Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Rm 16, 3-9. 16. 22-27
“Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi xin gởi lời chào bà Prisca và ông Aquila, là những người cộng sự viên của tôi trong Đức Giêsu Kitô, (họ đã liều mất đầu để cứu mạng sống tôi; không chỉ một mình tôi mang ơn họ mà thôi, nhưng còn tất cả các Giáo đoàn dân ngoại nữa), xin gởi lời chào Giáo đoàn đang hội họp tại nhà họ. Xin gởi lời chào Êphênêtô, người tôi yêu quý, ông là hoa quả đầu mùa trong Đức Kitô bên Tiểu Á. Xin gởi lời chào Maria, người đã vất vả nhiều vì anh em. Xin gởi lời chào Anđrônicô và Giunia, người bà con và bạn tù của tôi; họ là những người danh vọng trong hàng các Tông đồ và đã thuộc về Đức Kitô trước tôi. Xin gởi lời chào Ampliatô, người tôi rất yêu quý trong Chúa. Xin gởi lời chào Urbanô, cộng sự viên của chúng tôi trong Đức Giêsu Kitô, và cả Sitakhin, người tôi yêu quý. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện. Tất cả các Giáo đoàn của Đức Kitô gởi lời chào anh em.
Tôi là Tertiô, người viết thư này, xin gởi lời chào anh em trong Chúa. Caiô, người cho tôi trọ nhà, và toàn thể Giáo đoàn cũng gởi lời chào anh em. Êrastô, chủ kho bạc thị trấn, và Quartô, người anh em, xin gởi lời chào anh em. Nguyện chúc ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng tất cả anh em. Amen.
Kính chúc Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Tin Mừng tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các dân ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin. Kính chúc Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 144, 2-3. 4-5. 10-11
A+B=Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (x. c. 1b).
1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. – Đáp.
2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. – Đáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Đáp.
ALLELUIA: Ep 1, 17-18
-Xin Chúa Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 16, 9-15
“Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.
“Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”. Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: “Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
11/11/2023 – THỨ BẢY TUẦN 31 TN
Th. Mác-ti-nô, giám mục
Lc 16,9-15
DÙNG TIỀN CỦA MUA LẤY BẠN BÈ
“Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đưa rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
Suy niệm: Khi được hỏi: “Điều gì làm ông cảm thấy hạnh phúc?” tỷ phú Mỹ J. Rockefeller, một người thuộc hàng giàu nhất nước Mỹ, trả lời: “Có thêm một đô la nữa!” Phải chăng ông muốn ám chỉ lòng ham muốn tiền bạc không có điểm dừng? Đang khi ấy, tiền bạc là phương tiện để ta có thể sống an vui, chứ không phải là mục tiêu của cuộc sống. Tiền bạc tự nó không xấu, nó chỉ xấu khi ta để nó trở thành động lực chi phối mọi suy nghĩ và hành động, chiếm hết mọi thời gian và năng lực của ta. Cách dùng tiền của người Ki-tô hữu là khôn khéo dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu muôn đời qua việc sẵn sàng chia sẻ, quảng đại cho đi và tận tình giúp đỡ người nghèo.
Mời Bạn: “Người giàu giúp người nghèo trên thế giới này, nhưng người nghèo lại giúp người giàu trong thế giới mai sau” (truyền thống ráp-bi Do Thái). Như vậy, đồng tiền bạn rộng rãi cho đi không phải là đồng tiền bị đánh mất, nhưng lại âm thầm sinh lãi cho bạn. Bạn đang chuyển đổi tiền của hư nát đời này thành gia sản vĩnh cửu trên trời. Không có việc đầu tư nào an toàn và chắc chắn hơn đầu tư theo kiểu này.
Sống Lời Chúa: Ý thức gia sản trên trời được tích lũy bằng cách cho đi, tôi sẽ rộng tay hơn trong việc giúp đỡ những người nghèo chung quanh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tiền bạc là phương tiện Chúa ban để chúng con có điều kiện sống xứng hợp với nhân phẩm của mình. Xin cho chúng con biết bằng lòng với việc đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người, để chúng con có thể nâng đỡ những người nghèo cách cụ thể qua việc quảng đại chia sẻ. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền
người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật…
Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa:
đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi.
Ngay cả các kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa,
và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài,
cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay.
Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của,
nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này.
Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13).
Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai.
Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của?
Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi.
Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ.
Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do-thái cổ
có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa.
Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi,
nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa,
thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13),
nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha.
Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin.
Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân
thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất.
Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo.
Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn
cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời.
Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại.
Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta,
để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời?
Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô.
Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái,
để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện.
Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi,
và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi.
Dù không phải là một kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật,
nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải.
Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm,
nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc.
Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân,
đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường.
Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG MƯỜI MỘT
Nguồn Tài Nguyên Cho Tương Lai
Quả là mối đe dọa khủng khiếp đang tiềm ẩn trong sự thay đổi kỹ thuật đã đánh thức lương tâm chúng ta, giúp chúng ta thấy cần phải khôn ngoan và cần phải nhớ lại những giá trị đạo đức của nền văn minh của mình. Chính sự tiến bộ khoa học đã đặt ra “vấn đề đạo đức” như là “vấn đề xã hội” mới của tương lai. Và đâu là câu trả lời?
Chúng ta phải bắt đầu bằng việc theo đuổi sự khôn ngoan. Vì sự khôn ngoan đích thực là tinh túy của lương tâm các dân tộc, nên vai trò của công chúng trong việc quyết định tương lai thế giới là một cái gì rất hiển nhiên. Chẳng hạn, hãy xem xét lãnh vực di truyền học đang ngày càng phát triển. Những nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng con người có thể đạt được những thành tựu rất lớn. Những cũng có nhiều khả năng hủy hoại tàn khốc đối với loài người chúng ta. Các nhà khoa học và các chính quyền có trách nhiệm không thể tránh né việc tự hỏi mình những câu hỏi hệ trọng của triết học và thần học. Con người là ai? Định mệnh của con người là gì?
Trong khi theo đuổi sự khôn ngoan, nhiều người bắt đầu khám phá lại câu trả lời của chân lý Kitô giáo. Họ bắt đầu thấy rằng sự bảo đảm đích thực duy nhất cho nhân tính trong xã hội tương lai chính là sự tôn trọng đối với con người và đối với sự sống. Chúng ta đang về nguồn. Con người đang nhận ra rằng các giá trị dường như cũ kỹ trong quá khứ đang tỏ ra là những của gia bảo cần phải được trân trọng giữ gìn cho tương lai.
Và sự khôn ngoan này trong việc nhận biết con người và bản tính con người xuất phát từ chính lương tâm của các dân tộc trên trái đất. Sở dĩ tôi đi khắp nơi trên thế giới và gặp gỡ người ta thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo, đấy bởi vì tôi tin rằng Chúa Thánh Thần ươm trồng những mầm khôn ngoan trong lương tâm của mọi dân tộc. Đó là nguồn tài nguyên thực sự cho tương lai của thế giới chúng ta, một tương lai trong đó con người biết phục vụ cho con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 11-11
Thánh Martinô, giám mục
Rm 16, 3-9.16.22-27; Lc 16, 9-15.
Lời suy niệm: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”
Đối với người Kitô hữu luôn luôn phải cân nhắc trong việc làm ra đồng tiền và cách dùng Tiền Của: Tiền Của luôn chỉ là phương tiện để đảm bảo cuộc sống đúng với phẩm giá của mình. Còn khi đồng tiền trở thành cứu cánh, sẽ dễ đánh mất nhân phẩm của mình. Không ai giàu có mà không phạm tội. Còn những con người hướng về Chúa là cùng đích của đời mình, thì sẽ tiến thân trên đường đạo đức và làm việc thiện, đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì vậy Chúa Giêsu đang cảnh báo cho tất cả chúng ta phải biết chọn lựa dứt khoát giữa làm tôi Tiền Của và làm tôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống hiện tại của chúng con, có lắm cám dỗ về cách làm ra tiền bạc, và tiện nghi vật chất để cung ứng cho cuộc sống, điều này có thể làm cho chúng con xa Chúa. Xin Chúa thương ban ơn gìn giữ mỗi người chúng con luôn thuộc về Chúa. Amen
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-11
Thánh MARTINÔ Thành Turinô
Giám Mục (khoảng 315 – 397)
Chúng ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.
Martinô sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria… miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự tòng.
Lúc 15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: – Tôi chỉ có áo quần và khí giới.
Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin.
Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần. – Chính Martinô đã mặc cho Ta đây.
Sau đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễn cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: – Tôi là binh sĩ Chúa Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.
Bị coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ năm 339.
Danh tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút Martinô trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đã trở về sinh quán ở Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đã nói với người sắp dùng búa giết Ngài:
– Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?
