Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Ba Tuần I Mùa Vọng Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: Is 11, 1-10
“Chúa lấy đức công bình mà xét xử người nghèo khó”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi, và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng. Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương. Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân sẽ khẩn cầu Ngài, và mộ Ngài sẽ được vinh quang. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8. 12-13. 17
Đáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người (c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. – Đáp.
2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn / sẽ triển nở trong triều đại người / cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng.Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. – Đáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống người cùng khổ. – Đáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca khen người. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 84, 8
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10, 21-24
“Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!”
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem thấy điều các con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem thấy những điều các con thấy, mà chẳng được thấy, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
03/12/2019 – THỨ BA TUẦN 1 MV
Th. Phan-xi-cô Xa-vi-ê, linh mục
Mc 16,15-20
LOAN BÁO “ĐẠO YÊU THƯƠNG”
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Ngay từ thời Tin Mừng mới được loan báo trên quê hương Việt Nam, các tín hữu Ki-tô thường được anh em lương dân gọi là “những người theo đạo yêu thương”. Trước khi về trời, Chúa Giê-su ra lệnh truyền cho các môn đệ phải “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Điều đó có nghĩa là Tin Mừng mà người môn đệ phải loan báo đó chính là luật yêu thương. Như Ba Ngôi Thiên Chúa hợp nhất trong tình yêu, Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta trước tiên hãy yêu thương nhau trong đời sống hằng ngày của mình. Chính đời sống đã là một hành vi loan báo rồi; và việc lên đường loan báo tình yêu ấy “cho mọi loài thọ tạo” là kết quả của cả một đời sống theo Đạo Yêu Thương đó.
Mời Bạn: Nếu chỉ loan báo khi bạn đứng trên giảng đài để thuyết giáo thì quá ít, thậm chí đối với nhiều người là không bao giờ. Nhưng nếu trong mọi hành động, từ việc cầu kinh dâng lễ, cho tới việc bạn đi chợ, đi làm, đi học, trò chuyện, giải trí…, bạn đều nỗ lực gieo mầm tình yêu của Chúa Ki-tô trong đó, thì bạn đang loan báo Đạo Yêu Thương một cách thiết thực, và hiệu quả nữa.
Sống Lời Chúa: Nhắc mình sống và loan báo Đạo Yêu Thương bằng những việc phục vụ, chia sẻ, cảm thông cách cụ thể với người thân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con biết sống yêu thương nhau, nhưng cuộc sống vốn dĩ không phải là đường thẳng, nên chúng con đi xa hơn đích Yêu thương mà Chúa muốn chúng con thi hành. Xin cho chúng con luôn xác tín Chúa là Chúa Tể của Tình Yêu và chúng con là những hoa trái yêu thương mà Chúa chăm chút mỗi ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG MƯỜI HAI
Mùa Vọng, Thời Gian Của Đức Ma-ri-a
Một cách đặc biệt, Mùa Vọng là thời gian của Đức Ma-ri-a. Mẹ cưu mang Đấng Mêsia đã được mong đợi từ bao đời, Đấng là niềm hy vọng của mọi thời đại. Có thể nói, chính nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ý nghĩa tối thượng và đầy đủ của Mùa Vọng. Lễ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm được Giáo Hội cử hành trọng thể trong Mùa Vọng, điều đó có ý nghĩa hùng hồn biết bao!
Ngày Sinh Nhật Đức Mẹ được Giáo Hội mừng trọng thể hằng năm vào ngày 8 tháng 9; dù vậy, Mùa Vọng vẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm thánh thiêng của ngày sinh nhật này. Trước khi xuất hiện trong trần gian, Đức Ma-ri-a được thụ thai trong cung lòng thân mẫu ngài. Đàng khác, cũng chính khoảnh khắc đó, Mẹ được sinh ra bởi chính Thiên Chúa, Đấng hoàn thành mầu nhiệm Vô Nhiễm Trinh Thai: Mẹ được sinh ra “đầy ơn phúc”!
