Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy Tuần XI Mùa Thường Niên Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: 2 Cr 12, 1-10
“Tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu phải khoe mình, – thật chẳng có ích gì, – thì tôi sẽ nói đến những thị kiến và những mạc khải Chúa tỏ ra. Tôi biết có người kia trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết, có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Đàng, và được nghe những lời mầu nhiệm không được nói với loài người. Vì người ấy, tôi sẽ khoe mình: nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự yếu đuối của tôi. Vì nếu tôi muốn khoe mình, tôi sẽ không ngu dại, bởi tôi sẽ nói sự thật, nhưng tôi xin miễn, kẻo có người đánh giá tôi cao hơn điều họ thấy hoặc nghe về tôi. Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán cùng tôi rằng: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”.
Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Đức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 8-9. 10-11. 12-13
Đáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng:
1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. – Đáp.
2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. – Đáp.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 6, 24-34
“Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
“Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: “Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
22/06/2019 – THỨ BẢY TUẦN 11 TN
Th. Gio-an Phi-sơ, giám mục và Tô-ma Mô, tử đạo
Mt 6,24-34
ƯU TIÊN NƯỚC THIÊN CHÚA
“Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,33)
Suy niệm: “Chỉ có một con đường đi đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin Mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến sáu lần; điều đó cho thấy Đức Giê-su lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, -hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ,- việc tìm kiếm Nước Trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương ta. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn đưa ta đến Nước Trời.
Mời Bạn: “Mọi ngày mai đều có hai tay cầm. Ta có thể nắm giữ ngày mai với tay cầm lo lắng hay tay cầm đức tin” (H. Beecher). Sống đức tin là ta vẫn phải lo toan cho các nhu cầu của cuộc sống, thế nhưng không vì thế mà đảo ngược giá trị trong các mối tương quan: tương quan hiếu thảo với Chúa, tương quan anh em với tha nhân, và tương quan hài hòa với chính mình. Bạn có đặt các mối tương quan Nước Thiên Chúa ấy lên hàng đầu cuộc đời của mình chưa?
Sống Lời Chúa: Tôi đặt lại bậc thang giá trị trong cuộc đời: sống tương quan yêu thương với Chúa và với nhau hơn công ăn việc làm, hưởng thụ cuộc sống…
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con có mặt trong cuộc đời. Xin cho con luôn ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trong cuộc đời con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình, là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của truyền thống.
Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22/6
Thánh Paulinô, giám mục Nôla
Thánh Gioan Fisher, giám mục tử đạo
Thánh More, tử đạo
2Cr 12,1-10; Mt 6, 24-34.
LỜI SUY NIỆM: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.”
Trong cuộc sống của mỗi người cần phải biết chọn lựa một cách dứt khoát, là mình sẽ lệ thuộc vào ai đó, chứ không thể lấp lững. Khi đã dứt khoát chọn lựa, thì bản thân không thể làm điều mình thích, mình muốn, mà hoàn toàn lệ thuộc và sở thích của chủ và phải làm theo ý chủ, khi đó mới trở thành người tốt trước mặt chủ của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Tất cả chúng con đều đã trở thành người Kitô hữu. Xin cho mỗi người chúng con luôn phải biết từ bỏ chính mình, mà tin nhận : Thiên Chúa là chủ tuyệt đối của chúng con. mà phục vụ Chúa cách tuyệt đối. Để làm đẹp lòng Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 – 1535)
Thánh Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames … nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
**********************
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
(1478 – 1535)
Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện”. Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận. “Trong gia đình này không có ai làm biếng cả…”
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: “Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được”.
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- “Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta”.
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: – Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: – Vương quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: – Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi hài nói: – Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo: – Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: – Nó không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
***************************
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355 – 431)
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – “Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ”.
