Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng Năm A
BÀI ĐỌC I: Dc 2, 8-14
“Đây người tôi yêu đến, nhảy qua núi”.
Bài trích sách Diễm Ca.
Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Đó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song.
Này người tôi yêu nói với tôi: “Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!
“Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi”. Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xp 3, 14-18a
“Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi”.
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy sung sướng và hết lòng hân hoan!
Chúa đã rút án phạt ngươi, đã xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi, ngươi không còn lo sợ tai hoạ nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và Sion, chớ buông thả đôi tay! Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng vui mừng vì ngươi, sẽ thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc mừng ngươi, như trong ngày đại lễ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Đáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. – Đáp.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. – Đáp.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Đấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người. – Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! – Lạy Vầng Đông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 39-45
“Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
21/12/2019 – THỨ BẢY TUẦN 3 MV
Lc 1,39-45
NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42)
Suy niệm: Bà Ê-li-sa-bét không chỉ nhận biết hạnh phúc mình đang hưởng là được “Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi”. Bà còn khen ngợi “những người” đến viếng thăm mình là người được chúc phúc. Quả thật, Đức Ma-ri-a đã được sứ thần chào kính “Bà đầy ân phúc” và “người con em đang cưu mang” mới thật là nguồn mạch mọi phúc lành. Biết mình được chúc phúc và ca ngợi người khác được Chúa chúc phúc, đó chính là cung cách sống của Ki-tô hữu, người đã đón nhận Tin Mừng và đồng thời, có sứ mạng loan báo Tin Mừng đó.
Mời Bạn: Bốn hôm nữa chúng ta mừng lễ Đấng Cứu Thế Giáng Sinh. Đó là hồng phúc cho cả nhân loại. Lời ca tụng mang đầy tính tiên tri của bà Ê-li-sa-bét nhắc nhở chúng ta mừng lễ với một chiều kích nội tâm sâu xa, chứ không dừng lại ở những hào nhoáng bên ngoài của lễ Giáng Sinh. Nơi ấy, ta gặp được chính Con Thiên Chúa, để tạ ơn, để ngợi khen Ngài là nguồn mạch mọi ơn phúc cho chúng ta. Một khi nhận ra phần phúc Chúa ban cho mình, chúng ta cũng được mời gọi cùng với Mẹ dấn thân phục vụ để chia sẻ phần phúc đó cho tha nhân, để họ nhận ra rằng họ cũng được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Sống Lời Chúa: Ngày hôm nay bạn sẽ gặp gỡ những ai? Bạn sẽ làm gì để biến ít là một trong những cuộc gặp gỡ ấy thành một cơ hội giúp họ nhận ra họ cũng là những người được Thiên Chúa yêu thương và chúc phúc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con biết bám chặt lấy Chúa để con luôn cảm thấy hạnh phúc khi sống đời Ki-tô hữu, và để con hăng say loan báo tình yêu Chúa cho anh em con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG MƯỜI HAI
Dọn Chỗ Cho Chúa Trong Lòng Ta
Trong Mùa Vọng, chúng ta được ân sủng thúc giục để có tâm tình đức tin trong lòng và có niềm mong đợi của tất cả những ai đợi trông Chúa, tất cả những ai tin và yêu mến Đức Giêsu. Con đường Mùa Vọng như thế giúp làm cho đức tin của chúng ta nên sinh động trong khi chúng ta không ngừng suy niệm và được bồi dưỡng bằng Lời Chúa. Đối với người Kitô hữu, đây sẽ là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng cho đời sống tâm linh của mình, một đời sống phải được bồi dưỡng bằng kinh nguyện tôn thờ và ca tụng Thiên Chúa. Trong số những kinh nguyện này, Benedictus của Dacaria, Nunc dimittis của Simêon, và nhất là Magnificat của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là những kinh nguyện kiểu mẫu vô song.
