Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy Tuần XVIII Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Kb 1, 12 – 2, 4
“Người công chính sống được nhờ trung tín”.
Trích sách Tiên tri Khabacúc.
Chớ thì ngàn xưa Chúa chẳng phải là Thiên Chúa, Chúa của tôi, là Đấng Thánh của tôi? Vậy là chúng tôi không sao chết được. Lạy Chúa, Chúa đã đặt nó lên để xét xử, làm cho nó vững mạnh để trừng phạt. Mắt Chúa tinh sạch, không thể nhìn sự dữ, không thể xem sự gian ác. Tại sao Chúa lại nhìn những kẻ gian ác, và kẻ bất lương nuốt người công chính hơn nó, sao Chúa vẫn làm thinh?
Chúa để loài người như cá biển, như sâu bọ không có vua quan. Nó lấy lưỡi câu mà bắt hết, lấy chài mà kéo mọi sự, lấy lưới mà thu lượm: bởi thế nó hớn hở vui mừng. Vì vậy, nó cúng tế cho chài, nó dâng lễ vật cho lưới, vì bởi đấy nó được phần béo tốt và món ăn ngon. Lẽ nào nó cứ thả lưới không ngừng và luôn luôn tàn nhẫn sát hại các dân?
Tôi sẽ đứng ở vọng canh của tôi, đứng yên nơi thành lũy của tôi, tôi chờ xem Chúa dạy tôi thế nào, và trả lời ra sao cho điều tôi biện bạch? Chúa đáp lại tôi rằng: “Hãy chép điều ngươi thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 9, 8-9. 10-11. 12-13
Đáp: Lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Chúa (c. 11b).
Xướng: 1) Chúa ngự trị tới muôn đời, Người dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Người công minh thống trị địa cầu, Người chính trực xét xử chư dân. – Đáp.
2) Chúa là chỗ dung thân cho người bị ức, chỗ dung thân dành cho những lúc gian truân, để những ai nhìn biết uy danh, cậy trông vào Chúa, vì lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Ngài. – Đáp.
3) Hãy đàn ca Chúa, Người ngự ở Sion; hãy loan truyền công cuộc Chúa khắp chư dân: vì Đấng đòi nợ máu, Người nhớ họ, Người không quên tiếng kêu của những kẻ cơ bần. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 17, 14-19 (Hl 14-20)
“Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: “Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được”. Chúa Giêsu đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta”. Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: “Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
11/08/2018 – THỨ BẢY TUẦN 18 TN
Th. Cla-ra, trinh nữ
Mt 17,14-20
SỨC MẠNH ĐỨC TIN
“Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ nghe.” (Mt 17,20)
Suy niệm: Một người cha mang con của mình đến xin các môn đệ chữa bệnh cho, nhưng các ông không chữa được. Các môn đệ thành thật hỏi Chúa lý do và Chúa đã trả lời: “Tại anh em kém tin.” Chỉ cần có đức tin lớn bằng hạt cải thôi mà đã có thể chuyển núi dời non. Thế mà đức tin của các môn đệ lúc này lại còn kém hơn cả hạt cải thì đức tin đó cũng kể bằng không. Mà “không có đức tin thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,6). Thế nên, đức tin thật quan trọng và cần thiết cho đời Ki-tô hữu biết bao. Chúa mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa, dù đức tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi, thì Ngài sẽ thực hiện những gì còn lại cho bạn.
Mời Bạn: Đức tin có vị trí nào và tầm quan trọng nào trong đời sống của bạn? Bạn có thể vượt qua những thử thách hằng ngày nếu thiếu kém đức tin không? Danh xưng Ki-tô hữu của bạn có ý nghĩa gì nếu bạn không còn đức tin?
Sống Lời Chúa: Thánh Phao-lô quả quyết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Mỗi tuần bạn dành thêm thời giờ học hỏi lời Chúa để được tăng cường đức tin.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm, để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay. Xin ban cho con đức tin sáng suốt, để con thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi, thân thương. (Rabbouni)
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/8
Thánh Clara, trinh nữ
Kb 1, 12-2,4; Mt 17, 14-20.
LỜI SUY NIỆM: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện.”
Khi các Tông đồ hỏi Chúa Giêsu về việc các ông đã không đuổi được quỷ ra khỏi người con trai mà người cha đem đến với các ông. Chúa Giêsu cho biết: “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện.”. Bởi vì chay tịnh luôn kèm theo kinh nguyện, khẩn cầu, dùng để bày tỏ lòng khiêm nhường trước nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Trong Sách Đanien cho chúng con biết: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9,3). Xin cho chúng con trước mọi sứ vụ, chúng con thực hiện luôn biết ăn chay và cầu nguyện, để đem lại kết quả tốt và đẹp lòng Chúa. Nhờ đó lòng yêu người, sự tìm kiếm chân lý sự thật của chúng con được trưởng thành hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-08
Thánh CLARA
Đồng Trinh (1193 – 1253)
Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.
Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola…
Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.
Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.
Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.
Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: – Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.
Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.
Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: – Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: – Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
11 Tháng Tám
Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi
Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.
Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.
Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 18 TN2
Bài đọc: Hab 1:12-2:4; Mt 17:14-20
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên nhẫn cậy trông trong đức tin.