Ngài đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.
Tương truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng: – Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một cuộc chiến cam go: – Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.
Thánh Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết. Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng đoàn của các nhà ẩn tu.
Ngài được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và lãnh Chúa chống lại “một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù”.
Vị tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu tiên là mẹ đại học Oparis.
Công cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ thành hình.
Thiên Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise được thành lập.
Trong một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những người thờ ngẫu tượng nói: – Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa.
Martinô nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống… sắp nghiền nát Đức giám mục… nhưng Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.
Ở Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ: sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.
Đây là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên “chiếc áo choàng thánh Martinô này” và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến cầu nguyện.
Tới 80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần, thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.
– “Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện”.
Nằm trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: – “Các anh để tôi nhìn trời hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa”.
Quỉ dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: – “Đồ súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao”.
Đó là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
11 Tháng Mười Một
Xẻ Áo
Trong một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van xin từng đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người thanh niên.
Ðêm hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao tặng cho người ăn mày và Chúa nói: “Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa Tội, đã đắp lên tôi chiếc áo này”.
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của thánh Martinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào đời vào khoảng thế kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi, Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Ðức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức thánh.
Năm 350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng bị giám mục thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến Cadet để hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần tại đó.
Mỗi năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Ðức cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu. Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với những quà bánh thơm ngon được trình bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương “xẻ áo” của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên bố trong ngày phán xét: “Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những điều ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy”.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 32 – Năm A – Thường Niên
Bài đọc: Wis 6:12-16; I Thes 4:13-17; Mt 25:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khôn ngoan, tỉnh thức, chờ đợi Ngày Chúa đến.
Không ai trong chúng ta phủ nhận sự quan trọng của khôn ngoan trong cuộc sống. Người khôn ngoan thường được xã hội kính trọng và được chọn làm những nhà lãnh đạo của dân. Đó là lý do tại sao hầu hết các cha mẹ Việt Nam sẵn sàng hy sinh, làm lụng vất vả, để con được ăn học tới nơi tới chốn. Họ hy vọng với vốn liếng học thức, con họ sẽ biết cách đối chọi với đời và tìm được một công việc đỡ vất vả hơn họ. Nhưng sự khôn ngoan này mới chỉ là khôn ngoan thế tục; có một khôn ngoan cao hơn và sự khôn ngoan này mới thực sự được gọi là “sự khôn ngoan đích thực.” Sự khôn ngoan đích thực là biết nguồn gốc và đích điểm của cuộc đời, cùng biết cách thức làm sao để đạt tới đích điểm này. Các Bài đọc hôm nay đều xoay quanh sự khôn ngoan: Bài đọc I nói lên tầm quan trọng của Đức Khôn Ngoan. Bài đọc II dạy khôn ngoan là biết đích điểm của cuộc đời, là được đòan tụ với Đức Kitô trong Ngày Quang Lâm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết khôn ngoan chuẩn bị trong khi chờ đợi Ngày Quang Lâm, vì không ai biết khi nào sẽ xảy ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Đức Khôn Ngoan luôn sáng chói, và không bao giờ tàn tạ.
1.1/ Ba thái độ phải có khi tìm kiếm khôn ngoan:
(1) Quí trọng Đức Khôn Ngoan: Vô tri bất mộ, phải biết Đức Khôn Ngoan đáng quí trọng dường nào trước khi yêu mến nó. Tiếng Hy-Lạp dùng danh từ rất hay để chỉ các triết gia, filovsofo~, danh từ này ghép bởi động từ filew = yêu, và danh từ sofia = khôn ngoan. Như thế, triết gia là người yêu mến sự khôn ngoan. Theo truyền thống Do-Thái và Hy Lạp. Đức KN được nhân cách hóa (coi như một người); vì thế Đức KN chỉ tỏ mình cho những ai yêu mến: “Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng.” Những ai coi thường KN, chẳng bao giờ có được nó.
(2) Tìm kiếm Đức Khôn Ngoan: Không phải chỉ thụ động yêu mến mà còn phải chủ động đi tìm kiếm học hỏi. Con người quí trọng khôn ngoan sẽ đi tìm bất cứ nơi nào có sự khôn ngoan (Nữ Hòang Phương Nam đi tìm Vua Solomon). Tác giả của Bài đọc I bảo đảm: “Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.”
