đạt mà cứ phải trông vào sự ban ơn của Thiên Chúa? Làm như thế là yếu đuối và biến Thiên Chúa thành cái máy làm phép lạ theo sự điều khiển của con người. Người cầu nguyện bị trách có thể trả lời: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Nếu Thiên Chúa không cho, có làm việc cật lực cũng vô ích! (Hơn nữa, con người không có khôn ngoan và sức mạnh đủ để đối phó với ba thù, nếu con người không cậy dựa vào Thiên Chúa, vì chúng khôn và mạnh hơn con người).
Liên tiếp hai tuần lễ, Lời Chúa tập trung trong việc kiên trì trong đức tin cho đến khi đạt được kết quả mong muốn: tuần trước tập trung trong đức tin, tuần này tập trung trong cầu nguyện và làm hết mọi cách. Trong bài đọc I, Moses cầu nguyện trong khi Joshua đem quân giao chiến. Quân của Israel thắng thế khi Moses giơ hai tay lên trời cầu nguyện. Quân địch Amalek thắng thế khi Moses bỏ hai tay xuống. Trong bài đọc II, Phaolô khuyên Timothy phải kiên trì học hỏi và rao giảng Tin Mừng khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Tin Mừng có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính, trở nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành và để lãnh nhận ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, bà góa kiên trì mỗi ngày đến năn nỉ ông thẩm phán ngoại đạo cứu xét cho trường hợp bị đối xử bất công của bà, cho đến khi bà dành phần thắng lợi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi ông Moses giơ tay lên, dân Israel thắng thế; khi ông hạ tay xuống, Amalek thắng thế.
1.1/ Tại sao ông Moses phải cầu nguyện? Nhiều người cho thắng lợi ngoài mặt trận là do tài năng điều khiển và sức mạnh quân đội, chứ họ không tin vào lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, thắng trận nhờ binh hùng tướng mạnh là chuyện bình thường; nhưng thắng trận với một số binh lính với vũ khí thô sơ là hoàn toàn do uy quyền trợ giúp của Thiên Chúa. Lịch sử Do-thái đầy dẫy những thắng lợi do bởi Thiên Chúa và lời cầu nguyện của con người; ví dụ: biến cố Xuất Hành và chiến thắng quân đội của vua Pharaoh, biến cố cầu nguyện giữa ngôn sứ Elijah và 450 ngôn sứ của Baal trên núi Carmel, biến cố vua Cyrus cho dân Do-thái hồi hương và giúp phương tiện để họ tái thiết Đền Thờ…
Ông Moses cầu nguyện với Thiên Chúa, vì ông biết chỉ có Ngài mới giúp dân Israel đạt được thắng lợi trên đường vào Đất Hứa. Ông chỉ có một số binh lính trên đường đi tỵ nạn với vũ khí thô sơ, nhưng với một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ông tin chắc Thiên Chúa sẽ nhận lời ông cầu xin.
1.2/ Tại sao phải ông Moses phải khó nhọc cầu nguyện? Thiên Chúa có uy quyền ban cách nhanh chóng, tại sao Ngài lại muốn ông Moses phải mệt nhọc đến độ hai ông Aaron và Hur phải lấy đá kê lên để giúp ông Moses giữ vị thế giơ hai tay lên trời? Có hai lý do:
(1) Thiên Chúa muốn cho dân Do-thái biết chiến thắng do quân Amalek là do Thiên Chúa. Không phải Thiên Chúa cần lấy điểm với dân Do-thái; nhưng Ngài muốn chứng tỏ cho họ thấy nếu họ tin tưởng vâng lời làm theo những gì Ngài dạy dỗ, Ngài sẽ giúp họ thành công.
(2) Thiên Chúa Ngài muốn con người cộng tác trong việc mang lại kết quả. Ngài không muốn con người biến Ngài thành cái máy làm phép lạ, muốn gì cứ việc thầm thĩ cầu xin; nhưng Ngài muốn con người phải cố gắng hết sức và phải kiên nhẫn chờ đợi, để hiểu giá trị của những điều con người cầu xin. Nếu đạt được kết quả cách dễ dàng và nhanh chóng, con người sẽ không hiểu biết tình thương Thiên Chúa và giá trị của món quà. Họ sẽ dễ dàng khinh thường Thiên Chúa và vất những quà tặng Ngài ban.
2/ Bài đọc II: Hãy rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
2.1/ Cầu nguyện và hoạt động bằng Kinh Thánh: Nhiều người hiểu lầm cầu nguyện là xin ơn. Hiểu cách đúng đắn, cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa; xin ơn chỉ là một phần trong cầu nguyện. Trong cuộc nói chuyện cần có hai chiều: Thiên Chúa nói, con người nghe; và khi con người nói, Thiên Chúa nghe. Cầu nguyện bằng Kinh Thánh là cách cầu nguyện xứng hợp nhất, vì trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói và dạy dỗ con người; sau khi đã hiểu những gì Thiên Chúa nói, con người quyết định mang ra hành động với sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Cầu nguyện bằng Kinh Thánh cũng giúp con người biết xin những gì đẹp ý Thiên Chúa và có ích cho tha nhân, chứ không ích kỷ chỉ xin cho mình.
Phaolô hiểu rõ giá trị của Kinh Thánh, nên Ngài khuyên nhủ môn đệ Timothy: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc… Từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.”