Mặc dù chúng ta là những tội nhân xứng đáng để chịu đau khổ vì những tội chúng ta đã phạm, nhưng chúng ta rất dễ nổi nóng khi thấy những người chúng ta nghĩ là tội lỗi hơn chúng ta, lại sống sung sướng hạnh phúc hơn chúng ta. Rồi chúng ta tự hỏi: Chúa ở đâu? Tại sao Ngài không có mắt? Tại sao Ngài để kẻ “lương thiện” phải chịu nhiều gian nan khốn khó trong khi kẻ ác nhân được cuộc sống dễ dãi giàu sang? Từ câu hỏi này, chúng ta sẽ dễ dàng đi vào hai kết luận: hoặc không tin có Thiên Chúa hay có một Thiên Chúa bất công.
Hai bài đọc hôm nay cho chúng ta hai ví dụ tại sao phải kiên trì trong đức tin. Trong bài đọc I, tiên tri Habakkuk không hiểu lý do tại sao Thiên Chúa để vương quốc Israel miền Bắc rơi vào tay của Assyria, một dân tộc hung ác và không biết gì đến Thiên Chúa. Thiên Chúa khuyên ông cứ kiên nhẫn chờ thời gian, ông sẽ biết lý do của tất cả những việc Ngài làm. Trong Phúc Âm, các môn đệ chất vấn Chúa Giêsu tại sao họ không thể trừ quỉ cho đứa bé mà cha nó mang tới. Chúa Giêsu trả lời rất đơn giản: vì các con yếu lòng tin!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người công chính sẽ sống bởi niềm tin.
1.1/ Sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình? Tiên tri Habakkuk có lẽ họat động đồng thời với tiên tri Nahum, trong thời gian từ 640-598 BC, thời kỳ lưu đày của Israel bên Assyria. Lý do tại sao vương quốc Israel bị thất thủ và vua quan cùng dân chúng bị lưu đày là tội bất trung với Chúa chạy theo các thần ngọai như tiên tri Hosea đã tuyên cáo, và tội bất công chèn ép dân nghèo như tiên tri Amos đã tuyên cáo.
Nhưng tiên tri Habakkuk đã mất kiên nhẫn chờ đợi khi thấy Assyria tội lỗi hơn Israel, tại sao Chúa lại để một đứa ác nhân như thế mặc sức chà đạp Dân Chúa và ông đặt câu hỏi với Thiên Chúa: “Từ muôn thuở, Ngài chẳng là Đức Chúa, là Thiên Chúa con thờ, là Đức Thánh của con, là Đấng Bất Tử sao? Lạy Đức Chúa, chính vì để xét xử mà Ngài đã đặt dân ấy lên. Lạy Đức Chúa là đá tảng, chính vì để thi hành án phạt mà Ngài đã cho nó được mạnh sức. Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền không thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?”
1.2/ “Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.”
Habakkuk, cũng như Job, muốn hiểu lý do tại sao Chúa lại làm như thế: Tôi sẽ ra đứng ở chòi canh, đứng gác trên tường luỹ canh chừng xem Người nói với tôi điều gì và đáp lại nỗi bất bình của tôi ra sao! Và Đức Chúa trả lời và nói với tôi: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.”
Chúa có chương trình và thời giờ của Chúa, Ngài không cần ai làm cố vấn cho Ngài. Chúa có thể dùng kẻ gian ác như Assyria như cái roi để sửa phạt Israel, Ngài cũng có thể dùng quân thù khác để trừng trị kẻ cầm roi. Con người có tội không có quyền để tra vấn Chúa, nhưng phải kiên nhẫn chờ đợi trong đức tin ngày Chúa cất đi những hình phạt cho mình: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình.”
2/ Phúc Âm: Đức tin của người cha có con trai bị kinh phong.
2.1/ Đức tin của người cha: Giống như người đàn bà xứ Canaan đã kiên trì trong đức tin mặc dầu bị Chúa thử thách, người cha có đứa con trai bị kinh phong hôm nay cũng vậy. Ông đã mang con đến cho các môn đệ của Chúa, nhưng họ không chữa được; nhưng ông không nản lòng, ông cố tìm cơ hội cho được gặp Chúa vì ông tin chắc Chúa sẽ cứu con ông khỏi bệnh.
2.2/ Đức tin yếu kém của các môn đệ: Khi nghe lời ông nói “Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được,” Chúa Giêsu phải kêu lên: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi.”
Tại sao Chúa thốt lên những lời này? Chắc chắn không phải vì người cha thiếu đức tin, nhưng là do sự cứng lòng tin của các môn đệ. Chúa mất kiên nhẫn vì Chúa đã dạy dỗ và làm quá nhiều phép lạ trước các ông mà vẫn chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.
Chúa Giêsu quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó. Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Ngài trả lời: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta rất dễ bị lung lay đức tin như tiên tri Habakkuk và các môn đệ hôm nay khi đứng trước thử thách và đau khổ trong cuộc đời.
– Thay vì kiên trì hy vọng trong đức tin như người cha có con bị kinh phong, chúng ta mất kiên nhẫn và chất vấn Chúa tại sao để chúng ta phải đau khổ, tại sao chúng ta không làm được những gì người khác làm?
– Một đức tin vững mạnh nơi Chúa sẽ giúp chúng ta chịu đựng đau khổ cách bình an và nhất là không bao giờ dám chất vấn Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************