Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Is 40, 1-11
“Thiên Chúa an ủi dân Người”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi.
Và có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa, vì Ngài đã phán. Có tiếng bảo: “Hãy hô lên!”, và tôi nói: “Tôi sẽ hô lên điều gì?” Mọi xác phàm như cỏ dại; mọi vinh quang của nó đều như hoa ngoài đồng. Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, vì hơi Chúa đã thổi trên chúng. Vì chưng, dân là cỏ dại: Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, mà lời Chúa chúng ta tồn tại đến muôn đời.
Hỡi ngươi là kẻ đem tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ! Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng, và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như một mục tử. Người ẵm những chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2. 3 và 10ac. 11-12. 13
Đáp: Thiên Chúa chúng ta sẽ đến trong uy quyền (Is 40, 9-10).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. – Đáp.
2) Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. – Đáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên; đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. – Đáp.
4) Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. – Đáp.
ALLELUIA: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! – Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 18, 12-14
“Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
06/12/2022 – THỨ BA TUẦN 2 MV
Th. Ni-cô-la, giám mục
Mt 18,12-14
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT
“Cha của anh em, Đấng ngự trên trời cũng không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18,14)
Suy niệm: Đối với Thiên Chúa, con người quý giá vô cùng, vì đã được tạo dựng giống hình ảnh Ngài; vì thế, dù chỉ là một “trong những kẻ bé mọn nhất”, Ngài cũng không muốn bị hư mất. Ngài kêu gọi người tội lỗi hoán cải. Ngài là mục tử tốt lành luôn nâng niu, chăm sóc từng con chiên; dù chỉ một con chiên đi lạc, ông cũng tất tả đi tìm và đưa về ràn. Hơn nữa, Ngài dám thí mạng sống mình để chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10.15). Khi mặc khải Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót, Đức Giê-su khích lệ chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy đón nhận sứ điệp Ngài rao giảng là “sám hối và tin vào Tin Mừng” để được cứu độ.
Mời Bạn: Bí tích Giải tội là phương tiện để Chúa Giê-su lập trao ban lòng thương xót của Chúa. Chúng ta hãy để cho lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện và lan tỏa trong cuộc sống hôm nay khi chúng ta biết đón nhận ơn tha thứ nơi Bí tích Giải tội.
Chia sẻ: Bạn có kinh nghiệm gì về lòng thương xót của Chúa bạn khi nhận được ơn tha thứ nơi bí tích giải tội?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi xét mình, bạn “ăn năn tội cách trọn” bằng cách thật lòng “lo buồn đau đớn và chê ghét tội lỗi trên hết mọi sự” và quyết tâm chừa bỏ trước khi lãnh nhận bí tích Giải tội.
Cầu nguyện: Lạy Cha là Đấng đầy lòng trắc ẩn, con chạy đến van xin lòng thương xót của Cha, mặc dầu tội lỗi con rất to lớn và sự xúc phạm của con lại quá nhiều, nhưng con tín thác vào lòng thương xót của Cha vì chưa có ai tín thác vào Cha mà phải thất vọng. Amen. (x. Kinh cầu xin Lòng Thương Xót)
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu.
Nhiều nhà lãnh đạo dân Do-thái như Môsê, Đa-vít, đều làm nghề này.
Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn chiên là dân Do-thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ
Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà quên chăm sóc cho từng con chiên một.
Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào.
Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi mất thì đứng ngồi không yên,
khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.
Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.
Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI HAI
Sinh Bởi Thánh Thần
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Giáo Hội nhận Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, làm nguyên mẫu (prototype) của mình. Chân lý này được diễn tả bởi Công Đồng trong chương cuối Hiến Chế Giáo Hội. Hôm nay, một lần nữa, chúng ta ý thức về chân lý này.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”. Trong ánh sáng của những lời ấy, Mẹ Thiên Chúa đã không được nhìn thấy như là nguyên mẫu và là hình ảnh của Giáo Hội đó sao?