Thánh Paulinô thường nói: – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô viết:
– “Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: – “Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm: – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa: – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề “Romeo và Juliet” của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị “yêu nhau cởi áo cho nhau” đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau “Một câu nhịn, chín câu lành” đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 11 TN1
Bài đọc: 2 Cor 12:1-10;Mt 6:24-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của TC
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn ra sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nêu bật ít nhất hai lý do Chúa muốn ông phải chịu đau khổ: để ông khỏi kiêu ngạo vì đã được Chúa cho thấy thị kiến Nước Trời, và xác tín sức mạnh ông có là đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ con người yếu đuối của ông. Trong Phúc Âm thánh Matthew, Chúa Giêsu đòi con người phải lựa chọn: hoặc phục vụ Thiên Chúa hoặc làm nô lệ cho thế gian, họ không thể bắt cá hai tay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
1.1/ Sức mạnh của Thiên Chúa: Người môn đệ Đức Kitô mà trước đây 14 năm đã được cất nhắc lên tới tầng trời thứ ba là chính Phaolô. Ông đã được Thiên Chúa cho thấy thị kiến Nước Trời. Điều ông không rõ là lúc đó ông “ở trong hay ở ngoài thân xác,” vì ông ở trong trạng thái xuất thần. Truyền thống Do-thái tin không một ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống sót; ở đây Phaolô chỉ đề cập “người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại.” Điểm quan trọng Phaolô muốn tự hào ở đây là sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa ban cho ông có được thị kiến đó; chứ không phải lòng đạo đức hay tài giỏi gì của ông.
1.2/ Yếu đuối của con người: Phaolô ý thức rõ ràng sức mạnh của ông đến từ Thiên Chúa, còn thân xác con người ông thì yếu đuối nhu nhược. Theo bản tính con người, ông muốn xin Thiên Chúa cất đi những yếu đuối của thân xác, để ông có thể làm việc cho Thiên Chúa có hiệu năng hơn; nhưng Thiên Chúa có đường lối của Ngài, và Phaolô biết lý do đó: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.”
(1) Đâu là ý nghĩa của cái “dằm” đâm vào thân xác Phaolô? Có nhiều ý kiến khác nhau:
+ Cái dằm thiêng liêng: Calvin cho là “những cám dỗ đàng thiêng liêng.” Luther cho là “những chống đối và bắt bớ.” Đa số các học giả Công Giáo cho là “những cám dỗ xác thịt.” Người phản đối ý kiến này cho: từ ngữ “cái dằm = sko,loy” trong tiếng Hy-lạp dùng để chỉ cái gai hay cái dằm cách thể lý, chứ không dùng cách biểu tượng.
+ Cái dằm thể lý: Có người cho là “dáng vóc yếu ớt” của Phaolô (2 Cor 10:10). Người khác cho Phaolô bị bệnh “điên nhẹ” (Gal 4:14). Tertulian và Jerome cho Phaolô bị “nhức đầu kinh niên.” Vẫn có người cho Phaolô vẫn còn bị “đau mắt,” vì biến cố đã xảy ra cho ông trên đường đi Damascus (Acts 9:9), và các tín hữu Galat sẵn sàng nhường mắt họ cho Phaolô (Gal 4:15). Người khác lại cho ông bị chứng “sốt rét kinh niên” hay “bị đau răng.”
Chúng ta khó có thể xác định rõ ràng ý nghĩa của “cái dằm” Phaolô muốn nói ở đây, vì ông có thể dùng để chỉ ý nghĩa thể lý hay ý nghĩa biểu tượng. Một điều chắc chắn đó là hậu quả của thân xác con người, và Phaolô muốn Thiên Chúa cất khỏi ông.
(2) Ơn thánh và sức mạnh của Thiên Chúa đủ để Phaolô vượt qua mọi đau khổ: Phaolô kể cho chúng ta nghe kinh nghiệm của ông: ”Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này; nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Đây cũng là kinh nghiệm cho chúng ta, vì chúng ta thường cảm thấy bức xúc khi bệnh tật hay đau khổ làm trì trệ công việc rao giảng Tin Mừng; vì thế, chúng ta thường xin Thiên Chúa cất khỏi bệnh tật và các chướng ngại, để chúng ta có sức khỏe làm việc cho Ngài. Nhưng Chúa có kế hoạch của Chúa và bổn phận của chúng ta là làm theo thánh ý của Chúa, chứ không theo sở thích riêng của chúng ta. Điều thích đáng phải làm là hãy theo gương thánh Phaolô: ”Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”
2/ Phúc Âm: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.
