Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần II Mùa Phục Sinh Năm C
LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 12-16
“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Đông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a
Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. – Đáp.
2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. – Đáp.
3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Đấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19
“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Đức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Đức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Đấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Đừng sợ, Ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, Ta là Đấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
24/04/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – C
Kính Lòng Chúa Thương Xót
Ga 20,19-31
LIÊN ĐỚI TRONG TÌNH THƯƠNG
“… để anh em tin mà được sống nhờ Danh Người.” (Ga 20,31)
Suy niệm: Chúng ta tin rằng cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su minh chứng rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và tội lỗi con người. Ngài không chỉ xóa sạch tội lỗi, đưa con người từ sự chết vào cõi sống, mà còn ban cho con người có khả năng yêu thương như Ngài. Con người ngày nay thường sống cho bản thân hơn cho tha nhân, do đó dễ có cái nhìn sai lạc về Thiên Chúa. Người ta thường rủa người tội lỗi là ‘kẻ trời đánh,’ quên rằng chúng ta cũng có liên đới trong tội lỗi của anh chị em, ‘tứ hải giai huynh đệ’ mà. Noi gương lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, chúng ta cần mang nhãn quan của Người, nghĩa là luôn sống liên đới với anh chị em mình trong tình thương, không xem ai là người bị loại trừ, bởi vì “Cha anh em trên trời vẫn cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành và người dữ” (Mt 5,45).
Mời Bạn: Bạn được mời gọi nhận ra và đặt niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, biết lấp đầy trái tim của mình bằng Tình yêu của Người, để khi đến với tha nhân, bạn cũng mang theo mình lòng thương xót ấy. Như thế, bạn đã liên kết được với Chúa và với anh chị em mình. Chúc bạn thành công.
Sống Lời Chúa: Khi nghe tin một tai nạn hoặc một tội ác, hãy tập thói quen nguyện thầm trong lòng cho những ai đang là nạn nhân và cả thủ phạm, được hưởng lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con sẽ là kẻ vô ơn nếu chỉ biết xin ơn lành từ Chúa mà không biết trao ban bao giờ. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa sống tình huynh đệ bằng lòng mến, để đời sống chúng con thành dấu chỉ của Lòng Chúa Thương Xót. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới,
để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người – cũng như con – đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG TƯ
Phó Thác Cho Quyền Lực Cứu Độ Của Đức Kitô
Ơn cứu chuộc bắt đầu với Thập Giá và được hoàn thành nơi cuộc Phục Sinh. Chiên Con đã cứu chuộc bầy chiên. Đức Kitô vô tì tích đã giao hòa các tội nhân với Chúa Cha.
Và, con người đã được giải thoát khỏi sự chết và được trao ban lại sự sống. Và, con người đã được giải phóng khỏi tội lỗi và được trao ban lại tình yêu. Hỡi tất cả những ai còn đang chìm trong bóng tối của sự chết, xin hãy lắng nghe: Đức Kitô đã sống lại! Hỡi tất cả những ai còn đang bị đè nặng dưới ách của tội lỗi, xin hãy lắng nghe: Đức Kitô đã vượt thắng tội lỗi nơi Thập Giá và nơi cuộc Phục Sinh của Người! Hãy phó thác sự sống của anh em cho Người!
Hỡi con người của thế giới hôm nay! Hãy qui phục Đức Kitô, qui phục quyền lực của Người! Càng khám phá ra những nẻo đường tội lỗi sau lưng mình, anh em càng ý thức hơn sự chết khủng khiếp như thế nào. Anh em hãy đặt mình trong quyền năng cứu độ của Đức Kitô!
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24/4
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA.
Cv 5, 12-16; Kh 1, 9-11a. 12-13. 17-19; Ga 20, 10-31.
LỜI SUY NIỆM: “Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22-23)
Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài khởi đầu cho một sự tạo dựng mới. Trong Sách Sáng Thế. Thiên Chúa tạo dựng con người bằng Đất, con người được có sự sống khi Thiên Chúa thổi hơi của Ngải vào tạo vật bằng Đất ấy. Hôm nay những thân xác của các Tông đồ cũng được chính Chúa Giêsu thổi hơi của Ngài vào, các Tông đồ đã nhận lấy sự sống mới, sự sống siêu nhiên với quyền uy của Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đã chịu chết để xóa tội trần gian, giờ đây Ngài thông ban quyền tha tội hay cầm giữ cho các môn đệ của Ngài; để nhân loại được sống.
