Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Ba Tuần XXXIII Mùa Thường Niên Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: 2 Mcb 6, 18-31
“Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi”.
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng, ông đã có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường. Hiểu rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái không ăn đồ cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén ông ra khuyên ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng, rồi ông chỉ giả vờ ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ thoát chết; và do tình bạn cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất là sống xứng với lề luật thánh mà chính Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông nói:
“Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên tưởng rằng Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi vì sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi. Mà dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi”.
Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông đổi lòng thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa nói mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi thở cuối cùng: “Lạy Chúa là Đấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa”. Và như thế ông từ giã cuộc đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương anh dũng và một lưu niệm đạo đức. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
A+B: Chúa đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
A) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều thay người nổi dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: “Hết trông hắn được Chúa Trời cứu độ”.
B) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con, Chúa cho con ngẩng đầu lên. – Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ núi thánh của Ngài.
A) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi.
A+B: Chúa đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
ALLELUIA: Lc 21, 28 – Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 19, 1-10
“Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư mất”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
16/11/2021 – THỨ BA TUẦN 33 TN
Th. Ma-ga-ri-ta Xcốt-len và Giê-tơ-rút, trinh nữ
Lc 19,1-10
TÌM LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT
Chúa Giê-su nhìn lên và nói với Da-kêu: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” (Lc 19,5)
Suy niệm: Là người đứng đầu ngành thuế tại một thành phố lớn như Giê-ri-cô, ông Da-kêu chắc chắn là rất giàu có và nhiều thế lực. Nhưng thật ra ông không hạnh phúc vì bị mọi người khinh miệt và căm ghét. Với một thân mình thấp bé, chen lấn giữa đám đông không chút thiện cảm, thật không dễ chịu tí nào cho Da-kêu. Khi đứng vắt vẻo trên một cành cây sung, ông lại cô đơn hơn bao giờ hết: bị chường mặt ra như một trò cười trước hàng trăm cặp mắt. Hiểu được tình huống khó khăn ấy của Da-kêu ta mới thấy cảm động thay chút tia sáng le lói của niềm hy vọng trong tâm hồn tăm tối của ông: mong được nhìn thấy Chúa, dù chỉ từ xa. Và càng cảm động hơn, ánh mắt “nhìn lên” đầy nhân từ của Chúa, Đấng đã “không nỡ dập tắt tim đèn còn khói,” cái nhìn ấy đã biến đổi Da-kêu thành một con người mới.
Mời Bạn: chậm rãi đọc lại đoạn Tin Mừng hôm nay một lần nữa để tâm hồn bạn có thể rung cảm trước một Da-kêu dù trong đêm tối của tâm hồn như thế vẫn không đánh mất niềm hy vọng, và để tâm hồn bạn cũng được biến đổi trước cái nhìn nhân từ của Đức Ki-tô.
Chia sẻ: Lắm khi cái nhìn xét nét đầy thành kiến của chúng ta đã dập tắt nốt chút thiện chí còn sót lại nơi những người mà chúng mình vẫn coi là “kẻ tội lỗi”. Thảo luận để tìm cách loại bỏ lối nhìn đó ra khỏi đời sống cộng đoàn.
Sống Lời Chúa: Thay vì cái nhìn dò xét để bắt lỗi, bạn có cái nhìn quan tâm để cảm thông và cảm hoá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con nhìn anh em bằng con mắt của Chúa, và giúp con yêu thương anh em bằng con tim của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Ở thành phố Giêricô không chỉ có anh mù Báctimê ngồi ăn xin,
mà còn có ông Dakêu, đứng đầu các người thu thuế.
Ông là người giàu có, nhưng thật ra ông là người nghèo,
vì ông bị mọi người khinh rẻ bởi cái nghề thu thuế của ông.
Dakêu đi chung với đám đông, theo sau Đức Giêsu.
Ông có một khao khát mãnh liệt là được thấy mặt Ngài,
vì chắc ông đã nghe nhiều người nói về vị ngôn sứ khác thường ấy.
Giêsu không khinh giới thu thuế, trái lại còn kết bè kết bạn với họ.
