Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy Tuần XXIX Mùa Thường Niên Năm chẵn
BÀI ĐỌC I: Ep 4, 7-16
“Đức Kitô là đầu, nhờ Người mà toàn thân thể được lớn lên”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô,
Anh em thân mến, mỗi người trong chúng ta đã được ban ơn tuỳ theo lượng Đức Kitô ban cho. Vì thế có lời rằng: “Người lên nơi cao điệu tù nhân về, Người đã ban ân huệ cho mọi người”. Nói rằng “Người lên” nghĩa là gì nếu không phải là trước Người đã xuống những miền hạ tầng trái đất sao? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã vượt lên trên mọi tầng trời, để làm viên mãn vạn vật.
Và chính Người đã ban cho kẻ làm Tông đồ, người làm Tiên tri, còn kẻ khác thì rao giảng Tin Mừng, kẻ khác nữa làm chủ chăn và thầy dạy, để tổ chức các thánh nhân nên hoàn bị hầu chu toàn chức vụ, xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi mọi người chúng ta hợp nhất trong đức tin, và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, trở nên người trưởng thành, đạt đến tầm tuổi người của Đức Kitô viên mãn, để chúng ta không còn là trẻ nhỏ bị lắc lư và lôi cuốn theo mọi chiều gió học thuyết, nghiêng theo sự lừa dối của người đời, và mưu mô xảo trá làm cho lạc lõng trong sự sai lầm.
Nhưng chúng ta hãy thực hiện chân lý theo đức ái, hãy tấn tới bằng mọi phương tiện trong Đức Kitô là đầu. Do nơi Người mà toàn thân thể được hoà hợp với nhau, kết cấu với nhau bằng những dây liên lạc cung cấp sinh lực tuỳ theo phận sự của mỗi phần, làm cho thân thể lớn lên và tự xây dựng lấy mình trong đức mến. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”(c. 1).
Xướng:
1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng tôi sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. – Đáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. – Đáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 13, 1-9
“Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Người còn nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
24/10/2020 – THỨ BẢY TUẦN 29 TN
Th. An-tôn Ma-ri-a Cla-ret
Lc 13,1-9
CẬY VÌ DANH CHÚA NHÂN TỪ
“Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này … tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?… Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc 13,2-3)
Suy niệm: Một thực tế rõ ràng là nếu được hỏi bạn có phải là người tội lỗi không, chắc chắn ta sẽ đáp ‘có.’ Nhưng khoảng cách từ lời thú nhận đến hành vi sám hối thì thật là xa. Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình cho chúng ta thấy điều đó. Nghe Chúa nói: “Ai không có tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, những người vừa hung hăng đòi ném đá, lần lượt kẻ trước người sau bỏ đi (x. Ga 8,1-11). Nhưng liệu mấy ai trong số đó thực tình sám hối? Kể từ ngày ông bà nguyên tổ phạm tội, các ngôn sứ trong Cựu Ước, rồi Đức Giê-su trong Tân Ước, đã luôn nhắc nhở chúng ta phải nhớ mình là tội nhân, đồng thời kêu gọi sám hối để nhận được ơn tha thứ. Thiên Chúa luôn khoan dung, vì “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được’’ (Tv 130,3). Nhờ lòng nhân từ của Chúa chúng ta khỏi phải chết đời đời. Nhưng lòng nhân từ ấy đòi chúng ta cộng tác bằng hành vi sám hối, đổi đời.
Mời Bạn: Thần Chết sẽ viếng thăm hết mọi người, không trừ một ai và không biết giờ nào. Bạn và tôi được mời gọi luôn sẵn sàng đón nhận với thái độ sám hối, trông cậy vào lòng từ bi của Chúa. Có gì phải sợ lắm đâu, bạn nhỉ!
Chia sẻ: “Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ.’’ Làm sao nhận được lòng nhân từ của Chúa, nếu bạn không nhân từ với tha nhân, nhất là người tội lỗi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con vốn mỏng dòn, yếu đuối, nhưng lại hay kiêu căng, tự phụ. Xin thêm lòng yêu mến và cậy trông, để chúng con cũng biết sống nhân từ với tha nhân như Chúa vậy. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo hai lần (cc. 3, 5).
“Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”
Đức Giêsu đi từ những chuyện đau thương chết choc
của một số người ở Galilê và Giêrusalem,
để nhắc nhở người nghe ra khỏi sự tự mãn của mình mà sám hối.
Dụ ngôn cây vả sẽ cho thấy thế nào là sám hối theo cái nhìn của Ngài.
