Chúa Nhật (17-03-2019) – Trang suy niệm

16/03/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần II Mùa Chay Năm C

BÀI ĐỌC I: St 15, 5-12. 17-18

“Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham”.

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.

Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa, Đấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.

Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát”. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc. 13-14

Đáp: Chúa là sự sáng và là Đấng Cứu Độ tôi. (c. 1a)

Xướng:

1) Chúa là sự sáng, là Đấng Cứu Độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? – Đáp.

2) Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Ta”.- Đáp.

3) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Đấng phù trợ, xin đừng hất hủi con. – Đáp.

4) Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Pl 3, 17 – 4, 1

“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.

Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.

Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.

Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa. Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 – 4, 1

Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa. Đó là lời Chúa.

CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 17, 5

Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. 

PHÚC ÂM: Lc 9, 28b-36

“Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

17/03/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 MC – C

Lc 9,28b-36

HIỂN DUNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Đang lúc Chúa Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29)

Suy niệm: Kinh nghiệm về cuộc hiển dung của Chúa Giê-su không dành cho mọi người. Ba môn đệ yêu dấu của Ngài cũng đã “choáng” trước kinh nghiệm đó: họ tưởng rằng vinh quang choáng ngợp ấy chỉ xảy ra trên đỉnh núi cách xa cõi đời ô trọc ở dưới kia. Khi “lôi” các ông trở lại với thực tại đời thường Chúa Giê-su mạc khải cho các ông biết hai điều: 1. Vinh quang của một vị Thiên Chúa được ẩn dấu trong con người Giê-su Na-gia-rét sống cuộc đời bình dị như mọi người; 2. Mầu nhiệm ấy chỉ có thể tỏ hiện khi bức màn che khuất vinh quang đó bị xé tung nghĩa là khi con người Giê-su ấy phải chịu tan nát tấm thân trên thập giá để rồi ngày thứ ba sống lại.

Mời Bạn: Những ai đi xa Việt Nam một thời gian ngắn thôi khi trở về cũng đều kinh ngạc về sự phát triển rầm rộ và nhanh chóng của đất nước. Thế nhưng, cùng với sự biến đổi đó, cũng lộ diện lối sống hưởng thụ ích kỷ, con đẻ của não trạng duy vật thực dụng. Thách đố cho người Ki-tô hữu ngày nay trong việc thánh hóa trần gian chính là biến đổi mình bằng thập giá của Đức Ki-tô để cho vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện ngay giữa đời thường này.

Sống Lời Chúa: Mời bạn áp dụng lộ trình này của Đức Ki-tô vào đời sống: lên núi gặp gỡ Ngài qua việc cầu nguyện để được biến đổi; và rồi xuống núi bằng việc dấn thân phục vụ để biến đổi thế giới.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con không quản ngại dấn thân phục vụ để mọi người nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi các Ki-tô hữu chúng con. (Thư Mục Vụ 2006 của HĐGMVN)

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

17 THÁNG BA

Quí Hơn Vàng!

Trong Mùa Chay, chúng ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta khảo sát lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã chúng ta hoán cải và giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta tuân giữ luật luân lý của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải có nghĩa là đoạn tuyệt với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định trở về vâng phục Thiên Chúa và thực thi điều tốt.

Chúng ta biết rằng Đức Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã trao cho dân Ngài tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới răn đó. Người xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền tảng của cuộc giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.

Đó là lý do vì sao phụng vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng… Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng” (Tv 19,8-11).

Mùa Chay là lúc để ta quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập Giới, chúng ta bắt đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ trong đời ta.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 17/3

Chúa Nhật II Mùa Chay

St 15, 5-12. 17-19; Pl 3, 17-4,1; Lc 9, 28b-36.

LỜI SUY NIỆM:  “Đức Giêsu lên núi cầu nguyên đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.”

