Ngày thứ ba (15-10-2019) – Trang suy niệm

14/10/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I:    Rm 1, 16-25

“Dẫu loài người biết Thiên Chúa, họ không tôn vinh Người cho xứng với Thiên Chúa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi không hổ thẹn đạo Phúc Âm: vì đó là sức mạnh của Thiên Chúa để cứu độ mọi kẻ có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Vì trong đó, đức công chính của Thiên Chúa được tỏ ra bởi đức tin, nhằm vào đức tin, như có lời chép rằng: “Người công chính sống bởi đức tin”.

Quả thực, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa từ trời cao hiện ra trừng phạt những người vô đạo, bất công, cầm giữ chân lý của Thiên Chúa trong đường tà: vì chưng hễ sự gì có thể biết được về Thiên Chúa, thì đã được biểu lộ trong họ rồi, bởi Thiên Chúa đã tỏ bày cho họ. Từ khi sáng tạo thế gian, qua những loài thụ tạo, họ đã có thể nhìn nhận, hiểu biết những sự không trông thấy được của Thiên Chúa, nhất là quyền năng đời đời và thiên tính của Người, nên họ không thể chữa mình được. Vì dẫu họ biết Thiên Chúa, họ không tôn vinh, không cảm tạ Người cho xứng với Thiên Chúa, song họ đã lầm lạc trong những hư tưởng của họ, và tâm trạng ngu muội của họ đã ra mù tối. Họ tự khoe là khôn ngoan, nhưng họ đã hoá ra điên dại. Họ đã hoán đổi vinh quang của Thiên Chúa bất hủ ra giống như hình ảnh của loài người hay chết và của loài chim, loài thú bốn chân và rắn rết. Vì thế, Thiên Chúa để mặc cho họ buông theo lòng dục vọng tìm sự dâm ô, thậm chí làm ô nhục đến chính bản thân họ. Họ là những người đã hoán đổi sự chân thật của Thiên Chúa ra sự dối trá, đã thờ tự và phụng sự loài thọ tạo thay vì Đấng Tạo Hoá, Người đáng chúc tụng muôn đời. Amen!. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 18, 2-3. 4-5

A+B=Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).

A)Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia.    

B)Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.

A+B=Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).

Bài đọc cho lễ Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

BÀI ĐỌC I: Rm 8, 22-27

“Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng cho đến nay, mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta. Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa. Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.

Đàng khác, cũng có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 11

A+B=Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (x. Ga 6, 64b).

A=Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

B=Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

A=Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.

B=Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong.

A+B=Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (x. Ga 6, 64b).

ALLELUIA:  Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

PHÚC ÂM:  Lc 11, 37-41

“Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.

Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: “Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

15/10/2019 – THỨ BA TUẦN 28 TN

Th. Tê-rê-xa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ HT

Lc 11,37-41

TÔI, PHA-RI-SÊU!

Có một ông Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà dùng bữa. Tới nơi, người liền vào bàn ăn. Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước khi ăn. (Lc 11,37-38)

Suy niệm: Nghi thức thanh tẩy như rửa tay trước khi ăn, đối với những người Pha-ri-sêu thật quan trọng. W. Barclay mô tả những qui định về việc rửa tay này thật tỉ mỉ: phải dùng thứ nước dành riêng cho nghi thức này, phải đổ nước từ đầu ngón tay cho tới cổ tay, phải dùng tay này nắm lại kỳ cọ lòng bàn tay kia, sau đó lại đổ nước, lần này từ cổ tay đến đầu ngón tay. Nếu sai sót một chi tiết nào đều là có tội. Ông Pha-ri-sêu này “lấy làm lạ” vì Chúa Giê-su không rửa tay, bởi ông coi điều phụ tuỳ như điều chính yếu, coi hình thức bên ngoài thay thế tâm hồn bên trong.

Mời Bạn: Lắm khi, chúng ta chẳng khác gì ông Pha-ri-sêu này. Có một cái gì đó rất “Pha-ri-sêu” ở trong chúng ta. Chúng ta làm một việc gì đó được coi là đạo đức, như lần chuỗi, đi lễ, rước lễ chẳng hạn, và chúng ta dò xét thấy người khác không làm việc đó hoặc làm không giống mình. Thế là ta vội qui kết người đó là tội lỗi hay ít là không đạo đức bằng chúng ta. Như thế không phải là có một ông Pha-ri-sêu đang “ngự” trong lòng mình đó sao?

Chia sẻ: Bạn hãy so sánh thái độ của bạn khi phê phán chỉ trích ai với cũng thái độ của bạn khi bị người khác chê bai chỉ trích không? Bạn có thấy sự trái ngược không?

Sống Lời Chúa: Thay vì soi mói điều xấu nơi người khác, bạn nhận ra điều tốt nơi người khác và thành thật khen ngợi họ.

