Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần III Mùa Thường Niên Năm A
BÀI ĐỌC I: Is 9, 1-4 (Hr 8, 23b – 9, 3)
“Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Lúc đầu, đất Giabulon và Nephthali rất hèn hạ, trong tương lai dần dần trở thành đường biển, bên kia sông Giođan trở thành Galilêa các dân tộc. Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng sự chết. Người đã gia tăng dân số, đã ban một nguồn vui lớn; thiên hạ hân hoan trước mặt Người, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân chia chiến lợi phẩm. Vì ách đã đè trên họ, đòn ngang nằm trên vai họ, và gậy của kẻ lạm thu họ, Người đã bẻ gẫy tất cả như trong ngày Mađian. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4. 13-14
Đáp: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ; tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? – Đáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. – Đáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 1, 10-13. 17
“Tất cả anh em hãy đồng tâm hợp ý với nhau, và giữa anh em, đừng có chia rẽ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần khí và cùng một tâm tình. Anh em thân mến, tôi đã được các người nhà Khloê cho hay rằng: giữa anh em đang có những sự bất đồng. Tôi có ý nói điều này, là mỗi người trong anh em nói: “Tôi, tôi thuộc về Phaolô; – “Tôi về phe Apollô”; – “Còn tôi, tôi về phe Kêpha”; – “Và tôi thuộc về phe Chúa Kitô”. Chúa Kitô bị phân chia rồi sao? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vì anh em đâu? Hay là nhân danh Phaolô mà anh em chịu phép rửa? Đức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Đức Kitô ra hư không. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 4, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 4, 12-23 (bài dài)
“Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”.
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!”
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta”. Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Đi xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 4, 12-17
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Ca-pharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: “Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết”. Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
26/01/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 3 TN – A
Mùng Hai Tết, kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ
Mt 4,12-23
CÁM DỖ NGÀY THƯỜNG
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4,17)
Suy niệm: Trong những ngày giỗ, tết chúng ta thường kính nhớ tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính biết ơn đối với bậc sinh thành, và trên hết, tôn thờ cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự, là Đấng chúng ta phải tạ ơn và tôn vinh suốt đời, không chỉ trong những biến cố lớn lao, mà cả trong những đau khổ thường ngày. Quả thật, cuộc đời chúng ta không chỉ là những ngày tết, hay những biến cố quan trọng, mà phần lớn là những ngày bình thường như mọi ngày. Cám dỗ lớn nhất của chúng ta là để cho những ngày đó trở thành tầm thường, tẻ nhạt. Chúng ta được mời gọi hoán cải liên lỉ để luôn làm mới các tương quan thường ngày với Chúa, với tha nhân, cách riêng với những người thân cận của mình trong gia đình.
Mời Bạn: ĐTC Phan-xi-cô nói: “Hoán cải hằng ngày là cố gắng liên tục để thanh tẩy trái tim”. “… nếu bạn không thể nói xấu người khác, thì bạn đã đi đúng con đường nên thánh… khi muốn chỉ trích một người láng giềng, hãy cắn lưỡi nhẹ một chút. Lưỡi bạn sẽ hơi sưng nhưng linh hồn bạn sẽ lành thánh hơn trên con đường này… Không có gì to tát, không có việc hành xác, thật là giản dị. Xin đừng lui bước…”. Bạn có sẵn sàng cho việc hoán cải chính mình trong từng việc nhỏ mỗi ngày như vậy không?
Sống Lời Chúa: Quan tâm chăm sóc người thân của mình với ý thức “Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV.17).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn và biết đón nhận những hy sinh trong những vất vả hằng ngày; để tâm hồn con được thanh tẩy, để biết yêu mến Chúa và ngày càng trở nên giống Chúa hơn. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG GIÊNG
Nạn Thất nghiệp – Một Tai Ương Xã Hội
Con người luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây trước tình hình này?
Cần phải nhận ra rằng tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động) là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’ của mình.
Chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.
Trong công cuộc tìm kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26/1
Chúa Nhật III Thường Niên
(Mồng Hai Tết, Kính Nhớ Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ)
Is 8,23b-9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4, 12-23.
Lời Suy Niệm: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những người lưới người như lưới cá”. Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.”
Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nhưng Ngài vẫn muốn dùng những con người nhỏ bé, để biểu lộ quyền năng cứu độ của Ngài. Với Chúa Giêsu cũng vậy, Người cần những con người thiện chí, đáp lại tiếng Người mời goi, để ở với Người, học hỏi nơi Người, cọng tác với Người để đem Tin Mừng đến với toàn thể nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn ý thức: Không chỉ có các tu sĩ, giáo sĩ mới là những người được Chúa chọn gọi làm Tông Đồ; nhưng tất cả đều được chọn gọi, và đặt vào một nơi chốn để trở nên nhân chứng tình yêu cứu độ của Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-01: Thánh TIMÔTÊÔ Và TITÔ GIÁM MỤC
Thánh TIMÔTÊÔ (thế kỷ I)
Là con của người cha Hilạp và người mẹ Do thái, thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi thánh Phaolô giảng đạo tại Lystra miền tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến thánh Phaolô bị mém đá đến gần chết (Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai vào năm 50 thánh Phaolô đã chọn Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô (Cv 13,13.15,38) và cùng với Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (Cv 16,1).
Như thế, Timotêô đã chứng kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó Ngài thường được sách Công vụ các sứ đồ và các thánh thư nhắc đến như một trong các “tông đồ” hay thừa phái thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn Kitô hữu đã được thiết lập. Khoảng năm 51 Ngài cũng ký tên với thánh Phaolô trong các thư gửi tín hữu Thessalonica và chính Ngài đã từ Côrintô mang thư đến cho cộng đoàn mới trở lại đạo.
Năm 57 Ngài trở lại để mang thư thứ hai gửi các tín hữu Côrintô và năm sau, Ngài lại cùng với thánh Phaolô gửi thư chào Giáo hội Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma, Timoteo vẫn còn ở bên cạnh Ngài, ký tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62 cho dân Philêmon, dân Côlosê và Philippe (Ph 2,20)
Năm 65 hình như Phaolô được thả và có dịp thi hành dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới tây phương. Vắng mặt ở miền Đông. Thánh Phaolô vãn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu không lên kết với một cộng đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước hẹn với Á Châu và đặt địa điểm ở Ephesô. Ở đây Ngài nhận được hai lá thư của Phaolô, một lá thư từ Macêdonia khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng hai nămsau gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị giam lần thứ hai.
Chính nhờ những lá thư này mà chúng ta biết được nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm mà các Giáo hội ở Á châu phải đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính khí mà con người Phaolô đã để lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính nhút nhát, e dè, nhưng Ngài cũng đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được nhắc nhở phải quan tâm tới sức khỏe của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm 3,12) và những lời khuyên thánh Phaolô lặp lại không được gợi lên, bởi rằng Timotêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày cùng của mình đã gần, và rồi những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy gánh nặng một mình. Cuối cùng Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình là Timotêô hãy giữ “đạo lý”, đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng, mến yêu, kiên nhẫn” (Tm 3,10) như Ngài đã học được. Phaolô gọi Timotêô đến an ủi mình trong những giờ phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng Timotêô là con rất thân yêu của thánh Phaolô.
Tân ước còn có một ghi chú nữa về Timotêô trong thư Philip.13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô được thả ra khỏi cảnh tù tội lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timotêô tháp tùng về Giêrusalem.
Một truyền thống cho rằng thánh Timotêô đã ở lại Ephêsô cho tới hết đời. Sách “Công vụ thánh Timotêô” thế kỷ IV mô tả cái chết của Ngài như là bị ném đá và bị đánh đập cho đến chết, nhưng tài liệu quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng nguồn hay không.
Constantinople cho rằng: mình giữ được các di tích của thánh nhân và lễ kinh nhớ Ngài được cử hành này 26 tháng giêng, tiếp liền ngày kính nhớ thầy mình.
**********
Thánh TITÔ (thế kỷ I)
Sinh ra là lương dân, thánh Titô đã được thánh Phaolô cải hóa và được gọi là “người con chân thành của tôi trong sự thông hiệp với đức tin”. Titô nhận được những sứ mệnh khó khăn. Ngài được thánh tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn và thu tiền quyên cúng ủng hộ Giáo hội ở Gierusalem.
Thánh Phaolô trong một bức thư đã bộc lộ lòng yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: “Tâm trí tôi không thảnh thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để sửa chữa những bất hoà và thánh Titô đã mang lại cho Ngài những tin tức tốt đẹp hơn.
Thánh Titô lãnh trách nhiệm tổ chức giáo đoàn ở đảo Crêta. Ơ đó Ngài nhận thư mang danh mình, thánh tông đồ truyền: “Hãy nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến và kiên nhẫn… hạng thiếu niên cũng vậy, hãy truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang trong giáo huấn (Tt 2,2-10).
