Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Ba Mùa Giáng Sinh Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: 1 Ga 4, 7-10
“Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Điều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8
Đáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. – Đáp.
2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. – Đáp.
3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 4,22
Alleluia, alleluia! – Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 6, 34-44
“Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Đấng Tiên tri”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều. Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: “Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn”. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Họ thưa Người: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn”. Người nói với họ: “Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem”. Khi biết được rồi, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá”. Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
07/01/2020 – THỨ BA SAU LỄ HIỂN LINH
Mc 6,34-44
THẦY TRÒ CHẠNH LÒNG THƯƠNG
Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. (Mc 6,34a)
Suy niệm: Vừa ra khỏi thuyền, Đức Giê-su đã nhìn thấy “một đám người rất đông”, một đám người nheo nhóc, lếch thếch, đang chờ đợi Ngài. Chúa Giê-su thấy rõ họ đang đói khát của ăn thiêng liêng, đói khát ơn cứu độ. Họ mong mỏi những lời giảng dạy có sức làm no thoả tâm hồn như đàn chiên bơ vơ mong người chủ chăn dẫn tới đồng cỏ xanh tươi, dòng suối mát trong lành. Chúa đã chạnh lòng thương và cho họ no nê Lời Hằng Sống. Tuy nhiên, đến lúc mặt trời ngả bóng thì tới lượt các môn đệ của Đức Giê-su cũng phải chạnh lòng trước một nhu cầu thực tế mà cũng rất cấp bách. Các ông thưa Thầy đã trễ rồi và dân chúng rất đói. Nhu cầu thì quá hiển nhiên, mà lực thì bất tòng tâm, các ông không thể tự mình cung cấp thức ăn cho đoàn dân. May thay, các ông lại có sáng kiến trình bày ưu tư của mình cho Đức Giê-su và xin Thầy cứu giúp.
Mời Bạn: Đức Giê-su đã mời gọi các môn đệ đóng góp phần bánh và cá của mình cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra vì cả Thầy và trò cùng chung một mối lo cho một đám dân đói thực sự: Đói Lời Chúa và đói lương thực.
Sống Lời Chúa: Hãy để trái tim của bạn tập trung vào một người đang cần sự giúp đỡ của bạn trong ngày hôm nay. Bạn sẽ nhìn ra nhu cầu của người đó là gì và bạn hãy thực hiện như Thầy Giê-su đã chạnh lòng thương, bởi bạn là trò của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con cũng có trái tim luôn chạnh lòng thương như Chúa, và xin duy trì trái tim của con yêu thương mọi người cho đến hơi thở cuối cùng trong cuộc đời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 07/1
Thánh Raimunđô Penyafort, linh mục
1Ga 4,7-10; Mc 6, 34-44.
Lời Suy Niệm: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.”
Đứng trước cái đói của đám đông người anh em; Các Tông Đồ đã muốn tránh trách nhiệm, với nhiều lý do: “Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn!” – “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” Với những lý do mà các Tông Đồ nêu ra. Đối với Chúa Giêsu, Người đòi hỏi nơi các ông phải có trách nhiệm: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con luôn hướng về Chúa trong mọi sự, đặc biệt đối với người nghèo đói và bệnh tật; để nhận được ơn ban của Chúa mà phân phát lại cho người anh em.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01: THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào, Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.
Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: – “Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế u sầu”.
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách “Summa Contra Ghentiles” Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên cáo: – Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng: – Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên “Tàu” nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp “tàu” hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
07 Tháng Giêng
33 Năm Sau
Với tựa đề “33 năm sau”, đó là một câu chuyện thuật lại như sau: “Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?”. Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: “Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?”. Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử “tử hình thập giá”.
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: “Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm”.
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?”. Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: “Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài”.
Trong lúc Pphêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Bài đọc: 1 Jn 4:7-10; Mk 6:34-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu thương là san sẻ cho tha nhân những gì mình có.
