Chúa Nhật (22-10-2023) – Trang suy niệm

21/10/2023

Lời Chúa Hôm Nay

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

CẦU CHO VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG

CHO CÁC DÂN TỘC

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6

“Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.

Bài trích sách tiên tri I-sa-i-a.

Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra, hỡi Giê-ru-sa-lem! vì sự sáng của ngươi đã tới, và vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, và vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: Tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi, các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Ma-đi-an và Ê-pha. Tất cả những ai từ Sa-ba đi tới, họ sẽ tuyên-rao lời ca ngợi Chúa.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 2-3. 4-5

Đáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyện tụng cho đêm kia.

2) Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.

BÀI ĐỌC II: 1 Tm 2, 1-8

“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi”.

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi cho Ti-mô-thê.

Trước tiên, cha khuyên con hãy cầu nguyện, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Kitô, cũng là Con Người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm tông đồ. Cha nói thật chứ không nói dối, và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mt 28, 19-20

All. All. – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – All.

PHÚC ÂM: Mt 28, 16-20

“Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”.

Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.

Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Đó là lời Chúa.

****************

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – NĂM A

BÀI ĐỌC I: Is 45, 1. 4-6

“Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Đây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại: Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c

Đáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.

4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

BÀI ĐỌC II: 1 Tx 1, 1-5b

“Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em”.

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an. Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.    

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 10, 27

All. All. – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – All.

PHÚC ÂM: Mt 22, 15-21

“Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

22/10/2023 – CHÚA NHẬT TUẦN 29 TN – A

Chúa nhật Truyền giáo

Mt 22,15-21

TRÁNH NHẦM LẪN ĐÁNG TIẾC

“Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” (Mt 22,21)

Suy niệm: Lập trường rõ ràng, dứt khoát của Chúa Giê-su đối với Thiên Chúa và tiền của giúp các môn đệ khỏi đánh đồng, nhầm lẫn các giá trị phải chọn lựa trong cuộc sống. Lắm khi người môn đệ khó phân định rạch ròi đâu là ý Chúa, lãnh vực nào thuộc về Ngài và đâu là ý cũng như lãnh vực của Xê-da – đại diện cho tiền của và danh vọng. Hiện nay chủ nghĩa quốc gia-tôn giáo đang trỗi dậy đó đây, đề cao quyền của quốc gia trên tôn giáo, sự tự trị của tôn giáo tại đất nước mình. Người môn đệ dễ bị cám dỗ ngã theo rồi hành động theo chủ nghĩa quốc gia-tôn giáo ấy, phản lại tính phổ quát của đức tin, đức ái. Lúc đó họ trở thành những tín đồ cuồng tín, không chinh phục được ai, trái lại, làm cho nhiều người lìa xa Thiên Chúa. Tín hữu là người vừa mắc nợ tổ quốc về lòng trung thành, vừa mang ơn Thiên Chúa về tình yêu cứu độ. Người tín hữu phải chu toàn cả hai vai trò, không được bỏ vai này phò vai kia.

Mời Bạn: Chúa bảo môn đệ phải nộp thuế phần đời cũng là cách Chúa muốn môn đệ lưu ý đến đưa giá trị Nước Trời vào xã hội trần thế. Thế giới này do Chúa dựng nên, Ngài mơ ước xã hội ấy trở thành Vương quốc của công lý, tình yêu, sự thật, tình phụ tử với Thiên Chúa chi phối đời sống con người. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” là thế đó.

Sống Lời Chúa: Là Ki-tô hữu, Chúa bảo ta không được trốn thuế; là công dân Nước Trời, Chúa bảo ta đóng góp theo khả năng cho nhu cầu vật chất của Giáo hội nữa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở rộng lòng con, cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người anh chị em, để Nước Chúa được hiển trị mọi ngày.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Khi Thượng Hội Đồng điệu Đức Giêsu ra trước mặt Philatô,
họ tố cáo Ngài về tội sách động dân chúng nổi loạn,
tội ngăn cản dân nộp thuế, và tội xưng mình là vua (Lc 23,1-2.5.14).
Philatô chẳng bao giờ tin vào những lời tố cáo ấy (Lc 23,4.14.22).
Đối với ông, Đức Giêsu chẳng hề phạm tội chính trị.
Dù Đức Giêsu có nói về Nước của Ngài,
nhưng Nước ấy lại không thuộc về thế giới này (Ga 18,36).
Cũng chẳng bao giờ Ngài nhận mình là vua
một cách minh nhiên (Mc 15,2; Mt 27,11; Lc 23,3; Ga 18,37).
Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài không chống lại chuyện nộp thuế.

