Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần XXX Mùa Thường Niên Năm B
BÀI ĐỌC I: Gr 31, 7-9
“Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”.
Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Đáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. – Đáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.” Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. – Đáp.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. – Đáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 5, 1-6
“Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 10, 46-52
“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
24/10/2021 – CHÚA NHẬT TUẦN 30 TN – B
Chúa Nhật truyền giáo
Mc 10,46-52
SÁNG CẶP MẮT ĐỨC TIN
Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi.” (Mc 10,47)
Suy niệm: “Giê-su, Con vua Đa-vít.” Làm sao anh mù lại có thể nói chính xác danh xưng của Đức Giê-su vậy nhỉ? Chắc anh ta cũng chỉ nghe người ta đồn thổi vậy thôi. Thế nhưng, bao người đã đi theo và nghe Thầy Giê-su, được mấy ai tuyên xưng cho đúng danh xưng của Ngài đâu, ngay cả các Tông đồ. May ra chỉ có người phụ nữ có con bị quỷ ám (Mt 15,22) và hai người mù bên vệ đường (Mt 20,30). Điều đó chẳng làm chúng ta ngạc nhiên sao! Chắc chắn không phải vô tình mà những người này gọi Đức Giê-su với các tước hiệu ấy; qua đó tuyên xưng niềm tin vào Đấng Mê-si-a Thiên Chúa đã hứa. Tất nhiên họ cần được chữa lành, được sáng mắt, nhưng con mắt đức tin của họ đã sáng trước rồi. Chính Chúa khẳng định điều đó: “Đức tin của anh đã cứu chữa anh!” nhờ đó “anh thấy được và đi theo Người.”
Mời Bạn: Mắt đức tin ‘thấy’ Thiên Chúa vô hình trong mọi sự và ‘thấy’ mọi sự trong Thiên Chúa vô hình. Khả năng đó sẽ giúp bạn không chỉ thấy cái bên ngoài, mà còn có thể nhận thấy cái bên trong. Bạn được mời gọi để ‘mang cặp mắt’ của Chúa ấy trong một thế giới đầy dẫy những hình ảnh tốt-xấu lẫn lộn. Bạn sẽ làm gì để đáp lại?
Sống Lời Chúa: Kiểm tra cặp mắt đức tin: trong mọi việc, tôi có nhìn bằng cái nhìn của Thầy Giê-su không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấu rõ tận tâm can sâu thẳm của chúng con. Xin cho chúng con biết nuôi dưỡng đôi mắt đức tin bằng cách để cho Lời Chúa nên ánh sáng và sức sống của đời chúng con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẫng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại”.
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG MƯỜI
Xin Cho Chúng Nên Một
Chiều hôm trước khi vào cuộc Khổ Nạn, trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Ngài. Ngài nói: “ Lạy Cha, con không chỉ cầu xin cho những người này – tức các tông đồ- nhưng còn cho những ai nhờ họ mà tin vào con, để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).
Chúng ta cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện này với chính Chúa Kitô – vị Thượng tế của Giao Ước Mới. Chúa Kitô hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Ngài trao hiến chính Thịt và Máu của Ngài. Ngài trao hiến cuộc sống và cái chết của Ngài. Và với hy tế này, hy tế thánh thiện vô song, Ngài giao hòa thế giới với chính Ngài. Đức Kitô chết trên Thập Giá để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu được thốt ra từ chính trọng tâm của hy tế này. Cả lời cầu nguyện và cái chết hy tế của Ngài đều có cùng một mục đích là “Xin cho chúng nên MỘT”.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24/10
Chúa Nhật XXX Thường Niên
Gr 31, 7-9; Dt 5, 1-6; Mc 10, 46-52.
LỜI SUY NIỆM: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!” Nhiều người quát nạt anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!”
Lời kêu xin của anh mù tại Giêrikhô, cho chúng ta thấy anh đang ngồi bên vệ đường, nơi mà có rất nhiều người qua lại, gặp gỡ chuyện trò, hỏi thăm nhau và trao đổi mua bán, thế mà người mù này vẫn cô đơn mà còn bị hất hủi; khi anh ta kêu xin Chúa Giêsu: “Lạy ông Giêsu, xin rủ lòng thương tôi.”, nhưng đám đông không muốn tiếng kêu xin của anh đến tai Chúa Giêsu, nên: “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi.”
Lạy Chúa Giêsu, người mù ở Giêrikhô đã được Chúa chữa lành, để anh được thấy. Xin cho tâm trí chúng con đừng mù trước những người nghèo khó, đau khổ, bệnh tật, để biết tỏ tình thương bằng việc hy sinh, thực hiện đức bác ái, hầu có thể giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-10: Thánh ANTÔN MARIA CLARET
Giám mục – Tổ phụ dòng Trái tim vẹn sạch mẹ Maria (1807 – 1870)
“Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”
Đó là châm ngôn và chương trình đời sống thánh ANTÔN MARIA CLARET. Ngài sinh năm 1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Là con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Ban chiều, Ngài dự lớp học Pháp văn, nghiên cứu La văn và luyện nghề ấn loát, không có gì Ngài xao lãng cả. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng Ngài, kèm theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất: cuối cùng Ngài đã bước qua cổng chủng viện ở Vich năm 1829.