Lạy Chúa Giêsu, ngày hôm nay mỗi người tín hữu trong chúng con đều đã nhận được sự sống mới qua Bí Tích Rửa Tội đặc biệt với Bí Tích Thêm Sức và Thánh Thể. Xin cho mỗi người trong chúng con có được sự sống mới trong Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-04: Thánh FIDÊLÊ Đệ SIGMARINGA
Tử Đạo – (1528 – 1622)
Thánh Fidelê, tên thật là Marê Rey, sinh ra năm 1528 ở Sigmaringa nước Đức. Sau những ngày trong tuổi thơ ấu trong trắng vô tội, Ngài được gởi đi học tại đại học tại Friburg, Thụy Sĩ. Để tự chủ, Marê thực hiện nhiều việc bỏ mình nghiêm ngặt. Khi đã hoàn tất cấp bậc tiến sĩ về triết học, Ngài đã tỏ ra rất mực khôn ngoan đến nỗi người ta gọi Ngài là triết gia Kitô giáo.
Năm 1604, công tước Stotzngen xin Ngài hứơng dẫn cho con mình và hai nhà quí phái khác trong một cuộc du hành khắp các vương quốc Âu Châu để học hiểu. Cuộc du hành kéo dài sáu năm. Marê đã khuyên nhủ họ nhiều điều không thể quên được. Ngài thúc giục họ phải biết thắng vượt chính mình: – Sống xa hoa nhẹ dạ, người ta bất xứng với vinh quang thực mà chỉ chinh phục được bằng nỗ lực và bằng việc chà đạp vui thú dưới chân.
Sau cuộc viễn du những nhà quí phái trẻ muốn Ngài đừng bỏ họ. Ngài đã theo học luật. Và sau khi nhận bằng tiến sĩ luật Ngài lập văn phòng luật sư ở Colmar. Ngài quyết thực thi đức ái đến nỗi Ngài được gọi là luật sư của dân nghèo. Nhưng nghề nghiệp đã cứu giúp Ngài khám phá ra được những bất lương của cuộc đời. Quyết định theo đuổi đời sống hoàn hảo, Ngài tới gõ cửa dòng Phanxicô. Năm 1612 Ngài được danh hiệu Fiđêlê.
Vị luật sư trở thành thầy dòng làm cho ma quỉ tức giận. Trước các cơn cám dỗ, thày Fiđêlê bối rối, nhưng thử thách tan biến khi Ngài đến giải bày nỗi lòng với một linh mục giàu kinh nghiệm, Người đã dạy Ngài cầu nguyện nhiều hơn,
Fiđêlê đã khẩn cầu tha thiết. – Lạy Chúa cứu chuộc con, xin trả lại niềm vui cần thiết và bình an tâm hồn. Xin hãy tẩy sạch mọi nghi ngờ để ý Chúa được thực hiện và để con thắng vượt quân thù, thắng con người và những đam mê của con.
Fiđêlê nỗ lực hy sinh hãm mình cho đến khi Thiên Chúa ban lại bình an cùng ánh sáng cho Ngài. Từ đó thánh nhân luôn trung thành quảng đại hiến mình cho Chúa. Ngài nói: – Thật bất hạnh nếu tôi là một chiến sĩ dưới quyền thủ lãnh đầu đội mão gai, mà lại chiến đấu một cách yếu hèn.
Khi được chọn làm bề trên tu viện ở Weltkirvhen, Ngài được ơn làm phép lạ để hoán cải người ta. Gặp thời dịch tể, Ngài hết mình phục vụ các bệnh nhân. Người ta thấy Ngài ở khắp nơi, trong nhà thương, ở tư gia, chạy trên đường phố, săn sóc thân xác linh hồn mọi người và thường chữa lành cho cả hồn lẫn xác.
Lạc giáo tàn phá miền Grisons. Đức giáo hoàng giao cho thánh Fiđêlê trách nhiệm đối phó với nhón người theo pháí Calvin. Thánh nhân giã từ tu viện, để lại bao nhiêu là xúc động, Ngài từ biệt dân Weltkirchen như đi chịu tử đạo.