          “Chúa Giêsu tỏ vinh quang thần linh của mình trong giây lát, và như vậy Người đã xác nhận lời tuyên xưng của ông Phêrô. Người cũng cho thấy rằng, để vào vinh quang của Người, Người phải đi qua thập giá tại Giêrusalem. Ông Môsê và ông Êlia đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi. Lề Luật và các Tiên Tri đã tiên báo đau khổ của Đấng Mêsia. Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đúng là do ý muốn của Chúa Cha. Chúa Con hành động với tư cách là Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Đám mây nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi xuất hiện. Chúa Cha trong tiếng nói; Chúa Con trong nhân tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói.” (GL 555).

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã xác nhận lời tuyên xưng của thánh Phêrô, và Chúa còn hiển dung cho ba Tông Đồ để các ngài thêm vững tin và loan báo cho toàn thế giới biết Chúa chính là vinh quang của Chúa Cha chiếu tỏa. Xin cho chúng con vững tin vào Lời Chúa và sống Lời Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 17-03: Thánh PATRICIÔ

Giám mục (…. – 492)

Là anh hùng dân tộc và thánh bảo trợ của Ai Nhĩ Lan, Patriciô chào đời tại Bretagne. Trang trại của cha Ngài, phó tế Calpurniô, ở gần biển. Patriciô được 16 tuổi khi bọn hải khấu Ai Nhỉ Lan đến cướp phá bắt người. Thảm họa thường xẩy ra thời man rợ này. Patriciô bị bán sang Ai Nhĩ Lan. Ngài chăn súc vật trên núi và đã nếm mùi cực của đời làm tôi mọi. Ngài đau khổ nhiều.

Nhưng thời kỳ gian lao phải làm nô lệ này lại là thời kỳ phong phú nhất đối với đời Ngài. Suốt những tháng ngày dài đơn độc, Ngài nghĩ tới Thiên Chúa. Những lời dạy dỗ của cha mẹ mà trứơc kia Ngài chẳng chú ý gì tới, bây giờ lại trở thành động lực sống. Như thế Patriciô tự thánh hóa, hiến mình cho ơn thánh Chúa, quen thuộc với địa sở, với thổ dân và ngôn ngữ của họ, chuẩn bị cho sứ mệnh lớn lao của Ngài sau này.

Sáu năm trôi qua, tới ngày đào thoát. Ngài tới một hải cảng, nơi có một con tàu sắp sửa giương buồm nhổ neo. Nhưng Ngài không có tiền trả lộ phí các thương gia không cho Ngài đáp tàu. Buồn rầu, Patriciô trở về. Bỗng chủ tàu gọi lại và cho Ngài lên tàu. Sau ba ngày vuợt biển, họ tới một miền hoang vu ở Econe. Các thủy thủ lang thang kiếm ăn. Sự lo âu làm họ muốn nghẹt thở. Patriciô nói với bạn hữu về quyền năng siêu việt của Thiên Chúa mà Ngài thờ lạy.

Các lương dân xin Ngài khẩn cầu cho họ. Họ nói với Ngài: – Mày là Kitô hữu mà chẳng làm gì được cho chúng tao cả. Mày không cứu nổi chúng tao khỏi cơn đói này được sao ?

Patriciô trả lời : – Cứ tin tưởng và thật tình quay về với Chúa, đối với Ngài không có gì là không thể được, để ngay hôm nay đây, Ngài sẽ gửi đồ ăn tới cho các bạn.

Và chẳng mấy chốc, họ gặp một bầy heo, khiến cho họ có thể sống cho đến khi tìm tới được miền có dân cư.

Nhiều năm trôi qua sau những biến cố thăng trầm và cả một thời gian làm nô lệ, Patriciô được trở về và gặp lại cha mẹ. Dường như sau bao nhiêu gian khổ, Ngài nói về vui hưởng an bình và tình thương. Nhưng các thị kiến ám ảnh Ngài luôn: các trẻ em giơ tay kêu mời Ngài, xin Ngài rửa tội cho chúng.