Đế quốc Rôma cai trị xứ Giuđê từ năm 63 trước công nguyên.
Mọi người Do-thái trưởng thành phải nộp thuế thân cho họ.
Mỗi năm nộp một đồng tiền denarius, bằng một ngày lương.
Có một số người Do-thái phản đối mạnh mẽ chuyện nộp thuế,
vì đối với họ nộp thuế là tôn thờ các hoàng đế Rôma.
Nhóm Pharisêu cũng không ưng chuyện nộp thuế,
nhưng họ phản ứng nhẹ nhàng hơn, chứ không dùng bạo động.
Còn nhóm Hêrôđê vì thân với Rôma nên ủng hộ chuyện này.
Vậy mà hôm nay hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê
lại hợp lực để gài bẫy Đức Giêsu về chuyện nộp thuế.

Họ khéo léo nịnh Đức Giêsu là người nói thẳng, nói thật,
để Ngài bộc trực mà trả lời câu hỏi của họ (Mt 22,16):
“Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?”
 Đây là câu hỏi nóng vào thời đó,
và cũng khá nham hiểm vì đưa Ngài vào thế kẹt.
Nếu trả lời được phép, thì Đức Giêsu là người chạy theo Rôma.
Nếu trả lời không được phép, thì Ngài là người chống đối đế quốc.
Đức Giêsu biết họ đang thử mình, nhưng Ngài thoát bẫy ra sao?

Ngài xin họ đưa cho Ngài một đồng tiền để nộp thuế.
Họ đem đến cho Ngài một đồng denarius,
trên đó có khắc hình và danh hiệu.
Khi biết đó là hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rôma,
Đức Giêsu nói ngay một câu làm họ kinh ngạc:
“Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Câu trả lời này đã làm Đức Giêsu thoát khỏi cái bẫy họ giăng.
Ngài không trả lời được phép hay không được phép,
nhưng khi nói “của Xê-da trả lại cho Xê-da”
Ngài có vẻ không phản đối chuyện nộp thuế cho Rôma,
và không coi đó là một tội phạm thượng.
Ngài còn đi xa hơn khi nói: “của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”

Cầu nguyện

Lời của Đức Giêsu đã được đưa vào sách Giáo lý Công giáo (số 2242).
“Của Xê-da trả lại cho Xê-da”:
mọi quyền hành hợp pháp đều đến từ Thiên Chúa,
nên ta phải tôn trọng, phục tùng và cộng tác (Rm 13,1-7; 1 Pr 2,13-17).
Chỉ khi quyền hành đó bị lạm dụng, đi ngược với đạo lý luân thường,
ngược với Lời Chúa dạy, với những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng,
chúng ta mới phải từ chối tuân theo.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
Chúng ta đang sống trong một thế giới cho phép làm nhiều điều,
như phá thai, ly dị, án tử hình, an tử, hôn nhân đồng tính…
nhưng chúng ta không buộc phải theo.

“Của Thiên Chúa trả lại cho Thiên Chúa.”
Nói cho cùng, không có gì lại không phải là của Thiên Chúa.
Mọi người, dù là ai, cũng đều mang hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27).
Mọi sự tôi có và mọi sự trên mặt đất là của Đấng Tạo thành.
Con người không được quyền lấy cắp của Ngài.
Bổn phận của chúng ta là trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài,
là chỉnh lại những hình ảnh của Ngài đã bị méo mó, dập nát.
là đưa mọi thụ tạo trên trái đất về với Ngài là nguồn cội.
Mong mọi người đều mang hình và danh hiệu Thiên Chúa trong tim.

CẦU NGUYỆN

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới thù hận dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách thức mới
để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ Kitô hữu
giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Chỉ mong Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

22 THÁNG MƯỜI

Bảo Vệ Phẩm Giá Của Mọi Con Người

Có lần tôi đã nói trong sứ điệp nhân Ngày Quốc Tế Hòa Bình: “Con đường đúng đắn để xây dựng một thế giới hiệp thông huynh đệ, một thế giới mà công lý và hòa bình sẽ ngự trị khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc … đó là con đường liên đới, con đường của đối thoại và của tình huynh đệ đại đồng. Chỉ có con đường đó mà thôi.”