(3) Khao khát Đức Khôn Ngoan trên hết mọi sự: Truyền thống GH tin Sách Khôn Ngoan được viết bởi Vua Solomon, người khi được Thiên Chúa hỏi muốn xin bất cứ một điều gì, Ngài sẽ ban cho. Nhà Vua không xin bất cứ điều gì, chỉ xin cho có được Đức Khôn Ngoan. Thiên Chúa đã ban cho Vua một sự khôn ngoan thập tòan đến độ trước và sau Vua, không một ai được khôn ngoan như thế. Vì thế: “Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết.” Như thế, Đức KN có mặt mọi nơi, chỉ chờ ai mở cửa tiếp nhận, vui vẻ đi vào gặp.
2.2/ Những lợi ích khi có được Đức Khôn Ngoan: Không có gì trên đời có thể so sánh với Đức KN, vì có được KN là:
(1) Sẽ không bao giờ mất: Tất cả những gì ở ngòai con người đều có thể bị mất, nhưng những gì tích trữ ở bên trong sẽ không bao giờ mất: “Đức Khôn Ngoan luôn sáng chói, và không bao giờ hư mất.” Đức KN sẽ ở với con người tới muôn đời.
(2) Hiểu biết hòan tòan: Khôn ngoan của vũ trụ thì bao la mà khả năng con người lại rất giới hạn; làm sao có thể đạt tới sự hiểu biết hòan tòan? Tác giả Sách Khôn Ngoan hứa hẹn: “Nếu để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự hiểu biết hoàn tòan.” Khôn ngoan của thế gian chỉ có thể giúp con người hiểu một số khía cạnh (tóan học, xã hội, nhân văn, triết học, kinh tế…), nhưng khôn ngoan của Thiên Chúa sẽ giúp hiểu tòan bộ cuộc đời.
(3) Trút được mọi lo âu: Con người lo lắng là vì không biết sự việc sẽ xảy ra làm sao; nhưng nếu đã đạt tới sự hiểu biết tòan bộ về cuộc đời, họ sẽ không còn lo âu nữa.
(4) Biết cách giải quyết mọi vấn đề trong cuộc đời: Người đã hiểu biết hết mọi sự thì cũng biết cách giải quyết mọi vấn đề cách tốt đẹp: “Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.”
2/ Bài đọc II: Chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi.
Sự khôn ngoan đích thực là khôn ngoan theo truyền thống Kitô Giáo. Người khôn ngoan đích thực biết chỉ có một Thiên Chúa trong vũ trụ này, và Ngài là nguồn gốc mọi khôn ngoan. Ngài tạo dựng mọi sự trong vũ trụ và tiền định cho con người được chung hưởng hạnh phúc với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Khôn Ngoan đích thực của Cựu Ước là chính Đức Kitô của Tân Ước, là hiểu biết Mầu Nhiệm Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô, và cách đạt tới ơn cứu độ là đặt niềm tin hòan tòan nơi Đức Kitô, trong khi chờ đợi Ngài ngự đến lần hai để mang con người về với Thiên Chúa. Nói tóm, Đức Kitô chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
2.1/ Hai niềm tin khác nhau: Khi bàn chuyện về đời sau, chúng ta thấy có 2 lọai người:
(1) Những người không tin có sự sống lại: Đối với họ, chết là hết. Họ sợ chết và buồn phiền khi giờ chết đến. Thời của Thánh Phaolô cũng có hạng người này, vì thế, ngài cẩn thận đề phòng niềm tin này nơi các tín hữu: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng.” Đây là thái độ của những người thiếu khôn ngoan: Họ chỉ chú trọng đến cuộc sống đời này mà thôi!
(2) Những người tin có sự sống lại: Chết không hết, nhưng bắt đầu một cuộc sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa. Lý do của niềm hy vọng này là: “Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu.” Đây là thái độ của những người khôn ngoan: Đang khi sống vui vẻ đời này, họ không quên chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
2.2/ Những gì sẽ xảy đến trong Ngày Chúa Quang Lâm: Thiên Chúa sẽ làm cho xác lòai người sống lại, và sau đó, con người sẽ được ở với Thiên Chúa mãi mãi.
(1) Những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên: “Khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng Tổng Lãnh Thiên Thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên.”
(2) Sau đó, đến chúng ta là những người đang sống: “Chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi.”
