Ngày thứ ba (06-10-2020) – Trang suy niệm

05/10/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Gl 1, 13-24

“Người đã mạc khải cho tôi biết Con của Người, để tôi rao giảng Người cho dân ngoại”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia, khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.

Nhưng khi Đấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Đamas. Đoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Những điều này tôi viết cho anh em, đây trước mặt Thiên Chúa, tôi không nói dối.

Thế rồi tôi đã đi về miền Syria và Cilicia. Nhưng các giáo đoàn của Đức Kitô ở xứ Giuđêa chưa biết mặt tôi, họ chỉ nghe đồn rằng: “Người xưa kia bắt bớ chúng ta, giờ đây lại rao giảng đức tin mà thuở trước ông muốn bài trừ”, và vì tôi, họ ngợi khen Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 14c-15

Đáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng:

1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con lúc con ngồi hay con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. – Đáp.

2) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thực diệu huyền. – Đáp.

3) Linh hồn con, Chúa hoàn toàn biết rõ, thể chất con không giấu nổi mắt Ngài, lúc con được cấu tạo hình hài trong nơi kín đáo, lúc con được dệt thân ở chỗ đất sâu. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 144, 14cd

Alleluia, alleluia! – Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 10, 38-42

“Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với”.

Nhưng Chúa đáp: “Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

06/10/2020 – THỨ BA TUẦN 27 TN

Th. Bru-nô, linh mục

Lc 10,38-42

CHỌN ĐIỀU TỐT NHẤT

“Có một phụ nữ tên Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a, cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Người dạy… Cô Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất.” (Lc 10,38b-39.42b)

Suy niệm: Trong đời sống hàng ngày của người Ki-tô hữu, việc cầu nguyện và hoạt động tông đồ được ví như 2 thì của một nhịp thở. Thánh Gia-cô-bê trong lá thư của ngài nhấn mạnh đức tin cần có hành động: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Qua câu chuyện của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a, Chúa Giê-su cho thấy trong hai việc đó, đời sống cầu nguyện là nền tảng thiết yếu. Cầu nguyện là nguồn gốc phát sinh mọi hoạt động tông đồ trong Giáo Hội. Chúa Giê-su không xem nhẹ công việc phục vụ, nhưng Chúa cho biết trước hết và trên hết phải có đời sống cầu nguyện, đó là ở lại với Chúa bằng sự kết hợp thân tình sâu xa; từ đó và nhờ đó, việc tông đồ của mỗi người mới sinh hoa kết trái.

Mời Bạn: Là Ki-tô hữu, chúng ta phải biết rằng sống đời cầu nguyện là nền tảng, là quy chuẩn và là thước đo của mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội và của mỗi người. Bạn đã sắp xếp thế nào cho việc cầu nguyện trong mỗi ngày sống của mình? Những khó khăn nào cản trở bạn và bạn đã dùng cách thế nào để khắc phục những khó khăn đó?

Chia sẻ: Trong xã hội thực dụng ngày nay, người ta không mặn mà với việc cầu nguyện vì cho rằng nhàm chán, không lợi ích thiết thực… Bạn nghĩ sao?

Sống Lời Chúa: Cầu nguyện trước, đang và sau khi hành động: – trước: xin được biết việc phải làm; – đang: xin giúp sức làm việc cho nên; – sau: xin lỗi Chúa vì những thiếu sót, tạ ơn Chúa vì đã thương trợ giúp.

Cầu nguyện: Đọc kinh Sáng Soi.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận :
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.

Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời cho vị luật sĩ câu hỏi: Ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài đã mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Anh bị cướp này là ai, chúng ta không rõ.
Chỉ biết anh đang rất cần sự trợ giúp của người khác.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi,
Cả hai đều có phản ứng giống nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi.
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi 21, 1-3 cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.

Nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân là một người Samari.
Hầu chắc nạn nhân là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ấy là dân ngoại cả.
Giữa người Do Thái và người Samari vốn có mối hiềm thù lâu đời.
Người Samari cũng thấy như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim của mình, chính vì thế anh chạnh lòng thương,
điều mà hai người trước không có.
Mọi sự phải bắt đầu từ trái tim, không có sức thúc đẩy của tim thì tay bất động.
Người Samari đã làm một loạt hành động cụ thể :
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần.
Tất cả những hành động này khởi đi từ lòng thương xót  (Lc 10,33).
Lòng thương xót thật sự khiến ta chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.

Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn,
đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy trở thành người thân cận của mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị luật sĩ:
“Theo ông, trong ba người, ai đã trở thành người thân cận với kẻ bị nạn ?”
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người, không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó cần chúng ta.
Khi giúp, chúng ta trở thành người thân cận với người ấy, và ngược lại.
Ai được ta giúp đỡ thì người ấy trở nên thân cận với ta.
Càng giúp nhiều ta càng có nhiều người thân cận.
Đức Giêsu kết luận: Hãy đi và hãy làm như vậy.

Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, thương người như thể thương thân:
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
uyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

6 THÁNG MƯỜI

Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô

Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.

Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.

Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.

Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 06/10

Thánh Brunô, linh mục

Gl 1, 13-24; Lc 10, 38-42.

LỜI SUY NIỆM: “Mácta! Mácta ơi! Chị băng khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi.”

          Gia đình của Mácta và Maria thường là nơi Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân trên đường rao giảng. Trong việc tiếp đón Chúa và các môn đệ. Mácta và Maria đều đón tiếp, nhưng mỗi người một cách. Mácta thì lo lắng với việc phục vụ theo ý riêng của mình, còn Maria đón thiếp Chúa, bằng cách ngồi nghe Chúa nói và tâm sự với Người. Tuy hai cách đón tiếp có tính cách khác hẳn nhau. Chúa Giêsu không có ý kiến. Nhưng vì Mácta muốn áp đặt ý muốn của mình lên Maria và cả Chúa Giêsu. Nên Chúa đã lên tiếng nhắn nhủ: “Mácta! Mácta ơi! Chị băng khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy đi.”

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn biết tôn trọng cung cách và ý muốn của người khac; chứ đừng lấy ý muốn của mình áp đặt lên người người anh em; để khỏi bị Chúa khiển trách.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 06-10

Thánh BRUNÔ
Linh Mục (1035 – 1101)

Thánh Brunô sinh khoảng năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam nước Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc gia đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại sinh quán.

Sau đó dường như Ngài đã bỏ Cologne để theo học tại Reims và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh các trường Reims, làm chưởng ấn địa phận và làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với Ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo hoàng với danh hiệu Urbano II. Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào thời của Ngài ít có người hiểu biết được như vậy.

Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng tổng giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi, chi còn Brunô trung kiên với dự tính.

Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.

Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các Ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi sao ấy, đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên CHARTREUSE.

Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một học trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy, đức giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.

Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Roma, Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng 10 năm 1101, Ngài từ trần, khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của Ngài.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

06 Tháng Mười

Bưu Ðiện Lớn Nhất Thế Giới 

Có lẽ bưu điện lớn nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng… Mỗi ngày có không biết bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến… Tất cả đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được nhiều thư nhất đó là Ðức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.

Một ngày kia, không còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gửi cho các thánh, mà ngay cả các lá thư gửi đến cho Ðức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị thiên thần đã thất vọng bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Ðại khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh… Xin cho con của con được khỏe mạnh… Xin cho con tìm được việc làm… Xin giúp con thi đỗ… Xin cho con tìm lại được chồng con…

Cả một loạt kinh cầu mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng. Họ không có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.

Ðức Maria ngày nào cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức. Tình cờ, có một là thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: “Lạy Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi, xin Mẹ cho con mỗi ngày được nên giống Chúa Giêsu hơn”.

Ðọc xong lá thư, Ðức Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện: “đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày”.