Nhưng với các bạn đồng hành, Ngài khích lệ: – Nào chúng ta lên đường tới nơi mà Chúa kêu gọi và mùa gặt thúc bách.
Ngài giảng cho dân chúng, dạy người nghèo, thông truyền giáo lý cho trẻ em.
Để cứu một linh hồn, Ngài cũng sẵn sàng đi chân không vượt qua mọi sỏi đá tuyết sương. Những người Thệ phản bực tức vì sự anh dũng của thánh nhân nên họ quyết thủ tiêu Ngài. Thư từ Ngài viết còn ghi: – Thày Fiđêlê sẽ sớm làm mồi cho sâu bọ.
Một lần kia, sau bài giảng hùng hồn, thánh nhân xin bạn mình ngồi tòa giải tội vì Ngài phải đi Seewis không biết có điều gì sẽ xảy ra, nhiều người lo lắng cầu nguyện cho Ngài.
Một người đã hỏi : – Nếu các người theo lạc giáo tấn công thì Cha làm sao ?
Thánh Fiđêlê trả lời : – Tôi sẽ làm như các vị tử đạo. Tôi sẽ vui mừng đón nhận cái chết vì tình yêu Chúa và coi đó như một ân huệ lớn lao dành cho tôi.
Ngài thường nói : – Lạy Chúa, con phải chịu khó với Chúa nếu con muốn được hoàn toàn thuộc về Chúa.
Tại Seewis, Ngài rung chuông tập họp dân chúng lại. Một riếng súng nổ, nhưng không trúng Ngài. Trên đường về Grisch, Ngài bị một nhóm binh sĩ lạc giáo xông vào đánh đập, Ngài chỉ nói được trong hơi thở yếu ớt: – Tôi hiến mạng sống tôi để các bạn nhận biết đức tin của tổ tiên chúng ta.
Bị đập, Ngài vẫn gắng gượng để thốt lên : – Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con. Lạy Mẹ Maria, xin giúp đỡ con.
Và Ngài đã xin Thiên Chúa tha cho kẻ thù mình và gục ngã dưới lưỡi gươm ngày 24 tháng 04 năm 1622.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
24 Tháng Tư
Hạt Táo
Tại một xứ Hồi giáo nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của một người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: “Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, thành cây và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế”.
Nhà vua truyền lệnh cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn cách trồng táo. Ðúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: “Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy của người khác, người đó mớico thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm nên tôi không thể trồng được hạt giống này”.
Nhà vua tin người tử tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: “Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác… Thần cảm thấy mình không đủ điều kiện để trồng hạt táo này”. Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang cómặt, ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều đình là người nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện. nhưng cũng giống như vị tể tướng, quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc. không còn tìm được người nào có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nha vua định cầm hạt giống đến cho vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng có lần đánh cắp một báu vật của vua cha…
Lúc bấy giờ, người tử tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: “Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng không thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ…”. Nhà vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích cho người ăn trộm.
Lời cầu chúc “bình an” của Ðức Kitô Phục Sinh là một thứ hạt táo được gieo vào tâm hồn chúng ta. hạt giống bình an đó chỉ có thể nảy mầm thành cây và mang lại hoa trái là nếu mỗi người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Ðất đai thuận tiện để cho hạt giống của Bình An ấy được nảy mầm, chính là lòng sám hối thực sự. Sám hối nghĩa là biết chấp nhận chính bản thân và sãn sàng cảm thông, tha thứ cho người khác. Có nhận ra những yếu đuối bất toàn của mình, con người mới dễ dàng cảm thông và tha thứ cho người. Và có cư sử như thế, chúng ta mới thấy được hạt giống Bình An nảy mầm trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho người xung quanh…
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 2 – Năm C – Phục Sinh – Chúa Thương Xót
Bài đọc: Acts 5:12-16; Rev 1:9-11a, 12-13, 17-19; Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho ai không thấy mà tin.
Nhiều người nghĩ họ chỉ tin khi nào thấy tận mắt hay có thể hiểu được; nếu không, họ kết luận tin mà không thấy, không hiểu là mê tín, dị đoan. Họ quên đi họ cũng đã tin rất nhiều thứ không thấy và không hiểu được; chẳng hạn như: tin lịch sử, giòng điện, gió hay hơi thở. Khi tin những điều này, họ dựa vào thế giá của các nhân chứng hay hiệu quả của những gì họ không thấy được. Trong lãnh vực niềm tin cũng thế, con người tin không phải vì đã thấy Chúa; nhưng vì đã nhìn thấy hiệu quả của uy quyền và tình yêu của Ngài trong vũ trụ, qua đời sống của các chứng nhân, hay cảm nghiệm của chính cá nhân họ trong cuộc đời.