Ý thức liên đới phải vượt thắng mọi cám dỗ khép kín lòng mình. Ý thức ấy thúc đẩy người ta biết kính trọng những truyền thống văn hóa và luân lý của mọi dân tộc. Nó giúp các truyền thống gặp gỡ nhau, cảm thông và trân trọng nhau. Sự liên đới mà xã hội hiện đại cần có chắc chắn không phải là những câu khẩu hiệu mơ hồ sáo rỗng, nhưng phải là sự liên đới cụ thể trong tinh thần tôn trọng giá trị của sự sống, của mọi sự sống. Bởi vì nơi mỗi hiện hữu con người đều có phản ảnh sự hiện hữu của chính Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có lòng bao dung mà thôi thì không đủ, thái độ thuần túy cam chịu càng không đủ. Sự chấp nhận mọi sự như hiện trạng của nó cũng không đủ. Điều cần thiết là phải có một thái độ dấn thân tích cực để tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền của mọi con người, trong bối cảnh là chính căn tính văn hóa của họ.

Thái độ dấn thân tích cực ấy sẽ thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những điều ích lợi cho người khác, xây dựng những mối liên hệ mới, đem lại niềm hy vọng mới, hăng say phụng sự cho hòa bình. Chỉ khi hiểu biết và thông cảm nhau, chúng ta mới có thể giải quyết các xung đột và điều chỉnh những bất công. Và chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra triển vọng thật sự về mối liên đới trong tự do và hy vọng. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra con đường hòa điệu giữa các dân tộc – sự hòa điệu này là điều kiện không thể thiếu cho một nền hòa bình đích thực.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 22/10

CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN

Is 45, 1. 4-6; 1Tx 1, 1-5b; Mt 22, 15-21.

Lời suy niệm:  “Thế thì của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.”

           Những người Pharisêu và nhóm người của vua Hêrôđê đã đề cao Chúa Giêsu một cách giả hình, khi nói: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật mà cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa, cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.” Và rồi  gài bẩy Người khi đưa ra: “Xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” Chúa Giêsu biết tâm địa độc ác của họ và Người đã công khai: “Tại sao các ngươi thử tôi, hỡi những kẻ giả hình.” Nhưng qua sự ác ý của hai nhóm người trên, Chúa Giêsu đã cho họ và cả chúng ta ngày hôm nay một bài học cần cho sự sống đời này lẫn đời sau: Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.

          Lạy Chúa Giêsu. trong cuộc sống của tất cả các tạo vật trong đó có con người đang được sống và sống dồi dào là do lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa, nơi mỗi con người và mỗi tạo vật đều do ơn ban của Cha trên trời. Xin cho tất cả chúng con luôn biết dâng lời cảm tạ và tôn vinh Ngài. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 22-10

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Ðức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng thứ 264 (1978-2005) của Giáo hội Công Giáo. Ngài là giáo hoàng người Ba Lan duy nhất cho đến nay và là giáo hoàng đầu tiên không người dân Ý kể từ thế kỷ 16 (giáo hoàng Adrian VI 1522-1523 người Hòa Lan). Triều đại 26 năm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dài thứ nhì, chỉ sau Đức Giáo hoàng Piô IX giữa thế kỷ 19 (32 năm, 1846-1878).

  Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng có rất nhiều cái “đầu tiên” và “duy nhất”:

  – Ðến thăm 104 quốc gia, nhiều hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào khác trên thế giới: đi qua 700,000 dặm, nghĩa là 28 lần đường vòng quanh Trái Ðất, hay 3 lần đến Mặt Trăng.

  – Là vị giáo hoàng đầu tiên: đến Anh Quốc, thăm ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, thuyết giảng trong buổi lễ tại một nhà thờ Tin Lành ở Áo năm 1983, bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma năm 1986, thăm Rumania năm 1999 (cuộc viếng thăm đầu tiên của một giáo hoàng Vatican tại một nước Chính Thống Giáo Ðông Phương kể từ thời kỳ ly giáo 1,000 năm trước), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Vatican và Israel.

– Ðức Ðạt Lai Lạt Ma 8 lần gặp ngài, nhiều hơn với bất cứ nhà lãnh đạo nào khác.

– Sáng lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

– Thoát chết trong vụ mưu sát năm 1981 như một phép lạ của Đức Mẹ Fatima; đến thăm và nói lời tha thứ với kẻ ám sát mình.

– Chính thức lên tiếng xin lỗi về những sai lầm của Giáo Hội trong quá khứ.