Trước tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức cha Corcue ra đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ Ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, Ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng việc tông đồ của Ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Roma, muốn gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc Ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha. Bản chất nóng nảy của Ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện thánh của Ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuông của Ngài là: đường thẳng và chắc để về trời” và ngày càng thêm nhiều người dấn thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi Ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp… Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, Ngài từ chối tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra.
Antôn rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng của Ngài. Mạng sống bị đe dọa, Ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng giám mục Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, Ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari và đặt nền móng tu hội thừa sai Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ, Ngài nỗ lực dưới mọi hình thức để cứu vớt các linh hồn. Đây là lúc Ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình.
Vị tổng giám mục truyền giáo cập bến, Ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, Ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, Ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của Ngài: 11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo Ngài đã xúi giục các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần Ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ.
Theo lời thỉnh cầu của hoàng hậu Isabelle II, đức giáo hoàng đã cử thánh Antôn Maria làm tuyên úy cho bà. Ngài nhận lời sau nhiều do dự, với điều kiện là sẽ đứng ra ngoài mọi chuyện chính trị và không sống trong hoàng cung. Từ Maddrid, Ngài tiếp tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của Ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính Ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Pan, rồi Paris là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, Ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của tòa thánh. Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi Ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của Ngài ở Prades, rồi ở L’Audes, nơi các thày dòng Xitô ở Phontfroide là nơi không hề phàn nàn kêu trách năm 1870.
Antôn Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của Ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, Ngài đã sáng nghĩ ra “các nữ tu tại gia” là học giả uyên bác, Ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ công giáo vào “hàn lâm viện thánh Micae”.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
24 Tháng Mười
Ngày Liên Hiệp Quốc
Vào năm 1945, ba quốc gia gây chiến Ðức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan tác tả tơi của những nước bại trận. Ða số những thành phố lớn tại Ðức, cũng như hai thành phố Hiroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết.
Hình ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm “39-45” có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Ðại Hồng Thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 ngày đêm đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: “Mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú… tất cả các vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến xúc vật, côn trùng và chim trời…”.
Từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩa đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Vì như một chính trị gia đã phát biểu: “Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến tranh sẽ hủy diệt con người”.
Nhưng từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con người vẫn được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút nhữntg khí giới giết người. Vì thế súng vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôn rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con người.
Ngày 24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình.
Nhưng thiết nghĩ, hòa bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tuông, nghi kỵ, nếu những tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 30 – Năm B – Thường Niên
Bài đọc: Jer 31:7-9; Heb 5:1-6; Mk 10:46-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thương và chữa lành những yếu đuối của con người.
Thiên Chúa yêu thương con người và mong muốn con người được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi; nhưng nhiều người lại mù quáng chạy theo những tình yêu ảo ảnh của thế gian. Để đưa con người về, Thiên Chúa phải dùng đau khổ. Khi con người phải đương đầu với đau khổ, họ nhận ra họ không thể sống mà không có Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay biểu lộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người qua những trường hợp khác nhau. Trong Bài Đọc I, khi con cái Israel không chịu nghe lời các ngôn sứ để quay trở về với Thiên Chúa, Ngài để mặc họ cho ngoại bang giày xéo. Kết quả là con cái Israel bị mất nước và bị mang đi lưu đày. Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bao giờ cạn cho con cái Israel, Ngài sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo dân hãy giữ vững niềm trông cậy, vì Ngài sẽ giải thoát và đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc II, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người; vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Jericho, khi anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại để xin Ngài cho anh được thấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất.
1.1/ Thiên Chúa thương xót sau khi sửa phạt Israel: Như một người cha yêu thương con cái, nhưng phải sửa phạt khi chúng lầm lỗi, Thiên Chúa cũng phải sửa phạt vì sự cứng lòng của con cái Israel. Thiên Chúa để họ bị rơi vào tay vua Assyria và bị lưu đày vào khoảng năm 721 BC. Tuy nhiên, Ngài luôn hứa với dân qua các tiên-tri là Ngài sẽ cứu số còn sót lại của Israel sau thời kỳ lưu đày. Lời hứa của Thiên Chúa được hiện thực khi vua Ba-tư là Cyrus phóng thích cho dân chúng trở về Jerusalem vào năm 538 BC, để xây dựng lại quê hương và tái thiết Đền Thờ.
Trình thuật của ngôn sứ Jeremiah hôm nay là một ví dụ điển hình cho lời hứa của Thiên Chúa với dân: “Vì Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Jacob, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel!” Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo.”
1.2/ Thiên Chúa luôn yêu thương Israel với tình yêu của người cha: Con cái Israel có thể dùng tự do để xa lìa Thiên Chúa; nhưng Ngài luôn trung thành yêu thương và bảo vệ họ. Để giúp con cái Israel nhận ra tình thương Thiên Chúa và quay trở về, đau khổ là phương thuốc cần thiết cho họ. Chính tư tế Ezra sau khi đã nhận ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua vua dân ngoại Cyrus đã phải đau đớn và xấu hổ thốt lên: tất cả chúng con đều đã xúc phạn đến Ngài, tổ tiên của chúng con cũng như tất cả những người đương thời; và đau khổ chúng con phải chịu là xứng đáng với tội lỗi của chúng con.
