Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy tuần 3 Thường Niên – Năm B
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 12, 1-7a, 10-17
“Tôi đã phạm tội đến Chúa”.
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa sai Nathan đến cùng Đavít. Ông đến và nói với Đavít rằng: “Trong thành kia có hai người, một người giàu và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên bò, còn người nghèo thì không có gì, ngoài một con chiên con mà ông đã mua và nuôi dưỡng, nó lớn lên trong nhà ông cùng với con cái ông, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén và cùng ngủ một giường với ông; ông kể nó như con gái mình. Có một người khách đến thăm người giàu ấy, ông ta không muốn bắt chiên bò của mình để dọn tiệc đãi khách, nhưng lại bắt con chiên của người nghèo mà dọn tiệc đãi khách”. Đavít tức giận người đó lắm, và nói cùng Nathan rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống! Người làm như thế là đáng chết. Nó phải bồi thường gấp bốn lần vì đã hành động bất nhân như thế!”
Nathan liền nói với Đavít: “Ngài chính là người đó. Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa thanh thiên bạch nhật”.
Đavít nói cùng Nathan rằng: “Tôi đã phạm tội đến Chúa”. Và Nathan nói cùng Đavít rằng: “Chúa cũng đã tha tội cho ngài rồi, ngài sẽ không phải chết. Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của Chúa nói phạm thượng, nên đứa con của ngài sẽ chết”. Rồi Nathan ra về. Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Đavít do vợ của Uria sinh ra, nên nó lâm trọng bệnh. Đavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và lui về phòng nằm dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy, nhưng vua không chịu và không dùng bữa với họ.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 12-13. 14-15. 16-17.
Đáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.
ALLELUIA: Tv 118, 27
All. All. – Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. – All.
PHÚC ÂM: Mc 4, 35-41
“Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ.
Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ.
Rồi Người nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
27/01/2024 – THỨ BẢY TUẦN 3 TN
Th. An-giê-la Mê-ri-si, trinh nữ
Mc 4,35-41
THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4,38)
Suy niệm: Trong cuộc sống đôi khi chúng ta cảm thấy dường như Thiên Chúa vắng mặt. Ngài có vẻ thinh lặng, thậm chí không ở bên khi ta kêu cầu. Giữa những khó khăn, đổ vỡ, phong ba bão táp của cuộc đời, dường như Thiên Chúa ngủ quên hay ở quá xa, không biết đến khó khăn đau khổ của con người. Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh Mác-cô hôm nay nhắc nhở ta rằng Thiên Chúa là ai, hành động thế nào ngay giữa những bão táp của cuộc đời ta. Ngài không say ngủ đến nỗi không biết đến tình cảnh của chúng ta, để mặc ta với những khó khăn của mình. Ngài vẫn ở đó không phải cách thể lý, nhưng qua những người giang tay ra giúp đỡ chúng ta, nơi những người thân yêu bao bọc chở che ta. Cách đặc biệt, Ngài ở với ta trong Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác, và nơi Lời hằng sống của Ngài. Niềm tin vào Ngài giúp ta đứng vững, không bị chìm giữa phong ba bão tố đời mình.
Bạn hãy mời Chúa Giê-su bước lên con thuyền cuộc đời của bạn. Hãy để Ngài chi phối, dẫn dắt cuộc đời của bạn trong từng lựa chọn lớn nhỏ. Hãy phó thác cho Chúa những lo âu buồn phiền của bạn. Như những môn đệ, bạn sẽ cảm nghiệm được rằng có Chúa đồng thuyền với mình, bạn sẽ không bị đắm chìm.