Giêsu là ai? Đó là người ông tìm cách gặp mặt (c. 3).
Có hai cản trở khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khó khăn.
Đám đông vây quanh Đức Giêsu khiến ông không thấy Ngài.
Hơn thế nữa, thân hình ông lại thấp bé.
Nhưng Dakêu không dễ nản lòng.
Ông chạy đón đàng trước và leo lên một cây sung để thấy Đức Giêsu,
vì ông biết thế nào Ngài cũng đi qua đó.
Như thế ông đã vượt qua được đám đông và sự thấp bé của mình.
Để vượt qua thì phải chạy chứ không đi từ từ,
và phải vất vả leo lên cao, vượt lên trên cái tôi nhỏ bé.
Dakêu khao khát đến mức nào mới dám nghĩ và dám làm như vậy.
Điều mà Dakêu không ngờ là Đức Giêsu đã dừng lại nơi cây sung,
và ngước mắt nhìn lên ông đang nằm bò trên cây như một đứa trẻ.
Ánh mắt của Ngài kéo theo hàng trăm cái nhìn khác của đám đông.
Dakêu chắc xấu hổ luống cuống, còn Đức Giêsu thì hạnh phúc tràn trề.
Dường như Ngài quên đám đông, để chỉ nghĩ đến con chiên lạc này.
“Dakêu, xuống nhanh đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (c. 5).
Đây là một lời hối thúc dịu dàng và một đề nghị bất ngờ.
Dakêu ngỡ ngàng kinh ngạc trước ánh mắt ấy, lời nói ấy.
Ông đã nhanh chóng leo xuống và dẫn Đức Giêsu về nhà mình.
Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không biết,
nhưng chắc chắn đó là đoạn đường đầy niềm vui.
Dakêu bỗng thấy mình mất đi mặc cảm tự ti, lấy lại được danh dự,
vì Đức Giêsu sắp đến nhà ông, căn nhà ít ai muốn đến (c. 7).
Ông chỉ muốn thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn vén mở lòng mình.
Cách cư xử của Ngài đối với một người tội lỗi như ông
đã làm lòng ông tan chảy và mời gọi ông đổi đời.
Những thứ ông từng say mê, bây giờ chẳng có gì hấp dẫn.
“Tôi xin cho người nghèo nửa tài sản của tôi…” (c. 8).
Dakêu đã hoán cải một cách bất ngờ, tự nguyện, sâu xa và cụ thể.
Cuộc đổi đời của Dakêu là kết quả của việc hai người đi tìm nhau.
Không phải chỉ Dakêu mới là người đi tìm.
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (c. 10).
Dakêu dạy cho chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa trong đời.
Phải ước ao cho mãnh liệt, rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường,
ngay cả khi ở trong tình huống tưởng như tuyệt vọng.
“Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (c. 9).
Dakêu đã quảng đại và vui sướng mở lòng để đón lấy ơn cứu độ đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Dakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản Ảnh Tình Yêu Của Đức Kitô
Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu chúng ta muốn nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng nhằm làm một động thái nhắc chúng ta nghĩ đến những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc chúng ta về ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của tình yêu vợ chồng. Tình yêu này là một dấu hiệu và một sự thông dự trong chính tình yêu vốn tồn tại giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu ấy không thể chịu sự chi phối của những thay đổi thất thường và bất định của cuộc sống. Không, nó có thể và phải là một sự dấn thân vĩnh viễn không thể phân ly và không thể phá hủy. Như vậy, tình yêu vợ chồng mở ra tới những viễn tượng vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa và của cuộc sống bất diệt.
Mẫu thức tối thượng và siêu việt này của tình yêu vợ chồng được minh họa cho chúng ta trong Thư Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta khám phá nền tảng cho việc chọn lựa hôn nhân để chúng ta thực sự hạnh phúc và sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn lựa đời sống hôn nhân Kitô giáo nâng đỡ và đào sâu tình yêu của chúng ta trong những lúc gặp khó khăn thử thách, giúp làm cho tình yêu của chúng ta tinh tuyền hơn và sinh hoa trái nhiều hơn.