Đơn giản sám hối là sinh trái.
Trái là điều ông chủ có ý nhắm đến khi trồng cây vả giữa vườn nho.
Ông không trồng vả để lấy củi hay bóng mát.
Cây vả có chỗ trong khu vườn và cũng có chỗ trong tâm trí ông.
Ông có một người làm vườn.
Hẳn người này đã hết sức chăm bón cho cây vả để nó sinh trái.
Ba năm trôi qua, cứ đến mùa vả, ông chủ lại đến, tìm trái và không thấy.
Những hành vi này được lặp lại như một điệp khúc mỗi năm (cc. 6-7).
Ông chủ đi từ hy vọng đến thất vọng.
Cái háo hức khi lần đầu đến cây tìm trái chẳng còn.
Ông đã kiên nhẫn, đã chờ, không phải một năm, mà ba năm.
“Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất” (c. 7).
Rõ ràng quyết định này không do sự tàn ác hay nóng nảy.
Chặt đi khi chẳng còn gì để hy vọng, khi chờ đợi đã mỏi mòn.
Cây vả đã lấy màu mỡ của đất trồng nho, mà không sinh trái.
Nó không đáp ứng ước mơ tự nhiên của ông chủ,
người đã cho nó hiện hữu ở trong khu vườn này.
“Xin cứ để cho nó lại năm nay nữa” (c. 8).
Lời xin của người làm vườn, người đã chăm sóc cây vả từ nhiều năm.
Người ấy xin cho cây vả một cơ hội,
cơ hội duy nhất và cuối cùng để tránh cái chết chắc chắn.
“Tôi sẽ vun xới, bón phân. May ra sang năm nó có trái…”
Cây vả cằn cỗi vẫn còn được hy vọng, còn được chăm sóc.
Không thấy ông chủ phản đối, chắc ông đồng ý chờ thêm một năm.
Cả ông chủ cũng nuôi lại niềm hy vọng.
Cuối cùng cây vả cằn cỗi này có ra trái không, có bị chặt không?
Dụ ngôn không cho ta câu trả lời.
Vì câu trả lời nằm ở chính tôi.
Tôi chính là cây vả ấy.
Tôi đã được trồng, được yêu, được hy vọng, được chờ, được chăm bón.
Bao điều lớn nhỏ Chúa làm cho đời tôi từ trước đến nay.
Hoa trái của cây vả đời tôi có tương xứng với những gì Chúa ban không?
Tôi suy nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa và cả sự thất vọng của Ngài nữa.
Chúa vẫn muốn cho tôi tiếp tục sống trên đời.
Mỗi ngày sống là quà tặng của lòng thương xót.
Còn sống là còn cơ hội để sinh trái, để bày tỏ lòng sám hối ăn năn.
Dù sao câu kết của người làm vườn tốt bụng vẫn là một đe dọa.
“Nếu không ông cứ chặt nó đi!” (c. 9).
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG MƯỜI
Xin Cho Chúng Nên Một
Chiều hôm trước khi vào cuộc Khổ Nạn, trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Ngài. Ngài nói: “ Lạy Cha, con không chỉ cầu xin cho những người này – tức các tông đồ- nhưng còn cho những ai nhờ họ mà tin vào con, để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).
Chúng ta cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện này với chính Chúa Kitô – vị Thượng tế của Giao Ước Mới. Chúa Kitô hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Ngài trao hiến chính Thịt và Máu của Ngài. Ngài trao hiến cuộc sống và cái chết của Ngài. Và với hy tế này, hy tế thánh thiện vô song, Ngài giao hòa thế giới với chính Ngài. Đức Kitô chết trên Thập Giá để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu được thốt ra từ chính trọng tâm của hy tế này. Cả lời cầu nguyện và cái chết hy tế của Ngài đều có cùng một mục đích là “Xin cho chúng nên MỘT”.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24/10
Thánh Antôn Maria Claret, giám mục
Ep 4, 7-16; Lc 13, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó là vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy”
Đối với người Do-thái, họ nghiêm khắc kết buộc đau khổ, bệnh tật và tội lỗi với nhau là một. Đây là một giáo lý độc ác. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với hai trường hợp mà đám đông kể cho Người nghe. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Không phải thế đâu”. Trong hiện tại, chúng ta cũng đang vấp phải điều này, mỗi khi thấy ai đó bị tai nạn, chúng ta lại kết án cho là: Tại vì, bởi vì… nên đã bị như vậy. Nếu điều này mình kết án được, thì cần phải xem lại chính mình, để mà sửa lại, kẻo lâm phải lời tự kết án.