Sống Lời Chúa: Hôm nay, bạn dành riêng ít phút thinh lặng để chiêm ngắm sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con tin Chúa luôn ở bên con, nhưng xin thêm niềm tin cho con. Xin cho con tin tưởng nơi quyền năng Chúa, để nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời mình. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc :
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG GIÊNG
Bảo Vệ Quyền Lợi Người Lao Động Trong Thời Đại Tự Động Hóa
Hiểu được giá trị trỗi vượt của con người trong môi trường lao động, chúng ta thấy rõ rằng con người không thể bị hy sinh để phục vụ cho hiệu năng của tự động hóa. Vâng, các môi trường lao động hiện đại phải hết sức lưu tâm để bảo vệ quyền làm việc của con người – bằng cách chỉ triển khai loại thay đổi này (tức tự động hóa) sau khi đã vạch kế hoạch kỹ lưỡng. Với thiện chí và với sự tiên lượng tốt, chúng ta có thể giúp cho nhiều người trong số những kẻ mất việc làm do sự thay đổi công nghệ được đào tạo lại và được tái thu dụng vào lực lượng lao động.
Trong tình hình như vậy, ý nghĩa đích thực của nhân vị và của phẩm giá con người phải là mối ưu tiên hàng đầu trong bất cứ trường hợp nào liên can đến sự thu dụng hay chuyển đổi chỗ làm của người lao động. Những người chủ việc phải cố gắng đứng ở vị trí bảo vệ quyền làm việc thích đáng cho mọi công nhân của mình. Tôi đặc biệt đề xuất điều này với các tổ chức công đoàn – là những tổ chức có bổn phận bênh vực quyền lợi của người công nhân. Các công đoàn không thể giới hạn tầm nhìn của mình nơi chỉ một loại công nhân nào đó, nhưng cần phải quan tâm đến phẩm giá của mọi người trong môi trường lao động.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 27/01
Thánh Angêla Mêrici, trinh nữ
2Sm 12, 1-7a. 10-17; Mc 4, 35-41.
Lời Suy Niệm: Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (Mc 4,38b-39)
Câu chuyện Thánh Mác-cô tường thuật “Chúa Giêsu dẹp sống gió” Giáo Hội đang muốn con cái mình ngày hôm nay, nhìn thấy sự ra khơi của các Tông Đồ có sự hiện diện của Chúa trên thuyền các ông, các ông gặp sống gió hiểm nguy, nhưng có Chúa, mọi sự đã trở lại an lành. Điều này nó cũng đang xãy ra với mỗi người trong chúng ta từng ngày một trong cuộc sống của bản thân cũng như của gia đình. Nhưng đối với mỗi người trong chúng ta vững tin sự hiện diện của Chúa Giêsu đang ở cùng chúng ta, chúng ta sẽ có ngay bình an, trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống của mỗi người chúng con luôn có những cơn bảo tố của: bệnh tật, nghèo đói, sầu muôn, lo âu, nghi ngờ. Xin Chúa đến với chúng con, và ban sự bình an cho tâm hồn chúng con. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 27-01: Thánh ANGÊLA MÊRICI
Đồng trinh (1474-1540)
Angêla Mêrici sinh ngày 21-3-1474 ở Dessenzanô bên hồ Garda. Khi lên mười, Ngài đã bị mồ côi cha mẹ. Những tín hữu đạo đức ước ao cho con cái mình tìm được hạnh phúc trong vinh quang Chúa và đưa cuộc đời các thánh ra làm gương mẫu. Cậu của Ngài lãnh trách nhiệm giáo dục Ngài, cũng theo một tinh thần trên. Khi các ông cậu qua đời, Ngài lại về sống với anh em. Angêla là một cô gái đạo đức và để bảo đảm sự thánh thiện của mình, Ngài đã gia nhập hội dòng ba thánh Phanxicô, hiến mình làm việc bác ái, nhất là việc giáo dục trẻ em.
Một ngày kia Angêla được thị kiến thấy một chiếc thang nối liền đất với trời. Một đoàn trinh nữ leo lên từng bậc thang ấy và một người trong số đó nó với Ngài: – Chị sẽ làm mẹ đám người ấy.
Theo lòng đạo đức thời đó, người thiếu nữ đã đi hành hương nhiều nơi. Rồi với một nhóm người hành hương, Ngài muốn đi hành hương Giêrusalem. Nhưng Ngài bị một cơn mù lòa nhiệm lạ tại Candie và chỉ hết bệnh khi Ngài trở lại đây. Ngài đã giải thích sự kiện nầy như biểu tượng sự từ bỏ, làm nền tảng cho mọi dự định của mình. Angêla đến yết kiến Đức Thánh cha và lo thực hiện công trình giữa những sự đau khổ của chiến tranh. Ngài tận tụy nhiều cho người nghèo và dân lao động. Những kỷ niệm cuộc thị kiến ám ảnh lòng Ngài mãi. Ngài đã tới Brescia là nơi có một ngôi nhà dành cho Ngài xử dụng.