Theo sự thăm dò của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu “Người đàn bà của năm 1987” đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.

Ðứng hàng thứ hai trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.

Người thứ ba trong danh sách là Mẹ Têrêsa thành Calcutta (người đã được lãnh giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1979). Kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v…

Ðối với chúng ta, những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhứt là trong tháng mười này phải là Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc. Vị nữ hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại… Mẹ đang lắng nghe chúng ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả những gì chúng ta đang cần.

Nhưng điều mà Mẹ luôn chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhứt. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần 27 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: Gal 1:13-24; Lk 10:38-42.

 GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần biết nhiệt thành cách khôn ngoan

Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy có 2 lọai người rõ rệt: có những người nói nhiều, năng nổ, thích họat động; có những người ít nói, làm việc gì cũng thong thả, thích suy tư. Lọai nào cũng có ưu và khuyết điểm: nhiệt thành năng nổ mà không có nguyên tắc hướng dẫn sẽ dễ dàng đi trật đường và trở thành quá khích; trầm tư ít họat động quá dễ trở thành ù lỳ an phận. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta những mẫu người năng nổ họat động như Phaolô và Martha; đồng thời cũng đưa ra mẫu người chiêm niệm như Maria, người mà Chúa khen biết chọn phần tốt nhất qua việc lắng nghe Lời Chúa dạy.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa dùng sự nhiệt thành của Phaolô làm khí cụ rao giảng Tin Mừng.

1.1/ Sự nhiệt thành mù quáng của Phaolô trước khi trở lại: Chính ngài đã thú nhận: “Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do Thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do Thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.” Biến cố ngã ngựa và trở thành mù lòa trên đường đi Damascus đã thay đổi hòan tòan cuộc sống của ngài, vì chính Đấng mà ngài đang hăng say bách hại đã hiện ra và chỉ cho ngài thấy tai hại của sự nhiệt thành mù quáng: “Khốn cho ngươi nếu ngươi cứ giơ chân đạp mũi nhọn.”

1.2/ Giai đọan học hỏi về các mặc khải của Thiên Chúa trong sa mạc: Sau đó, Thiên Chúa đã mặc khải ý định của Ngài là muốn Phaolô trở thành Tông Đồ rao giảng Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngọai. Thay vì lên Jerusalem để gặp tất cả các Tông Đồ khác, ngài đã sang xứ Arabia để dành trọn 3 năm với Thiên Chúa. Trong quãng thời gian chiêm niệm này, Thiên Chúa đã dùng để mặc khải và chuẩn bị cho Phaolô sứ vụ rao giảng tương lai. Sau thời gian này, Phaolô mới lên Jerusalem để gặp Phêrô và một số các Tông Đồ.

1.3/ Sự nhiệt thành của Phaolô sau 3 năm chiêm niệm: Thiên Chúa không cất đi lòng nhiệt thành của Phaolô nhưng dùng sự nhiệt thành của ông làm khí cụ sắc bén cho việc rao giảng Tin Mừng, như chính ngài đã tự thú: “Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa là tôi không nói dối. Sau đó tôi đến miền Syria và miền Cilicia. Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Kitô tại miền Giuđê không biết mặt tôi. Họ chỉ nghe nói rằng: “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt,” và vì tôi họ tôn vinh Thiên Chúa.”

Nhìn lại cuộc đời của thánh Phaolô chúng ta thấy rõ sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: Ngài không tiêu diệt sự nhiệt thành của ông để ông đừng bách hại các tín hữu; nhưng Ngài hướng dẫn cho ông thấy những mục đích cao đẹp mà ông có thể góp phần vào; và sai ông đi rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Từ đó, ông trở thành người say mê rao giảng Lời Chúa, bất chấp tất cả đau khổ, bắt bớ, tù đày, và ngay cả cái chết cho việc rao giảng Tin Mừng.

2/ Phúc Âm: Sự nhiệt thành của Martha và sự khôn ngoan của Maria.

