Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
BÀI ĐỌC I: Đnl 4, 32-34. 39-40
“Chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác”.
Trích sách Đệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 4-5. 6 và 9. 18-19. 20 và 22
Đáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Ngài làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
2) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Ngài. Vì chính Ngài phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Ngài ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
4) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 14-17
“Anh em đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha!”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: “Abba – lạy Cha!” Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự, nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Đức Kitô: vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Kh 1, 8
Alleluia, alleluia! – Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần; sáng danh Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 28, 16-20
“Làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
26/05/2024 – CHÚA NHẬT TUẦN 8 TN – B
Chúa Ba Ngôi
Mt 28,16-20
SỰ SỐNG NƠI THIÊN CHÚA
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.” (Mt 28,19)
Suy niệm: Không ai biết Thiên Chúa là Đấng như thế nào, nếu không có Đức Giê-su mạc khải cho. Rất nhiều lần trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su nói về Chúa Cha và Thánh Thần. Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả, vượt trí khôn loài người, nhưng nhờ Ngài mà chúng ta hiểu được, dẫu còn mơ hồ, về đời sống của Thiên Chúa. Đặc tính ‘một mà là ba, ba mà là một’ cho thấy tình yêu là mối dây liên kết Ba Ngôi với nhau. Tình yêu đó Thiên Chúa không giữ cho riêng mình, nhưng đã cho nhân loại được thông phần khi dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Hơn nữa, chính Ngôi Hai cũng đã nhập thể làm một con người, đã yêu hết tình và yêu hết mình. Thầy Giê-su muốn chúng ta nên giống Người “cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của thầy, là anh em hãy yêu mến nhau” (Ga 13,35).
Mời Bạn: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R. Tagore). Ta chỉ có thể hiểu được sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi qua hai chữ tình yêu. Vũ trụ và con người được sáng tạo do tình yêu chia sẻ, được nâng đỡ do tình yêu quan phòng, được mời gọi đi vào tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Mời Bạn sống tình yêu ấy.
Sống Lời Chúa: Khi làm dấu thánh giá, tôi ghi nhớ tình yêu Ba Ngôi tràn ngập tâm hồn mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ba Ngôi, con thật bất xứng khi lãnh nhận hồng ân cao cả là tình yêu Chúa. Con xin hết lòng cảm tạ. Xin giúp con luôn sống tâm tình người con hiếu thảo của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Khi hiện ra với Nhóm Mười Một môn đệ trên núi,
Chúa Giêsu phục sinh đã long trọng tuyên bố:
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).
Ngài dùng thể thụ động ở đây để ám chỉ đến Thiên Chúa Cha.
Ngài đã được Cha cho trỗi dậy từ cõi chết (Mt 28,7),
bây giờ Ngài lại được Cha trao quyền năng trên cả vũ hoàn.
Trong suốt những năm thi hành sứ vụ được giao,
Đức Giêsu lúc nào cũng gắn bó với Thiên Chúa,
Đấng đã sai phái Ngài mà Ngài âu yếm gọi là Cha, Abba.
Cha đã nói về Ngài lúc chịu phép rửa và lúc hiển dung:
“Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,17; 17,5).
Chính Ngài cũng ý thức mình là Con (Mt 24,36),
có tương quan với Cha một cách độc nhất vô nhị (Mt 11,27).
Nhưng Ngài không giữ riêng cho mình tương quan ấy.
Ngài đã muốn đưa các môn đệ vào thế giới của Cha
để họ cũng có sự thân thiết với Cha như Ngài (Mt 11,27).
Trong Bài Giảng trên Núi, nhiều lần Đức Giêsu gọi Thiên Chúa
là “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16; 6,1.14.32).
Và Ngài đã dạy môn đệ xưng hô với Cha như thế:
“Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời” (Mt 6,9).