Tận thẳm sâu tâm hồn Ngài biết rằng mình phải trở lại đảo lưu đày của mình và lần này là để trở thành nô lệ của các tâm hồn. Lúc khởi sự chương trình, Ngài gặp phải những dèm pha, chống đối tư tưởng như thời gian và sức lực Ngài đã uổng phí nơi đám lương dân này. Nhưng Patriciô, người chiến sĩ của Chúa Kitô không nản chí, không dừng bước. Ngài bắt đầu học đạo ở Gaule, tại cung điện thời danh Iles de Lérins. Trở về, Ngài dành một thời gian lâu dài tại Anxèrre để hoàn tất việc học hỏi nơi các giám mục Amator và Germain. Trong khi chuẩn bị công cuộc truyền giáo lớn lao sắp tới Ngài được tấn phong giám mục. Đó là việc thành lập tòa giám mục Armagh.

Năm 432, Patriciô đi bước quyết định. Ngài sắp lôi kéo các tâm hồn dân Ai Nhĩ Lan ra khỏi việc sùng bái của các tăng ni (thời cổ xưa) để tỏ cho họ thấy một quyền năng thiêng liêng cao cả hơn. Ngài biết rằng để hiến tế chính con người, dân Ai Nhĩ Lan chọn những người ngoại quốc. Nhưng Ngài đương đầu với mọi nguy hiểm đe dọa đến mạng sống. Ngay tại trung tâm thờ ngẫu tượng mà các tăng ni cư ngụ, Patriciô ra mắt các thủ lãnh và các chiến binh.

Bất kể những chống đối dữ dội, Ngài sắp dẫn các lãnh tụ đến chỗ xin được rửa tội. Luôn luôn Ngài nhằm cải hoá các thủ lãnh bộ tộc, để rồi họ sẽ dắt dân chúng theo Ngài từ chối quà cáp các vua này muốn trao tặng Ngài. Tại miền Almonaid. Các đạo sĩ nổi dậy. Patriciô giơ tay trái lên trời chúc dữ thủ lãnh Rechrad khiến hắn chết tốt. Khi dựng lên nhà thờ ở bìa rừng gần biển, rất nhiều người đã trở lại. Trong một chuyến đi tới Connaught, chính một tăng lữ đã đón nhận thánh nhân và giúp Ngài thiết lập một tu viện và một nhà thờ.

Lịch sử kể lại cuộc hoán cải của các con gái vua Loeghair tại giếng Grogan và diễn từ Ngài đã nói với họ:

– “Thiên Chúa chúng ta cổ xúy tất cả, làm sống động tất cả, trỗi vượt tất cả, đỡ nâng tất cả, Ngài có một người con vĩnh cửu như Ngài, giống như Ngài. Thánh linh hiển hiện giữa các Ngài, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không hề tách rời nhau. Tôi, tôi muốn dâng các cô cho vua trên trời. Các cô là những con cái trần thế, các cô có tin không ?

Tiếp sau câu hỏi của thánh nhân, là những câu đáp:

– Các cô có tin rằng sau khi chịu phép rửa tội, tội nguyên tổ liền bị xua trừ không ?

– Chúng tôi tin.

– Các cô có tin vào cuộc sống mới sau khi chết không ?

– Chúng tôi tin.

Thế là Patriciô rửa tội cho họ và các Kitô hữu xin được xem thấy mặt Chúa Kitô. Patriciô nói: – Nếu không chết, nếu không rước mình thánh, các cô không thấy được mặt Chúa Kitô.

Và rồi khi đã rước lễ. Các cô gái của nhà vua lịm đi như chết, gần giếng Crôgan còn nấm mồ của họ.