Đức bác ái (charity) là nhân đức quan trọng nhất trong các nhân đức của Kitô giáo; nhưng để hiểu biết và thực thi nhân đức này đòi chúng ta phải có cái nhìn tổng thể về nhân đức này qua những lời dạy của các thánh ký trong Kinh Thánh; nhất là trong tin mừng của thánh Gioan và các Thư của thánh Phaolô cùng với những cắt nghĩa của thánh Thomas Aquinas về các nhân đức đối thần trong bộ Tổng Luận Thần Học của ngài.
Hai bài đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu biết một số nền tảng của nhân đức này. Trong bài đọc I, tác giả cho chúng ta biết đức bác ái bắt nguồn từ Thiên Chúa, chứ không bắt nguồn từ con người. Có nhiều động từ trong tiếng Hy-lạp dùng để biểu lộ tình yêu của con người dành cho nhau như eran, tình yêu xác thịt, hay philein, tình yêu huynh đệ hay tự nhiên giữa các thành viên trong gia đình; nhưng để diễn tả tình bác ái, các tác giả dùng động từ agapein, từ này được dùng để chỉ tình bác ái đến từ Thiên Chúa qua con người và lan tràn qua nhau. Thánh Thomas Aquinas xếp loại đức bác ái là một trong ba nhân đức đối thần vì nó đến từ Thiên Chúa và có đối tượng chính là Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi đức bác ái là nhân đức cao trọng nhất vì tất cả các nhân đức khác sẽ qua đi; nhưng chỉ có đức bác ái tồn tại suốt đời. Trong Phúc Âm theo thánh Marcô, Chúa Giêsu dạy các môn đệ không chỉ yêu thương bằng môi miệng; nhưng phải san sẻ những gì mình có cho người khác cách vô vị lợi, nhất là trong lúc túng cực.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bác ái là giới răn quan trọng nhất của các Kitô hữu.
1.1/ Nguồn gốc của đức bác ái: Tác giả Thư thứ nhất Gioan xác quyết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.”
(1) Bắt nguồn từ Thiên Chúa: Theo thánh sư Thomas, các nhân đức khác có thể do con người tập luyện mà có; nhưng con người không thể có ba nhân đức đối thần: tin, cậy và mến, nếu Thiên Chúa không ban tặng. Thánh Gioan cũng cùng một ý nghĩ nhưng diễn tả cách khác hơn tiến trình của đức bác ái như sau:
– Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy.
– Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Chúng ta ở lại bằng cách thực thi những điều răn Chúa truyền.
– Như Thầy yêu anh em thế nào, anh em cũng phải yêu thương nhau như vậy. Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Trong tất cả những động từ yêu thương này, thánh Gioan đều dùng động từ agapein.
(2) Lan rộng qua mọi người: Hiểu như thế, đức bác ái bắt nguồn từ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu và lan tràn tới các tông đồ. Các tông đồ cần phải ở lại trong tình yêu này để được trở nên hoàn hảo trước khi các ông có thể đối xử với nhau và với tha nhân bằng thứ tình yêu này.
1.2/ Biểu lộ đức bác ái: Đức bác ái không thuần hiểu biết nhưng được biểu lộ cách rất cụ thể qua những dẫn chứng sau đây:
(1) Thiên Chúa biểu lộ đức bác ái bằng cách Ngài hy sinh và ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã hy sinh ban cho chúng ta món quà quí giá nhất thì Ngài sẽ không giữ lại tất cả những gì có thể ban mà lại không ban cho chúng ta, như câu nói bất hủ của Jn 3:16: “Vì Ñöùc Chuùa Trôøi yeâu thöông theá gian, ñeán noãi ñaõ ban Con moät cuûa Ngaøi, haàu cho heã ai tin Con aáy khoâng bò hö maát maø ñöôïc söï soáng ñôøi ñôøi.”
(2) Khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô theo kỳ hạn đã đến thế gian và hy sinh thân mình để làm của lễ đền tội cho chúng ta. Chúa Giêsu không chờ chúng ta trở nên tốt lành rồi mới yêu thương chúng ta; nhưng Ngài yêu thương khi chúng ta còn là tội nhân. Vì Ngài yêu thương nên chúng ta mới được hưởng ơn cứu độ qua cái chết của Ngài.