Chúng ta cần đánh giá tình cảm của mình trong ánh sáng của nhận thức nói trên về tình yêu vợ chồng. Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo rằng một tình yêu đích thực và một cuộc hôn nhân Kitô giáo đích thực sẽ được bộc lộ rõ rệt trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả là một bí tích. Chúng ta bắt đầu thoáng thấy các lý tưởng của tình yêu và khả năng sinh hoa trái mà mỗi người vợ người chồng Kitôhữu đều được mời gọi đạt đến với sự hỗ trợ của ân sủng.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16/11
Thánh nữ Margarita Scotland
Thánh Gertruđê, trinh nữ
2Mcb 6, 18-31; Lc 19, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Đây là lời mời gọi và thông báo của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu; và Dakêu đã mau mắn đáp lại lời của Chúa Giêsu. Qua câu chuyện Tin Mừng này giúp cho mỗi người trong chúng ta vững tin vào lòng thương xót của Chúa, không được mặc cảm với tội lỗi của mình, nhưng biết tìm đến với Chúa và với tình thương của Ngài sẽ biến đổi mỗi người trong chúng ta, như Dakêu đã được biến đôi sau khi tìm gặp Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Lạy Chúa Giêsu. Ơn lành của Chúa luôn tuôn đổ trên mọi người. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn hướng về Chúa và năng gặp Chúa qua Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó trong mọi hành động, mọi tư tưởng, tâm tình và chọn lựa của chúng con được đẹp lòng Chúa hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 16-11
Thánh GERTRUĐÊ
Đồng Trinh (1256 – 1301)
Thánh GERTRUDÊ sinh ra vào ngày lễ Hiển linh năm 1256. Người ta không biết gì về cha mẹ Ngài, nhưng chắc hắn cha Ngài đã có lòng đạo đức sâu xa và đã dâng con gái 5 tuổi của mình làm tu sĩ tu viện Helfia theo luật dòng thánh Benedictô. Chẳng may Ngài lại trùng tên với vi tu viện trưởng. Ngài lớn lên xa mọi thú vui thế gian và sớm chứng kiến hoạt động trí thức lớn mạnh.
Trong bầu khí chiến tranh, nhà dòng trốn về Rossdorf, rồi vì thiếu nước lại trở về Helfta. Thánh Mechtilde chị của tu viện trưởng Gertrudê đứng trường. Người nữ tu trẻ GERTRUDÊ say mê quên bỏ đời sống cầu nguyện. Việc trau dồi văn chương nghệ thuật thu hút Ngài đến nỗi Ngài nói rằng vào thời đó “Ngài lo lắng cho tâm hồn chỉ bằng lo lắng cho đôi chân của mình thôi”.
Vào lúc 25 tuổi, trong một thị kiến, Chúa Kitô đã trách móc Ngài là đã bỏ Chúa mà lo học hành. Thế là đảo lộn tất cả: “Mọi bồng bột tuổi trẻ đối với con bắt đầu xem ra lạt lẽo vô vị. Lạy Chúa, Chúa là chân lý trong suốt hơn mọi ánh sáng, nhưng sâu thẳm hơn mọi bí mật. Chúa đã quyết phá tan những bóng đêm đậm đặc của con”. Và thị kiến kết thúc bằng một cuộc trở lại. Ngài đã kể lại và nói: “Trong một niềm vui của tinh thần mới, tôi bắt đầu tiến tới”.
Gertrudê chỉ còn muốn học và suy gẫm thánh kinh, các giáo phụ và các nhà thần học. Ngài kiềm chế tính hiếu động bằng việc hãm mình dữ dằn và sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa. Đáp lại việc hiến thân hoàn toàn ấy, Ngài được nhiều ơn thần bí phi thường. Ngài được mạc khải nhiều lần trong khi hát kinh nhật tụng viết lại những mạc khải này trong cuộc khảo luận.