3/ Phúc Âm: Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Dụ ngôn là cách con người dùng để diễn tả một thực tại. Thực tại mà Chúa Giêsu muốn dạy cho khán giả hôm nay là: ngày Đức Kitô Quang Lâm chắc chắn sẽ đến, nhưng không ai biết ngày nào hay giờ nào. Trong dụ ngôn: Đức Kitô được ví như chàng rể, cô dâu và các phù dâu được ví như Giáo Hội và các tín hữu, Ngày Đức Kitô Quang Lâm được ví như ngày chàng rể đến đón dâu.
3.1/ Dụ ngôn mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể: Theo phong tục của người Do-Thái, đám cưới thường xảy ra ban đêm; vì thế đèn và dầu là hai thứ không thể thiếu cho các họat động xảy ra ban đêm. Bạn thân của cô dâu là những người sẽ tháp tùng cô dâu trong suốt thời gian cưới. Chú rể sẽ không cho biết thời giờ tới: có thể chập tối, có thể giữa đêm, hay hừng đông; vì thế tất cả mọi sự phải sẵn sàng. Mười cô trinh nữ được xếp thành 2 hạng: khôn ngoan hay khờ dại tùy thuộc vào việc có mang dầu dự bị theo hay không.
Các cô trinh nữ này chắc chắn đã được nghe nói hay tự mình chứng kiến những đám cưới đã xảy ra trước và biết: chàng rể có thể đến trễ, dầu đốt mãi rồi cũng hết, phải có đèn sáng để đón chàng rể… Biết trước như thế nhưng không phải ai cũng biết chuẩn bị cho tương xứng. Năm cô khôn ngoan biết phòng xa nên mang bình dầu dự trữ theo. Năm cô khờ dại không mang dầu dự trữ theo có thể vì: (1) không tiên liệu trước; (2) có thể đóan già đóan non chàng rể sẽ tới sớm; hay (3) nghĩ có thể mượn được người khác nên mang làm gì cho phiền phức!
3.2/ Giờ chàng rể đến: Chầu lâu gối mỏi, “vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.” Và khi các cô đang ngủ thì đèn cũng tắt ngúm vì hết dầu. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!”
(1) Sửa sọan đèn: Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Nếu đã có đèn và dầu sẵn, mọi sự đều dễ dàng để ra nghênh đón chàng rể.
(2) Mượn dầu: Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” Điều giúp suy tư: Dầu còn có thể cho được nếu dư thừa, nhưng có những thứ không thể cho và cũng không thể mượn, mà tự cá nhân phải tập luyện: đức tin, tình yêu dành cho Thiên Chúa, Đức Khôn Ngoan, các đức tính tốt, và những việc lành giúp ích người khác. Làm sao có thể mượn tình yêu của người khác để yêu Chúa?
(3) Đi mua dầu giữa ban đêm: Các cô dại không còn cách nào khác phải đi tìm mua dầu nhưng hàng quán nào mở ban đêm? Khi nhận ra tình thế nguy ngập thì đã quá muộn. Đức Khôn Ngoan dạy con người biết tiên liệu những gì sẽ xảy ra, nhưng các cô dại đã không tìm học Đức Khôn Ngoan.
3.3/ Hậu quả phải lãnh nhận: Không biết không có tội, nhưng vẫn phải chịu hậu quả:
(1) Các cô khôn ngoan đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.
(2) Các cô khờ dại sau cùng cũng đến gõ cửa và gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”
Và Chúa Giêsu kết luận: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Mặc dầu đã được báo trước bởi chính Chúa Giêsu, và Giáo Hội đã lặp đi lặp lại mỗi năm vào thời điểm này, thế mà vẫn có những người vẫn vô tư không chịu chuẩn bị. Chúng ta không thể trách Chúa nếu bị tống ra ngòai. Điều nguy hiểm mà ma quỉ thường lợi dụng để cám dỗ con người là Ngày ấy còn xa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải có lòng khao khát và chuyên tâm học hỏi để tìm ra sự khôn ngoan đích thực cho cuộc đời. Đức Khôn Ngoan đích thực của Cựu Ước chính là Đức Kitô của Tân Ước.
– Chết không phải là hết, nhưng bắt đầu một cuộc sống mới với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không được sống như những người không hy vọng có cuộc sống mai sau. Họ chỉ biết kiếm tiền và tận hưởng những thú vui đời này.
– Chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ hành trang cần thiết để nghênh đón Chúa: có những cái không thể mua vào lúc cuối; có những cái không thể xin như: đức tin và tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô, Đức Khôn Ngoan và các nhân đức, và những công việc lành chúng ta làm cho người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************