Không ngơi nghỉ, Patriciô rảo khắp trên hòn đảo và thích ứng các phong tục ngẫu thần với Kitô giáo. Ngài để cho lương dân tổ chức lễ thắp lửa ngày 21 tháng sáu kính mùa hè, nhưng là để kính thánh Gioan Tẩy giả. Ơ Bretagne vẫn còn giữ được lửa thánh Gioan tẩy giả của Ngài. Do bình cánh chuồn đầy dẫy ở đồng quê, vị tông dồ cho dân chúng thấy hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Như thế mọi sự đều có thể là bài học cho việc giảng dạy.

Trên một ngọn đồi, Patriciô lập một ngôi nhà gỗ cho các tu sĩ. Nơi này đã trở thành một trung tâm vĩ đại, nguồn gốc của thành phố Armagh. Ngài truyền chức cho các linh mục, đặt họ ở các thành phố. Còn chính Ngài, Ngài sống đời cầu nguyện mãnh liệt và kiên trì. Chúng ta khó tưởng tượng nổi, Cuốn Confession của Ngài cho thấy đức tin, lòng nhân hậu và hạnh phúc của Ngài như một cuộc tử đạo.

Thánh Patriciô đã làm cho cả hòn đảo theo Kitô giáo. Khi cải hóa dân Ai Nhĩ Lan, Ngài còn là Đấng khai sáng văn minh. Đưa dân man rợ vào nghệ thuật và khoa học. Các tu viện Ngài để lại phát triển khác thường lôi kéo các sinh viên tới trong nhiều thế kỷ. Ai Nhĩ Lan được cải hóa đã thành đảo của các nhà trí thức, các thánh nhân, nhờ dấu vết thánh thiện của thánh Patriciô.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

17 Tháng Ba

Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ 

Ngày xưa có một người cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.

Ba đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt. 

Còn người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường nhỏ gần chợ, anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai anh mình đã mua được cái gì.

Ngày hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ thất vọng. Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. hai người em tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: “Mày không mua cái gì sao?”. Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.

Ðứng trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối… Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống… Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác…

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật II Mùa Chay, Năm C

Bài đọc: Gen 15:5-12, 17-18; Phi 3:17-4:1; Lk 9:28b-36.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm hy vọng vào những gì Thiên Chúa hứa

Con người sống và hoạt động là nhờ niềm hy vọng, chẳng hạn: học sinh đi học vì hy vọng có ngày ra trường; nhà nông cầy bừa vì hy vọng có ngày gặt hái mùa màng; lực sĩ thế vận hội luyện tập vì hy vọng có ngày đứng trên bục nhận huy chương vàng; người tín hữu giữ đạo vì hy vọng sẽ được chung sống với Thiên Chúa trong cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hy vọng rất cần thiết cho con người, vì nếu không có hy vọng, con người sẽ không có nghị lực để sống, để tiến tới, và nhất là để vượt qua các đau khổ trong cuộc đời. Khi hy vọng, con người cần biết tính chắc chắn của điều mình hy vọng và khả năng của mình có thể đạt tới; chứ không phải là hy vọng hão huyền hay hy vọng những điều không thể đạt được.

Các Bài Đọc trong Chủ Nhật II Mùa Chay nêu bật niềm hy vọng của các tín hữu vào những gì Thiên Chúa hứa và sự chắc chắn của những gì Thiên Chúa hứa trong lịch sử. Trong Bài Đọc I, tổ phụ Abram được Thiên Chúa hứa sẽ ban cho một dòng dõi đông như sao trên trời và một Đất Hứa. Lời hứa này được ký kết bằng giao ước với xác thú vật bị xẻ đôi. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy vững lòng trông cậy nơi Đức Kitô, Đấng có quyền năng biến đổi thân xác hèn hạ của con người nên giống thân thể sáng láng của Người ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đem ba môn đệ lên núi, cho các ông xem thần tính của Người, và nghe chứng từ của Chúa Cha; để các ông có thể vững lòng đối phó với Cuộc Thương Khó sắp xảy đến cho Người tại Jerusalem.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa hứa ban một dòng dõi và Đất Hứa cho tổ phụ Abraham.