– Hơn 3 triệu người xếp hàng để được đi ngang viếng chào linh cữu của Ngài, quàn tại Thánh Ðường St. Peter cho đến ngày tang lễ 8 Tháng Tư, 2005.

– Và còn nhiều cái “đầu tiên” & “duy nhất” khác nữa… 

Vì thế, Đức Gioan-Phaolô II được coi là “Giáo Hoàng của những kỷ lục”: kỷ lục đi xa, kỷ lục phong thánh, kỷ lục gặp gỡ, kỷ lục diễn văn… Ngài nổi tiếng ngay từ đầu triều giáo hoàng với lời kêu gọi mang lại nhiều niềm vui và bình an cho mọi người; đó là hai chữ ngắn gọn: “Đừng sợ!”

Những kỷ lục trên trước hết là kết quả của lòng đạo đức, lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và bí tích Giải tội. Trước mỗi chuyến công du, ngài cầu nguyện rất nhiều, xưng tội trước khi đi công du. Ngài vẫn giữ thói quen rất lành thánh là xưng tội hằng tuần. Ngài cổ võ mạnh mẽ cho việc tôn sùng Thánh Thể. Khi viết về những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối viết trước Thánh Thể, gần giống như Thánh Thomas Aquino dựa đầu vào Nhà Tạm trước khi nói về Thánh Thể. 

Đặc biệt Ngài là “Giáo hoàng của Đức Mẹ” với khẩu hiệu “Totus Tuus” (Tất cả của con là của Mẹ, con hoàn toàn thuộc về Mẹ). Đức Gioan-Phaolô II rất trung thành với Chuỗi Mân Côi, ngài lần hạt từng ngày. Vào mỗi thứ Bảy đầu tháng, ngài lần hạt chung với giáo dân tại Hội trường Phaolô VI. Dịp các Đức Giám Mục hành hương năm 2000, ngài mời chị Lucia đến đọc Kinh Mân Côi, chị đọc một bè bằng tiếng Bồ Đào Nha, ngài và các Giám mục đọc một bè bằng tiếng La Tinh. Ngài đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ: Thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Độ) và Tông thư Rosarium Vigilis Mariae (Kinh Rất Thánh Mân Côi). Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003). 

Sinh ngày 18.05.1920 tại Wadowice – một thành phố cách Kraków (Ba Lan) chừng 50 km – ngài là người con út trong 3 người con của ông Karol Wojtyła và bà Emilia Kaczorowska, qua đời vào năm 1929. Người anh cả của ngài là Edmund, bác sĩ, qua đời năm 1932 và thân sinh của Ngài, một sĩ qua quân đội qua đời vào năm 1941. Trong khi chị của Ngài, Olga, qua đời trước khi Ngài được sinh ra.

Được rửa tội vào ngày 20.06.1920 tại nhà thờ giáo xứ Wadowice do cha Franciszek Zak; rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi và lãnh nhận bí tích Thêm sức lúc 18 tuổi. Sau khi học hết chương trình trung học tại Marcin Wadowita, Wadowice, năm 1938, cậu ghi danh vào Đại học Jagellónica, Cracovia.

Khi quân xâm lược Naziste đóng cửa trường đại học vào năm 1939, cậu Karol làm việc (1940-1944) trong một hầm mỏ, và sau đó, trong một nhà máy hóa chất Solvay để kiếm sống và tránh bị đưa vào các trại tập trung bên nước Đức.

Từ năm 1942, cảm thấy mình có ơn gọi làm linh mục, cậu bắt đầu theo học tại Đại Chủng viện chui tại Cracovia dưới sự hướng dẫn của chính Tổng Giám mục Cracovia, ĐHY Adam Stefan Sapieha. Trong thời gian đó, thầy cũng là một trong những người tổ chức “Kịch nghệ Rapsodico”, cũng dưới hình thức chui.

Sau khi chiến tranh kết thúc, thầy tiếp tục theo học trong Đại Chủng viện Cracovia mới được mở cửa lại, và tại Phân khoa Thần học của Viện Đại học Jagellónica, cho đến khi chịu chức linh mục tại Cracovia vào ngày 11.11.1946, do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Sapieha.

Sau đó, ngài được gởi qua Roma để theo học dưới sự hướng dẫn của cha Dòng Đa Minh người Pháp, cha Garrigou-Lagrange, và vào năm 1948, ngài đậu tiến sĩ thần học với luận án: “Đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá” (Doctrina de fide apud Sanctum Ioannem a Cruce). Trong thời gian này, vào các kỳ nghỉ hè, ngài thường làm việc mục vụ cho người Ba Lan tại Pháp, Bỉ và Hòa Lan.