Một khi con người nhận ra và quay trở về với tình yêu đích thực, Thiên Chúa lại tiếp tục săn sóc và bảo vệ họ, như lời sấm của tiên-tri Jeremiah: “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ephraim chính là con trưởng.”
2/ Bài đọc II: Thượng tế được đặt lên để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
2.1/ Vị thượng tế loài người: Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến ba đặc tính của thượng tế trong Cựu Ước, để dẫn đến Vị Thượng Tế cao cả nhất của Tân Ước.
(1) Thượng tế được chọn trong số người phàm: ”Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.” Vai trò của vị thượng tế là để đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa; chẳng hạn, vị thượng tế vào trong cung Cực Thánh mỗi năm một lần vào ngày “Xá Tội” để dâng hy lễ toàn thiêu đền tội cho mình và cho mọi người.
(2) Thượng tế cũng là con người yếu đuối: Thượng tế không phải là thiên thần hay là thánh, họ cũng mang trong mình những khuyết điểm như dân chúng. Khi dâng của lễ đền tội, họ cũng phải dâng của lễ đền tội cho mình trước khi dâng của lễ đền tội cho dân. Vị thượng tế phải biết cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người của họ cũng đầy yếu đuối. Họ không được kiêu hãnh vì chức vụ của mình để khinh thị hay nóng nảy với dân chúng.
(3) Thượng tế được chọn bởi chính Thiên Chúa: Tác giả Thư Do-thái rất rõ ràng về điều này: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
2.2/ Chức vụ Thượng tế của Đức Kitô: Tác giả Thư Do-thái cũng dùng 3 đặc tính này để áp dụng vào chức vụ tư tế của Đức Kitô.
(1) Ngài được chọn và thánh hiến bởi Thiên Chúa: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek.” Để hiểu “Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek,” chúng ta phải trở về với trình thuật trong Sách Sáng Thế Ký, khi tư tế Melchizedek ra đón và chúc lành cho Abram khi ông thắng trận trở về (Gen 14:18-20), và Abram đã trao lại cho tư tế này một phần mười các chiến lợi phẩm.
(2) Đức Kitô đồng cảm với con người vì Ngài cũng đã trải qua những đau khổ như con người; nên Ngài có thể giúp họ vượt qua các đau khổ trong cuộc sống. Tác giả Thư Do-thái nói rõ về Đức Kitô: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.
Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Heb 2:17-18).
(3) Đức Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Ngài hòa giải con người với Thiên Chúa bằng cách thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi.
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ trên trần gian, Đức Kitô đã thiết lập thiên chức linh mục để họ tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian. Một người đã quảng diễn vai trò trung gian của linh mục như sau: Linh mục là người cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa trong tuần, để rồi chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ làm trong những thánh lễ cuối tuần; vì dân chúng quá bận rộn để mưu kế sinh nhai. Sự hiện diện của linh mục giúp con người nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người.
3/ Phúc Âm: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”
3.1/ Niềm tin vững mạnh của anh mù: Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Jericho. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Jericho, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Bartimê, con ông Timê.
(1) Anh mù chứ không điếc: Anh đã được nghe người ta nói về Đức Giêsu Nazareth. Anh tin vào Ngài. Anh không chút e ngại và biết nắm lấy cơ hội để cầu xin với Ngài: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
(2) Anh vượt qua sự ngăn cấm của con người: Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” Họ quát nạt anh có thể vì anh làm chia trí họ không nghe được những lời dạy dỗ của Đức Kitô, hay khinh thường anh vì anh chỉ là người ăn xin bên đường.
Khát vọng mãnh liệt của anh mù được đối diện với Thiên Chúa đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta có một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không? Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc đời để được đối diện với Ngài?
3.2/ Cuộc đối thoại giữa Chúa và anh mù: Thấy niềm tin vững mạnh của anh, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”
(1) Phản ứng của anh mù rất rõ ràng và quyết liệt qua sự diễn tả của Marcô: Khi được biết Chúa Giêsu cho gọi anh, “anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.” Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp không chút do dự: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”
(2) Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đau khổ xảy ra khi con người lìa xa Thiên Chúa để chạy theo những ảo ảnh của thế gian; để sống hạnh phúc, chúng ta cần phải quay trở về với Thiên Chúa, Người Cha yêu thương chúng ta thực sự.
– Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Thiên Chúa chọn các thượng tế giữa con người để họ làm trung gian hòa giải, cầu nguyện, và ban ơn lành của Thiên Chúa cho con người.
– Vị Thượng Tế khôn ngoan, trung thành, và yêu thương chúng ta nhất là Đức Kitô. Chúng ta hãy mạnh dạn chạy đến với Ngài để được tha tội, chữa lành, và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************