1.1/ Lời hứa của Thiên Chúa: Có hai điều Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abram.

(1) Ban một dòng dõi: Người đưa ông ra ngoài trời và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” Đây là một thử thách cho niềm tin của Abram, vì ông chỉ có hai người con: một người con với Sarah là Isaac, một với nữ tỳ của Sarah là Ismael; làm sao ông có thể có một dòng dõi đông như sao trên trời được? Nhưng “ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.”

Lời Hứa này không được hiện thực khi Abram còn sống; nhưng cho đến nay hơn nửa dân số điạ cầu chính thức coi mình là dòng dõi của Abram: Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo.

(2) Ban một Đất Hứa: Người lại phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Urs của người Chaldean, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu… Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Euphrate.” Điều này cũng không được thực hiện khi Abram còn sống, nhưng được thực hiện khi Thiên Chúa đưa dân Do-thái ra khỏi Ai-cập và đưa họ vào sở hữu vùng Đất Hứa chảy sữa và mật.

1.2/ Giao ước Thiên Chúa ký kết để bảo đảm Lời Hứa. Abram thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” Để đáp câu hỏi của Abram, Người phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.” Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ.

Theo truyền thống Do-thái (x/c Jer 31:18), giao ước được ký kết bằng cách phân thây súc vật. Nếu bên nào không chịu giữ lời cam kết, bên đó sẽ bị phân thây làm hai như xác thú vật, và làm mồi cho các mãnh cầm. Khi ông đã chuẩn bị xong thì “mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Abram đuổi chúng đi.” Các nhà chú giải cho mãnh cầm là biểu tượng của những cám dỗ sẽ tới từ phiá Abram, để ông không tin vào những gì Thiên Chúa hứa. Mãnh cầm bị xua đuổi đi vì đức tin của Abram. Những hiện tượng lạ xảy ra cho Abram nói lên sự nghiêm trọng của giao ước. Hiện tượng “một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi” là biểu sự hiện diện của Thiên Chúa (x/c Exo 3:2; 13:21; 19:18). Giao ước được ký kết là hoàn toàn do từ phía Thiên Chúa; đó là lý do chỉ có Thiên Chúa đi qua các lễ vật.

2/ Bài đọc II: Chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta.

2.1/ Hai loại người trong cuộc đời: Thánh Phaolô nhận định có hai loại người chính trong cuộc đời:

(1) Người không có niềm hy vọng nơi cuộc sống đời sau: Những người sống đối nghịch với thập giá của Đức Kitô là những người Do-thái không tin Ngài được Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho con người bằng cái chết trên thập giá. Những người “thờ cái bụng” là những người theo chủ thuyết hưởng lạc, bằng lòng với những gì thế gian dâng tặng. Họ chỉ biết có cuộc sống hiện tại, nên họ sẽ dành mọi nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu của thân xác. “Cái đáng hổ thẹn” có lẽ muốn ám chỉ việc cắt bì mà những người Do-thái lấy làm hãnh diện.

2) Người đặt niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” Đối với các tín hữu, tuy họ vẫn sống đời này, nhưng với con mắt luôn hướng về đích điểm là cuộc sống mai sau. Hy vọng của người tín hữu được bảo đảm bằng máu của Đức Kitô đã đổ ra để rửa sạch tội lỗi cho con người; và Ngài đã phục sinh vinh hiển về trời để chuẩn bị cuộc sống tương lai cho các tín hữu.

2.2/ Hãy sống như có niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau: Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy bắt chước ngài và những ai đang “quên đi tất cả những gì đàng sau để lao mình về phía đích điểm, vượt qua tất cả để lãnh triều thiên vinh hiển mà Đức Kitô đang sẵn sàng trao cho họ như phần thưởng của một lực sĩ chiến thắng (Phi 3:13-14). Phaolô vừa muốn nhắc lại những gì Đức Kitô đã hứa, vừa muốn chứng minh ngài là nhân chứng sống động cho niềm tin vào cuộc sống mai sau.