Cầu nguyện: Xin Chúa triệt hạ tận gốc rễ tính kiêu căng, khoe khoang và hám danh đang ẩn núp trong tâm hồn con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG MƯỜI

Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái

Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 15/ 10

Thánh Têrêsa Giêsu, trinh nữ,

Tiến sĩ Hội Thánh

Rm 1, 16-25; Lc 11, 37-41.

LỜI SUY NIỆM: “Thật, nhóm Pharisêu các người, bên ngoài chén dĩa, thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc và gian tà.”

          Chúa Giêsu đang mời gọi tất cả mọi Kitô hữu trong đời sống đạo, điều cần thiết nhất không phải là phải tuân giữ cho những nghi lễ hình thức bên ngài của tôn giáo mà thiếu hẳn tình yêu và đức công chính. Nhưng cần phải thực hành đức bác ái; rộng mở cửa lòng mình đón nhận Chúa với Ơn Thánh của Người mà sống với người anh em, đặc biệt đối với những thân nhân và những người nghèo khó.

          Lạy Chúa Giêsu. Trong đời sống của chúng con, đã nhiều lần chúng con đã sống đạo với những hình thức bên ngoài, và cũng đã nhìn qua những hình thức bên ngoài đó mà đã lên án nhau. Xin cho tất cả chúng con luôn biết canh tân đời sống đạo bằng chính Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội với đức Ái.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 15-10

Thánh TÊRÊXA AVILA

Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)

Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh “. Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: – Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?

Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.

Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.

Têrêxa có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: – Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.

Ngài còn nói: – Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.

Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.

Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.

Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.

Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.

Ngày kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.

Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: – Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.

Một thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: – Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.

Ngài tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.

ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: – Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.

Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: – Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.

Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số… đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: – Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.

Người ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.

Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và “Lâu Đài Nội Tâm” là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:

– Phải can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.

– Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.

– Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.

– Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.

– Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.

– Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.

Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: – Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.

Lòng Ngài rảo khắp thế giới: – Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.

Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.

Ngài được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Mười

Người Ðàn Bà “Rất Ðàn Bà” 

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng “Xin vâng”. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần 28 TN1

Bài đọc: Rom 1:16-25; Lk 11:37-41.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Liên hệ giữa cái bên ngoài và cái bên trong

Cái bên ngoài là dấu chỉ của thực tại bên trong, vì “lòng có đầy miệng mới nói ra.” Cái bên ngoài không tự ý nó đứng vững, mà phải được nâng đỡ bởi cái bên trong; ví dụ, việc giúp đỡ người nghèo là biểu tỏ tình yêu của một người bên trong; nhưng nếu không có tình yêu bên trong, việc giúp đỡ người nghèo sẽ chỉ là cách để lấy tiếng khen, và sẽ không thể tồn tại lâu dài được.

Các Bài Đọc hôm nay muốn nói lên sự liên hệ giữa các hành động bên ngoài với tâm tình bên trong. Trong Bài Đọc I, Thánh Phaolô xác tín: dựa vào những cái bên ngoài là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, con người phải nhận ra uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, để con người tin vào Ngài, và thờ phượng Ngài cho đúng đạo làm con. Nếu không, con người sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả tai hại cho cuộc sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng các Biệt-phái chỉ biết chú trọng đến cái bên ngoài như việc rửa tay trước khi ăn. Ngài mời gọi họ hãy chú trọng nhiều hơn đến việc thanh tẩy bên trong, để biết sống theo sự thật, lòng nhân từ, và công lý; vì Thiên Chúa sẽ xét xử con người theo những yếu tố bên trong đó.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hai cách Thiên Chúa mặc khải cho con người.

1.1/ Tin Mừng mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa: Con người không thể tự sức mình biết những ý định của Thiên Chúa, vì Ngài vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Nhưng Thiên Chúa chọn để tỏ mình cho con người biết các ý định của Thiên Chúa, nhất là qua việc nhập thể của Đức Kitô, người Con Một của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô đã mặc khải cho con người biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa qua Tin Mừng Ngài rao giảng, và các thánh ký đã viết lại Tin Mừng này.

Thánh Phaolô xác tín: ”Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.” Tin vào Đức Kitô là một mầu nhiệm, vì đức tin không phải hoàn toàn do sự cố gắng của con người; nhưng còn tùy thuộc vào sự trợ giúp của Thiên Chúa như cho có cơ hội để nghe giảng, có người rao giảng, và ban ơn thánh thần để hiểu biết sự thật.

1.2/ Thiên nhiên mặc khải sự hiện hữu và vinh quang của Thiên Chúa.

(1) Kiến thức con người có thể nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa: Theo thánh Phaolô, với sự khôn ngoan tối thiểu, con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua thiên nhiên, những công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: ”Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được.”