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi người trong chúng con đều có lúc đã chững kiến những biến cố đau thương xãy ra bên ngoài xã hội; mỗi lần như thế, xin giúp mọi thành viên trong gia đình chúng con biết rà soát lại cuộc sống của mình. Để sống tốt hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-10
Thánh ANTÔN MARIA CLARET
Giám mục – Tổ phụ dòng Trái tim vẹn sạch mẹ Maria (1807 – 1870)
“Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”
Đó là châm ngôn và chương trình đời sống thánh ANTÔN MARIA CLARET. Ngài sinh năm 1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Là con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Ban chiều, Ngài dự lớp học Pháp văn, nghiên cứu La văn và luyện nghề ấn loát, không có gì Ngài xao lãng cả. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng Ngài, kèm theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất: cuối cùng Ngài đã bước qua cổng chủng viện ở Vich năm 1829.
Trước tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức cha Corcue ra đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ Ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, Ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng việc tông đồ của Ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Roma, muốn gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc Ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha. Bản chất nóng nảy của Ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện thánh của Ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuông của Ngài là: đường thẳng và chắc để về trời” và ngày càng thêm nhiều người dấn thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi Ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp… Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, Ngài từ chối tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra.
Antôn rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng của Ngài. Mạng sống bị đe dọa, Ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng giám mục Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, Ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari và đặt nền móng tu hội thừa sai Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ, Ngài nỗ lực dưới mọi hình thức để cứu vớt các linh hồn. Đây là lúc Ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình.
Vị tổng giám mục truyền giáo cập bến, Ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, Ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, Ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của Ngài: 11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo Ngài đã xúi giục các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần Ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ.
Theo lời thỉnh cầu của hoàng hậu Isabelle II, đức giáo hoàng đã cử thánh Antôn Maria làm tuyên úy cho bà. Ngài nhận lời sau nhiều do dự, với điều kiện là sẽ đứng ra ngoài mọi chuyện chính trị và không sống trong hoàng cung. Từ Maddrid, Ngài tiếp tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của Ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính Ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Pan, rồi Paris là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, Ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của tòa thánh. Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi Ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của Ngài ở Prades, rồi ở L’Audes, nơi các thày dòng Xitô ở Phontfroide là nơi không hề phàn nàn kêu trách năm 1870.
Antôn Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của Ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, Ngài đã sáng nghĩ ra “các nữ tu tại gia” là học giả uyên bác, Ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ công giáo vào “hàn lâm viện thánh Micae”.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
24 Tháng Mười
Ngày Liên Hiệp Quốc
Vào năm 1945, ba quốc gia gây chiến Ðức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan tác tả tơi của những nước bại trận. Ða số những thành phố lớn tại Ðức, cũng như hai thành phố Hiroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết.
Hình ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm “39-45” có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Ðại Hồng Thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 ngày đêm đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: “Mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú… tất cả các vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến xúc vật, côn trùng và chim trời…”.
Từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩa đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Vì như một chính trị gia đã phát biểu: “Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến tranh sẽ hủy diệt con người”.
Nhưng từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con người vẫn được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút nhữntg khí giới giết người. Vì thế súng vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôn rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con người.
Ngày 24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình.
Nhưng thiết nghĩ, hòa bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tuông, nghi kỵ, nếu những tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 29 TN2
Bài đọc: Eph 4:7-16; Lk 13:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải hiểu biết kế họach của Thiên Chúa để sinh hoa quả cho Ngài.
Khi nhìn vào một sự kiện xảy ra, mỗi người có một nhận xét khác nhau: có người cho là hay, có người cho là dở, có người chẳng cho là hay và cũng chẳng cho là dở. Hay hoặc dở tùy vào trình độ hiểu biết của mỗi người; vì thế, cần phải nghiên cứu để hiểu rõ vấn đề trước khi phê phán. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô dạy cho các tín hữu hiểu biết Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và vai trò của mỗi người trong kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khiển trách sự hiểu biết sai về liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt của một số người qua 2 sự kiện: (1) những người Galilee bị Tổng Trấn Philatô giết, và (2) 18 người bị tháp Siloah đè chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
1.1/ Thiên Chúa ban cho mỗi người một ơn gọi khác nhau: Thánh Phaolô quả quyết: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho.” Để dẫn chứng thực tại này, Thánh Phaolô trích dẫn lời của Thánh Vịnh 68:18 với một sửa đổi quan trọng: “Người đã lên trên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người.” Trong khi vế hai của Thánh Vịnh 68:18 viết, “… Người đã nhận lễ vật giữa lòai người.” W. Barclay cho một nhận xét rất hay về sự sửa đổi này: “Trong Cựu Ước, Vua chiến thắng khải hòan về có quyền đòi hỏi và nhận quà từ dân. Trong Tân Ước, Đức Kitô sau khi đã chiến thắng khải hòan lại dâng và ban quà cho dân. Đây chính là sự khác biệt nền tảng giữa 2 Giao Ước: Trong Cựu Ước, một Thiên Chúa ghen tương nhấn mạnh đến nhận lễ vật từ dân; trong Tân Ước, một Chúa tình thương tuôn đổ tình yêu của Ngài xuống trên dân. Đó mới thực sự là Tin Mừng.”