Tâm tình đức tin bên trong của Mùa Vọng được củng cố nhờ việc chúng ta lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, tinh luyện và ban dồi dào ân sủng Đức Kitô cho chúng ta. Các bí tích ấy làm cho chúng ta trở thành con người mới, theo như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy sám hối!” (Mt 3,2).
Từ viễn tượng này, chúng ta thấy rằng trong tư cách là Kitôhữu, mọi ngày đều có thể là một Mùa Vọng cho mình. Bởi vì chúng ta càng thanh tẩy linh hồn mình, chúng ta sẽ càng dọn nhiều chỗ hơn cho tình yêu của Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn ta. Rồi Đức Kitô sẽ có thể đến và sinh hạ trong ta.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21/12
St 2, 8-14; Lc 1, 39-45.
LỜI SUY NIỆM: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Gần ngày Đại Lẽ Giáng Sinh, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng: “Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét”. Giáo Hội muốn nhắc nhở mỗi người trong chúng ta đều phải có tâm tình vui mừng hớn hở. cùng nhau ca tụng lòng Chúa Thương Xót.
Lạy chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con có đức tin, tin rằng Chúa đã chọn từng người trong chúng con, và dặt từng nơi chốn một, để thực hiện thánh ý của Chúa. Xin cho chúng con luôn thực hiện đức ái đối với mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-12: Thánh PHÊRÔ CANISIÔ
Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(1521 – 1579)
Thánh tiến sĩ Phêrô Canisiô thường được gọi là vị tông đồ thứ hai của nước Đức. Ngài chào đời 8 ngày tháng 5 năm 1521 tại Nijmegen. Cha Ngài là người công giáo, 9 lần làm thị trưởng Nijmegen. Ông gửi Ngài tới phại học Cologne lúc Ngài 15 tuổi. Nơi ấy Ngài gặp được một vị linh mục trẻ thánh thiện Nicolaus van Esch. Chính vị linh mục này đã đưa Canisiô vào nhóm người trung thành với công giáo được hình thành để chống lại Hermann van Wied, vị tổng giám mục đã sang hàng ngũ Luthêrô.
Canisiô được nhóm chọn để tiếp xúc với hoàg đế và tổng giám mục, và việc thoái vị của tổng giám mục đã tránh cho người công giáo Phineland một thảm họa. Ít lâu sau đó, Canisiô gặp được chân phước Phêrô Faber, một trong các bạn tiên khởi của thánh Inhaxiô và được hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh tâm này, Ngài đã tìm được giải đàp cho vấn nạn Ngài tự đặt cho mình làm sao phụng sự Chúa tốt đẹp nhất và nâng đỡ Giáo hội công giáo đang bị tấn công ?
Ngài gia nhập dòng Tên, thụ phong linh mục năm 1546 và sớm lừng danh do việc ấn hành các tác phẩm của thánh Cyrillô thành Giêruslem và của thánh Leo cả. Năm 1547 Ngài tham dự công đồng Tridentinô như là đại diện của giám mục Augsburg.
Năm 1549, Ngài được gọi về Roma và lãnh nhận trách nhiệm truyền giáo cho nước Đức, điều sẽ trở thành công trình của đời Ngài. Trong cuộc chinh phục của bá tước Bavaria, Canisiô và hai cha dòng Tên khác được chọn để dạy thần học tại đại học Ingolstadt. Chẳng bao lâu, Ngài được đặt làm viện trưởng đại học, rồi sau đó, do sự can thiệp của vua Ferdinand, Ngài được gởi đi thi hành cũng một nhiệm vụ tại đại học Vienna, Ngài thành công mỹ mãn đến nỗi nhà vua đã cố đưa Ngài lên chức tổng giám mục. Dầu đã từ chối vinh dự này, Ngài cũng được gọi để quản nhiệm địa phận trong khoảng một năm.
Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn “giáo lý” thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn “giáo lý” của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.