Khi không nhận ra Thiên Chúa qua thiên nhiên, trí óc con người còn thua khả năng nhận thức của loài vật. Tiên tri Isaiah đau đớn nói lên một sự thật: con bò biết chủ, con lừa biết máng của chủ; con người không biết Đấng tạo dựng ra mình. Kinh nghiệm con người cũng chứng minh: con chó biết vẫy đuôi khi chủ cho khúc xương, con mèo biết nép mình bên chân chủ khi được gọi; con người không biết cám ơn Thiên Chúa về tất cả những gì Thiên Chúa làm cho họ! Đối với hạng người không nhận ra và cảm tạ Thiên Chúa, Phaolô trách họ: ”vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ.”

(2) Khi con người không thờ phượng Thiên Chúa, họ sẽ phải lãnh nhận những hậu quả tai hại: ”Thật vậy, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý.” Kinh nghiệm đời dạy chúng ta: nếu không chịu tuân theo luật lệ, con người sẽ phải lãnh nhận hậu quả tai hại. Vài ví dụ sẽ làm sáng tỏ vấn đề: Trong nông nghiệp, nếu chủ ruộng không chịu gieo đúng thời tiết, ông sẽ không gặt hái được mùa màng. Hay trong luật kiến trúc, nếu thợ xây không chịu theo đúng sơ đồ đã vẽ, nhà cửa có thể bị sập. Hay trong luật giao thông, nếu một người không chịu theo sự chỉ dẫn của luật đi đường, người đó có thể mất mạng sống cách dễ dàng. Tương tự như thế trong lãnh vực đức tin, nếu con người không chịu theo những lời dạy dỗ của Thiên Chúa, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả tai hại cả đời này và đời sau. Đời này, họ sẽ bị hướng dẫn vào mọi sự điên rồ: ”thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết.” Họ sẽ bị hướng dẫn vào các đồi bại về luân lý: ”Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế, khiến thân thể họ ra hư hèn.”

2/ Phúc Âm: Hãy chú trọng tới sự thanh sạch của tâm hồn.

2.1/ Nhóm Pharisees chú trọng đến hình thức bên ngoài: Rửa tay trước khi ăn nằm trong luật thanh sạch của người Do-thái. Chúa Giêsu không chống lại việc rửa tay trước khi ăn, nhưng Ngài muốn nhấn mạnh đến việc thanh sạch tâm hồn bên trong hơn là thanh sạch bên ngoài. Những người biệt-phái có thể nghĩ không ai biết được những gì đang xảy ra trong tâm hồn họ; nhưng chỉ có thể nhìn thấy và đánh giá những hành động họ làm bên ngoài; do đó, họ chú trọng đến việc cầu nguyện nơi công cộng để mọi người thấy họ đạo đức; ủ rũ khi ăn chay để mọi người thấy họ biết ăn năn, thống hối; khua chiêng vỗ trống khi làm phúc bố thí để mọi người biết họ thương người nghèo. Chúa đã từng đả kích những hành động giả hình này và dạy các môn đệ làm ngược lại: khi cầu nguyện, vào phòng đóng cửa lại; khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu; khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm. Chúa Giêsu chống việc đánh giá chỉ dựa trên những hình thức bên ngoài; vì nó không thật, giả hình, và đánh lừa tha nhân. Nó cũng nguy hiểm cho chính người làm vì họ sẽ có nguy cơ bị tha hóa: khi đã quá quen với những hành động giả nhân, giả nghĩa, họ không còn nhận ra sự thực nữa, đeo mặt nạ mà tưởng là mặt thật của mình.

2.2/ Chúa mời gọi con người chú trọng đến tâm hồn bên trong: Tâm hồn thành thực bên trong là điều quí trọng trước nhan thánh Chúa; vì Ngài nhìn thấu suốt những cái mà con người không nhìn được. Thánh Luca nhắc nhở những ai muốn đánh lừa Thiên Chúa bằng các hình thức bên ngoài: “Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.” Nếu một người có tâm hồn cao đẹp bên trong, họ sẽ biểu tỏ qua lời nói và các hành động bên ngoài. Đó là những người có tâm hồn chân thật và yêu thương tha nhân tận đáy lòng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta bằng nhiều cách. Để nhận ra Ngài, chúng ta cần có một tâm hồn khiêm nhường, hăng say học hỏi, và biết quí trọng sự thật.

– Khi con người chối từ Thiên Chúa, họ sẽ bị dẫn vào các lầm lạc của thế gian. Hậu quả là một cuộc sống vô luân, làm nô lệ cho ma quỉ, và lạc xa đích điểm của cuộc đời.

– Chúng ta hãy biết sống chân tình với Thiên Chúa và với tha nhân. Một cuộc sống hời hợt và giả hình sớm muộn rồi cũng bị phát giác; và nhất là, không mang lại cho chúng ta kết quả tốt đẹp.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************