Cùng với thánh nữ Mechtilde, Ngài là người đầu tiên tỏ bày lòng tôn sùng Trái Tim Chúa. Lúc đó Gertrudê 35 tuổi. Sức khỏe Ngài không cho phép Ngài giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa, Ngài chỉ còn là phó ca trưởng. Nghi ngờ nhiều, Ngài chỉ thấy sự thấp kém và hư không của mình mà chạy đến với ý kiến của thánh Mechtilde là ca trưởng. Chúa đã tỏ cho thánh Mechtilde: “Cuộc đời của Gertrude là một thánh ca liên tục ca ngợi vinh quang Cha. Trên trần gian này, sau bí tích Thánh Thể, Cha chỉ cư ngụ cách đặc biệt trong lòng Gertrudê”.
Thánh nhân được ơn những dấu đinh vô hình và một vết thương trong lòng. Các sách của Ngài chỉ được phổ biến 200 năm sau, cho thấy đời sống nội tâm nồng nhiệt của Ngài, Ngài liên kết say mê với phụng vụ cố gắng đồng nhất đời mình với những mầu nhiệm mà chu kỳ phụng vụ nhắc lại. Ngài muốn chịu khổ vì phần rỗi anh em và tìm những lời nồng cháy để cải hoá các tội nhân và đổ ra nhiều nước mắt vì những đau khổ gây nên cho Chúa.
Năm tháng cuối đời, thánh nữ nằm bệnh bất động với những đau đớn dữ dằn. Ngài không còn nói được nữa, nhưng vẫn giữ được sự bình thản. Ngài biết giờ vinh quang sắp tới. Ngày 17 tháng 10 năm 1031 hay là 1032 thánh nữ từ trần. Tương truyền rằng: lúc chết Ngài thấy Chúa Giêsu và đức trinh nữ với đoàn người trên trời đến dẫn Ngài vào thiên đàng trong khi quỉ dữ khóc ròng.
Để kết thúc, nhà chép sử ghi lại mạc khải của một nữ tu thấy linh hồn thánh Gertrudê bay thẳng như một cánh chim vào lòng Chúa Giêsu đang mở rộng đón tiếp Ngài vào tình yêu vô cùng của Ngài.
Không được chính thức tôn phong làm thánh, nhưng lễ kính Ngài có trong lịch chung theo nghi thức Roma.
**************
Ngày 16-11
Thánh MAGARITA SCOTIA
(1045 – 1093)
Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều đình Hungari và đã gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh thiện của chính mình. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều đình của vua thánh Edward.
Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưã. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đã nhân ái tiếp nhận những kẻ lưu đày.
Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là “nhà cai trị vĩ đại” là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, còn Magarita thì có ý định đi tu dòng. Nhưng ông đã khuyên Magarita lập gia đình với ông. Cuộc sống chung của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi ký có lẽ do cha giải tội của Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ mình.
Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đình. Những hoàng tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện và của người cha đã trở thành vị vua gương mẫu.
Thánh Magarita dùng nhiều thì giờ và tiền của cho các công cuộc bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài khám phá ra mọi hình thức khổ cực, giúp đỡ các gia đình phá sản phục hồi, chuộc lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà vãng lai cho du khách. Người lạ biết rằng: họ có thể luôn tìm được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đình thật của Ngài. Khi trở về nhà, Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đã hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một phòng ăn lớn.
Scotia đã được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ còn tồn tại ở đó trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đình rộng lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự, sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đã khác biệt nhiều điểm với Roma và chính thánh Magarita đã hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân ly đau đớn.
Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đã để lại một di sản cay đắng thì ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan tràn văn hóa Trung Cổ đã mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000 năm sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều vị thánh, vào lúc mà mọi công trình xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là vua và người con kia đã chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: – Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con xin chúc tung Chúa .
Ngài không than trách, đức tin và lòng dũng cảm không rung chuyển, nhưng sáu tháng sau Ngài đã qua đời.
Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong thánh năm 1250.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
16 Tháng Mười Một
Vui Ðể Ðợi Chết
Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: “Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như thế?”.
Khải Kỳ thưa: “Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu… mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?”.
Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người… Mỗi ngày có niềm vui nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba – Tuần 33 – TN1 – Năm lẻ
Bài đọc: II Mac 6:18-31; Lk 19:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quên mình là tìm thấy.