Từ Vienna, Canisiô qua Bohemia là nơi Giáo hội ở trong điều kiện tuyệt vọng. Chống lại, Ngài đã thiết lập một học viện ở Praha, sau trở thành đạihọc. Năm 1556, được đặt làm giám tỉnh miền nam nước Đức, Ngài lập trường học cho trẻ em tại 6 thành phố và tự nhận trách vụ cung ứng cho nước Đức các linh mục được đào luyện tốt. Thực hiện điều này Ngài thiết lập các chủng viện và gửi người trẻ đi tu nghiệp thường xuyên ở Roma.
Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.
Dường như Ngài không thể nào kiệt sức được. Ngài nói với vài người đã tố cáo Ngài làm việc quá độ rằng: – “Nếu bạn phải làm việc quá nhiều, với sự trợ lực của Chúa, bạn sẽ tìm giờ để làm cho hết”.
Một hình thức tông đồ khác là viết thơ. Các pho sách in thư từ của Ngài dày hơn cả ngàn trang giấy. Như thánh Bernardô Clairvaux, Ngài dùng phương tiện này để khích lệ, quở trách và hướng dẫn mọi hạng người. Theo nhu cầu của cả Giáo hội hay của từng cá nhân đòi hỏi. Ngài đã viết thư cho Đức Thánh cha, cho nhà vua, cho các giám mục, cho các hoàng tử, cho linh mục và giáo dân. Nơi nào thư từ không đủ, Ngài đưa ra một sức mạnh do ảnh hưởng cá nhân. Chẳng hạn trong một cuộc họp giữa công giáo và Thệ phản ở Worms năm 1556, đã phải nhờ đến ảnnh hưởng của Ngài; mà người công giáo mới có thể hiệp nhất chống lại những mời mọc của Thệ phản để thỏa hiệp với những điều thuộc về nguyên tắc.
Ở Balan năm 1558, Ngài đã kiểm soát được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin cổ truyền của xứ sở. Và trong cùng một năm ấy, Ngài đã nhận được lời cám ơn của Đức Piô IV về tài ngoại giao của Ngài trong việc hàn gắn sự bất hoà giữa Đức Thánh Cha và hoàng đế. Năm 1561, Ngài được trao phó để công bố các sắc lệnh của công đồng Tridentinô tại nước Đức.
Ít lâu sau, Ngài được kêu gọi để trả lời cho cuốn Kenturies của Magdeburg. Tác phẩm đầu tiên và tồi tệ nhất của lịch sử “Thệ phản giáo” tấn công Giáo hội công giáo trong mức độ rông rãi và những bóp méo lịch sử đòi nhiều người mới có thể trả lời đầy đủ được. Dầu vậy, thánh Canisiô đã vạch ra đường lối với hai tác phẩm của Ngài là: – “Lịch sử thánh Gioan Tẩy giả” và “Đức trinh nữ Maria khôn sánh”
Từ năm1580 tới khi qua đời năm 1597, Ngài đã cực nhọc và đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ. Sáu năm cuối, Ngài nhẫn nại chịu dựng và cầu nguyện lâu giờ tại học viện Fribourg, vì bây giờ, sức khỏe tàn tạ không cho phép Ngài có thể hoạt động tích cực nữa.
Chẳng bao lâu sau khi Ngài qua đời, ngày 21 tháng 12 năm 1597 mộ Ngài đã được tôn kính. Nhiều phép lạ đã diễn ra nhờ lời chuyển cầu của Ngài. Ngài là duy nhất đã được tuyên thánh và tuyên dương làm tiến sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, ngày 21 tháng 6 năm 1925.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
21 Tháng Mười Hai
Rạn Nứt Trong Tâm Hồn
Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.
Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: “Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được”.
Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.
Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: “Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người”. Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.
Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: “Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay”.
Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
Người Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào “đổi mới”, nhưng đâu vẫn vào đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ vẫn còn đó… Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì người ta không bao giờ nghĩ tới.
“Ðổi mới” là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”. Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải tư duy, hoán cải cái nhìn.
Sự hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.