Các bài đọc hôm nay nêu bật những sự kiện con người phải dựa vào để tin Thiên Chúa và Đức Kitô. Trong bài đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến việc tuy không thấy việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ ngôi mộ hay nhìn thấy Ngài cách nhãn tiền; nhưng qua lời làm chứng của các tông đồ và những phép lạ các ông làm, rất nhiều người đã tin vào Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền ghi chép lại những gì ông đã thấy về những gì sắp xảy ra cho bảy giáo đoàn tại Tiểu Á. Mục đích là để các tín hữu của giáo đoàn xét mình, nhận ra những ưu và khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Trong Phúc Âm, tông đồ Thomas từ chối không tin vào lời chứng của 10 tông đồ và ông xác tín ông chỉ tin khi nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt. Chúa Giêsu hiện ra cho ông thấy tận mắt; nhưng khuyến cáo ông: chỉ tin khi thấy là điều tầm thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các tông đồ.
1.1/ Phêrô và các tông đồ làm cho nhiều người tin vào Đức Kitô: Bằng chứng rõ ràng nhất của sự Phục Sinh là sự thay đổi hầu như hoàn toàn nơi các tông đồ, từ những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, chạy trốn trong Cuộc Thương Khó; nay các ông thành những người can đảm, mạnh dạn, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Giêsu, đến nỗi Thượng Hội Đồng cũng phải sợ các ông. Chứng kiến sự thay đổi và nghe những lời làm chứng của các ông, “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông đàn bà rất đông.”
Chúa Giêsu đã thấy trước những hiệu quả này khi Ngài chọn, huấn luyện và sai các ông đi rao giảng và chữa lành ngay cả trước biến cố Phục Sinh (x/c Mt 10:7-9; Mk 3:13-15, 6:12-13, 16:17-18; Lk 9:1-2). Các môn đệ đã vâng lời ra đi và trở về tường thuật cho Ngài những kết quả họ thu nhận được. Sau biến cố Phục Sinh, họ ra đi với niềm tin được xác tín mạnh mẽ hơn, và hậu quả họ thu nhận được nhiều hơn.
1.2/ Phêrô và các tông đồ được Đức Kitô ban quyền chữa bệnh: Trừ quỉ và chữa lành là những gì Đức Kitô đã làm để khơi dậy niềm tin nơi khán giả, các tông đồ của Người cũng được trao quyền làm những phép lạ như vậy để khơi dậy niềm tin trong con người vào Đức Kitô.
Giống như Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật sự kiện mọi người chen lấn nhau để mong chạm được gấu áo của Chúa Giêsu, tác giả Sách CVTĐ cũng tường thuật: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.”
2/ Bài đọc II: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.
2.1/ Các giáo đoàn cần trung thành với đức tin và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
Tục ngữ Việt Nam có câu để mô tả sự yếu đuối của con người: “Chầu lâu gối mỏi.” Sau thời gian nhiệt thành của giây phút ban đầu, nồng độ của đức tin và đức mến của các tín hữu sẽ từ từ suy giảm với thời gian; nhất là khi con người phải đương đầu thường xuyên với các cám dỗ của ba thù. Tác giả của Sách Khải Huyền được lệnh của Thiên Chúa trong thị kiến đầu tiên viết những lời cảnh giác cho bảy giáo đòan tại Tiểu Á. Mục đích là để giúp họ biết xét mình, nhận ra những tội lỗi và sửa chữa kịp thời; nếu không, họ sẽ phải chịu những kết quả của tội đem lại khi Đức Kitô đến lần thứ hai.
Đọc chi tiết những gì ông Gioan viết bảy Hội Thánh tại Tiểu Á: Êphêsô, Myrna, Pergamô, Thyatira, Sardis, Philadelphia và Laodicea; chúng ta có thể nhận ra những cám dỗ của ba thù nơi chính chúng ta. Mọi người cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra mức độ tin yêu họ dành cho Đức Kitô.