Một số thiếu nữ đến qui tụ bên Ngài. Đây là hạt nhân của một hội dòng mà Ngài sẽ thành lập với một hình thức tu trì mới mẻ đối với thời đại, một cuộc sống nối kết sự chiêm niệm với việc dạy dỗ trẻ em. Angêla đặt hội dòng dưới sự bảo trợ của thánh nữ Ursula, vị nữ đồng trinh thành Côlôgna, đã được tôn vinh như là một nữ anh hùng chiến thắng man rợ về văn hóa.
Phương pháp của thánh Angêla thật khác với ý niệm tân tiến về một trường dòng Ngài thích sai các nữ tu đến dạy các thiếu nữ tại ngay gia đình họ. Ngài thường nói: – Xáo trộn trong xã hội là kết quả sự xáo trộn ngay tự trong gia đình.
Không được học hành nhiều. Thánh Angêla có những trực giác lạ lùng. Ngài nghĩ rằng: người ta chỉ có thể canh tân phong hóa tự gia đình, và gia đình được canh tân là do việc giáo dục phụ nữ.
Thánh Angêla Mêrici được biết tới như vị sáng lập dòng của các nữ tu Ursula. Thực sự Ngài là vị sáng lập, dầu không đúng với các ý hướng của Ngài. Bởi vì Ngài xem ra có hơi cấp tiến đối với thời đại của mình. Dự định của Ngài về các nữ tu là không có y phục riêng, không có lời khấn trọng, không có lũy rào để dễ đến với tuổi trẻ hứa hẹn của tương lai, và để có thể phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Nhưng dự định này đi ngược với những ý niệm thịnh hành thời Ngài và dưới ảnh hửơng của thánh Carôlô Berrômêô và của qui luật của đức Thánh cha (Thánh Piô V) là buộc các nữ tu Ursula phải nhận những bảo đảm theo giáo luật đòi buộc mọi nữ tu.
Những năm cuối đời, thánh Angêla Mêrici thường hay xuất thần. Ngài qua đời ở Brescia ngày 27 tháng giêng năm 1540.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
27 Tháng Giêng
Ống Ðiện Thoại Sống
Xã hội càng văn minh, kỹ thuật càng tân tiến, thì người già càng bị ngược đãi. Tại Roma chẳng hạn, với khoảng 3 triệu dân cư, người ta ước tính có đến trên sáu trăm ngàn người già. Chỉ có một số nhỏ được săn sóc đàng hoàng, đa phần phải trải qua một trong những thử thách lớn nhất của tuổi già là cô đơn và nhiều sự ngược đãi khác.
Từ bao lâu nay, các tu sĩ thuộc cộng đồng Thánh Egidio đã dấn thân một cách đặc biệt trong việc bảo vệ quyền lợi của người già. Nay, cộng đồng còn đưa ra một sáng kiến mới gọi là “Cú điện thoại chống lại bạo động và bênh vực quyền lợi của người già”. Với sáng kiến này, cộng đồng đã thiết lập một đường dây điện thoại đặc biệt nhằm giúp cho những người già đang sống một mình hoặc bà con thân thuộc của họ có thể liên lạc để xin trợ giúp tron bất cứ nhu cầu nào. Túc trực điện thoại trên đường dây này là 60 nhân viên, tất cả đều đã từng có kinh nghiệm trong nhiều ngành khác nhau như luật pháp, cán sự xã hội, y tá, nói chung trong mọi lĩnh vực có liên quan đến các vấn đề của người già.
Qua sáng kiến trợ giúp trên đây, nhiều người già cả đã ý thức hơn về quyền lợi của họ cũng như tìm được nhiều an ủi đỡ nâng qua chính những người chỉ túc trực ở điện thoại để lắng nghe.