Sự hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 21 tháng 12 MV
Bài đọc: Cant 2:8-14; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa viếng thăm Dân Ngài.
Cuộc đời con người trên dương thế là những chuỗi ngày kết tụ bằng hạnh phúc và đau khổ, đoàn tụ và ly tán, yêu thương và ghen ghét, tha thứ và hận thù… Con người chỉ hoàn toàn hạnh phúc, vui mừng, và bình an khi con người biết ăn năn trở lại và hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, như tình trạng vô tư nguyên thủy khi con người chưa biết đến tội lỗi. Khi phải sống lưu đày xa Thiên Chúa, cả Thiên Chúa và con người đều đau khổ; vì Ngài dựng nên con người để chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong niềm vui mừng khi con người được Thiên Chúa đến viếng thăm. Trong Bài Đọc I, Sách Diễm Tình Ca mô tả nỗi vui mừng và sung sướng khi một người con gái được tình quân tới viếng thăm. Trong Cựu Ước, nhiều tác giả đã so sánh mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người nóng bỏng và mật thiết như tình yêu giữa hai vợ chồng: Thiên Chúa là chồng và Israel là vợ (x/c Hos 1-3, Isa 62:5, Jer 3:1-10, Eze 16, 23). Sự bội phản của con người được ví như một người làm điếm, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và không ngừng tìm kiếm đưa con người trở lại với tình yêu ban đầu. Trong Phúc Âm, thánh sử Luca tường thuật sự thăm viếng độc nhất vô nhị Thiên Chúa dành cho con người: bề ngoài là cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Elisabeth, bề trong là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Thiên Sai và Dân Ngài, được tượng trưng qua sự hiện diện Gioan Tẩy Giả, người tiên tri cuối cùng của Cựu Ước.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: “Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào!”
1.1/ Cuộc hò hẹn của hai con người đang yêu nhau: Khi đang yêu, đôi bạn muốn thường xuyên ở bên nhau để được nhìn thấy và nghe tiếng của nhau. Trình thuật hôm nay nói lên nỗi vui mừng của người con gái khi chờ đợi người yêu đến viếng thăm: “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi. Người yêu của tôi chẳng khác gì linh dương, tựa hồ chú nai nhỏ.”
1.2/ Nỗi đau khổ khi hai người phải xa nhau và niềm vui khi được xum họp.
(1) Nỗi đau khổ và nhớ thương khi phải chờ đợi người yêu một thời gian dài: Tác giả diễn tả nỗi đau khổ một cách vắn gọn: “Tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi.” Mùa Đông tượng trưng cho sự chờ đợi dai dẳng, lạnh lẽo, và đau buồn. Người con gái mong chờ cho những ngày mùa Đông chấm dứt để gặp mặt người yêu. Đây cũng là tâm trạng của con người khi phải lưu đày và sống xa Thiên Chúa: con người phải làm lụng vất vả và phải chịu đựng mọi đau khổ, vì không còn được sống trong vòng tay yêu thương và bảo vệ của Thiên Chúa. Con người mong được Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ra tay giải thoát. Thiên Chúa cũng chẳng vui sướng gì khi phải lìa xa con người. Ngài luôn tìm mọi dịp để hoán cải và đưa con người trở về.
(2) Niềm vui và hạnh phúc khi hai người được xum họp: Khi mùa Đông lạnh giá qua là mùa Xuân nắng ấm tới. Lòng người con gái vui mừng vì sắp được gặp lại người yêu. Trời đất và các tạo vật cũng thay đổi như cùng chung vui với sự trùng phùng của hai người: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào.” Nỗi mong muốn được gặp mặt và nghe tiếng của nhau sau bao năm trường xa cách được biểu tỏ qua lời yêu thương của tình quân nói với người yêu: “Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào! Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo leo. Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng.”
2/ Phúc Âm: “Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.”