2.2/ Các danh xưng trong trình thuật muốnnói lên uy quyền của Đức Kitô:
– Ta là Đầu và là Cuối: Đức Kitô là khởi nguyên và là chung cuộc; không có gì có thể thay đổi được Ngài hay thay đổi những gì Ngài dạy dỗ. Người tín hữu cần trung thành với đức tin và những giáo huấn của Đức Kitô; chứ đừng chạy theo những hệ thống tư tưởng và trào lưu nhất thời của thế gian, kẻo phải lãnh nhận những thiệt hại cho bản thân, gia đình, và cộng đoàn.
– Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời: Đức Kitô vẫn đang sống trong các tín hữu và trong Giáo Hội qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Các tín hữu cần lắng nghe và tuân theo những gì Ngài hướng dẫn và dạy bảo.
– Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ: Đức Kitô có quyền trên cả sự chết ở đời này và sự chết đời đời. Người tín hữu không được sợ hãi và lùi bước trước bất cứ quyền lực nào của thế gian hay của quỉ thần. Họ chỉ cần vững tin vào Ngài là sẽ thắng vượt được tất cả các quyền lực này.
3/ Phúc Âm: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ không có ông Thomas: Theo Tin Mừng Gioan, các tông đồ đã được chuẩn bị để đón nhận Tin Mừng Phục Sinh bởi lời của các phụ nữ ra thăm mộ, và nhất là lời chứng của Mary Magdala về sự hiện ra của Chúa Giêsu với bà; nhưng các ông vẫn còn hồ nghi về những lời chứng của các phụ nữ.
Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu thân hành hiện đến với các tông đồ để kiện toàn niềm tin của các ông. Có ba sự kiện của lần hiện ra này chúng ta cần để ý:
(1) Chúa Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đang đóng kín: Trình thuật nói rõ: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!””
(2) Ngài mang một thân xác thật, chứ không phải là hồn người chết hay ảo ảnh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Mười môn đệ đều chứng kiến biến cố này một lúc; nên không ai có thể chối cãi lời chứng của họ được.
(3) Chúa Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Trước khi chịu Thương Khó, Chúa Giêsu đã hứa sẽ không để các ông mồ côi, Người sẽ ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho các ông về Thánh Thần như sau: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” Jn (16:13-14). Với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong các tông đồ, các ông sẽ không còn chút nghi ngờ nào về sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ có cả ông Thomas: Vì tông đồ Thomas không có mặt trong lần hiện ra trước, nên các tông đồ nói với ông: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tác giả dùng động từ của câu này ở thời “hoàn hảo” để chứng minh niềm tin hoàn hảo của các tông đồ.
Nhưng ông Thomas từ chối không tin lời của 10 nhân chứng; ông đòi niềm tin đặt căn bản trên thực nghiệm: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
“Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Thomas: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
Chúa Giêsu vẫn đi qua các cửa đóng kín như lần trước. Ông Thomas chắc phải lạnh người vì không ngờ tất cả những gì mình nói giờ đây được lặp lại từng chữ trên môi miệng của Chúa Giêsu. Vì thế, ông Thomas sụp xuống thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Nhiều tác giả đã phân tích câu tuyên xưng này và nêu bật niềm tin của Thomas: ông không những tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, mà còn là Thiên Chúa của ông nữa.
3.3/ Niềm tin không dựa trên những gì trông thấy còn tốt hơn: Con người tin vì nhiều cách khác nhau như nhìn thấy tận mắt, hay cảm thấy hiệu quả, hay vì lời của một, hai, ba, hay nhiều nhân chứng. Chúa Giêsu xếp loại chỉ tin khi nhìn thấy tận mắt xuống dưới hàng tin khi không thấy qua lời Ngài tuyên bố với Thomas: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Con người cần tin vào lời của Kinh Thánh hay lời của các chứng nhân, như tác giả của Tin Mừng thứ bốn viết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức Kitô Phục Sinh là căn bản của niềm tin chúng ta; vì thế, chúng ta cần học hỏi và làm mọi các để hiểu rõ niềm tin này.
– Chúng ta cần giữ vững niềm tin Phục Sinh trong cuộc đời, nhất là những khi bị cám dỗ và chịu bách hại bởi ba thù.
– Thấy và tin là mức độ thấp nhất trong tiến trình đức tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng của Chúa Thánh Thần và tin vào lời các nhân chứng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************