Nhiều người nghĩ để trở nên giàu có, họ cần phải vơ vào nhiều và bớt cho đi, như câu chúc ích kỷ đầu Xuân: chúc cho ông bà tiền vô như nước, tiền ra nhỏ giọt. Vì thế, họ rất khổ sở khi phải cho đi tiền bạc. Trong khi đó, bí quyết trở nên giàu có của các bậc thánh nhân: cho đi là nhận được, quên mình là tìm thấy, tha thứ được thứ tha, chết đi là sống mãi… Người nghèo tuy không giàu, nhưng không bao giờ thiếu. Khi có dư chút nào, họ sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần hơn; vì họ Thiên Chúa vẫn quan phòng lo cho họ có của ăn hàng ngày. Họ không tích trữ của cải vì họ biết sẽ không mang theo được khi từ giã cõi đời; vì thế, họ lo tích trữ của cải tinh thần như Chúa dạy. Hiệu quả là họ có bình an, có hạnh phúc, và nhất là cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân dành cho họ.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những tấm gương sẵn sàng hy sinh quên mình để làm gương sáng và đi tìm những gì đã mất. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Maccabees muốn đề cao tấm gương anh hùng của kinh-sư Eleazar. Ông nhất định không chịu giả vờ tuân lệnh vua ăn thịt, cho dù các bạn ông đã lập mưu cho biết thịt ông sẽ ăn không phải là thịt heo. Khi làm như thế, ông biết sẽ lãnh nhận cái chết, nhưng ông sẵn sàng chấp nhận để làm chứng nhân cho Thiên Chúa và làm gương sáng cho thế hệ mai sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gọi đích danh Zachaeus và ngỏ lời muốn cư ngụ tại nhà ông; cho dù biết miệng đời sẽ phê bình Ngài là người tội lỗi vì đã giao tiếp với những tội nhân công khai như Zachaeus. Zachaeus cũng chấp nhận mất hết của cải cho người nghèo để sống theo lời mời gọi của Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Có được giả vờ ăn thịt cúng?
1.1/ Có nên giả vờ ăn thịt cúng? Vua Antiochus biết người Do-thái theo truyền thống không bao giờ ăn thịt heo, thú vật mà họ cho là dơ bẩn; nên để thử người nào có theo đạo nhà vua truyền hay không, vua bắt họ ăn thịt heo sau khi đã cúng cho thần. Có một người Do-thái tên là Eleazar, một trong những kinh sư quan trọng tuy tuổi đã cao nhưng trông rất đẹp lão; ông bị ép phải há miệng ăn thịt heo. Nhưng ông thà chết vinh hơn sống nhục, nên đã tự ý tiến ra nơi hành hình, sau khi đã khạc nhổ hết thịt ra. Ông đã làm như vậy theo thói thường của những người can đảm là từ chối những thứ Luật Lệ không cho phép ăn, dù phải ăn để sống.
Vì quen biết ông Eleazar đã lâu năm, nên những người chủ toạ bữa tiệc cúng thần trái với Lề Luật, kéo riêng ông ra một chỗ. Họ khuyên ông và truyền người ta đem thịt đến, thứ thịt được phép dùng, tự tay ông dọn lấy, rồi chỉ giả vờ ăn thịt cúng, như vua đã truyền. Nếu ông theo họ làm như vậy, ông sẽ thoát chết, lại còn được đối xử nhân đạo, vì trước kia ông đã xử tốt với họ.
1.2/ Lập trường của kinh-sư Eleazar: Cho dù ông biết thứ thịt đó không phải là thịt heo mà Lề Luật cấm, ông cũng không ăn vì hai lý do chính sau đây:
(1) Tránh gương mù và làm gương sáng cho thế hệ trẻ: Ông nói: “Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ nghĩ là ông già Eleazar đã chín mươi tuổi đầu, mà còn theo những lề thói dân ngoại. Rồi bởi tôi đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc vì tôi, còn tôi thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già.” Không những thế, tuổi trẻ họ còn cần những tấm gương anh hùng để noi theo và mạnh mẽ giữ đạo, nên ông tiếp tục nói: “Vậy giờ đây, khi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già, và để lại cho đám thanh niên một tấm gương cao đẹp về cái chết tự nguyện và cao quý, vì đã trung thành với các Lề Luật đáng kính và thánh thiện.”