Vào năm 1948, ngài trở về Ba Lan, lúc đầu làm phó xứ Niegowić, gần Cracovia, và sau đó, làm phó xứ Thánh Floriano, trong thành phố. Đồng thời, ngài cũng làm tuyên úy sinh viên cho đến năm 1951, vừa theo học triết học và thần học. Vào năm 1953, ngài trình luận án tại Đại học Công giáo Lublino với đề tài: “Thẩm định khả năng thiết lập một nền luân lý Kitô từ hệ thống luân lý của Max Scheler”. Sau đó, ngài trở thành giáo sư Thần học Luân lý trong Đại Chủng viện Cracovia và tại Phân khoa Thần học Lublino.

Ngày 04.07.1958, Đức Giáo hoàng Piô XII đặt ngài làm giám mục hiệu tòa Ombi và giám mục phụ tá Cracovia. Ngài được thụ phong giám mục vào ngày 28.09.1958 tại nhà thờ chánh tòa Wawel (Cracovia), do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Eugeniusz Baziak.

Ngày 13.01.1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đặt ngài làm Tổng Giám mục Cracovia và rồi đề cử ngài lên tước vị Hồng y vào ngày 26..06.1967.

Ngài tham dự Công đồng Vaticano II (1962-1965) với sự đóng góp quan trọng trong việc soạn thảo Hiến chế Gaudium et Spes. Với tư cách Hồng y, ngài cũng là thành viên trong 5 Thượng Hội đồng Giám mục trước khi trở thành Giáo hoàng vào ngày 16.10.1978  và long trọng khởi đầu tác vụ Thánh Phêrô vào ngày 22.10.1978.

Đức Gioan Phaolô II đã thi hành sứ vụ của mình với tinh thần truyền giáo không mệt mỏi, dồn mọi nỗ lực lo lắng việc mục vụ đối với mọi Giáo hội và đức ái mục tử mở ra cho toàn thể nhân loại. Ngài đã thực hiện 104 chuyến đi trên toàn thế giới và 146 cuộc viếng thăm mục vụ tại nước Ý. Với tư cách là giám mục Roma, ngài đã thăm 317 giáo xứ (trên 333 giáo xứ).

Lòng yêu mến đối với các bạn trẻ đã hối thúc ngài thành lập những Ngày Giới trẻ Thế giới kể từ năm 1985. 19 cuộc họp mặt Giới trẻ Thế giới – diễn ra trong triều đại của ngài – đã quy tụ hàng triệu bạn trẻ trên khắp thế giới. Ngài rất quan tâm đến gia đình và đã tổ chức những Đại hội Gia đình Thế giới từ năm 1994.

Đức Gioan Phaolô II phát huy thành công trong việc đối thoại với người Do Thái và đại diện của các tôn giáo, bằng việc mời gọi họ đến những cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình, cách đặc biệt tại Assisi.

Dưới sự hướng dẫn của ngài, Giáo hội tiến về ngàn năm thứ ba và đã cử hành Đại Năm Thánh 2000, theo những đường nét đã được trình bày trong Tông thư Tertio millennio adveniente. Và rồi Giáo hội đối đầu với thời đại mới, lại được lãnh nhận những chỉ dẫn trong Tông thư Novo millennio ineunte, trong đó, ngài cho các tín hữu thấy hành trình của thời tương lai.

Với các Năm Thánh Cứu độ, Năm Thánh mẫu, Năm Thánh Thể, Đức Gioan Phaolô II đã phát huy việc canh tân đời sống thiêng liêng của Giáo hội. Ngài cũng đã tiến hành nhiều cuộc phong thánh và chân phước để đưa ra nhiều tấm gương thánh thiện cho con người thời đại hôm nay: Ngài đã cử hành 147 buổi lễ phong chân phước, gồm 1338 vị và 51 cuộc lễ phong thánh, gồm 482 vị thánh. Ngài cũng đã tuyên phong Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu làm Tiến sĩ Giáo hội.

Ngài đã mở rộng con số của Hồng y đoàn, tấn phong đến 231 vị trong 9 mật nghị (1 vị ẩn danh và cũng không được nêu lên trước khi ngài qua đời). Ngài cũng triệu tập 6 Công nghị của Hồng y đoàn.