Một tác giả đã viết về sự cô đơn như sau: “Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao giờ đến. Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông. Nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ. Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn. Tôi cô đơn khi tôi bị vây bọc bởi những con sông thờ ơ, những mây mù ảm đạm. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến với những người khác…”.
Những dòng trên đây như muốn nói lên một sự thật: ai trong chúng ta cũng đều có thể rơi vào cô đơn. Trong bất cứ tuổi tác nào, trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, ai cũng có thể làm mồi cho cô đơn. Liều thuốc để ra khỏi sự cô đơn, chính là ra khỏi chính mình để làm cho người khác bớt cô đơn. Xã hội sẽ được ấm tình người hơn nếu mỗi người biết ra khỏi cái vỏ ích kỷ hẹp hòi của mình để đến với người khác, để trở thành một đường dây điện thoại sống cho người khác.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy – Tuần 3 – TN2
Bài đọc: Heb 11:1-2, 8-19; 2 Sam 12:1-7a, 10-17; Mk 4:35-41.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta phải tin những gì Thiên Chúa nói.
Tại sao chúng ta tin một điều là thật? Thông thường có 3 lý do: (1) vì đã thấy; (2) vì cảm thấy hậu quả dù không thấy; và (3), vì thế giá của người nói.
Các Bài Đọc hôm nay đều nhằm mục đích thuyết phục con người tin vào những gì Thiên Chúa nói. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái đưa ra một lý do đơn giản tại sao các tiền nhân tin: vì đó là lời của Thiên Chúa hứa. Ngài không bao giờ quên thực hiện những gì Ngài đã hứa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tiên-tri Nathan, một cách rất khéo léo, làm cho vua David nhận ra tội lỗi của ông; và Thiên Chúa bắt ông phải gánh lấy những hình phạt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách các tông-đồ yếu lòng tin khi các ông đã có chính Ngài, Người có quyền trên sóng gió, cùng đồng hành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Con người phải sống niềm tin của mình.
1.1/ Định nghĩa của đức tin: Theo tác giả: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” Định nghĩa này nhìn từ góc cạnh của những người đã có đức tin. Thực vậy, để đạt được điều con người hy vọng là cuộc sống đời đời, con người phải tin nơi Đức Kitô (Jn 6:39-40) và những gì Ngài mặc khải về Thiên Chúa. Tuy con người chưa thấy Thiên Chúa và chưa đạt tới cuộc sống đời đời, nhưng niềm tin của con người nơi Đức Kitô là một bằng chứng cho những thực tại này. Ví dụ, khi nhìn thấy đức tin của các nhân chứng tử đạo, con người biết lý do của những cái chết anh hùng này.
1.2/ Gương đức tin của các tiền nhân: Họ là những người tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa dù chưa nhìn thấy hiệu quả, hay điều Thiên Chúa hứa không thể xảy ra theo cách thức của loài người. Tác-giả dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Tổ-phụ Abraham, cha của những người tin: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.” Để có thể rời bỏ quê cha đất tổ đến sống nơi đất lạ quê người, con người phải được thúc đẩy bởi một lý do chính đáng; vì cuộc sống bấp bênh và nạn kỳ thị chủng tộc mà họ sẽ phải đương đầu với. Lý do Abraham rời bỏ Urs đơn giản là vì lời Thiên Chúa hứa, và ông đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Thiên Chúa không gọi Abraham từ Urs tới một nơi định cư cố định, nhưng lang thang khắp nơi cho tới khi Thiên Chúa cho ông một chỗ định cư vĩnh viễn không thuộc về thế giới này: “Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Jacob là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.”
(2) Sarah, vợ của Abraham: cũng chứng tỏ đức tin của Bà nơi Thiên Chúa. Cả hai ông bà đều đã cao niên (90 tuổi) mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Cái tuổi này không thể có con theo cách thức con người, nhưng Bà vẫn tin nơi Thiên Chúa, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Ngài có thể làm cho “một người kể như chết rồi mà một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được, được sinh ra.”