Vì thế, cùng với vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta lặp lại: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su Kitô, trong Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta muôn vàn ơn phúc bởi Thánh Thần” (Ep 1,3). Và Đức Ma-ri-a được chúc phúc một cách đặc biệt, một cách độc đáo vô song. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn Mẹ trước khi tạo thành thế giới để Mẹ trở nên thánh thiện tinh tuyền trước mặt Ngài (cf. Ep 1,4). Vâng, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn Đức Ma-ri-a trong Đức Kitô. Ngài đã chọn Mẹ cho Đức Kitô. Ngài đã làm cho Mẹ nên thánh thiện, thậm chí nên rất mực thánh thiện. Và hoa quả đầu tiên của sự tuyển chọn và của tiếng gọi này là: mầu nhiệm Mẹ Vô Nhiễm!
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/12
Thánh Phanxicô, linh mục, Bổn mạng các xứ truyền giáo
Is 11, 1-10; Lc 10, 2-24.
LỜI SUY NIỆM: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”
Mỗi người Kitô hữu chúng ta đang được Chúa Giêsu mời gọi cọng tác với Người để đem chân lý cứu độ đến hết mọi người, khi chúng ta đáp lại lời mời gọi của Người, chúng ta không cần cậy dựa vào bất cứ phương tiện trần thế nào cả. mọi bước đi và phương tiện Người đã trang bị và gìn giữ trong bình an của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đều là những kẻ yếu hèn và bất xứng; xin Chúa thương chọn gọi và thánh hóa chúng con để trở thành công cụ của Chúa giữa trần gian này.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-12: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ
Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản
(1506 – 1552)
Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyoa.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: – “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì”
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: – “Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời”.
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: “Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: “Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa” không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa”.
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: “Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo”.
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của “ông cha” cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp An độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến “xuôi tay vì mệt mỏi”. Người nói: “Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai”.
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc…
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: – “Thì tôi bơi tới vậy”.
– Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?
Ngài nói: – “Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: “Oi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi”.
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .
Phanxicô trở lại An độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: – Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: ” Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con”.
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Inhaxiô. Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
03 Tháng Mười Hai
Giác Ngộ
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”… Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ… Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất… Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe… tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta…
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”… Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành…
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ… Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê…
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ…
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại… Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 11:1-10; Lk 10:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah cho dân một hy vọng: Khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy và vương quốc Judah thất thủ, các vua quan của Judah bị lưu đày qua Babylon. Sau gần 50 năm lưu đày, họ được Vua Batư, Darius, cho hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và kiến thiết xứ sở. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ lãnh đạo dân để tái thiết xứ sở? Người lãnh đạo này phải thuộc giòng dõi của David; và Zerubbabel hội đủ điều kiện để lãnh đạo dân (x/c Hag 1:1, Zech 4:9). Từ giòng dõi Zerubbabel sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai (Mt 1:12). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Kế Họach Cứu Độ cho các môn đệ và chỉ cho các ông cách làm sao để đạt đích điểm của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao kiếm được Vua công chính cai trị dân?
1.1/ Làm sao kiếm được Vua cai trị Israel sau Thời Lưu Đày? Tiên tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai như sau: “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” Ông Jesse là cha của Vua David. Vương quốc Judah được ví như một cây, bị chặt sát gốc trong thời gian lưu đày, tưởng chừng như đã chết; nhưng Thiên Chúa đã phục hồi và làm cho sống. Bắt đầu từ một nhánh nhỏ, sẽ mọc lên một mầm non, mầm non này chính là Đấng Thiên Sai.
Thánh Thần của Thiên Chúa là hơi thở ban sự sống (ruah) mà Thiên Chúa trao tặng cho con người. Hơi thở này kèm theo những năng lực vô biên: khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, can đảm, hiểu biết, và kính sợ Thiên Chúa. Những năng lực vô biên này, Bản Bảy Mươi và Vulgate thêm vào năng lực “đạo đức” thay cho một “kính sợ Thiên Chúa,” đã trở thành 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Người tín hữu lãnh nhận 7 quà tặng này khi chịu Bí-tích Thêm Sức.