2.1/ Mẹ Maria lên đường thăm viếng chị họ Elisabeth: ”Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth.” Nhìn bề mặt, đó là cuộc thăm viếng giữa con người với con người; nhưng nhìn bề trong, đó là cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho con người. Đây là cuộc thăm viếng có tính cách lịch sử, vì Thiên Chúa đã chuẩn bị biến cố này lâu năm, ngay từ khi con người sa ngã trong vườn Địa Đàng. Con người khao khát cuộc thăm viếng này; vì nhờ nó, con người được Thiên Chúa đổi vận mạng: từ chỗ phải chết đến chỗ sống muôn đời, từ chỗ bị lưu đày đến chỗ được vào Đất Hứa, từ chỗ phải xa cách Thiên Chúa đến chỗ được đoàn tụ với Ngài muôn đời.
Bà Elisabeth có được hai niềm vui lớn: Thứ nhất, Bà phải chịu cảnh góa bụa đau khổ và tai tiếng của người đời sau bao năm không có con; nhưng Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời Bà, cho Bà được mang thai Gioan Tẩy Giả trong lúc cả hai ông bà đã quá tuổi sinh con. Thứ hai, Bà được Mẹ Thiên Chúa tới viếng thăm, vì Người Con Mẹ Maria sắp sửa sinh ra sẽ mang lại ơn cứu độ cho Bà và cho muôn người.
2.2/ Chúa Giêsu thăm viếng Gioan Tẩy Giả.
(1) Bà Elisabeth nhận ra Người Con Maria đang mang trong lòng là Đấng Cứu Thế: Điều kỳ lạ là Mẹ Maria chưa nói lời gì với Bà Elisabeth cả; trình thuật chỉ nói: “Khi Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Nguyên do của việc nhận ra là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng. Thánh Thần là Thần Sự Thật, Ngài giúp cho cả hai mẹ con Bà Elisabeth nhận ra Đấng Thiên Sai. Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả tượng trưng cho gia đình nhân loại trong Cựu Ước, vui mừng khi được Đấng Thiên Sai đến viếng thăm. Bà Elisabeth biết rõ lý do tại sao Đức Mẹ thật có phúc: “vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
(3) Gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui mừng: Hai người đàn bà vui mừng vì hai người con sắp được sinh ra là Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả; nhưng đau khổ và chia ly chẳng bao lâu sẽ xảy ra không những cho Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả mà còn cho hai bà mẹ. Tại sao Thiên Chúa yêu thương lại để những đau khổ và chia ly xảy ra trong cuộc đời chúng ta? Có lẽ câu hỏi chúng ta phải đặt lại: Tại sao chúng ta lại nhẫn tâm khinh thường tình yêu Thiên Chúa, cha mẹ, và những người đã yêu thương chúng ta trong cuộc đời? Tại sao chúng ta không quan tâm đến những lo lắng và đau khổ của họ? Khi chúng ta tìm được câu trả lời này, chúng ta đã hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và của đau khổ. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa: những đau khổ, chia ly, than khóc trên đời này chỉ tạm thời chóng qua; khi được về với Thiên Chúa, mọi đau khổ và ly tan sẽ chấm dứt.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đau khổ khi chúng ta sống xa cách Ngài; và mừng rỡ nhảy mừng khi chúng ta quay trở lại với Ngài. Đau khổ xảy ra khi chúng ta khinh thường tình yêu của Thiên Chúa, của cha mẹ, và của tha nhân dành cho chúng ta; niềm vui có được khi chúng ta biết nhận ra và trân quí những tình yêu đó.
– Khi xa Thiên Chúa, con người chìm đắm trong đau khổ và làm nô lệ cho tội lỗi; khi trở về với Ngài, con người được bình an, hạnh phúc, và phục hồi mọi sự đã mất. Một khi đã trở về với Thiên Chúa, chúng ta hãy sống kết hiệp mật thiết với Ngài, để đừng bao giờ lìa xa Ngài nữa. Chúng ta hãy thưa với Ngài: Emmanuel! Xin Chúa hãy ở với con luôn mãi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************