Lời Chúa Hôm Nay
Chúa Nhật Tuần IV Mùa Thường Niên Năm C
BÀI ĐỌC I: Gr 1, 4-5, 17-19
“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Đừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Đáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. – Đáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác. – Đáp.
3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. – Đáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 31 – 13, 13 (bài dài)
“Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 4, 21-30
“Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”
Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!’ Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
30/01/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – C
Lc 4,21-30
LỜI CHÚA ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4,21)
Suy niệm: “Kinh Thánh dạy ta cách sống tốt lành nhất, cách chịu đựng cao quý nhất, và cách chết an bình nhất” (Flavel). Muốn được vậy, ta phải siêng năng đọc Kinh Thánh. Khi đọc, thỉnh thoảng dừng lại suy nghĩ điều mình đọc, để Lời ấy thấm vào cơ thể bằng cách “ở lại” với Lời ấy, suy đi nghĩ lại từng lời từng chữ, xem xét ý nghĩ Lời dưới mọi góc cạnh, rồi đem áp dụng trong mọi tình huống của cuộc sống mỗi ngày, cho đến khi Lời trở thành một thành phần của ta. Nói cách khác, chỉ khi nào Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm trong cuộc đời ta, Lời ấy mới đem lại sự thay đổi tích cực và thật sự cho cuộc sống. Ta đọc Kinh Thánh không phải chỉ để biết thông tin, những gì Chúa đã thực hiện, nhưng còn để biến đổi đời mình.
Mời Bạn: “Rốt cuộc, mục tiêu của việc học tập Kinh Thánh là đời sống được biến đổi cùng với mối tương quan sâu xa, bền vững với Chúa Giê-su Ki-tô” (K. Arthur). Có thể bạn đã đọc Kinh Thánh nhiều lần, suy niệm bao đoạn Tin Mừng, nhưng đời bạn vẫn chưa chuyển biến nhiều lắm. Vấn đề nằm ở chỗ các Lời Kinh Thánh ấy mới chỉ lay động tâm trí, làm xao xuyến quả tim, nhưng chưa được ứng nghiệm trong đời thường của bạn. Bạn sẽ làm gì để thay đổi?
Sống Lời Chúa: Tôi chọn một câu Tin Mừng và để câu ấy được ứng nghiệm hôm nay trong sinh hoạt của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa làm ứng nghiệm lời ngôn sứ tiên báo qua ba năm nhiệt thành thi hành sứ vụ. Xin giúp con không chỉ hài lòng với việc siêng năng đọc, sốt sắng suy gẫm Lời Chúa, nhưng còn can đảm đem Lời ấy vào cuộc đời, trong chính lối ứng xử, sinh hoạt của mình mỗi ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy Niệm
Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ.
Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin.
Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng,
nhưng Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống.
Chẳng ai có thể sống mà không tin.
Không tin người này nhưng lại tin người kia.
một cách sáng suốt và tự do.
Ðiều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát,
không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối,
nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật,
dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ,
và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng Nadarét ít có thứ tự do này.
Khi Ðức Giêsu giảng trong hội đường Nadarét thân quen,
họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói.
Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng
nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê!
Nhưng tin Ðức Giêsu là một ngôn sứ
lại là điều họ không làm được.
“Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên những hình ảnh
của Ðức Giêsu sống tại đây hơn ba mươi năm qua.
Một cuộc sống quá đỗi bình thường!
Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác.
Gốc gác, họ hàng của Ðức Giêsu, họ đều nắm rõ.
Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào,
và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
“Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem.”
Người làng Nadarét không tin Ðức Giêsu là ngôn sứ.
Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ.
Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ,
mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương.
Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ,
khi Ðức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa
được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Ðức Giêsu cho riêng mình.
Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi,
thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Ðức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa,
điều đó chẳng dễ dàng chút nào.
Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Ðiều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Ðức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nadarét:
tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm
hay muốn độc quyền giữ Ðức Giêsu cho mình.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thính ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30 THÁNG GIÊNG
Kỹ Thuật: Đồng Minh Hay Kẻ Thù?
Kỹ thuật và những máy móc tinh xảo là những sản phẩm và là công cụ của lao động con người. Chủ thể thật sự của lao động vẫn là chính con người. Không bao giờ một công cụ lại có thể được nâng lên hàng chủ thể. Nó không thể được đặt trên người lao động hay người sử dụng nó – bởi vì nếu làm thế, trật tự của thực tại đã bị đảo lộn. Đó sẽ là điều không may. Phương tiện và cứu cánh của lao động đã bị xáo trộn!
Kinh nghiệm hiện đại cho thấy rằng sự áp dụng kỹ thuật – một khi không được hướng dẫn và được soi sáng bởi một trật tự đạo đức cao hơn – có thể trở thành một kẻ thù thay vì là một đồng minh của con người. Một ví dụ của điều này đó là khi sự tự động hóa trong công nghiệp hất cẳng con người, tước đi chỗ làm của nhiều người lao động. Một ví dụ khác: những trường hợp máy móc được đề cao và con người bị hạ xuống chỉ còn là một cái gì đó phục vụ cho máy móc (Laborem exercens 5).
Chúng ta được mời gọi làm chủ trái đất và làm chủ những sự thay đổi – chứ không phải phó mặc cho nó thống trị mình. Chỉ có thể làm chủ được như vậy nếu chúng ta vượt qua được sự đứt đoạn giữa đạo đức và kinh tế – chính sự đứt đoạn này đã làm cho những thành tựu ngoạn mục của thời hiện đại không thể phục vụ hoàn toàn cho thiện ích của con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 30/01
Chúa Nhật IV Thường niên
Gr 1, 4-5. 17-19; 1Cr 12, 31-13, 13; Lc 4, 21-30.