(2) Con người không giấu được Thiên Chúa dù chỉ ý nghĩ trong đầu: Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn con người. Ngài phán xét theo ý hướng bên trong; chứ không theo dáng vẻ bên ngoài, nên ông Eleazar nói: “Dù hiện nay tôi có tránh được hình phạt của người ta, thì sống hay chết tôi cũng sẽ không thoát khỏi bàn tay của Đấng Toàn Năng.” Khi sắp chết vì đòn vọt, ông lên tiếng cầu nguyện: “Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người.”
2/ Phúc Âm: Ông Zachaeus, người thu thuế, trở về với Chúa.
Tại thành phố Jericho hiện nay vẫn còn một cây sung rất to lớn, được vây quanh kỹ lưỡng cho khách hành hương đến thăm viếng. Họ gọi đây là cây sung mà ông Giakêu đã trèo lên để gặp Chúa Giêsu.
2.1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Zachaeus: Ông được mô tả là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Chúa Giêsu đã nhận ra ông giữa bao nhiêu người trong đám đông, và người đi bước trước để bắt đầu tiến trình hòa giải với ông: “Này ông Zachaeus, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
2.2/ Ba phản ứng khác nhau của cuộc gặp gỡ:
(1) Đám đông: Họ xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Đối với người Do-Thái, những người thu thuế và gái điếm được coi như là những người tội lỗi công khai. Ai giao tiếp hay làm bạn với họ, cũng được coi là tội lỗi.
(2) Ông Giakêu: Khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời muốn đến nhà, ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Khi nghe mọi người xầm xì và biết rõ mình là người tội lỗi, ông thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Đây là một lời tuyên xưng đột xuất, nhưng chân thành phát xuất từ trái tim của Zachaeus. Có lẽ Chúa Giêsu là người Do-thái đầu tiên không quan tâm đến tội lỗi và quá khứ của ông; vì đối với người Do-thái quá khích, ông có thể mất mạng vì đã cấu kết với ngoại bang để bóc lột dân chúng. Ông có lẽ đã nghe nhiều lời truyền tụng về Chúa Giêsu nên ông tò mò leo lên cây sung để mong được nhìn thấy Ngài. Ông không ngờ Chúa Giêsu gọi đích danh ông và mở miệng muốn vào nhà ông như một người bạn đã quen biết lâu năm. Khi Zachaeus chấp nhận trở về với Thiên Chúa, ông phải can đảm từ giã nếp sống cũ tội lỗi và bắt đầu cuộc sống mới theo tiêu chuẩn của Tin Mừng. Khi Zachaeus sẵn sàng hứa sẽ san sẻ phân nửa tài sản cho người nghèo, và đền gấp bốn cho những ai ông đã lỗi đức công bằng với họ, lời hứa này có thể lấy đi tất cả những gì ông đang có; nhưng không thể so sánh với niềm vui được Chúa Giêsu tha thứ và đến viếng thăm.
(3) Chúa Giêsu: Ngài nói với ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham; vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” Tuy Chúa Giêsu biết rõ những lời dị nghị, nhưng Ngài không quan tâm tới. Chỉ một điều Ngài quan tâm là ông Zachaeus, vì Ngài muốn đưa ông trở về với Thiên Chúa; và đó cũng chính là lý do tại sao Ngài đến trần gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải hy sinh quên mình trước khi tìm thấy được những gì đã mất hay đang mong muốn. Ngược lại, nếu chúng ta chỉ biết ích kỷ giữ cho mình, chúng ta sẽ mất luôn những gì chúng ta đang sở hữu.
– Người biết rõ mình là người tội lỗi như ông Zachaeus dễ ăn năn trở lại hơn người dở dở ương ương, nửa nóng nửa lạnh, hay không tốt lành cũng chẳng tội lỗi quá. Nguy hiểm của chúng ta không phải tội lỗi, nhưng ở thái độ tự nhận mình là người công chính và không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************