2.2/ Hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện: Con người thường có khuynh hướng chỉ học hỏi khi thuận tiện, chỉ cầu nguyện khi cần, và chỉ giữ đạo khi được mọi sự lành bằng an. Họ quên đi mọi sự đều có lúc và có thứ tự của nó. Để có thể làm việc trong lãnh vực chuyên môn giới hạn, họ phải kiên trì trải qua gần 20 năm của cuộc đời với biết bao cố gắng, hy sinh, và gian khổ, mới có kiến thức đủ để hoạt động trong lãnh vực đó. Trong khi cuộc sống hạnh phúc đời này và đời sau còn quan trọng hơn bội phần, thế mà họ không chịu bỏ thời gian để học hỏi Kinh Thánh, bằng lòng với những bài giảng và thánh lễ cuối tuần mà thôi!
Khi nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, họ gần như dành cả cuộc đời cho việc học hỏi, cầu nguyện, và rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu dành 30 năm học hỏi và 3 năm rao giảng không ngừng. Các tông đồ cũng noi gương Chúa, theo Ngài để học hỏi, và sau đó dành cả cuộc đời để rao giảng và chết làm chứng cho Tin Mừng. Sau khi nhận ra tình thương của Đức Kitô, thánh Phaolô dành trọn cuộc đời để rao giảng Tin Mừng: trong hội đường khi có hội đường; ngoài bãi biển khi không có hội đường; với quan chức cũng như với thường dân; khi được tự do cũng như khi vào tù ra khám. Ngài đã thực sự trở nên mọi sự cho mọi người.
Hiểu được tầm quan trọng của Tin Mừng, Phaolô truyền lại những lời tâm huyết cho môn đệ Timothy: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.
3/ Phúc Âm: Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?
3.1/ Ông quan tòa vô đạo và bà góa quấy rầy: Mục đích tại sao Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này là để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
(1) Ông quan toà: chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, huống hồ một bà góa nghèo. Một thời gian khá lâu, ông không chịu nghe lời kêu xin của bà góa; nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
(2) Bà góa: Bà là người cô thân cô thế, chẳng có chồng để nương nhờ; vì thế, trở thành mồi ngon cho người khác hãm hại. Bà đã nhiều lần đến thưa với ông quan tòa: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.” Bị ông quan tòa từ chối nhiều lần, nhưng Bà không nản chí và nhất định kiên trì xin cho tới khi được. Hai điều cần phải chú ý trong trình thuật là: Thứ nhất, bà góa này đã bị đối xử bất công và bà xin được đối xử công bằng, chứ bà không xin được đối xử thiên vị. Chính viên quan tòa cũng nói là sẽ xét xử công bằng (ekdikein) cho bà. Thứ hai, bà góa phải vất vả van xin ông quan tòa nhiều lần, chứ không phải chỉ ngồi nhà cầu xin!
3.2/ Thiên Chúa yêu thương các con của Ngài: Chúa Giêsu so sánh ông quan tòa vô đạo đó với Cha Ngài, và Ngài bảo đảm sự đáp trả công chính hơn ông quan tòa bất chính: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.” Hai điểm chính Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua câu truyện này:
(1) Thiên Chúa là Đấng công chính. Ngài sẽ không bao giờ để các con cái của Ngài bị đối xử bất công. Ngài sẽ trừng trị thích đáng những kẻ làm điều đó; nhưng Ngài muốn con cái kiên nhẫn chờ đợi để luyện tập đức tin. Đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là món quà vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng để bảo vệ đức tin và làm cho đức tin ngày một tăng trưởng là bổn phận của con người. Để đức tin được tăng trưởng, đau khổ thử thách là điều không thể thiếu. Chính Chúa Giêsu đã nhận ra sự khinh thường đức tin của con người khi hỏi khán giả: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
(2) Cho kẻ gian ác có cơ hội ăn năn trở lại: Con người thường có khuynh hướng tiêu diệt kẻ thù ngay; nhưng họ quên đi kẻ gian ác cũng là con cái của Thiên Chúa. Ngài không muốn kẻ gian ác bị tiêu diệt, nhưng muốn họ ăn năn xám hối để được sống. Nếu Thiên Chúa đã kiên nhẫn với chúng ta khi ta vẫn còn là tội nhân, chúng ta cũng phải kiên nhẫn và cho mọi người cơ hội.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa là người quan phòng mọi sự trong cuộc đời, chúng ta không thể thành công nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa. Vì thế, học hỏi và cầu nguyện để tìm ra ý của Thiên Chúa để thi hành là điều kiện không thể thiếu.
– Để được Thiên Chúa ban, chúng ta phải xin, và nhất là nỗ lực cố gắng và kiên trì để làm cho điều đó trở thành hiện thực; chứ không chỉ ngồi nhà cầu xin mà thôi.
– Học hỏi Kinh Thánh trước khi có thể áp dụng trong cuộc sống, dạy dỗ, biện bác, sửa dạy, và rao giảng Tin Mừng là điều cần các tín hữu phải làm càng sớm càng tốt, và trong mọi hoàn cảnh; chứ không phải là điều muốn làm cũng được hay chỉ làm khi có thời giờ rảnh rỗi mà thôi.
– Chúng ta không chỉ phải đương đầu với thế gian có thể nhìn thấy, mà còn phải đương đầu với quỉ thần không thấy. Nếu không cầu nguyện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ thắng chúng được.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************