Trong kinh Lạy Cha, Ngài dạy họ cầu xin Cha
ban bánh ăn hàng ngày, tha thứ mọi tội khiên,
bảo vệ họ khỏi mọi cám dỗ và sự dữ (Mt 6, 11-13).
Cha là Đấng quan phòng, lo cho chim trời và hoa huệ,
nên cũng biết con cái mình cần gì (Mt 6,32).
Vậy không phải lo lắng, cũng chẳng cần phô trương.
vì Cha sẽ ban cho con cái mình những của tốt lành (Mt 7,12).
Đừng lo phải nói gì khi bị điệu ra trước mặt vua quan,
vì qua Thần Khí, Cha sẽ dạy điều phải nói (Mt 10,20).
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác,
vì Cha quý chúng ta hơn chim sẻ nhiều (Mt 10,31).
Đức Giêsu đặt chúng ta vào trái tim của Cha quyền năng
để ta được tận hưởng bình an ngay giữa sóng gió.
Đức Giêsu không những cho các môn đệ thấy
Thiên Chúa là Người Cha đầy tha thứ yêu thương,
Ngài còn dám mời họ bắt chước Cha như mẫu mực.
Hãy thương xót và tha thứ cho anh em
như Cha trên trời đã thương xót mình (Mt 18,23-35),
Hãy yêu thương kẻ thù và cầu cho kẻ bách hại mình
nhờ đó “trở nên hoàn thiện
như Cha của anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng đức tin
vào một Thiên Chúa là Cha toàn năng.
Đức Giêsu là Đường, là Cửa, cho ta gặp Thiên Chúa Cha.
Ta gọi Thiên Chúa là Cha, vì Đức Giêsu đã gọi như vậy,
và ta cũng muốn sống hiếu thảo với Cha như Ngài.
Thiên Chúa là Cha, mang trong mình trái tim của người mẹ,
tràn đầy bao dung, tế nhị, thương xót, đỡ nâng.
Cha không phải là người độc đoán hay gia trưởng.
Cha quyền năng lại là Đấng tôn trọng tự do con người.
Ngài hỏi ý Đức Maria, dù Ngài có thể làm được mọi sự (Lc 1,37).
Ngài không thể làm một hình vừa vuông vừa tròn,
Ngài không thể phạm tội bất công hay nói dối.
Cha có khả năng chịu đựng cỏ lùng mọc trong ruộng lúa,
vì Ngài yêu cả kẻ dữ, và Ngài kiên nhẫn vô biên.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta nhớ mình có một Người Cha.
Người Cha ấy không chỉ đóng đô ở trên trời,
nhưng đang làm việc cho loài người trên trái đất (Ga 5,17).
Ngài vẫn nghe tiếng kêu của hàng triệu người tử vong,
vẫn thấy những xác người chết chôn không còn chỗ.
Cha chẳng bao giờ vắng mặt, dù sự dữ vẫn tác quái.
Xin cho chúng ta trong cơn đại dịch kinh hoàng
vẫn tin Thiên Chúa là Cha toàn năng và giàu lòng thương xót.
CẦU NGUYỆN
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và dồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các ki tô hữu chúng con
trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG NĂM
Tin Mừng Cho Mọi Người
Bạn là tín hữu? Bạn hãy sống đức tin của mình và hãy chuyển trao đức tin cho con em mình. Hãy nêu chứng tá đức tin bằng chính cuộc sống. Bạn hãy yêu mến Giáo Hội như một hiền mẫu. Hãy sống trong Giáo Hội và vì Giáo Hội. Hãy dành chỗ cho mọi người trong trái tim bạn. Hãy thứ tha nhau và hãy gieo rắc hòa bình bất cứ nơi nào bạn có mặt.
Bạn không phải là tín hữu? Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, vì Ngài đang kiếm tìm bạn đó!
Bạn đang gặp đau khổ? Hãy vững lòng. Vì Đức Kitô đã từng nếm cảm niềm đau; Người sẽ ban cho bạn sức mạnh để đương đầu với nỗi ê chề của bạn.