1.3/ Đức tin được tinh luyện trong thử thách đau thương:
(1) Vững tin dù đến chết vẫn chưa thấy kết quả: Lời Thiên Chúa hứa sẽ ban đất làm gia sản và giòng dõi vô số đã chưa được thực hiện khi Abraham còn sống ở đời này; nhưng ông vẫn một dạ vững tin nơi Thiên Chúa. Lý do, ông coi mình “là khách ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất, và mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.”
(2) Vững mạnh trong thử thách: Ngay cả khi đã được một người con nối dõi tông đường là Isaac, ông Abraham vẫn sẵn sàng sát tế Isaac theo những gì Thiên Chúa dạy bảo, để chứng tỏ niềm tin của ông nơi Ngài. Sở dĩ ông làm như thế vì ông tin Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Sau cùng, Thiên Chúa đã nhìn thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của ông, và Ngài đã ban cho ông người con ấy như là một biểu tượng của những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David thú nhận: “Tôi đắc tội với Đức Chúa.”
2.1/ Cách sửa lỗi khéo léo của Nathan: Sửa lỗi người khác là chuyện rất khó làm; sửa lỗi nhà vua còn khó khăn hơn gấp bội. Nếu không khéo, người sửa lỗi sẽ gánh những hậu quả tai hại cho mình. Đức Chúa sai ông Nathan đến với vua David. Nathan dựng nên một câu truyện thoạt nghe không liên quan gì đến tội lỗi của nhà vua: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông.”
Nghe đến đó, vua David bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Nathan: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” Lúc đó, ông Nathan mới nói và chỉ vào vua David: “Kẻ đó chính là ngài!”
2.2/ Hình phạt Đức Chúa sẽ đổ xuống trên David: Như sấm sét giáng trên đầu, vua David bấy giờ mới buồn bã ngồi xuống và nói với ông Nathan: “Tôi đắc tội với Đức Chúa.” Ông Nathan nói với vua David: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết; nhưng nhà vua phải lãnh nhận mọi hình phạt cách tương xứng.
– Chết chóc sẽ xảy ra trong gia đình: “Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah, người Hittite, làm vợ ngươi.”
– Hãm hiếp sẽ xảy đến cho các người vợ của David: “Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Israel và giữa thanh thiên bạch nhật.”
– Đứa con của David đang cưu mang sẽ phải chết: “vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết.” Vua David cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất.
Tất cả những gì Thiên Chúa phán đều tuần tự xảy ra cho nhà David. Vua David biết tội của mình nên không bao giờ dám mở miệng kêu trách Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: “Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Trình thuật của Marcô kể: “Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” Đứng trước sóng gió, chúng ta thấy có hai thái độ khác nhau:
3.1/ Thái độ nhát sợ của các tông-đồ: Phản ứng của con người là sợ chết; vì thế các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Chúng ta không biết Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu phép lạ trước mặt các ông, nhưng một điều chắc chắn là chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài. Sau này, trong chương 6, sau khi đã làm phép lạ nuôi 5000 người, Chúa Giêsu lại đi trên mặt nước đến với các ông khi bị sóng gió, các ông vẫn sợ và tưởng Người là ma. Khi Chúa Giêsu đã truyền cho gió biển phải im lặng, các ông vẫn hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
3.2/ Thái độ của Chúa Giêsu: hoàn toàn đối nghịch hẳn với thái độ của các môn đệ. Trong khi các môn đệ đang vất vả chống chọi với sóng gió, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ không hiểu nổi làm sao một người có thể ngủ khi sóng biển gào thét như thế! Khi các ông nói lớn đánh thức, Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Qua trình thuật hôm nay, các môn đệ và chúng ta phải học được bài học trong cuộc đời: một khi đã có đức tin, không một sóng gió nào trong cuộc đời có thể làm lay chuyển đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu với chúng, đó là lúc chúng ta sống niềm tin đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động qua việc chúng ta làm những gì Chúa dạy.
– Đức tin phải được tinh luyện trong thử thách và đau khổ. Người có đức tin sẽ không hoảng hốt và đau khổ khi phải đương đầu với thử thách.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************