1.2/ Vua công minh, thương yêu, can đảm: Với Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng Thiên Sai có đầy đủ mọi đức tính cần thiết để cai trị dân:
(1) Ngài sẽ xét xử công minh: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người mãn nguyện, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói.”
(2) Ngài sẽ bênh vực kẻ nghèo hèn: “Ngài xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở.”
(3) Ngài sẽ trừng trị kẻ ác: “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.”
Hai đức tính cần thiết một vị anh quân cần có được tiên tri ví như dây thắt lưng và miếng vải buộc trong mình: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành.”
1.3/ Vua đem lại hòa bình: Sau khi đã trải qua biết bao gian khổ đau thương do chiến tranh và lưu đày gây ra, điều con người mong ước nhất là có được nền hòa bình. Mong ước này chỉ có được khi tất cả mọi người trên thế giới biết dẹp bỏ mọi khác biệt để cùng nhau chung sống và xây dựng hòa bình: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Viễn tượng hòa bình này chỉ có thể đạt được trong triều đại của Đấng Thiên Sai, khi Ngài chiến thắng mọi quyền lực thế gian và thu thập mọi người về cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Làm sao biết được thánh ý Thiên Chúa?
2.1/ Thánh ý Thiên Chúa: Thiên Chúa khôn ngoan và uy quyền, con người yếu đuối và giới hạn; làm sao con người hiểu được những chương trình và thánh ý của Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để nói với con người; nhưng họ chỉ mặc khải được phần nào những gì Thiên Chúa muốn bằng ngôn ngữ lòai người. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho con người tất cả những gì nơi Thiên Chúa. Những mặc khải của Đức Kitô chính xác và tòan hảo vì Ngài ở với Thiên Chúa ngay từ ban đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Mặc khải quan trọng nhất của Đức Kitô cho con người là Mầu Nhiệm Cứu Độ; nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm này như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”
(1) Kẻ nghèo hèn được mặc khải: Khác với những khôn ngoan của thế gian, Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ được hiểu bởi những kẻ nghèo hèn, những người không cậy vào sức riêng mình, nhưng hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa.
(2) Bậc khôn ngoan không hiểu: Cũng như tòan bộ Tin Mừng, Mầu Nhiệm Cứu Độ được rao giảng cho tất cả mọi người. Bậc khôn ngoan không hiểu là vì họ cậy vào sức mình. Nếu họ dùng lý luận và sự khôn ngoan của con người, Mầu Nhiệm Cứu Độ là chuyện điên rồ không thể hiểu được. Thánh Phaolô đã trưng dẫn điều này về Thập Giá của Đức Kitô.
(3) Các vua chúa không thấy: “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”
2.2/ Làm sao để đạt đích của cuộc đời? Chúa Giêsu không chỉ mặc khải cho con người biết đích điểm của cuộc đời, mà còn cả cách thức đạt tới đích điểm này:
(1) Mến Chúa, yêu người: Chúa Giêsu chứng thực câu trả lời của người Kinh-sư: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”
(2) Thực hành giới luật yêu thương: Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhắc nhở ông không phải chỉ biết cách mà thôi, nhưng còn phải ra sức thực hành hai giới răn này: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Trong Chương Trình Cứu Độ, Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con người.
– Ngài cho Chúa Giêsu, Người Con của Ngài xuống để mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho con người. Chính Người Con này sẽ là Vua cai trị dân trong công minh, yêu thương; và sẽ đem lại bình an cho con người.
– Điều kiện để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ: phải khiêm nhường nhỏ bé mới có thể nhìn thấy Đấng Thiên Sai và hiểu biết Kế Họach Cứu Độ Ngài mặc khải. Phải thực thi 2 giới răn “Mến Chúa yêu người” như Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************