Bạn là người trẻ? Hãy làm một cuộc đầu tư tốt nhất cho cuộc đời mình, vì cuộc đời bạn là một kho tàng hết sức quí giá.
Và với tất cả mọi người, tôi sẽ nguyện chúc: Xin ân sủng Thiên Chúa đồng hành với các bạn trong mỗi phút giây của cuộc sống thường ngày.
Và xin đừng quên: Hãy ân cần đón nhận các trẻ thơ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của các em. Ước gì lời chào tốt lành từ ban sơ dành cho các em sẽ mở ra cho các em một cuộc sống tràn đầy ân phúc – đó là niềm mong mỏi của bạn, của tôi, và là niềm mong mỏi của toàn thể Giáo Hội.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26/4
Cv 13, 26-33; Ga 14, 1-6.
Lời suy niệm: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.” (Ga 14,1-2)
Chúa Giêsu luôn thấu hiểu trong đời sống của mỗi người đều có những nỗi sợ, những nỗi niềm xao xuyên; không biết cuối cuộc đời mình sẽ ra sao; nên Chúa Giêsu luôn trấn án đối với mỗi người trong chúng ta: “Anh em đừng sợ” Bởi vì “Thầy đây mà” và Người còn hứa: “Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.” Và rồi Người còn căn dặn thêm: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em.”
Lạy Chúa Giêsu, thật là hạnh phúc cho chúng con là những Kitô hữu luôn được sống trong niềm hy vọng là sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nhà Thiên Chúa. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 – 1595)
Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là “Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo”. Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
– Học xong anh sẽ làm gì ?
– Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
– Rồi sao nữa ?
– Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
– Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : – Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: – Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : – Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : – Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành “Tông đồ thành Rôma”.
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị “Tông đồ của dân An độ” cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : – Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: “Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Lễ Ba Ngôi – Năm B
Bài đọc: Deut 4:32-34, 39-40; Rom 8:14-17; Mt 28:16-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất để lo liệu cho con người.
Vua David, tác giả Thánh Vịnh 8, sau khi đã suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa và sự bất xứng của con người, đã phải thốt lên: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” Không phải chỉ có một ngôi, mà cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng cộng tác để lo liệu cho con người. Điều này nhắc nhở cho con người biết họ có địa vị cao quí trước Thiên Chúa; và họ phải biết sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, ông Moses nhắc lại hai đặc quyền mà dân tộc Israel được hưởng: Thiên Chúa đã chọn họ làn dân riêng và ban Thập Giới cho họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu đặc quyền được làm con Thiên Chúa qua niềm tin vào Đức Kitô, và họ sẽ được thừa hưởng gia tài của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ trước khi Ngài về trời: Các ông phải đi khắp nơi thu nhận môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ những gì Ngài đã dạy dỗ các ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ có Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.
Chúng ta phải hiểu tình yêu Chúa dành cho dân tộc Do-thái, trước khi chúng ta có thể hiểu tình yêu Thiên Chúa dành cho hết mọi người.
1.1/ Tình yêu Thiên Chúa dành cho dân tộc Do-thái: Người Do-thái rất hãnh diện được Thiên Chúa chọn làm dân tộc riêng của Ngài từ muôn dân tộc trên thế giới. Họ cũng hãnh diện về Thập Giới, vì không một dân tộc nào được thần minh của họ thân hành hiện đến để ban Lề Luật cho. Trình thuật hôm nay nhắc nhở cách đại cương tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân tộc Do-thái:
(1) Thiên Chúa tỏ mình cho dân tộc Israel: Sau khi đã vượt qua Biển Đỏ, Moses dẫn dân chúng vào trong sa mạc để được thử luyện bởi Thiên Chúa. Trước khi vào Đất Hứa, Ngài muốn ban cho dân Thập Giới; nhưng để tỏ uy quyền của Ngài cho dân biết kính sợ, Ngài đã làm cho cả ngọn núi cháy bừng như lửa, và Ngài nói chuyện với Moses từ đám lửa. Chứng kiến cảnh tượng này, dân Do-thái thất kinh vì mắt và tai họ không chịu đựng nổi uy quyền của Thiên Chúa. Họ xin Moses để Thiên Chúa nói với mình ông thôi, rồi ông sẽ nói với họ những gì Thiên Chúa muốn. Truyền thống Do-thái tin không một ai nhìn thấy Thiên Chúa hay thiên sứ mà còn sống, như ông Moses nhắc nhở cho dân chúng: “Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không?”