Lời Suy Niệm: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”
Những người trong hội đường khi được nghe lời ngôn sứ I-sai-a từ miệng Chúa Giêsu, với lời xác nhận của Chúa Giêsu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh”. Tất cả những người nghe, đã hết sức vui mừng khi họ liên tưởng đến: “Năm Toàn Xá”. Một thời đại mới, mà họ đang mong đợi. Thời đại mà mọi người nghèo khó được trở về phần sở hữu của mình, thời đại mà mọi kẻ bị bán làm nô lệ được trở về dòng họ của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã đến để khai mở một thời đại mới, một thời đại đầy tình thương và ân xá, để từ đây con người được hiểu mà thờ phượng Thiên Chúa và thương yêu phục vụ lẫn nhau trong yêu thương và khiêm nhường. Xin Chúa ban cho mỗi người trong chúng con cùng được sống trong niềm hạnh phúc này.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
30 Tháng Giêng
Tình Yêu Là Sức Mạnh Vạn Năng
Ngày 30 Tháng Giêng cách đây đúng 40 năm, Mahatma Gandhi, người cha già của dân tộc Aán Ðộ đã vĩnh viễn ngã gục sau mấy nhát gươm của một thanh niên Aán Giáo quá khích.
Hôm đó, như thường lệ, Gandhi được hai người cháu dìu đi cầu nguyện. Cả một đám đông đang đi theo đằng sau Ngài. Bỗng nhiên, một thanh niên từ trong đám đông sấn tới đâm bổ vào Người của vị cha già dân tộc. Ba nhát gươm đâm xới xả vào một thân thể khô gầy vì không biết bao nhiêu hy sinh cho đất nước.
Thinh lặng bao chùm lấy đám đông. Người ta chỉ còn nghe được hai tiếng từ miệng của vị thánh “Rama, Rama” nghĩa là “Chúa ơi, Chúa ơi”. Với một cố gắng cuối cùng, Ngài giơ hai tay lên, đan lại trong một cử chỉ cầu nguyện và tha thứ, rồi ngã gục.
Người thanh niên Aán Giáo quá khích đã sát hại Gandhi vì anh không thể chấp nhận ssược sự kiện Gandhi bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả với những người Hồi Giáo.
400 triệu người Aán Ðộ đã than khóc và để tang cho vị cha già của dân tộc. Không khí buồn thảm cũng bao trùm khắp thế giới. Mọi người đều cảm nhận rằng ngày hôm đó trái đất trở nên cằn cỗi, nghèo nàn hơn, bởi vì đã mất đi một người con vĩ đại, một người con đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không cần dùng đến khí giới của bạo động và hận thù. Chính Ngài đã từng nói: Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có.
Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có trong tay.
Chiến tranh và không biết bao nhiêu vấn đề mà thế giới ngày nay đang phải giải quyết, dường như thế giới chỉ muốn giải quyết bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có trong tay là tình yêu, chỉ có một số ít người đang dùng đến.
Mục sư Luther King, người da đen, đang sử dụng khí giới của tình yêu. Oâng đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen được đứng lên làm người như người da trắng. Giám mục Desmond Tutu, người Nam Phi da đen cũng đang đi theo vết chân của Gandhi và Luther King. Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những người hấp hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những mẫu gương trên đây chỉ là những phản ánh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu của Ðấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã nói: Khi nào Ta chịu treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo tất cả mọi người về với Ta.
Người Kitô chúng ta đang ở trong sức kéo ấy. Ngài đã cho chúng ta được sát nhập vào thân thể của Ngài và truyền cho chúng ta chính sức sống của Ngài. Người Kitô chỉ có thể là người Kitô khi họ sống bằng chính Sức Sống và Tình Yêu của Ngài.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 4 – Năm C – Thường Niên
Bài đọc: Jer 1:4-5, 17-19; I Cor 12:31-13:13; Lk 4:21-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sứ vụ khó khăn của ngôn sứ
Con người nông nổi thích được khen tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con người nông nổi ghen ghét và truy tố.
Các Bài đọc hôm nay tập trung trong sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ mà đi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
1.1/ Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người “nói thay” hay là “miệng lưỡi” của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.
(1) Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong lòng mẹ: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
(2) Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa: “Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.”
1.2/ Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ khỏi mọi người hãm hại: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ.” (2) Lời hứa chiến thắng: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì – sấm ngôn của Đức Chúa – có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Nhiều khi Thiên Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.
2/ Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức mến.
2.1/ Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và mong ước tử đạo cũng không còn.
2.2/ Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.”
Điều này đúng trong phương diện kỹ thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn; nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.
Điều này càng đúng cho các ngôn sứ, họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững bền mãi mãi. Phaolô lý luận: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi.”
Phaolô lý luận tương tự khi so sánh ba nhân đức đối thần: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” Khi con người được về chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.
3/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
3.1/ Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan trọng:
(1) Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ: tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin, phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.
(2) Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ một sự thật: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: “gần chùa gọi bụt bằng anh.” Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa, nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa.
(3) Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) “Vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon.” (2) “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.” Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.
3.2/ Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, “họ thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng sự thật chưa đủ để thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.
Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”
Không một chút sợ hãi, “Người băng qua giữa họ mà đi.” Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy sự thật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.
– Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi nguy hiểm của thế gian.
– Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************