Thánh Titô qua đời khoảng năm 105.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
26 Tháng Giêng
Quốc Khánh Của Australia
Hôm nay 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australiacó thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtêmang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Oân lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 3 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Isa 8:23-9:3; 1 Cor 1:1, 10-13, 17; Mt 4:12-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi cuộc đời.
Có một sự khác biệt to lớn giữa người biết và người không biết, người bước đi trong ánh sáng và người ngồi trong bóng tối. Người sống trong ánh sáng biết mình đi đâu, họ luôn vững tin, sống an vui và lạc quan hy vọng trong mọi trạng huống của cuộc đời. Người ngồi trong bóng tối không biết mình sống để làm gì, lúc nào họ cũng sợ hãi, lo âu, bi quan và chán nản cuộc đời.
Điều khác biệt không đơn giản chỉ liên quan tới ánh sáng và bóng tối, nhưng nó còn quyết liệt hơn, vì nó liên quan tới sự sống và sự chết đời đời. Để được giải thoát khỏi bóng tối, con người cần tiếp nhận ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi, họ cần tin tưởng vào Đức Kitô và thực hành những gì Ngài truyền dạy.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong chủ đề Thiên Chúa đã làm mọi cách để đưa con người ra khỏi bóng tối tội lỗi bằng cách cho con người nguồn sáng đích thực là Đức Kitô. Ngài cũng chọn và huấn luyện con người để họ cũng được cộng tác với Ngài trong sứ vụ mang Đức Kitô đến cho mọi người.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah đã nhìn thấy và loan báo trước ngày mà mọi người ở mọi nơi đều được ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi tới, điển hình là hai vùng đất của Dân Ngoại, Zebulun và Naphthali. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Corintô biết không phải khi họ đã trở thành tín hữu là họ hết tối tăm và luôn sống trong ánh sáng. Nếu các tín hữu vẫn còn luyến tiếc các lợi nhuận cá nhân để rồi sống theo óc bè đảng của thế gian, họ không sống theo ánh sáng của Thiên Chúa soi dẫn và họ đang tự hủy cuộc sống của chính họ và của cộng đoàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn vùng tả ngạn của Hồ Galilee, tức là vùng đất Zebulun và Naphthali mà ngôn sứ Isaiah đã loan báo trong bài đọc I, để làm nơi bắt đầu sứ vụ rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu cũng gọi 4 môn đệ đầu tiên và họ đã mau chóng đáp trả bằng cách bỏ mọi sự đi theo Chúa, để được Ngài huấn luyện và cho tham dự vào sứ vụ mang ánh sáng đến cho mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự khác biệt giữa ánh sáng và bóng tối
Zebulun và Naphthali là hai chi tộc của Do-thái nằm về phía tả ngạn của sông Jordan, và là biên giới giữa Syria và Do-thái. Chi tộc Dan không chịu nổi áp suất của vùng biên giới, nên sau này đã di chuyển về biên giới giữa hai miền Bắc và Nam của Do-thái. Nằm ở vùng biên giới luôn bị đe dọa bởi thảm họa chiến tranh và chết chóc. Vào thời của ngôn sứ Isaiah, vương quốc miền Bắc, dĩ nhiên bao gồm hai chi tộc Zebulun và Naphthali, rơi vào tay đế quốc Assyria, mau chóng tiếp nhận mọi bóng tối tội lỗi của họ, và trở thành miền đất của Dân Ngoại. Ngôn sứ Isaiah được Thiên Chúa cho nhìn thấy ngày mà hai chi tộc này sẽ được nhìn thấy ánh sáng của Đấng Thiên Sai chiếu soi. Trình thuật hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự tương phản về hiệu quả của ánh sáng và bóng tối.
1.1/ Ánh sáng giải thoát con người: Khi ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi vào vùng đất tối tăm này, con người sẽ nhìn thấy tất cả bóng tối đang bao phủ quanh họ: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Hiệu quả rõ rệt nhất của ánh sáng là niềm vui. Ánh sáng mang lại niềm vui cho tất cả những người được chiếu soi. Ngôn sứ Isaiah dùng hai hình ảnh mà không ai trong vùng đất này xa lạ với là mùa gặt và ngày thắng trận. “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.”
1.2/ Bóng tối giam giữ con người như những nô lệ: Dân chúng sống trong hai vùng của Dân Ngoại này chắc chắn phải chịu nhiều thiệt thòi. Về phương diện tôn giáo, họ sống rất xa Đền Thờ, nên dễ bị ảnh hưởng của các tôn giáo của người Assyria. Về phương diện chính trị, họ bị điều khiển bởi các đế quốc, bị bắt làm nô lệ, và luôn bị đe dọa bởi chiến tranh. Những trận chiến khốc liệt nhất của lịch sử Do-thái đều nằm trong vùng này.