(2) Thiên Chúa chọn họ là dân riêng của Ngài: Ông Moses hỏi dân: “Có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” Biến cố Xuất Hành ra khỏi Ai-cập là biến cố đáng ghi nhớ, vì Thiên Chúa tỏ tình yêu và uy quyền của Ngài cho dân tộc Do-thái, để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai-cập.
1.2/ Bổn phận của người Do-thái: Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân tộc Israel là một giao ước, được ký kết giữa hai bên: Thiên Chúa sẽ yêu thương, bảo vệ, và ban ơn cho họ; đổi lại, họ cũng phải chu toàn hai bổn phận sau:
(1) Con người phải thờ phượng một mình Thiên Chúa: “Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.” Thờ bụt thần khác hay không thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, là vi phạm giao ước với Thiên Chúa.
(2) Con người phải tuân giữ các giới răn của Người: Ông Moses long trọng truyền lệnh cho dân: “Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em.” Không tuân giữ Lề Luật, dù nhỏ mọn đến đâu chăng nữa, cũng vi phạm giao ước này.
Từ một dân tộc Do-thái, tình yêu Thiên Chúa lan rộng đến mọi dân tộc khác, khi Đức Kitô xuất hiện. Từ nay, ơn được làm con Thiên Chúa và được sống muôn đời là của mọi người.
2/ Bài đọc II: Ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, người đó là con cái Thiên Chúa.
2.1/ Vai trò của Chúa Thánh Thần: Ngài soi sáng và hướng dẫn các tín hữu.
Chúa Cha là Người ban Thánh Thần: khi Chúa Cha ban Thánh Thần của Người cho ai, kẻ đó là con cái Thiên Chúa, như Phaolô xác quyết: “Quả vậy, phàm ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa.”
Có nhiều thần khí khác nhau trong thế gian; nhưng chỉ có một Thánh Thần duy nhất. Thần khí mà con người sở hữu trước khi lãnh nhận Thánh Thần, là thần khí của nô lệ và sợ hãi; nhưng khi đã được lãnh nhận Thánh Thần, con người trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, và Thánh Thần thúc đẩy để con người có thể kêu lên hai tiếng “Abba! Cha ơi!” với Chúa Cha.
Thánh Phaolô xác quyết: “Chính Thánh Thần cùng chứng thực với thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” Khi chúng ta tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa (Rm 3:28, Jn 1:12). Chúng ta có một nhân chứng khác nữa là Thánh Thần; vì không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần hướng dẫn (I Cor 12:3). Một lần nữa, chúng ta thấy niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa là công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
2.2/ Các Kitô hữu là những người thừa kế gia tài của Thiên Chúa:
(1) Quyền làm con: Như đã nói trên, con người trở thành con cái Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không nhờ bất cứ lý do nào khác (Jn 1:13).
(2) Đồng thừa kế gia tài của Thiên Chúa với Đức Kitô: Thánh Phaolô lý luận: “Vậy đã là con, thì cũng là người thừa kế; mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô.” Đây là một hồng ân vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho con người: Tất cả những gì Thiên Chúa có, con người đều được hưởng; tất cả những gì Đức Kitô có, con người đều có; tất cả những gì Thánh Thần biết, con người đều có thể biết. Dĩ nhiên, để được hưởng hồng ân này, con người phải sống hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, và trung thành với nghĩa vụ làm con của mình.