Nếu người tín hữu đã tin có cuộc sống mai sau, họ phải biểu lộ niềm tin này trong cuộc sống bằng cách tin và thực hành tất cả những gì Đức Kitô truyền dạy; chứ không thể sống như những người không tin vào Đức Kitô và không tin có sự sống đời sau.

3/ Phúc Âm: Các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người.

3.1/ Cuộc biến hình của Chúa Giêsu: Trình thuật của Lucas hôm nay muốn liên kết với trình thuật khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa và Chúa Giêsu tiên báo Cuộc Thương Khó sắp xảy ra tại Jerusalem của Ngài (Lk 9:18-22), qua việc đề cập đến “tám ngày sau.” Mục đích của Chúa Giêsu khi đem theo Phêrô, Gioan và Giacôbê lên núi cầu nguyện là để cho các tông đồ chứng kiến thần tính thực sự của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.”

Hai nhân vật hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu là ông Moses và ông Elijah. Điều này muốn nói cho các tông đồ biết Chúa Giêsu vừa là gạch nối Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa vừa là đích điểm mà Lề Luật (ông Moses) và Tiên Tri (ông Elijah) phải hướng về. Cuộc Thương Khó và Phục Sinh sắp tới của Chúa Giêsu làm trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

3.2/ Mục đích của cuộc biến hình: Chúa Giêsu nhìn thấy trước những gì sẽ xảy ra cho các tông đồ khi các ông phải chứng kiến Cuộc Thương Khó, nên Ngài muốn cho các ông nhìn thấy rõ vinh quang thực sự của Ngài. Chúa Giêsu hy vọng điều này sẽ giúp các ông có sức mạnh vượt qua những sợ hãi và can đảm làm chứng cho Ngài.

Các tông đồ cũng được nghe chứng từ của Thiên Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Theo Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần thứ hai Chúa Cha đã làm chứng cho Con của Ngài; lần đầu khi Chúa Giêsu chiụ phép rửa tại sông Jordan (x/c Mt 3:17; Mk 1:11; Lk 3:22). Chúa Cha xác thực điều mà Phêrô đã tuyên xưng và Ngài muốn các tông đồ vâng theo những gì Chúa Giêsu truyền dạy.

Nhìn lại cả ba Bài Đọc, chúng ta nhận ra những điều sau:

  1. Những gì Thiên Chúa hứa vượt quá trí khôn con người có thể hiểu. Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người sẽ không bao giờ thấu hiểu được.
  2. Tổ phụ Abram, thánh Phaolô, và các Tông-đồ đã phải vật lộn với bao nhiêu cám dỗ và thử thách để vững bền trông cậy vào Lời Hứa của Thiên Chúa.
  3. Những gì Thiên Chúa hứa sẽ luôn thành tựu. Khi nào thành tựu, con người không biết trước được, vì Thiên Chúa không lệ thuộc vào thời gian.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

 – Không giống như con người hay thay đổi và vi phạm lời hứa; khi Thiên Chúa đã hứa điều gì, Ngài sẽ trung thành thực hiện lời đã hứa. Chúng ta phải đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Lời Hứa của Thiên Chúa.

– Những gì Thiên Chúa hứa với các tổ phụ được thực hiện và làm trọn hảo nơi Đức Kitô, Người Con yêu dấu, qua Cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh vinh hiển của Ngài.

– Niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau phải là đích điểm giúp chúng ta dựa vào đó để làm những quyết định khôn ngoan và vượt qua mọi gian khổ ở đời này. Hy vọng này không chỉ giúp chúng ta ở đời sau; nhưng còn giúp chúng ta có nghị lực sống vui vẻ, hạnh phúc ngay từ đời này.

– Gian nan thử thách cần thiết để chúng ta chứng tỏ đức tin và tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************