Ngài đã chủ tọa 15 Thượng Hội đồng Giám mục: 6 thông thường (1980, 1983, 1987, 1990, 1994 và 2001), 1 Thượng Hội đồng bất thường (1985) và 8 Thượng Hội đồng đặc biệt (1980, 1991, 1994, 1995, 1997, 1998 [2] và 1999).

Ngài ban hành 14 Thông điệp, 15 Tông huấn, 11 Tông hiến và 45 Tông thư. Ngài cũng đã ban hành cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáo, dưới ánh sáng của truyền thống, đã được Công đồng Vaticano II giải thích cách có thẩm quyền. Ngài đã sửa đổi Bộ Giáo luật Tây phương và Đông phương, cũng như đã thiết lập thêm các cơ chế mới và cải tổ Giáo triều Roma.

Đức Gioan Phaolô II, như một Tiến sĩ, đã xuất bản 5 cuốn sách: “Bước qua ngưỡng cửa Hy vọng” (tháng 10.1994); “Hồng ân và Mầu nhiệm: kỷ niệm 50 linh mục” (tháng 11.1996); “Trittico romano” – những bài suy niệm dưới hình thức thơ văn (tháng 3.2003); “Hãy đứng dậy, chúng ta cùng đi!” (tháng 5.2004); “Ký ức và Căn tính” (tháng 2.2005).

Ngài qua đời tại Vatican ngày 02.04.2005, lúc 21:37 (gần hết ngày thứ Bảy, bước vào Ngày  Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót).

Từ chiều hôm ấy cho đến lễ an táng của ngài vào ngày 08.04, đã có hơn ba triệu khách hành hương đến Roma để kính viếng ngài, dù phải xếp hàng chờ đợi cả 24 giờ mới có thể vào được bên trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.

Ngày 28.04 sau đó, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã miễn chuẩn thời gian chờ đợi 5 năm sau ngày qua đời để khởi sự thủ tục phong chân phước và phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II. Thủ tục này đã được chính thức khai mở vào ngày 28.06.2005 do Đức Hồng y Camillo Ruini, Tổng Đại diện coi sóc giáo phận Roma. Và Thánh lễ phong Thánh cho ngài được cử hành vào lúc 10g hôm nay (3g chiều Việt Nam), ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót 27.4.2014.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

22 Tháng Mười

Hòn Vọng Phu 

Giữa Nha Trang và Tuy Hòa, khoảng xa lộ 21 và sông Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi chồng.

Theo tục truyền trong dân gian thì thuở xưa có một gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi. Khi giặc giã nổi lên ở biên thùy, người chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người vợ trẻ và đứa con đang còn bú mớm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ đợi mãi hóa thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là Hòn Vọng Phu.

Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau. Theo thời gian, mưa gió sói mòn loại đá mềm, để lại hình dạng mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển. Người dân ta đa sầu đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.

Ðiều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung thủy của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khỏe, vẫn trước sau một lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.

Rung động trước dạ trung kiên của người thiếu phụ Việt Nam qua hình ảnh Hòn Vọng Phu, chúng ta không khỏi không cảm động trước Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Dù núi dời, dù đồi chuyển, dù con người có bội bạc phôi pha, Thiên Chúa vẫn luôn chung thủy trong Tình Yêu của Người. Càng thấm thía tình thương của Chúa, chúng ta càng cảm thấy Người là lẽ sống và là tất cả của cuộc sống.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 29 – Năm A – Thường Niên 

Bài đọc: Isa 45:1, 4-6; I Thes 1:1-5; Mt 22:15-21.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.

Theo lẽ công bằng chúng ta phải trả cho tha nhân những gì thuộc về họ. Khi chúng ta nộp thuế cho chính phủ là chúng ta trả cho chính phủ những gì họ đã phục vụ chúng ta: trật tự công cộng, giao thông, y tế … Vấn đề xảy ra là khi con người lỗi đức công bằng: hưởng thụ mà không chịu đóng góp hay nhận của đóng góp mà không chịu phục vụ. Trong Phúc Âm hôm nay, các Kinh-sư toa rập với Bè-phái Hêrôđê để giăng bẫy Chúa bằng câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Caecar?” Họ nghĩ Chúa sẽ không có đường thóat, nhưng câu trả lời của Chúa không những đã làm cho họ phải câm miệng, mà còn đòi họ phải tự vấn lương tâm để xem nếu từ bấy lâu nay họ đã lỗi đức công bình với cả Thiên Chúa và với tha nhân. Hai Bài đọc I và II mời gọi chúng ta suy nghĩ để nhận ra những gì thuộc về Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa làm mọi sự qua mọi người.