Giáo Hội được khai sinh qua biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ khi các vị đang tề tựu trong Căn Gác Thượng cùng với Đức Ma-ri-a. Giáo Hội được khai sinh khi “quyền năng Đấng Tối Cao” tuôn tràn Thánh Thần trên các Tông Đồ để giúp họ vượt thắng những yếu đuối của mình và khỏi vấp ngã khi phải đương đầu với sự bách hại vì Tin Mừng.
Mừng kính Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, phụng vụ dẫn chúng ta trở về với buổi ban đầu của lịch sử sáng tạo và cứu độ. Thật vậy, thậm chí phụng vụ đưa chúng ta trở về trước cả buổi bình minh sáng tạo nữa.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06/12/2022
Is 40, 1-11; Mt 18, 12-14.
Lời suy niệm: “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?..
Cha của anh em, Đấng ngự trên trời không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
“Tình yêu của Thiên Chúa không trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “ Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18,14) Người quả quyết: Người hiến dâng mạng sống “làm giá chuộc muôn người” (Ga 20,28) Lời tuyên bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế; lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hiến để cứu chuộc nhân loại ấy. Hội Thánh, theo sau các Tông Đò, dạy răng: “Đức Kitô đã chết cho mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người không chịu nạn cho. (GL 605)
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cho chúng con biết Chúa Cha không muốn cho một ai trong chúng con bị hư mất. Xin cho chúng con tin điều này và đặt trọn niềm tin và niềm hy vọng vào Ngài: là chúng con luôn được sống trong tình yêu thương, chăm sóc và gìn giữ của Ngài. Amen
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 06-12: Thánh NICÔLA
Giám Mục – (Thế kỷ IV)
Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.
Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là “sự chiến thắng của dân”. Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.
Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là “Mặt trời soi chiếu thế gian”. Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.
Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.
Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi…
Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: “Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng”.
Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.
Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.
Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.
Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.
Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu “bia”.
Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay .
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
06 Tháng Mười Hai
Hai Cánh Cửa Sổ
Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về cuộc sống.
Trong một vở kịch của Samuel Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau: “Tôi biết có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến thăm hắn trong dưỡng trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi nói với hắn: “Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi… Nhìn kìa, những cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!”. Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về góc phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ là một đống tro tàn xám xịt”.
Có một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Ðó là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như sau: “Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp của Ngài”.
Câu chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một người lại nhìn thấy những vì sao.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng.
Chúng ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.
Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng, được yêu thương.
Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi để không thất vọng về chính bản thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một tình yêu cá biệt… Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba, Tuần II – Mùa Vọng
Bài đọc: Isa 40:1-11; Mt 18:12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tha thứ
Con người thường có khuynh hướng yêu những người đáng yêu và lọai bỏ những người đáng ghét; nhưng nếu con người cứ theo khuynh hướng này, thì chẳng mấy chốc con người sẽ hết người để yêu, vì người nào cũng là tập hợp của cả cái đáng yêu và cái đáng ghét. Một tình yêu chân thật đòi mọi người phải biết yêu thương tha thứ cho tha nhân như Thiên Chúa luôn yêu thương tha thứ cho con người.
Các Bài đọc hôm nay đều xoay quanh chủ đề yêu thương và tha thứ. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah ví Thiên Chúa như Mục Tử: Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho khán giả: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Một con chiên lạc có thể không gây sự quan tâm cho con người, nhưng là một quan tâm cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là Mục Tử Tốt Lành, Ngài xuống trần để tìm những chiên lạc về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi người đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
1.1/ Dân chúng bị lưu đày vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Đền Thờ bị phá hủy, Thành Jerusalem bị san phẳng, vua quan và dân chúng bị lưu đày vì đã phạm tội và khinh thường những lời Chúa cảnh cáo qua các tiên tri. Chúa có quyền ngỏanh mặt để kẻ thù trừng trị đích đáng dân phản nghịch; nhưng Ngài không nỡ để dân phải chết, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Ngài phải sửa phạt để thanh luyện tội lỗi, nhưng luôn quan tâm và gởi các sứ giả đến khích lệ dân trong thời gian lưu đày, như trình thuật của Tiên Tri Isaiah hôm nay: “Thiên Chúa anh em phán: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm.”” Thành ở đây là Jerusalem, được nhân cách hóa để chỉ Israel.