Làng Bethany là quê hương của 3 chị em Martha, Maria, và Lazarô. Vì làng này nằm trên Núi Cây Dầu, rất gần Đền Thờ Jerusalem, nên Chúa Giêsu và các môn đệ thường xuyên thăm viếng khi Ngài lên Jerusalem. Lần này là chuyến lên Jerusalem cuối cùng của Chúa trước khi chịu chết, Ngài cũng ghé vào để thăm 3 chị em.

2.1/ Lòng nhiệt thành của Martha: Được tiếp đón Chúa vào nhà là một hãnh diện cho 3 chị em nên chị Martha đã nhiệt thành sửa dọn nhà cửa và nấu ăn để tiếp khách. Công việc thì nhiều mà chỉ có một đứa em gái Maria, mà cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy, nên chị đến thưa với Chúa: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Khách quí đến nhà đâu phải chỉ để ăn mà còn là dịp để tâm sự chuyện vãn với gia đình. Nếu chủ nhà xem việc tiếp khách là quan trọng, chủ nhà có thể chuẩn bị trước để có thời giờ chuyện vãn khi khách tới. Chị Martha có lẽ chỉ coi công việc nấu nướng cho khách ăn là quan trọng nên đã quên đi điều lịch sự tối thiểu này. Hơn nữa, chị có thể kín đáo gọi em Maria ra để nhờ, nhưng chị đã không làm thế mà còn trách luôn cả Chúa Giêsu vì đã vô tình không chú ý đến việc của chị đang làm.

2.2/ Sự khôn ngoan của Maria: Cô nhìn ra sự quan trọng của việc tiếp khách quí mà chị cô đã không nhìn ra. Hơn nữa, Maria chắc đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng giải và nhận ra sự quan trọng của những lời này. Vì thế, thay vì bận rộn để làm việc như chị, cô chọn phần tiếp khách và lắng nghe Lời Chúa. Một cách khách quan nhận xét: sự thể quá đẹp nếu chị Martha đừng than phiền, chị lo việc ăn uống trong khi em lo việc tiếp khách.

2.3/ Lời khuyên của Chúa Giêsu: Đáp lời than phiền của chị Martha, Chúa nói: “Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Chúa Giêsu không cho việc nấu nướng của chị Martha là không quan trọng, nhưng cho đó là chuyện không cần thiết cho bằng chuyện lắng nghe Lời Chúa. Nếu các việc khác ngăn cản việc lắng nghe Lời Chúa thì phải chọn phần tốt hơn là lắng nghe Lời Chúa như em Maria đã chọn. Đối với Chúa, nếu có phải nhịn đói hay ăn bánh mì đơn giản một ngày để lắng nghe Lời Chúa, vẫn là điều tốt hơn cần phải làm.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta không được sinh ra giống nhau: có những người nhiệt thành và lúc nào cũng bận rộn, có những người ít nói thích suy tư nguyện ngắm. Không có lọai nào tốt hơn lọai nào, nhưng cần được bổ xung cho nhau; người thích suy tư có thể cung cấp đường hướng cho người thích họat động. Cả hai đặc tính: họat động và chiêm niệm cần được thăng bằng trong đời sống con người.

– Cuộc đời con người cũng thế. Khi còn trẻ và khỏe mạnh, con người thích họat động, chạy chơi, và hướng tới tương lai; nhưng khi về già con người không còn sức khỏe để làm những việc đó, nên thường có khuynh hướng trầm tư, suy nghĩ về quá khứ. Vì thế, sẽ có những xung đột giữa 2 thế hệ, nhưng không bao giờ được khai trừ nhau. Sự nhiệt thành của tuổi trẻ cần được hướng dẫn bằng khôn ngoan của tuổi già.

– Khôn ngoan con người cần học là khôn ngoan của Thiên Chúa được mặc khải qua Tin Mừng. Chọn để lắng nghe Lời Chúa là chọn phần tốt nhất vì không ai có thể lấy đi khỏi được.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************