1.1/ Thiên Chúa chọn Vua Cyrus: Tuy Cyrus, Vua Ba-Tư, là Dân Ngọai và không biết Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa đã chọn và xức dầu cho ông. Chính Thiên Chúa đã nói với Vua Cyrus: “Ta đã gọi đích danh ngươi, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, dù ngươi không biết Ta, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.” Sự xử dụng chủ từ “Ta” nhiều lần nói lên tính chủ động của Thiên Chúa, con người chỉ giữ vai trò thụ động hay đáp trả. Ngài cũng cho Vua Cyrus chinh phục đế quốc Babylon và các dân tộc: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.”

1.2/ Thiên Chúa dùng Vua Cyrus cho một mục đích: là để giải phóng Israel khỏi lưu đày như Ngài đã nói rõ: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Israel.” Năm 587 BC, Thiên Chúa dùng Vua Babylon Nebuchanezza như chiếc roi để sửa phạt dân Do-Thái. Vua Babylon đã chinh phục vương quốc Judah, phá hủy Đền Thờ, và bắt tất cả vua quan cũng như dân sang lưu đày bên Babylon. Sau một thời gian thanh luyện ở chốn lưu đày, như Thiên Chúa hứa qua Tiên tri Isaiah, Ngài sẽ cho những người sống sót trở về và xây dựng lại giang sơn. Đó là lý do tại sao Ngài chọn Vua Batư Cyrus, ban cho Vua thắng được Đế-quốc Babylon, và thiết lập Đế-quốc Ba-Tư. Sau khi đã thắng trận, chính Nhà Vua đã ký sắc lệnh cho dân Do-Thái hồi hương và cho họ được xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, Nhà Vua còn trả lại những tài sản đã trưng dụng của Đền Thờ và cung cấp các vật liệu cần thiết để họ sớm hòan tất.

1.3/ Thiên Chúa dùng các vua như khí cụ để hòan thành những gì Ngài muốn: Lịch sử chứng minh mọi quyền bính đến từ Thiên Chúa như chính Thiên Chúa đã lặp đi lặp lại trong Bài đọc I: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta.” Chúa dùng Vua Babylon như cái roi để sửa phạt người Do-Thái; nhưng sau khi họ đã ăn năn trở lại, Chúa dùng Vua Ba-Tư đánh bại Vua Babylon như bẻ gẫy cái roi, để đưa dân Do-Thái hồi hương. Vua Babylon chẳng biết Thiên Chúa và cũng chẳng biết kế họach của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn phải thi hành kế họach Thiên Chúa, trong khi thi hành ông vẫn nghĩ là thắng vương quốc Judah bằng sức mạnh quân đội của mình. Vua Ba-Tư có thể nghĩ mình đã thi ân hay người Do-Thái có thể cám ơn Vua Ba-Tư, nhưng người họach định mọi sự là chính Thiên Chúa.

2/ Bài đọc II: Biết ơn và cám ơn đúng chỗ.

Con người thường rất bất bình khi thấy những cố gắng của mình bị tước đọat và trao cho người khác, nhưng rất nhiều lần con người đã tước đọat công ơn của Thiên Chúa: hoặc lấy làm của mình hoặc gán cho người khác. Thánh Phaolô dạy chúng ta một bài học quí giá: phải trả cho Thiên Chúa những gì thuộc Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho Hội Thánh Thessalônica.

2.1/ Không phải công ơn của người rao giảng: Tuy là người sáng lập ra cộng đòan Thessalônica, Thánh Phaolô không nghĩ đó là công ơn của mình khi nhìn thấy mọi sự tốt đẹp triển nở trong cộng đòan; nhưng ngài biết Thiên Chúa là tác giả của những kết quả này, và ngài cùng với các môn đệ, tạ ơn Thiên Chúa cho họ: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.”