1.2/ Tội sẽ được tha nếu dân biết ăn năn xám hối:
(1) Dân phải chuẩn bị đường cho Chúa tới: Vì dân đã phạm tội nên Thiên Chúa rời xa họ. Để được Thiên Chúa trở lại, họ phải thanh tẩy mọi tội lỗi đã xúc phạm đến Ngài; vì Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện, Ngài không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Thiên Chúa gởi sứ giả của Ngài tới tận nơi lưu đày để kêu gọi và giúp dân ăn năn trở lại. TT Isaiah tường thuật: “Có tiếng hô: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán.””
(2) Tội nặng nhất là tội không biết kính sợ Thiên Chúa: Trong hầu hết các Sách Khôn Ngoan, các tác giả đều tuyên xưng: “Kính sợ Đức Chúa là nguồn gốc mọi khôn ngoan.” Vì thế, không biết kính sợ Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điên rồ. Đọan văn kế tiếp nói lên sự rồ dại của con người: “Có tiếng nói: “Hãy hô lên!” Tôi thưa: “Phải hô lên điều gì?” “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững.””
Con người là cỏ hoa mà nghĩ mình sống không cần đến Thiên Chúa. Ngay từ đầu Sách, Tiên Tri đã kết án sự rồ dại này, và coi dân phản nghịch còn thua lòai bò lừa: “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán: “Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:2-3).
1.3/ Thiên Chúa sẽ đón nhận và chăn dắt dân nếu họ biết ăn năn trở lại: Thời gian Lưu Đày là thời gian thuận tiện để Israel biết ăn năn xét mình, và nhận ra họ không thể sống mà không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi họ biết phục tùng Thiên Chúa, Ngài sẽ làm cho họ những điều mà họ không bao giờ ngờ tới; vì Ngài nắm trong tay mọi chủ quyền. Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước 2 điều sẽ xảy ra khi dân biết ăn năn trở lại:
(1) Tương lai gần: Chúa sẽ cho dân hồi hương để tái thiết lại Đền Thờ và xứ sở: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Jerusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Judah rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.”
(2) Tương lai xa: Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cai trị dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.”
2/ Phúc Âm: Cha của anh em không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Con người có thể đặt câu hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể biết và quan tâm đến tất cả mọi người trong thế giới này? Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi của Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy quyền năng và sự quan tâm của Thiên Chúa đến tất cả mọi người.
2.1/ Thiên Chúa luôn tìm kiếm, dù chỉ một con chiên lạc: Chúa Giêsu đặt câu hỏi với con người: “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Đối với con người, một con chiên lạc không đáng kể gì, vì vẫn còn 99 con chiên khác; nhất là đối với những con chiên không chịu vâng lời, cố tình đi lạc. Nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài để 99 con chiên lại để đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được.
2.2/ Ngài vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc: Không những đi tìm con chiên lạc, “và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thế giới hôm nay đề cao chủ nghĩa cá nhân: chỉ quan tâm đến những gì ích lợi cho mình, và gạt bỏ những gì gây gánh nặng cho cuộc sống: người già, bệnh nhân, kẻ thù. Nếu Thiên Chúa cũng lọai bỏ như con người, làm sao chúng ta có cơ hội được cứu độ?
– Như lời Kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con;” chúng ta phải tha thứ cho nhau trước khi xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ.
– Cách tốt nhất để dễ tha thứ cho tha nhân là năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải. Mỗi khi xét mình trước khi xưng tội, chúng ta nhận ra rất nhiều cái đáng ghét nơi con người của mình. Điều này làm chúng ta nhìn lỗi lầm của tha nhân với lòng bao dung hơn, vì họ cũng yếu đuối tội lỗi như mình. Người không năng xét mình xưng tội rất dễ kết án tha nhân, vì họ tưởng mình không có tội.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************