2.1/ Không ai có thể làm tôi hai chủ: “vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.”
+ Phát triển từ ngữ mamonas: Nó đến từ động từ có nghĩa “tin cậy;” và danh từ mamon là của cải mà một người tin cậy giao cho ngân hàng giữ hay chứa đựng nó trong một hộp an toàn. Sau một thời gian mamon không còn có nghĩa “được tin cậy giao cho,” nhưng là cái mà con người đặt niềm tin tưởng vào. Khi Mamon được viết hoa, nó có nghĩa như là một thần. Lịch sử của chữ thay đổi từ chỗ sở hữu tài sản, những gì con người cần có để xử dụng như phương tiện để sống, đến chỗ con người tin tưởng vào tài sản đó, coi nó như một vị thần, thần tài hay thần tiền.
Nói cho cùng, tất cả của cải trong thế giới này là của Thiên Chúa ban cho mọi người được hưởng dùng. Con người không phải là chủ nhân mà chỉ là người quản lý, và phải trả lời với Thiên Chúa hai câu hỏi quan trọng này:
(1) Chúng ta kiếm tiền bằng cách nào? Có nhiều cách kiếm tiền khác nhau; nhưng chúng ta có thể xếp loại vào hai cách chính: Cách hợp pháp và cách bất hợp pháp. Cách hợp pháp là khi chúng ta kiếm tiền bằng sức lao động hay sức cố gắng của mình. Cách bất hợp pháp là khi chúng ta kiếm tiền bằng cách ăn gian, nói dối hay lường gạt.
(2) Chúng ta xử dụng tiền làm sao? Như đã nói ở trên, chúng ta chỉ là người quản lý các tài sản của Thiên Chúa, và nhiệm vụ của người quản lý là biết cách chi tiêu phân phát. Có nhiều cách xử dụng tiền bạc: Có những người không xử dụng: chỉ giữ tiền cho chắc bụng, để lâu lâu lấy ra đếm cho thích, để biết mình giầu. Có người xử dụng cách hoang phí: trong việc tiêu xài, cờ bạc, rượu chè, trai gái… Có người xử dụng vào các việc phi nhân: buôn bán người. Có người xử dụng để sinh lợi ích cho tha nhân: nuôi dưỡng con cái, học hành, ủng hộ vào những chương trình làm thăng hoa đời sống con người. Nói tóm, con người là sở hữu của Thiên Chúa. Họ chỉ được quyền tôn thờ một mình Thiên Chúa, và phải biết dùng những của Chúa ban như phương tiện để sinh sống mà thôi.
2.2/ Không được lo lắng! Phải biết tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cho con người 7 lý do để đừng lo lắng: (1) Đấng cho sự sống cũng sẽ cho những gì cần thiết để bảo toàn sự sống: “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (2) Lo lắng làm buồn lòng Thiên Chúa: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (3) Lo lắng được gì đâu? “Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (4) Lo lắng đe dọa niềm tin: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (5) Có những điều đáng làm và phải làm hơn: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (6) Lo lắng tìm vật chất là của Dân Ngoại: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó.” (7) Con người chỉ biết có giây phút hiện tại, quá khứ đã qua, và tương lai không ai biết: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Sức mạnh của chúng ta là ở nơi Thiên Chúa, chứ không ở nơi của cải, danh vọng, hay xác thịt yếu đuối của chúng ta. Nếu Ngài muốn chúng ta chịu đau khổ, bệnh tật, hãy vâng theo thánh ý và tìm ra con đường Thiên Chúa muốn chúng ta đi. Của cải chỉ là phương tiện sinh sống bao lâu chúng ta còn sống ở đời này, một khi xuôi tay nằm xuống, của cải trở thành vô nghĩa và chẳng sinh lợi gì cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************