(3) Sau khi đã được thấm nhuần tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cách cụ thể là chúng ta phải sẵn sàng làm chứng cho Thiên Chúa và hy sinh cho tha nhân dẫu có phải hy sinh đến mạng sống mình.
2/ Phúc Âm: Bác ái phải được biểu tỏ bằng hành động.
2.1/ Chúa Giêsu biểu tỏ bác ái bằng việc dành nhiều thời gian để dạy dỗ dân chúng, vì Ngài biết rõ:
(1) Đau khổ nhất của dân chúng là không biết sự thật: Con người thường chú trọng đến những thiệt hại phần xác mà quên đi những thiệt hại do việc thiếu hiểu biết mang lại. Thiên Chúa và những bậc khôn ngoan chú trọng đến việc không biết sự thật, vì sự không biết này gây đau khổ và thiệt hại cho dân nhiều hơn là việc thiếu cơm bánh.
(2) Vì thế, khi xuống trần, sứ vụ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện là rao giảng Tin Mừng, huấn luyện và chọn các môn đệ để tiếp tục sứ vụ của Ngài nơi trần gian sau khi Ngài về trời. Trình thuật của Marcô hôm nay nhấn mạnh sứ vụ quan trọng này như sau: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”
2.2/ Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ Ngài thi hành bác ái bằng việc cho dân chúng ăn.
Phép lạ Bánh hoá nhiều để nuôi năm ngàn người ăn là phép lạ được tường thuật bởi cả bốn thánh sử. Ngoài ra, một phép lạ khác Chúa Giêsu cũng làm để nuôi bốn ngàn người ăn cũng được tường thuật bởi Mk 8:1-10. Điều này dẫn chứng mặc dù sứ vụ dạy dỗ dân là sứ vụ quan trọng nhất; nhưng Chúa Giêsu không bỏ qua những gì cần làm để giúp dân chúng có của ăn nuôi dưỡng thân xác.
(1) Phản ứng của các môn đệ: Các ông có lẽ nghĩ dân chúng cần của ăn nuôi dưỡng thân xác, chứ không thể cứ nghe giảng mãi. Các ông đến gần thưa với Chúa Giêsu cách thực tế: “Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi! “
“Đồng tiền liền khúc ruột.” Phản ứng đầu tiên của các ông khi nghe lời Chúa Giêsu truyềnlà tiếc tiền: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao? ” Một quan tiền thời Chúa Giêsu là lương công nhật của một người. Hai trăm quan tiền tương xứng với 200 ngày lao động, một số tiền lớn cho dân nghèo. Các ông có thể nghĩ bổn phận của các ông là cộng tác với Chúa Giêsu trong việc giáo dục dân chúng, còn bổn phận tìm của ăn hàng ngày thì chính dân chúng phải lo liệu.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài tiếp tục hỏi họ: “Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem! ” Khi biết rồi, các ông thưa: “Có năm chiếc bánh và hai con cá.”Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh.Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. Ai nấy đều ăn và được no nê.Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.
2.3/ Chúa Giêsu là tác nhân chính, còn các môn đệ là người cộng tác với Ngài trong việc nuôi dưỡng dân chúng.
Mặc dù Chúa có quyền năng và biết những gì Ngài sắp làm để cho dân ăn, nhưng Ngài vẫn muốn các môn đệ hợp tác với Ngài trong việc nuôi dưỡng dân chúng; nhất là Ngài muốn dạy các ông phải thực thi bài học bác ái: không chỉ bằng môi bằng miệng; nhưng biết san sẻ những gì mình có cho tha nhân. Nếu việc san sẻ của ăn uống mà các ông không làm được còn nghĩ gì đến chuyện hy sinh bản thân mình để chết cho tha nhân?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức bác ái là nhân đức quan trọng và cần thiết nhất trong đời sống của các Kitô hữu.
– Tuy nhân đức này bắt nguồn từ Thiên Chúa; nhưng bổn phận làm cho nhân đức này trở nên hoàn thiện cần sự luyện tập tích cực từ con người.
– Chúng ta cần bác ái trong cả việc giáo dục lẫn san sẻ những của cải vật chất cho tha nhân khi họ cần và chúng ta có thể san sẻ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta dành cho tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************