Đâu là quà tặng mà Đức Kitô ban thêm cho con người? Thánh Phaolô liệt kê một số những ơn gọi chính:
(1) Kẻ này làm Tông Đồ: Ngòai Nhóm Mười Hai, Chúa còn chọn nhiều môn đệ và các Tông Đồ khác để sai đi như Phaolô, Barnabas …
(2) Người nọ làm ngôn sứ: Ngôn sứ là những người nói thay cho Thiên Chúa. Mặc dù ngôn sứ theo nghĩa hẹp đã chấm dứt sau khi Gioan Tẩy Giả đến, nhưng theo nghĩa rộng tất cả những ai nói Lời Chúa đều là những ngôn sứ của Ngài.
(3) Kẻ khác làm người viết Tin Mừng: là 4 Thánh Ký: Matthew, Marco, Luca, và Gioan. Cũng có thể mở rộng để bao gồm Phaolô và những tác giả khác của Tân Ước.
(4) Kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ: Đây là nhiệm vụ của các chủ chăn trong Giáo Hội: Đức Giáo Hòang, các Giám Mục, các linh mục.
1.2/ Cho một mục đích: Mặc dù ơn gọi Chúa ban cho mỗi người khác nhau, nhưng tất cả đều nhắm một mục đích: “là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô.” Đứng trước Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, con người có tự do lựa chọn hai lối sống:
(1) Sống theo sự gian dối và chia rẽ: Thánh Phaolô ước mong các tín hữu đừng chọn lối sống này: “Chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường.” Chẳng hạn: vì ham danh, một số người đòi quyền để làm những gì người khác làm.
(2) Sống theo sự thật và trong tình bác ái: Thánh Phaolô mong ước cho các tín hữu: “Chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.”
2/ Phúc Âm: Nếu các ông không sám hối, các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
2.1/ Xét mình thay vì xét người: Đâu là sự liên quan giữa đau khổ và tội lỗi? Có 2 cách nhìn: của thế gian và của Thiên Chúa. Theo cách nhìn của thế gian: đau khổ phải chịu là do tội lỗi gây lên, “Ác giả ác báo, tội càng lớn đau khổ càng nhiều.” Theo cách nhìn của Thiên Chúa: đau khổ có thể không do tội lỗi. Chẳng hạn, có người hy sinh chịu đau khổ cho người khác được sống (Chúa Giêsu), hay để vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện (Job, người mù từ lúc mới sinh). Chúa Giêsu dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Chúa Giêsu hỏi khán giả: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”
(2) Mười tám người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết. Chúa Giêsu cũng đặt câu hỏi cho khán giả: “Các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Jerusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
2.2/ Con người phải sinh hoa trái cho Thiên Chúa: Thay vì làm việc vô ích như xét đóan tội lỗi của người khác, Chúa Giêsu muốn con người làm việc ích lợi hơn là xét đóan chính mình qua dụ ngôn cây vả không sinh trái: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.””
Thiên Chúa sẽ kiên nhẫn chờ đợi để con người sinh hoa kết quả; nhưng nếu con người vẫn không sinh trái, Ngài sẽ chặt đi và lấy chỗ cho người khác để sinh trái cho Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần hiểu biết tường tận Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa và vai trò của mỗi người chúng ta trong Kế Họach này.
– Đừng ghen tị đòi làm những gì người khác làm, nhưng biết chu tòan ơn gọi Chúa ban, để cùng với mọi người, đưa Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa tới chỗ viên mãn.
– Đừng nhìn chung quanh để dò xét và kết án người khác, nhưng hãy tự xét mình để xem mình đã sinh hoa kết trái tương xứng với những hồng ân Thiên Chúa đã ban chưa?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************