2.2/ Cũng chẳng phải công ơn của những người tin: Giống như cách đối xử của Thiên Chúa với các Vua trong Bài đọc I, Ngài chuẩn bị mọi sự cho các tín hữu để họ có thể tin vào Đức Kitô, sống bác ái với tha nhân, và kiên nhẫn trông đợi Ngày Chúa Kitô giáng lâm. Khi làm tất cả những điều này, một người có thể nghĩ đó là công sức và cố gắng của họ, nhưng Thánh Phaolô đã chỉ cho họ thấy đó là công việc của Thiên Chúa:

(1) Thiên Chúa đã chọn con người vì thương mến: Bước đầu tiên và là bước quyết định là Thiên Chúa đã chọn con người chứ không phải con người đã chọn Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không chọn, con người sẽ bị hủy diệt trong tội lỗi của mình. Vì Thiên Chúa chọn, nên Ngài đã chuẩn bị một Kế Họach Cứu Độ cho con người qua biến cố Nhập Thể, cuộc Thương Khó, và Phục Sinh của Đức Kitô.

(2) Ngài tiếp tục gởi đến con người các sứ giả loan báo Tin Mừng: Bắt đầu từ các Tông Đồ và các môn đệ, họ được sai đi bởi chính Đức Kitô. Sau đó, các Tông Đồ và các môn đệ lại tiếp tục đào tạo những sứ giả và sai đi để loan báo Tin Mừng. Giáo Hội qua các thời đại vẫn tiếp tục đào tạo và sai đi những nhà rao giảng Tin Mừng. Chính Thánh Phaolô cũng từng đặt câu hỏi: Làm sao có đức tin nếu không có những người rao giảng Tin Mừng?

(3) Thiên Chúa ban Thánh Thần để soi lòng mở trí các tín hữu hiểu biết những lời rao giảng: Đây là yếu tố quyết định và Thánh Phaolô cắt nghĩa rất hay hôm nay: “Vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa.”

(4) Cuộc sống chứng nhân của các môn đệ Chúa: Không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng những người rao giảng Tin Mừng còn làm chứng cho Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của mình: “Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em.”

3/ Phúc Âm: “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

3.1/ Bẫy của các Kinh-sư: Bấy giờ các Kinh-sư đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Chúa Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến gặp với Đức Giêsu. Mục đích của họ là dùng người Hêrôđê để bắt Chúa Giêsu nếu trả lời: “không” và dùng các môn đệ như sức ép nếu Chúa trả lời “có.” Bắt đầu bằng lời khen chóp lưỡi đầu môi: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Caesar hay không?”

Họ nói vậy mà không phải vậy; nếu họ tin những lời họ nói, họ sẽ không bao giờ gài bẫy Ngài. Nhưng Đức Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người nói với họ: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế! Họ liền đưa cho Người một quan tiền.” Nếu Chúa trả lời “không,” những người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì dám xúi giục dân chống lại đế quốc Rôma. Nếu Chúa trả lời “có,” Ngài sẽ mất sự kính trọng của dân, vì đã vào hùa với đế quốc để bắt dân phải đóng thuế. Đối với các Kinh-sư, chỉ có Thiên Chúa là Chúa thật. Họ quan niệm không cần phải đóng thuế cho Caecar, và coi những người thu thuế như Dân Ngọai.

3.2/ Cách thóat bẫy của Chúa: Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Caesar.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Bằng câu trả lời này Chúa muốn dạy họ 2 điều:

(1) Họ là công dân của nước trần thế: Theo lẽ công bằng họ phải đóng thuế cho chính phủ để trả lại những gì chính phủ đã làm cho họ: an ninh, giao thông, y tế …

(2) Họ là công dân của Nước Thiên Chúa: Theo lẽ công bằng họ phải trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: thời giờ, tài năng, tình yêu …

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Mọi quyền bính đến từ Thiên Chúa dù người cầm quyền có biết hay không. Ngài có thể xử dụng nhà cầm quyền như chiếc roi để đánh phạt dân và có thể bẻ gẫy cây roi khi đã dùng xong. Mọi thần quyền hay thế quyền đều bị điều khiển bởi Thiên Chúa.

Niềm tin của chúng ta có được cũng là do Thiên Chúa: Ngài đã chọn chúng ta trước, Ngài ban Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết Lời Chúa và tin vào Chúa Kitô, và Ngài gởi các sứ giả đến rao giảng Tin Mừng cho chúng ta.

– Chúng ta là công dân của cả hai nước: Nước Trời và nước trần thế. Chúng ta phải suy xét cẩn thận để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: “Cái gì thuộc về Thiên Chúa?” Sau đó, phải mạnh dạn trả Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng là công dân của quốc gia trần thế; chúng ta có bổn phận phải đóng góp để xây dựng quốc gia. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************