(3) Chung phần đau khổ, chung phần vinh quang: Khi đồng thừa kế gia sản với Đức Kitô, con người không chỉ chung phần vinh quang, nhưng cũng chung phần với những đau khổ Ngài chịu. Đau khổ Ngài đang chịu bây giờ là nơi thân thể của Ngài là Giáo Hội; mà Giáo Hội là tất cả các tín hữu, những chi thể của một thân thể. Điều này mở ra nhiều lộ trình mới để chúng ta có thể chung phần đau khổ với Đức Kitô:
– Làm vơi đi đau khổ của anh chị em là làm vơi đi đau khổ cho Chúa;
– Giúp anh chị em yêu thương Chúa và đừng phạm tội là làm vơi đi đau khổ của Chúa;
– Chịu đựng gian khổ để đưa anh chị em về với Chúa là làm vơi đi đau khổ của Chúa …
3/ Phúc Âm: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.
Chúa Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
3.1/ Tiếng gọi truyền giáo: Các ông phải tiếp tục làm cho tất cả mọi người trở nên môn đệ của Chúa Ba Ngôi. Hai bổn phận quan trọng nhất các ông phải làm:
(1) Làm Phép Rửa cho họ: Điều kiện để chịu Phép Rửa là tin vào Đức Kitô. Để một người tin vào Đức Kitô, cần có những người rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bổn phận quan trọng hàng đầu của người môn đệ là rao giảng Tin Mừng trước khi con người có thể tin và chịu Phép Rửa để trở thành những người môn đệ mới của Chúa.
(2) Dạy bảo họ tuân giữ các giới răn: Để chứng tỏ niềm tin, các tín hữu cần giữ các giới răn. Vì thế, bổn phận thứ hai của người môn đệ là tiếp tục dạy bảo để các tín hữu giữ các giới răn của Chúa. Khi giữ các giới răn, người tín hữu tiếp tục ở lại trong tình thương của Thiên Chúa.
3.2/ Lời hứa bảo đảm cho các môn đệ: Lúc nào họ cũng có Ba Ngôi Thiên Chúa ở với họ.
(1) Chúa Giêsu đã được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời cũng như dưới đất: Ngài có toàn quyền trên tất cả mọi biến cố xảy ra trên thế gian. Nếu chúng ta nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, chúng ta sẽ không sợ thua cuộc trước bất cứ một quyền lực nào của con người, thế gian, và quỉ thần. Điều này sẽ giúp chúng ta hăng hái trong việc rao giảng Tin Mừng.
(2) Chúa Giêsu ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Giêsu không vắng mặt trong cuộc đời các môn đệ sau khi Chúa về trời. Các môn đệ không những có Chúa Thánh Thần làm việc từ bên trong, để các ông hiểu thấu những gì Chúa Giêsu đã nói, và hướng dẫn để các ông am hiểu mọi sự thật. Các môn đệ còn có Chúa Giêsu trợ giúp và bảo vệ từ bên ngoài. Ngài thấy rõ mọi sự việc xảy ra cho các môn đệ, vì Ngài đang ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu những trợ giúp cần thiết cho các môn đệ. Điều gì, các môn đệ xin nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ không bao giờ từ chối (Jn 16:23-26). Nếu các môn đệ xác tín sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời, họ sẽ không sợ hãi bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời, và kiên trung làm chứng cho Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Con người chúng ta có phẩm giá cao quí trước Thiên Chúa; vì thế, chúng ta phải luôn biết sống làm sao cho xứng với địa vị cao quí này.
– Nếu chúng ta cùng chung phần đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta cùng chung phần vinh quang với Ngài, và ngược lại.
– Tiếng gọi truyền giáo phải luôn thôi thúc chúng ta là những môn đệ của Chúa. Chúng ta đã làm gì để đáp lại lời mời gọi của Chúa?
– Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong cuộc đời. Ý thức này sẽ giúp chúng ta có sức mạnh chu toàn các bổn phận của người tín hữu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************