Ngôn sứ Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ giải thoát dân chúng khỏi các thế lực chính trị: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
2/ Bài đọc II: Biết Đức Kitô là phải sống theo những gì Ngài dạy.
Corintô là một hải cảng phồn thịnh của người Hy-lạp. Đời sống của dân chúng tuy dễ chịu về phương diện kinh tế, nhưng bị đe dọa bởi nhiều thứ tội của các nơi mang tới. Dân chúng Corintô dễ mở lòng để đón tiếp những cái hay của tứ phương thiên hạ, nhưng ít khi chịu gạn lọc ra khỏi họ những thói xấu. Thánh Phaolô tuy thành công về phương diện mang ánh sáng của Đức Kitô tới cho họ, nhưng ngài gặp nhiều khó khăn trong việc điều khiển cộng đoàn. Chúng ta chỉ cần đọc hai thư Corintô là biết rõ các vấn đề ngài phải đương đầu với.
Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Corintô: Không phải cứ trở thành tín hữu là mọi sự đều tốt đẹp; nhưng người tín hữu phải đoạn tuyệt với tội lỗi, và làm mọi cách để thực thi những lời Đức Kitô dạy bảo. Trong trình thuật hôm nay, điều thánh Phaolô muốn nhấn mạnh là đời sống yêu thương và hiệp nhất trong cộng đoàn.
2.1/ Hiệp nhất là sống theo những lời dạy bảo của Đức Kitô: Sau phần chào hỏi đầu thư, Ngài đi thẳng vào vấn đề của dân thành: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau.”
Theo thánh Phaolô, căn bản của đời sống Kitô hữu là đức bác ái, và người tín hữu phải làm mọi cách để phát triển nhân đức này (1 Cor 13). Không thể có hiệp nhất nếu không có yêu thương. Chúa Giêsu cũng đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau.”
2.2/ Chia rẽ bè phái là vẫn còn ở trong bóng tối và làm nô lệ cho tội lỗi: Thánh Phaolô cho biết nguyên do của sự chia rẽ trong cộng đoàn: “Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Chloe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: “Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apollo, tôi thuộc về ông Kepha, tôi thuộc về Đức Kitô.” Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?”
Điều thánh Phaolô muốn nhấn mạnh là các tín hữu hãy chú ý đến tình yêu của Đức Kitô biểu lộ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá, chứ đừng tìm uy quyền, danh vọng, hay lợi lộc cá nhân để rồi chia năm xẻ bảy thân thể của Đức Kitô.
Lợi lộc cá nhân thường là lý do chính nhưng ẩn sâu trong bóng tối, thúc đẩy con người kéo bè phái và chống lại chân lý, chống lại những người lãnh đạo muốn cho họ bắt chước Đức Kitô. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải sửa sai kịp thời; nếu không, họ sẽ tự phân tán, và dần dần, họ sẽ từ bỏ luôn Đức Kitô, là nguyên do hạnh phúc cho cuộc đời của họ.
3/ Phúc Âm: Phải có thái độ dứt khoát đi theo nguồn sáng là Đức Kitô khi Ngài đến.
3.1/ Đức Kitô làm trọn lời ngôn sứ Isaiah: “Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilee. Rồi Người bỏ Nazareth, đến ở Capernaum, một thành ven biển hồ Galilee, thuộc địa hạt Zebulun và Naphthali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaiah nói: Này đất Zebulun, và đất Naphthali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
Có thể nói toàn bộ cuộc đời thơ ấu, các phép lạ và sứ vụ rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu tập trung trong hai vùng đất này: Nazareth, Cana, Capernaum… Hầu hết các tông đồ của Chúa Giêsu đều là người địa phương của hai vùng này, Bethsaida là quê hương của 4 môn đệ đầu tiên, rất gần với Capernaum.
3.2/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài:
(1) Ngài mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài… Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;” các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.
(2) Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Nếu không có ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi, chúng ta sẽ không thể nhận ra những tối tăm đang bao phủ cuộc đời chúng ta.
– Chúng ta không chỉ cần nhìn thấy ánh sáng thôi, mà còn phải sống theo ánh sáng chỉ dẫn. Hãy mở tung con người để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi mọi tăm tối trong con người.
– Chúng ta đừng sợ sẽ bị mất những gì đang có; nhưng hãy mạnh dạn và dứt khoát theo Đức Kitô để Ngài đổi mới và dẫn đưa chúng ta đến những chân trời hy vọng mà chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ tới.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************